1 CẢI THIỆN SINH KẾ CHO CỘNG ĐỒNG VEN BIỂN BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Cơ chế dựa trên các bài học kinh nghiệm của dự án Bảo tồn và Phát triển khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang Tháng 6, 2013
1
CẢI THIỆN SINH KẾ CHO CỘNG ĐỒNG VEN BIỂN
BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Cơ chế dựa trên các bài học kinh nghiệm của dự án
Bảo tồn và Phát triển khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang
Tháng 6, 2013
2
Tác Giả:
Cô Shay Simpson, Tình nguyện viên quốc tế Australian (AVI)
Ông Chu Văn Cường GIZ
Ông Lê Bá Cả, GIZ
Tiến sĩ Sharon Brown, GIZ
Chịu trách nhiệm
Tiến sĩ: Sharon Brown, GIZ
Ảnh
Ông Chu Văn Cường
Ông Huỳnh Hữu To
Ông Lê Bá Cả
3
Tóm tắt
Tài liệu này mô tả cơ chế đang sử dụng, cung cấp ví dụ và các báo cáo nghiên cứu từ chương trình cải
thiện sinh kế được thực hiện bởi dự án GIZ Bảo tồn và Phát triển khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang
trong giai đoạn tháng 7 năm 2008 đến tháng 6 năm 2013.
Dự án phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh để xác định và thử nghiệm các cách tiếp cận sinh kế thích
ứng để duy trì thu nhập cho cộng đồng nghèo ven biển để có thể thích ứng được với tác động của biến
đổi khí hậu, chủ yếu là xâm thực mặn, lũ lụt và hạn hán kéo dài.
Dự án nhấn mạnh việc khuyến khích sự tham gia của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ người dân tộc thiểu
số. Toàn bộ các hoạt động đều phù hợp vấn đề giới và vấn đề môi trường cũng như lợi ích về mặt kinh
tế để đảm bảo tính bền vững trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài ra, để thử nghiệm các cách tiếp cận sinh kế mới, dự án giúp nâng cao năng lực thông qua
phương pháp “học qua làm” đến các đối tác địa phương đang chịu trách nhiệm phát triển kinh tế - xã
hội. Các nhóm thực hiện mô hình sinh kế khoảng 20 phụ nữ được thành lập để thực hiện cẩn thận việc
theo dõi các kết quả, để sau đó các kết quả này được chuyển giao cho người phụ trách hay hộ dân.
Bối cảnh
Tỉnh Kiên Giang
Tỉnh Kiên Giang nằm ở phía Tây Nam của Việt Nam, có biên giới phía bắc giáp cới Campuchia. Tỉnh
có hơn 200km bờ biển và 143 hòn đảo bao gồm Phú Quốc và Kiên Hải. Tỉnh là vùng bờ tây của Đồng
bằng sông Cửu Long và là khu vực thấp với phần lớn diện tích nằm trên mực nước biển chưa tới 1m.
Địa hình cũng được xác định bởi hệ thống kênh ngòi chằng chịt có nhiều vai trò như thoát nước, trữ
nước và giao thông.
Kiên Giang có dân số hơn 1,7 triệu người, với mật độ dân số 266 ngươi/km2 (Kiên Giang Atlas, 2011)
tỉ lệ này thấp hơn các tỉnh khác trong khu vực sông MeKong, đã phản ánh một nền nông nghiệp tập
trung vào nuôi trồng và trồng trọt, và sử dụng 56% lao động (Kiên Giang Atlas, 2011).
Kiên Giang là tỉnh kinh tế biển lớn với hơn 11.936 tàu đánh cá có đăng kiểm với sản lượng đánh bắt là
375.686 tấn và sản lượng nuôi trồng là 97.673 tấn năm 2011, sản lượng hàng năm tăng 3% và tỉnh
đang có kế hoạch mở rộng nuôi trồng, chủ yếu khu vực huyện Kiên Lương. Lĩnh vực này đã thu hút
hơn 600,000 người lao động. Sự ổn định của nghề khai thác đang là vấn đề, và sự gia tăng nhanh
chóng của các đoàn tàu đánh cá là gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đàn cá và số lượng quần thể cá.
Kiên Giang là tỉnh sản xuất lúa gạo lớn nhất nước với 686.924 ha đất gieo trồng sản xuất, và sản
lượng 3.921.149 tấn, và xuất khẩu được 96.242 tấn năm 2011.
Du lịch củng là thế mạnh và là mủi nhọn kinh tế tạo ra việc làm cho 32% dân số (Kiên Giang Atlas,
2011). Người dân tộc thiểu số chiếm 13,6% dân số và được ghi nhận có tỉ lệ nghèo cao hơn mức trung
bình của tỉnh với khoảng 30% người dân tộc thuộc hộ nghèo (Kiên Giang Atlas, 2011).
Đặc điểm địa hình cộng với 200km bờ biển làm cho Kiên Giang dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu,
cụ thể là nước biển dâng, gia tăng về mức độ và ảnh hưởng của các hiện tượng bảo, lũ lụt, và hạn hán
kéo dài cũng như gia tăng sự xâm thực mặn. Sự phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên như là sinh kế
chính đồng nghĩa với việc cộng đồng ven biển càng nhạy cảm với các tác động của biến đổi khí hậu.
Khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang
Năm 2006, Kiên Giang đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hiệp quốc
(UNESCO) công nhận là Khu Dự trữ Sinh quyển thế giới Kiên Giang, với tổng diện tích 1,188.105
ha, bao gồm cả biển, đất liền và hải đảo, với không gian vô cùng rộng lớn kết nối 3 vùng lõi là Vườn
Quốc gia (VQG) U Minh Thượng; VQG Phú Quốc, Khu bảo tồn biển Phú Quốc; Khu Bảo tồn thiên
4
nhiên Hòn Chông và đai rừng ngập mặn ven biển Tây. Hầu hết các hệ sinh thái nhiệt đới đều có mặt ở
đây như hệ sinh thái biển và ven bờ, rừng ngập mặn, hải đảo, rạn san hô, đầm lầy, rừng tràm ngập
nước theo mùa và những cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh và thứ sinh trên đảo Phú Quốc, rừng trên
núi đá vôi Hòn Chông còn lại duy nhất ở miền Nam - Việt Nam. Với hệ động thực vật có khoảng
2.340 loài, trong đó có nhiều loài đặc hữu, quý hiếm được ghi trong sách đỏ của Việt Nam và Thế
giới.
UBND tỉnh Kiên Giang đã Ban hành Quyết định thành lập Ban Quản lý Khu Dự trữ Sinh
quyển tỉnh Kiên Giang, do Phó chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban, các Phó Trưởng ban và thành
viên kiêm nhiệm là lãnh đạo các các Sở, ngành hữu quan; UBND huyện, thị; các VQG, khu bảo tồn
và các BQL rừng phòng hộ, vì vậy rất thuận lợi trong việc quản lý, điều hành và phối hợp triển khai
thực hiện hiệu quả các hoạt động trong Khu DTSQ nhằm đạt được sự cân bằng giữa bảo tồn và phát
triển.
“Khu DTSQ là nơi tích hợp các nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học, đa dạng văn hóa và phát triển
kinh tế xã hội thông qua sự điều phối, kết hợp hài hòa giữa con người và thiên nhiên, là nơi thực hành
những cách tiếp cận mới về phát triển bền vững từ cấp địa phương, quốc gia và quốc tế” (Katherine,
2011).
Dự án Bảo tồn và Phát triển khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang
Dự án Bảo tồn và Phát triển khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang bắt đầu từ tháng 7 năm 2008 và sẽ kết
thúc vào tháng 7 năm 2017. Dự án được tài trợ bởi AusAID (cơ quan phát triển quốc tế Úc) và thực
hiện bởi tổ chức phát triển Đức (GIZ). Đối tác chính của dự án là UBND tỉnh Kiên Giang, các đối tác
khác bao gồm sở Khoa học và Công nghệ, sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Trong giai đoạn đầu của dự án, hai nghiên cứu cơ bản để tạo tiền đề cho việc xác định các hoạt động
cải thiện sinh kế. Nghiên cứu đầu tiên được thực hiện bởi Alexander (2009) cho biết phạm vi thực
hiện và các cộng đồng được chọn để tiến hành thử nghiệm các mô hình sinh kế, trong quan điểm nhân
rộng nếu thành công. Nghiên cứu thứ hai được thực hiện bởi Mackay (2009), cung cấp các thông tin
cơ bản về tình hình kinh tế – xã hội ở các cộng đồng ven biển trong khu dự trữ sinh quyển, và thực
trạng sinh kế tại những nơi này.
Cải thiện sinh kế
Việc giới thiệu nhiều mô hình sinh kế đã góp phần đạt được các đầu ra quan trọng cho dự án bao gồm:
(i) Cải thiện chiến lược quản lý sử dụng đất cho dự trữ sinnh quyển và phát triển kế hoạch quản lý đa
dạng sinh học;
(ii) Xóa nghèo thông qua nâng cao năng lực và cải thiện và đa dạng hóa nguồn thu nhập và phát triển
cơ hội sinh kế; và
(iii) Nâng cao nhận thức môi trường trong nhóm đối tượng đích của dự án, bao gồm bộ phận dân số
nghèo đang sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong vùng, cán bộ công chức của các sở ban ngành,
các vườn quốc gia, đối tác cấp tỉnh cấp huện.
Việc giới thiệu các mô hình sinh kế mới đang được thực hiện thông qua các giai đoạn sau:
(1) Xác định và thí điểm với nhiều đối tác thực hiện mà có thể liên kết được với cộng đồng và các
nhóm đối tượng cụ thể như Hội liên hiệp phụ nữ. Các đối tác này trở thành quản lý dự án bằng việc
thực hiện mô hình, hỗ trợ kỹ thuật, theo dõi và báo cáo kết quả thực hiện cho dự án.
Toàn bộ các chương trình sinh kế đều bắt đầu bằng việc công bố các nhóm đối tượng có nhu cầu để
lên kế hoạch và xây dựng mô hình tại cộng đồng của họ. Việc thực hiện được Ban quản lý khu Dự trữ
Sinh quyển Kiên Giang thông qua, mà trực tiếp bởi UBND tỉnh và bao gồm nhiều cơ quan ban ngành
tỉnh bao gồm Hội Thanh Niên, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ, Hội Nông Dân, Trung Tâm Khuyến Nông –
Khuyến Ngư. Ban chỉ đạo dự án đóng vai trò là trung gian quan trọng thông qua việc thông báo đến
cơ quan ban nghành để lập nhóm đối tượng có nhu cầu và thực hiện mô hình sinh kế. Với hệ thống
nhiều cơ quan ban nghành tham gia đang hoạt động đã tạo cơ chế tối ưu cho việc phổ biến đến người
dân, và liên kết với các nhóm đối tượng có nhu cầu vào dự án.
5
Các nhóm này sẽ trở thành các nhà “cung cấp dịch vụ” trong đó họ thực hiện các mô hình đã đề xuất
với tư cách là Dự án. Họ đóng vai trò như là sự liên kết giữa cộng đồng – Hội liên hiệp phụ nữ và Dự
án, và kết nối giữa các hộ hưởng lợi với các chuyên gia và nguồn vốn. Ví dụ các nhóm tham gia qua
Dự án gồm phụ nữ ấp Vàm Rầy (mô hình cá Chẽm và dừa Dứa), phụ nữ ấp Tân Thuận (mô hình rau
màu và lúa kết hợp) và Vườn quốc gia U Minh Thượng (mô hình cá Sặc Rằn). Các nhóm thực hiện
phải cho thấy được nhu cầu và khả năng để thực hiện sau đó tiến hành tập huấn để chuẩn bị và thực
hiện một cách hiệu quả nhất.
(2) Nâng cao năng lực được thực hiện cho đối tác. Điều này sẽ giúp cho các đối tác thực hiện việc
tham gia và thiết kế các đề xuất, lên chương trình và sắp xếp hợp lý việc hỗ trợ kỹ thuật cho người
dân. Ngoài ra đối tác còn được hướng dẫn để theo dõi và báo cáo các khó khăn, vướng mắc, các giải
pháp và hiệu quả kinh tế cũng như nắm rõ việc thanh quyết toán của Dự án. Các nhóm thực hiện mô
hình sinh kế được tham dự tập huấn để hỗ trợ việc xây dựng đề xuất sinh kế. Lớp tập huấn này được
thiết kế để nâng cao năng lực của các nhóm thực hiện và giúp cho họ triển khai mô hình sinh kế tại
cộng đồng. Lớp tập huấn cũng cung cấp các thông tin và nguyên lý của biến đổi khí hậu và bảo vệ môi
trường, để xây dựng bối cảnh cho thiết kế dự án bao gồm các ví dụ của các đề xuất được duyệt. Thông
qua tập huấn dự án cũng cung cấp các thông tin cơ bản và hướng dẫn như làm hợp đồng, sắp xếp tập
huấn kỹ thuật cho người tham gia, làm sao để đảm bảo tính minh bạch trong tài chính, cũng như làm
sao để đáp ứng các yêu cầu về theo dõi và báo cáo.
Tóm lại, việc tập huấn cung cấp cho nhóm kiến thức và nguồn lực cần thiết để phát triển và thực hiện
mô hình sinh kế. Điều này giúp chuẩn bị cho họ những điều cần thiết để trở thành đối tác quản lý dự
án, với năng lực cao hơn để thực hiện các chương trình lớn hơn về phát triển nông thôn. Giai đoạn tiếp
theo là các nhóm thực hiện sẽ áp dụng những kiến thức tiếp thu được và phát triển các đề xuất thành
các mô hình sinh kế mới.
(3) Phát triển các đề xuất phù hợp với các ưu tiên của tỉnh. Người dân địa phương đề xuất các hoạt
động sinh kế mà họ thấy phù hợp và nhận sự hỗ trợ từ các đối tác thực hiện và GIZ để viết đề xuất.
Cách tiếp cận này được thiết kế để tăng cường quyền sở hữu của mô hình của cộng đồng và chính
quyền địa phương.
Việc xây dựng đề xuất cho mô hình sinh kế mới cung cấp cơ hội cho thành viên cộng đồng để học các
kỹ năng và biết được các cộng đồng khác xác định các thách thức tương tự. Các đề xuất được chuẩn bị
theo các mẫu có sẵn, có hướng dẫn bố cục và tiêu đề. Điều này sẽ đảm bảo cung cấp chi tiết các yếu tố
và giúp tăng cường quyền sở hữu của mô hình. Xem phụ lục A là ví dụ về đề xuất mô hình nuôi Sò
Huyết ở huyện An Minh.
Một mô hình sinh kế mới phải xác định:
Lý do và sự cần thiết của mô hình
Các mục tiêu tổng quát và cụ thể
Đầu vào cần thiết
Hiệu quả kinh tế
Người hưởng lợi
Các hoạt động đề xuất
Kế hoạch chi tiết
Theo dõi và đánh giá
Đầu ra dự kiến
Đề xuất kinh phí
Kết quả mong đợi cuối mô hình
Mặc dù đã bỏ nhiều thời gian và nguồn lực để đầu tư bởi nhiều nhóm thực hiện tiềm năng và Dự án để
thực hiện các dự án trong giai đoạn này nhưng không phải tất cả các đề xuất đều thành công và đều
nhận được hỗ trợ. Thay vào đó, đề xuất cung cấp thông tin quan trọng để đưa ra cách thức để thỏa
mãn mục tiêu là xây dựng sự bền vững trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong toàn
khu dự trữ.
6
(4) Đánh giá và thực hiện dự án. Các đề xuất được kiểm tra bởi nhân viên GIZ cộng với lời khuyên
và đóng góp từ chính quyền địa phương, sở NN&PTNT và sở Khoa Học và Công Nghệ dựa trên các
tiêu chí để đảm bảo đáp ứng được các mục tiêu về thích ứng với biến đổi khí hậu, sử dụng bền vững
và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Dự án đẩy mạnh cách tiếp cận chắc chắn để tiếp cận các đề xuất cho mô hình sinh kế mới và áp dụng
7 điều kiện trong việc chọn lựa để nhận được nguồn vốn và hỗ trợ. Các điều kiện này đảm bảo rằng
Dự án sẽ đẩy mạnh và đáp ứng các mục tiêu về sử dụng bền vững và bảo vệ các nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
Bảy tiêu chí được dự án xây dựng để lựa chọn và tài trợ mô hình sinh kế:
Các mô hình mới và sáng tạo
Phát triển kinh kế gắn với bảo vệ môi trường. Phát triển kinh tế không làm suy giảm độ phì,
khả năng canh tác của đất, bảo vệ rừng hiện có. Các hoạt động liên quan đến việc phá bỏ, chuyển
đổi mục đích từ rừng (rừng tràm, rừng ngập mặn) sang các loại hình sử dụng đất khác sẽ không
được dự án xem xét tài trợ.
Cải tiến hoạt động đang gây tác động tiêu cực đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường (bao
gồm khai thác, nuôi trồng, chế biến,…)
Ưu tiên đối tượng là phụ nữ nghèo, người dân tộc thiểu số, phụ nữ là chủ hộ
Phải có sự đóng góp của người hưởng lợi, có sự hỗ trợ của chính quyền địa phương trong quá
trình triển khai mô hình. Người dân tự nguyện tham gia thu thập số liệu phục vụ giám sát và đánh giá,
khai thác mô hình bền vững phục vụ tham quan học tập và nhân rộng mô hình.
Mô hình được tài trợ phải được thực hiện tại các khu vực bên ngoài vùng lõi VQG hoặc khu
vực đã được qui hoạch phục hồi rừng phòng hộ.
Kinh phí yêu cầu tài trợ từ dự án phụ thuộc vào qui mô đề xuất. Nhưng tổng kinh phí tài trợ
của dự án không vượt quá 20.000 USD cho một mô hình..
Dự án nhấn mạnh vào việc khuyến khích sự tham gia của phụ nữ, cụ thể là phụ nữ dân tộc thiểu số.
Các nhóm này sẽ tìm kiếm sự tư vấn trong lĩnh vực liên quan mà mô hình sinh kế mới được đề xuất để
đảm bảo các hoạt động là phù hợp và thích hợp về giới, và phù hợp điều kiện hộ và đảm bảo phù hợp
về mặt tự nhiên, xã hội và văn hóa cho phụ nữ. Toàn bộ các dự án tiềm năng để triển khai được đánh
giá và thực hiện với sự tham gia của Dự án.
(5) Thực hiện các hoạt động sinh kế mới bởi nhóm thực hiện dự án. Qui trình được bắt đầu với việc
chọn hộ có nhu cầu và phù hợp bởi người dân trong ấp. Người hưởng lợi phải đồng ý việc theo dõi các
đầu vào và sản xuất để cung cấp thông tin cho nhóm thực hiện dự án và cho Dự án.
5. Chọn lọc đề xuất Nhân viên kỹ thuật của Dự án làm việc chặt chẽ với các nhóm thực hiện để hỗ trợ và chọn lọc các đề
xuất và bảo đảm rằng bất kỳ khía cạnh nào của dự án đều được xem xét kỹ lưỡng. Các yếu tố cụ thể
bao gồm chi tiết chi phí, liệt kê cụ thể số lượng và thời gian vốn cần hỗ trợ từ Dự án, cũng như đối
ứng từ phía hộ tham gia. Người tập huấn phù hợp cũng phải được xác định, bao gồm tập huấn kỹ thuật
cho mô hình sinh kế mới và cho hộ hưởng lợi. Thông thường là các ban nghành liên quan cấp tỉnh có
chuyên môn về kỹ thuật hoặc cán bộ kỹ thuật Dự án người có kiến thức chuyên nghành (như kỹ thuật
trồng và nhân giống cây rừng ngập mặn). Việc chọn lọc mô hình có sự phối hợp với Dự án ngoài ra
cũng phải xác định các hoạt động phù hợp và xây dựng các bảng biểu theo dõi cho phù hợp với mục
đích.
Đề xuất cuối cùng được trình cho Cố vấn Trưởng của dự án, người chịu trách nhiệm xét duyệt cuối
cùng song song với đối tác, UBND tỉnh, Giám đốc Dự án. Đề xuất được duyệt sau đó sẽ được tiến
hành làm hợp đồng giữa Dự án và nhóm thực hiện.
7
6. Triển khai mô hình
Việc triển khai mô hình sinh kế mới bởi nhóm thực hiện khởi đầu tương tự, nhưng ở ở cấp độ địa
phương. Nhóm thực hiện cần xác định ai phù hợp và có nhu cầu để tham gia và chỉ những người có đủ
khả năng, nguồn lực thực sự thì mới có thể tham gia vào mô hình. Người tham gia mô hình phải tham
dự tập huấn, thực hiện theo dõi và các yêu cầu khác được đề cập trong đề xuất dự án ban đầu. Những
cam kết này được xác định ở cấp độ hộ, và giữa từng hộ với nhóm thực hiện.
Nhân viên kỹ thuật của Dự án sẽ luôn hỗ trợ cho nhóm thực hiện trong suốt thời gian thực hiện, như
cung cấp thêm thông tin về hoạt động sinh kế, hỗ trợ việc hoạt động theo dõi.
7. Theo dõi, Báo cáo, Đánh giá và trình diễn
Việc theo dõi và báo cáo trong mô hình sinh kế là rất quan trọng của bất kỳ dự án nào. Qua việc cung
cấp thông tin giúp cho việc quản lý kịp thời điều chỉnh để nâng cao sự quản lý trong tương lai và
thông qua việc rút kinh nghiệm và nhân rộng áp dụng các thuận lợi. Nhóm thực hiện chịu trách nhiệm
đảm bảo rằng việc theo dõi và báo cáo được thực hiện. Thông tin này được sở ban nghành liên quan
cấp tỉnh, và các đối tác khác liên quan đến phát triển sinh kế. Xem phụ lục B là ví dụ về bảng theo dõi
do hộ dân tham dự ghi chép, và phụ lục C là ví dụ về báo cáo đánh giá.
Báo cáo và đánh giá cuối kỳ mô hình có thể giúp xác định cách thực hiện phù hợp nhất và xác định
các rủi do không mong muốn, cũng như đưa ra các nhận xét về các yếu tố mà có liên quan đến hoạt
động sinh kế hay cá nhân tham gia. Ví dụ, bảng theo dõi và báo cáo về hoạt động nuôi Sò Huyết được
thực hiện bởi UBND xã Thuận Hòa cho thấy người nuôi có kinh nghiệm về quản lý chất lượng nước
tăng 300%, so với những người không có hay kinh nghiệm không đáng kể. Báo cáo và đánh giá có thể
cung cấp cho cơ quan cấp tỉnh về tiềm năng để mở rộng mô hình thành công đến tỉnh, huyện, xã khác
và tìm kiếm nguồn vốn khác từ chính phủ hay các nguồn tài trợ khác.
Các địa điểm và cộng đồng nơi thực hiện hoạt động sinh kế cũng là nơi trình diễn quí giá về kỹ thuật
và thay đổi thực địa. Ngược lại, những khu vực này là mô hình để có thể sử dụng để cung cấp thông
tin cho cơ quan ban ngành cấp tỉnh và tham quan giữa các mô hình.
8
Tài liệu tham khảo
Alexender, N. 2009. Cải thiện sinh kế cho người dân sống trong khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang.
Báo cảo của dự án Bảo tồn và Phát triển khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang (AusAid-GTZ), Rạch
Giá, Việt Nam.
Liên Hiệp Hữu Nghị Kiên Giang. Đề xuất mô hình sinh kế để lồng ghép Bảo tồn và Phát triển ở một
vài điểm quan trọng trong khu Dự trữ Sinh quyển – chương trình cải thiện thu nhập. Nâng cao thu
nhập của người dân địa phương sống dọc rừng phòng hộ thông qua nuôi sò huyết.
Chambers & Conway, 1991
Trần Thanh Hoa. 2010. Báo cáo kết thúc mô hình tạo thu nhập thay thế cho người dân thông qua mô
hình kết hợp trồng lúa và rau màu cho phụ nữ ngèo xã Tân Thuận.
IISD (Viện nghiên cứu thế giới về phát triển bền vững). 2003. Sinh kế và Biến đổi khí hậu – kết hợp
với Giảm nhẹ Rủi do, Quản lý Tài nguyên Thiên nhiên và Thích ứng Biến đổi khí hậu trong việc
Tiếp cận mới để Giảm tính tổn thương và nghèo đói. Truy cập ngày 1/04/13. Tại website [
http://www.iisd.org/pdf/2003/natres_livelihoods_cc.pdf]
Mackay, P. 2009. Báo cáo Điều tra Kinh tế Xã hội có Sự tham gia của Người dân – Điều tra cơ bản
kinh tế xã hội của các cộng đồng ven biển trong Khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang. Báo cảo của dự
án Bảo tồn và Phát triển khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang (AusAid-GTZ), Rạch Giá, Việt Nam.
Ủy ban Nhân dân xã Thuận Hòa. 2011. Báo cáo đối tác – Nuôi sò huyết để cải thiện sinh kế cho
người dân sống trong khu vực rừng phòng hộ An Minh.
Ủy ban Nhân dân xã Thuận Hòa. 2011. Báo cáo đối tác: Báo cáo đánh giá về nuôi sò huyết tại ấp 9A
Vườn quốc gia U Minh Thượng. 2011. Báo cáo đối tác: Mô hình nuôi cá Sặc Rằn dưới tán rừng tràm.
UNDP, 2004. User’s guidebook for the adaptation policy framework. United Nations
Development Programme, February 2004. p.33.
9
Phụ lục A. Ví dụ đề xuất dự án ải thi n thu nh ch ngư i n ư i t n ng
h ng h n iển huy n n inh ng ngh nu i huyết
KẾT HỢP BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN TẠI CÁC TRỌNG ĐIỂM KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN KIÊN GIANG
320 Ngô Quyền, Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
ĐT: 0773 942 937 Fax: 0773 942 937
CHƯƠNG TRÌNH TẠO THU NHẬP THAY THẾ
Tên tổ chức: Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh Kiên Giang
Giám đốc: Lê Văn Hồng
Điện thoại: 077. 3874828 Fax: 077 3874828
Thư điện tử (email): [email protected] Website: www.kufo.vn
Địa chỉ: 48 Thái Thành, Vĩnh Thanh Vân – TP Rạch Giá
Người liên hệ và chức danh: Đặng Hoàng Diễn – Chánh văn phòng
Chữ ký của giám đốc và đóng dấu:
10
DỰ ÁN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN KIÊN GIANG
CHƯƠNG TRÌNH TẠO THU NHẬP THAY THẾ
ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH
ải thi n thu nh ch ngư i n ư i t n ng h ng h n iển
huy n n inh ng ngh nu i huyết
1. do đề xuất hình:
Rừng phòng hộ ven biển trên địa bàn huyện An Minh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo
vệ tuyến đê biển, bảo vệ sản xuất cho vùng sau đai rừng phòng hộ, có diện tích là 3.028 ha, đã
thực hiện giao khoán cho 728 hộ với diện tích 2.166,15 ha. Việc phát triển kinh tế, ổn định cuộc
sống của cộng đồng dân cư sống trong khu vực này sđược quan tâm thường xuyên thông qua
các chính sách về giao đất rừng, chính sách hưởng lợi, v.v..
Thời gian gần đây, tình hình sản xuất gặp rất nhiều khó khăn, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật đã
làm cho cuộc sống của người giữ rừng càng thêm khó khăn, từ đó áp lực sống phụ thuộc vào
rừng ngày càng gia tăng, hộ nhận khoán không thiết tha và ít tích cực quản lý bảo vệ rừng. Vì
vậy việc hỗ trợ vốn, kỹ thuật để hộ dân đầu tư vào sản xuất, tăng thu nhập và nâng cao đời sống,
làm giảm áp lực chặt phá rừng là rất cần thiết.
Mô hình có 34 hộ tham gia, với diện tích nuôi thủy sản 39,29 ha, diện tích rừng cần phải bảo vệ
và nâng cao chất lượng là 82,8 ha Đâ là m h nh đang được thực hiện có hiệu quả tại vùng
này.
Năng lực của địa phương tham gia với c ng lao động 60 người, cơ sở hạ tầng hiện có để nuôi
sò huyết, tương ứng số vốn là 1.479.549.500 đồng; cùng với 4 cán bộ kỹ thuật huyện, xã, BQL
rừng.
2. Mục tiêu tổng quát:
Góp phần làm giảm suy thoái rừng thông qua ổn định sản xuất, ổn định đời sống nhân dân
trong khu vực.
3. Mục tiêu mô hình:
Cải thiện thu nhập cho người dân địa phương lên đến 30% so với nhu thu nhập hiện nay thông
qua việc nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng phòng hộ ven biển có hiệu quả từ na cho đến cuối
năm 20 0
11
4. Các sản phẩm và đầu ra chính của mô hình
Cải tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhiễm mặn trong khu vực.
Thu nhập n ng dân được tăng lên ít nhất 30% so với thu nhập hiện nay.
Tăng thêm cơ hội việc làm cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn.
Kiến thức n ng dân được tăng lên về sử dụng đất nhiễm phèn.
Thị trường đầu ra cho sản phẩm m h nh được cải thiện.
Tài liệu phổ cập về chọn cá giống, thức ăn và thuốc phòng trừ sâu bệnh.
Nâng cao vai trò lao động nữ trong việc phát triển kinh tế gia đ nh
Thiết lập được lưới cộng tác viên các chương tr nh là người địa phương
Góp phần nâng cao kiến thức sản xuất kinh doanh cho người dân trên địa bàn
5. Các hoạt động đề xuất:
Tổ chức 02 tập huấn kiến thức nuôi sò huyết.
Tổ chức tập huấn về phương pháp cải tạo, xử lý vuông nuôi.
hội thảo đầu bờ về chuyển giao kỹ thuật cho các hộ tham gia mô hình.
Tập huấn về kỹ thuật trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng.
Soạn và in 300 cuốn tài liệu tuyên truyền về chọn giống và xử lý nước và đất.
Tổ chức triển khai mô hình nuôi sò huyết trên diện tích của các hộ gia đ nh
Tổ chức 02 lớp tập huấn quản lý và chăm sóc m h nh và phòng trừ sâu bệnh.
6. Đầu tư đầu vào cho mô hình đề xuất:
6.1 Đơn vị tham gia mô hình:
-Trực tiếp: Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện An Minh, 34 hộ dân ấp 9 A - xã Thuận Hòa
tham gia thực hiện.
-Gián tiếp: an uản lý rừng, trạm Khuyến nông - Khuyến ngư
6.2 Nhân sự nguồn dự kiến giúp triển khai mô hình:
-Chuyên gia: Từ Dự án GTZ Kiên Giang.
-Nhân sự địa phương: U ND hu ện, hòng n ng nghiệp và phát triển n ng th n hu ện, Trạm
Khuyến nông - khuyến ngư hu ện, Tổ kinh tế - kỹ thuật xã.
6.3 Điều kiện địa phương và hiện trạng đất đai
- Tất cả các hộ gia đ nh sẵn sàng tham gia triển khai mô hình và thành lập nhóm.
- Diện tích đất được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia mô hình.
6.4 Hỗ trợ của địa phương
UBND ấp 9 A, xã Thuận Hòa hỗ trợ về chính sách và định hướng chính sách.
12
6.5 Hỗ trợ của Dự án GTZ Kiên Giang
Dự án GTZ Kiên Giang thông qua và cấp vốn theo yêu cầu của mô hình. Vốn nà được đơn vị
chủ quản tổ chức cho vay tín dụng Các điều kiện về cho va cũng như quản lý vốn vay áp dụng
qu định của nhà nước Việt Nam hiện hành đối với các vốn cho vay.
7 Hiệu quả kinh tế:
7.1- hi hí: 1.979.549.500 đ
7.1.1-Chi phí sản xuất:
Con giống: 39,29 ha x 625 kg/ha x 40 000 đ/kg = 982 250 000 đ
(loại 1.000 con/kg, thả nuôi 625 kg/ha, mật độ 625 con/10 m2)
Xây dựng cơ sở hạ tầng - vật tư, hóa chất:
- Đào ao bằng cơ giới: 5 000 000 đ/ha x 39,29 ha = 589 350 000 đ
- Xây cống cấp nước: 34 cống (34 hộ) x 2 000 000 đ/cống = 68 000 000 đ
- Vật dụng, lưới rào: 2 000 000 đ/ha x 39,29 ha = 78 580 000 đ
- V i: 00 kg/ha x 39,29 ha x 500 đ/kg = 5 893 500 đ
- hân bón: 50 kg phân DA /ha x 39,29 ha x 5 000 đ/kg = 29 476 500 đ
7.1.2-Chi phí lao động: t ong n là việ t p t ng ngà th ng)
- 60 người x 30 ngà x 70 000 đ/ngà = 26 000 000 đ
- 4 cán bộ kỹ thuật (quản lý) x 000 000 đ/tháng x 2 tháng = 48 000 000 đ
7.1.3- Chi phí hành chính:
-Hội thảo: 2 cuộc x 7 000 000 đ/cuộc = 4 000 000 đ
-Tập huấn: 6 cuộc x 4 000 000 đ/cuộc = 24 000 000 đ
-Tổ chức học tập rút kinh nghiệm: 0 đợt x 4 000 000 đ/đợt = 4 000 000 đ
7.1.4-Chi phí khấu hao trang thiết bị: 0 000 000 đ
7.2 -Lợi nhuận sau 01 năm thực hiện mô hình: 2.440.575.500 đ
Tỷ lệ sống đạt 80%, kích cỡ thu hoạch 80 con/kg, giá bán bình quân 8 000 đ/kg, năng suất
6,25 tấn/ha. Tổng thu: 4.420.125.000 đ.
Sản lượng: 6,25 tấn/ha x 8 000 000 đ/tấn x 39.29ha = 4.420.125.000 đ.
Lợi nhuận: 4.420.125.000 đ - 1.979.549.500 đ = 2.440.575.500 đ
13
8 Những người được hưởng lợi từ dự án:
- Trực tiếp là 34 hộ tham gia thực hiện mô hình.
- Gián ếp là chính qu ền địa phương (hu ện, xã, ấp), BQL rừng.
9 Qui trình triển khai thực hiện:
- ư 1: hảo sát 34 hộ trên kênh thứ 9 thuộc ấp 9 A - xã Thuận Hòa có diện tích đất rừng và
diện tích nuôi trồng thủy sản và đang canh tác các đối tượng nu i theo m h nh đề xuất.
- ư c 2: Chia nhóm: Nuôi sò huyết 02 nhóm; trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng thành 02 nhóm.
Mỗi nhóm bầu ra 0 thành viên đại diện làm nhóm trưởng.
- ư 3: ở lớp tập huấn kiến thức nu i sò hu ết (chia làm 2 đợt tập huấn: đợt 1 tập huấn về
phương pháp cải tạo, xử lý vuông nuôi, kỹ thuật chọn giống; đợt 2 tập huấn kỹ thuật chăm sóc,
thu hoạch) và tập huấn về kỹ thuật trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng.
- ư 4: Chọn giống, nguồn gốc giống, xem xét điều kiện giống (sò huyết).
- ư 5: Thực hiện mô hình theo các quy trình, thời vụ thả giống theo đối tượng vật nuôi, cây
trồng.
10 Giám sát và đánh giá mô hình:
- Giám sát: h nh được an quản lý Dự án GTZ Kiên Giang, chính quyền địa phương (hu ện,
xã, ấp) trực ếp giám sát, kiểm tra ến độ thực hiện; tổ chức họp và báo cáo mỗi qú ua đó
đánh giá tiến độ triển khai, kết quả thực hiện m h nh, đánh giá mức độ hiệu quả để nhân
rộng.
- Rũi o: Để hạn chế thấp nhất mức độ rũi ro, hộ dân thực hiện mô hình phải qua các lớp tập
huấn kỹ thuật nuôi, chọn giống, cải tạo,… tuân thủ quy trình kỹ thuật. Cán bộ quản lý mô hình
phải có chuyên môn, kinh nghiệm; đồng thời thường xuyên xuống địa bàn, theo dõi, kiểm tra
t nh h nh sinh trưởng và phát triển đổi tượng nuôi, cây trồng; kiểm tra m i trường nuôi.
14
11 Kế hoạch công việc chi tiết:
12 Kinh phí đề xuất tài trợ:
Tổng vốn đề xuất: 1.979.549.500 đồng, trong đó:
Vốn yêu cầu hỗ trợ từ Dự án GTZ Kiên Giang: 500.000.000 đồng
Vốn địa phương: 1.479.549.500 đồng
13 Những hoạt động tiếp tục sau khi mô hình hoàn chỉnh:
Sau kết thúc dự án trong thời gian 0 năm, tổ chức tổng kết, đánh giá hiệu quả; đồng thời đề
xuất Dự án GTZ Kiên Giang tiếp tục hỗ trợ để nhân rộng cho nhân dân trong khu vực này nhằm
nâng cao thu nhập góp phần bảo vệ và phát triển rừng một cách bền vững hơn /
STT Hoạt động 07 tháng/ năm 2009 05 tháng / năm 2010
hiệu: (10)
06
07
08
09
10
11
12
01
02
03
04
05
1 hảo sát 30 hộ khu vực
2 Thành lập nhóm, chia nhóm
3
Tổ chức lớp tập huấn kỹ thuật
canh tác (02 lớp sò huyết, 02
lớp trồng rừng)
4 Tổ chức học tập kinh nghiệm
5 Cải tạo
6 Chọn sò giống
7 Thả giống
8 Theo dõi, kiểm tra, giám sát (10) (10) (10) (10)
(10)
(10)
9 Tập huấn kỹ thuật chăm sóc
sò huyết (02 lớp)
10 Hội thảo (10) (10)
11 Thu hoạch - đánh giá (10)
15
14 Dự toán kinh phí Đơn giá: VND
Hoạt động
Khoản đóng góp
Dự án GTZ
Kiên Giang
Nguồn vốn
Địa phương Nguồn khác Tổng số
-Tập huấn
(6 cuộ x 4. . đ ộc)
24.000.000 0 24.000.000
-Tổ chức học tập kinh nghiệm 4.000.000 0 4.000.000
-Đào ao bằng cơ giới
5. . đ ha x 9 29 ha)
589.350.000 0 589.350.000
-Xây dựng cống cấp – thoát nước
(34 cống x 2. . đ ống)
68.000.000 0 68.000.000
-Vật dụng, lưới rào
2. . đ ha x 9 29ha)
78.580.000 0 78.580.000
-Vôi
5 . đ ha x 9 28 ha)
5.893.000 0 5.893.000
-Phân bón
75 . đ ha x 9 29 ha)
29.476.500 0 29.476.500
-Sò giống
25. . đ ha x 9 29 ha)
400.000.000 582.250.000 0 982.250.000
-Hội thảo
(2 cuộc x 7.000.000 đ ộc)
14.000.000 0 14.000.000
-Chi phí lao động
6 người x ngà x 7 . đ ngà )
126.000.000 0 126.000.000
-Chi phí quản lý
4 người x . . đ th ng x 2 th ng)
48.000.000 0 48.000.000
-Chi phí khấu hau 10.000.000 0 10.000.000
Tổng cộng 500.000.000 1.479.549.500 0 1.979.549.500
16
Phụ lục 2: Tó tắt dự án và khung giá sát và đánh giá
Đề xuất dự án gíc can thiệp Chỉ số xác định và
đo đế
Nguồn xác định Các giả định quan
trọng
Mục tiêu tổng quát Góp phần làm giảm
suy thoái rừng thông
qua ổn định sản
xuất, ổn định đời
sống nhân dân trong
khu vực.
Tài nguyên rừng
không bị khai thác
trái phép
Báo cáo phát triển
kinh tế xã hội năm
của Ủy ban nhân
dân huyện.
Mục tiêu đề xuất Cải thiện thu nhập
cho người dân địa
phương lên đến 30%
so với nhu thu nhập
hiện nay thông qua
việc nuôi trồng thủy
sản dưới tán rừng
phòng hộ ven biển
có hiệu quả từ nay
cho đến cuối năm
2010.
Thu nhập hộ gia
đình tăng ít nhất
30% từ sò huyết.
Báo cáo năm của dự
án
- Đất tiếp tục bị
nhiễm mặn.
- Sử dụng đất nhiễm
mặn vẫn còn.
Kết quả đầu ra Cải tạo và
nâng cao hiệu quả
sử dụng đất nhiễm
mặn trong khu vực.
Ít nhất 70% đất
nhiễm mặn được cải
thiện
Báo cáo kinh tế xã
hội hằng năm của
huyện
Toàn bộ diện tích
đất được chọn trong
khu vực
Thu nhập
nông dân được tăng
lên ít nhất 30% so
với thu nhập hiện
nay.
Năng suất sò huyết
tăng ít nhất 50% so
với trước đây.
Báo cáo kinh tế xã
hội hằng năm của
huyện
- Vụ nuôi sò huyết
được thực hiện đúng
tiến độ.
- Nông dân tham gia
nuôi sò huyết.
Tăng thêm
cơ hội việc làm cho
lao động nhàn rỗi ở
nông thôn.
- Thu nhập tăng ít
nhất 30% so với
trước đây.
- Hạn chế thời gian
nhàn rỗi ở nông
thôn.
Báo cáo kinh tế xã
hội hằng năm của
huyện
Nông dân tuân thủ
theo đúng quy trình
kỹ thuật và hướng
dẫn của cán bộ kỹ
thuật
Kiến thức
nông dân được tăng
lên về sử dụng đất
nhiễm phèn.
Hiểu biết của nông
dân về đất bị nhiễm
mặn được được tăng
lên đến 50%.
Báo cáo kinh tế xã
hội hằng năm của
huyện
Nông dân sẵn sàng
chấp nhận kỹ thuật
nuôi sò huyết.
Thị trường
đầu ra cho sản phẩm
mô hình được cải
thiện.
- Sản phẩm bán ra
chạy trên thị trường
- Giá cả tăng cao
hơn so với những
năm trước
Báo cáo năm dự án Nông dân tham gia
hội thảo đầu bờ và
hội thảo tập huấn kỹ
thuật nuôi sò huyết.
Tài liệu
phổ cập về chọn cá
giống, thức ăn và
thuốc phòng trừ sâu
bệnh.
Tài liệu được in ấn
và được người dân
địa phương sử dụng
- Báo cáo năm dự án
- Báo cáo kinh tế xã
hội hằng năm của
huyện
Sản phẩm được bảo
đảm chất lượng và
đúng quy trình kỹ
thuật.
Nâng cao
vai trò lao động
trong việc pháp triển
kinh tế gia đình.
- Phụ nữ đóng vai
trò quan trọng hơn
trong kinh tế gia
đình.
- Báo cáo quản lý và
bảo vệ rừng của
BQL
- Báo cáo kinh tế xã
hội hằng năm của
huyện
- Báo cáo hằng năm
của dự án
Nông dân tuân thủ
các quy trình kỹ
thuật và hướng dẫn
của cán bộ kỹ thuật
Thiết lập
được lưới cộng tác
viên các chương
trình là người địa
Mạng lưới cộng tác
viên được thành lập
- Báo cáo kinh tế xã
hội hằng năm của
huyện
- Báo cáo hằng năm
17
phương. của dự án
Góp phần
nâng cao kiến thức
sản xuất kinh doanh
cho người dân trên
địa bàn
Kiến thức kinh
doanh của người
dân địa phương
được cải thiện
- Báo cáo kinh tế xã
hội hằng năm của
huyện
- Báo cáo hằng năm
của dự án
Hoạt động Tổ chức 02
tập huấn kiến thức
nuôi sò huyết.
Vốn Dự án và chi phí:
Tổng vốn đề xuất : 1.979.549.500 đồng,
trong đó :
Vốn yêu cầu hỗ trợ từ Dự án GTZ Kiên
Giang : 500.000.000 đồng
Vốn địa phương : 1.479.549.500 đồng
- Cần có trang thiết
bị, nhân sự đất
chuẩn bị sẵn sàng
- Nghiên cứu đã
được thực hịên
Nông dân sẽ phối
hợp triển khai thực
hiện
- Nông dân và các
đơn vị triển khai
tuân thủ và thực
hiện trách nhiệm của
mình
- Nông dân địa
phương, BQL dự án
GTZ, UBND xã ký
kết thỏa thuận
Tổ chức tập
huấn về phương
pháp cải tạo, xử lý
vuông nuôi.
hội thảo
đầu bờ về chuyển
giao kỹ thuật cho
các hộ tham gia mô
hình.
Tập huấn
về kỹ thuật trồng,
chăm sóc và bảo vệ
rừng.
Soạn và in
300 cuốn tài liệu
tuyên truyền về
chọn giống và xử lý
nước và đất.
Tiến hành
chọn và mua con
giống tôm và giống
lúa phù hợp.
Tổ chức
triển khai mô hình
nuôi sò huyết trên
diện tích của các hộ
gia đình.
Tổ chức 02
lớp tập huấn quản lý
và chăm sóc mô
hình và phòng trừ
sâu bệnh.
Đầu tư đầu vào Đầu tư đầu vào cho
hình đề xuất:
Đơn vị tha gia
mô hình:
-Trực tiếp: Phòng
Nông nghiệp &
PTNT huyện An
- Cung cấp đầy đủ
diện tích đất, nhân
sự, trang thiết bị.
- Chính quyền địa
phương tiếp tục ủng
hộ dự án.
18
Minh, 34 hộ dân ấp
9 A - xã Thuận Hòa
tham gia thực hiện.
-Gián tiếp: Ban
Quản lý rừng, trạm
Khuyến nông -
Khuyến ngư.
Nhân sự nguồn dự
kiến giúp triển
khai mô hình:
-Chuyên gia: Từ Dự
án GTZ Kiên Giang.
-Nhân sự địa
phương: UBND
huyện, Phòng nông
nghiệp và phát triển
nông thôn huyện,
Trạm Khuyến nông
- khuyến ngư huyện,
Tổ kinh tế - kỹ thuật
xã.
Điều kiện địa
phương và hiện
trạng đất đai
- Tất cả các hộ gia
đình sẵn sàng tham
gia triển khai mô
hình và thành lập
nhóm.
- Diện tích đất được
chuẩn bị sẵn sàng để
tham gia mô hình.
Hỗ trợ của địa
phương
UBND ấp 9 A, xã
Thuận Hòa hỗ trợ về
chính sách và định
hướng chính sách.
Hỗ trợ của Dự án
GTZ Kiên Giang
Dự án GTZ Kiên
Giang thông qua và
cấp vốn theo yêu
cầu của mô hình.
Vốn này được đơn
vị chủ quản tổ chức
cho vay tín dụng.
Các điều kiện về
cho vay cũng như
quản lý vốn vay áp
dụng quy định của
nhà nước Việt Nam
hiện hành đối với
các vốn cho vay.
19
Phụ lục B
Ví dụ về bảng theo dõi do hộ tham gia tự ghi chép
20
21
Phụ lục C. Ví dụ về báo cáo đánh giá của phụ nữ huyện Vĩnh Thuận
22
23
24
25
26
Phụ lục D
Ví dụ kết quả hoạt động sinh kế sinh kế: Tóm tắt hoạt động
Mô hình nuôi các Chẽm; dứa Dứa; cá Sặc Rằn
CẢI THIỆN SINH KẾ
Cải thiện sinh kế thông qua đa dạng hóa thu nhập cho người dân địa phương trong khu Dự trữ Sinh
quyển Kiên Giang là một đầu ra quan trọng của dự án. Phương pháp và kỹ thuật sinh kế mới được
giới thiệu thông qua mô hình trình diễn, tập huấn và hỗ trợ chi phí con giống. Các mô hình thành
công sau đó được nhân rộng ra cho nhiều người. Theo cách này người dân địa phương sẽ có sự thích
ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu và kết hợp chặt chẽ việc sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên
trong khu vực đất họ quản lý. Dự án tạo cơ hội cho phụ nữ nghèo và người dân tộc thiểu số cùng
tham gia, và hưởng lợi từ các hoạt động. Chỉ những dự án có sự cam kết và đóng góp mạnh mẽ của
chính quyền địa phương mới được hỗ trợ vốn.
Mô hình tổng hợp rau màu và lúa cho phụ nữ nghèo tại Vĩnh Thuận
Với mục đích tạo nguồn thu nhập mới cho phụ
nữ nghèo và phụ nữ dân tộc xã từ mô hình
canh tác tổng hợp, dự án GIZ Kiên Giang hỗ
trợ hội phụ nữ xã Tân Thuận, huyện Vĩnh
Thuận thưc hiện chương trình này. Thông qua
chương trình, phụ nữ sử dụng hiệu quả đất bạc
màu nhằm cải thiện năng suất cây trồng và thu
nhập đồng thời nâng cao nhận thức về bảo vệ
môi trường thông qua chương trình tập huấn,
đặc biệt là chương trình quản lý dịch hại tổng
hợp (IPM).
39 phụ nữ nghèo, 5 người trong số này là người Khmer tại ấp Kinh 2A được lựa chọn thông qua các
cuộc họp thôn. Sau khi tham dự khoá huấn luyện về kỹ thuật trồng trọt, mỗi phụ nữ được cấp hạt
giống, và vật tư để trồng khoảng 2 công rưỡi (2.500 m2) dưa hấu. Dưa được thu hoạch sau hai tháng
rưỡi. Mỗi phụ nữ thu lãi từ 7-9 triệu đồng sau khi đã trừ các khoản chi phí. Như vậy, Thu nhập từ vụ
dưa này gấp khoảng 2 lần so với thu nhập bình quân cả năm trước đây.
Mô hình nuôi cá Sặc Rằn trong khu vực vùng đệ vườn Quốc gia U Minh Thượng
Mô hình này được kỳ vọng sẽ cải thiện thu nhập cho người dân sống trong vùng đệm của VQG U
Minh Thượng thông qua việc nuôi thả cá Sặc rằn (loài cá đặc hữu) dưới tán rừng tràm. Trong bối
cảnh thu nhập từ trồng tràm bị ảnh hưởng do thị trường gỗ tràm sụt giảm, hoạt động này cũng sẽ tạo
ra nguồn thu nhập thay thế quan trọng nhằm duy trì và quản lý tốt diện tích rừng tràm trong khu vực.
25 hộ gia đình tại ấp Công Sự tham gia
thực hiện mô hình. Các hộ gia đình được
tham gia tập huấn kỹ thuật và được cấp
cá giống và vật tư để thực hiện mô hình.
Dự kiến cá được thu hoạch vào cuối năm
nay, thu nhập của các hộ gia đình tăng
trung bình 40 % so với thời điểm hiện
tại.
27
Nuôi Sò Huyết dọc theo rừng phòng hộ ven biển ở huyện An Minh
Mô hình này được
thực hiện tại xã
Thuận Hoà, huyện
An Minh (Do Liên
Hiệp Hữu Nghị
Kiên Giang thực
hiện). Đây là nơi
đang áp dụng mô
hình quản lý rừng
ngập mặn theo cơ
chế 7:3 theo quyết định số 51/2005/QĐ-UBND, ngày 12/11/2005 của UBND tỉnh Kiên
Giang. Mục tiêu của mô hình là (!) Cải thiện mức sống cho người dân địa phương; và (!!)
khuyến khích và đảm bảo người dân thực hiện tốt qui định về quản lý và bảo vệ rừng
phòng hộ ven biển nhằm bảo vệ đê biển và đất canh tác.
34 hộ gia đình thuộc Ấp kênh 9A tham gia thực hiện mô hình với tổng diện tích mặt nước
là 25 ha. Dự án GIZ Kiên Giang hỗ trợ tập huấn kỹ thuật vê kỹ thuật nuôi sò huyết và cấp
giống sò huyết cho các hộ tham gia mô hình. Chương trình tập huấn về bảo vệ rừng ngập
mặn ven biển cũng được thực hiện trong khuôn khổ của mô hình. Thu nhập hàng năm của
các hộ gia đình tăng trung bình khoảng 60 %.
Tỉa thưa, bón phân và trồng tràm với các mật độ khác nhau ở huyện An Minh
Do ảnh hưởng của suy giảm thị trường cừ tràm, rất nhiều địa phương tại khu vực đồng
bằng song Cửu Long đã chuyển đổi tràm sang các hoạt động sản xuất khác như trồng lúa,
nuôi tôm, cá. Điều này dẫn đến việc suy giảm một cách đáng kể diện tích rừng và độ che
phủ rừng. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp lâm sinh như tỉa thưa, bón phân và trồng
rừng ở mật độ tối ưu sẽ giúp tăng năng suất rừng tràm, tạo ra sản phẩm gỗ xẻ có kích
thước lớn để sản xuất đồ gỗ có giá trị thương mại cao. Sản phẩm phụ thu được từ tỉa thưa
có thể được sử dung làm rào chắn sóng (trồng rừng ngập mặn) , củi và than củi.
Mô hình được thực hiện tại xã Đông Hưng B, huyện An Minh. Kết quả đo đếm từ mô
hình tỉa thưa cho thấy sự khác biệt rõ rang về tăng trưởng cây tràm. Sau tỉa thưa 6 tháng
tăng trưởng về đường kính trong các lô áp dụng tỉa thưa là 18 %, trong khi đó con số này
chỉ là 2% tại các lô đối chứng.
28
Nuôi cá Chẽm & trồng Dừa Dứa ở khu vực rừng phòng hộ ven biển An Minh
Rừng phòng hộ ven biển An Minh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tuyến đê
biển và bảo vệ khu vực sản xuất bên trong đai rừng phòng hộ. Ban quản lý rừng phòng hộ
An Minh trực thuộc sở NN&PTNT đang quản lý với
diện tích đất khoảng 3.028 ha và đã thực hiện giao
khoán cho 728 hộ với diện tích 2.166ha.
Ban quản lý rừng An Biên – An Minh đã gửi đề xuất
hỗ trợ kinh phí và kỹ thuật để thử nghiệm nuôi cá
Chẽm và trồng dừa Dứa để tăng thu nhập cho các hộ
dân địa phương.
Sử dụng các bài học từ việc thử nghiệm nuôi cá Chẽm
và trồng dừa Dứa ở Vàm Rầy, Hòn Đất, và Ban Quản
lý Rừng An Biên – An Minh nhân rộng mô hình này.
CÁ CHẼM
Vào ngày 25 tháng 4 năm 2013, sau gần
một năm thực hiện mô hình nuôi ghép cá
Chẽm với cá Rô Phi bà Thu thường được
gọi là bà 303 (là số nhà của bà) đã thu
hoạch cá (bà thả vào tháng 5 năm 2013). Cá
Chẽm được chọn để nuôi thử nghiệm trong
ao ở khu vực ven biển bởi chúng có khả
năng sống và sinh trưởng tốt ở cả vùng
nước ngọt và nước mặn, và có giá trị
thương phẩm cao, giá hiện tại khoảng
70,000 đồng/kg so với một số loại cá khác
là khoảng 18,000 đồng. Hoạt động này đã
cho thấy được tiềm năng lớn trong việc
thích ứng với biến đổi khí hậu khi trong
hoàn cảnh các khu vực ven biển ngày càng tăng nguy cơ bị ngập lụt của nước mặn trong
mùa mưa.
Sau khi thu hoạch, bà đã lãi dòng là 14 triệu đồng, tăng 44% so với thu nhập hàng năm
của hộ (thu nhập hàng năm của hộ là 20 triệu từ trồng màu, 10 triệu từ hoạt động buôn
bán nhỏ, 2 triệu từ nuôi trồng thủy sản). Thu nhập của bà có thể được cải thiện nếu bà
quản lý ao tốt hơn. Trọng lượng trung bình của cá lúc thu hoạch là 1kg, vượt ngoài dự
kiến ban đầu là 700 gram. Với tốc độ tăng trưởng ấn tượng và các phân tích lợi ích chi
phí đã khẳng định rằng cá Chẽm là loài nuôi phù hợp ở khu vực ven biển. Ngoài ra cá
Chẽm cũng cho thấy tiềm năng lớn trong việc cải thiện thu nhập cho người dân địa
phương. Từ kết quả thu hoạch cũng cho thấy rằng cá Chim và cá Mè Vinh phát triễn tốt
trong ao, và đây là hai loài bổ sung bởi vì chúng sử thức ăn dư thừa từ cá Chẽm, giúp
giảm ô nhiễm ao nuôi và tăng thêm thu nhập. (chi tiết xem bảng 1).
29
Bảng 1: Kết quả thu hoạch sau 1 nă nu i từ ao 2.500 m2
Tổng thu nhập
33,730
Tên Cá Số lượng
(con)
Trọng lượng
bình quân (kg)
Lượng cá thu
hoạch (kg)
Giá thị trường
(1,000 đồng)
Thu nhập
(1,000 đồng)
Cá Chẽm 334 1 334 70 23,380
Cá Chim 158 2 316 18 5,688
Cá Rô Phi 360 0.5 179 18 3,222
Cá Me Dinh 80 1 80 18 1,440
Tổng đầu tư của bà cho ao 2,500 m2 trong 1 năm là 19.5 triệu đồng. Chi phí chủ yếu là cá
Chẽm giống (7.9 triệu đồng) và công chăm sóc (6 triệu). Chi tiết xem bảng 2.
Bảng 2
TỔNG ĐẦU TƯ & CHI PHÍ
19,567
Cá thả ượng thả
(con)
Giá/con
(1,000 đồng)
Đầu tư
(1,000 đồng)
Cá chẽm giống 2,000 3.50 7,000
Cá Chẽm (con lớn) 30 30.00 900
Cá Rô Phi giống 500 0.65 325
Cá Rô Phi nhỏ 1,280 1.43 1,830
Cá Chim 300 0.40 120
Cá Mè Dinh giống 200 0.50 100
Loại thức ăn Đơn vị Giá/đơn vị
(1,000 đồng)
Chi phí
(1,000 đồng)
Thức ăn viên (bao) 12 250.0 3,000
Cá Sặc (kg) 20 10.0 200
Ốc bưu vàng (kg) 46 2.0 92
Tiền công (đồng/tháng) 12 500.0 6,000
30
Chúng ta đã rút ra được một bài học kinh nghiệm quan trong từ mô hình này. Dự án hỗ
chợ chi phí cho 7 hộ để thả tổng cộng 6,000 con cá Chẽm (trong đó bà Thu thả 2,000
con). Sau một vài tháng nuôi thì toàn bộ khu vực nuôi bị trận triều cường lớn gây ngập,
toàn bộ cá của 6 hộ khác đã thất thoát ra ngoài. Chỉ riêng nhà bà Thu là còn tiếp tục nuôi
bởi vì bà có bờ ao cao, và lưới bao quanh. Trước khi thu hoạch, bà cũng không nhận ra là
phần lớn cá của bà đã bị thất thoát trong đợt ngập, và điều này dẫn đến sản lượng thấp vì
tỉ lệ sống chỉ đạt 16.5%.
Bà đã không trao đổi với nhân viên kỹ thuật của dự án về việc thả thêm loài cá khác vào
ao, trong đó có cá Chim, cá Me Vinh, cá Rô Phi, cá Sặc… Với cá Rô Phi và Cá Sặc được
thả vào ao để làm mồi cho cá Chẽm.
Bà đã lãng phí tiền để mua quá nhiều
cá Rô Phi do thiếu kinh nghiệm. Bà
nghĩ rằng thả càng nhiều cá thì bà sẽ
thu được nhiều tiền cuối vụ nuôi.
Trong thời gian tới nhân viên dự án sẽ
tăng cường phối hợp với cán bộ
Khuyến nông – Khuyến ngư trong
việc tập huấn và soạn thảo hướng dẫn
chi tiết các đối tượng nuôi cho phụ nữ.
Tóm lại, mô hình này là tốt và phù
hợp cho cộng đồng nghèo để cải thiện
thu nhập. Nuôi cá Chẽm thì đơn giản,
sử dụng được nguồn thức ăn có sẵn tại
địa phương, và chi phí đầu tư thấp.
Bài học quan trọng rút ra từ mô hình này là:
Người nuôi nên chuẩn bị tốt ao nuôi để đối phó với ngập – có bờ ao cao và xung
quanh nên có lưới bao quanh trong mùa mưa lũ.
Người nuôi không nên thả quá nhiều
Thức ăn công nghiệp nên sử dụng trong 2-3 tháng đầu sau khi thả vì cá Chẽm còn
nhỏ và ăn lẫn nhau, hay bị ăn bởi các loài cá tạp
31
DỪA DỨA
Tháng 5 năm 2012 ông Sáu ở ấp Vàm Rầy, Bình Sơn, Hòn Đất được dự án Bảo tồn và
Phát triển khu Dự trữ Sinh quyển Kiên Giang hỗ trợ 200 cây dừa dứa giống, trong
chương trình cải thiện sinh kế cho người dân sống ven biển tỉnh Kiên Giang. Dừa dứa
được biết đến như là giống dừa chất lượng cao, năng suất, thời gian cho thu hoạch ngắn
(3 năm) so với các giống dừa khác (5 năm), giá cả cao hơn (10,000 đồng so với 6,000
đồng).
Việc ông Sáu thực hiện mô hình trồng kết hợp, đã giúp mô hình của ông chống lại được
sự xâm thực mặn trong mùa khô. Ông trồng dừa trên đất trống ở bờ ao, bờ mương trong
khi ông vẫn trồng hoa Sen và nuôi cá dưới ao. Ông trồng cây ăn trái và hoa màu ở nơi đất
tốt, và dùng phần đất trống để trồng dừa, điều này có nghĩa là toàn bộ thu nhập từ cây
dừa là thu nhập tăng thêm.
Lợi ích về mặt kinh tế và môi trường của mô hình này là chi phí đầu tư thấp, lợi nhuận
cao, hạn chế sử dụng thuốc và phân bón, và ít công lao động chăm sóc. Ví dụ trong
trường hợp của ông Sáu, ông chỉ đầu tư 24 triệu đồng cho cho 200 cây dừa trong 3 năm,
từ năm thứ 4 trở đi ông đã bắt đầu thu hoạch và có lợi nhuận. Bảng dưới đây tóm tắt chi
phí cho 3 năm đầu trồng dừa:
Bên trái trên cùng: là người nhận
dừa và người chồng thương binh.
Bên phải trên cùng: Nhân viên kỹ
thuật khảo sát vụ mùa đầu tiên.
Bên trái là lớp tập huấn cho hộ
dân thực hiện mô hình.
32
Chi phí đầu tư trong 3 nă (đơn vị: 1,000 đồng) 24,007
Thời gian Mục Số lượng Giá
(1,000 đồng)
Tổng đầu tư
(1,000 đồng)
Năm 1
Dừa 200 70 14,000
Công trồng dừa 200 3 600
Phân bón 57 16 912
Thuốc trừ đuông 2 25 50
Công chăm sóc 12 140 1,680
Năm 2
Phân bón 100 16 1,600
Thuốc trừ đuông 2 25 50
Công chăm sóc (1
ngày/tháng) 12 140 1,680
Năm 3
Thuốc trừ đuông 3 25 75
Công lao động: chăm
sóc (2 ngàytháng) 24 140 3,360
Sau 1 năm, trong số 200 cây trồng còn sống 185 cây đạt tỉ lệ sống 92.5%, và từ giai
đoạn này cây dừa đã phát triển tốt nên tỉ lệ sống sẽ được đảm bảo hơn. Sau 4 năm thì
người trồng có thể thu hoạch trái, và sản lượng được dự đoán là sẽ tăng dần qua các
năm. Dựa theo những thông tin ông Sáu cung cấp và quan sát thực tế vài cây dừa dứa
tại vườn (đang cho ra trái), chúng ta có thể dự đoán là 50% cây sẽ cho ra trái thường
xuyên và sản lượng 1 cây 1 năm là 100 trái (trung bình mỗi tháng dừa sẽ ra 1 quầy và
trung bình 1 quầy là 8 trái). Từ ước tính này thì thu nhập hàng năm của ông ta sẽ tăng
thêm 80 triệu đồng, để biết thêm thông tin xin vui lòng xem bảng bên dưới:
Mục Số lượng
(trái)
Tổng số lượng
(coconut fruits)
Giá/trái
(1,000 đồng)
Thu nhập
(1,000 đồng)
Dừa 185 9,250 10 92,500
Chi phí hàng nă Số lượng Giá
(1,000 đồng)
Cost
(1,000 đồng)
Thuốc trừ đuông (kg) 3 25 75
Công chăm sóc, thu
hoạch, bảo vệ (tháng) 12 1,000 12,000
Sau 4 nă : ợi nhuận hàng nă 80,425
33
CÁ SẶC RẰN
Bối cảnh
Vùng đệm Vườn Quốc gia U Minh Thượng (VQGUMT) có diện tích 13.069 ha nằm
trong khu vực trọng yếu Khu Dự trữ sinh quyển tỉnh Kiên Giang. Đây là khu vực có tỷ
lệ hộ nghèo cao trong tỉnh (18%), thu nhập bình quân chỉ đạt 33,6 triệu/hộ/năm, thu
nhập bình quân đầu người đạt 393.000 đ/người/tháng.
Trên 90% người dân vùng đệm VQG có thu nhập dựa vào sản xuất nông - lâm nghiệp
- ngư nghiệp. Tuy nhiên, an ninh lương thực vẫn luôn đe dọa cho người dân nơi đây
dưới tác động của biến đổi khí hậu (như nước biển dâng và lũ lụt) với 85% diện tích
canh tác lúa bị ngập úng trong mùa mưa. Dự án làm việc với chính quyền và người
dân địa phương sống ở khu vực vùng đệm U Minh Thượng để phát triển sinh kế phù
hợp với điều kiện sinh thái ở khu vực này. Theo người dân và chính quyền địa phương
thì nuôi cá Sặc Rằn là một mô hình phù hợp và đầy hứa hẹn. Cá Sặc Rằn được xác
định là loài có nguy cơ tuyệt chủng, là loài bản địa ở U Minh Thượng và phù hợp
trong môi trường nước ngọt trong rừng tràm.
Tuy cá Sặc rằn là đối tượng gần gũi lâu đời với người dân vùng đệm VQGUMT
nhưng năng xuất nuôi cá thấp hiện nay là do: nguồn cá giống tự nhiên trong vùng đệm
đã cạn kiệt; người dân thiếu vốn đầu tư cho việc mua cá giống; đại đa số nông dân vẫn
chưa nắm vững đặc tính sinh học của loài cũng như các kỹ thuật nuôi cá; mô hình nuôi
hiện nay còn nhỏ lẻ và mặc dù trước đây đã có vài dự án hỗ trợ nhưng chưa nhiều và
rộng khắp Vườn.
Đứng trước thực trạng trên, dự án GIZ cùng với chính quyền và người dân địa phương
xây dựng đề xuất “Nâng cao thu nhập của cộng đồng dân cư vùng đệ Vườn
Quốc gia U Minh Thượng bằng phát triển mô hình nuôi cá Sặc rằn dưới tán rừng
trà ”. Mô hình này được triển khai cho 25 hộ dân thuộc ấp Công Sự, xã An Minh
Bắc huyện U Minh Thượng. Kết quả và bài học kinh nghiệm từ mô hình sẽ được sử
dụng để nhân rộng.
Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kiên Giang đã giúp hỗ trợ xây dựng thành công Nhãn
hiệu Tập thể cho Khô cá Sặc Rằn U Minh Thượng. Chính quyền địa phương còn có
thêm hỗ trợ nông dân qua việc giới thiệu kỹ thuật làm khô (bao gồm làm khô và đóng
gói) cũng như hỗ trợ nông dân tiếp cận và vay vốn từ ngân hàng để thực hiện nuôi cá.
Cá Sặc Rằn được chọn vì:
Thân có dạng hình oval dài, dẹp, có màu xanh pha nâu, và có vây lưng nhỏ. Cơ bản thì
cá ăn thực vật phù du và giống như các loài cá có cơ quan hô hấp phụ, cá Sặc Rằn có
thể lấy Oxy trực tiếp từ khí trời cũng như là hấp thụ Oxy trong nước thông qua mang.
Đặc tính này cho phép cá Sặc Rằn sống được trong i trường có Oxy hòa tan
thấp và giàu hữu cơ thường xãy ra ở giai đoạn cuối mùa khô. Cá Sặc Rằn dễ nuôi
và thích ứng tốt với điều kiện môi trường ở khu vực vùng đệm vườn Quốc Gia U
Minh Thượng, cá ít bệnh và năng suất cao và đặc biệt là nhu cầu của thị trường cao và
ổn định.
34
Cá cái có thể thành thục và bắt đầu
sinh sản sau 7 tháng nuôi, và sinh
sản 2 lần một năm, sản lượng trứng
là khoàng 150,000 – 250,000
trứng/1kg/lần. Với sức sinh sản
này sẽ đảm bảo việc cung cấp cá
con cho vụ tiếp theo. Và nông dân
hoàn toàn có thể chủ động để dành
cá bố mẹ và cá con cho vụ sau.
Thực tế từ hộ gia đình bà Thành
Bà Thành là một trông số các hộ
được dự án GIZ hỗ trợ. Bà có 4ha
đất bao gồm 1ha rừng tràm, 2ha trồng mía và 1ha nuôi trồng thủy sản. Tháng 3 năm
2010, bà Thanh nhận được 60 kg cá giống (ước tính khoảng 30,000 con cá con), 520 kg
thức ăn và 300 kg vôi để cải tạo ao. Mặc dù không thả cá lóc, nhưng cá lóc từ tự nhiên
vào trong ao nuôi của bà, và giúp tăng thu nhập của bà. Sau một năm rưỡi nuôi bà đã thu
hoạch cá để bán trong dịp Tết Nguyên Đán. Từ thu hoạch này đã cho lãi gần 27 triệu
đồng (chi tiết vui lòng xem bảng bên dưới:)
Bảng 1: Đầu tư và Thu nhập cho 1.5 nă nu i
Đầu tư ban đầu (2010) 15,010
Thời gian Mục Số lượng Đơn giá
(1,000 đồng)
Chi phí
(1,000 đồng)
Vụ đầu
Cá Sặc giống (kg)
60
120.0
7,200
Thức ăn (kg)
520
8.0
4,160
Vôi (kg)
300
1.5
450
Công lao động (ngày)
40
80.0
3,200
Vụ thu hoach đầu tiên (2011) Tổng thu nhập 42,000
Mục Số lượng
(kg)
Đơn giá
(1,000 đồng)
Thành tiền
(1,000 đồng)
ợi nhuận
(1,000 đồng)
Cá Sặc Rằn 400 65.0 26,000
26,990 Cá lóc 200 80.0 16,000
35
Bà không thu hoạch toàn bộ cá mà để
lại cá nhỏ cả cá Sặc Rằn và cá lóc cho
vụ sau, và một ít cá cái có trứng thả
sang mương xung quanh rừng tràm để
cho sinh sản tự nhiên. Với việc cho sinh
sản tự nhiên ở trong mương này đã tạo
ra nhiều cá giống và sau đó lượng cá
này sẽ được chuyển qua ao nuôi thương
phẩm vụ sau.
Vụ thu hoạch thứ 2 là tháng 11 năm
2012, bà thu được khoảng 300 kg cá
Sặc Rằn.
Lần này thay vì bán cá tươi thì bà đã
làm khô để bán được giá cao hơn. Cứ
mỗi 3kg cá tươi sẽ cho thu được 1kg cá
khô. Mỗi kg cá khô bà bán được ít nhất
400,000 đồng, so với giá cá tươi khoảng 65,000đ. Tổng cộng bà đã thu được 100 kg cá
khô từ 300 kg cá tươi và thu được khoảng 40 triệu đồng.
Mặc dù bà Thanh không thả cá lóc, nhưng cá từ tự nhiên đã xâm nhập vào ao nuôi của bà.
Trong môi trường giàu thức ăn, cá lóc đã phát triển rất nhanh và mang lại cho bà vụ mùa
tốt (khoảng 24 triệu đồng). Tổng từ mô hình nuôi này bà đã thu hoạch được 64 triệu đồng
mỗi năm, với thu nhập dòng là khoảng 51.5 triệu đồng. Tăng khoảng 64.4% thu nhập
bình quân của bà (thu nhập hàng năm của bà là: 60 triệu từ trồng mía, 10 triệu từ nuôi
trồng thủy sản, 10 triệu từ trồng lúa) (chi tiết vui lòng xem bảng bên dưới):
Bảng 2: Thu nhập và chi phí hàng nă
Từ vụ thứ 2 Thu nhập ròng: 51,550
Thu nhập hàng
nă
Số lượng
(kg) Đơn giá
(1,000 đồng) Thành tiền (1,000 đồng)
Khô cá Sặc Rằn 100 400 40,000
Cá lóc 300 80 24,000
Tổng 64,000
Chi phí hàng nă Số lượng
(kg) Đơn giá (1,000 đồng)
Thành tiền (1,000 đồng)
Vôi 300 1.5 450
Công lao động,
chăm sóc, thu hoạch 12 1,000 12,000
Tổng 12,450
Tính bền vững ở đây là người dân địa phương sẽ tiếp tục áp dụng theo phương pháp, kỹ thuật
đã được giới thiệu, đàn cá sẽ được sinh sản tự nhiên, đầu tư cho vụ mùa tới sẽ rất thấp, chủ
yếu là công lao động chă sóc, và nhu cầu thị trường lớn đồng nghĩa với việc bền vững.
Mương cá Sặc Rằn sinh sản tự nhiên
36
Phụ lục D.
Hướng dẫn nuôi ghép cá Chẽm với cá Rô Phi
Cá Chẽm có giá trị kinh tế cao, và có khả năng sống được cả trong môi trường nước ngọt,
lợ, mặn, và có thể xem đây là loài cá nuôi thích hợp với vùng bờ biển Kiên Giang trong
điều kiện biến đổi khí hậu.
Cá Rô phi thì rất phổ biến ở kênh rạch, ngoài thiên nhiên và trong mô hình nuôi ghép cá
rô phi là nguồn thức ăn cho loài cá có giá trị kinh tế cao hơn như cá Chẽm.
Cuốn sổ tay “hướng dẫn nuôi ghép cá Chẽm với cá Rô Phi” là tập hợp các hướng dẫn cụ
thể, chi tiết, thực tế nhằm giúp người dân nuôi thành công, tăng thu nhập, xoá đói, giảm
nghèo, và giảm bớt sự phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên.
I. NUÔI GHÉP LÀ GÌ
Nuôi ghép là sự kết hợp đơn giản giữa một loài làm thức ăn (cá Rô Phi) với loài cá chính
trong ao (cá Chẽm). Đây là hình thức nuôi đầy hứa hẹn, trong việc làm giảm sự lệ thuộc
của người nuôi vào nguồn thức ăn cá tạp. Việc lựa chọn cá Rô Phi làm thức ăn là do khả
năng sinh sản liên tục của chúng nhằm đạt được đủ số lượng cá con làm thức ăn để giữ ổn
định sự phát triển của cá chẽm trong suốt thời gian nuôi. Cá Rô Phi là loài sử dụng thức
ăn tự nhiên trong ao và không cạnh tranh với cá Chẽm về thức ăn.
II. NUÔI GHÉP CÓ LỢI GÌ
Chi phí thấp: mô hình này phù hợp với người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng
xa, người nuôi có điều kiện kinh tế khó khăn. Do tận dụng được nguồn cá Rô phi có
sẵn để làm thức ăn cho cá Chẽm, bà con có thể bắt ngoài thiên nhiên về nuôi, hay
trong ao đã có sẵn. Bà con có thể tận dụng các ao, hầm có sẵn, chỉ tốn chi phí cải tạo
ao, mua cá chẽm giống.
Kỹ thuật nuôi đơn giãn: nuôi đơn, hay nuôi còn gọi là nuôi công nghiệp đòi hỏi đầu tư
nhiều, kỹ thuật quản lý tốt, rủi ro cao.
37
III. MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ CÁ CHẼM
Cá có cơ thể dài, miệng rộng, không cân.
Cá có thể đạt chiều dài tối đa: 2m, cân năng: 60kg
Cá có thể sống ở nước ngọt, lợ, mặn, và khi trưởng thành cá sẽ di cư ra biển để đẻ
trứng, sau khi nở cá con sẽ bơi ngược vào vùng cửa biển, và ao hồ để sinh sống.
Điều kiện thuận lợi cho cá sinh trưởng và phát triển: nhiệt độ 15-280C, độ mặn 2 -
35‰, độ sâu 1.2 - 2m.
Cá chẽm là loài cá dữ, ăn cá nhỏ, tôm tép và giáp xác các loại…
Cá lớn nhanh, sau 1 năm từ cá giống 4 – 5cm có thể đạt trọng lượng 1.5 – 3kg/con.
Cá chẽm sống nhiều nơi trên thế giới, từ Ấn Độ đến Indonesia,Philippine, Thái Lan,
Trung Quốc, Đài Loan và Nam Nhật Bản.
Ở Việt Nam có ở dọc bờ biển từ Bắc đến Nam.
Cá Chẽm là loài lưỡng tính, lúc còn nhỏ (từ 1.5 – 2kg) hầu hết là cá đực sau khi tham
gia lần sinh sản đầu tiên thì có sự thay đổi giới tính từ cá đực thành cá cái (khi cá đạt
4- 6 kg), tuy nhiên, cũng có cá cái được phát triển trực tiếp từ trứng.
II. XÂY DỰNG AO NUÔI
Ao nuôi cá Chẽm nên được thiết kế dạng hình chữ nhật hoặc hình vuông.
Kích thước tốt nhất từ 1.000m2 đến 2 ha để dễ chăm sóc, quản lý và thu hoạch.
Độ sâu của ao từ 1.2-1.5m, đảm bảo mức nước trong ao tối thiểu từ 0,9-1.2 m.
Mỗi ao phải có cống cấp thoát nước riêng để thuận tiện cho việc thay đổi nước.
Đáy ao bằng phẳng và dốc về phía cống thoát nước.
Ao nên được thiết kế gần kênh, song, phù hợp nhất là trên vùng trung và cao triều,
thuận lợi cho việc cấp thoát nước.
38
III. CHUẨN BỊ AO NUÔI
Tháo cạn nước, kiểm tra lại bờ ao, lấp các chỗ rò rỉ và hang hốc quanh bờ ao.
Bón vôi diệt tạp và tăng pH đất với liều lượng 10-15kg/100m2, phơi đáy ao 3-5 ngày.
Lấy nước vào ao, nên lấy thông qua lưới lọc để ngăn chặn rác và cá tạp.
Bón phân gây màu nước để tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá Rô phi, đồng thời giữ
cho môi trường nước luôn ổn định. Loại phân thường sử dụng gây màu nước là phân
hữu cơ (phân gà) với liều lượng 1
tấn/ha hay phân N.P.K kết hợp với
phân Ure theo tỷ lệ 3:1, liều lượng
20kg N.P.K/ha và 7kg Ure/ha.
Khi nước có màu xanh nhạt, hay
vàng nhạt, lúc đó sinh vật phù du
phát triển mạnh thì tiến hành thả
cá Rô Phi bố mẹ với mật độ 0.5 –
1 con/m2. Tỷ lệ 1 đực 3 cái. Cá rô
phải nuôi trong ao từ 1-2 tháng
hoặc đến khi cá con xuất hiện
nhiều thì mới thả cá Chẽm giống
vào ao nuôi.
IV. CHỌN GIỐNG VÀ THẢ CÁ
1. Chọn giống
Cá giống phải có kích cỡ đồng đều nhằm hạn chế tối đa sự hao hụt do cá ăn lẫn nhau.
Cá giống càng lớn càng tốt, nhưng tối thiểu kích cỡ phải đạt 4 – 5 cm/con
Cá khoẻ mạnh, không bị xây xát, và không bị dị tật. Cá giống khoẻ mạnh thường bơi
lội nhanh nhẹn và có phản xạ tốt khi có tác động từ bên ngoài.
Cá 5c , cá đều cỡ Kiểm tra mẫu
cá Cá khỏe mạnh
39
2. Vận chuyển cá giống
Thông thường trại cá sẽ hạ nhiệt độ nước trước khi đóng cá vào bọc để vận chuyển,
đối với cá 4-5 cm thường một bọc là 200 con.
Trong quá trình vận chuyển bọc cá phải để nằ ngang vì như vậy cá sẽ có nhiều
không gian để thở, kh ng được để bọc đứng vì bọc đứng sẽ làm cho cá khoảng
trống, thiếu oxy, cá bị ngộp, bị chết trong quá trình vận chuyển.
3. Thuần và thả cá
Hai ngày trước khi nhận cá, người mua nên báo độ mặn ao nuôi với trại giống, trại
giống sẽ giúp thuần độ mặn phù hợp với độ mặn ao nuôi, tránh sóc về độ mặn.
Như đã đề cập ở trên, trại cá đã hạ nhiệt độ nước vận chuyển cá bằng nước đá để giảm
việc tiêu thụ oxy của cá, do đó trước khi thả cá phải ngâm bọc cá xuống ao 30 phút
(chỉ ngâm bọc nilon, bỏ bao ngoài ra).
Sau 30 phút ngâm bọc cá trong ao, bà con có thể thả cá trực tiếp bằng cách mở bọc
cho cá từ từ bơi ra, hay thuần cá nếu có điều kiện.
Dụng cụ thuần: thau lớn, hay lu sạch và máy sục khí để tạo oxy trong quá trình thuần.
Cách thuần: bà con đổ toàn bộ cá vào thau (số lượng ít) hay lu (số lượng nhiều) cho
chạy sục khí sau đó cứ khoảng 5-10 phút bà con múc một chén hay ca nhỏ nước từ ao
nuôi đổ vào thau hay lu thuần cá hay cho cá làm quen với điều kiện ao nuôi, và làm
như vậy trong khoảng 1giờ.
Kh ng để bọc
nằ đứng khi
vận chuyển
Để bọc nằm
ngang khi vận
chuyển
40
Thả cá, tốt nhất là nên thả cá vào buổi chiều vì thời tiết mát mẻ, có nhiều thời gian để
thuần cá và nhiệt độ nước vào buổi tối ổn định hơn, mát mẻ hơn, cá ít bị sóc hơn,
ngoài ra cũng có thể thả cá vào buổi sáng sớm trước 8h sáng.
3. Vèo cá
Để tăng tỉ lệ sống và giúp cá lớn nhanh trong giai đoạn đầu, bà con nên làm vèo để thả
và cho cá con ăn. Vèo nên được làm ngay trong ao nuôi, không nên vèo cá trong các
ao nhỏ, ít nước vì như vậy làm giảm sức khoẻ cá và cá sẽ bị hao nhiều.
Tùy vào số lượng cá mà để làm vèo, nhưng vèo cá phải đủ rộng để cá con có thể thoải
mái bơi lội, và tìm kiếm thức ăn.
Cho ăn cá tạp, cá tạp phải tươi, lượng ăn 10% trọng lượng cá (ước tính cá 5 cm là 500
con/kg) cá phải được băm nhỏ cho vừa với miệng cá, chia làm hai lần cho ăn lúc 8h
sáng và 5h chiều.
Bà con nên bỏ thức ăn vào vó để tránh cho ăn dư.
Sau 1 tháng nuôi trong vèo:
1. Đếm lại số lượng cá còn sống
2. Vớt và thả những con lớn đồng cỡ ra hầm (ao)
3. Tiếp tục cho cá trong vèo ăn
Nữa tháng sau (lúc cá 1,5 tháng tuổi):
1. Đếm số lượng cá còn sống
2. Thả tiếp những con lớn đồng cỡ ra hầm (ao)
3. Tiếp tục cho cá trong vèo ăn
Nữa tháng sau (lúc cá 2 tháng tuổi):
1. Đếm số lượng cá còn lại trong vèo
2. Thả hết cá trong vèo
V. QUẢN LÝ AO
Do cần duy trì nguồn thức ăn tự nhiên nên cần hạn chế việc thay đổi nước cho ao nuôi,
chế độ thay nên 3 ngày/lần, mỗi lần thay 20 – 30% lượng nước ao.
Định kỳ xác định tốc độ tăng trưởng của cá, theo dõi diễn biến môi trường, tình trạng
bắt mồi và tình trạng hoạt động của cá.
Thường xuyên kiểm tra bờ bao, cống rãnh, nhất là vào mùa mưa, tránh việc thất thoát
cá ra ngoài.
VI. THỨC ĂN VÀ CÁCH CHO ĂN
Không cần thiết cho cá ăn nếu lượng cá rô phi con nhiều.
Ngoài ra nếu có cá tạp thì bà con có thể cho cá ăn thêm, cá cần được băm nhỏ và dãi
đều ao, tránh cho cá ăn 1 chổ vì như vậy chỉ có những con lớn ăn được, làm tăng sự
phân đàn cá.
41
VII. THU HOẠCH CÁ
Bà con nên tát cạn để thu toàn bộ cá và sau đó cải tạo lại ao nuôi cho vụ sau.
Trong điều kiện không thể bơm cạn thì bà con có thể bơm bớt nước, sau đó dùng lưới
để kéo thu toàn bộ cá.
VIII. PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH
Trong mọi hình thức nuôi thì việc phòng bệnh là quan trọng nhất, nhất là đối với hình
thức nuôi ghép. Vì trong nuôi thuỷ sản việc trị bệnh là gián tiếp qua thức ăn, môi trường
nước, do đó một lượng không nhỏ thuốc sẽ bị tan vào trong nước, cá không hấp thụ được
gây lãng phí. Hơn nữa trong nuôi ghép do mật độ cá thả rất thấp 0,5 – 1 con/m2 do đó
việc trị bệnh cho cá sẽ là lãng phí và không mang lại hiệu quả cao.
1. Cách phòng bệnh cho cá
Chọn cá giống khoẻ mạnh, đều cỡ khi thả
Thả mật độ thích hợp, không thả dày vì thả dày cá sẽ thiếu thức ăn và chậm lớn.
Bảo đảm sự ổn định mực nước trong ao tối thiểu 0,9 m, vì lượng nước thấp sẽ làm cho
ao thiếu ổn định ví dụ như nước nóng quá khi trời nắng, và lạnh quá khi trời mưa làm
cho cá bị sóc, cá lớn chậm, bị bệnh…
Cải tạo ao kỹ trước mỗi mùa vụ, tránh việc đáy ao bẩn và mầm bệnh nằm trong bùn
đáy ao, làm dơ nước…
Duy trì màu nước ao, đối với ao nước ngọt là màu xanh nhạt, còn ao nước mặn là màu
hơi vàng nâu, vì đây là thức ăn của cá rô phi để tạo ra nhiều cá rô phi con làm thức ăn
cho cá chẽm.
Khi phát hiện một số con bệnh, hay có dấu hiệu bị bệnh, bà con nên loại ngay những
con này ra khỏi ao nuôi.
Nếu có cho ăn thêm cá tạp trong quá trình nuôi, thì thức ăn phải tươi, không mầm
bệnh, tránh cho ăn dư thừa gây thối nước.
2. Trị bệnh
Như đã trao đổi ở trên, việc trị bệnh cho cá sẽ không hiệu quả nhưng bà con có thể tham
khảo một số loại bệnh thường gặp trên cá chẽm sau đây, còn cách sử dụng và liều lượng
theo hướng dẫn trên bao bì của thuốc:
42
a. Bệnh sán lá ký sinh trên mang cá
Trị bằng: BKC, Praziquantel
b. Bệnh Rận Cá
Trị bằng thuốc: CuSO4 hoặc BKC, FIBA (tinh
dầu trăm bầu), Praziquantel
c. Bệnh Trùng mỏ neo
Trị bằng thuốc: FIBA (tinh dầu trăm bầu),
Praziquantel
d. Đĩa cá
Trị bằng thuốc: Formaldehide, Praziquantel.
e. Bệnh xuất huyết
Trị bằng thuốc: sát khuẩn, Flophenicol