CHƯƠNG 2. HÌNH TƯỢNG CHẰN TRONG ĐỜI SỐNG CƯ DÂN KHMER NAM BỘ 2.1. Tín ngưỡng dân gian Dân tộc Khmer là một dân tộc cư trú lâu đời ở đồng bằng sông Cửu Long, với kho tàng văn hoá nghệ thuật vô cùng phong phú thể hiện qua những lễ hội, nghi thức tôn giáo… Dân tộc Khmer chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng tôn giáo của Ấn Độ, cụ thể là tín ngưỡng thờ các vị thần của Bà la môn giáo và triết lý Phật giáo Nam tông. Người Khmer hầu hết đều theo đạo Phật (Theravada) với niềm tin về thiện – ác. Họ tin vào thuyết nghiệp báo – luân hồi và quy luật nhân – quả. Cơ bản như làm việc xấu xa thì sẽ nhận quả xấu, còn nếu làm việc thiện thì được nhân lành. Người Khmer tin có kiếp sống sau, kiếp sống sau họ có được sống hạnh phúc, sung sướng hay không là do các hành động của họ ở trong kiếp sống này, vì lẽ ấy mà trong mọi hành động, người Khmer luôn cố gắng sống hướng về điều thiện, vì họ quan niệm thiện bao giờ cũng chiến thắng ác. Bên cạnh sự chiếm ưu thế của Phật giáo, còn có nhiều hình thái tín ngưỡng dân gian vẫn còn được lưu hành như tín ngưỡng vật tổ, tín ngưỡng Arak, Neakta... Những tín ngưỡng này xuất phát từ xa xưa phản ánh đặc trưng của những cư dân nông nghiệp lúa nước, khi mà thiên nhiên còn quá nhiều huyền bí tác động đến thân phận mỏng manh của 32
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
CHƯƠNG 2.
HÌNH TƯỢNG CHẰN
TRONG ĐỜI SỐNG CƯ DÂN KHMER NAM BỘ
2.1. Tín ngưỡng dân gian
Dân tộc Khmer là một dân tộc cư trú lâu đời ở đồng bằng sông Cửu Long, với
kho tàng văn hoá nghệ thuật vô cùng phong phú thể hiện qua những lễ hội, nghi thức
tôn giáo… Dân tộc Khmer chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng tôn giáo của Ấn Độ, cụ thể là
tín ngưỡng thờ các vị thần của Bà la môn giáo và triết lý Phật giáo Nam tông. Người
Khmer hầu hết đều theo đạo Phật (Theravada) với niềm tin về thiện – ác. Họ tin vào
thuyết nghiệp báo – luân hồi và quy luật nhân – quả. Cơ bản như làm việc xấu xa thì
sẽ nhận quả xấu, còn nếu làm việc thiện thì được nhân lành. Người Khmer tin có kiếp
sống sau, kiếp sống sau họ có được sống hạnh phúc, sung sướng hay không là do các
hành động của họ ở trong kiếp sống này, vì lẽ ấy mà trong mọi hành động, người
Khmer luôn cố gắng sống hướng về điều thiện, vì họ quan niệm thiện bao giờ cũng
chiến thắng ác.
Bên cạnh sự chiếm ưu thế của Phật giáo, còn có nhiều hình thái tín ngưỡng dân
gian vẫn còn được lưu hành như tín ngưỡng vật tổ, tín ngưỡng Arak, Neakta... Những
tín ngưỡng này xuất phát từ xa xưa phản ánh đặc trưng của những cư dân nông nghiệp
lúa nước, khi mà thiên nhiên còn quá nhiều huyền bí tác động đến thân phận mỏng
manh của con người. Con người đã lấy tên những loại động vật, thực vật hay hiện
tượng tự nhiên để đặt cho thị tộc, và xem đấy như là cách một thị tộc xác định sự tồn
tại biệt lập của mình đối diện với các thị tộc khác. Những nghiên cứu về tín ngưỡng
vật tổ các nhà nhân chủng học nổi tiếng như Sigmund Freud, James Frazer, Marcel
Mauss, Clifford Geertz... đã chỉ rõ những dạng này. Chẳng hạn người Bororos, một
sắc dân trong vùng Amazonie tự hào họ là những con Araras (một giống két to nhiều
màu). Trong xã hội Bororos, chỉ có đàn ông tự nhận mình là araras, một thứ két do
đàn bà nuôi dạy và quan hệ gia tộc ở đây được tổ chức theo mẫu hệ, người chồng phải
về sống bên nhà vợ. Hoặc nghiên cứu của Clifford Geertz về thú chọi gà ở quần đảo
Bali cho thấy ẩn sâu qua trò chơi ấy là tâm thức về vật tổ khi mỗi người Bali đều xem
gà trống là biểu tượng cho đàn ông. Đến ngày nay, những tín ngưỡng này vẫn tồn tại
32
trong đời sống của họ. Lý thuyết chức năng luận của Bronislaw Malinowski đã nói
rằng mỗi yếu tố tồn tại được bởi nó đáp ứng một nhu cầu tập thể, nghĩa là đảm nhận
một chức năng nào đấy trong hệ thống xã hội (như một cơ quan trong thân người), và
do đó, nó chỉ có thể được hiểu trong tương quan với toàn bộ hệ thống. Theo lối phân
tích này, có thể thấy những tín ngưỡng thờ cúng các vị thần tiên, ma quỷ, họ nhà
chằn... thật sự là phần không thể thiếu trong đời sống cư dân Khmer và dù ở quá khứ,
hiện tại hay tương lai thì chúng ta cũng không thể phủ nhận hay bác bỏ chúng. Những
thế lực linh thiêng, huyền bí ấy người Khmer quan niệm chung là thần và ma quỷ,
chúng tôi sẽ đi vào phân tích sâu hơn vài tín ngưỡng cụ thể nhằm làm rõ khái niệm về
“chằn” trong luận văn.
Tín ngưỡng thờ rắn (neak, naga): người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long,
lấy việc trồng lúa nước làm trọng nên nước đóng vai trò rất cần thiết trong đời
sống. Nước là tác nhân điều hòa nhịp sống và những động vật sống dưới nước như
rắn, cá sấu... từ lâu đã được cư dân Khmer xem là những vật tổ, là vị thần bảo
mệnh cho dân tộc. Trong truyền thuyết về thời kỳ lập nước Campuchia kể rằng có
vị vua Bà la môn tên là Kaundinya lãnh một cây cung thần do Asvattharman, con
của thần Drona tặng. Ông phóng nó xuống để chỉ nơi mà ông sẽ xây đế đô tương
lai, rồi ông phối hôn với Nagi Soma – ái nữ của thần rắn bảy đầu Naga và sáng lập
một vương triều1. Ngay cả khi nhà nước Campuchia đã ổn định vào cuối thế kỷ
XIII thì trong Chân Lạp phong thổ ký, sứ thần Châu Đạt Quan vẫn mô tả một tục
lệ thờ rắn mà nhân dân truyền tụng. Theo tục lệ này, nhà vua Campuchia đêm nào
cũng vậy, trước khi vào hậu cung đều phải vào tháp ngủ với một vị xà tinh 9 đầu
dưới hình dạng một người con gái, nếu không vào nhà vua sẽ bị chết và nếu trong
một đêm vị xà tinh đó không hiện lên thì cũng là thời điểm báo hiệu thành phố có
hỏa hoạn, nếu trong ba đêm rắn không lên thì đó là dấu hiệu trong nước sắp có
thiên tai, còn trong năm, bảy đêm mà rắn không lên thì ắt hẳn Quốc vương sẽ băng
hà, dấu hiệu sự sụp đổ của Vương quốc bắt đầu. Ngoài ra, người con trai Khmer
sắp sửa đi tu còn được gọi là neak2. Trước khi tu, người ta làm lễ nhuộm răng cho
1 Xem thêm: Lê Hương, Người Việt gốc Miên, Trí Đăng xuất bản, 1969, 258tr.2 Theo truyền thuyết, ngày xưa có một con rắn (Naga) tu luyện thành người và đã theo đức Phật hành đạo. Một hôm, một môn đệ khác của đức Phật phát hiện ra nó là rắn nên đã báo cho đức Phật. Ngài đã trục xuất nó ra khỏi hàng môn đệ vì không phải là người thì không được đi tu. Nhưng Ngài luôn nhớ kỷ niệm này và do đấy, về sau người ta gọi nhà sư tương lai là neak. Thậm chí, về sau khi nhận ai đó vào tu hành, người đó sẽ phải trả lời câu hỏi “Anh là người thật, không phải là chằn hay là rắn chứ?” nhằm ngăn chặn những điều xấu có thể xảy ra.
33
Mô típ neak trang trí diềm mái chùa Kh’leang, tỉnh Sóc Trăng
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh
Mô típ neak trang trí lan can chùa Rùm Đuôl, ấp Cây Da, xã Đôn Xuân,
huyện Trà Cú, tỉnh Trà VinhẢnh chụp: Phương Hoàng Lan
người đi tu gọi là Thvơ thmênh neak, vì theo truyền thuyết, người Khmer thuộc
giống rắn (như đã đề cập) nên phải phết thuốc trị nọc độc của rắn thì mới tu hành
được. Ngày nay, mô típ rắn Naga đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các
nghệ nhân điêu khắc từ trang trí trên mái chùa, làm lan can, làm tán che, trên
những phù điêu, trên đầu thuyền... đến hình tượng Đức Phật ngồi trên ngai rắn
Naga (theo Phật thoại kể về vua rắn Mucilinđa nổi lên cứu Đức Phật trước một
trận giông bão khủng khiếp do quỷ Mara gây nên để cản trở sự tu hành của người).
Thậm chí ngày nay, trong lễ cưới của cư dân Khmer vẫn có tục chú rể phải nắm
lấy vạt áo cô dâu khi vào phòng hoa chúc; đây là một lễ tiết bắt nguồn từ truyền
thuyết Preah Thong và Neang Neak, khi Preah Thong nắm vạt áo của Neang Neak
xuống thủy cung ra mắt Vua cha Long vương.
T í n n g ư ỡ n g t h ờ A r a k :
Arak là thần hoặc ma quỷ. Arak không có hình dáng rõ rệt thường là thần trong tự
nhiên, và cũng khó mà phân biệt được thiện ác. Arak cũng có thể là linh hồn một
người chết nhưng hiển linh như thần. Thờ Arak tượng trưng cho vị thần bảo hộ,
giữ gìn. Nói đến Arak, người Khmer liên tưởng trước hết là Arak chua bua (Arak
của dòng họ). Các Arak chua bua đều có tên riêng, có lễ vật cúng riêng, và khi
cúng phải tuân theo những nghi thức riêng được quy định. Ví dụ như Cần tôn
khiêu là một arak nữ lễ vật có thịt ếch, thịt bò...; Chùm Teo Tây cũng là arak nữ, lễ
vật phải có đầu heo, đầu gà...; thậm chí có arak A Chut, khi cúng phải ca những lời
tục tĩu, đổ rượu bằng gáo dừa, dâng lễ vật bằng chân, vừa dâng vừa chửi rủa3...Mỗi
3 Theo Nguyễn Xuân Nghĩa, “Tàn dư các tín ngưỡng Arak và Neak Tà ở người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Dân tộc học số 3-1979, tr. 42 – tr. 50.
34
Miếu ôngTà bằng gạch ở TX. Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh
Miếu ôngTà ở ấp Cây Da, xã Đôn Xuân, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh
Ảnh chụp: Phương Hoàng Lan
một dòng họ thờ một arak riêng và người nữ lên đồng làm trung gian giữa con
người và arak thì được gọi là rub arak. Có rất nhiều Arak với từng ý nghĩa khác
bảo hộ nhà cửa), arak kòl (thần bảo hộ dòng họ), arak viel (thần bảo hộ ruộng
đồng)... Ngày nay, trong nhiều làng xóm người Khmer, tín ngưỡng Arak vẫn tồn
tại mang dấu ấn sâu đậm. Người Khmer gắn với ruộng đồng, nên khi cày cấy đều
cúng arak viel (thần bảo hộ ruộng đồng) với mong muốn mảnh ruộng của mình
được giữ gìn, không bị chuột bọ sâu rày phá hoại. Qua kết quả điền dã, quan sát
tham dự tại các phum sóc, chúng tôi được bà con Khmer cho biết họ vẫn thờ cúng
Arak thường xuyên và rất tin vào thế lực thần linh này. Ví dụ khi bệnh tật ốm đau,
họ tìm đến những thầy cúng để được chỉ bảo nên cúng cho Arak nào thì khỏi bệnh;
khi xây nhà, khi làm ruộng... người Khmer đều cúng Arak.
Tín ngưỡng Neakta: người Khmer thờ Neakta trong một ngôi miếu nhỏ đặt ở góc
làng, góc ruộng hay trong những miếu xây bằng gạch. Neakta để thờ thường là
những hòn đá nhẵn; một vài địa phương tạo hình Neakta dưới dạng một ông già
hiền hậu trong trang phục truyền thống Khmer để thờ cúng. Neakta có khi được
gọi theo tên của một vật tiêu biểu trong thiên nhiên hoặc theo tên thực vật, ví dụ
như neakta bến đò, neakta giếng...; loại thứ hai gọi theo tên người hay những tính
cách có liên quan đến người; loại thứ ba thì cho thấy dấu tích của Bà la môn giáo
thể hiện qua cách gọi Neakta Nereay (Vishnu), Neakta Prum (Brahma), Neakta
Neang Khmau (nữ thần Kali)... Nói chung, tín ngưỡng Neakta chính là thờ cúng
những vị thần, tổ tiên nhằm che chở, bảo vệ cho đời sống của cư dân Khmer.
Trong quan niệm của người Khmer, những vị thần này cũng mang đầy đủ đặc
35
trưng tính cách như con người: biết ghen ghét, giận hờn, vui mừng, hạnh phúc...
nên họ rất tôn trọng và kính sợ Neakta, không dám xúc phạm làm cho các vị nổi
giận sẽ bị trừng phạt. Ngày trước, lễ cúng Neakta được tổ chức hàng năm vào
khoảng tháng 4, tháng 5 Dương lịch trước khi vào vụ mùa để cầu khẩn Neakta
giúp họ thu hoạch tốt trong việc đồng áng... nhưng tục này ngày nay cũng mất dần
đi.
Tín ngưỡng thờ Reahu: như mô típ rắn naga, Reahu cũng là một mô típ trang trí
rất phổ biến tại các chùa Khmer Nam Bộ. Mô típ thể hiện một quái vật vẻ mặt
hung dữ, đôi mắt lồi trợn trừng, vành miệng rộng, phun ra những luồng cuồng
phong. Đôi khi mô típ Reahu lại được chắp thêm đôi cánh tay với hai bàn tay cầm
chặt mặt trăng đưa vào miệng. Reahu bắt nguồn từ truyền thuyết kể về hiện tượng
nhật thực, nguyệt thực. Truyền thuyết này được Lê Hương kể trong Người Việt
gốc Miên như sau:
Ngày xưa, có ba anh em mồ côi cha mẹ ở chung với nhau. Một hôm ba anh em
muốn dâng cơm cho một vị La Hán thường qua xóm khất thực. Hai anh lớn
bảo đứa em út chụm lửa nấu cơm. Vì củi ướt không cháy nên gần đến giờ vị La
Hán đi ngang mà cơm chưa chín. Hai người anh không biết nên rầy mắng đứa
em. Người anh lớn quá giận nên lấy muỗng xúc cơm đánh lên đầu đứa em.
Người em tức tối, khóc thầm mà chịu. May nhờ đức tốt của anh em mà nồi cơm
kịp chín đúng lúc vị La Hán đó đi ngang qua. Khi đặt bát dâng cơm, người em
nghĩ rằng kiếp này nó là em nên mới bị hiếp đáp bèn nguyện kiếp sau đầu thai
thành thành một người có sức mạnh vô biên, xin thành Reahu tức là thần gió
bão, mạnh không ai chặn nổi.
Hai người anh nghe lời đứa em nguyện sợ kiếp sau bị em làm khổ nên mới cầu
nguyện cho kiếp sau của mình. Người anh lớn thành Mặt Trời, người anh kế
thành Mặt Trăng. Nhờ đức tốt của ba anh em đã cúng dường cho vị La Hán
nên kiếp sau cả ba anh em đều được toại nguyện. Anh lớn thành thần Mặt Trời
gọi là Preah A Tik, anh kế thành thần Mặt Trăng gọi là Preah A Chan, còn em
út thành thần Gió gọi là Reahu. Hai người anh bị người em rượt chạy theo núi
Sakmêruk. Hai người anh chạy nhanh quá, em út Reahu rượt không kịp nên tức
giận vô cùng bèn xuống ao Anotatak tắm rửa. Ao này do chư thiên biến hóa ra,
giao quyền cai quản cho thần Komphonlak và dặn rằng dù là chư thiên, chằn
36
Mô típ Reahu ở chùa Trà Tro, xã Hàm Giang, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh
Mô típ Reahu ở chùa Pôthis Thôm Phđau Pên, xã Viên Bình, huyện Mỹ
Xuyên, tỉnh Sóc TrăngẢnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh
tinh hay kẻ nào muốn lấy nước hay tắm ở ao này đều phải có sự đồng ý của vị
thần này, ai trái lệnh thần có quyền xử tử. Reahu ỷ mình sức mạnh nên không
thèm xin phép trước khi tắm và bị thần Komphonlak chém đứt ngang ngực.
Nhờ có phước lớn, Reahu không chết nhưng không còn chân để chạy nữa nên
bò lên lưng chừng núi Sakmêruk nằm hả họng chờ Mặt Trời và Mặt Trăng đi
ngang qua thì nuốt. Quả nhiên Mặt Trăng bị nuốt một năm một hay hai lần còn
Mặt Trời thì hai hay ba năm bị nuốt một lần.
Người Khmer tin tưởng rằng nếu Mặt Trăng bị Reahu nuốt từ Đông sang Tây thì
sẽ xảy ra nạn đói, ngũ cốc hao hụt, còn Reahu nhả Mặt Trăng ra từ Tây sang Đông
thì lúa gạo dồi dào. Chính vì thế mà mỗi khi có hiện tượng Nguyệt thực, đồng bào
người Khmer hay đánh trống, phèng lên trời cho thần Reahu hoảng sợ mà nhả Mặt
Trăng ra. Ngoài ra, người đàn bà có thai thì thường van vái thần Reahu phò hộ cho
sanh mau mắn, mẹ tròn con vuông vì thần có miệng rộng, thần nuốt được Mặt
Trăng và nhả ra dễ dàng nên người Khmer tin rằng rồi đây họ cũng sinh con được
dễ dàng.
Ngày nay, mô típ Reahu xuất hiện rất nhiều ở các chùa Khmer, trên vòm chánh
điện, vòm cửa, bàn thờ Phật... Đặc biệt, mô típ này thường được đặt ở hướng Đông
với ý nghĩa cầu mong cho lúa gạo luôn dồi dào, no đủ.
Đối với quan niệm Chằn, qua kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì cư dân
Khmer không có một sự tích riêng nào nói đến một nhân vật cụ thể là Chằn. Chằn
trong tâm thức người Khmer là một thế lực xấu, đại diện cho cái ác, nó bắt nguồn từ
nền văn hóa Ấn Độ thời kỳ Campuchia ảnh hưởng bởi Bà la môn giáo (người Khmer
37
Cờ phướng nhiều màu treo trong ngày Tết
Ảnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh
gọi là đạo Rôm mênh hay đạo Prum). Trải qua quá trình biến thiên của lịch sử, những
nét ảnh hưởng của Bà la môn giáo đã được người Khmer tiếp thu và tạo nên dấu ấn
riêng của mình. Những hình tượng như Naga, Reahu, Krut, Yak... đã cho chúng ta
thấy sự tiếp thu và hội nhập văn hóa này, không chỉ riêng đối với người Khmer mà
còn ở các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Lào, Myanmar...
Trong đời sống của cư dân Khmer Nam Bộ, hình tượng Chằn có tầm ảnh
hưởng nhất định. Chằn nói riêng và các vị thần, ma quỷ khác nói chung theo suy nghĩ
của người Khmer đều mang những tính cách như con người. Họ biết tức giận, yêu
thương, ganh ghét... do thế, phải đối xử thật tôn kính với những thế lực siêu nhiên này
mới nhận được sự bảo vệ.
Trước đây, cư dân Khmer có những tục lệ mà chúng ta thấy có sự góp mặt của
hình tượng Chằn, nhưng với tư cách là một vị thần bảo vệ. Vốn trong tâm thức, chằn
luôn là thế lực đại diện cho ác thần nhưng người dân Khmer đã xây dựng lại hình
tượng này, cho chằn quy phục đức Phật Thích Ca và trở thành một vị thần, một vị hộ
pháp bảo vệ cho Phật Pháp. Tích truyện được
ghi lại qua những điển tích vẽ trong chánh điện
các chùa Khmer. Câu chuyện kể rằng trước đây
chằn chuyên đi phá hoại dân lành, gây bao tai
họa, đau khổ cho người khác. Thế rồi Phật
Thích Ca trông thấy đã hóa phép bắt một con
chó chết sình thúi cột chặt sau gáy chằn. Chằn
không chịu được hôi thối đã đi khắp nơi nhờ
người cởi trói giúp nhưng không được. Cuối
cùng chằn đành phải quy phục đức Phật để
được cởi trói. Từ đó trở đi, ở những nơi Phật
thuyết pháp có treo cờ phướng báo hiệu, chằn
nhìn thấy sẽ không đến phá phách. Phải chăng
sau tích truyện này, điều muốn nói lên chính là
sự yếm thế của Bà la môn giáo để nhường chỗ cho sự phát triển của Phật giáo trong
nền văn hóa Khmer.
Mang ý nghĩa của một vị thần bảo vệ, chằn đã đi vào đời sống cư dân Khmer
qua những tục lệ cổ xưa. Chẳng hạn, khi nhà nào có phụ nữ sanh, người ta thường treo
38
Vết tích tục thờ “cậy gậy của chằn” tại huyện Long Phú, tỉnh Sóc TrăngẢnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh
Treo cây xương rồng và bịch muối gạo để trừ ma quỷ gây hại gia đìnhẢnh chụp: Nguyễn Thị Tâm Anh
một khúc xương rồng trước cửa, có kèm thêm cả một bịch gạo và muối nhỏ. Có nhiều
cách để giải thích hiện tượng này, thứ nhất cây xương rồng tượng trưng cho cây
trượng của chằn (đằm bọn yeak) nhằm che chở, ngăn chặn cái xấu, cái ác, tà ma xâm
hại sản phụ; thứ hai, treo như thế là dấu hiệu báo cho mọi người biết nhà này đang có
sản phụ, khi khách đến chơi nhà nên chú ý điều này, không được nói chuyện lớn tiếng
và lâu, không được chê hay khen con của sản phụ mập mạp dễ thương, không được
chê rằng nhà có nhiều khói quá (vì sản phụ nằm than nên rất nhiều khói). Nếu vị
khách không để ý sẽ bị gai xương rồng đâm trúng. Kể từ năm 1994, đồng bào Khmer
được tuyên truyền về sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình, bài trừ mê tín dị
đoan thì tập tục này hầu như mất đi, sản phụ không còn sanh tại nhà như trước đây
nữa, người Khmer cũng như người Việt đều vào bệnh viện để sanh nở.
Cũng có cách giải thích khác ý nghĩa của việc treo xương rồng là để báo hiệu
cho người khác biết trong nhà đang có người bị bệnh trái rạ, không nên đến hoặc cần
cẩn trọng hơn để tránh lây nhiễm.
Qua khảo sát tại những địa bàn tập trung đông người Khmer như huyện Trà
Cú, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh chúng tôi không còn thấy hiện tượng treo cây
xương rồng trước cửa nhà nữa. Tuy vậy, tại huyện Long Phú và một số khu vực thuộc
thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng vẫn tồn tại tục lệ này nhưng mang ý nghĩa khác.
Người Khmer tại những khu vực giải thích rằng họ treo vậy để trấn giữ nhà cửa, xua
đuổi tà ma, bịch muối và gạo tượng trưng cho đồ ăn của các vị thần linh, ma quỷ đó.
39
Còn có một tục khác được kể lại là khoảng cuối tháng 4 đầu tháng 5 khi vào
cuối mùa khô đang chuyển sang mùa mưa, trong phum sóc thường xảy ra bệnh tiêu
chảy (gọi là dịch tả), cư dân Khmer quan niệm là bệnh ngả nước do ma làm, họ bèn
lấy một cái chĩnh (loại chĩnh đựng nước mắm) và vẽ mặt nạ chằn lên trên đó rồi để
đầu ấp, đầu làng với ý nghĩa tượng trưng sự dữ tợn của chằn sẽ giúp cho dân làng xua
đuổi bệnh dịch nữa. Thậm chí, một số gia đình còn tổ chức múa chằn cả đêm. Chằn
vừa múa đánh với Khỉ vừa la hét nhằm xua đuổi hết ma quỷ đã gieo bệnh tật đến cho
dân làng. Tục này ngày nay cũng không còn.
Trẻ nhỏ Khmer biết đến ông chằn cũng nhờ vào các loại hình nghệ thuât diễn
xướng. Thỉnh thoảng, trong quá trình điền dã, chúng tôi lại bắt gặp trẻ em Khmer chơi
đùa với nhau bằng cách lấy những ngọn sua đũa gắn vào miệng giả làm nanh của ông
chằn. Đối với trẻ nhỏ, ông chằn rất dữ và đáng sợ nhưng chúng cũng rất thích ông
chằn, luôn đòi đi xem khi nghe nói ở đâu có ông chằn đi tới diễn.
Như vậy, có thể thấy rằng những tập tục dân gian mê tín xưa kia đã trở thành
hủ tục, không còn thích hợp nữa nên dần bị loại trừ trong đời sống cư dân Khmer.
Hình tượng chằn hiện nay lại trở thành một mô típ rất phổ biến trong nghệ thuật sân
khấu, tạo hình, kiến trúc và trong những lễ nghi có tính chất tôn giáo. Chúng tôi sẽ
phân tích sâu hơn hình tượng chằn ở những khía cạnh trên ở các chương mục sau.
2.2. Các hội lễ
Lễ hội đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của người Khmer, chi
phối toàn bộ sinh hoạt tinh thần, vật chất và chiếm khoảng thời gian rất lớn. Lễ hội là
dịp để người Khmer cầu kinh, ban phước lành theo tinh thần dân tộc.
Ở các hội lễ của người Khmer, chúng ta thấy nổi lên với những đặc điểm như:
Chịu ảnh hưởng sâm đậm của tôn giáo (cụ thể là Phật giáo Nam tông). Các lễ hội
thường được tổ chức theo nghi thức của đạo Phật, thể hiện qua sự tham gia và
đóng một vai trò khá quan trọng của các vị sư sãi. Lễ hội thường được tổ chức tại
chùa với các lễ tiết như tụng kinh cầu an, cầu phước, dâng cơm cho sư (ông lục),
dâng lễ vật cho chùa… Do ảnh hưởng quá sâu đậm của Phật giáo nên hội lễ của
người Khmer chủ yếu diễn ra tại sân chùa.
Hội lễ có tính chất hết sức thiêng liêng trang trọng. Đó không chỉ là dịp để người
Khmer vui chơi mà còn là cơ hội để họ cầu phước cho người thân, và cho chính
40
mình. Dù nghèo khổ, người Khmer vẫn chuẩn bị lễ vật dâng cho các ông lục trong
chùa, hoặc đến chùa nấu cơm, phụ giúp trong các dịp lễ hội.
Các nghi thức trong hội lễ thường gắn liền với những truyền thuyết của Phật giáo
nên được người Khmer nâng niu và gìn giữ, truyền lại cho con cháu như Lễ đắp
núi cát, lễ đua ghe, lễ đặt cơm vắt… Ngày nay, theo thời gian con cháu của người
Khmer thực sự đã không còn hiểu hết ý nghĩa của những lễ này nhưng vẫn duy trì
và mặc nhiên xem đó là điều hiển nhiên phải làm, phải có trong các dịp lễ.
Các lễ vật dâng cúng cũng có vai trò quan trọng, nói lên ý nghĩa, nội dung của Lễ.
Ví dụ như Lễ cúng trăng phải có cốm dẹp, Lễ dâng y phải có cà sa, Lễ nhập hạ thì
cần có khăn tắm, đèn cầy, nước mưa… Ngoài ra, người Khmer còn có những lễ
vật đặc biệt như sla thor: là một vật cúng bằng cây chuối, trên cắm bông hoa, trầu
cau để đem vào chùa; cờ may dài nhiều mét có màu sắc sặc sỡ; dàn nhạc ngũ âm…
Hội lễ thường kéo dài suốt đêm, trong nhiều ngày tại sân chùa. Trong những ngày
này, chùa rất nhộn nhịp, đông đúc phật tử. Khá lý thú là vào dịp lễ thì sân chùa lại
mọc lên những hàng quán tự phát, sau dịp lễ hội lại dẹp hết.
Gắn với hội lễ là hoạt động văn nghệ truyền thống. Các loại hình sân khấu của
người Khmer đồng bằng sông Cửu Long như Rôbăm, Dù kê, múa tập thể Lăm
thôn được phát huy cao độ trong dịp này.
Lễ hội của người Khmer thường gắn với tính chất nông nghiệp lúa nước lâu đời.
Do người Khmer đa số là nông dân nên dịp tổ chức hội lễ thường là khi kết thúc
vụ mùa, hoặc khi thu hoạch, chờ mùa sau…
Những năm gần đây, cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa nên nhiều phum, sóc của đồng bào Khmer trở thành phum sóc văn hóa. Cùng với
đó, phong trào xây dựng chùa văn hóa cũng được một số địa phương chú ý. Hoạt động
của các ngôi chùa được phát triển như một trung tâm văn hóa. Những ngôi chùa lớn
còn trang bị đội trống, kèn, dàn nhạc, đội đua ghe ngo… Không chỉ vào các dịp lễ, tết
truyền thống, hoạt động văn hóa ở các ngôi chùa còn diễn ra thường xuyên trong năm.
2.2.1. Vài nét về lễ vật cúng tế của người Khmer
Phần lớn các lễ cúng tế của người Khmer đều có lễ vật cúng đi kèm. Nhưng
chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này cho đến nay. Có những đồ cúng đại trà,
41
chúng ta gặp ở nhiều buổi cúng tế, nhưng cũng có những lễ vật đặc thù cho một lễ
cúng nào đó.
Về nguồn gốc, thì chỉ biết từ tổ tiên người Khmer để lại mà chúng ta không rõ
nó mang ý nghĩa như thế nào. Và đồ cúng tượng trưng điều gì, cũng khó mà phân biệt
được. Chúng ta thấy đồ cúng thường là những phẩm vật tự nhiên, chủ yếu là cây cỏ.
Một số đồ cúng có ý nghĩa tượng trưng sau:
Sợi chỉ tượng trưng cho sự trường thọ.
Đèn cầy và nhang tượng trưng cho hạnh phúc.
(còn được xem là vật tượng trưng cho linga của thần Shiva)
Trầu cau, các thức ăn tượng trưng cho sức sống.
Tùy theo đối tượng và tính chất của nghi lễ mà người Khmer sử dụng lễ vật rất
chính xác. Một vài trường hợp trong nghi thức phải có những đồ cúng sau:
Cúng Tevoda:
- Bàn thờ Thiên (Rean Tevoda)
- Chrâm
- Sla thor cheung thkâ
Cúng Phật:
- Bay sei ruot (bay sei nhiều tầng)
- Sla thor thommada (Slathor bình thường)
- Sla thor sot mon
- Sla thor đuông (Sla thor làm từ trái dừa)
- Sla thor phka dông (Sla thor làm từ bông dừa)
- Tien pram thup pram (nhang, đèn cầy: 5)
- Tien kôl (đèn cầy gốc, to)
- Bay ben (cơm phước)
- Bay bet tbor (cơm cúng ông Tà cai quản xóm)
- Phka ben (bông phước)
- Sangkheuk (kiệu khiêng)
Cúng Thầy, Tổ:
- Bay sei Pakchham
- Sla thor Thommada
- Sla chruh (trái cau xắt miếng gắn vào sla thor)
42
- Bay sangkhat
- Tien trêng (đèn cầy cắm thành hàng)
- Sla truoy (cau ngọn)
Cúng Visnukar (Thầy bên nghệ thuật, kiến trúc):
- Tien trêng (đèn cầy cắm thành hàng)
- Leach pram (cốm nổ để trên 5 dĩa)
- Tien pram (đèn cầy: 5)
- Thup pram (5 bó nhang, loại bó có 5 cây)
Cúng Peali4:
- Pê Krong Peali (1 mâm cơm và những câu thần chú gợi nhớ công ơn Peali)
Cúng Khmoch (ma), Arak:
- Sra (rượu)
- Sla chruh
- Pê reay (đồ mặn)
- Pê ruôt (đồ ngọt)
- Pê chêng (bột ngọt)
- Pê hum (đồ thơm)
- Pê preah phum (đồ cúng cho vong hồn)
- Pê mochhus (hàng mã)
- Pê sala (lá dừa xếp thành giỏ đựng)
- Pê cheung trom (lá dừa xếp thành giỏ đựng nhưng gắn thêm chân đế)
- Tien trêng
- Tien snêng krâbei (đèn cầy to như sừng trâu, không đốt)
Cúng Neakta:
- Sla chom
- Sla chruh
- Tien trêng
4 Về thần Peali có sự tích như sau:Ngày xưa Peali giữ đất, ông có rất nhiều đất. Phật lại không có đất. Một lần nọ, Peali gặp nạn được Phật cứu. Peali đền ơn bằng cách hỏi Phật muốn gì không thì cho. Phật nói muốn xin đất xây chùa. Peali đồng ý và hỏi xin đến đâu. Phật trả lời bóng của chiếc ái ca sa trải đến đâu thì xin đến đó. Thế là khi mặt trời chếch bóng. Phật đưa chiếc áo ca sa lên, bóng casa phủ trùm gần hết đất đai. Peali phải cho đất như đã hứa. Vì thế về sau người dân Khmer khi làm xong một công trình nào đó như nhà, trường, đặc biệt là chùa chiền, phải cúng Peali. Khi chùa làm Lễ seima cúng Peali để bày tỏ lòng biết ơn đối với vị thần này.
43
Ở đây, chúng tôi chỉ liệt kê và phân tích vài thành phần của một số ít đồ cúng
tiêu biểu:
1. Rean Tevoda
Thông thường Rean Tevoda được cúng cho Tevoda vào lễ đăng quang Đức
Phật hoặc lễ Seima chùa. Nó có 9 cái, mà 8 thì được hướng về các hướng Đông, Tây,
Nam, Bắc; còn cái thứ 9 để tôn vinh Preah Yomareach (Diêm vương – Yama). Trên
mỗi Rean, người ta để 2 baysei pakchham, 5 đèn cầy, 5 cây nhang, 5 bông hoa, 5
kântông (giỏ bằng lá chuối) đựng gạo rang, 2 lọ nước thơm, 2 slathor thommada, 5
trái cau, 5 điếu thuốc, và vào buổi sáng thì người ta thêm một ít bánh. Khi cúng xong,
người ta lấy đi tất cả đồ cúng và phá hủy Rean. Không có văn bản cổ nào giải thích về
nguồn gốc của vật cúng này.
2. Chram
Được dựng lên vào một lễ hội khá quan trọng: cúng cho các vị sư vào giữa
ngày hoặc vào lúc các sư cầu nguyện ban đêm ở nhà riêng. Phải dựng 8 Chram ở 8
hướng. Trên mỗi Chram, người ta để 5 trái cau, 5 điếu thuốc, 2 Slathor Thommada.
Người ta cũng làm Rean và trên đó, để 2 Bay sei pakchham, 5 đèn cầy, 5 nhang, 5
bông, 5 giỏ gạo rang, 2 lọ nước thơm. Và nếu buổi sáng, thêm vài cái bánh.
3. Baysei Pakchham
Thông thường Baysei Pakchham được làm bởi 5 lá chuối cuốn lại và cắm vào
quanh thân cây chuối. Trên baysei đó, để 1 giỏ gạo rang được đậy lại bởi 1 nắp vung
hình chóp, trên nắp vung là 1 cây đèn cầy. Đồ cúng này dùng để cúng Tevoda hay
Krou với ý nghĩa tăng thêm sự huyền nhiệm của những câu bùa chú từ các vị này.
4. Baysei Ruot
Nó có thể có từ 3 đến 19 tầng. Nó được làm bởi thân cây chuối có lá cuốn lại
và ghim vào, được gọi là “baysei 19 tầng”. Người ta đặt trên baysei 1 giỏ gạo rang,
đậy lại giỏ là nắp hình chóp làm bằng lá chuối. Trên đó là cây đèn cầy. Người ta cúng
baysei khi các sư cầu kinh. Để cúng Phật, người ta làm baysei 5 tầng. Baysei rất
thường được sử dụng.
5. Sla Thor Thommada
Nó được làm bằng lá chuối hoặc sống lá chuối hoặc xơ dừa. Nó được nâng lên
bởi 3 chân, có 3 lá trầu, 3 cây nhang, 1 trái cau cắm vào. Người ta sử dụng Sla thor để
cúng Tevoda, Arak và Krou pháp thuật. Sla thor cũng được dùng khá phổ biến.
44
6. Sla Thor Sot Mon
Nó được làm bởi cây chuối non có lá. Nó được nâng lên bởi 3 chân, có 5 đèn
cầy, 5 cây nhang, 5 trái cau và hoa cắm vào. Slathor Sot mon được cúng khi các sư
tụng niệm.
7. Sla Thor Kantuy Preus
Nó được làm bởi 1 khúc thân chuối và nâng lên bởi 3 chân. Người ta dùng nó
khi sư đến tụng niệm cho người sắp chết. Những người hiện diện phải mang đến phần
của họ: trầu, cau, đèn cày, nhang. Người ta cắm nó chung quanh Sla thor. Việc sử
dụng Sla thor là sự du nhập từ người Lào.
8. Sla Thor Dong
Được làm từ trái dừa vạt ngang ở phần đầu. Người ta cắm lên 3 cây nhang, 3 lá
trầu, 3 cau, 3 đèn cầy. Nó được dùng vào dịp lên chức của 1 vị sư hay cúng Phật, cúng
Krou.
9. Sla Thor Phka Dong
Trên mỗi Sla thor, người ta để lên 20 lá trầu, 30 trái cau lột vỏ và 2 đèn cầy.
Tất cả được cột nối tiếp lại bởi sợi chỉ, 1 đầu sợi chỉ đặt trong 1 cái chum, đính ở đầu
sợi chỉ là bông dừa cột lại với nhau cũng bằng chỉ. Xung quanh nó là một hàng trái
cau lột vỏ. Thông thường Sla thor này được gọi là phka sla. Nó được sử dụng vào dịp
cưới hỏi.
10. Sla Thor Cheung Thka
Nó được làm bằng trái dừa hay khúc thân chuối, trên đó đặt 3 lá trầu, 1 trái cau,
3 cây nhang, 1 đèn cầy. Sau đó người ta dựng 4 chrâm, ở trên đấy để 4 thau nước.
Người ta dùng nó khi có hỏa thiêu. Bốn người chịu trách nhiệm việc tắt lửa hay làm
bùng lửa lên, họ sẽ sử dụng 4 chậu nước để dập tắt củi, sau cùng họ vứt bỏ chậu lại
nơi hỏa thiêu.
11. Sla Chom
Được làm bởi 4 đoạn của thân chuối. Trên mỗi Sla chom người ta đặt lên 4 lá
trầu, 1 trái cau gói trong lá trầu. Còn có đèn cầy và 3 cây nhang. Dùng nó để cúng
thầy pháp hay Krou Arak.
12. Sla Chruh
Trong 1 cái chum và 1 chén, người ta để vào 8 lá trầu và 3 trái cau. Nó dùng để
cúng cho Krou Arak và Khmoch.
45
13. Sla Truoy
Có 2 loại Sla Truoy:
a. Được làm với 4 lá trầu và 1 trái cau gói trong lá chuối, 2 đầu được cài bởi 1
cọng tăm tre. Sử dụng nó khi người ta xin đi tu, hay khi có người bất tỉnh hoặc khi
mời dự đám cưới.
b. Được làm bởi 4 lá trầu, 4 lát cau, 2 đèn cầy, 9 cây nhang gói trong lá chuối
cuốn lại như hình chóp. Người ta đặt nó trong lòng 2 bàn tay đan vào nhau của người
chết.
14. Pê Reay
Để làm đồ cúng này, cần phải chuẩn bị:
Đầu tiên người ta kết những mảnh lá chuối lại, số miếng là bằng số tuổi người
bệnh, cạnh của Pê bằng chiều dài cánh tay trước của người bệnh. Pê được giữ bởi
thanh tre vót mỏng đan thành lưới, bên trên để 1 lá chuối hay nải chuối. Người ta
chuẩn bị 7 kântông đựng gạo đỏ (gạo trộn với đường mật), gạo đen (gạo trộn với tro)
và gạo trắng. 7 cây dù 5 tầng bằng bẹ cây chuối được trồng chung quanh Pê. Người ta
để một ít rau trong tất cả các kântông và 1 tượng nhỏ bằng tro hoặc bột tượng trưng
cho người bệnh được đặt nằm trên Pê có hình dáng như quan tài. Nó được bọc trong
miếng vải lấy từ quần áo rách của người bệnh. Người ta đặt một tung chei (mảnh phù
hiệu biểu hiện sự chiến thắng) trên Pê.
Đồ cúng này mang ý nghĩa giúp bảo vệ người bệnh khỏi gặp điều xấu.
15. Pê Ruot
Pê Ruot có bề dày từ 3 cho đến 19 tầng. Pê 3 chiều dày được làm bằng mảnh lá
chuối dài phơi khô giữ chặt bởi 4 cây tăm tre. Thêm vào đó gạo trắng, cá, thịt, 3 cây
nhang và 1 đèn cầy đang đốt. Pê dùng để cúng ma quỷ, chằn... và vong hồn lang
thang.
16. Pê Chêng
Có hình tam giác, nó được làm bằng miếng lá chuối dài xếp lại và cột bằng sợi
làm bằng lá cây. Đáy của nó được bao bởi lá chuối, trên đó có để gạo trắng hay gạo
đỏ, cá và thịt. 3 cây nhang và 1 đèn cầy được đặt trên miệng Pê. Đồ cúng này được sử
dụng khi có trẻ con bệnh.
17. Pê Hum
46
Đoàn múa mặt nạ gồm Khỉ, Chằn, bà mẹ Pìn Pụi (nam hóa trang nữ), vị tướng cưỡi ngựa và các sư sãi
Ảnh chụp: Phương Hoàng Lan
Người ta xé phần sống của lá chuối ra làm ba để làm khung sườn. Bao quanh
nó bằng bẹ thân cây chuối để tạo thành thân cây. Bên trên của Pê, người ta đặt
kântông có đựng trong đó gạo trắng, gạo đỏ, cá và thịt. Trên đó người ta cắm 3 nhang
và 1 đèn cầy. Người ta cúng Pê Hum cho Preay và Arak. Pê Hum cũng rất thường
được cúng.
18. Pê Preah Phum
Người ta cắt tỉa lá chuối để làm một Pê vuông có 7 bề dày. 4 Pê Chêng được
đặt ở 4 góc của cái Pê lớn. Ở giữa để 7 kântông (giỏ), trong mỗi giỏ đựng bánh gạo
rang, hoa, 4 chom mà 2 cái thì có cắm lá trầu còn 2 cái thì cắm lá thốt nốt cắt ra, 1 cây
nhang. Cúng Pê hum, người Khmer mong có được sự bảo vệ của Preah phum.
Lễ vật cúng của người Khmer Nam Bộ rất thường liên quan đến số 5.
Người ta làm những baysei 5 tầng, 7 tầng... và trên mỗi tầng có những nhóm gồm 5
nhánh, hoặc những đồ cúng khác như 5 cây nhang, 5 nhánh bông, 5 lá trầu... Số 5 ở
đây được cư dân Khmer giải thích hết sức thú vị. Số 5, chính là biểu hiện tượng trưng
cho 5 ngón tay trên bàn tay của con người. Con người được nhân lành hay quả ác đều
từ chính bản thân họ tạo thành, là do bàn tay con người tạo ra nghiệp.
2.2.2. Những nghi lễ tiêu biểu
Qua kết quả
khảo sát thực địa và
phỏng vấn cư dân
Khmer tại địa bàn
tỉnh Trà Vinh,
chúng tôi ghi nhận
một số lễ hội có sự
góp mặt của hình
tượng chằn, gồm:
Lễ Chol Chnam
Thmay, Lễ Kathan
Nah Tean và Lễ Ok
Om Bok. Đây là ba lễ
hội quan trọng và lớn nhất trong năm của người Khmer. Trong những dịp này thường
47
thấy nhóm người mang mặt nạ giả trang làm chằn, khỉ, bà mẹ Pìn Pụi, vị tướng cưỡi
ngựa đi cùng đoàn rước vừa múa vừa la nhằm diễn tả niềm tin của cư dân Khmer vào
Phật pháp. Họ tin rằng cái thiện luôn chiến thắng và chế ngự được điều ác.
2.2.2.1. Lễ Chol Chnam Thmay (Lễ vào năm mới)
Lễ vào năm mới còn gọi là “Lễ chịu tuổi”, cũng là ngày Tết của người Khmer
Nam Bộ.
“Chol” tính theo sự vận chuyển của Mặt Trăng và đánh dấu việc thay đổi 12
con thú tượng trưng của 12 con giáp trong một kỳ.
“Chnam” tính theo sự vận chuyển của Mặt Trời và đánh dấu bước đầu năm
mới.
“Thmay” có nghĩa là mới mẻ.
Thời gian diễn ra Chol Chnam Thmay là khoảng giữa tháng 4 Dương lịch, đây
cũng là thời gian cư dân Khmer hoàn tất việc gặt hái, mọi người được rỗi rảnh hơn.
Tết Chol Chnam Thmay ngày xưa được các Hora ấn định, và lễ được cử hành trong 3
ngày (năm nhuận thì trong ngày), thường là vào ngày 13, 14, 15/4 Dương lịch, còn
năm nhuận thì rơi vào 14, 15, 16, 17/4 Dương lịch. Ngày đầu tiên của năm mới gọi là
Châul Sangkran Thmay, ngày giữa gọi là Vonbât (năm nhuận thì có 2 ngày Vonbât)
và ngày cuối cùng gọi là ngày Lơng Sak. Giữ gìn đúng theo tập quán nghìn xưa,
người Khmer ăn Tết luôn luôn được tổ chức ở những ngôi chùa thờ Phật và nhờ
những quyển Đại Lịch (Maha Sangkran) để bói xem năm mới tốt hay xấu. Điều này là
do tin vào huyền thoại Bà la môn về vị thần Bốn Mặt thua trí hoàng tử Thommabal
mà chúng tôi đã có dịp đề cập ở phần trên.
Người Khmer cũng lấy hình tượng 12 con giáp như người Việt để tính năm.
Trong bộ tử vi, con giáp của người Khmer cũng có Chằn. Theo tục lệ, khi sang năm
mới người Khmer thường rước cúng và vẽ con giáp mới. Mỗi con giáp đều có 1 người
cưỡi lên. Có khi là Tiên, khi là Chằn, khi là người ta. Mỗi vị đều cỡi thú, ăn mặc và sử
dụng khí giới khác nhau. Các nhà tiên tri, bói toán, thiên văn sẽ dựa vào những điều
ấy để luận ra điềm hung, khiết cho năm mới.
Chuột: Tiên mạng nam (hạng thấp)
Bò: Người mạng nam (hạng thấp: nông dân) (không có tuổi Trâu)
Cọp: Chằn mạng nam (hạng thấp)
Thỏ: Người mạng nữ (hạng cao) (không có tuổi Mèo)
48
Chằn và Khỉ Hanuman đang giao chiếnẢnh chụp: Phương Hoàng Lan
Chằn trong đám rước Maha SangkranẢnh chụp: Phương Hoàng Lan
Rồng: Tiên mạng nam (hạng cao)
Rắn: Người mạng nam (hạng trung)
Ngựa: Tiên mạng nữ (hạng thấp)
Dê: Tiên mạng nữ (hạng cao)
Khỉ: Chằn mạng nam (hạng thấp)
Gà: Chằn mạng nam (hạng thấp)
Chó: Chằn mạng nữ (hạng cao)
Heo: Người mạng nữ (hạng cao)
Trong bộ con giáp này, thì:
Chó, gà, khỉ, cọp: Chằn ngồi trên lưng.
Chuột, rồng, dê, ngựa: Tiên ngồi trên lưng.
Còn lại là người ngồi trên lưng.
Đón năm mới cũng như các dân tộc khác, cư dân Khmer trang hoàng nhà cửa,
giao thừa, nhiều gia đình sẽ vào chùa cùng các sư tụng kinh, thắp hương đưa tiễn
Tevoda cũ và đón mừng Tevoda mới. Người Khmer tin rằng Tevoda là vị tiên được
trời sai xuống để chăm lo cho dân chúng, hết một năm thì lại đưa vị khác xuống thay
thế.
Lễ vào năm mới được tiến hành như sau:
Ngày thứ nhất, vào khoảng gần cuối chiều, đồng bào Khmer tắm gội rồi mang
theo nhang đèn, lễ vật vào chùa để làm lễ rước Maha Sangkran mới. Dưới sự điều
khiển của một Acha, mọi người đứng xếp hàng và đi vòng chánh điện 3 vòng để làm
lễ chào năm mới. Sau khi làm lễ ở chùa, đoàn rước Sangkran sẽ đi vào trong các ấp.
49
Đi đầu đoàn người có dàn nhạc đánh nhịp cho nhóm người mang mặt nạ các nhân vật
gồm có Chằn, Khỉ, một phụ nữ (gọi là bà mẹ Pìn Pụi), một vị tướng cưỡi trên một con
ngựa. Họ vừa đi vừa múa, nhân vật Chằn làm những động tác hung dữ, phá phách, hù
dọa trẻ nhỏ, đến nhà người dân phá làm họ sợ hãi... Sau đấy, Khỉ sẽ đi tới đánh Chằn,
ngăn không cho phá nữa; Bà mẹ Pìn Pụi và vị tướng đi theo sau nhưng tác động
không đáng kể, họ đóng vai trò can ngăn, làm giảm đi sự quyết liệt nếu thấy Chằn và
Khỉ bất phân thắng bại. Thế rồi, các vị sư sãi sẽ đến từng nhà, đọc kinh ban phước
lành cho tất cả nhà nhà người người trong ấp, xua đuổi Chằn. Hình tượng chằn ở đây
mang ý nghĩa xua đuổi những điều xấu, điều ác trong năm cũ để đón mừng một năm
mới an lành và hạnh phúc. Sau lễ rước Maha Sangkran, mọi người sẽ tập trung vào
chùa lễ Phật và nghe nhà sư thuyết pháp.
Ngày thứ hai, mọi người làm lễ dâng cơm sớm cho các sư. Chiều ngày hôm ấy
sẽ tụ tập tại chùa cùng nhau đắp núi cát. Người dân cùng các vị sư đắp cát thành
những ngọn núi nhỏ ở tám hướng và làm rào bằng tre hoặc cây bao quanh núi cát.
Những ngọn núi này tượng trưng cho vũ trụ và ngọn núi thứ 9 ở giữa tượng trưng cho
trung tâm của trái đất, núi Sômêru. Sau đó, mọi người sẽ làm lễ quy y cho núi. Đây là
những tập tục bắt nguồn từ một truyền thuyết đã có lâu đời5.
Ngày thứ ba, còn gọi là ngày Lơngsak: đây là ngày tiến hành lễ tắm tượng
Phật, sau khi đem cơm dâng cho các vị sư người Khmer đem nước có ướp hương
thơm và nhang đèn đến đền thờ Phật và làm lễ tắm tượng Phật, sau đó là tắm cho các
sư sãi cao niên. Xong lễ tại chùa, các vị sư được mời đến các tháp đựng hài cốt để làm
lễ cầu siêu cho người quá khứ. Tiếp theo đó họ tiếp tục tắm cho các tượng Phật ở nhà
rồi đến cho ông bà, cha mẹ để bày tỏ lòng biết ơn công dưỡng dục sinh thành. Đến
đêm họ cúng bái Tevoda mới và và tổ chức các cuộc vui chơi cho đến khuya mới
chấm dứt. Sau 3 ngày lễ chính không khí tết vẫn chưa kết thúc, các sóc vẫn còn kéo
dài thậm chí cả tuần lễ.
2.2.2.2. Lễ Ok Om Bok (Lễ cúng trăng hay Lễ đút cốm dẹp)
5 Sự tích kể lại rằng một người từ trẻ đến già làm nghề săn bắn nên đã giết nhiều muông thú, nhưng ông được một nhà sư hướng dẫn tích phước bằng cách đắp núi cát trong một ngôi chùa gần nơi ông ở. Về già ông đau yếu luôn, ông bị ám ảnh bởi bầy muông thú bao quanh ông hành hung đòi nợ oan nghiệt. Do tích phước đức đã từng đắp núi cát nên ông tỉnh táo bảo bọn muông thú cứ đếm hết số cát mà ông đã đắp thành núi rồi hãy đến đòi nợ ông. Bọn thú đồng ý, hè nhau đi đếm nhưng không thể nào đếm hết. Chán nản chúng kéo nhau đi và người thợ săn cũng lành bệnh. Từ đó ông cố gắng tích đức làm việc thiện cho đến khi chết được lên thiên đàng. Do tích truyện này mà người Khmer vẫn giữ tục đắp núi cát đến ngày hôm nay.
50
Hàng năm, cứ đến ngày rằm tháng 10 Âm lịch (tương đương với ngày rằm
tháng 12 theo Phật lịch Khmer), đồng bào Khmer tổ chức Lễ cúng trăng. Lễ vật cúng
chủ yếu, không thể thiếu được là cốm dẹp vì thế mà lễ cúng trăng còn được gọi là “Ok
Om Bok” tức là Lễ đút cốm dẹp.
Người Khmer là cư dân nông nghiệp, làm ruộng theo hai mùa trong năm. Mùa
mưa được tính từ 16/4 đến 15/10 âm lịch, mùa khô được tính từ 16/10 đến 15/4 Âm
lịch. Vì thế 15/10 là ngày cuối cùng của mùa hạ và cũng là thời gian thu hoạch hoa
màu các loại, trong đó có lúa nếp là sớm nhất. Người ta đã lấy lúa nếp giã thành cốm
dẹp cùng các hoa màu khác để cúng trăng. Họ coi mặt trăng là biểu tượng của ẩm ướt,
của âm tính, của mùa mưa. Do đó, lễ Ok Om Bok mang ý nghĩa lễ tống tiễn mùa mưa
để chào đón mặt trời, đón mùa khô. Lễ cũng nhằm tạ ơn thần trăng đã cho mùa màng
tốt tươi, sông ngòi nhiều tôm cá, người người được khoẻ mạnh, nhà nhà yên vui. Vào
những ngày này, các gia đình Khmer trong phum sóc đều tụ tập trước sân nhà chờ đón
trăng lên. Thanh niên nam nữ rủ nhau đi xem lễ hội và tâm sự, tỏ tình. Người Khmer
còn có ý niệm tôn thờ trăng – đem đến niềm hy vọng, niềm mơ ước về một cuộc sống
ấm no, hạnh phúc.
Trước khi trăng lên, mọi người đa số tập trung tại khuôn viên chùa, tại từng
nhà hay tập trung đến một nơi rộng rãi không có bóng cây che khuất để chuẩn bị đón
trăng. Người ta đào lỗ, cắm hai cây trúc, có trụ bốn bên đầy đủ, một cây ngang làm đà,
tạo hình dáng như một cái cổng. Xung quanh cổng được trang trí hoa lá, dưới cổng có
một cái bàn.
Khi mặt trăng nhú lên khỏi ngọn tre, người ta mang các lễ vật như cốm dẹp,
dừa, chuối, khoai lang, khoai mì, khoai môn, trái cây và bánh kẹo bày ra mâm cúng.
Các sản phẩm nông nghiệp này mang ý nghĩa mừng cơm mới vào ngày trăng sáng.
Mọi người quây quần ngồi hướng về phía mặt trăng, trăng lên cao tỏa sáng, người ta
đốt nhanh nến, rót trà và mời một vị Acha làm chủ lễ. Vị Acha khấn vái, nói lên lòng
biết ơn của con người đối với mặt trăng, xin thần tiếp nhận những lễ vật do bà con
dâng cúng và ban phước cho con người, làm cho mưa thuận gió hòa. Trước đây, căn
cứ vào những giọt sáp rơi xuống chiếc lá chuối được đặt bên dưới mà người ta đoán
năm tới mưa nhiều hay ít. Lời khấn của người chủ lễ cứ rầm rì, rồi sau những nghi
thức cúng lễ, theo tập quán, người lớn tuổi thường kể lại cho con cháu nghe tiền kiếp
51
Chằn múa trong lễ hội Ok Om BokẢnh chụp: Phương Hoàng Lan
của đức Phật đã một lần hóa thân làm con thỏ để tế sinh, nay hình thỏ còn in dấu trên
mặt trăng6.
Cúng lễ xong, ông bà gọi từng đứa cháu lên đút cốm dẹp và một ít đồ cúng
khác vào đầy miệng các bé, rồi đấm vào lưng hỏi: “Các con muốn gì?”. Những câu trả
lời dù là tiếng cười hay chỉ là một tiếng “muốn…”, thì đó cũng là niềm vui của người
lớn. Cuối cùng, là tục thả đèn gió và đèn nổi trên các kênh rạch, các dòng sông.
Quang cảnh không gian đêm bao la, rộng lớn, mọi người nhìn ngắm những chiếc đèn
gió cứ bay lên mãi, những chiếc đèn nổi lập lờ, thì thầm gởi lời khấn nguyện mong
mọi sự an lành đến cõi vô cùng…
Lễ Ok
Om
6 Đây là sự tích “Con thỏ và Mặt trăng”: Trong một tiền kiếp của đức Phật Thích Ca, có lần ngài là một con thỏ sống quanh quẩn bên bờ sông Hằng. Thỏ kết bạn với Khỉ, Rái và con Chó rừng. Thỏ hiểu biết hơn 3 con kia, biết tham thiền để cầu mong được gần các đấng cao cả. Ngày tháng qua, một hôm trước ngày trăng tròn, Thỏ nói với các bạn rằng “Trước kia chúng ta cùng hứa rằng đến ngày trăng tròn thì nhịn đói để ngồi thiền, giữ thân thể sạch sẽ và lòng không được bợn nhơ. Nay tôi xin nhắc các bạn sáng sớm mai nhớ tìm thức ăn như mọi ngày để dành cho những người ăn xin”. Cả ba vui vẻ nhận lời rồi cùng chia tay. Sáng sớm, cả ba cùng chia nhau đi kiếm mồi, Rái đem về 5 con cá, Chó rừng đem về một vò sữa, một hũ mỡ nhỏ, một gói cơm, còn Khỉ thì bẻ vài trái xoài chín. Cả ba cùng ngồi một chỗ tham thiền, riêng Thỏ không đi đâu cả mà chỉ ngồi nhập định trước cửa hang. Ý định tốt đẹp của các con vật làm động lòng trời. Thần Sakah, chúa tể của các Têvada bèn giả làm người ăn xin xuống thử lòng các con vật. Thần đến chỗ Rái ngồi xin ăn. Rái mời người ăn xin dùng cá, người ăn xin cảm ơn và nói chờ tôi tắm rửa sạch sẽ rồi sẽ dùng. Người ăn xin đến chỗ Chó rừng và Khỉ thì cũng được mời ăn và ông cũng nói như nói với Rái. Cuối cùng ông đến chỗ Thỏ, Thỏ nói “Xin người chờ tôi đốt lửa và dâng người một món ăn ngon lành”. Nói xong, Thỏ đốt lửa, khi ngọn lửa cháy to, Thỏ nhảy vào và nói “Mời người dùng thịt này”. Nhưng khi nhày vào lửa, Thỏ không thấy nóng mà lại bị gió lạnh, bèn nhảy ra bỏ thêm củi và đốt cho cháy to lên. Lúc ấy người ăn xin biến mất, thần Sakah hiện ra và khen ngợi nghĩa cử của Thỏ. Ông nói: “Đối với tấm lòng hy sinh cao đẹp của Thỏ, ta phải để cho đời noi gương”. Thần biến thân mình cao lớn đụng tới mây xanh, đưa tay vịn vào núi và vẽ hình Thỏ lên mặt trăng. Trước khi về trời, thần nhắc lại: “Ta muốn thế gian này đời đời kiếp kiếp thấy hình Thỏ trên mặt trăng để nhớ mãi sự hy sinh này”.
Do đó mà cư dân Khmer cúng Ok Om bok cũng là bày tỏ và đề cao nghĩa cử hy sinh của Thỏ - một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca.
52
Chuẩn bị thả đèn gióẢnh chụp: Phương Hoàng Lan
Cư dân Khmer tiến về chùa chuẩn bịLễ dâng y cà sa
Ảnh chụp: Phương Hoàng Lan
Bok là nghi lễ có tính chất nông nghiệp rất rõ nét. Việc đút cốm dẹp và trái cây vào
miệng trẻ thể hiện ước mong năm tới mùa màng bội thu đời sống no đủ. Tục thả đèn
nổi là nghi lễ nhằm xua đuổi bóng tối, sự ẩm ướt, mùa mưa.
Nói đến Ok Om Bok là nói đến hội đua ghe ngo. Đây là vết tích của tục thờ cá
sấu, thờ rắn nước, các thuỷ thần. Với ảnh hưởng sâu đậm của đạo Phật, đồng bào
Khmer Nam Bộ giải thích các cuộc đua ghe ngo là nhằm để ghi nhớ một chiếc răng
của đức Phật ở Thủy cung – nơi ở của các loài rắn nước Naga. Chiếc ghe ngo có chiều
dài khoảng 24 – 26 mét, ngang 1,2 mét, có thể chứa từ 50 – 60 người. Ghe ngo là một
loại thuyền độc mộc lớn, làm bằng gỗ tốt, thường là gỗ sao. Mũi và lái đều cong, được
trang trí sặc sỡ với các mô típ đầu rồng, đầu neak (tức naga – rắn), hình voi, sư tử…
Hội đua ghe Ngo lớn nhất hàng năm tổ chức tại Sóc Trăng.
Đêm trước hội đua ghe ngo, còn diễn ra các trò dân gian như thả đèn gió, đèn
nước, đấu võ, kéo co và tổ chức văn nghệ: hát dù kê, múa lăm thôn… Trong những
ngày này, cũng sẽ có đoàn Chằn và khỉ đi múa khắp nơi phục vụ cho bà con trong
làng. Với hình thức tương tự như trên, diễn tả sự xung đột giữa hai thế lực thiện (khỉ)
và ác (chằn). Cuối cùng, cái thiện luôn chiến thắng và tiêu diệt cái ác.
2.2.2.3. Lễ Kathan Nah Tean (Lễ dâng y cà sa)
Là một lễ hội tôn giáo lớn của người Khmer để dâng áo cà sa cho các nhà sư
trong chùa. Lễ này do Đức Phật lập ra, vì xưa kia có một vài môn đệ sau ngày xuất hạ
đi đặt bát (trì bình) trên những con đường lầy lội hoặc phải băng qua nhiều khu rừng
rậm gai góc âm u, vì thế áo cà sa bị lấm bùn và rách nát. Từ đó mà Đức Phật chấp
nhận cho các tăng sĩ nhận áo cà sa
mới, sạch do tín đồ dâng cúng (theo
nguyên tắc người tu hành phải tự
may lấy áo cà sa cho mình từ những
mảnh vải vụn nhặt được ngoài
đường).
Lễ dâng y cà sa có ý nghĩa
rất lớn đối với các Phật tử Khmer,
thông qua đó phước đức của con
người sẽ được tích tụ rất lớn, gấp
trăm ngàn lần so với những việc làm
53
từ thiện khác. Dù cuộc sống còn chật vật đến đâu, mỗi Phật tử cũng cố gắng dành dụm
tiền bạc của cải, vật lễ để được làm lễ “dâng y” nếu không nhiều thì chí ít cũng phải là
một lần trong đời mình.
Với tính chất và ý nghĩa lớn lao như vậy mà lễ Kathan nah tean được tiến hành
trong khoảng gần một tháng kể từ ngày “xuất hạ” 16/9 cho đến 15/10 Âm lịch. Phật tử
sẽ chọn một trong số 29 ngày đó để làm lễ “dâng y” cho các nhà sư trong chùa thuộc
khu vực mình. Tuy nhiên mỗi chùa chỉ được làm lễ này một lần trong năm.
Theo tập tục, buổi lễ sẽ diễn ra trong một ngày một đêm. Cư dân trong phạm vi
ảnh hưởng của chùa được làm lễ này, sẽ tuỳ theo điều kiện vật chất mà chung góp
nhau lại thành nhóm do một gia đình làm chủ lễ. Gia đình chủ trì cũng thay đổi theo
từng năm, nhưng phải khá giả để đứng ra sắm lễ, đãi cơm tiếp khách. Ngoài áo cà sa,
phật tử dâng cả bình bát, mùng, chiếu, bát đĩa, bánh trái và những vật dụng cần thiết
khác. Ở mỗi phum có một người đứng ra quyên góp tiền bạc để kết thành những bông
hoa rất đẹp dâng lên chùa, nhằm góp phần gây dựng ngôi chùa của phum sóc mình
ngày càng khang trang lộng lẫy hơn.
Các đoàn Rôbăm cũng
thường có mặt trong ngày này.
Các diễn viên múa là lực lượng
hộ tống những cây bông được dân
chúng rước từ nhà vào chùa. Họ
cũng đeo mặt nạ, hóa trang, cầm
vũ khí... Hình tượng Chằn ở đây
mang ý nghĩa là ma quỷ cản trở
tín đồ đến chùa dâng lễ vật cúng
dường Tam Bảo, nhưng không thể
ngăn cản được sự thành tâm của
mọi người.
Ngoài ra, trước kia, khi gia đình có người đi tu thì trên đường lúc vào chùa làm
lễ có rất nhiều người thân, bà con, gia đình mang lễ vật đi theo sau. Khi ấy, có dàn
ngũ âm đánh nhịp đi trước, và có cả nhóm người mang mặt nạ giả làm Chằn, Khỉ, bà
mẹ Pìn Pụi vừa đi vừa nhảy múa. Chằn cầm gậy đánh với Khỉ và cản đường đoàn
người vào chùa hành lễ. Đó là hình ảnh tượng trưng cho đám quân chằn Mara
54
Họ nhà Chằn giao chiến với Khỉ Hanuman và Chằn tu (mặt nạ vẽ màu vàng)Ảnh chụp: Phương Hoàng Lan
(mar) khi cản trở Đức Phật Thích Ca đi tu. Ngày nay, hoạt động này gần như
không còn thấy nữa, gia đình cho người đi tu vào chùa làm lễ rất ít khi đi bộ mà
thường di chuyển bằng xe.
2.2.2.4. Lễ cúng Tổ
Bên cạnh những lễ hội nêu trên, trong đời sống người Khmer còn rất nhiều
những tín ngưỡng, lễ nghi khác. Tín ngưỡng gắn liền với tâm thức nông nghiệp và tư
tưởng Phật giáo. Đặc biệt, qua lễ cúng Tổ của các đoàn biểu diễn nghệ thuật truyền
thống, chúng ta có thể nhận thấy khá rõ nét vai trò của các nhân vật: chằn, khỉ, hoàng
tử… Ở phần trên chúng tôi đã có dịp đề cập đến hình tượng chằn trong đời sống cư
dân Khmer Nam Bộ. Tuy nhiên, cũng cần xác định hình tượng này ngày nay hầu như
chỉ còn hiện diện đậm nét nhất qua nghệ thuật diễn xướng truyền thống Khmer mà
chủ yếu là sân khấu Rôbăm, thứ đến là sân khấu Dù kê.
2.2.2.4.1. Lễ cúng Tổ Rôbăm
Sân khấu Rôbăm là sân khấu diễn xướng và cũng là một sân khấu nghi lễ. Diễn
Rôbăm đáp ứng được những ước mơ, niềm tin của người dân. Như đã nói, người dân
Khmer rất tin vào nhân quả, bởi thế mà việc thờ cúng Tổ chính là cách thể hiện sự biết
ơn tổ tiên, những người thầy đã tạo dựng nên nền nghệ thuật sân khấu này. Người
Khmer quan niệm nếu không thờ cúng Tổ thì cũng giống như con cháu làm điều gì đó
mà quên đi ông bà, cha mẹ mình vậy.
Bất kỳ đoàn Rôbăm nào cũng đều thờ Tổ. Trong mùa diễn, trước khi đến
những địa phương khác, bầu đoàn Rôbăm tiến hành làm lễ cúng Tổ. Lễ này sẽ quy tụ
đầy đủ diễn viên và người thân thích, nhằm thắt chặt và củng cố niềm tin của mọi
người đối với nghề nghiệp và các vị tổ sư. Người Khmer tin rằng nghi lễ cúng Tổ là
cách thức giao lưu với thần linh. Họ báo cáo cho thần linh những công việc của mình,
từ đó, sẽ nhận được sự phù hộ và những phép màu của các vị thần khiến họ diễn thật
hay, thật khoẻ, thật có hồn.
Lễ cúng Tổ có thể nói là một nghi thức hết sức quan trọng và thiêng liêng đối
với các đoàn Rôbăm. Trước đây, nghi lễ này được thực hiện hết sức trang nghiêm và
phải đầy đủ các lễ vật. Ngày nay các đoàn Rôbăm cũng tinh giảm đi vài lễ thức phức
tạp nhưng không vì thế mà giảm đi phần trang trọng và thành kính.
55
Qua phỏng vấn, chúng tôi được biết trước khi đi lưu diễn, đoàn Rôbăm chuẩn
bị những lễ vật sau để cúng Tổ. Tuy nhiên, tùy theo từng bầu đoàn, từng địa phương
mà lễ vật cũng có phần khác biệt đôi chút.
Bàn thờ cúng Tổ theo lời ông Thạch Chun, biên đạo chính của đoàn Rôbăm xã
(ấp Giồng Lức, xã Đa Lộc, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh), gồm:
2 hột gà
1 con gà luộc
1 nải chuối xiêm
2 cây sla thor
1 chén gạo có cắm cây đèn cầy và bỏ bạc cắc vô
vải trắng 5 hak (1 hak = 1 cùm tay (từ cùi chỏ đến lòng bàn tay); 5 hak là
khoảng 2m)
cốm nổ bằng lúa nếp gói vào giấy 4 túi
1 chai xá xị rượu bịt đầu bằng giấy đỏ
1 chai xá xị nước bịt đầu bằng giấy đỏ
1 bó nhang
1 đèn dầu nhỏ
Trong suốt quá trình cúng Tổ và cả khi diễn tuồng không được để nhang tàn.
Trước khi diễn, vị trưởng đoàn sẽ tụ họp diễn viên trong đoàn lại trước bàn cúng Tổ
và đọc bài cúng, hát Tổ có nội dung mời những vị Tổ về phù hộ cho Đoàn.
Tại Sóc Trăng, Đoàn Rôbăm duy nhất còn lại trong tỉnh do ông Lâm Phương
chịu trách nhiệm chính thì cúng Tổ lại gồm những vật lễ sau:
Đầu heo luộc
Gà luộc
Vải trắng 5 hak
Vải đỏ 5 hak
Bánh ngọt
Cốm nổ
Chom neak ta (Sla thor)
Sala chrom: 2 cái (bên 5 tầng, bên 7 tầng)
(Sala chorm được làm giống như một hình nón gồm thân cây chuối được trang
trí với lá trầu và trái cau)
56
Bay sei 5 tầng
Gạo rảy phép
Rượu
Trà
Huyết tươi
Trái cây
Nhang
Đèn cầy
Bạc cắc 4 miếng để trên gạo có cắm đèn cầy
Trứng gà
Khi xuống ấp diễn, các đoàn Rôbăm tiếp tục cúng Tổ như trên nhưng lễ vật
không có đầu heo luộc và vải đỏ. Ngoài ra, họ còn cúng xin phép ông Tà tại địa
phương đó và cứ mỗi đêm diễn phải cúng cho Tổ một quả trứng tươi.
Sau khi mọi người đã tề tựu đông đủ, trưởng đoàn sẽ thắp nhang khấn vái và
làm lễ. Sau đó hát bài gọi Tổ về. Trong bài hát cúng Tổ, thường nhắc đến bốn nhân
vật mà người Khmer Nam Bộ rất kính sợ. Những vị thần linh này là vết tích của tín
ngưỡng Arak đã tồn tại và in dấu ấn sâu thẳm trong tâm thức người Khmer.
Prey pone (Vua quỷ): là quỷ rất dữ.
Chinh Teo Óc (Bà cô Óc – quỷ)
Chinh Teo Tây (Bà cô Tây – quỷ)
Cầne Tôn Khiêu (quỷ)
Nội dung của bài hát kêu tên các vị này, mời về dùng lễ vật và phù hộ cho con
cháu. Đoàn Rôbăm cầu xin các vị Tổ nhập hồn, nhập xác vào mắt, mặt, mũi, tay chân
để diễn viên diễn thật hay, thật có hồn khiến cho khán giả mê thích.
Sau khi làm lễ, vị trưởng đoàn sẽ lấy chén gạo rải khắp lên đạo cụ và các mặt
nạ với ý nghĩa tiếp nhận sự chứng nhận và phép màu từ các vị Tổ.
Một số đoàn Rôbăm còn dùng bùa ngải. Tình trạng này trước đây rất phổ biến,
các đoàn Rôbăm cạnh tranh giành khách có thể sử dụng bùa phép để thư lẫn nhau.
Như đoàn Rôbăm của ông Lâm Phương hiện nay vẫn dùng những lọ bùa phép này.
Ông Phương cho biết ông có 2 lọ bùa: Tần lạch s'nai (chứa phép): khi đọc phép xong
mở nắp ra sẽ thấy sôi lên; và Khuot ik (chứa ma quỷ). Thường khi lễ Tổ, ông dùng
chúng để bôi lên chân mày, lên tóc của diễn viên, vừa bôi vừa đọc thần chú để lôi
57
3 bà cô
cuốn khán giả. Đây cũng là một phương pháp tác động đến tinh thần của người diễn
giúp họ nhập thân vào vai diễn cho thật có hồn và không mệt mỏi. Đặc biệt, những
diễn viên diễn vai Chằn được chú ý bôi lên cả mặt nạ chằn. Trong buổi lễ cúng Tổ,
những mặt nạ chằn, khỉ, chim krut... được cắm một nén nhang và bôi bùa lên chân
mày cũng như quanh vòm miệng chỗ có nanh của chúng. Đây là một hiện tượng tâm
linh đặc biệt, ở đó chằn được ví như một hình tượng đại diện cho những thế lực thần
bí, nếu có gì sơ suất phạm vào thần linh thì chằn sẽ là người đại diện trừng phạt cư
dân Khmer. Do đó, những mặt nạ chằn rất được trân trọng. Sau khi cúng Tổ xong, cả
đoàn sẽ đồng thanh kêu to 3 lần “Yeak O” và rồi mở màn diễn.
Theo lời kể của bà Lâm Thị Sêm, 78 tuổi, nhà ở ấp Bưng Chông, xã Tài Văn,
huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, là nghệ nhân đoàn Rôbăm lúc trước, nay ở nhà làm
ruộng, chúng tôi ghi nhận về cách sử dụng bùa ngải của người Khmer Nam Bộ, hết
sức khó tin để chấp nhận. Tuy nhiên, đối chiếu với những ghi chép do Lê Hương ghi
lại ở quyển Người Việt gốc Miên thì đây là những chuyện có thật đã từng tồn tại trong
cộng đồng cư dân Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bà Sêm kể rằng các đoàn
Rôbăm xưa sử dụng nhiều loại bùa phép, nhưng linh nhất là các loại bùa được làm
như sau:
1. Lấy đầu lâu của người con gái còn trinh trắng. Lấy lén trong vòng 7 ngày khi
chôn xuống, trước khi lấy ra cúng trước mộ liên tục và mời Thầy cúng làm
phép. Sau đó, có đoàn để nguyên đầu lâu để cúng; có đoàn đâm nghiền ra thành
bột và cho vào hũ có dầu dừa (keo, sáp…); có đoàn thì nấu đi nấu lại cho thành
cao và cho vào hũ có dầu dừa (hay một loại chất dính sệt sệt nào đó). Sau đó,
trước mỗi đêm diễn sẽ thoa chất này lên mặt, chân mày, nanh (của Chằn), quần
áo (của diễn viên) để diễn cho có hồn, cho hay và không biết mệt. Có đoàn còn
thoa lên ghế, lên rạp sân khấu, lên nhạc cụ... để làm khán giả mê thích mà rủ
nhau đi xem tuồng.
2. Còn linh thiêng hơn nữa là lấy đầu lâu người phụ nữ có thai nhưng bị chết (thai
còn trong bụng) và cũng làm theo cách thức như trên.
Những cách thức làm bùa phép như trên đã mất đi, các đoàn Rôbăm hiện nay
có dùng bùa bằng các loại dầu sáp đã được những ông thầy làm phép. Họ sử dụng chủ
yếu nhằm mục đích lôi kéo khán giả đi xem đoàn diễn cho đông đúc.
58
Nghiên cứu sâu hơn việc cúng Tổ, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt về nghi
lễ cúng giữa cộng đồng cư dân Khmer Nam Bộ và người Khmer ở Campuchia.
Ở Campuchia, các đoàn nghệ thuật thường tiến hành lễ cúng Tổ lớn nhất trong
năm là dịp Chol Chnam Thmay. Người Khmer cho rằng đây thời điểm tốt nhất trong
năm để làm lễ cúng Tổ và biểu diễn nhằm mục đích xua đuổi tà ma, điều xấu trong
năm cũ và đón điều lành, may mắn trong năm mới. Ở đây, xin hiểu là lần cúng Tổ lớn
nhất trong năm, còn khi đoàn lưu diễn đến đâu sẽ cúng Tổ trước khi diễn ở nơi đó nữa
nhưng hình thức nhỏ hơn lần này.
Ở Campuchia, những loại hình nghệ thuật này được gọi là Lakhol. Có khoảng
20 loại hình Lakhol còn tồn tại trên đất nước Campuchia. Trong đó, chỉ đó Lakhol
Bros (loại hình này khi diễn cũng đeo mặt nạ những diễn viên toàn nam, vai nữ như
công chúa cũng do nam đóng) là chọn ngày thứ 7 để tiến hành lễ cúng Tổ (lý do thì
ngày nay người ta không còn được biết đến nữa), còn đối với những loại hình Lakhol
khác thì cúng Tổ vào ngày thứ 5. Họ chọn ngày thứ 5 vì7:
Theo lời giải thích của nhà sư Chunnát: ngày thứ 5 (còn gọi là Ngày Prohok).
Mà theo đạo Rômmênh (đạo Bà la môn) thì Prohok là tên của một nhân vật
đứng đầu trong việc dùng bùa phép và trong văn học nghệ thuật và còn là thầy
(Krou) của tất cả các thần tiên (Tevada). Bắt nguồn là tiếng Phạn: Wahásatếk
chuyển thành tiếng Sankrit: Prohok.
Theo thiên văn học, Prohok là tên 1 vì sao, do đó các bậc tiền nhân gọi ngày
thứ 5 là ngày Prohok rìa chìa Krou (cũng có nghĩa là ngày tốt nhất). Cũng vì
thế mà cho đến ngày nay khi nhận đệ tử hoặc bái sư học nghề, người dân
Khmer đều chọn ngày thứ 5. Ngay cả những gia đình người Khmer Nam Bộ
hiểu biết về lễ nghi thì khi tổ chức đám cưới, đám nói, học nghề… đều có
khuynh hướng chọn ngày thứ 5 vì họ tin rằng chọn ngày này sẽ đem lại may
mắn, học hành thì mau thuộc, tinh thông…
Còn bên mảng nghệ thuật Rôbăm, do xuất phát điểm chịu ảnh hưởng lâu đời
của đạo Bà la môn (Rômmênh) nên việc chọn ngày thứ 5 để cúng Tổ là đương nhiên.
Trong ngày cúng Tổ thì bắt buộc phải cúng trước 12 giờ sáng, có nghĩa là trước giờ
các sư dùng bữa trưa.
7 Theo Pich Tum Kravel, r)aM v (Khmer Dances), PhnomPenh, 2001.
59
Lễ cúng Tổ này sẽ gồm tất cả các diễn viên Rôbăm. Đại đa số diễn viên là
những người nông dân ở nông thôn, rất bận rộn với công việc đồng áng do đó mà việc
sắp sếp chuẩn bị cho lễ cúng Tổ thường do những người lớn tuổi lo liệu từ việc xếp
làm Sla thor Bay sei cho đến những việc khác nữa và chỉ chuẩn bị trong 1 ngày. Bàn
thờ cúng, đồ cúng thì người ta chia làm 2 bên: 1 bên dành cho bái Tổ; và 1 bên dùng
cúng cho bên Thần linh gồm Arak, Neaktà (giữ đình miếu, hay ở gốc cây…), Pằng pọt
(giữ 1 cây hay một góc đường, 1 khúc cua quẹo nào đó…), Tevada (giữ trên cây),
Baramây (người có bùa phép)… và những thần có tên gọi và chỗ ở khác nhau trong
phum sóc hay xung quanh phum và xung quanh chùa.
Trong một ngôi miếu hoặc sảnh đường cúng Tổ, người ta bày 1 bàn thờ nhiều
tầng có phủ vải trắng. Tầng trên cùng thường để những vị tối cao như Preah Eysay
(Nereay – Vishnu), Preah Eyso (thần Shiva), Phật Thích Ca hoặc những vị thần thánh
khác nữa.
Bên tay phải của Lục tà Eysay người ta đặt mão, hoặc là mặt nạ của những
nhân vật trong Rôbăm (hay Khol) tượng trưng cho bên thiện, tốt đẹp, ví dụ như mão
sân thất, Preah bạt Koòngchár Liây lak, Bơ tum Komar - người trông nom phum sóc.
Xin thỉnh các vị ở trên tới nơi đây trông nom con cháu cho tai qua nạn khỏi, đi đường
không bị sợ hãi, đùng có gặp điều xấu, giúp cho con cháu được yên bình, gặp điều
may mắn. Hơn nữa, nếu con cháu ở đây làm điều gì sai không đúng lẽ đạo, luật trời thì
xin hãy rộng lòng tha thứ, giúp cho con cháu cầu gì được nấy, giúp cho con cháu được
lên Si than Sua (thiên đàng)9.
Chúng con quỳ gối cầu xin ngài Preah Phummi rìa chìa - người trông nom trần
gian này, xin tất cả đến đây nhanh và con cháu ở đây đã đợi sẵn, làm lễ cúng đến các
8 Theo quan niệm của người Khmer một tháng chia làm 2 tuần trăng: Tuần trăng sáng - Preah Kờợt (từ ngày 1 đến ngày 15) và tuần trăng tối - Rô nô ích (Từ ngày 16 đến ngày 30).9 Theo quan niệm người Khmer, thế giới quan chung có 3 tầng:- Sithan Sua: thiên đàng- Sithan Mờ nu lục: trần gian- Sithan Norok: địa ngục
62
ông vì chúng con muốn xin đất. Xin mời các ông hãy nhất thiết đến và dùng những lễ
dâng cúng, dù người đến trước hay đến sau. Nếu có điều gì sai sót mong quý vị bỏ qua
cho. Sau khi dùng xong hãy quay lại chúc tụng cho con cháu luôn luôn có sắc đẹp mãi
mãi. Chúng con e rằng nếu có làm điều gì sai trái, phạm những luật lệ của các vị pằng
pót chằng nà bọt (nông thôn) và các vị coi sóc trên cây cối (Ruk kar Tevada), xin tha
thứ cho con cháu cầu gì được nấy.
Kết thúc bài này bằng câu do người đến viếng lễ đọc lên “Sathú!sathú!sathúuuuu!”
(tương tự như Lành thay!)10.
Ông Mò đọc tiếng bằng tiếng Phạn
Namô tà sar péck kar wăng tồ arak hák tồ, săm mà săm bụt thăng sar (3 lần)
Bụt thăng a rạch tà nằng kar rô mí
Thom pằng a rạch tà nằng kar rô mí
Săng kăng a rạch tà nằng kar rô mí
Tuk tế dằm pế
Bụt thăng a rạch tà nằng kar rô mí
Thom pằng a rạch tà nằng kar rô mí
Săng kăng a rạch tà nằng kar rô mí
Ta tế dằm pế
Bụt thăng a rạch tà nằng kar rô mí
Thom pằng a rạch tà nằng kar rô mí
Săng kăng a rạch tà nằng kar rô mí
Xin mời (Ôkarsar - tiếng Phạn): xin thỉnh cầu Tiệp Nikor, Ămòkêk đang cư
ngụ ở trong phum sóc hoặc ở trên không gian (nak pìa lầy, t’ray niếk, wệt chìa m'kọt);
xin mời Preah Saray, ThạksaBaramây, Úp ba bọt baramây, Neak tà Bằng bọt ở trong
rừng núi; xin mời thầy lớn, thầy nhỏ; mời Sam puồn sok thom, quỷ 8 đầu (Phriay
Hora, và tất cả các ông mà không thể biết hết tên và không đếm hết được… Xin mời
10 Khi nhận được lời chúc của ai thì người Khmer nói chung (kể cả người Khmer đồng bằng sông Cửu Long và Khmer Campuchia) sẽ chắp tay lạy và nói “Sathúuuu…” (kéo dài giọng âm a). Câu này mang ý nghĩa tương tự với “Lành thay!”
63
đến đây dùng những lễ vật con cháu đang dâng cúng ở …(kể tên địa phương đang đến
diễn và sẽ đến), có đồ mặn, đồ ngọt, trái cây, xin dùng cho thỏa thích…
Xin mời: chúng con xin làm lễ mời các bậc thầy đầu tiên (Tổ sư - Krou Kùm
nơnl) - người đã khai sinh ra sự nghiệp này, xin mời thầy Sampho, thầy Niết, thầy
Sralay, thầy S'kồ (có nghĩa là thầy của các loại nhạc cụ trong Rôbăm)... xin lại chúc
phúc cho tất cả học trò ở đây. Xin mời dàn nhạc chơi bài Satukar.
1. Bài Satukar
Ôkarsar (xin mời): các ông Preah Krou Prum lại để chúc thành công (prasất11) cho lễ
11 Giải thích thêm từ "prasất": đối với người Khmer, sau khi học xong 1 nghề gì đó như đi học võ, học bùa phép… khi hoàn tất sẽ làm 1 lễ hoàn thành - Pithi Prasất. Lễ này chứng tỏ người học được người thầy dạy truyền cho hết cái tinh tuý, hết nghề mà không giấu giếm gì cả. Và sau đó, người học trò mới vận dụng được nghề. Ví dụ như: người đi học bùa cho dao chém không đứt, trong lúc học sẽ không dám thử; nhưng khi học xong và làm lễ, thầy thổi khí vào, truyền hết nghề và thử sẽ thấy hiệu nghiệm. Nếu không làm lễ này bùa phép học được cũng xem như không có!
64
Xin mời Ân t'rìa thì rìa êk và Dùm màriếk, Preah Chặn tồ lột karpan, Preah Pusnokar.
Mời các vị đến đây chúc tụng cho con cháu được thành công.
7. P'lêng Phúp phát
Xin mời các ông Pra ong (Preah) Arak tà na, Preah Pòrùm, Chinàrạt, Thinakthìkùnl,
atằng thalê ếp bòn mồng kunl thás lồ karlồlarlề.
Xin mời đến đây chúc phúc cho con cháu, cho con cháu chiến thắng được kẻ thù tứ
phương.
8. Đầm pọnl Kằn (kằn: cầm; Đầm pọnl: gậy)
Xin mời các ông Teprakrás có bùa phép linh thiêng ở ẩn khắp nơi trong rừng núi; mời
14 Kinh Jàyòntồ: lúc Đức Phật còn sống, trên con đường tu hành của Ngài gặp rất nhiều trở ngại do những kẻ phá hoại gây ra. Ngài đã đọc kinh này mà đắc đạo, vượt qua cám dỗ. Sau này, khi muốn chúc cho ai đó thành công trên đường đi và đường đời, không có trở ngại gì thì các vị sư đọc kinh này cầu phúc cho.
68
Tất cả chúng con xin cầu nguyện để tưởng nhớ các bậc thầy. Xin mời tất cả các thầy
xuống đây nơi sàn diễn này của chúng con và dùng những lễ vật mà chúng con đã bái
tế. Và sau khi dùng xong, xin mời các ngài về chỗ cũ.
33. P’lêng chợt chồi krou
Hoặc P’lêng K’re rom
Hoặc P’lêng chợt song
Hoặc P’lêng chốp krou thum
Sau khi hoàn tất lễ cúng Tổ, tối đó họ sẽ không diễn. Và đến sáng hôm sau,
những người lớn tuổi sẽ chuẩn bị Bay sei và lễ vật múa dâng Tam bảo. Đến chiều chủ
nhật đó, họ sẽ tụ tập và sẽ hát múa dâng Phật trong chánh điện chùa.
Lễ vật gồm:
Bay sei 5 tầng: 1 cặp
Pakchham: 1 cặp
Sla thor thường: 1 cặp
Nhang
Đèn cầy
Trầu cau
Thuốc hút
Bông cúng được đặt trước tượng Phật
Sau khi sắp xếp xong lễ vật, tất cả các diễn viên múa, những nhạc công cùng bà
con họ hàng của họ mới thắp nhang để tưởng nhớ Phật Thích Ca.
Sau khi xong lễ, nhạc cụ sẽ bắt đầu chơi và một vài diễn viên được thầy chọn
lựa sẽ chuẩn bị. Họ phải trang điểm sẵn tùy theo vai diễn và chuyên môn của mình.
Vai Neayrong: 2 hoặc 4 người (vai nam)
Vai Neang: 2 hoặc 4 người (vai nữ)
Vai Yak: 2 hoặc 4 người (vai chằn)
Vai Swar : 2 hoặc 4 người (vai khỉ)
Tất cả những người này sẽ lên diễn múa cúng Phật (Rom thoai Preah). Họ sẽ
múa cho đến hết chương trình lễ.
Sau lễ cúng Phật, đêm đó người ta sẽ múa diễn cho công chúng xem.
Thường diễn cho công chúng xem từ 3 đến 7 đêm tùy theo khả năng của nhóm
diễn. Sau đó là lễ bế mạc. Trong buổi lễ bế mạc, có mời mấy vị sư sãi đến tụng kinh
69
cầu siêu và dùng cơm. Người ta còn làm một cái thuyền bằng bẹ chuối thả trôi sông,
trên đó để gạo, cốm nổ, cơm nước, bánh, trầu cau, thuốc, cá, thịt và những đồ ngọt
cùng nhiều thứ khác. Họ quan niệm chiếc thuyền này sẽ đưa tiễn các thầy Tổ và
những người tháp tùng họ về đến chỗ ở bình an. (Pithi chùm đòm mờ Krou).
Như vậy, từ những nghi thức cúng Tổ tại Campuchia, chúng ta có thể nhận
thấy sự thích ứng với môi trường sống của cư dân Khmer Nam Bộ. Người Khmer
Nam Bộ giữ gìn nét văn hóa truyền thống nhưng cũng tiếp thu những yếu tố văn hóa
khu vực, nghi lễ cúng Tổ của cư dân Khmer Nam Bộ đã giản tiện đi nhiều nhưng vẫn
không mất đi sự linh thiêng và huyền nhiệm. Qua đó, một lần nữa chúng ta càng thấy
rõ tầm ảnh hưởng lớn của đạo Bàlamôn, mà về sau nó được đạo Phật tiếp thu. Dấu ấn
của đạo Bàlamôn đã khắc ghi mạnh mẽ vào nghệ thuật tôn giáo Khmer và đó cũng
chính là nguồn động viên hằng ngày trong đời sống của người dân.
2.2.2.4.2. Lễ cúng Tổ Dù kê
Dù kê khác với Rôbăm trước hết là ở nguồn gốc: Dù kê không xuất phát từ
cung đình mà nó được sản sinh bởi những người dân Khmer chân lấm tay bùn vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Đây là loại hình kết hợp giữa cải lương Nam Bộ, Hồ
Quảng Trung Quốc, ca múa nhạc… Các đoàn Dù kê ở Nam Bộ đi diễn bên
Campuchia thì được Vua Campuchia gọi là Lakhol Bassac (sân khấu vùng Nam Bộ
Bassac). Do thế mà ông Tổ Dù Kê cũng có phần khác hơn so với Rôbăm.
Qua phỏng vấn Bà Kim Thị Suông (sinh năm 1940), nghệ nhân Dù kê đoàn
Nghệ thuật Khmer Sóc Trăng, chúng tôi được biết ngày xưa khi đi diễn, đoàn Dù kê
xin phép ông Tà trước rồi cúng Tổ khai diễn.
Lễ vật khi đến xin phép ông Tà gồm:
1 trái dừa
1 con gà luộc
1 xị rượu
Cúng ông Tà xong thì cúng để diễn. Người ta bày lên bàn thờ những lễ vật
cúng. Bàn thờ được chia làm hai phần bằng nhau. Bên trái thờ cho Tổ, bên phải thờ
cho Phật. Lễ vật bên Tổ thì đồ mặn, bên Phật cúng đồ ngọt như bánh, trái cây, chè...
Lễ bên Tổ gồm:
1 con gà
70
2 trái dừa 2 bên
Cốm nổ, bên trong có 3 trứng gà
Huyết gà tươi
Bay sei 1 cặp (7 tầng)
1 đầu heo (nếu có thể mua được)
Thuốc hút
Sau khi chuẩn bị xong lễ, mọi người tụ tập lại, hát bài Tổ và mời vị Acha đọc
phép kinh.
Hiện nay, những đoàn Dù kê đang hoạt động trong tỉnh Sóc Trăng vẫn duy trì
lễ cúng Tổ. Tuy nhiên, lễ vật chỉ cần có con gà luộc và nhất thiết mỗi đêm diễn phải
bỏ lên bàn thờ Tổ quả trứng tươi.
Những diễn viên lần lượt thắp nhang khấn vái và được một vị trưởng đoàn xức
lên người thứ dầu thơm. Dầu thơm này họ vẫn mua ở chợ bình thường nhưng đã được
các vị thầy đọc bùa chú và làm phép. Việc xức dầu thơm cũng mang ý nghĩa truyền
phép màu cho diễn viên diễn hay và không mệt mỏi, cho khán giả thích thú.
Có thể nói rằng cần hiểu được ý nghĩa của Lễ cúng Tổ, mới thấy được hết
tầm ảnh hưởng của tôn giáo tín ngưỡng trong đời sống cư dân Khmer, nơi những thế
lực thần bí như chằn, yêu quỷ, thiên thần... có vai trò hết sức quan trọng.
Những nghi lễ trên là hiện thân của đạo Bàlamôn và đạo Phật mà người Khmer
luôn có niềm tin sâu thẳm. Nó bao gồm những đặc điểm hành động về tôn giáo và sự
tồn tại của đấng siêu nhiên, chúa trời, yêu quỷ, tổ sư...
2.3. Văn học dân gian
Văn học dân gian có vai trò rất quan trọng trong các thành tố văn hoá dân gian.
Nó không tác động vào cảm giác như các loại hình nghệ thuật dân gian khác mà nó
tác động gián tiếp bằng ngôn ngữ, diễn tả hiện thực cũng như thể hiện tâm tư của con
người. Tựu trung lại, thì văn học dân gian Khmer vùng Nam Bộ gồm hai khối chính:
văn xuôi và văn vần. Đối với đặc trưng của loại hình văn học dân gian thì tính chất
truyền miệng là chính, do thế mà nền văn học dân gian của cư dân Khmer Nam Bộ
cũng mang đặc tính này, được truyền miệng từ đời này sang đời khác qua phương
thức kể chuyện.
71
Trong các loại hình văn hoá dân gian, tục ngữ, thành ngữ, ca dao là loại hình
có mối quan hệ hữu cơ với lời ăn tiếng nói của nhân dân. Tục ngữ thành ngữ là những
câu nói ngắn gọn, có ý nghĩa hàm súc, do nhân dân lao động sáng tạo nên và lưu
truyền qua nhiều thế kỷ. Đây là một hình thức biểu hiện súc tích, giàu hình ảnh do đó
có tác dụng truyền cảm và thuyết phục mạnh mẽ, để nói lên tư tưởng của con người.
Nói chung, ngôn ngữ trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao là một thứ ngôn ngữ hiện thực,
sống động, gắn chặt với thực tiễn cuộc sống. Thành ngữ, tục ngữ, ca dao được hình
thành trong môi trường lao động nông nghiệp. Tuy vậy, hình tượng Chằn khá hiếm
trong kho tàng ca dao, thành ngữ, tục ngữ Khmer. Chúng tôi nhận thấy Chằn thường