Top Banner
Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Phương đình Đền Đô Bắc Ninh Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự (order) hoặc là những quy định thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển của Việt Nam với những quy tắc riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam . Nó được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam . Mục lục [ẩn ] 1 Hình ảnh ban đầu 2 Nét đặc trưng o 2.1 Mái nhà o 2.2 Cột o 2.3 Chạm khắc o 2.4 Thước tầm 3 Một số hình ảnh tham khảo và so sánh 4 Tên gọi các cấu kiện trong thức kiến trúc cổ Việt Nam o 4.1 Bộ phận trần thiết 5 Chú thích 6 Xem thêm 7 Liên kết ngoài Hình ảnh ban đầu[sửa | sửa mã nguồn ]
53

Chua viet

Jan 09, 2017

Download

Education

Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Chua viet

Quy thức kiến trúc cổ Việt NamBách khoa toàn thư mở Wikipedia

Phương đình Đền Đô ởBắc Ninh

Quy thức kiến trúc cổ Việt Nam là một trật tự (order) hoặc là những quy định thống nhất về kích thước, các tương quan tỷ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc theo phong cách cổ điển của Việt Nam với những quy tắc riêng biệt và điển hình đã được người Việt sử dụng trong lịch sử Việt Nam. Nó được đánh giá là thể hiện tài hoa, tri thức và truyền thống trong kiến trúc cổ Việt Nam.

Mục lục

  [ẩn] 

1 Hình ảnh ban đầu

2 Nét đặc trưng

o 2.1 Mái nhà

o 2.2 Cột

o 2.3 Chạm khắc

o 2.4 Thước tầm

3 Một số hình ảnh tham khảo và so sánh

4 Tên gọi các cấu kiện trong thức kiến trúc cổ Việt Nam

o 4.1 Bộ phận trần thiết

5 Chú thích

6 Xem thêm

7 Liên kết ngoài

Hình ảnh ban đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Page 2: Chua viet

Đình Chợ Vân, một công trình tiêu biểu theo quy thức Việt Nam cổ truyền

Kiến trúc cổ Việt Nam còn lại không nhiều và không phải là những công trình tiêu biểu nhất. Tinh hoa của kiến trúc cổ Việt Nam đã bị chôn vùi sau các cuộc tàn phá triệt hạ văn hóa phương Nam của Trung Hoa và quy luật thời gian (đa số những công trình cổ còn hiện hữu, có niên đại từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn). Người ta hiện còn biết rất ít (và cũng nhiều điều người ta chưa biết gì) về kiến trúc các cung điện thời Lý-Trần, được xem là thời kỳ văn minh nhất của Đại Việt và được sử sách khen ngợi là trước đó chưa hề có, sánh ngang cùng Trung Hoa phương Bắc. Những nền đất còn lại của các ngôi chùa thời kỳ này như chùa Phật Tích, chùa Dâu... có thể chứng minh được những lời này. Tuy vậy, những gì còn lại trên tại Việt Nam ngày nay cũng để người ta biết cách thức xây dựng trong dân gian và những quy định trong cấu tạo kiến trúc thời xưa, được gọi là "thức kiến trúc cổ Việt Nam".

Khi nói về kiến trúc cổ Việt Nam, nhiều người lầm tưởng nó là sao bản của kiến trúc Trung Hoa. Nhưng thật ra kiến trúc cổ truyền Việt Nam khác nhiều so với hệ kiến trúc Trung Hoa và Nhật Bản, nhất là về phần cấu tạo mái cong. Hai nước Hoa và Nhật này khá tương đồng nhau vì dùng phương pháp "chồng đấu tiếp rui" trong khi Việt Nam dùng "tàu đao lá mái" để cấu tạo mái cong. [1]

Kiến trúc cổ Việt Nam cũng lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình, tương phản với kiến trúc chuộng dùng gạch hay đá của nhiều vùng khác trên thế giới.

Nét đặc trưng[sửa | sửa mã nguồn]

Thức kiến trúc cổ Việt Nam: dốc mái thẳng, khi xuống gần diềm mái hiên thì dùng bảy

Page 3: Chua viet

Vì kèo truyền thống với câu đầu nối hai cột cái (hình trên), chồng rường xếp trên xà nách (giữa), và chi tiết chạm khắc

(dưới)

Góc tầu đao mái chùa Hoa Yên trên núiYên Tử

Có 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam làm ta phân biệt trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông:

Dốc mái thẳng Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới

Nếu so sánh với thức kiến trúc cổ Trung Quốc sẽ thấy được sự khác nhau:

Dốc mái võng xuống Đỡ mái hiên bằng hệ đấu-củng (còn gọi là "con sơn chồng đấu" hoặc "chồng đấu tiếp rui") Cột thanh mảnh, tròn đều

Page 4: Chua viet

Mái nhà[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu đao quật ở góc mái, gắn thêm con náp và hàng gạch hoa chanh dọc bờ guột,chùa Dận, Bắc Ninh

Chùa Hộ, tòa nhà hai mái lộ hồi với trang trí bờ nóc với con kìm, chùa Keo, Thái Bình

Triền mái của kiến trúc cổ Việt Nam thẳng, không cong, nhưng hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi thuyền của nền văn hóa sông nước. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình, nhất là đối với mái đình. Góc mái tức "tàu đao" làm cong uốn ngược, còn được gọi là đao quật. Trong khi đó kiến trúc Trung Hoa hay Nhật Bản tuy cũng mái cong chỉ hơi hếch ở góc mái còn thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoải dần khi xuống diềm mái. Ngói lợp mái truyền thống Việt Nam là ngói mũi hài còn gọi là ngói vẩy rồng trong khi ngói lợp Trung Hoa là ngói âm dương hay ngói ống.

Trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao, trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện tinh thần ngôi nhà, được làm từ đất nung hanh vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đỉnh mái gắn con kìm ở hai đầu bờ nóc, con sô ở chỗ bờ quyết (bờ guột), con náp, hay lạc long thủy quái. Khu đĩ thường để trống thông thoáng và có chạm yếm trang trí gọi là vỉ ruồi.

Đỡ mái hiên bằng kẻ, hay bảy, một thanh chéo đỡ mái hiên vươn ra bằng nguyên tắc đòn bảy rất hay. Không dùng hệ đấu-củng rất nhiều chi tiết như Trung Hoa.

Cột[sửa | sửa mã nguồn]

Cột là phần đỡ chính của công trình, toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn và to mập, phình ở giữa. Tiết diện của cột thường là cột thân trònnhưng cũng có khi dùng cột vuông.

Page 5: Chua viet

Sức nặng công trình được đặt lên cột, cột đặt lên các đế chân cột chứ không chôn xuống nền và chính sức nặng của công trình làm công trình ổn định và vững vàng.

Căn nhà được xây dựng theo các vì nhà, sau đó các vì được dựng lên và nối với nhau bằng các xà ngang và xà ngưỡng tạo thành một hình hộp, sau đố là lợp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là "gian". Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiển trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ, tuy rất trung thành với thức kiến trúc cổ Việt Nam.

Chạm khắc[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam chạm trổ là phần rất quan trọng, nó thể hiện tinh thần công trình. So với kiến trúc Trung Hoa thích vẽ hình và sơn màu sặc sỡ, kiến trúc cổ Việt Nam thường để mộc màu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có màu nâu, thích chạm trổ.

Thước tầm[sửa | sửa mã nguồn]

Thước Tầm

Trong thức kiến trúc cổ Việt Nam, tất cả các kích thước tính của công trình đều dựa theo "thước tầm", một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ. Đây là một điều độc đáo, theo cách phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm là modulor của kiến trúc cổ Việt Nam như modulor của kiến trúc Hy Lạp, tạo ra vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái với phần chân cột, sự thích hợp với người gia chủ.

Một số hình ảnh tham khảo và so sánh[sửa | sửa mã nguồn]

Chi tiết dáng cột chuẩn

 

Page 6: Chua viet

Phối cảnh góc bộ khung Đình Bảng

 

Kiến trúc cổ điển Trung Hoa. Lưu ý mái Trung Hoa mái võng xuống không dùng bảy

Tên gọi các cấu kiện trong thức kiến trúc cổ Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Tên gọi các cấu kiện bộ vì nhà và hệ mái

Page 7: Chua viet

Chạm khắc trên kẻ bảy, đình Thổ Tang,Vĩnh Phúc

Khung nhà phân không gian nhà thành các gian nhà, thường có các bộ phận sau:

Cột là kết cấu đứng chịu nén, thường có các loại cột:

Cột cái: cột chính của nhà đặt ở hai đầu nhịp chính tạo chiều sâu cho gian giữa. Nối hai cột

cái là câu đầu.

Cột quân hay cột con: cột phụ ngắn hơn cột cái, nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính.

Khác biệt chiều cao của cột cái và cột con tạo ra độ dốc của mái nhà. Xà nách nối cột con

với cột cái.

Cột hiên: nằm ở hiên nhà, phía trước, ngắn hơn cột con. Kẻ bảy nối cột con và cột hiên.

Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên kết các cột với nhau, gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để liên kết được cả cột cái và cột quân, gồm:

Xà lòng, tức câu đầu hay chếnh: liên kết các cột cái của khung;

Xà nách hay thuận: liên kết cột quân vào cột cái, trong khung.

Kẻ  là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng, thường có các loại kẻ sau:

Kẻ ngồi loại kẻ gác từ cột cái sang cột quân, trong khung;

Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên, trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài đâm

xuyên qua cột hiên để đỡ phần chân mái.

bảy  hay bảy hậu hoặc bảy hiên: là dầm nằm trong khung liên kết vào cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bảy. Đối với các công trình công cộng như đình làng, thường bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên, nên thường dùng bảy hiên.

Page 8: Chua viet

Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng, khoá các đầu trên của các cột cái trong khung (gác lên các cột cái).

Con rường hay chồng rường là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên càng ngắn. Ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu.

Con lợn còn gọi là rường bụng lợn: là con rường trên cùng, gối lên con rường bên dưới

qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn, và làm nhiệm vụ đỡ xà nóc (thượng lương). Bên dưới

rường bụng lợn (giữa hai trụ trốn) là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể

được thay bằng giá chiêng.

Rường cụt là loại rường nằm ở vì nách (giữa cột cái và cột quân), chúng nằm chồng trên xà

nách, chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái.

Các loại xà nằm ngoài khung gồm có:

Xà thượng liên kết đỉnh các cột cái; xà này song song với chiều dài của nhà. Xà hạ hay xà đại, liên kết các cột cái tại cao độ đỉnh cột quân, gần sát vị trí liên kết

xà lòng, xà nách vào cột cái. Xà này cũng chạy song song với chiều dài của nhà. Xà tử thượng (xà trên của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên

trên. Xà tử hạ (xà dưới của cột con): liên kết các cột quân của các khung ở bên dưới, tại

mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn. Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng cửa. Xà này đỡ hệ thống cửa bức

bàn. Xà hiên liên kết các cột hiên của các khung. Thượng lương, còn gọi là đòn dông hay Xà nóc đặt trên đỉnh mái.

Các kết cấu mái:

Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà.

Dui hay rui là các dầm phụ trung gian, đặt dọc theo chiều dốc mái (trực giao với hoành), gối lên hệ thống hoành.

Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui, song song với hoành, gối lên hệ dui. khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất, vừa đủ để lợp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành - dui - mè, nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màm và lợp ngói bên trên.

Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung, có tác dụng đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái, chống thấm dột và chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè.

Page 9: Chua viet

Ngói mũi hài hay còn gọi là ngói ta hay ngói vẩy rồng, bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng, lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa.

Các chi tiết kiến trúc khác:

Cửa bức bàn Con tiện Dạ tàu Đầu đao

Công trình hai mái, hai đầu hồi bít đốc,đình Kim Liên, Hà Nội

Công trình bốn mái: hai mái chính và hai mái chái ở hai đầu nhà

Căn nhà Việt cổ truyền có thể làm theo:

hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc, hay theo hình thức bốn mái, với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi

chái nhà gồm có một hàng cột quân (có thể thêm một hàng cột hiên), các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính.

hoặc hình thức 8 mái chồng diêm.

Truyền thống người Việt thường làm theo nhà theo cơ số lẻ:

phương đình 1 gian chính giữa, bốn xung quanh hệ cột quân đẳng hướng; nhà 3 gian; nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 trái; nhà 7 gian hay nhà 5 gian 2 trái;

Page 10: Chua viet

nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 trái.Bộ phận trần thiết[sửa | sửa mã nguồn]

Cửa và cửa sổ trong căn nhà cổ truyền là nơi không gian trong và ngoài tiếp giáp nhau. Nói chung thì cửa ra vào khá lớn, có khi không có cánh cửa mà để ngỏ, chỉ buông rèm hoặc có tấp liếp che. Nếu gắn cánh cửa thì có thể dùng "cửa bức bàn" bằng ván kín. Cầu kỳ hơn thì dùng cửa "thượng song hạ bản" tức là phía trên chấn song, phía dưới làm gỗ kín. Ngưỡng cửa khá cao, người ra vào phải giơ chân bước qua.

Cửa sổ thì tương đối nhỏ so với cửa ra vào.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

hùa Việt NamBách khoa toàn thư mở Wikipedia

Việt Nam hiện có 14.775 ngôi chùa, chiếm 36% tổng số di tích Việt Nam. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền

bá Phật giáo. Tuy nhiên, một số chùa Việt Nam ngoài thờ Phật còn thờ thần (điển hình là thờ các vị thiền

sư: Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Trần Nhân Tông và Lý Thần Tông), thờ tam giáo

(Phật – Lão – Khổng), thờ Trúc Lâm Tam tổ...[1]

Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ "chiền" (chữ Nôm: 廛 hoặc 纏)... Một số người cho rằng từ

"chiền" có thể có gốc từ cetiya của tiếng Pali hay caitya của tiếng Phạn, cả hai dùng để chỉ điện thờ Phật.

Chùa Trấn Quốc, Hà Nội

Chùa Giác Lâm, Tp. HCM

Page 11: Chua viet

Mục lục

  [ẩn] 

1 Khái quát

2 Phân loại theo cấu trúc

o 2.1 Chùa chữ Đinh

o 2.2 Chùa chữ Công

o 2.3 Chùa chữ Tam

o 2.4 Chùa kiểu Nội công ngoại quốc

3 Kiến trúc

o 3.1 Tam quan

o 3.2 Sân chùa

o 3.3 Bái đường

o 3.4 Chính điện

o 3.5 Hành lang

o 3.6 Hậu đường

4 Bài trí tượng thờ trong chùa

o 4.1 Tượng bày trong chính điện

o 4.2 Tượng bày trong bái đường

o 4.3 Tượng bày ở nhà hành lang

o 4.4 Tượng bày ở nhà tăng đường

5 Các pháp bảo trong chùa

o 5.1 Bát

o 5.2 Liên hoa

o 5.3 Chuông

o 5.4 Gương

6 Một số chùa tiêu biểu ở Việt Nam

7 Chú thích

8 Tham khảo

9 Liên kết ngoài

Khái quát[sửa | sửa mã nguồn]

Theo câu tục ngữ Việt Nam "đất vua, chùa làng", các ngôi chùa đa số là thuộc về cộng đồng làng xã. [2] Xây

chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Việc chọn đất xây chùa thường bị chi phối

Page 12: Chua viet

bởi quan niệm phong thủy. "Xây dựng chùa, phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống

không, hoặc có sông ngòi, ao hồ ôm bọc. Núi hổ (hay tay hổ) ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại,

hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long báu hoặc có hình rồng, phượng, quy, xà chầu bái. Đó là đất dương

cơ ái hổ (nền dương có tay hổ) vậy. Nước thì nên chảy quanh sang trái. Nếu đảo ky, thì mạch nước lại vào ở

phía trước. Trước mặt có minh đường hay không có đều được cả.

Các Chùa Việt Nam thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc như tre, tranh cho

đến gỗ, gạch, ngói... Nhưng người ta thường dành cho chùa những vật liệu tốt nhất có thể được. Vật liệu cũng

như tiền bạc dùng cho việc xây dựng chùa thường được quyên góp trong mọi tầng lớp dân cư, gọi là của

"công đức". Người ta tin là sẽ được hưởng phúc khi đem cúng vật liệu hay tiền bạc cho việc xây dựng chùa.

Trên những cột gỗ lim không bị mối mọt, một số chùa khắc rõ tên người đóng góp. Ngoài ra các tên này cũng

được ghi ở các bàn thờ bằng đá hoặc trên các đồ sành, sứ như bát hương, bình hoa, chân đèn... trong một

danh sách dài.

Ngày bắt đầu xây dựng chùa cũng như ngày khánh thành đều là những thời điểm có ý nghĩa trong đời sống

nhân dân làng quê Việt Nam. Thường có những nghi lễ đặc biệt trong những ngày này.

Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình mà là một quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp

xếp cạnh nhau hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí những ngôi nhà này mà người ta chia thành những

kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Hán có dạng gần với mặt

bằng kiến trúc chùa.

Phân loại theo cấu trúc[sửa | sửa mã nguồn]

Mặt bằng chùa chữ Đinh

Mặt bằng chùa chữ Công

Page 13: Chua viet

Mặt bằng chùa chữ Tam

Mặt bằng chùa chữ Quốc

Chùa chữ Đinh[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa chữ Đinh (亭), có nhà chính điện hay còn gọi là thượng điện, là nhà đặt các bàn thờ Phật, được nối

thẳng góc với nhà bái đường hay nhà tiền đường ở phía trước. Một số chùa tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa

Hà, chùa Bộc (Hà Nội); chùa Nhất Trụ, chùa Bích Động (Ninh Bình); chùa Trăm Gian (Hà Nội); chùa Dư

Hàng (Hải Phòng),...

Chùa chữ Công[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa chữ Công (宮) là chùa có 'nhà chính điện và nhà bái đường song song với nhau và được nối với nhau

bằng một ngôi nhà gọi là nhà thiêu hương, nơi sư làm lễ. Có nơi gọi gian nhà nối nhà bái đường với Phật điện

này là ống muống. Tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Cầu (Hội An); chùa Keo (Thái Bình),...[cần dẫn nguồn]

Chùa chữ Tam[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa chữ Tam (三) là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường được gọi là chùa Hạ, chùa Trung

và chùa Thượng. Chùa Kim Liên, chùa Tây Phươngở Hà Nội có dạng bố cục như thế này.

Chùa kiểu Nội công ngoại quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa kiểu Nội công ngoại quốc là kiểu chùa có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà

hậu đường (có thể là nhà tổ hay nhà tăng) ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà

Page 14: Chua viet

thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc khác ở giữa. Bố cục mặt bằng chùa có dạng phía

trong hình chữ Công (工), còn phía ngoài có khung bao quanh như chữ khẩu (口) hay như ở chữ Quốc (國).

Đây là các dạng bố cục của các công trình kiến trúc chính. Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác

như nhà tổ, là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã tịch, hoặc nhà tăng, nơi ở của các nhà sư và một số

kiến trúc khác như gác chuông, tháp và tam quan.

Chùa kiểu chữ Công (宮) là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên có một số ngoại lệ, tiêu biểu là chùa Một Cột ở Hà

Nội có hình dáng một bông sen nở trên mặt nước, hay ngôi chùa mới được xây cất như chùa Vĩnh Nghiêm có

hai tầng ở Thành phố Hồ Chí Minh mang trong mình cả những nét truyền thống Phật giáo và cả những thành

tựu của kiến trúc. Nhưng những ngoại lệ như vậy không nhiều.

Kiến trúc[sửa | sửa mã nguồn]

chùa Bái Đính, Ninh Bình

Kiến trúc chùa Việt Nam được xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và không

gian khác nhau, ở các phong cách kiến trúc địa phương. Chùa kiểu chữ Tam phổ biến hơn miền Nam hơn ở

miền Bắc. Chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản. Chùa của người Khmer xây theo kiến trúc

của Campuchia và Thái Lan - vốn ảnh hưởng văn hóa của đế chế Khmer. Chùa của người Hoa cũng có sắc

thái kiến trúc riêng.[3]

Tam quan[sửa | sửa mã nguồn]

Tam quan là bộ phận không thể thiếu trong thành phần chùa Việt Nam, là cổng vào chùa, thường là một ngôi

nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có hai tam quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của

Tam quan có thể dùng làm gác chuông.

Sân chùa[sửa | sửa mã nguồn]

Qua Tam quan là đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày đặt các chậu cảnh, hòn non bộ với

mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Diện tích của sân chùa phụ thuộc vào những điều

Page 15: Chua viet

kiện và đặc điểm riêng của từng chùa. Trong sân chùa, đôi khi có các ngọn tháp được xây dựng ở đây như

ở chùa Dâu,chùa Thiên Mụ.

Bái đường[sửa | sửa mã nguồn]

Từ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn gọi là tiền đường, nhà thiêu

hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà bái đường có thể đặt một số tượng,

bia đá ghi sự tích của ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánh nếu như ngoài cửa Tam quan không xây gác

chuông. Giữa bái đường là hương án, nơi thắp hương chính. Thông thường người đến lễ chùa thắp hương ở

đây. Số gian của bái đường tùy thuộc vào qui mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian.

Chính điện[sửa | sửa mã nguồn]

Qua nhà bái đường là chính điện. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng trống không rộng lắm, để cho

ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện là phần quan trọng nhất của ngôi chùa vì nơi đây bày những

pho tượng Phật chủ yếu của điện thờ Phật ở Việt Nam.

Hành lang[sửa | sửa mã nguồn]

Chạy song song với chính điện, nối chính điện với hậu đường là hai gian hành lang, tạo thành một nhà ba

gian.

Hậu đường[sửa | sửa mã nguồn]

Qua nhà chính điện, theo đường hành lang ta đến nhà tăng đường (còn gọi là nhà hậu đường), cũng còn gọi

là nhà tổ. Nhà hậu đường ở một số chùa trong miền nam Việt Nam liền sát sau nhà chính điện, ngay sau phía

bàn thờ Phật.

Trong thực tế, chùa có nhiều biến thể khác nhau. Ở một số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện

thờ Thần, đó là loại chùa tiền Phật hậu Thần phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Có chùa có gác chuông ở phía

trước, có chùa có gác chuông ở phía sau, có chùa gác chuông ở ngay trên cửa Tam quan, có chùa gác

chuông lại ở trên nhà tổ. Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt, như chùa Dâu ở tỉnh Bắc Ninh, chùa Phổ

Minh ở tỉnh Nam Định, nhưng một số chùa khác lại đặt các tháp ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng

như chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, chùa Bút Thápở Bắc Ninh, Chùa Bổ Đà ở tỉnh Bắc Giang...

Ngoài công trình chính, chùa Việt Nam thường có vườn cây, vườn hoa được trồng và chăm chút cẩn thận.

Nhiều chùa có cả giếng, ao, hồ sen...

Bài trí tượng thờ trong chùa[sửa | sửa mã nguồn]

Do lịch sử truyền nhập Phật giáo ở Việt Nam, phần lớn chùa Việt Nam là chùa Đại thừa. Do đó, ở nhà chính

điện cũng như các tòa nhà khác trong chùa, chúng ta thấy có nhiều tượng Phật, Bồ Tát cùng với các tượng

thuộc những hệ phái Phật giáo khác.

Page 16: Chua viet

Tượng bày trong chính điện[sửa | sửa mã nguồn]

Tượng Phật sơn son thếp vàng trong chùa (ảnh chụp tại chùa Trăm Gian, Hà Tây)

Chính điện bao giờ cũng là nơi trung tâm của sự thờ cúng trong chùa. Ở đây có nhiều lớp bàn thờ làm thành

bậc từ cao xuống thấp. Vị trí các tượng được thay đổi linh hoạt theo từng chùa. Có những chùa có rất nhiều

tượng như chùa Mía ở Hà Tây, có tới 278 pho tượng, chùa Trăm Gian ở Hà Tâycó 153 pho tượng... Các lớp

bàn thờ được sắp xếp theo nguyên tắc sau: lớp bàn thờ cao nhất ở sâu trên cùng giáp mái chùa, sau đó các

lớp bàn thờ đặt tượng cứ thấp dần, tiếp sau lớp bệ thờ cuối cùng bao giờ cũng là hương án. Nguyên tắc bài trí

khá uyển chuyển và linh hoạt đối với mỗi chùa. Tuy vậy, một số nét chung thường thấy như sau [cần dẫn nguồn]:

Tầng cao nhất của bàn thờ ở chính điện, sát vách, thường có 3 pho tượng gọi là "Tam thế Phật", tức

là các vị Phật của ba thời gian: quá khứ, hiện tại và vị lai. Một trong các Phật quá khứ là Phật A Di

Đà, Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mầu Ni, Phật tương lai sẽ là Bồ Tát Di Lặc (hiện tại đang thuyết

giảng ở nội cung trời Đâu Suất, sẽ hạ sinh trong vài triệu năm nữa, sau khi Phật pháp bị trôi vào lãng

quên). Ba tượng Tam thế có kích thước và hình dáng giống nhau, đỉnh đầu có gồ thịt nổi cao như búi

tóc, tóc xoắn ốc, tai dài, ngực có chữ vạn (+), mình có sắc hoàn kim sáng rực, mặt nguyệt. Ba pho

tượng Tam thế được đặt ngồi trên tòa sen.

Phía dưới ba pho tượng trên thường xếp ba pho tượng gọi là "Di Đà tam tôn" (còn gọi là "Tây phương

tam thánh") gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, tượng Bồ Tát Quán Thế Âm (tiếng Phạn: Avalokiteśvara) ở

bên trái và tượng Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên phải. Tượng Phật A Di Đà thường có kích thước lớn hơn các

tượng khác. Tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích cao 1,82 m, trong tư thế ngồi toạ thiền, không kể bệ và đài

sen; tượng này ở chùa Bần Yên Nhân (Hưng Yên) cao tới 2 m, không kể bệ và đài sen. Hai tượng còn lại

là hai vị thị giả giúp việc cứu thế cho Phật A Di Đà nên thường được tạc kiểu đứng chầu bên cạnh. Bộ "Di

Đà tam tôn" được đặt ở tầng thứ hai để tỏ ý là mặc dù các ngài ở cõi Cực lạc nhưng vẫn có duyên và gần

gũi với cõi Sa bà này, gần gũi với chúng sinh.

Dưới ba pho tượng "Di Đà tam tôn", đã nói bên trên, thường là tượng Phật Thích Ca Mầu Ni (còn gọi là

Thích ca giáo chủ) ngồi giữa với tượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở bên trái và tượng Bồ Tát Phổ Hiền ở

bên phải. Thích Ca ngồi trên tòa sen, còn Văn Thù và Phổ Hiền đứng trên tòa sen. Bộ ba tượng này thể

Page 17: Chua viet

hiện cảnh Phật Thích Ca Mầu Ni đang thuyết pháp. Có nhiều nơi, thay vào vị trí của Văn Thù và Phổ Hiền

là hai đệ tử của Thích Ca là Ca Diếp và A Nan Đà khi Phật Thích ca còn đang ở thế gian.

Ở lớp ban thờ thứ tư, chiếm vị trí ở giữa là tượng Cửu Long. Hai bên là tượng Đế Thích và Phạm Thiên.

Tượng Cửu Long diễn tả Phật Thích Ca Mầu Ni lúc mới sinh. Theo truyền thuyết, khi ngài mới giáng sinh,

có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm. Tắm xong, ngài tự đi được bảy bước về phía trước, tay

trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất mà nói "Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn" (trên trời, dưới

trời chỉ có một ta), xong ngài lại nằm xuống theo kiểu con trẻ. Đế Thích là vua chủ tể cõi trời dục giới, còn

Phạm Thiên là vua chủ tể cõi trời sắc giới. Vì là vua nên tượng các vị được tạc theo chân dung hoàng đế:

đội mũ miện, ngồi trên ngai.

Trên bàn thờ chính ở nhà thượng điện, ngoài tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, ở một số chùa còn có

tượng Phật Di Lặc. Tượng được tạo với bộ mặt tươi cười, áo phanh, để hở cái bụng to. Thường hai bên

tượng này, người ta còn đặt ở bên trái tượng Pháp hoa lâm Bồ Tát, bên phải là Đại diệu tướng Bồ Tát, gọi

chung là Di Lặc Tam Tôn. Ngoài ra, ở một số chùa, sau lớp tượng Cửu long, người ta còn bày bốn pho

tượng Tứ Thiên Vương. Đó là bốn vị Thiên Vương phân nhau cai quản bốn cõi ở bốn phía núi Tu-di, nơi ngự

trị của Đế Thích. Có chùa lại bày tượng Tứ Bồ Tát vào vị trí của Tứ Thiên Vương. Những chùa rộng rãi còn

bày thêm tượng tám vị Kim cương (Bát bộ Kim cương) ở hai bên sát chính điện, mỗi bên bốn vị, mặc giáp trụ

và cầm vũ khí.

Tượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay cũng thấy được bày bổ sung vào điện chính. Cần lưu ý là các tượng Đức

Quan thế âm có nhiều biến thể nhất trong các chùa ở Việt Nam[cần dẫn nguồn] và các biến thể này hầu hết lại được

diễn tả bằng hình tướng nữ: Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, Quan Âm Thị Kính. Cũng ở nhà chính

điện, ở hai bên dãy bàn thờ chư Phật có thể gặp lại tượng thờ Thái thượng Lão quân ở bên phải và Khổng

Tử ở bên trái. Đây là hai vị tổ của Đạo giáo và Nho giáo được thờ trong điện thờ Phật của các chùa để diễn tả

tư tưởng "Tam giáo đồng nguyên" của xã hội Việt Nam xưa.

Tượng bày trong bái đường[sửa | sửa mã nguồn]

Trong nhà tiền đường (gian bên cạnh của nhà bái đường) thường có hai tượng Hộ Pháp là những vị thần bảo

vệ Phật Pháp, mặc giáp trụ, cầm vũ khí, đứng hoặc ngồi trên lưng sấu, một loại sư tử huyền thoại. Kích thước

của tượng rất lớn, đắp bằng đất thó. Dân gian vẫn nói "to như ông Hộ Pháp" là cách nói so sánh với hai tượng

này. Còn một số thuyết khác, đã thành phổ biến, cho rằng tượng vị bên trái là Khuyến thiện (gọi tắt là ông

Thiện), tượng vị bên phải là Trừng ác (gọi tắt là ông Ác). Theo thuyết này thì việc bày đối xứng hai tượng ông

Thiện-Ác nói lên sự tồn tại biện chứng của hai bản nguyên Thiện-Ác.

Ở phía Đông nhà bái đường có ban thờ tượng Thổ địa thần, có một số chùa đưa tượng này ra thờ riêng ở một

miếu bên cạnh chùa. Ở một số chùa, bên cạnh thờ Thổ địa thần ta gặp bàn thờLong thần. Theo truyền thuyết,

Long vương vốn lúc đầu định hãm hại Phật tổ, phá hoại sự nghiệp của Phật, không cho thành chính quả

nhưng đã không phá nổi nên đã quy Phật và hộ trì Phật pháp.

Page 18: Chua viet

Phía Tây nhà bái đường thường có pho tượng Thánh tăng. Tượng này được bày nhiều nhất ở nhà tăng

đường (nhà tổ). Ở nhà tổ, ngoài tượng các vị sư từng trụ trì ở chùa, còn có bàn thờ đặt tượng Bồ Đề Đạt Ma,

nhà sư Ấn Độ đến Trung Hoa vào khoảng đầu thế kỷ 6, được coi là người sáng lập Thiền Tông ở đó.

Ở nhà bái đường, đôi khi còn có các bàn thờ mười vị Diêm Vương, được gọi là thập điện Diêm Vương, tức

mười vị vua cai quản mười tầng địa ngục.

Tượng bày ở nhà hành lang[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà hành lang có thể là hai dãy nhà chạy song song ở hai bên nhà chính điện. Cũng có thể là hai dãy như vậy

mà chung mái với nhà điện chính và mang đúng nghĩa là hành lang, theo hai lối hành lang này có thể đi tiếp

vào hậu đường. Người ta thường bày tượng 18 vị La Hán, mỗi bên 9 tượng. Có chùa như chùa Keo ở Thái

Bình, các tượng La Hán được bày ngay ở tiền đường. Còn ở chùa Tây Phương, Hà Tây lại là các tượng Tổ

(trong 28 vị) người Ấn Độ mà Thiền tông Trung Quốc thừa nhận. Kích thước tượng La Hán tương tự như

người thực, các vị ngồi trên tảng đá hay gốc cây, mỗi vị có một tư thế riêng, có dáng đang duy nghĩ trầm mặc.

Sự đông đảo và đa dạng của các pho tượng này đã cho ra đời một thành ngữ "bày la liệt như La Hán". Cũng

có khi tượng La Hán được bày ở nhà hậu đường.

Tượng bày ở nhà tăng đường[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà tăng đường còn gọi là nhà hậu đường vì nằm sau chính điện, có thể được xây tách rời hoặc liền sát với

chính điện. Cách bố trí tượng thờ ở nhà hậu đường cũng khá đa dạng, nhưng có thể hình dung một công thức

sau: Gian giữa của nhà tăng đường thường có bày tượng Thánh tăng (còn gọi là A-nan-đà) và tượng Đức tổ

Tây. Đức tổ Tây có pháp danh là Bồ-đề-đạt-ma. Ngài được coi là sư tổ thứ nhất của Thiền tông ở Trung Quốc.

Ở nhà hậu đường của một số chùa còn bày tượng Quan Âm tống tử và Quan Âm tọa sơn. Hai bên

tượng Quan Âm tống tử thường có hai tượng Kim đồng và Ngọc Nữ, hay hai tượng Thiện tàivà Long nữ.

Chùa Việt Nam còn có một điều đặc biệt đó là có các bàn thờ chư vị tức là các vị thánh của Đạo giáo và tín

ngưỡng dân gian. Đó là bàn thờ Mẫu, tức nữ thần mẹ. Có nhiều Mẫu như: Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu

Thoải, Mẫu Địa Phủ, Mẫu Liễu, Tứ pháp...

Trong một số chùa, đằng sau điện thờ Phật là hậu cung thờ một vị thần. Các vị thần được thờ đều là những

"nhân thần", có nghĩa là những con người được coi là có thực, nhưng về sau nhờ học tập, tu luyện, đã có tài

thần thông biến hóa, nghĩa là có những khả năng của một vị thần. Nhờ những khả năng đó, họ cứu dân giúp

nước và vì vậy, họ được nhân dân một vùng hay nhiều vùng thờ phụng.

Ngoài ra, các nhân vật lịch sử thực sự cũng được thờ tại chùa. Họ là những ông quan, những danh sĩ hay

những vị tướng đã có công với nước hay với nhân dân một vùng như Mạc Đĩnh Chi,trạng nguyên thời nhà

Trần được thờ ở chùa Dâu, Bắc Ninh hay Đặng Tiến Đông, vị tướng thời nhà Tây Sơn, được thờ ở chùa Trăm

Gian, Hà Tây. Trong các chùa này, thường có tượng chân dung các nhân vật lịch sử được thờ.

Page 19: Chua viet

Một hình thức thờ tự khác gắn với các chùa Việt Nam là thờ "hậu". Hình thức này có mối liên hệ với tập

tục thờ cúng tổ tiên đã hình thành lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người không có con muốn được thờ cúng sau khi

chết, đã tìm đến nhà chùa. Họ đóng góp cho chùa một số tiền hay ruộng đất và xin nhà chùa cúng lễ họ sau

khi chết. Sự thờ cúng này gọi là thờ "hậu". Trong nhiều chùa, bàn thờ "hậu" thường là một hành lang với

những bát hương, đặt trước những tấm bia đá, gọi là bia "hậu", trên đó có khắc rõ tên tuổi, quê quán của

những người không có con cháu nối dõi, thường là cả vợ và chồng, cùng với số tiền họ đóng vào chùa và yêu

cầu được thờ ở chùa. Ở chùa Cổ Lễ Nam Định, các bia hậu được gắn dày đặc trên tường hành lang bao

quanh chính diện.

Các pháp bảo trong chùa[sửa | sửa mã nguồn]

Bát[sửa | sửa mã nguồn]

Bát là một trong 6 vật dụng của nhà sư. Cái bát bắt nguồn từ truyền thuyết kể về chiếc bát khất thực. Ở các

tượng của Phật A-di-đà hay Thích Ca Mâu Ni có thể đôi khi bắt gặp cái bát trên hai tay.

Liên hoa[sửa | sửa mã nguồn]

Liên hoa (hay hoa sen) tượng trưng cho diệu pháp của đạo Phật, cùng một lúc có cả hoa và quả, sinh nở ra

nhiều điều tốt lành. Trong điêu khắc và hội họa Phật giáo, hoa sen thường xuyên được xuất hiện. Chư Phật,

Chư Bồ Tát đều ngồi trên tòa sen và những người được Phật độ về cõi Tây phương Cực lạc đều ngồi trên tòa

sen.

Chuông[sửa | sửa mã nguồn]

Ở mọi thời đại, chuông được dùng để thức tỉnh và gọi. Tiếng chuông ngân lên rồi tắt lụi, có thể nghe được mà

không bắt được. Sự vô thường của thế giới hiện hữu là một tư tưởng của Phật giáo. Mọi thứ đều sẽ tàn lụi,

chúng hiện hữu trong cảm giác người quan sát nhưng lại không có thực. Giống như tiếng chuông, mọi thứ đều

nhất thời. Theo nghi lễ Phật giáo, chuông được dùng để kêu gọi tín đồ cầu nguyện và lễ Phật. Có hai loại

chuông: chuông to dùng để treo trên gác Tam quan hay ở nhà Bái đường, có thể nặng tới vài trăm kg; loại

chuông thứ hai là chuông nhỏ hơn, tượng trưng, thường đặt ở tay một số vị thánh như Tứ đại Thiên Vương

hay Quan Âm nghìn mắt nghìn tay.

Gương[sửa | sửa mã nguồn]

Chiếc gương tượng trưng cho sự hư không và nó phản ánh tất cả mọi yếu tố của thế giới hiện hữu nhưng lại

thu lấy bản chất của chúng[cần dẫn nguồn]. Thế giới hiện tượng được phản chiếu đầy đủ nhưng toàn thể bản chất

chỉ là hư ảo, mọi sự chỉ là ý tưởng chủ quan mà người ta có vật ấy, Vì thế, gương diễn tả sự phù du của ảo

ảnh vật chất. Gương có thể được đặt trên tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay hay một vài pho tượng Tôn

giả.

Kiến trúc ngôi chùa Việt Nam ngày nay

Page 20: Chua viet

 I. TỔNG QUÁT VỀ KIẾN TRÚC NGÔI CHÙA VIỆT NAM

Việt Nam hiện nay có khoảng 14.500 ngôi tự viện Phật giáo trên khắp đất nước của ba Hệ phái chính là Bắc tông, Nam tông và Khất sĩ. Ở miền Bắc chỉ có ngôi chùa Phật giáo Bắc tông. Ở miền Trung (từ Quảng Trị trở vào) và miền Nam, ngoài ngôi chùa Phật giáo Bắc tông, còn có ngôi chùa Phật giáo Nam tông Việt, Nam tông Khmer và ngôi tịnh xá Phật giáo Khất sĩ.

Kiến trúc ngôi chùa Việt Nam rất đa dạng. Nhiều tác giả đã phân loại chùa và giới thiệu các kiểu kiến trúc của chùa Việt Nam như sau:

Các tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long trong sách Chùa Việt Nam (NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993) cho biết tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Trung Quốc có dạng gần với bình diện kiến trúc chùa. Đó là kiểu chữ Đinh, kiểu chữ Công, kiểu chữ Tam và kiểu chữ nội Công ngoại Quốc. Tên những kiểu chùa này chỉ dựa vào cụm kiến trúc chính. Trong chùa, còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ, nhà tăng, gác chuông, tháp, tam quan … Ngoài người Kinh, còn có chùa ở một số dân tộc thiểu số. Chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản. Chùa người Khmer được xây dựng đẹp, có bộ mái ảnh hưởng Campuchia và Thái Lan. Chùa người Hoa cũng có sắc thái kiến trúc riêng. Tính đa dạng của kiến trúc chùa Việt Nam càng tăng khi xuất hiện những ngôi chùa hiện đại được xây dựng gần đây.

Tác giả Trần Lâm Biền trong sách Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, tái bản lần 3 (NXB. Văn hóa dân tộc và tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2000) cho biết chùa Việt thường dàn trải theo mặt bằng với nhiều đơn nguyên kiến trúc. Chùa bao giờ cũng được dựng ở mảnh đất thu giữ được khí thiêng của trời đất: đất cao, tươi nhuận, có dòng chảy hoặc hồ ao trước mặt. Mặt chùa quay hướng Nam, đó là hướng bát nhã (trí tuệ), phát triển thiện tâm. Mở đầu cho ngôi chùa là tam quan. Qua tam quan, con đường Nhất chánh đạo dẫn vào thế giới Phật. Mở đầu hệ thống chùa chính là tòa tiền đường, nơi đây các Phật tử ngồi tụng kinh để rèn tâm kiến tính nhằm xây dựng lòng thiện theo con đường từ bi của đức Phật. Bàn thờ Phật nằm ở gian giữa chùa, gian này mở lùi về phía sau, tạo cho chùa chính có kết cấu hình chữ Công hay chữ Đinh. Do cửa chùa luôn rộng mở với mọi chúng sinh, nơi thờ không bao giờ bị che chắn, vì vậy nơi đây gọi là thượng điện. Bao quanh hai bên chùa nhiều khi còn có hai dãy hành lang và phía sau là nhà hậu. Tòa nhà hậu thường để thờ tổ chùa, thờ mẫu, thờ những người có công với chùa; đồng thời làm nơi ở cho chư tăng, nhà khách, nhà bếp … Ngoài ra, hầu như chùa nào cũng có tháp. Số lượng tầng gắn với cương vị thuộc kết quả tu hành trong Phật đạo.

Các tác giả Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hùng trong sách Chùa Hà Nội (NXB. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997) cho biết những ngôi chùa Việt Nam trong bốn mùa đều mang một vẻ đẹp kín đáo thầm lặng, lắng đọng sâu trong tâm hồn người hướng về điều thiện. Vẻ đẹp của ngôi chùa Việt Nam trước hết ở chỗ hài hoà với cảnh quan môi trường chung quanh. Chùa Việt Nam thường gắn bó với sông nước, hồ ao. Trước khi vào chùa lễ Phật, khách thường phải qua cổng tam quan. Qua tam quan, cõi tục và cõi trần

Page 21: Chua viet

như đã được phân chia. Bố cục mặt bằng của các ngôi chùa thường lấy sự cân xứng đăng đối làm phương tức chủ đạo. Các chùa thời Lý thường lấy sự đăng đối quy tụ về một điểm ở giữa. Chùa Một Cột là một điển hình. Các chùa được xây dựng từ thời Trần về sau thường được bố cục đăng đối theo một trục dài từ cổng tam quan vào đến nhà tổ phía sau cùng. Các nhà thường được xây dàn hàng ngang một dãy (dân quen gọi là chữ Nhất), hai hàng ngang (chữ Nhị), ba hàng ngang (chữ Tam). Có chùa được bố cục theo kiểu chữ Đinh (như chữ T), theo kiểu chữ Công (như chữ H nằm ngang), hoặc kiểu nội Công ngoại Quốc (bên trong là chữ H nằm ngang và bên ngoài gồm các nhà bao bọc tạo nên một hình vuông hay chữ nhật). Các chùa ở Nam Bộ thường được xây theo kiểu chữ Nhất. Quần thể kiến trúc chùa ngoài việc bao gồm những dãy nhà, còn có những kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao như các tháp, chuông và gác chuông, lầu khánh và các bia cùng nhà bia.

Tác giả Chu Quang Trứ trong sách Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam (NXB. Mỹ thuật, Hà Nội, 2001) cho biết ở những thế kỷ đầu Công nguyên thì giáo đường của Phật giáo mới chỉ là những am miếu mà nhà sư Khương Tăng Hội gọi là miếu đường hoặc tông miếu. Bước vào thời tự chủ, chùa tháp được xây dựng khắp nơi “chỗ nào có người ở tất có chùa tờ Phật”(bia chùa Thiên Phúc). Trong nước, chỗ nào “hễ có cảnh đẹp núi non thì đều xây dựng chùa chiền” (bia chùa Linh Xứng). Trong chùa thời Lý, tháp đóng vai trò chính, là cái đền Phật giáo. Những cây tháp phần lớn ở trên những quả núi đột khởi giữa đồng bằng, hoà nhập với các dãy nhà và cây cối chung quanh, tạo cả một tổng thể kiến trúc vừa vươn cao vừa trải rộng, thiêng liêng mà vững chãi. Một loạt chùa khác được xây dựng ở sườn đồi, trườn lên và trải ngang, hoà vào cảnh đẹp tự nhiên; cũng như chùa xây ở nơi bình địa, chiếm một diện tích khá rộng, bố cục đăng đối, gần với xóm làng, khang trang mà ấm cúng. Đến thế kỷ XVII, nhiều nhà quý tộc đã xuất tiền để mở chùa to lớn, gồm nhiều nếp nhà vòng trong vòng ngoài theo kiểu nội Công ngoại Quốc phát triển cả về chiều ngang và chiều dọc, gắn bó mật thiết với hồ ao và vườn cây, vườn cảnh tạo khối hình hoành tráng giữa thiên nhiên. Đến cuối thế kỷ XVIII, ngôi chùa với mặt bằng chữ Tam ra đời song được quây lại theo chữ Công, các nếp nhà đều chồng diêm với hai tầng mái và tám hoa đao. Kiến trúc Phật giáo là chùa tháp, nó gắn với làng xóm để giữ mối liên hệ mật thiết với dân làng, cả khi có sự bảo trợ của nhà nước hay của quý tộc, thì ngôi chùa vẫn là trung tâm văn hóa tôn giáo của địa phương. Ngôi chùa “đóng kín” ở nơi thờ nhưng lại “mở” với sự hòa quyện nội và ngoại thất, con người ở đây lúc nào cũng gần gũi thiên nhiên với một cuộc sống hướng thiện.

Tác giả Nguyễn Đăng Duy trong sách Phật giáo với văn hóa Việt Nam (NXB. Hà Nội, 1999) cho biết khá rõ về đặc điểm kiến trúc ngôi chùa ở từng miền qua các thời đại. Đó là sự hoàn thiện ngôi chùa nội Công ngoại Quốc vào thế kỷ XVII, kết quả đỉnh cao của truyền thống dựng chùa thờ Phật bằng kiến trúc gỗ của người Việt trên đất Bắc. Đó là sự xuất hiện ngôi chùa chữ Khẩu ở miền Trung. Mặt trước, tòa chánh điện thờ tiền Phật hậu tổ, hai dãy nhà hai bên là nhà khách, nhà tăng, dãy nhà hậu phía sau thờ các vong Phật tử. Tất cả bao quanh một sân có bể cạn, hòn non bộ, cây cảnh. Ở miền Nam, tác giả lại chia nhóm chùa kiến trúc gỗ, nhóm chùa kiến trúc gạch đá xi măng và nhóm chùa mang tính chất công viên Phật giáo. Tác giả cũng giới thiệu về kiến trúc ngôi chùa Khmer. Chánh điện thường hình chữ nhật, bố trí điện thờ theo chiều dọc của

Page 22: Chua viet

kiến trúc. Các ngôi chánh điện không những mở nhiều cửa sổ, mà bốn mặt bao giờ cũng tạo hành lang bao quanh cao, rộng, thoáng.

Qua ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu và với thực tế ngôi chùa ở nuớc ta hiện nay, chúng ta thấy rằng không có một kiểu mẫu nào cho ngôi chùa Việt Nam cả. Mỗi thời đại, ngôi chùa có một số đặc điểm kiến trúc riêng. Mỗi địa phương cũng tùy theo những điều kiện địa lý mà có kiểu kiến trúc chùa phù hợp. Ngày nay, các hệ phái Phật giáo cũng có những kiểu kiến trúc khác nhau.

Ở bài này, chúng tôi chọn một số ngôi chùa tiêu biểu của ba Hệ phái Phật giáo Bắc tông, Nam tông, Khất sĩ để giới thiệu những nét chung nhất trong kiến trúc ngôi chùa ở nước ta.

II. NHỮNG NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO BẮC TÔNG TIÊU BIỂU

Miền Bắc có chùa Hoa Yên, Yên Tử ở Quảng Ninh; chùa Phật Tích, chùa Pháp Vân (chùa Dâu), chùa Ninh Phúc (chùa Bút Tháp) ở Bắc Ninh; chùa Phổ Minh, chùa Thần Quang (chùa Cổ Lễ) ở Nam Định; chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang; chùa Diên Hựu, chùa Trấn Quốc, chùa Chiêu Thiền (chùa Láng), chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên ở Hà Nội; chùa Thiên Trù (Hương Sơn), chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), chùa Quảng Nghiêm (chùa Trăm Gian), chùa Sùng Nghiêm (chùa Mía), chùa Sùng Phúc (chùa Tây Phương), chùa Thành Đạo (chùa Đậu) ở Hà Tây; chùa Thần Quang (chùa Keo) ở Thái Bình; chùa Phúc Lâm (chùa Dư Hàng) ở Hải Phòng v.v…

Miền Trung có chùa Tịnh Quang ở Quảng Trị; chùa Thiên Mụ, chùa Báo Quốc, chùa Từ Đàm, chùa Thiền Tôn, chùa Từ Hiếu ở Thừa Thiên - Huế; chùa Pháp Lâm, chùa Linh Ứng ở Đà Nẵng; chùa Chúc Thánh ở Hội An, Quảng Nam; chùa Thiên Ấn ở Quảng Ngãi; chùa Thập Tháp Di Đà, chùa Long Khánh ở Bình Định; chùa Bảo Tịnh ở Phú Yên; chùa Long Sơn ở Nha Trang, Khánh Hòa; chùa Phật Quang, chùa Cổ Thạch (chùa Hang) ở Bình Thuận; chùa Khải Đoan ở Đắc Lắc; chùa Bửu Nghiêm ở Gia Lai; chùa Hồng Từ ở Kon Tum; chùa Linh Sơn, chùa Linh Phước, chùa Linh Phong, thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt, Lâm Đồng v.v…

Miền Nam có chùa Huê Nghiêm, chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên, chùa Phụng Sơn, chùa Ấn Quang, chùa Xá Lợi, chùa Quán Thế Âm, chùa Vĩnh Nghiêm, Bát Bửu Phật đài, chùa Viên Giác, thiền viện Vạn Hạnh ở thành phố Hồ Chí Minh; chùa Bửu Phong, chùa Đại Giác, chùa Chúc Thọ, thiền viện Thường Chiếu ở Đồng Nai; chùa Hội Khánh, chùa Châu Thới ở Bình Dương; chùa Vĩnh Tràng ở Tiền Giang; chùa Khánh Quang ở Cần Thơ; chùa Tây An ở Châu Đốc, An Giang; chùa Hải Sơn (chùa Hang), chùa Tam Bảo ở Hà Tiên, Kiên Giang; chùa Đại Tòng Lâm, Ni viện Thiện Hòa, chùa Linh Sơn Bửu Thiền, chùa Hải Vân, Niết Bàn tịnh xá, Thích Ca Phật đài ở Bà Rịa - Vũng Tàu; chùa Linh Sơn Tiên Thạch, núi Bà Đen, Tây Ninh v.v…

Có những ngôi chùa có lịch sử xây dựng hơn một ngàn năm (chùa Pháp Vân, chùa Trấn Quốc); có những ngôi chùa mới được xây dựng những năm gần đây (chùa Viên Giác, chùa Bửu Nghiêm).

Page 23: Chua viet

Có những ngôi chùa xây trên núi, trên đồi (chùa Hoa Yên, chùa Thiên Mụ, chùa Thiên Ấn, chùa Linh Sơn Bửu Thiền); có những ngôi chùa dựa vào hang đá làm nơi thờ Phật (chùa Cổ Thạch, chùa Hải Sơn). Có những ngôi chùa xây dựng ở miền cao (chùa Khải Đoan, thiền viện Trúc Lâm); có những ngôi chùa xây dựng ở hải đảo (chùa Sùng Hưng, đảo Phú Quốc) v.v…

Có những ngôi chùa dựng nhà trệt, kiến trúc gỗ kéo dài thành nhiều gian, nhiều lớp (chùa Keo, chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên); có những ngôi chùa xây dựng bằng vật liệu bền vững như gạch, đá, xi măng (chùa Quán Sứ, chùa Vĩnh Tràng, chùa Tây An). Có những ngôi chùa xây nhiều tầng lầu bằng bê tông cốt sắt (Chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Ấn Quang, chùa Vạn Phật, TP. Hồ Chí Minh); có những ngôi chùa mở rộng vườn cảnh, tạo nhiều tượng và cụm tượng Phật, Bồ tát lộ thiên (chùa Dư Hàng, chùa Long Sơn, chùa Bửu Phong, Thích Ca Phật đài).

Nét chung nhất trong kiến trúc ngôi chùa Phật giáo đi từ ngoài vào là: cổng chùa, sân chùa, tháp, gác chuông, nhà bia, vườn hoa, ngôi chánh điện, nhà thờ tổ, sân thiên tỉnh, nhà tăng, nhà khách, nhà trai, nhà giảng, Tuệ Tĩnh đường, nhà bếp, khu tháp mộ v.v…

Cổng chùa là ranh giới giữa cõi đời và cõi đạo. Có cổng có ba cửa gọi là tam quan (Tam quan hay tam quán được giải thích trong Phật học từ điển (Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, quyển III, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992) như sau: Tam quán là ba mối, ba chỗ quán tưởng). Có chùa xây tam quan hai tầng, tầng trên dùng làm gác chuông (chùa Mía, chùa Đậu), hoặc tầng trên thờ tượng Hộ Pháp (chùa Linh Sơn Đông Thuyền, chùa Linh Phong), thờ tượng Phật (chùa Phụng Sơn), thờ tuợng vị tăng (chùa Vĩnh Tràng) v.v…

Sau cổng chùa là trục chánh đạo dẫn vào sân chùa. Sân chùa trồng nhiều cây có bóng mát. Có chùa ở sân trước có hòn non bộ (chùa Diên Hựu, chùa Ấn Quang), có chùa ở sân trước có hồ sen (chùa Phổ Minh, chùa Từ Hiếu), hoặc hồ nước lớn (chùa Keo, Thái Bình).

1.  Không quán (quan): xét ra sự vật đều không có thật tánh, thật tướng, mọi pháp vốn không.

2. Giả quán (quan): xét rằng vạn vật, chư pháp đều biến hóa vô thường, đều là giả, tạm cả.

3. Trung quán (quan): phải quán cho đắc lẽ Trung đạo, không phải không, không phải giả. Đó là chỗ trọng yếu của đạo Phật.

Ở sân trước nhiều chùa có xây tháp thờ Phật (chùa Thiên Mụ), tháp chuông (chùa Xá Lợi), tháp vong (chùa Cổ Lễ); nhà bia (chùa Phổ Minh, chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu); tháp chuông và tháp trống (thiền viện Trúc Lâm, thiền viện Thường Chiếu); gác chuông (chùa Trăm Gian, chùa Bút Tháp) v.v…

Page 24: Chua viet

Cuối sân chùa là nhà bái đường hay tòa thượng điện. Muốn vào chùa thường phải bước lên một số bậc thềm. Nhiều chùa ở trên núi hoặc đồi cao, phải leo lên nhiều bậc cấp hoặc đi cáp treo (chùa Thiên Mụ, chùa Hoa Yên, chùa Linh Sơn Trường Thọ, chùa Linh Sơn Tiên Thạch). Hành lang tiền đường là nơi có nhiều mảng chạm khắc ở đầu kèo, vì kèo, như bức chạm gỗ Đường Tăng đi thỉnh kinhở chùa Bối Khê, đầu rồng ở chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên v.v…

Kiến trúc chính của chùa thường có nhiều căn nhà xây liền nhau hoặc cách nhau bằng những sân nhỏ hoặc sân vuông trồng hoa, cây cảnh, non bộ; ngôi chánh điện có một mái hoặc mái chồng diêm tạo thành những hình dạng kiến trúc thường được gọi là chữ Nhất, chữ Nhị, chữ Tam, chữ Đinh, chữ Công, chữ Môn, chữ Khẩu, chữ nội Công ngoại Quốc v.v…

Ở miền Bắc, kiểu chữ Đinh, chữ Công thường gặp ở chùa làng, quy mô kiến trúc nhỏ. Chùa Diên Hựu xây dạng chữ Đinh. Các chùa xây dạng chữ Tam có quy mô lớn hơn (chùa Thầy, chùa Kim Liên, chùa Tây Phương). Kiểu chùa có quy mô lớn hơn cả là kiểu chữ nội Công ngoại Quốc (chùa Bút Tháp, chùa Trăm Gian, chùa Keo, chùa Phổ Minh … ).

Ở miền Trung, đặc biệt ở Huế, chùa thường được xây kiểu chữ Môn, chữ Khẩu. Tiền đường có mái ngói giả; hai bên là hai lầu chuông trống kiểu tứ giác, có hai tầng mái, đỉnh nóc nhọn thường trang trí hình bình tịnh thủy. Sau tiền đường là chánh điện hay đại hùng bửu điện là một toà nhà lớn, thường ba gian hay năm gian hai chái với kết cấu nhà rường, kèo cột gỗ hoặc cốt sắt giả gỗ.  Các gian giữa, truớc thờ chư Phật, Bồ tát; sau thờ chư Tổ. Hai chái tả hữu thường được làm phương trượng của thầy trụ trì hay giám tự ngôi chùa. Sau chánh điện là mảnh sân trồng hoa. Hai bên là hai dãy nhà làm nhà khách, nhà tăng, thiền đường... tạo kiểu chữ Môn. Nếu có thêm một dãy nhà cuối sân làm nhà trai, nhà giảng, nhà linh … tạo kiểu chữ Khẩu. (chùa Báo Quốc, chùa Từ Hiếu, chùa Thiền Tôn…).

Ở miền Nam, các nhà nghiên cứu ít gọi các kiểu kiến trúc trên, mà thường chia dạng chùa kiến trúc cổ làm bằng gỗ, ngói (chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên, chùa Phụng Sơn) và dạng chùa kiến trúc mới xây bằng bê tông cốt sắt (chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Ấn Quang, chùa Quán Thế Âm, Ni viện Thiện Hòa …). Chùa cổ với kiểu vì kèo nhà đâm trính một gian hai chái, thường có 36 cột, 4 cột cái ở giữa tạo bờ nóc ngắn, dạng gần hình vuông, có tài liệu gọi là chùa tứ trụ. Chùa thường có các căn nhà nối tiếp nhau theo kiểu nhà xếp đọi, tạo thành dạng chữ Nhị (chùa Phụng Sơn), dạng chữ Tam (chùa Giác Lâm). Chùa ở nông thôn Nam Bộ còn giữ nhiều nét của chùa cổ. Có nhiều chùa xây tiền đường theo nhiều kiểu, ảnh hưởng kiến trúc các nước Trung Hoa, Campuchia, Ấn Độ… (chùa Phước Hưng, chùa Tiên Châu, chùa Vĩnh Tràng, chùa Tây An …). Chùa mới được xây dựng với khá nhiều kiểu kiến trúc, khó quy vào vài kiểu kiến trúc như chùa cổ. Chùa ở thành thị, thành phố thường xây lầu, tầng trên làm chánh điện thờ Phật, các tầng dưới làm giảng đường, trai đường …(chùa Xá Lợi, chùa Khánh Quang …).

Page 25: Chua viet

Khoảng sân, vườn hai bên và phía sau chùa thường có tháp mộ các vị trụ trì và chư Tăng, Ni quá cố.

III. NHỮNG NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG TIÊU BIỂU

Ngôi chùa Phật giáo Nam tông có hai dạng: chùa Nam tông Việt và chùa Nam tông Khmer.

Chùa Phật giáo Nam tông phát triển ở miền Trung và miền Nam. Ở miền Bắc chỉ có một vị sư đang hành đạo ở chùa Thiên Phúc, Bắc Ninh.

Có 73 ngôi chùa Nam tông Việt và khoảng 500 ngôi chùa Nam tông Khmer.

Ngôi chùa Nam tông Việt đầu tiên là chùa Bửu Quang ở Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh được cụ Nguyễn Văn Hiểu cho xây dựng vào năm 1938. Hòa thượng Hộ Tông trụ trì đầu tiên sau thời gian học đạo tại chùa Unalom ở Campuchia. Một số ngôi chùa nổi tiếng khác ở TP. Hồ Chí Minh là: chùa Kỳ Viên, chùa Phật Bảo, chùa Bửu Long, chùa Giác Quang, chùa Phổ Minh …

Ở Đồng Nai có chùa Bửu Đức, thiền viện Phước Sơn, chùa Tam Phước; ở Bà Rịa - Vũng Tàu có chùa Hộ Pháp.

Ở miền Trung, những ngôi chùa Nam tông nổi tiếng là: chùa Thiền Lâm, chùa Huyền Không, chùa Tăng Quang (Thừa Thiên - Huế); chùa Tam Bảo (TP. Đà Nẵng) v.v…

Kiến trúc ngôi chùa Phật giáo Nam tông Việt thường đơn giản. Chùa Kỳ Viên, tên của ngôi tinh xá thời đức Phật tại thế do ông Cấp Cô Độc dâng cúng, là ngôi chùa trụ sở của hệ phái, tọa lạc ở quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Chùa có tam quan, trên đầu bốn trụ có bốn hoa sen nở. Nóc chánh điện có hai mái. Tiền đường có hai mảng tam giác khắc tên chùa. Mảng trên ghi tên chùa: Kỳ Viên Tự; mảng dưới ghi tên chùa bằng tiếng Pàli mẫu tự La tinh: JETAVANA VIHÀRA. Ở cửa vào chánh điện còn có biển tên chùa bằng chữ Hán. Ba cửa vào chánh điện đều xây hình bầu dục, có song sắt hình những chiếc lá bồ đề. Chánh điện thờ Phật theo dạng tam cấp. Tầng cao nhất thờ Xá lợi Phật, các tầng dưới thờ đức Phật Thích Ca.

Ở TP. Biên Hòa, chùa Bửu Đức được xây dựng vào năm 1970 theo kiểu tháp Xá lợi San-chi ở Ấn Độ. Chùa Huyền Không 1 và chùa Huyền Không 2 ở Huế là những ngôi chùa vườn tuyệt đẹp.

Chùa Phật giáo Nam tông Khmer (chùa Khmer) chỉ có ở miền Nam. Những ngôi chùa Khmer nổi tiếng là: chùa Chantarangsay (TP. Hồ Chí Minh); chùa Xvayton (An Giang); chùa Sanghamangala (Vĩnh Long); chùa Angkoreaja Purêy, chùa Kompong Chrêy, chùa Phnôdol, chùa Pôthisalareaj, chùa Samrông Ek (Trà Vinh); chùa Kh’Leang, chùa Mahatup, chùa Sàlôn (Sóc Trăng); chùa Ratanaransĩ (Kiên Giang); chùa Komphisakor Prech Chru (Bạc Liêu) v.v…

Page 26: Chua viet

Chùa Khmer là cơ sở tín ngưỡng, văn hóa, giáo dục của từng cộng đồng dân tộc Khmer ở Nam Bộ. Đó là công trình tập trung các giá trị nghệ thuật cao nhất của cộng đồng.

Nhìn chung, chùa Khmer là một cụm kiến trúc ẩn mình trong một khu đất rộng với nhiều cây cao bóng cả. Kiến trúc chùa bao gồm: cổng chùa, ngôi chánh điện, các sa la (nhà tăng, nhà hội), tháp cốt, lò thiêu, nhà để ghe ngo …

Cổng chùa Khmer được xây bên lề đường, với nhiều kiểu. Có cổng làm bộ khung bằng gỗ, giữa có lối đi, hai bên là sạp để khách đường xa có thể ngồi nghỉ chân. Có cổng được xây bằng gạch, mái bằng, có bốn hoặc sáu cột. Trên mái là ngôi tháp tứ giác có nhiều tầng hoặc ba tháp tròn ba tầng …

Ngôi chánh điện là công trình kiến trúc quy mô nhất, thường xây dọc, mặt hướng Đông. Chánh điện thường được xây trên hai cấp nền, cao hơn hẳn các công trình khác ở chùa. Quanh cấp nền thấp có xây tường rào, có cổng ra vào. Ngôi chánh điện luôn có các cấp mái, mỗi cấp mái được chia làm ba lớp. Hai mái trên cùng hợp thành một góc 600 ở hai đầu hồi. Trang trí dọc bờ viền mái nóc chùa thường có tượng Niêt Kơ-rêch (rồng). Trong chánh điện thờ nhiều tượng đức Phật Thích Ca. Pho tượng lớn nhất là tượng đức Phật Thích Ca thành đạo.

IV. NHỮNG NGÔI TỊNH XÁ PHẬT GIÁO KHẤT SĨ TIÊU BIỂU

Hệ phái Khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập từ năm 1944. Hiện nay, hệ phái có hơn 2.000 Tăng Ni xuất gia tu học tại 400 ngôi tịnh xá, tịnh thất ở các tỉnh miền Trung và miền Nam. Ngôi chùa của hệ phái được Tổ sư Minh Đăng Quang gọi là tịnh xá, tức là nơi trú xứ an tịnh, trong sạch.

Danh hiệu của ngôi tịnh xá đều có chữ Ngọc đứng trước. Ý của vị Tổ sư muốn khuyên dạy đệ tử luôn tinh tấn tu học để có được phẩm chất quý như ngọc, hiển lộ được ngọc trong tâm mình. Sau chữ ngọc là một chữ có liên hệ đến địa phương nơi tịnh xá tọa lạc. Ví dụ: Tịnh xá Ngọc Châu (huyện Tân Châu, tỉnh An Giang), tịnh xá Ngọc Vinh (thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh), tịnh xá Ngọc Trang (TP. Nha Trang), tịnh xá Ngọc Nhơn (TP. Quy Nhơn), tịnh xá Ngọc Ban (TP. Buôn Ma Thuột)… Cũng có nhiều tịnh xá không đặt tên như vậy, như: Pháp viện Minh Đăng Quang, tịnh xá Trung Tâm, tịnh xá Lộc Uyển, tịnh xá Kỳ Hoàn (TP. Hồ Chí Minh); tịnh xá Kỳ Viên (An Giang); tịnh xá Kỳ Viên (Bến Tre); chùa Giác Hạnh (TP. Mỹ Tho); chùa Bửu Linh, chùa Giác Quảng (TP. Cần Thơ); chùa Long Hòa (TP. Biên Hòa); tịnh xá Trúc Lâm (Bình Thuận), tịnh xá Linh Giang (Khánh Hòa); chùa Phổ Hiền (Quảng Ngãi) v.v…

Các ngôi tịnh xá được chia ra các giáo đoàn Tăng và Ni như sau:

Về Tăng, có 6 giáo đoàn.

Giáo đoàn 1 có 21 ngôi tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long). Giáo đoàn 2 có 15 ngôi tịnh xá. Tổ đình: Tịnh xá Ngọc Đăng (TP. Hồ Chí Minh). Giáo đoàn 3

Page 27: Chua viet

có 41 ngôi tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Ngọc Tòng (Khánh Hòa). Giáo đoàn 4 có 32 ngôi tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Trung Tâm (Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh). Giáo đoàn 5 có 23 ngôi tịnh xá, tu viện. Tổ đình: Tịnh xá Trung Tâm (Quận 6, TP. Hồ Chí Minh). Giáo đoàn 6 có 14 ngôi tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Lộc Uyển (Quận 6, TP. Hồ Chí Minh).

Về Ni, có giáo đoàn Ni giới và 3 phân đoàn Ni giới.

Giáo đoàn Ni giới có 164 tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Ngọc Phương (Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh). Phân đoàn 1 Ni giới (Ni trưởng Ngân Liên) có 15 ngôi tịnh xá. Phân đoàn 2 Ni giới (Ni trưởng Trí Liên) có 23 ngôi tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Ngọc Phú (Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh). Phân đoàn 3 Ni giới có 27 ngôi tịnh xá, tịnh thất.

Các ngôi tịnh xá tổ đình là những tịnh xá tiêu biểu, nổi tiếng trong hệ thống tự viện ở nước ta.

Tam quan các ngôi tịnh xá thường được xây dựng đơn giản. Thường trên đỉnh tam quan có ngọn đèn Chơn lý thắp sáng (ý pháp tám vạn bốn ngàn pháp môn của chư Phật).

Qua tam quan, sân trước tịnh xá thường tôn trí bảo tượng Bồ tát Quán Thế Âm. Ngôi chánh điện được xây kiểu bát giác (nét đặc thù kiến trúc của Phật giáo Khất sĩ), chính giữa có tháp tam cấp tôn thờ bảo tượng đức Phật Thích Ca. Sau tượng đức Phật, tôn trí chân dung Tổ sư Minh Đăng Quang. Gian nhà sau chánh điện thờ Cửu huyền thất tổ, chính giữa thờ đức Bồ tát Địa Tạng hoặc bộ tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí). Phía sau ngôi chánh điện còn có nhiều căn nhà dùng làm thiền đường, tăng xá, trai đường, lớp học, phòng phát hành kinh sách…

Hiện nay, chánh điện nhiều ngôi tịnh xá đã xây lầu, tầng trên thờ Phật, tầng dưới làm giảng đường, như tịnh xá Trung Tâm, tịnh xá Ngọc Lâm (TP. Hồ Chí Minh), tịnh xá Ngọc Phúc (Gia Lai), tịnh xá Ngọc Thuận (Tây Ninh), tịnh xá Ngọc Tâm (Long An) v.v…

Đặc biệt, ở sân trước tịnh xá Trung Tâm (Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh) có bảo tượng Bồ tát Quán Thế Âm cao 13,50m (kể cả đài sen) đứng trước ngọn giả sơn cao khoảng 15m như ngọn Phổ Đà Sơn thu nhỏ. Đối diện với bảo tượng là bảo tháp Ngọc Phật hình bát giác (bát chánh đạo), có 9 tầng (cửu phẩm liên hoa), cao 37m (ba mươi bảy phẩm trợ đạo), trên đỉnh tháp là đóa sen nâng ngọn đèn Chơn lý. Tầng 9 tôn trí Xá lợi Phật.

Những nét khái quát về những ngôi chùa, tịnh xá của ba hệ phái Phật giáo Bắc tông, Nam tông và Khất sĩ hiện nay đã cho thấy ngôi chùa Phật giáo Việt Nam hiện nay rất đa dạng về kiểu thức kiến trúc, nhất là ngôi chùa Phật giáo Bắc tông.

Page 28: Chua viet

Ngôi chùa là nơi thờ chư Phật; là nơi tu học, ăn ở của chư Tăng, Ni; là nơi lễ bái, vui hội của tín đồ và du khách gần xa. Xây dựng ngôi chùa là công đức của thập phương bá tánh. Ngôi chùa mang dấu ấn văn hóa của từng thời, từng miền. Ngôi chùa Việt còn tiếp thu những nét kiến trúc đặc sắc ở nhiều nước trên thế giới.

Dù được xây dựng theo kiểu nào, được thờ một tượng Phật hay nhiều tượng chư Phật, Bồ tát, Hộ Pháp, La hán … ngôi chùa Việt Nam từ xa xưa đến ngày nay là nơi chứa đựng nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của đất nước, là nơi phản ánh nhiều mặt của tâm thức Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Ngôi chùa Việt Nam là ngôi nhà văn hóa từ bi hỷ xả của nguời Việt Nam. 

 Võ văn Tường

Kiến Trúc ChùaNguồn: http://ktsbinhdinh.vnTổng hợp: Phạm Kim Đào.

Chùa Việt Nam được xây dựng, phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử, không gian và phong cách khác nhau. Theo đó, phong cách kiến trúc ở các địa phương cũng không đồng nhất.

Page 29: Chua viet

Phần 1: Chùa phía Bắc

Công trình chùa cơ bản thường có các hạng mục và các cấu trúc của chùa cổ Việt Nam như sau:

1. Các hạng mục:

1.1.Tam quan: là cổng vào chùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có hai tam quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của Tam quan có thể dùng làm gác chuông.

1.2. Sân chùa: Qua Tam quan là đến sân chùa. Thường xây bồn hoa, đặt các chậu cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Trong sân chùa, đôi khi có các ngọn tháp, tượng phật lớn…

1.3. Bái đường: Từ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn gọi là tiền đường, nhà thiêu hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà bái đường có thể đặt một số tượng, bia đá ghi sự tích của ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánh nếu như ngoài cửa Tam quan không xây gác chuông. Giữa bái đường là hương án, nơi thắp hương chính. Thông thường người đến lễ chùa thắp hương ở đây. Số gian của bái đường tùy thuộc vào qui mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian.Thường đặt 2 tượng hộ pháp: Bên trái là Khuyến thiện ( ông Thiện, mặt đen); bên phải là Trừng ác ( ông Ác, mặt đỏ)

1.4. Chính điện: Qua nhà bái đường là chính điện. Giữa bái đường và chính điện có một sân trống không rộng lắm, để cho ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện là phần quan trọng nhất của ngôi chùa, là trung tâm của sự thờ cúng. Ở giữa và sát vách sau có nhiều lớp bàn thờ và nhiều tượng Phật được sắp xếp theo các nguyên tắc:- Tầng cao nhất: thường có 3 pho tượng gọi là Tam thế Phật của 3 thời gian: Phật quá khứ ( vô lượng, vô biên, 10 phương chư Phật) thường là Phật Nhiên Đăng, Phật hiện tại là Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật tương lai thường là Phật

Page 30: Chua viet

Di lặc;

- Tầng thứ 2: xếp 3 pho tượng Tây phương Tam thánh: Tượng Phật A Di Đà lớn nhất ở giữa, tượng Bồ tát Quán Thế Âm ở bên trái và tượng Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên phải; 

- Tầng thứ 3: xếp 3 pho tượng: Tượng lớn nhất là Thích Ca Mầu Ni ngồi trên tòa sen. Hai bên đứng trên tòa sen là Tượng Bồ tát Văn Thù Sư Lợi ở bên trái, tượng Bồ Tát Phổ Hiền ở bên phải;

- Tầng thứ 4: ở giữa là tượng Cử Thiên, hai bên là tượng Đế Thích và Phạm Thiên.

1.5. Hành lang: Chạy song song và ở 2 bên chính điện, nối chính điện với hậu đường.

1.6. Hậu đường: Qua nhà chính điện, theo đường hành lang ta đến nhà hậu đường (cũng còn gọi là Nhà tăng hay Nhà thờ tổ). Nơi đây bố trí như thờ cúng tổ tiên: Ở chính giữa: bàn thờ cao nhất thờ, đặt tượng Thánh tăng (Ana đà), sư tổ ( Bồ đề đạt ma); 2 bên là thấp hơn là bàn thờ chư vị là các vị thánh nhân gian (bàn thờ mẫu), nhân thần (có khả năng của thần, cứu dân giúp nước), các nhân vật lịch sử. Ở 2 bên là các bàn thờ của những người chết muốn thờ cúng tại chùa có bia ghi thân thế.

2. Các cấu trúc chùa:

2.1. Chùa chữ Đinh ( người…): 丁, ( số không 亠)

2.2. Chùa chữ Công ( việc…): 工

2.3. Chùa chữ Tam ( ba): 三

Page 31: Chua viet

2.4. Chùa chữ Quốc (nước): 国

Phần 2: Chùa phía Nam

Đối với khu vực phía Nam nói chung và Bình Định nói riêng, về cơ bản công trình chùa thường có những hạng mục và cấu trúc như sau:

1. Các hạng mục:

Được kết hợp, thay đổi đơn giản hơn các chùa cổ, để phù hợp với khu đất, thuận tiện trong việc tổ chức hành lễ, sinh hoạt, tạo nên các không gian mở đa năng…Hướng chùa ( cổng và chánh điện) thường hướng Đông Nam, Tây nam, Nam

1.1. Cổng Tam quanThường chỉ là cổng có mái che gồm: 01 cổng chính cao hơn và 02 cổng phụ 2 bên thấp hơn. Chỉ có các chùa có quy mô công trình lớn mới có nhà cổng và cổng ngoại, cổng nội. Kèm theo tường rào cao thường che khuất tầm nhìn bên ngoài vào, tạo không gian kín, yên tĩnh cho nhà chùa.

1.2. Sân vườnLà khoảng không gian ngoài trời, sau tam quan thường tổ chức ở giữa là hồ nước, hòn non bộ trong đó có tượng Phật lớn đứng trên tòa sen, 2 bên là hàng cây cao, giàn hoa và các vườn hoa xung quanh.

1.3. Chánh điệnKết hợp các chức năng của cổng, bái đường, chánh điện.

- Không gian tiền sảnh: Ở giữa là đại sảnh để tiếp đón khách, 02 bên phòng sảnh đặt 02 tượng hộ pháp. Hai bên của sảnh đặt chuông và trống hoặc tạo thành lầu chuông, lầu trống hoặc tháp chuông, tháp trống rời 2 bên.

- Không gian hành lễ, giảng đường của phật tử: là không gian lớn nhất, tập

Page 32: Chua viet

trung đông người ( phật tử thường ngồi dưới nền nhà để tụng kinh và nghe thuyết pháp). Cần ánh sáng và thông thoáng tốt. (Có nơi tổ chức giảng đường, các phòng khách, tiếp khách ở tầng 1, chánh điện và phòng thờ tổ tầng 2)

- Không gian bàn thờ Phật: thường tổ chức làm 03 cấp thờ:+ Cao nhất là tượng Phật Thích Ca Mâu Ni , tượng lớn nhất ngồi dưới cây bồ đề;+ Thấp hơn là các tượng: Phật A Di Đà ở giữa, bên phải là Phật Quán Thế Âm, bên trái là Phật Đại Thế Chí; ở giữa bên dưới và nhỏ hơn là Phật Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát;Trước án thờ này là nơi hành lễ của chủ lễ, trụ trì và chúng tăng. Có thể đứng thành 3 hàng.+ Thấp nhất là án thờ Hội đồng gồm nhiều tượng Phật khác, đặt ở phía trước cửa gian thờ.Nền nhà, chiều cao gian thờ thường cao hơn không gian hành lễ của phật tử, như sân khấu của giảng đường. Phía sau là tường kín tạo quang cảnh phía sau tượng Phật; có cửa võng, hoành phi, câu đối ( trên cột) bao quanh; phía trước án Hội đồng có lư hương lớn. Khu vực này cần có cửa trên cao để hút khói, cần có ánh sáng chiếu rọi các tượng Phật lung linh huyền ảo, tạo nên không gian linh thiêng.

1.4. Nhà thờ tổĐặt phía sau chánh điện, đặt liền kề, cách bằng sân trong hoặc cách bằng 02 hành lang 2 bên. Nơi đây tổ chức như gian thờ: án thờ chính ở giữa đặt tượng Bồ đề Đạt Ma, bên dưới là tượng Sư tổ khai sơn chùa, 2 bên là các long vị của các hòa thượng, thượng tọa nhiều đời của chùa này; hai bên án thờ là bàn thờ dài thờ những hương linh Phật tử quá cố ký gửi tại chùa, có các hình đặt trên kệ nhiều tầng. Khu vực án thờ cũng có cửa võng, cuốn thư, câu đối…Nền nhà và chiều cao phòng thường cao hơn nhà chánh điện. Phòng có 03 tường kín bao quanh, lấy ánh sáng và thông gió trên cao.

1.5. Đông đường; Tây đườngThường bố trí 2 bên của chánh điện ( cách bằng sân trong). Là nơi dùng để tiếp khách, nghỉ ngơi, sinh hoạt …Đông đường ( bên trái) cho trụ trì, Tây đường ( bên phải) cho các sư trong chùa. Một số chùa lấy Đông đường làm nơi Thờ tổ, Tây đường tiếp cư tăng. Sau

Page 33: Chua viet

chánh điện là Phương trượng là nơi ở của trụ trì cũng là nơi thờ cúng các vị trụ trì đã qua đời của chùa. Trong chánh điện, ở 2 bên đặt Thập Bát La Hán tượng ( 18 vị La Hán).

2. Các cấu trúc chùa: 

Thường cấu trúc thường theo hình chữ Công 工, chữ Nhật ( ban ngày, mặt trời) 日 .Riêng đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long, chùa thường theo lối kiến trúc của người Khmer.

Ki n trúc nh ng ngôi chùa c trong ế ữ ổlòng Hà N iộV.X09:15 31/01/2014BizLIVE - Hơn 100 ngôi chùa lớn nhỏ nằm lặng yên trong cái tấp nập của phố phường Hà Nội. Mặc dù vậy, những ngôi chùa cổ vẫn giữ nguyên được dáng vẻ nguyên sơ của chúng.   

Chùa Kim Liên.

Page 34: Chua viet

Bộ ảnh 3D không thể kìm lòng về Hà Nội xưa Chùa Tr n Qu cấ ố

Chùa Tr n Qu c có l ch s 1500 năm, đ c coi là lâu đ i nh t Thăng Long - Hà N i.ấ ố ị ử ượ ờ ấ ở ộ

Cũng gi ng nh h u h t nh ng ngôi chùa c trên đ t n c Vi t Nam, ki n trúc chùa Tr n ố ư ầ ế ữ ổ ấ ướ ệ ế ấQu c g m nhi u l p, có nhà bái đ ng, nhi u t ng Ph t đ c s n son th p vàng. Chùa đ c ố ồ ề ớ ườ ề ượ ậ ượ ơ ế ượthi t k theo ki u “n i công ngo i qu c”, ti n đ ng nhìn v phía tây. Gác chuông chùa là m tế ế ể ộ ạ ố ề ườ ề ộ nhà ba gian, mái ch ng diêm, n m trên tr c chính. Phía sau ti n đ ng là nhà Tam b o.ồ ằ ụ ề ườ ả  

Chùa Trấn Quốc (Ảnh: Nguyen Minh Son)Đặc biệt, trong khuôn viên chùa Trấn Quốc còn có bảo tháp Lục độ đài sen được xây dựng trong 5 năm. Bảo tháp gồm 11 tầng, cao 15 mét, diện tích mặt sàn 10,5 mét vuông. Mỗi tầng tháp gồm 6 ô cửa vòm, có tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Tổng số tượng của tháp có 66 pho và trên đỉnh có 9 tầng đài sen cũng bằng đá quý (còn được gọi là Cửu phẩm liên hoa). Tháp được dựng đối xứng với cây bồ đề. 

Chùa Một Cột

Page 35: Chua viet

Cùng với Khuê Văn Các, Chùa Một Cột là một trong những di tích lịch sử văn hóa lâu đời, là biểu tượng của Thủ đô Hà Nội.

Chùa có kết cấu hình vuông làm bằng gỗ, lợp ngói ta, mỗi cạnh 3m, có bốn mái, bốn đầu đao cong được đắp hình đầu rồng. Trụ đá gồm hai khối gắn liền với nhau, đường kính 1,2m, cao 4m (chưa kể phần chìm dưới đất). Lối đi lên chùa là một cầu thang nhỏ làm bằng gạch. Phần trên thân trụ gồm một hệ thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn kiên cố đỡ cho ngôi chùa dựng bên trên, giống như một đóa hoa sen vươn thẳng lên từ mặt hồ. Đây chính là nét kiến trúc vô cùng độc đáo của Chùa Một Cột.

Chùa Một Cột (Ảnh: Tuan Phan)Nóc chùa có mặt nguyệt bốc lửa, đầu rồng chầu mặt nguyệt. Trong chùa, tượng đức Phật Quan Âm ngồi trên một bông sen bằng gỗ sơn son thiếp vàng, ở vị trí cao nhất.

Chùa Một Cột xây ở giữa hồ nước thả sen, mỗi cạnh hồ 20m, có tường thấp bao xung quanh. Chùa Một Cột không giống với bất cứ một tháp Phật nào, chùa mang đậm tính triết lí nhân văn với vòng ngoài hình vuông tượng trưng cho âm,

Page 36: Chua viet

và cột hình tròn tượng trưng cho dương, trong âm có dương, trong dương có âm. Đây là quy luật tuần hoàn tương sinh, tương khắc của vũ trụ.

Ngày 10/11/2012, tại Faridabad (Ấn Độ), Tổ chức Kỉ lục châu Á đã xác nhận Chùa Một Cột là "Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất châu Á”.

Chùa Quán Sứ

Chùa Quán Sứ nằm ở số 73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm. Chùa thờ Phật và thờ vị quốc sư triều Lý là Nguyễn Minh Không.

Chùa có quy mô kiến trúc lớn, tam quan kiểu 3 tầng mái, chính giữa là lầu chuông. 

Chùa Quán Sứ (Ảnh: KeithDM)Qua tam quan đến một sân rộng lát gạch. Giữa sân xây tòa chính điện cao, hình vuông, có hành lang bao quanh. Hai bên và đằng sau là là dãy nhà dung làm thư viện, giảng đường, nhà khách và tăng phòng. Chùa Quán Sứ hiện nay là trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Chùa Láng - Chiêu Thiền Tự

Page 37: Chua viet

Chùa Láng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1128-1138) để thờ Từ Đạo Hạnh là một nhà tu hành đắc đạo, nổi tiếng thời Lý.

Chùa Láng xây dựng trên một khu đất rộng, có nhiều cây cổ thụ, từ xưa vẫn được coi là nơi đệ nhất tùng lâm của kinh đô Thăng Long. 

Chùa Láng (Ảnh: Nguyen Manh Thuy)Đây là một quần thể kiến trúc rộng lớn, tính ra vừa đủ 100 gian. Cổng chùa bao gồm bốn cột vuông với ba mái cong không chùm lên cột mà gắn vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên. Cổng chùa bao gồm bốn cột vuông với ba mái cong không chùm lên cột mà gắn vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên, hơi giống kiến trúc cổng ở cung vua phủ chúa ngày xưa. Qua cổng là một sân gạch Bát Tràng, giữa sân là chiếc sập đá, nơi đặt kiệu trong các ngày lễ hội. Cuối sân có cửa tam quan. Từ đây có con đường lát gạch dẫn đến cổng thứ ba. Qua cổng này ở giữa có ngôi nhà bát giác nơi đặt tượng Từ Đạo Hạnh...

Page 38: Chua viet

Chùa Cầu Đông – Đông Hoa Môn tự

Chùa có tên là “Đông Hoa Môn tự”. Hiện nay chùa nằm tại số 38 B phố Hàng Đường phường Hàng Đào, trong khu vực phố cổ Hà Nội.

Chùa Cầu Đông được xây dựng từ thời Lê (thế kỷ XVII). Trải qua nhiều lần tu sửa, chùa hiện giữ được kiểu dáng kiến trúc cổ. Tam quan xây lầu cao làm gác chuông. Chùa chính hình chữ đinh, các mảng chạm hổ phù, rồng vờn mây, hoa lá mang phong cách nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVII.

Chùa có 60 pho tượng cổ, tiêu biểu nhất là các tượng Tuyết Sơn, Di Lạc và bộ Tam Thế là cổ vật rất quí. Chùa còn bốn tấm bia có các niên đại 1624, 1639, 1711, 1816. Bia 1624 có tên là Đông Môn tự ký (bài ký về chùa Đông Môn) do nhà sư Nguyễn Văn Hiệp dựng.

Chùa Cầu Đông (Ảnh: Jorg Dickmann)Ngoài ra, trong chùa còn cổ vật là quả chuông đồng đúc thời Tây Sơn năm 1800, niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8.

Trong chùa bên trái hậu cung có thờ hai pho tượng Trần Thủ Độ và bà vợ. Như vậy, đây là nơi độc nhất ở Hà Nội có thờ vị khai quốc nhà Trần.

Page 39: Chua viet

Chùa Ngũ Xã – Thần Quang Tự

Chùa Ngũ Xã có tên là Thần Quang Tự, được xây dựng từ thế kỷ XVIII thời hậu Lê (1428-1788). Ngoài việc thờ Phật, chùa còn thờ quốc sư Nguyễn Minh Không, tục truyền là tổ nghề đúc đồng. 

Chùa Ngũ Xã (Ảnh: Internet)Kiến trúc của chùa có Tam quan, chùa chính gồm 5 gian và điện thờ. Giữa điện có pho tượng Phật A Di Đà cao 3,95m. Tượng có tư thế ngồi bằng với những hình khối đơn giản mà hài hòa , tượng được đúc liền một khối. Riêng phần tượng ngồi cao cao 3,95m, hai đầu gối cách nhau 3,60m, chu vi tượng 11,60m. Pho tượng nặng 10 tấn. Bệ của pho tượng ngồi là một tòa sen có 96 cánh, đúc hết 1600kg đồng. Đây là một pho tượng có giá trị mỹ thuật cao của nghề thủ công đúc đồng Ngũ xã .

Chùa Ngũ Xã là một trong số ba ngôi chùa ở Hà Nội được xây dựng lại trong thập kỷ 40 và 50 bằng vật liệu mới nhưng vẫn giữ phong cách chùa cổ điển Việt Nam

Page 40: Chua viet

(hai ngôi chùa kia là chùa Quán Sứ xây dựng lại vào năm 1942 và chùa Hưng Ký xây năm 1933).

Chùa Hòe Nhai – Hồng Phúc Tự

Chùa Hoè Nhai tên chữ là Hồng Phúc tự, nay ở số 19 phố Hàng Than, phường Nguyễn Trung Trực, quận Ba Đình, Hà Nội. Đây là ngôi chùa cổ, tương truyền có từ đời nhà Lý, trải qua nhiều lần sửa chữa lớn vào các năm 1687, 1899 và 1952.

Phía trước là nhà chính điện, phía sau là nhà tổ và tăng phòng, xung quanh là hành lang. 

Chùa Hòe Nhai (Ảnh: Internet)Trong chùa có 36 pho tượng, cổ nhất là tượng Cửu Long (Thích Ca mới ra đời) và đặc sắc nhất là tượng một vị Phật ngồi trên lưng một ông vua nằm phục xuống.

Chùa Hòe Nhai là “chốn tổ” của phái Tào Động, một trong hai phái lớn của Thiền Tông ở miền Bắc Việt Nam.

Năm 1962, Thành Hội Phật giáo Hà Nội đã dựng tại đây tháp ấn Quang để kỷ niệm Hòa thượng Thích Quảng Đức tu tại chùa ấn Quang Sài Gòn đã tự thiêu ngày 11-6-1963, để phản đối chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam.

Page 41: Chua viet

Chùa Kim Liên

Chùa Kim Liên nay thuộc phường Nghi Tàm, quận Tây Hồ.

Chùa có từ thế kỷ XVII nhưng diện mạo chùa như hiện nay là do lần trùng tu vào năm 1792 với bố cục theo kiểu chữ "tam", gồm ba nếp, mỗi nếp có hai tầng mái. Các đầu đao cong vút, mềm mại. 

Chùa Kim Liên (Ảnh: Dzung Viet Le)Trong chùa có một pho tượng quý khiến giới sử học hết sức quan tâm đó là pho tượng có hình dạng như một người trung niên, râu ba chòm, mình mặc áo cà sa, tay cầm hốt, đầu lại đội mũ dành cho vua quan.

Ngoài pho tượng này, ở gian giữa chùa có bức hoành phi "Hoàng uẩn” (có nghĩa là: Đạo lý sâu sắc và rộng rãi) làm vào năm 1870. Còn hoành phi "Liên hoa hải hội" (có nghĩa là: Cảnh sum vầy vui đẹp nước Phật) thì mới được làm năm 1930.

Trong cuốn “Văn hóa Việt Nam tổng hợp 1989-1995” do Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương xuất bản đã đánh giá chùa Kim Liên là một trong 10 di tích kiến trúc cổ đặc sắc nhất Việt Nam.

Page 42: Chua viet

Chùa Liên Phái

Ở giữa phố Bạch Mai nội thành Hà Nội, có một cái ngõ tên là ngõ Chùa Liên Phái. Đó chính là lối dẫn vào ngôi chùa Liên Phái cổ kính. Hai bên cổng là hai hồ rộng, ngay ở cổng chùa có tháp Diệu Quang cao 10 tầng hình lục lăng. Tiếp đến là nhà bia có tấm bia kể lại sự tích chùa.

Qua sân rộng là nhà bái đường, sau đó là hậu cung. Một khoảnh sân trồng hoa ngăn cách hậu cung với nhà tổ. Trong chùa có 15 pho tượng. Điều khiến cho chùa Liên Phái được coi như một di tích lịch sử giá trị chính là khu vườn tháp phía sau chùa.

Chùa Liên Phái (Ảnh: Internet)

T i đó, trên m t gò đ t cao có 9 ngôi tháp xây thành 3 hàng: hàng th nh t có hai ngôi, hàng ạ ộ ấ ứ ấgi a có năm ngôi và hàng sau hai ngôi. Hàng gi a chóan ph n cao nh t có ngôi tháp C u Sinh ữ ữ ầ ấ ứb ng đá là n i táng hài c t v s t th nh t, đ ng th i là ng i sáng l p ra chùa Liên Phái - ằ ơ ố ị ư ổ ứ ấ ồ ờ ườ ậPhò mã Tr nh Th p.ị ậ

Ngôi chùa đã trên 250 năm tu i. Đây là ngôi tháp c có lai l ch rõ ràng nh t, hi n khu v c n iổ ổ ị ấ ệ ở ự ộ thành Hà N i.ộ

Tìm hiểu kiến trúc Chùa Việt(PGVN)

Page 43: Chua viet

Kiến trúc chùa Việt Nam được xây dựng, phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử và không gian khác nhau. Theo đó, phong cách kiến trúc ở các địa phương cũng không đồng nhất.Tuy nhiên về cơ bản các chùa vẫn có những kiến trúc như sau:

Cổng Tam quan

Tam quan là bộ phận không thể thiếu trong thành phần chùa Việt Nam, là cổng vào chùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có hai tam quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của Tam quan có thể dùng làm gác chuông.

Sân chùa

Qua Tam quan là đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày đặt các chậu cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Diện tích của sân chùa phụ thuộc vào những điều kiện và đặc điểm riêng của từng chùa.

 Cổng chùa Đình Quán (Hà Nội)

Bái đường

 Từ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn gọi là tiền đường, nhà thiêu hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà bái đường có thể đặt một số tượng, bia đá ghi sự tích của ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánh nếu như ngoài cửa Tam quan không xây gác chuông.

Giữa bái đường là hương án, nơi thắp hương chính. Thông thường người đến lễ chùa thắp hương ở đây. Số gian của bái đường tùy thuộc vào qui mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian.

Chính điện

Qua nhà bái đường là chính điện. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng trống không rộng lắm, để cho ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện là phần quan trọng nhất của ngôi chùa vì nơi đây bày những pho tượng Phật chủ yếu của điện thờ Phật ở Việt

Page 44: Chua viet

Nam.

Trong Chính điện sẽ có những ban thờ khác nhau. Ví dụ:

                                                                        Ban thờ Tam Bảo

                                                                        Ban thờ Ngọc Hoàng

                                                                      Ban thờ Thánh Hiền

                                                                            Ban thờ vong

                                                                        Ban thờ Hộ pháp

Hành lang:

Chạy song song với chính điện, nối chính điện với hậu đường là hai gian hành lang, tạo thành một nhà ba gian.

 Hoặc nhiều chùa hành lang treo những bảng như này, đó là những nội quy của Thiền gia, lời dạy của đức Phât, câu kệ...

Nhà hậu đường

Qua nhà chính điện, theo đường hành lang ta đến nhà tăng đường (còn gọi là nhà hậu đường), cũng còn gọi là nhà tổ. Nhà hậu đường ở một số chùa trong miền nam Việt Nam liền sát sau nhà chính điện, ngay sau phía bàn thờ Phật.Trong nhà tổ sẽ thờ ban Tổ - là các vị sư từng trụ trì ở

Page 45: Chua viet

chùa nay đã tịch.

Trong thực tế, chùa có nhiều biến thể khác nhau. Ở một số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện thờ Thần. Hay còn gọi là nhà Mẫu

                                            Ban thờ Mẫu

Bùi Hiền