Top Banner
15 Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217 Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ứng dụng lâm sàng dựa trên bằng chứng Ngô Đình Triệu Vỹ 1 , Trần Mạnh Linh 2 1 Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, thành phố Hồ Chí Minh 2 Trường Đại học Y-Dược, Đại học Huế Tóm tắt Cổ tử cung không thuận lợi là một thách thức trong khởi phát chuyển dạ với mục tiêu sinh đường âm đạo. Trong đó, Prostaglandin, đặc biệt là Prostaglandin E 2 , đóng vai trò quan trọng trong quá trình phân giải, phá vỡ cấu trúc collagen dẫn đến chín muồi cổ tử cung. Các phương pháp cơ học làm chín muồi cổ tử cung bằng cơ chế tăng áp lực trực tiếp lên cấu trúc cổ tử cung và màng ối. Qua đó giải phóng các Prostaglandin từ màng rụng và cổ tử cung. Phương pháp cơ học phổ biến hiện nay là đặt bóng, thường sử dụng đặt sonde Foley qua kênh cổ tử cung vào khoảng giữa màng ối và lỗ trong cổ tử cung. Đặt bóng có hiệu quả làm chín muồi cổ tử cung cao, giúp cải thiện chỉ số Bishop và giảm tỷ lệ các tác dụng phụ như cơn tử cung cường tính hoặc nhịp tim thai bất thường so với các phương pháp hoá học. Đồng thời, đặt bóng có thể kết hợp sử dụng oxytocin để tăng hiệu quả và tăng khả năng khởi phát chuyển dạ. Bài tổng quan tả phương pháp và hiệu quả của phương pháp đặt bóng làm chín muồi cổ tử cung, qua đó đánh giá đầy đủ về khả năng áp dụng hiện nay. Từ khoá: Cổ tử cung không thuật lợi, Chín muồi cổ tử cung, phương pháp đặt bóng, Prostaglandin Cervical ripening by using balloon catheter: From mechanism to evidence-based clinical practice Ngo Dinh Trieu Vy 1 , Tran Manh Linh 2 1 Tam Anh Ho Chi Minh City General Hospital 2 Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University Summary The unfavorable cervix is considered a challenging barrier in induction labor with the aim of vaginal delivery. Prostaglandin, especially Prostaglandin E2, plays an important role in lysis and breaking down the structure of collagen which leads to cervical ripening. Physical methods act by putting direct pressure on the cervical structures and amniotic membrane and the mechanism releases Prostaglandin from the decidua and cervical canal. Currently, the common basic method is the single balloon induction (Foley sonde) which is placed through the cervical canal into the space between the membrane and internal cervical os. The balloon stimulates the ripening process, which improves the Bishop index and reduces the incidence of side effects such as uterine hyperstimulation or an abnormal fetal heart rate compared to chemical methods. The balloon induction can be combined with oxytocin to increase efficiency and labor induction probability. The literature reviews the effectiveness of cervical balloon induction, thereby fully assessing the current clinical practice. Keywords: Unfavorable cervix, Cervical ripening, Balloon catheter, Prostaglandin. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217 Tác giả liên hệ (Corresponding author): Ngô Đình Triệu Vỹ: [email protected] Nhận bài (received): 21/7/2021 - Chấp nhận đăng (accepted): 10/9/2021 TỔNG QUAN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Cổ tử cung (CTC) không thuận lợi là một trong những rào cản làm giảm khả năng khả năng khởi phát chuyển dạ thành công [1]. Nếu CTC không thuận lợi, các phương pháp làm chín muồi CTC sẽ được áp dụng nhằm rút ngắn thời gian và tối ưu hóa khả năng đi vào chuyển dạ sinh đường âm đạo. Hai kỹ thuật chính làm chín muồi CTC là can thiệp cơ học như đặt bóng hoặc ít phổ biến hơn là đặt laminare và sử dụng thuốc như các prostaglandin (PG). Đối với phương pháp sử dụng thuốc, các PG ngoại sinh được sử dụng gồm PGE 1 (Misoprostol) và PGE 2 (Dinoprostone) đều có hiệu quả trên CTC không thuận lợi (Bishop < 6) [2]. Tuy nhiên, hạn chế của các PG ngoại sinh là gây ra đồng thời chín muồi CTC và kích thích cơn go tử cung. Ngược với sinh lý chuyển dạ là CTC chín muồi trước sau đó bắt đầu có cơn go tử cung. Xuất hiện cơn go tử cung khi CTC không thuận lợi có thể gây giảm cung cấp cho máu thai nhi trong cơn go [3]. Có bằng chứng cho thấy sử dụng PG liên quan đến tăng tỷ lệ rối loạn cơn go tử cung (3 – 20%) và thay đổi nhịp tim thai [4]. Tại Việt Nam, PGE 1 (Misoprostol) chống chỉ định sử dụng trên thai sống vì tăng nguy cơ
7

Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ...

Mar 11, 2023

Download

Documents

Khang Minh
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ...

15Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217

Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ứng dụng lâm sàng dựa trên bằng chứngNgô Đình Triệu Vỹ1, Trần Mạnh Linh2

1 Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, thành phố Hồ Chí Minh2 Trường Đại học Y-Dược, Đại học Huế

Tóm tắtCổ tử cung không thuận lợi là một thách thức trong khởi phát chuyển dạ với mục tiêu sinh đường âm đạo. Trong đó, Prostaglandin, đặc biệt là Prostaglandin E2, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phân giải, phá vỡ cấu trúc collagen dẫn đến chín muồi cổ tử cung. Các phương pháp cơ học làm chín muồi cổ tử cung bằng cơ chế tăng áp lực trực tiếp lên cấu trúc cổ tử cung và màng ối. Qua đó giải phóng các Prostaglandin từ màng rụng và cổ tử cung. Phương pháp cơ học phổ biến hiện nay là đặt bóng, thường sử dụng đặt sonde Foley qua kênh cổ tử cung vào khoảng giữa màng ối và lỗ trong cổ tử cung. Đặt bóng có hiệu quả làm chín muồi cổ tử cung cao, giúp cải thiện chỉ số Bishop và giảm tỷ lệ các tác dụng phụ như cơn gò tử cung cường tính hoặc nhịp tim thai bất thường so với các phương pháp hoá học. Đồng thời, đặt bóng có thể kết hợp sử dụng oxytocin để tăng hiệu quả và tăng khả năng khởi phát chuyển dạ. Bài tổng quan mô tả phương pháp và hiệu quả của phương pháp đặt bóng làm chín muồi cổ tử cung, qua đó đánh giá đầy đủ về khả năng áp dụng hiện nay.

Từ khoá: Cổ tử cung không thuật lợi, Chín muồi cổ tử cung, phương pháp đặt bóng, Prostaglandin

Cervical ripening by using balloon catheter: From mechanism to evidence-based clinical practiceNgo Dinh Trieu Vy1, Tran Manh Linh2

1 Tam Anh Ho Chi Minh City General Hospital2 Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University

Summary The unfavorable cervix is considered a challenging barrier in induction labor with the aim of vaginal delivery. Prostaglandin, especially Prostaglandin E2, plays an important role in lysis and breaking down the structure of collagen which leads to cervical ripening. Physical methods act by putting direct pressure on the cervical structures and amniotic membrane and the mechanism releases Prostaglandin from the decidua and cervical canal. Currently, the common basic method is the single balloon induction (Foley sonde) which is placed through the cervical canal into the space between the membrane and internal cervical os. The balloon stimulates the ripening process, which improves the Bishop index and reduces the incidence of side effects such as uterine hyperstimulation or an abnormal fetal heart rate compared to chemical methods. The balloon induction can be combined with oxytocin to increase efficiency and labor induction probability. The literature reviews the effectiveness of cervical balloon induction, thereby fully assessing the current clinical practice.

Keywords: Unfavorable cervix, Cervical ripening, Balloon catheter, Prostaglandin.

doi:10.46755/vjog.2021.2.1217Tác giả liên hệ (Corresponding author): Ngô Đình Triệu Vỹ: [email protected]ận bài (received): 21/7/2021 - Chấp nhận đăng (accepted): 10/9/2021

TỔNG QUAN

1. ĐẶT VẤN ĐỀCổ tử cung (CTC) không thuận lợi là một trong những

rào cản làm giảm khả năng khả năng khởi phát chuyển dạ thành công [1]. Nếu CTC không thuận lợi, các phương pháp làm chín muồi CTC sẽ được áp dụng nhằm rút ngắn thời gian và tối ưu hóa khả năng đi vào chuyển dạ sinh đường âm đạo. Hai kỹ thuật chính làm chín muồi CTC là can thiệp cơ học như đặt bóng hoặc ít phổ biến hơn là đặt laminare và sử dụng thuốc như các prostaglandin (PG).

Đối với phương pháp sử dụng thuốc, các PG ngoại sinh được sử dụng gồm PGE1 (Misoprostol) và PGE2

(Dinoprostone) đều có hiệu quả trên CTC không thuận lợi (Bishop < 6) [2]. Tuy nhiên, hạn chế của các PG ngoại sinh là gây ra đồng thời chín muồi CTC và kích thích cơn go tử cung. Ngược với sinh lý chuyển dạ là CTC chín muồi trước sau đó bắt đầu có cơn go tử cung. Xuất hiện cơn go tử cung khi CTC không thuận lợi có thể gây giảm cung cấp cho máu thai nhi trong cơn go [3]. Có bằng chứng cho thấy sử dụng PG liên quan đến tăng tỷ lệ rối loạn cơn go tử cung (3 – 20%) và thay đổi nhịp tim thai [4]. Tại Việt Nam, PGE1 (Misoprostol) chống chỉ định sử dụng trên thai sống vì tăng nguy cơ

Page 2: Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ...

16 Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217

tử vong và suy thai.Tiếp cận lý tưởng để khởi phát chuyển dạ là làm chín

muồi CTC trước khi kích thích cơn go tử cung. Trong đó, phương pháp đặt bóng làm chín muồi CTC có ưu điểm không tạo ra cơn go hoặc tác dụng phụ toàn thân ở thai phụ như PG [5], [6], do đó cần ít nhu cầu theo dõi hơn trong quá trình khởi phát chuyển dạ so với PG [4]. Sức căng cơ học của bóng chèn làm tăng giải phóng các PG nội sinh, giúp CTC chín muồi. Sự chín muồi ở CTC được kích hoạt bởi các phản ứng viêm tại chỗ, có bằng chứng cho thấy tăng đáng kể interleukin-6, interleukin-8, metalloproteinase-8, hyaluronic acid synthetase và NO synthetase ở mô CTC sau khi đặt bóng [7]. Sonde Foley là một trong những lựa chọn để khởi phát chuyển dạ

được khuyến cáo vì giá thành rẻ, sẵn có và dễ áp dụng đặc biệt ở những nơi có nguồn lực hạn chế [2].

2. CƠ CHẾ GÂY CHÍN MUỒI CỔ TỬ CUNG2.1. Đặc điểm cổ tử cung trong thai kỳỞ phụ nữ không mang thai, CTC đóng kín và chắc,

mật độ tương tự như sụn cánh mũi. Trong thai kỳ, CTC mềm hơn do hiện tượng tăng sinh mạch máu, phì đại mô đệm, phì đại tuyến và tăng sản, đồng thời có sự thay đổi về thành phần và cấu trúc ngoại bào ở CTC [8]. Đến cuối thai kỳ, CTC mềm, dễ mở và mật độ tương tự như niêm mạc môi. Trong giai đoạn đầu, CTC thay đổi cấu trúc mô học, mềm nhưng vẫn ở mức độ vừa phải (dấu hiệu Hegar).

Hình 1*. Cấu trúc sợi collagen.Nguồn: https://ersportsdrink.com/2020/03/why-does-enhanced-recovery-contain-collagen/

Protein cấu tạo chính của CTC là các collagen bị thay đổi cấu trúc dẫn đến làm thay đổi độ bền và độ mềm của mô. Mỗi phân tử collagen gồm ba chuỗi polypeptid alpha xoắn với nhau tạo thành sợi collagen (procollagen). Sợi collagen liên kết với nhau bằng các liên kết chéo thông qua hoạt động của lysyl oxidase để hình thành các bó collagen. Các bó sợi collagen tương tác với các proteoglycans như decoinin hoặc biglycan tượng tự các protein ngoại bào. Những chất này quyết định kích thước, cách sắp xếp và cấu trúc sợi collagen và giúp cho các bó sợi collagen có đường kính đồng nhất, ổn định và chắc chắn [8].

Giai đoạn đầu thai kỳ, giảm các liên kết chéo giữa các sợi collagen do giảm biểu hiện của enzyme lysyl hydroxylase và lysyl oxidase cùng với với giảm biểu hiện của protein ngoại bào. Giảm các protein ngoại bào ảnh hưởng đến độ bền và cấu trúc sợi collagen. Giả thuyết này được chứng minh trên những người có khiếm khuyết di truyền tổng hợp collagen và elastin có sự suy yếu cấu trúc CTC [8].

2.2. Chín muồi cổ tử cungSự thay đổi CTC trước chuyển dạ liên quan đến thay

đổi mô liên kết dẫn đến chín muồi CTC. Quá trình này chuyển từ giai đoạn làm mềm đến giai đoạn chín muồi,

bắt đầu từ vài tuần hoặc vài ngày trước khi khởi phát các cơn go tử cung chuyển dạ. CTC sẽ tiếp tục mềm hơn, mô liên kết thay đổi số lượng và thành phần proteoglycans và glycosaminoglycans. Các nội tiết tố khởi động những phản ứng hóa học gây chín muồi CTC dẫn đến tăng nồng độ PGE2 tại CTC. Tăng PGE2 dẫn đến những thay đổi quan trọng làm chín muồi CTC gồm: Giãn các vi mạch tại CTC, tăng phân giải collagen, tăng acid hyaluronic, tăng hóa hướng động bạch cầu đến CTC, tăng phân giải collagen và tăng kích thích giải phóng Interleukin-8 [8]. Interleukin-8 tăng hóa hướng động bạch cầu và tăng hoạt động của enzyme collagenase. Những thành phần gây viêm này cũng đóng vai trò trung gian gây chín muồi CTC ở các trường hợp sinh non. PGF2-alpha tham gia vào quá trình này thông qua kích thích sản xuất glycosaminoglycan. Ở giai đoạn chín muồi CTC, các liên kết chéo tiếp tục bị giảm đồng thời giảm các protein ngoại bào, làm đường kính bó collagen tăng lên và tăng khoảng cách giữa các sợi. Sự tách rời của các sợi collagen làm mất đi sự toàn vẹn mô CTC.

Như vậy, các nội tiết tố và phản ứng viêm tại chỗ đặc biệt là PGE2 đóng vai trò quan trọng trong quá trình phân giải, phá vỡ cấu trúc các collagen đưa đến hiện tượng

Page 3: Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ...

17

chín muồi CTC. Ngoài ra, các PG làm tăng biểu hiện các thụ thể của oxytocin, tăng nhạy cảm của cơ tử cung với

Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217

oxytocin và trực tiếp tác động lên thụ thể của nó trong quá trình co cơ tử cung.

Hình 2. Thay đổi cấu trúc collagen tại cổ tử cung (8).Nguồn: Mahendroo M. Cervical remodeling in term and preterm birth: insights from an animal model. Reproduction.

2012 Apr 1;143(4):429–38.

2.3. Vai trò của cấu trúc màng ối – màng nhau – màng rụng

Bình thường màng ối là nơi tổng hợp PG, vào cuối thai kì quá trình tổng hợp này tăng lên do tăng phospholipase A2 và hoạt hóa Prostaglandin H Synthase type 2 (PGHS-2). Trong thai kỳ, vận chuyển PG từ màng ối đến mô tử cung bị giới hạn bởi hiện

diện những enzyme bất hoạt PG như Prostaglandin dehydrogenase (PGDH) tại màng nhau. Khi chuyển dạ, PGDH giảm, các PG từ màng ối có thể tác động tạo ra cơn gò tử cung. Vai trò màng rụng trong chuyển dạ vẫn chưa được biết rõ nhưng có thể tham gia vào chuyển hóa progesterone tại chỗ và làm tăng nồng độ thụ thể PG, kéo theo tăng hoạt động của PG [8].

Hình 3. Cấu trúc màng ối – màng nhau – màng rụng.(Nguồn: William Obstetrics and Gynecology 25e)

Page 4: Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ...

18 Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217

Các phương pháp cơ học gây chín muồi CTC thông qua cơ chế tăng áp lực trực tiếp lên hệ thống cấu trúc CTC bên trong và kích thích giải phóng các PG từ màng rụng và mô lân cận hoặc CTC. Những tác động kết hợp thúc đẩy một số thay đổi sinh hóa và sinh lý dẫn đến chín muồi CTC và tăng co cơ tử cung.

3. KỸ THUẬT ĐẶT BÓNG KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠĐặt bóng sử dụng trong khởi phát chuyển dạ thường

có hai loại, bóng đôi (bóng Cook) hoặc bóng đơn. Bóng đôi được thiết kế đặc biệt với một bóng nằm trong và một bóng nằm ngoài CTC. Bóng đơn thường được sử dụng hơn, trên lâm sàng hay dùng sonde Foley.

3.1. Kỹ thuật đặt bóng đơnVệ sinh CTC, âm đạo. Sử dụng kẹp hình tim đẩy đầu

sonde qua CTC vào khoảng giữa màng ối và lỗ trong CTC. Kỹ thuật này thường dễ thực hiện ngay cả khi CTC đóng vì trong thai kì cổ tử mềm và hiếm khi đóng chặt. Sonde cũng có thể đưa vào bằng tay tương tự như ống đo áp lực trong tử cung [10].

Hình 4. Mô tả vị trí đặt bóng đơn.(Nguồn: Penfield CA, Wing DA. Labor Induction Tech-niques: Which Is the Best? Obstet Gynecol Clin. 2017 Dec 1;44(4):567–82.)

Trong một phân tích gộp các thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh sử dụng sonde có thể tích lớn (60 - 80 ml) so với thể tích nhỏ (30 ml). Kết quả cho thấy thể tích bóng lớn làm giảm thời gian từ khi đặt đến khi chuyển dạ (chênh lệch trung bình 1,97 giờ, KTC 95%: -3,88 đến -0,06) nhưng không thay đổi tỷ lệ mổ lấy thai, thời gian đến lúc sinh đường âm đạo, thời gian rớt sonde và tỷ lệ các biến chứng mẹ và thai [11]. Phân tích này gợi ý sử dụng thể tích bóng lớn hoặc nhỏ đều phù hợp.

Bóng được bơm nước muối sinh lý, sau khi bơm, rút nhẹ sonde để bóng tựa vào lỗ trong CTC. Một số đề xuất cố định ống sonde vào đùi và kéo căng. Một thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh cách làm này cho thấy giảm thời gian rớt bóng nhưng không cải thiện thời gian chuyển dạ. Một đề xuất khác kéo căng sonde bằng gắn trọng lực (túi dịch) [11]. Tuy nhiên, kéo trong lực có thể rút ngắn thời gian rớt bóng nhưng không cải thiện thời gian chuyển dạ

trong một thử nghiệm ngẫu nhiên khác [12] .Bóng được lưu tại chỗ cho đến khi tự rớt, hoặc tháo

sau 12 giờ. Một thử nghiệm ngẫu nhiên cho thấy rút bóng sau 12 giờ và truyền oxytocin làm tăng tỉ lệ sinh đường âm đạo trong vòng 24 giờ so với rút bóng sau 24 giờ và truyền oxytocin (tương ứng 60% so với 21%), nhưng không tăng nguy cơ sinh mổ [13].

3.2. Kỹ thuật đặt bóng đôiQuy trình đặt đặt bóng đôi tương tự như đặt bóng

đơn, tuy nhiên có một vài điểm khác biệt. Bóng được đưa vào CTC cho đến khi bóng đầu gần nằm trong ống CTC, khi đó bóng đầu xa sẽ đi qua lỗ trong CTC vào giữa màng ối và lỗ trong CTC. Bơm bóng xa 40 ml nước muối và rút nhẹ để bóng tựa vào lỗ trong CTC. Bóng gần nằm ở lỗ ngoài CTC sẽ được bơm 20 ml nước muối. Nếu hai bóng đặt chính xác ở hai đầu kênh CTC, có thể bơm 80 ml nước muối mỗi bóng.

Các phân tích gộp gồm các thử nghiệm so sánh cho thấy không có sự khác biệt quan trọng kết quả lâm sàng giữa bóng đôi so với bóng đơn [14]. Tuy nhiên, bóng đơn ít tốn kém hơn và có sẵn hơn .

4. HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP ĐẶT BÓNG LÀM CHÍN MUỒI CỔ TỬ CUNG

Chưa có sự thống nhất về định nghĩa CTC thuận lợi hoặc không thuận lợi. Đa số sử dụng ngưỡng Bishop < 6 điểm để định nghĩa CTC không thuận lợi và cần sử dụng tác nhân làm chín muồi. Một số trường phái sử dụng ngưỡng Bishop thấp hơn. Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) (2009) định nghĩa CTC không thuận lợi khi chỉ số Bishop < 6 điểm, nếu trên 8 điểm, khả năng chuyển dạ và sinh đường âm đạo (sau khởi phát) tương đương với chuyển dạ tự nhiên [2].

Phương pháp cơ học phổ biến nhất hiện đang được sử dụng là đặt bóng, thường sử dụng sonde Foley. Phương pháp đặt bóng giúp làm tăng điểm số Bishop trung bình khoảng 3,3 - 5,3 [15]. Một phân tích gộp các phương pháp cơ học khởi phát chuyển dạ cho thấy chỉ có 6% trường hợp CTC không thuận lợi sau đặt bóng 12 giờ, trong khi đó, nhóm không can thiệp có đến 86% trường hợp CTC không thuận lợi (RR: 0,07; KTC 95%: 0,03 - 0,19) [14].

Khi so sánh với các phương pháp sự dụng thuốc, đặt bóng cho thấy hiệu quả tương tự như sử dụng PGE2. Một phân tích gộp trên Cochrane (2019) so sánh kết quả sử dụng bóng với PGE2, misoprostol uống hoặc âm đạo, gồm 113 thử nghiệm lâm sàng trên 22.000 phụ nữ [14]. Đặt bóng và PGE2 không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ sinh đường âm đạo thất bại trong 24 giờ (RR: 1,01; KTC 95%: 0,82 - 1,26) và tỉ lệ mổ lấy thai (RR: 1,00; KTC 95%: 0,92 - 1,09). Trong khi đó, sử dụng bóng làm giảm nguy cơn go tử cung cường tính và tỉ lệ xuất hiện nhịp tim thai bất thường (RR: 0,35; KTC 95%: 0,18 - 0,67), giảm tỷ lệ tử vong chu sinh hoặc mắc các bệnh lý sơ sinh (RR: 0,48; KTC 95%: 0,25 - 0,93) và giảm tỉ lệ nhập Đơn vị Chăm sóc sơ sinh tích cực (RR: 0,82; KTC 95%: 0,65 - 1,04) khi so sánh với sử dụng PGE2. Tuy nhiên, mức độ tin cậy của bằng chứng ở các thử nghiệm trong phân tích gộp này

Page 5: Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ...

19

chỉ nằm ở mức thấp hoặc trung bình. Mặc dù vậy, dữ liệu này cho thấy đặt bóng có hiệu quả tương đương với PGE2 trong làm chín muồi CTC và khởi phát chuyển dạ nhưng tính an toàn cao hơn đáng kể. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy phương pháp đặt bóng giúp giảm thời gian chuyển dạ, thời gian nằm viện và tổng chi phí điều trị khi so sánh với PGE2 [15].

5. TÍNH AN TOÀN CỦA PHƯƠNG PHÁP ĐẶT BÓNG LÀM CHÍN MUỒI CỔ TỬ CUNG

Đặt bóng không có chống chỉ định tuyệt đối ở những thai phụ không có chống chỉ định sinh đường âm đạo. Nhiễm liên cầu nhóm B không phải là chống chỉ định sử dụng các phương pháp cơ học làm chín muồi CTC, cần sử dụng kháng sinh điều trị dự phòng lây nhiễm trước sinh nếu có chỉ định khởi phát chuyển dạ.

Mặc dù đa ối được xem là chống chỉ định sử dụng bóng làm chín muồi CTC đối với loại bóng đôi Cook CPB (Cook Cervical Ripening Balloon). Tuy nhiên, đa ối không phải là chống chỉ định tuyệt đối, có thể chỉ định nếu thai phụ không có các chống chỉ định sinh đường âm đạo khác. Nhau bám thấp là chống chỉ định tương đối, mép bánh nhau có thể bị bong trong quá trình đặt bóng. Khi so sánh với phương pháp làm chín muồi CTC bằng PG, khởi phát chuyển dạ bằng bóng không làm tăng nguy cơ vỡ ối non, sa dây rốn hoặc kết quả bất lợi khi sinh [14].

Hiện tại, nhiều bằng chứng có mức độ khuyến cáo

mạnh không nên đặt bóng nhằm mục đích chín muồi CTC ở những sản phụ có ối vỡ trước chuyển dạ [16]. Một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng năm 2017 gây chín muồi CTC bằng đặt bóng ở những bệnh nhân ối vỡ trước chuyển dạ. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt giữa thời gian từ lúc đặt bóng đến khi có chuyển dạ ở nhóm đặt bóng kết hợp với truyền oxytocin đồng thời so với nhóm truyền oxytocin đơn độc, nhưng có xu hướng tăng tỷ lệ nhiễm trùng ở mẹ (nhiễm trùng ối 6/61 (10%) so với 3/66 (5%), p = 0,31) [17]. Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng năm 2018 cũng cho thấy đặt sonde Foley kết hợp truyền oxytocin khởi phát chuyển dạ trên những sản phụ có ối vỡ trước chuyển dạ không làm giảm thời gian đi vào chuyển dạ nhưng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng ối lâm sàng so với sử dụng oxytocin đơn độc (7/93 (8%) so với 0/108 (0%), p < 0,01) [18].

Ngoài ra, khởi phát chuyển dạ bằng đặt bóng cũng có liên quan đến tỷ lệ go tử cung cường tính nhưng thấp hơn so với sử dụng PG [14]. Một phân tích gộp gồm các thử nghiệm ngẫu nhiên không cho thấy bằng chứng thuyết phục về tăng nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm ở sản phụ hoặc trẻ sơ sinh khi chỉ định làm chín muồi CTC bằng phương pháp cơ học so với PG trên những bệnh nhân chưa vỡ ối [15].

6. HIỆU QUẢ KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ BẰNG KẾT HỢP ĐẶT BÓNG VỚI CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÁC

Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217

Hình 5. Các bước đặt bóng đôi.Nguồn:https://www.ohb.scot.nhs.uk/sites/default/files/publications/Induction%20of%20Labour%201.1.pdf

Page 6: Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ...

20

6.1. Đặt bóng kết hợp với prostaglandinKết hợp phương pháp làm chín muồi CTC bằng đặt

bóng và sử dụng PG có thể có lợi ích nhưng không đáng kể so với chỉ sử dụng một phương pháp duy nhất. Kết hợp hai kỹ thuật này cho thấy tỉ lệ sinh đường âm đạo cao hơn trong vòng 24 giờ so với sử dụng một kỹ thuật nhưng không ảnh hưởng đến tỷ lệ mổ lấy thai chung cũng như có lợi ích vượt trội so với kết hợp đặt bóng và truyền oxytocin. Trong một phân tích gộp năm 2012, kết hợp đặt bóng và sử dụng PG làm tăng khả năng sinh đường âm đạo trong vòng 24 giờ so với chỉ dùng PG (RR 0,45; KTC 95%: 0,28 - 0,71; 3 thử nghiệm, 698 phụ nữ) nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến tỉ lệ sinh mổ (RR 0,92; KTC 95%: 0,79 - 1,08; 8 thử nghiệm, 1295 phụ nữ) [19]. Đặc biệt, cách phối hợp này làm giảm nguy cơ go tử cung cường tính và thay đổi tim thai bất thường (RR 0,53; KTC 95%: 0,35 - 0,78). Một thử nghiệm ngẫu nhiên sau đó đã chứng minh phối hợp (misoprostol và đặt bóng) liên quan đến thời gian sinh nhanh hơn so với nhóm chỉ dùng misoprostol (HR 1,92; KTC 95%: 1,42 - 2,59) hoặc chỉ đặt bóng (HR 1,87; KTC 95%: 1,39 - 2,52). Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về tần suất sinh mổ hoặc kết quả thai kỳ bất lợi đối với mẹ hoặc trẻ sơ sinh [20].

6.2. Đặt bóng và truyền oxytocinSau khi bóng rớt hoặc được tháo ra, nên bắt đầu

truyền oxytocin [21]. Oxytocin có thể bắt đầu truyền đồng thời với lúc đặt sonde. Có bằng chứng cho thấy truyền oxytocin đồng thời với đặt bóng làm tăng khả năng sinh đường âm đạo trong vòng 24 giờ ở một thử nghiệm ngẫu nhiên [22]. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nghiên cứu [23]. Sử dụng đồng thời oxytocin có thể dùng liều thấp cố định hoặc liều tăng dần tiêu chuẩn [15]. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, cả hai cách phối hợp oxytocin đồng thời này đều có kết quả tương tự nhau về thời gian để rớt bóng, thời gian chuyển dạ pha hoạt động và thời gian đến giai đoạn hai của chuyển dạ, tỉ lệ cơn go tử cung cường tính, nhịp tim thai bất thường, tỷ lệ mổ lấy thai và băng huyết sau sinh [23].

7. ÁP DỤNG THỰC HÀNH LÀM CHÍN MUỒI CỔ TỬ CUNG BẰNG CHÈN BÓNG TẠI VIỆT NAM

Chín muồi CTC bằng phương pháp cơ học mang lại nhiều hiệu quả và ít gây biếng chứng, trong đó sử dụng phương pháp chèn bóng được sử dụng ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Đặc biệt trong những trường hợp có vết mổ cũ không có chống chỉ định sinh thường qua ngã âm đạo, chèn bóng Foley được xem là một phương pháp ưu tiên được lựa chọn (phác đồ bệnh viện Từ Dũ – 2019).

Nghiên cứu của Trình Đình Vinh và cộng sự (2019) sử dụng ống thông Foley nhằm chín muồi CTC và khởi phát chuyển dạ ở tuổi thai 37 tuần cho thấy tỉ lệ thành công lên đến 89,7% và không có tác dụng ngoại ý nghiêm trọng nào được báo cáo [24]. Đối với những tuổi thai thấp hơn, Lê Thiện Thái và cộng sự (2014) báo cáo tỉ lệ thành công sau chín muồi CTC và khởi phát chuyển dạ ở những thai kỳ nhỏ hơn 34 tuần có chỉ định đình chỉ là 75,0% [25]. Một nghiên cứu khác của Hồ Thái Phong (2015) sử dụng

ống thông Foley nhằm khởi phát chuyển dạ ở những sản phụ có thai quá ngày cho thấy tỉ lệ thành công là 80,0% (KTC 95%: 71,6 – 89,4%). Trong đó, nhóm sản phụ dưới 35 tuổi có tỷ lệ thành công cao hơn nhóm trên 35 tuổi với RR = 1,9 (KTC 95%: 0,99 – 3,67). Tỷ lệ sinh đường âm đạo là 64,3%. Tỷ lệ sử dụng kết hợp với oxytocin là 68,6%. Không có biến chứng nghiêm trọng, chỉ cảm giác khó chịu chiếm tỷ lệ 21,4% [26].

7. KẾT LUẬNChín muồi CTC là một bước quan trọng giúp khởi

phát chuyển dạ và tăng khả năng sinh thường đường âm đạo. Đặt bóng là một phương pháp gây chín muồi CTC có hiệu quả cao, giảm tỷ lệ các tác dụng phụ như cơn go tử cung cường tính hoặc nhịp tim thai bất thường. Khi có chỉ định chấm dứt thai kì và không chống chỉ định sinh qua ngã âm đạo, phương pháp sử dụng chèn bóng nên được ưu tiên nhằm mục đích gây chín muồi CTC và khởi phát chuyển dạ. Đồng thời, đặt bóng có thể kết hợp truyền oxytocin để tăng hiệu quả làm chín muồi CTC và tăng khả năng khởi phát chuyển dạ. Phương pháp này an toàn, có chi phí thấp và có tính khả thi cao để để áp dụng trên lâm sàng hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bernardes TP, Broekhuijsen K, Koopmans CM, Boers KE, van Wyk L, Tajik P, et al. Caesarean section rates and adverse neonatal outcomes after induction of labour versus expectant management in women with an unripe cervix: a secondary analysis of the HYPITAT and DIGITAT trials. BJOG Int J Obstet Gynaecol. 2016 Aug;123(9):1501–8. 2. ACOG Practice Bulletin No. 107: Induction of labor - PubMed [Internet]. [cited 2021 Jun 16]. Available from: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/19623003/3. Norman JE, Stock S. Intracervical Foley catheter for induction of labour. Lancet Lond Engl. 2011 Dec 17;378(9809):2054–5. 4. Rath W, Stelzl P, Kehl S. Outpatient Induction of Labor – Are Balloon Catheters an Appropriate Method? Geburtshilfe Frauenheilkd. 2021 Jan;81(1):70–80. 5. Sciscione AC. Methods of cervical ripening and labor induction: mechanical. Clin Obstet Gynecol. 2014 Jun;57(2):369–76. 6. Rath W, Kehl S. The Renaissance of Transcervical Balloon Catheters for Cervical Ripening and Labour Induction. Geburtshilfe Frauenheilkd. 2015 Nov;75(11):1130–9. 7. Lim SY, Kim YH, Kim CH, Cho MK, Kim JW, Kang WD, et al. The effect of a Foley catheter balloon on cervical ripening. J Obstet Gynaecol J Inst Obstet Gynaecol. 2013 Nov;33(8):830–8. 8. Cunningham FG, Leveno KJ, Bloom SL, Dashe JS, Spong CY, Hoffman BL, et al. Williams Obstetrics, 25e [Internet]. New York, N.Y.: McGraw Hill Medical; 2018 [cited 2021 Jul 14]. 9. Mahendroo M. Cervical remodeling in term and preterm

Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217

Page 7: Chín muồi cổ tử cung bằng phương pháp đặt bóng: Từ cơ chế đến ...

21

birth: insights from an animal model. Reproduction. 2012 Apr 1;143(4):429–38. 10. Penfield CA, Wing DA. Labor Induction Techniques: Which Is the Best? Obstet Gynecol Clin. 2017 Dec 1;44(4):567–82. 11. Schoen CN, Saccone G, Backley S, Sandberg EM, Gu N, Delaney S, et al. Increased single-balloon Foley catheter volume for induction of labor and time to delivery: a systematic review and meta-analysis. Acta Obstet Gynecol Scand. 2018 Sep;97(9):1051–60. 12. Fruhman G, Gavard JA, Amon E, Flick KVG, Miller C, Gross GA. Tension compared to no tension on a Foley transcervical catheter for cervical ripening: a randomized controlled trial. Am J Obstet Gynecol. 2017 Jan;216(1):67.e1-67.e9. 13. Cromi A, Ghezzi F, Agosti M, Serati M, Uccella S, Arlant V, et al. Is transcervical Foley catheter actually slower than prostaglandins in ripening the cervix? A randomized study. Am J Obstet Gynecol. 2011 Apr;204(4):338.e1-7. 14. de Vaan MD, Ten Eikelder ML, Jozwiak M, Palmer KR, Davies-Tuck M, Bloemenkamp KW, et al. Mechanical methods for induction of labour. Cochrane Database Syst Rev. 2019 Oct 18;10:CD001233. 15. Gelber S, Sciscione A. Mechanical methods of cervical ripening and labor induction. Clin Obstet Gynecol. 2006 Sep;49(3):642–57. 16. Mackeen AD, Durie DE, Lin M, Huls CK, Qureshey E, Paglia MJ, et al. Foley Plus Oxytocin Compared With Oxytocin for Induction After Membrane Rupture: A Randomized Controlled Trial. Obstet Gynecol. 2018 Jan;131(1):4–11. 17. Amorosa JMH, Stone J, Factor SH, Booker W, Newland M, Bianco A. A randomized trial of Foley Bulb for Labor Induction in Premature Rupture of Membranes in Nulliparas (FLIP). Am J Obstet Gynecol. 2017 Sep;217(3):360.e1-360.e7. 18. Mackeen AD, Durie DE, Lin M, Huls CK, Qureshey E, Paglia MJ, et al. Foley Plus Oxytocin Compared With Oxytocin for Induction After Membrane Rupture: A Randomized Controlled Trial. Obstet Gynecol. 2018 Jan;131(1):4–11. 19. Jozwiak M, Bloemenkamp KWM, Kelly AJ, Mol BWJ, Irion O, Boulvain M. Mechanical methods for induction of labour. Cochrane Database Syst Rev. 2012 Mar 14;(3):CD001233. 20. Levine LD, Downes KL, Elovitz MA, Parry S, Sammel MD, Srinivas SK. Mechanical and Pharmacologic Methods of Labor Induction: A Randomized Controlled Trial. Obstet Gynecol. 2016 Dec;128(6):1357–64. 21. Battarbee AN, Palatnik A, Peress DA, Grobman WA. Association of Early Amniotomy After Foley Balloon Catheter Ripening and Duration of Nulliparous Labor Induction. Obstet Gynecol. 2016 Sep;128(3):592–7. 22. Cn S, G G, V B, Mk H, A S. Intracervical Foley Catheter With and Without Oxytocin for Labor Induction: A Randomized Controlled Trial. Obstet Gynecol. 2017 Jun 1;129(6):1046–53.

23. Fitzpatrick CB, Grotegut CA, Bishop TS, Canzoneri BJ, Heine RP, Swamy GK. Cervical ripening with foley balloon plus fixed versus incremental low-dose oxytocin: a randomized controlled trial. J Matern-Fetal Neonatal Med Off J Eur Assoc Perinat Med Fed Asia Ocean Perinat Soc Int Soc Perinat Obstet. 2012 Jul;25[8]:1006–10. 24. Vinh TD, Kong PC, Dung TT, Hien NV. Effective induction of labor using foley intracervical in pregnant women from 37 weeks gestational at Da Nang hospital for Women and Children. Vietnam Journal of Obstetrics & Gynecology. 2019;16[04), 50 – 55. 25. Le, T. T., Nguyen, T. N. H., & Pho, T. Q. C. Effectiveness of transcervical foley catheter induction of labor pregnant ≤ 34 weeks that gestational indicated suspend. Vietnam Journal of Obstetrics & Gynecology, 2014  12(2), 127-129. 26. Ho, T. P., & Pham, V. T. Effective induction of labor using foley transcervical in postterm pregnancy. Vietnam Journal of Obstetrics & Gynecology, 2015; 13(2B), 20 - 23.

Ngô Đình Triệu Vỹ và cs. Tạp chí Phụ sản 2021; 19(2):15-21. doi:10.46755/vjog.2021.2.1217