Top Banner
1 CHƢƠNG 1 CHĂN NUÔI GIA CẦM- THÀNH TỰU VÀ XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN Trong vài chục năm lại đây, ngành chăn nuôi gia cầm trên thế giới đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Sản phẩm trứng và thịt gia cầm không ngừng tăng lên. Có được thành tựu đó là do việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật về di truyền giống, dinh dưỡng, công nghệ sinh học, các thành tựu về cơ giới hoá, điện khí hoá trong chăn nuôi gia cầm nhất là chăn nuôi gia cầm công nghiệp. Mặt khác, xuất phát từ việc hiểu biết sâu sắc và khai thác triệt để các đặc điểm sinh học vốn có của gia cầm nên đã đưa lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trước khi nghiên cứu các vấn đề kỹ thuật cụ thể về chăn nuôi gia cầm cần làm quen với các khái niệm cơ bản. Gia cầm là gì? Gia cầm là tập hợp tất cả những vật nuôi hay săn bắn được nhằm đưa lại lợi ích kinh tế, mà các vật nuôi này có nguồn gốc từ lớp chim (aves). Như vậy, gia cầm bao gồm gà, vịt, ngan, ngỗng, gà tây, chim cút, đà điểu, bồ câu … Tập hợp tất cả các hiểu biết, các kiến thức của nhân loại về gia cầm và các giải pháp nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm ở gia cầm hình thành một ngành khoa học gọi là chăn nuôi gia cầm. Khoa học về chăn nuôi gia cầm và ngành chăn nuôi gia cầm hiện nay đã phát triển ở mức độ cao và trở thành chăn nuôi gia cầm công nghiệp. Chăn nuôi gia cầm công nghiệp với các đặc trưng là: Quy mô lớn, sản phẩm tiêu chuẩn hoá, sản xuất theo quy trình công nghệ cao, sản phẩm mang tính hàng hoá... Chăn nuôi gia cầm bao gồm nhiều lĩnh vực. Hai lĩnh vực sản xuất chính là sản xuất thịt và trứng. Các lĩnh vực khác có liên quan và đôi khi nó cũng trở thành ngành kinh doanh độc lập đó là sản xuất
271

Chăn nuôi gia cầm

Mar 20, 2016

Download

Documents

i4ra i4ra

Chăn nuôi gia cầm
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Chăn nuôi gia cầm

1

CHƢƠNG 1

CHĂN NUÔI GIA CẦM- THÀNH TỰU VÀ XU HƢỚNG

PHÁT TRIỂN

Trong vài chục năm lại đây, ngành chăn nuôi gia cầm trên thế

giới đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Sản phẩm trứng và thịt gia cầm

không ngừng tăng lên. Có được thành tựu đó là do việc ứng dụng

các tiến bộ kỹ thuật về di truyền giống, dinh dưỡng, công nghệ sinh

học, các thành tựu về cơ giới hoá, điện khí hoá trong chăn nuôi gia

cầm nhất là chăn nuôi gia cầm công nghiệp. Mặt khác, xuất phát từ

việc hiểu biết sâu sắc và khai thác triệt để các đặc điểm sinh học vốn

có của gia cầm nên đã đưa lại hiệu quả cao trong chăn nuôi. Trước

khi nghiên cứu các vấn đề kỹ thuật cụ thể về chăn nuôi gia cầm cần

làm quen với các khái niệm cơ bản.

Gia cầm là gì?

Gia cầm là tập hợp tất cả những vật nuôi hay săn bắn được

nhằm đưa lại lợi ích kinh tế, mà các vật nuôi này có nguồn gốc từ

lớp chim (aves). Như vậy, gia cầm bao gồm gà, vịt, ngan, ngỗng, gà

tây, chim cút, đà điểu, bồ câu …

Tập hợp tất cả các hiểu biết, các kiến thức của nhân loại về

gia cầm và các giải pháp nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản

phẩm ở gia cầm hình thành một ngành khoa học gọi là chăn nuôi gia

cầm.

Khoa học về chăn nuôi gia cầm và ngành chăn nuôi gia cầm

hiện nay đã phát triển ở mức độ cao và trở thành chăn nuôi gia cầm

công nghiệp. Chăn nuôi gia cầm công nghiệp với các đặc trưng là:

Quy mô lớn, sản phẩm tiêu chuẩn hoá, sản xuất theo quy trình công

nghệ cao, sản phẩm mang tính hàng hoá...

Chăn nuôi gia cầm bao gồm nhiều lĩnh vực. Hai lĩnh vực sản

xuất chính là sản xuất thịt và trứng. Các lĩnh vực khác có liên quan

và đôi khi nó cũng trở thành ngành kinh doanh độc lập đó là sản xuất

Page 2: Chăn nuôi gia cầm

2

gia cầm giống (gia cầm con, gia cầm hậu bị); sản xuất thức ăn cho

gia cầm; sản xuất, cung ứng các thiết bị phục vụ chăn nuôi gia cầm;

chế biến các sản phẩm và thị trường tiêu thụ các sản phẩm gia cầm.

Chăn nuôi gia cầm phát triển đòi hỏi tất cả các lĩnh vực sản xuất liên

quan này phát triển theo.

Mối quan hệ giữa các lĩnh vực sản xuất trong chăn nuôi gia

cầm được trình bày trên hình 1.1.

Trứng và thịt gia cầm sản xuất ra chủ yếu là để làm thực

phẩm. Trứng còn được dùng trong các ngành chế biến thực phẩm

khác như sản xuất bánh kẹo... Nó còn được dùng trong sản xuất mỹ

phẩm, chế vác-xin. Lông được sử dụng làm đệm, chăn, gối. Gia cầm

còn là đối tượng thích hợp cho các nghiên cứu di truyền, dinh

dưỡng, sinh lý và các quy trình sản xuất mới...vì gia cầm có vòng

đời ngắn, tốc độ sinh sản nhanh, vòng quay các thế hệ nhanh, giá

thành nuôi dưỡng thấp.

THIẾT BỊ PHỤC VỤ CHĂN NUÔI GIA CẦM

Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các lĩnh vực trong chăn nuôi gia cầm

GIỐNG

ẤP

Trứng

CON

SẢN

XUẤT

THỊT

SẢN

XUẤT

TRỨNG

CHẾ BIẾN SẢN PHẨM

GIA CẦM

THỊ TRƯỜNG

Page 3: Chăn nuôi gia cầm

3

1.1.Thành tựu của ngành chăn nuôi gia cầm

1.1.1.Chăn nuôi gia cầm thế giới

Trước đây, chăn nuôi gia cầm chỉ là một ngành sản xuất phụ.

Nuôi gia cầm chỉ để có thêm ít thức ăn hàng ngày, có thêm chút ít

tiền và trong nhiều trường hợp nuôi gia cầm chỉ mang mục đích tiêu

khiển (gà nuôi làm cảnh xem chơi, gà nuôi để tham gia lễ hội...).

Trong vài ba chục năm trở lại đây, chăn nuôi gia cầm đã có bước

phát triển nhảy vọt. Chăn nuôi gia cầm đã chuyển từ phương thức

chăn nuôi ―nông nghiệp‖ sang phương thức chăn nuôi ―công

nghiệp‖. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được nghiên cứu, ứng

dụng nhanh chóng trong chăn nuôi gia cầm. Kết quả của quá trình

này là các đơn vị chăn nuôi gia cầm quy mô lớn thay thế dần cho các

cơ sở chăn nuôi nhỏ - một sự chuyển đổi cơ bản trên tất cả các lĩnh

vực của ngành sản xuất chăn nuôi gia cầm. Nhờ việc ứng dụng các

tiến bộ khoa học kỹ thuật về di truyền, giống, dinh dưỡng, công nghệ

sản xuất, máy ấp trứng... mà chăn gia cầm thế giới đã phát triển

nhanh cả về số lượng đầu con, sản lượng trứng, thịt, chất lượng sản

phẩm, giá thành trong sản xuất sản phẩm gia cầm giảm đi, chất dinh

dưỡng cung cấp cho con người với giá rẻ ngày càng tăng lên nhờ vào

nguồn trứng và thịt gia cầm.

Trong vài thập niên trở lại đây, ngành chăn nuôi gia cầm trên

thế giới phát triển mạnh về cả số lượng và chất lượng. Đó là kết quả

của việc áp dụng những thành tựu di truyền chọn giống kết hợp với

các biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng có cơ sở khoa học. Năm 1999

(theo FAO), tổng đàn gia cầm trên thế giới khoảng 10 tỷ con, trong

đó 96,7% gà, 1,8% vịt, còn lại là các gia cầm khác. Tổng đàn gà trên

thế giới cũng tăng theo thời gian, cụ thể là năm 2000:14.831,9 triệu

con; năm 2001: 15.526,26 triệu con; năm 2002: 16.373,16 triệu con;

năm 2004:16.605,13 triệu con .

Ở các nước đang phát triển số đầu con gia cầm tăng nhanh từ

năm 2000 - 2003 (bảng 1.1).

Page 4: Chăn nuôi gia cầm

4

Bảng 1.1: Số lƣợng gia cầm ở các nƣớc đang phát triển

(Đơn vị tính: 1.000.000. con)

Tên nƣớc Năm 2000

Năm

2001

Năm

2002

Năm

2003

Trung Quốc 3.623,01 3.769,49 4.098,91 3.980,55

Ấn Độ 568,00 658,00 737,00 842,00

Indonesia 859,50 960,16 1.218,41 1.290,10

Lào 13,09 14,06 15,27 20,00

Malaysia 123,65 149,59 160,84 170,00

Myanmar 44,76 55,08 51,13 60,00

Philipin 115,19 115,61 125,73 128,19

Thái Lan 224,73 232,71 235,23 277,11

(Nguồn: FAO,2004)

Sản xuất trứng và thịt gia cầm ngày càng tăng lên, nhất là ở

các nước có ngành công nghiệp phát triển.

Theo các số liệu thống kê của FAO thì sản lượng trứng gia

cầm của thế giới từ 401,5 tỉ năm 1975 tăng lên 552 tỉ năm 1985.

Tính trong cả giai đoạn từ 1965-1981, sản lượng trứng sản xuất ra

của thế giới tăng 64,79%; trung bình mỗi năm tăng 5,05%. Cũng

trong thời gian đó thì sản xuất thịt gia cầm tăng 2,47 lần và đạt 28,7

triệu tấn năm 1985.

Sản lượng trứng gia cầm trên thế giới năm 2003 đạt 55,8 triệu

tấn; Châu Á là khu vực đạt sản lượng cao nhất 33 triệu tấn (chiếm

59,14%), tiếp đến là Châu Âu 9,8 triệu tấn (chiếm17,56%), khu vực

Bắc Mỹ 7,9 triệu tấn, khu vực Trung Mỹ 2,9 triệu tấn; Châu Phi 2,1

triệu tấn và thấp nhất là Châu Đại Dương 0,2 triệu tấn. Châu Á có

mức tăng trưởng cao nhất, đặc biệt Trung Quốc luôn là nước đứng

đầu thế giới về sản lượng trứng. Năm 2003 đạt 22,332 triệu tấn,

chiếm 40,02% sản lượng trứng của toàn thế giới.

Page 5: Chăn nuôi gia cầm

5

Trên thế giới có 7 nước đạt sản lượng trứng gia cầm trên 1

triệu tấn: Trung Quốc 22,332 triệu tấn; Mỹ 5,123 triệu tấn; Nhật Bản

2,5 triệu tấn; Ấn Độ 2,200 triệu tấn; Nga 2,04 triệu tấn; Mexico

1,882 triệu tấn; Brazin 1,55 triệu tấn. Trong khi đó Việt Nam là

0,2345 triệu tấn trứng gà đứng thứ 30 trên thế giới.

Sản xuất trứng trên thế giới không ngừng tăng lên, nhưng tốc

độ tăng không đồng đều giữa các vùng trên thế giới. Còn có những

vùng riêng biệt, thậm chí cả châu lục (Châu Phi) mà ở đó sản phẩm

gia cầm là chưa đáng kể.

Sự tăng sản xuất trứng gia cầm trên thế giới chủ yếu là tăng

sản lượng trứng trung bình của một gia cầm mái. Trung bình ở Hà

Lan, Mỹ, Nhật, sản lượng trứng trung bình của một gà mái là 250-

280, hoặc 300, trên 300 quả mỗi năm. Triển vọng là sản lượng trứng

nhận được từ một gà mái đẻ/ năm sẽ đạt đến 300 quả trên phạm vi

toàn thế giới.

Sản xuất trứng tăng làm tăng sức tiêu thụ trứng trên một

người dân. Mức tiêu thụ trứng gia cầm/ người/ năm bình quân thế

giới năm 2002 là 8,4 kg; cao nhất là Nhật Bản 19,1kg; thấp nhất là

Tandikistan 0,5 kg và ở Việt Nam là 2,6 kg (FAO). Ở các nước Nga,

Đức, Ý... mức tiêu thụ trứng trên đầu người sẽ tăng cao. Một bước

nhảy vọt đáng kể là Trung Quốc, không chỉ thoả mãn cho nhu cầu

của dân số nước này hiện nay, mà trong tương lai sẽ cung cấp cho

mỗi người dân 13 kg trứng, con số đó gấp 4 lần năm 1975. Mức tiêu

thụ trứng ở một số nước phát triển lên tới 400 quả và mức tiêu thụ

thịt gia cầm lên đến 34 kg/người/năm (Israel), mức trung bình ở các

nước phát triển là 250-280 quả trứng và 15-20 kg thịt/người/năm.

Dự báo trong những năm tới, sản xuất trứng tăng lên ở nhiều

vùng, nhiều khu vực trên thế giới, đặc biệt tăng nhanh ở các nước có

nền công nghiệp phát triển, ở các nước có mật độ dân số cao và một

số nước Châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ...).

Page 6: Chăn nuôi gia cầm

6

Sản lựợng thịt gia cầm trên thế giới năm 2003 đạt 75,8 triệu

tấn; tăng 1,4 triệu tấn so với năm 2002 (tăng 1,88%) và tăng 27,7

triệu tấn so với năm 1998 (tăng 57,50%).Thịt các loại gia cầm khác

nhau cũng có những biến động khác nhau (bảng 1.2).

Thịt gà: Châu Mỹ sản xuất tới 4,92%, châu Á 31,54%, Châu

Âu 15,5% so với toàn thế giới. Thịt gà tây: chủ yếu được sản xuất ở

Châu Mỹ 55,7%, Châu Âu 38,7% so với toàn thế giới. Ở Châu Á,

thịt thủy cầm chiếm 86,2%.

Năm 2003 có 11 nước trên thế giới sản xuất trên 1 triệu tấn

thịt gia cầm, đó là Mỹ 14,855 triệu tấn; Trung Quốc 9,518 triệu tấn;

Brazin 7,78 triệu tấn; Mexico 2,157 triệu tấn; Ấn Độ 1,440 triệu tấn;

Liên hiệp Anh 1,294 triệu tấn; Thái Lan 1,227 triệu tấn; Nhật Bản

1,218 triệu tấn; Pháp 1,130 triệu tấn; Nga 1,033 triệu tấn; Tây Ban

Nha 1,020 triệu tấn. Trong khi đó sản lượng thịt gia cầm của Việt

Nam năm 2003 là 0,372 triệu tấn, đứng thứ 43 trên thế giới.

Bảng 1.2: Sản lƣợng thịt gia cầm của các khu vực năm 2003

(Đơn vị tính: triệu tấn)

Châu lục Thịt gà

Thịt gà

tây Thịt vịt

Thịt

ngỗng

Thế giới 65,00 5,35 3,31 2,13

Châu Á 20,50 0,16 2,70 1,99

Châu Âu 10,10 2,07 0,45 0,08

Châu Mỹ 30,50 2,98 0,08 0,10

Châu Phi 3,10 --- 0,06 0,06

Châu

Đại Dương 0,80 --- --- ---

(Nguồn: FAO,2004; Ghi chú: --- ít hơn 50 ngàn tấn)

Thành tựu trong sản xuất thịt gia cầm là rất to lớn (sản xuất

gà thịt broiler). Khối lượng giết thịt lý tưởng đạt được chỉ sau 8 tuần,

6 tuần, thậm chí là ở 4 tuần tuổi. Kết quả lớn hơn nữa là xét trong

Page 7: Chăn nuôi gia cầm

7

mối quan hệ giữa thể trọng và chi phí thức ăn cho 1 kg thể trọng

thấp. Ví dụ như hãng Marsel (Đức): thể trọng gà đạt 2,90 kg ở 56

ngày tuổi, chi phí 2,17 kg thức ăn cho 1 kg thể trọng. Hãng Scotlan:

thể trọng gà đạt 2,8 kg ở 42 ngày tuổi.

Với các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái

Lan... sản lượng thịt gia cầm cũng phát triển nhanh qua các năm

(bảng 1.3).

Bảng 1.3: Sản lƣợng thịt gia cầm sản xuất ở các nƣớc

đang phát triển

(Đơn vị tính: 1.000 tấn)

Tên nớc Năm 2000 Năm2001 Năm 2003

Trung Quốc 9.025 9.310 9.518

Ấn Độ 575 595 1.440

Indonesia 804 807 952

Lào 10 11 14

Malaysia 770 780 765

Myanmar 176 196 256

Philippin 322 333 635

Thái Lan 1.117 1.200 1.227

Năm 2002 mức tiêu thụ thịt gia cầm bình quân theo đầu

người/ năm của thế giới 11,7 kg, cao nhất là Israel 71,9kg, Mông Cổ

là nước có mức tiêu thụ thịt gia cầm bình quân đầu ngời thấp nhất

0,1kg; còn ở Việt Nam 5,6kg.

Theo ước tính của FAO, năm 2005 sản lượng thịt gia cầm

trên thế giới sẽ đạt mức 88 triệu tấn. Đây là mức độ tăng trưởng cao

nhất so với mức tăng của các loại thịt. Giá thịt gà trên thế giới có xu

hướng giảm, và thấp hơn các loại thịt khác. Năm 1990, giá thịt gà

chỉ bằng 29,2% so với giá thịt lợn và bằng 31,76% so với giá thịt của

đại gia súc.

Page 8: Chăn nuôi gia cầm

8

Các tiến bộ khoa học kỹ thuật được nghiên cứu và ứng dụng

một cách rộng rãi, nhanh chóng trong chăn nuôi gia cầm. Các phư-

ơng thức chăn nuôi gia cầm cũng thay đổi, từ phương thức chăn nuôi

nông nghiệp chuyển sang phương thức chăn nuôi theo qui mô công

nghiệp với số lượng lớn, quản lý chặt chẽ và chăm sóc tốt. Dự báo

đầu năm 2010 sản xuất thịt và trứng tăng lên ở nhiều khu vực trên

thế giới, đặc biệt là các nước có ngành công nghiệp phát triển và các

nước có dân số cao. Mức tiêu thụ thịt gà trên thế giới dự kiến sẽ tăng

cao hơn.

Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, nhu cầu tiêu dùng của

con người về nguồn protein động vật ngày càng cao. Để đáp ứng nhu

cầu của thị trường, hàng loạt công nghệ mới được ứng dụng nhằm

tăng khả năng sản xuất thịt và trứng của gia cầm. Việc ứng dụng các

công nghệ mới và công nghệ sinh học để cải tiến bản chất di truyền

nhằm tạo ra những giống gia cầm mới có phẩm chất trứng - thịt

thơm ngon.

Sự tăng nhanh các sản phẩm gia cầm trên thế giới là do các

nguyên nhân sau:

*Tạo ra và ứng dụng nhanh các giống và các dòng gia cầm lai

có năng suất cao (sản lượng trứng cao và tốc độ sinh trưởng nhanh).

*Nhờ việc nghiên cứu và áp dụng các hệ thống chăn nuôi hợp

lý; công thức thức ăn hợp lý; quy trình công nghệ thích hợp đối với

từng đối tượng gia cầm; điện khí hoá và tự động hoá việc kiểm tra

tiểu khí hậu trong chuồng nuôi...

*Cung cấp các thiết bị hoàn chỉnh phục vụ chăn nuôi gia cầm

công nghiệp: Máy ấp trứng công suất cao, tỷ lệ ấp nở cao; máy đếm

gia cầm con - trong 1 giờ chuẩn bị và đếm được 25.000 con; máy soi

trứng trong máy ấp – 70.000 quả/giờ; máy chủng vác-xin cho gia

cầm 1 ngày tuổi; thiết bị sấy khô và làm sạch phân gia cầm; thiết bị,

dụng cụ phục vụ thụ tinh nhân tạo gia cầm...

Page 9: Chăn nuôi gia cầm

9

1.1.2.Chăn nuôi gia cầm ở các nƣớc nhiệt đới ẩm

Chăn nuôi gia cầm ở các nước nhiệt đới có những nét khác

biệt với tình hình chung của thế giới. Quá trình thương mại hoá chăn

nuôi gia cầm mới bắt đầu phát triển trong thời gian gần đây. Ở các

nước này, trong một chừng mực nào đó, có sự trái ngược với các

nước đã nói trên. Chăn nuôi gia cầm công nghiệp trong tình trạng

thiếu vốn, bao gồm nhiều đơn vị sản xuất nhỏ, lao động trông chờ

chủ yếu vào lao động thủ công... vì vậy ngành chăn nuôi gia cầm

diễn ra ở trình độ thấp, giá thành sản phẩm gia cầm còn cao. Đặc

biệt bệnh tật, rủi ro sảy ra thường xuyên với đàn gia cầm. Dịch cúm

gia cầm H5N1 trong các năm 2003 đến nay gây hậu quả nghiêm

trọng và tổn thất lớn về kinh tế không chỉ cho các nước ở khu vực

này, mà còn ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội và sức khoẻ con người

trên phạm vi toàn thế giới. Các yếu tố đó dẫn đến mức tiêu thụ gia

cầm ở các nước này còn thấp. Ví dụ: Ước lượng vài năm lại đây ở

Nigiêria, mức tiêu thụ trứng chỉ khoảng 20-25 quả/người/năm, trong

khi đó ở Châu Âu và Châu Mỹ khoảng 250-300 quả/người/năm.

Chăn nuôi gia cầm ở các nước nhiệt đới là đơn điệu (không

đa dạng), chỉ nhấn mạnh sản xuất chính là trứng và chỉ một đối

tượng gia cầm là gà nhà. Trong khi đó, về hiệu quả kinh tế (lợi

nhuận) và về mặt dinh dưỡng thì chăn nuôi các loại gia cầm khác sẽ

tốt hơn. Ví dụ: Có nhiều giống vịt sinh trưởng nhanh, sức đề kháng

với bệnh tật tốt hơn cả gà, có thể cho tới 300 trứng/năm (vịt

khakicampbell) nhưng chưa được nuôi rộng rãi. Thế giới nuôi gà

theo 3 hướng sản xuất: hướng thịt, hướng trứng và hướng kiêm dụng

(vừa trứng vừa thịt) còn các nước ở vùng nhiệt đới thì hướng nuôi

thịt ít được đặt ra.

1.1.3.Chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam

Ở Việt Nam trước đây, chăn nuôi gia cầm mang tính tự cấp tự

túc, chưa có ý nghĩa như là một ngành sản xuất hàng hoá. Ngành

Page 10: Chăn nuôi gia cầm

10

chăn nuôi gà công nghiệp có thể lấy mốc từ năm 1974, khi mà hai

trung tâm giống Quốc gia được xây dựng đó là trung tâm giống gà

hướng trứng Ba Vì (Sơn Tây) và trung tâm giống gà thịt Tam Đảo

(Vĩnh Phúc). Đàn gà giống hướng thịt và hướng trứng được nhập

vào nước ta từ Cuba cũng từ năm 1974 với 2 vạn trứng giống của

các dòng thuần.

Gà dòng thuần hướng trứng giống Leghorn, nhập về 2 dòng là

X và Y. Ban đầu nuôi ở Ba Vì, xí nghiệp gà Lương Mỹ (Hà Tây), xí

nghiệp gà Minh Tâm (Sông Bé) và các trại gà thương phẩm khác

trong nước.

Gà dòng thuần hướng thịt giống Plymouth Rock, nhập về 3

dòng là 799; 488; 433. Ban đầu nuôi ở trung tâm gà thịt Tam Đảo,

sau đó phát triển nuôi nhiều ở Tam Đảo, xí nghiệp gà Tam Dương

(Vĩnh Phúc), Trại gà Hồng Sanh (Sông Bé) và nhiều cơ sở nuôi khác

trong cả nước.

Ngoài 2 trung tâm giống gà cấp Quốc gia còn phải kể đến các

cơ sở lớn đó là: Trung tâm nghiên cứu gia cầm thuộc liên hiệp các xí

nghiệp gia cầm Trung Ương, Hà Đông (Sơn Tây), các trại giống

Cẩm Bình (Hải Hưng), Trại Gò Vấp (TP.Hồ Chí Minh), Trại gia

cầm Thụy Phương (Viện chăn nuôi quốc gia), Trung tâm giống vịt

Đại Xuyên (Hà Tây)...

Trong những năm 1985-1995, chăn nuôi gia cầm nhất là gà

công nghiệp phát triển với tốc độ nhanh. Tổng đàn gà công nghiệp

năm 1985 là 9,2 triệu con. Sản lượng trứng trung bình trong khu vực

quốc doanh là 167 quả/gà mái/năm; ở khu vực gia đình sản lượng

trứng còn thấp hơn. Đàn gà công nghiệp năm 1991 chiếm 5-7% tổng

đàn gia cầm thì năm 1994 đã tăng lên 25%. Năm 1994 đã đạt 5 vạn

tấn thịt gà. Sản xuất trứng cũng tăng lên đáng kể. Năm 1991, toàn

ngành sản xuất được 8,5 triệu trứng giống, tiêu thụ chỉ được 40-45%

(đưa vào ấp sản xuất gà con giống). Năm 1994 đã đạt 18,5 triệu,

Page 11: Chăn nuôi gia cầm

11

trong đó 95% được ấp cho ra gà con giống. Tính lãi ròng trong sản

xuất giống là 20-40%, trong sản xuất thương phẩm là 12-13%.

Các cơ sở sản xuất giống gà đều có hướng phát triển tốt.

Trung tâm Ba Vì năm 1993 sản xuất 1,6 triệu trứng giống, tăng 5-

10% so với năm 1992. Năm 1994 đã sản xuất 2,2 triệu trứng, trong

đó 53 nghìn trứng giống gà thịt (70% cung cấp cho các tỉnh phía

Nam). Trung tâm Tam Đảo 9 tháng thu 650.000 trứng, cả năm sản

xuất được 850.000 trứng. Trại Lương Mỹ sản xuất 2 triệu trứng

giống, 406.000 gà giống 1 ngày tuổi, 46,8 tấn thịt gà...

Ngoài các giống gà nói trên, từ năm 1985 đến nay nhập thêm

nhiều giống mới như Hybro, Hubbard White, Hubbard Golden

Cormet, Isabrown..., các dòng bố mẹ lai tạo gà lai đẻ trứng nâu:

Goldline, Moravia,...

Từ năm 1996, cùng với sự đổi mới kinh tế đất nước, ngành

chăn nuôi gia cầm có những bước tiến nhảy vọt. Nhiều giống gia

cầm có lông màu, năng suất trứng và thịt khá được nhập vào nước ta,

thích hợp với chăn nuôi (thả vườn) trong gia đình như gà Tam

Hoàng, Kabir, Lương Phượng, gà Ai Cập; các giống vịt siêu thịt

(Super meat), siêu trứng (Khakicampbell, Cv.2000). Không chỉ gà

mà nhiều đối tượng gia cầm khác cũng được nhạp nội và khuyến

khích phát triển như bồ câu Pháp ( Titan, Mimas), ngan Pháp (dòng

R31, R51, R71...), chim cút, đà điểu...Tuy vậy dịch cúm gia cầm

trong các năm 2003-2005 và ngay cả hiện tại đã và đang gây tổn thất

lớn cho ngành chăn nuôi nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Sản phẩm gia cầm tăng lên rõ rệt qua các năm (bảng 4). Năm

2000, sản lượng thịt 286,513 nghìn tấn, sản lượng trứng 3,708 tỷ

quả. Năm 2003, sản lượng thịt 372,720 nghìn tấn và trứng 4,854 tỷ

quả. Đến năm 2004, có 332,000 nghìn tấn thịt và 4,260 tỷ quả trứng.

Như vậy đàn gia cầm bắt đầu giảm từ năm 2003 do dịch cúm gia

cầm.

Page 12: Chăn nuôi gia cầm

12

Ngành chăn nuôi gia cầm nước ta đang phát triển, tuy vậy sản

phẩm chăn nuôi gia cầm bình quân/ đầu người/ năm còn thấp. Năm

1995 có 17,75kg tổng số thịt hơi các loại chiếm 100%, trong đó có

thịt gia cầm hơi 2,64kg chiếm 14,8%; trứng 37,9 quả. Năm 1997 có

19,59kg tổng số thịt hơi các loại chiếm 100%, trong đó có thịt gia

cầm hơi 2,95kg chiếm 15,1%; trứng 37,9 quả. Năm 2003, sản lượng

trứng gia cầm bình quân/ đầu người/ năm là 45,0 quả, còn thịt gia

cầm 3,36kg chiếm 15,0% trong tổng số thịt hơi các loại là 22,40kg

(Lê Bá Lịch,2003).

Bảng 1.4: Sản phẩm gia cầm qua các năm

Năm

Tổng đàn

gia cầm

(triệu con)

Đàn gà

(triệu con)

Thịt gia

cầm (Tấn)

Trứng

(tỷ quả)

1980 61,522 48,391 - 1,103200

1985 87,803 64,817 - 1,472000

1990 103,820 80,184 167,900 1,896400

1995 140,004 107,958 197,084 2,825025

2000 198,046 147,050 286,513 3,708605

2001 276,000 218,037 322,602 4,161844

2002 297,900 233,300 362,300 4,722000

2003 323,300 254,100 372,720 4,852000

2004 277,100 218,200 316,400 3,939000

2005 279,900 219,900 321,900 3,948000

Nguồn: Cục Chăn nuôi Bộ NN-PTNT năm 2005

Ngành chăn nuôi gia cầm đã tiếp cận một số công nghệ tiên

tiến của thế giới về giống, thức ăn, thuốc thú y và quy trình chăm

sóc nuôi dưỡng. Ở nước ta cũng đã hình thành nhiều cơ sở chăn nuôi

gia cầm quy mô lớn. Theo ước tính, đến nay cả nước có trên 100.000

hộ chăn nuôi theo hình thức trang trại tại 8 vùng sinh thái khác nhau,

Page 13: Chăn nuôi gia cầm

13

thay thế dần kiểu chăn nuôi tự cấp, tự túc, tận dụng sản phẩm phụ

của trồng trọt như trước đây bằng kiểu chăn nuôi hàng hóa quy mô

vừa và một số ít trang trại có quy mô chăn nuôi hàng hóa lớn đã xuất

hiện.

Cơ cấu giống gia cầm 80% là các giống địa phương, chỉ có

20% là các giống cao sản nhập nội, và những giống gia cầm cao sản

này được nuôi chủ yếu theo phương thức chăn nuôi công nghiệp.

Phân bố đàn gia cầm: Đàn gà chủ yếu tập trung tại các tỉnh

phiá Bắc (từ khu bốn cũ trở ra) 75%, còn 25% tập trung ở phía Nam.

Đàn vịt chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long (55%), còn

lại phân bố ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung.

Ngành chăn nuôi gia cầm trong những năm gần đây đạt được

những thành tựu to lớn, tuy vậy còn gặp không ít khó khăn. Ngành

chăn nuôi gia cầm nước ta chủ yếu là quy mô nhỏ, phân tán, chăn

nuôi hộ gia đình, tận dụng phụ phế phẩm nông nghiệp. Các trang trại

chăn nuôi gia cầm với quy mô vừa và lớn mặc dù đã hình thành tại

một số vùng sinh thái, song chiếm tỷ lệ chưa cao, thị trường tiêu thụ

sản phẩm chăn nuôi gia cầm còn khó khăn, cơ sở hạ tầng và dịch vụ

chăn nuôi nhìn chung còn thấp kém, hầu hết chưa đảm bảo quy trình

kỹ thuật. Nguy cơ dịch bệnh đối với đàn gia cầm và an toàn thực

phẩm cho người ngày càng nghiêm trọng. Năm 2004, một năm thật

sự khó khăn, người chăn nuôi phải đối phó với dịch cúm gia cầm,

nhưng ngành chăn nuôi vẫn đạt mức tăng trưởng 8%/năm với tổng

sản lượng thịt hơi 2,63 triệu tấn tăng 10,85% đưa mức bình quân thịt

hơi/người/năm đạt 31,5 kg.

Ngay từ cuối năm 2003 và quý I năm 2004, dịch cúm gia cầm

bùng phát trên diện rộng khắp 57 tỉnh thành, 38 triệu con gia cầm bị

tiêu hủy. Ngành chăn nuôi gia cầm thật sự lao đao. Sát cánh, chia sẻ

rủi ro với người chăn nuôi, Đảng và Nhà nước đã vào cuộc với nỗ

lực cao nhất nên đến hết tháng 3/2004 dịch cúm gia cầm cơ bản đã

Page 14: Chăn nuôi gia cầm

14

được dập tắt. Hệ thống giống quốc gia được bảo vệ an toàn, sẳn sàng

cung cấp con giống để tái phát triển đàn gia cầm.

Định hướng sản xuất của đàn gà công nghiệp nước ta là: Nhà

nước quản lý và sản xuất con giống, nông dân nuôi thương phẩm và

sản xuất ra thịt, trứng, nhà nước mua lại và bao tiêu sản phẩm.

1.2. Định hƣớng phát triển của ngành chăn nuôi gia cầm

Ngành chăn nuôi gia cầm trong thời gian tới phát triển theo

định hướng sau đây:

1.2.1.Về giống

*Gia cầm hướng đẻ trứng

-Tập trung theo hướng tăng sản lượng trứng tính theo mái đầu

kỳ. Giữ nguyên hoặc giảm số đầu gia cầm mái. Khai thác trứng đến

75-78 tuần tuổi, sản lượng trứng đạt 290-315 quả/con/năm.

-Tăng hiệu quả sử dụng thức ăn đồng thời giảm khối lượng cơ

thể gà.

-Gà mái đạt 50% tỉ lệ đẻ ở lứa tuổi sớm hơn trước. Hàng loạt

các hãng gia cầm đã cố định thời gian đạt 50% tỉ lệ đẻ là 150-155

ngày (Lomann, Dekalb); nhưng ở một số hãng khác (Goto của Nhật,

Nicchic, Hailain của Mỹ) lại cố định thời gian này là 161-168 ngày.

-Giữ tỉ lệ đẻ cao (hơn 90%) trong vòng 9-15 tuần, có tỉ lệ đẻ

cao trong suốt thời gian sử dụng (76-78 tuần tuổi) và không thấp hơn

60% ở cuối giai đoạn khai thác.

-Chất lượng trứng tốt, tỉ lệ trứng dập vỡ không quá 5%.

-Tỉ lệ nuôi sống cao, tỉ lệ thụ tinh và tỷ lệ ấp nở cao.

- Chọn tạo các giống/dòng gà lai đẻ trứng vỏ màu thay cho gà

đẻ trứng vỏ trắng nhằm tăng tỷ lệ gà lai đẻ trứng vỏ màu trong cơ

cấu đàn gà hướng trứng.

Page 15: Chăn nuôi gia cầm

15

*Gia cầm hướng thịt

-Chọn gia cầm có thể trọng lớn, tốc độ sinh trưởng nhanh, sử

dụng thức ăn tốt và có lông màu trắng. Gia cầm có độ sinh trưởng

đồng đều cao, sức sống cao, phẩm chất thịt tốt.

Ở nước ta, tiếp tục đa dạng các đối tượng gia cầm nuôi. Đưa

gia cầm vào cơ cấu cây trồng vật nuôi phục vụ mục tiêu phát triển

kinh tế xoá đói giảm nghèo. Chọn giữ và bảo tồn quỹ gen các giống

gia cầm quý đã có từ lâu đời ở nước ta. Nhập nội và lai tạo các giống

gà thích hợp với nuôi chăn thả trong nông hộ và các trang trại nông

nghiệp. Cải tiến phương thức chăn nuôi truyền thống để nâng cao

năng suất, chất lượng sản phẩm và khống chế được dịch bệnh,

hướng tới sản xuất bền vững và sản xuất thực phẩm sạch đáp ứng

nhu cầu trong nước và một phần cho xuất khẩu. Mục tiêu và định

hướng phát triển chăn nuôi gia cầm đến năm 2010, 2015 như bảng

1.5.

Bảng 1.5: Chỉ tiêu phát triển đàn gia cầm đến năm 2015

Năm

Các chỉ tiêu 2006 2010 2015

Đàn gà (triệu con) 173 233 350

Thủy cầm (triệu con) 55,5 48,8 43,7

Thịt gà (ngàn tấn) 321,8

188,0 225,0

Thịt vịt (ngàn tấn) 248,2 250,0

Trứng gia cầm (triệu quả) 3.948,5 7.920 10.207

Bình quân thịt xẻ/người/năm (kg)

Năm 2005: 25,8

2006: 27,7

2008: 31,9

2010: 38,2

2015: 50,5

Page 16: Chăn nuôi gia cầm

16

1.2.2.Về thức ăn và nuôi dƣỡng

-Tìm cách giảm chi phí thức ăn trên một đơn vị sản phẩm thịt,

trứng; tiết kiệm các thành phần dinh dưỡng trong thức ăn, nhất là

thức ăn đạm, để có lợi nhuận sản xuất cao.

-Tìm các nguồn nguyên liệu mới, tận dụng tối đa các phế thải

trong công nghiệp giết mổ gia cầm. Nghiên cứu ảnh hưởng của các

thức ăn này tới chất lượng thịt gia cầm.

-Hoà thiện định mức các chất dinh dưỡng, trước hết là protein

và axít amin.

-Nghiên cứu hiệu quả bổ sung các hoạt chất sinh học

(vitamin, enzyme...) vào khẩu phần nuôi gia cầm.

Theo các định hướng trên, nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu

theo hướng sử dụng phần lớn năng lượng từ khẩu phần vào việc tăng

trọng và tạo trứng, còn phần nhỏ cho duy trì. Làm tăng tính thành

thục ở gia cầm để rút ngắn thời gian nuôi gà broiler. Nghiên cứu đưa

các axít amin không thay thế vào khẩu phần để giảm hàm lượng

protein thô...

1.2.3. Nghiên cứu quy trình nuôi thích hợp

Tập trung các nghiên cứu tạo ra điều kiện nuôi lý tưởng. Hạn

chế đến mức thấp nhất tác động của ngoại cảnh đến năng suất chăn

nuôi. Xây dựng các quy trình nuôi thích hợp cho từng đối tượng gia

cầm riêng biệt. Tăng cường đưa các thiết bị tự động hoá, đồng bộ

các quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, chế biến sản phẩm. Tạo sản

phẩm có độ an toàn cao. Xây dựng các quy trình thú y chặt chẽ,

kiểm soát, phòng ngừa tích cực dịch bệnh, vệ sinh môi trường và tạo

ra các sản phẩm an toàn từ chăn nuôi gia cầm...

1.2.4. Thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm và chính sách phát

triển

Nghiên cứu chế biến sản phẩm gia cầm và thị trường tiêu thụ

các sản phẩm gia cầm trong và ngoài nước. Hoàn thiện các văn bản

pháp quy và chính sách đầu tư, khuyến khích phát triển chăn nuôi

Page 17: Chăn nuôi gia cầm

17

gia cầm, tạo động lực cho sự phát triển tốt hơn.

NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

1. Phân tích tình hình chăn nuôi gia cầm thế giới và xu hướng

phát triển trong những năm tới.

2. Phân tích tình hình chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam trong 10

năm qua và định hướng phát triển đến năm 2015.

Page 18: Chăn nuôi gia cầm

18

CHƢƠNG 2

ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ GIA CẦM

Trước khi nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật cụ thể về nuôi

dưỡng, chăm sóc, quản lý gia cầm cần phải có những hiểu biết cơ

bản về đặc trưng sinh lý của nó.Các đặc điểm về giải phẫu sinh lý ở

gà thường được lấy đó làm đại diện cho gia cầm nói chung. Vì vậy

dưới đây sẽ trình bày những nét cơ bản về giải phẫu sinh lý gà nhà,

có so sánh với các đối tượng gia cầm khác.

2.1.Đặc trƣng ngoại hình (bên ngoài)

Ngoại hình của gà được trình bày trên hình 2.1. Gà có dạng

điển hình của lớp chim (aves), một động vật có xương sống bậc cao

đã thích ứng với điều kiện sống bay nhảy. Toàn thân được bao phủ

bằng lông và yếm. Lông cườm và lông trên lưng có sự khác biệt giữa

đực và cái. Ở con đực lông cườm và lông lưng dài, mềm mại hơn ở

con cái. Sự sai khác này theo giới tính có thể nhận thấy ngay ở lứa

tuổi còn non, nhất là các giống gà có tuổi thành thục sớm. Bộ lông

của gia cầm có tác dụng ngăn cản những tác động bất lợi của môi

trường đối với cơ thể, giúp cơ thể duy trì thân nhiệt và là cơ quan

cảm giác nhờ tận cùng của các thần kinh ngoại biên. Lông cũng như

mào, móng, tích tai là sản phẩm của da. Sự khác nhau về màu sắc

của các sản phẩm phụ của da này là do sự khác nhau về giống và

giới tính của gia cầm.

Tuỳ thuộc vào loài, tuổi, giới tính mà bộ lông chiếm khoảng

4-9% khối lượng sống của gia cầm. Lông của gia cầm có cấu tạo

khác nhau và được chia thành các loại chủ yếu sau:

+Lông ống: Là phần cơ bản của bộ lông. Số lượng lớn lông

ống là nằm ở cánh (lông cánh) và đuôi (lông đuôi). Tuỳ theo hình

dạng và độ lớn mà chia lông cánh thành 2 loại là: Lông cánh loại I

(còn gọi là lông cánh sơ cấp hay lông cánh chính) và lông cánh loại

Page 19: Chăn nuôi gia cầm

19

II (còn gọi là lông cánh thứ cấp hay lông cánh phụ). Lông cánh

chính, mỗi bên cánh thường có 10 cái, lông cánh phụ thường có 14-

16 chiếc, chúng xếp sát vào nhau rất dễ nhận biết nhưng khi khép lại

thì khó phân biệt đâu là lông cánh chính, đâu là lông cánh phụ. Giữa

lông cánh chính và lông cánh phụ có một lông ngăn cách gọi là lông

trục. Lông trục nằm đối diện với góc cánh và phân chia ranh giới

giữa 2 lớp lông nói trên. Lông cánh nằm trên bề mặt và tạo nên lớp

phủ ngoài giữ ấm cho cơ thể. Nó có ý nghĩa trong điều hoà thân

nhiệt ở gia cầm. Lông còn có ý nghĩa kinh tế đặc biệt, nhất là ở thuỷ

cầm. Từ 1 con vịt, ngỗng có thể nhận được 150-200g lông.

+Lông tơ có nhiều ở gà tây, vịt, ngỗng; thường phân bố ở

vùng ngực, nằm sát dưới da, dưới lớp lông cánh chính và đuôi.

Màu sắc của bộ lông

Ở gia cầm màu sắc lông rất đa dạng. Màu lông phụ thuộc vào

sự biểu hiện dưới dạng hạt hay phân bố đều của sắc tố mêlanin và

dạng dịch của sắc tố lipocrôm. Sắc tố mêlanin quy định từ màu càfê-

vàng đến màu đen; còn lipôcrôm quy định màu vàng, đỏ, xanh hoặc

xanh sẫm. Ở gia cầm màu sắc lông khác nhau có thể chia làm 2

nhóm lớn là lông màu và lông trắng (vấn đề màu sắc lông sẽ được

thảo luận ở phần giống gia cầm).

Chân của gia cầm được bao phủ bằng lớp vảy sừng và có sự

khác nhau về màu sắc. Chân vàng là do sự có mặt của lipôcrôm đồng

thời thiếu vắng mêlanin. Màu đen của chân là do sự xuất hiện của

mêlanin. Khi màu đen có mặt ở thể trội và màu vàng có mặt ở thể

lặn thì chân sẽ xuất hiện màu lục (xanh lá cây). Khi đồng thời cả 2

màu đều không xuất hiện thì chân có màu trắng. Về cường độ (độ

đậm nhạt) của màu vàng tuỳ thuộc vào hàm lượng xantôphin trong

khẩu phần (sẽ tiếp tục thảo luận ở phần sau).

Page 20: Chăn nuôi gia cầm

20

Hinh 2.1: Ngoại hình gà

1- mào; 2- tích; 3- tai; 4- mỏ; 5- lông cổ cườm; 6- ngực; 7- cánh;

8- lông đuôi; 9- lưng; 10- xương bàn chân; 11- xương ngón chân

1

4

3

2

5

6

10

11

8

9

7

Page 21: Chăn nuôi gia cầm

21

2.2.Đặc trƣng bên trong

2.2.1.Hệ Xƣơng

Hệ xương của gà được trình bày trên sơ đồ 2.2.

Hình 2.2: Bộ xƣơng gia cầm

1- xương đầu; 2- các đốt sống cổ; 3- xương cánh; 4- xương lưng;

5- xương hông; 6- xương khum; 7- các đốt sống đuôi; 8- các

xương sườn; 9- xương ngực (xương lưỡi hái); 10- xương đùi; 11-

xương cẳng chân; 12- xương bàn chân; 13- các xương ngón chân.

Các phần của hệ xương tương ứng như là ở động vật. Cánh gà

tương ứng với cánh tay và bàn tay ở động vật bậc cao, cẳng chân và

ngón chân tương ứng cẳng và ngón chân ở động vật, xương bàn chân

của gà là sự nối tiếp và kéo dài ra từ xương chân của động vật.

1

2

10

9

11

12

13

3

5 6

7

Page 22: Chăn nuôi gia cầm

22

Hệ xương gia cầm có kết cấu vững chắc, xốp, nhẹ và khoẻ

(cứng). Hệ xương bao gồm xương đầu, xương sống, xương ngực,

xương sườn và xương chi. Xương đầu chia thành hai loại là xương

sọ và xương mặt. Xương sống chia ra xương sống cổ, xương ngực,

xương hông (lưng, khum) và xương đuôi. Bộ xương chiếm khối

lượng 7-8% khối lượng cơ thể. Số lượng các đốt sống ở các loại gia

cầm trên bảng 2.1.

Xương sườn của gà là 7 đôi, của vịt, ngỗng là 9 đôi. Mỗi

xương sườn tận cùng gắn với một đốt sống ngực, đầu kia gắn với

xương sống. Có 1-2 xương sườn không gắn với xương ngực mà thả

trôi tự do gọi là xương sườn giả. Đốt sống cổ dài nhất trong toàn bộ

cột sống, có dạng chữ S. Đốt đầu là đốt Atlat (xương nhỏ tròn) giúp

gia cầm có thể quay đầu 180.

Bảng 2.1: Số lƣợng các đốt sống ở gia cầm

Gà Vịt Ngỗng

Đốt sống cổ 13-14 14-15 17-18

Đốt sống ngực 7 9 9

Đốt sống lưng 1-2 1-2 1-3

Đốt sống hông 12 12 12

Đốt đuôi 5-6 7 7

Xương ngực ở gia cầm phát triển mạnh. Mỏm xương ngực ở

một số giống gia cầm như gà Plymút, gà Corních, gà tây... phát triển

rất mạnh. Phần xương này là nơi bám của những cơ có giá trị quí (cơ

trắng). Ở ngỗng, vịt mỏm xương ngực phát triển kém hơn, vì vậy

chỗ bám của cơ là ở hai phía của xương ngực.

Các phần còn lại của bộ xương như cánh, đùi, chân... được

tạo thành từ các xương riêng biệt và có sự kết hợp hài hoà với nhau.

2.2.2.Hệ cơ

Ở gia cầm, hệ cơ mịn, sợi nhỏ và chắc. Sự phát triển của hệ

cơ phụ thuộc vào loài, giống, tuổi gia cầm. Ở các phần khác nhau

Page 23: Chăn nuôi gia cầm

23

của cơ thể gia cầm hệ cơ phát triển ở mức độ khác nhau (hình 2.4).

Cơ ngực phát triển tốt theo sự vận động của cánh và bảo vệ các cơ

quan, bộ phận bên trong của ngực và bụng. Cơ có ý nghĩa kinh tế

quan trọng trong sản xuất thịt, nó chiếm tỷ lệ lớn trong phần thịt ăn

được của gà. Ở một số giống gà tây cơ ngực có thể phát triển đạt đến

1,5-1,9 kg.

Màu sắc cơ của gia cầm là màu trắng hoặc sẫm (đỏ sẫm). Khi

luộc thì cơ của gà và gà tây thì sáng hơn còn ở thuỷ cầm thì sẫm

hơn. Tốc độ chảy của máu qua cơ quy định màu của nó. Chân có thịt

màu sẫm trong khi ngực có thịt màu trắng. Gà, gà tây đi lại nhiều thì

thịt có màu sáng hơn, trong khi thuỷ cầm thịt có màu sẫm hơn.

Độ lớn của tế bào cơ biến động từ 10-100, chiều dài từ 6-12

cm. Các tế bào cơ chứa 70-75% là nước, 17-19% protit, 1-7% các

hợp chất không chứa nitơ, khoảng 1% chất khoáng và 3,9% mỡ.

Ngày nay đã xác định được mối tương quan thuận giữa khối

lượng cơ đùi, cơ lườn (ngực) với khối lượng cơ thể gia cầm.

2.2.3.Hệ hô hấp

Hệ hô hấp ở gia cầm ngoài phổi còn có các túi khí. Phổi của

gia cầm nhỏ nên ngoài phổi ra, ở gia cầm còn có 7-9 túi khí tham gia

vào quá trình hô hấp. Đó là 1 túi cổ, 2 túi dưới đòn, 2 túi ngực trước,

2 túi ngực sau và 2 túi bụng (hình 2.3).

Trong quá trình hô hấp, phổi thực hiện động tác chủ động còn

các túi khí thì bị động. Thể tích chung của các túi khí ở gà là 125-

160 cm3, thể tích khí ở phổi là 13-15 cm

3. Ở gia cầm không có

hoành cách mô phân cách giữa khoang ngực và khoang bụng như ở

gia súc, vì vậy không có áp lực đặc biệt của ngực khi hô hấp mà chỉ

có áp lực của phổi. Một lần thực hiện động tác hô hấp, dung lượng

của phổi và khí trong đường hô hấp khoảng 45 cm3 ở gà, 38 cm

3 ở

vịt, 4,7-5,2 cm3 ở bồ câu. Hàm lượng ôxy trong khí hít vào là

20,94% và trong khí thở ra là 17,00%.

Page 24: Chăn nuôi gia cầm

24

Hình 2.3: Hệ hô hấp ở gia cầm

A- xương đòn; B- phổi; 1- túi dưới đòn; 2- tuí ngực trước;

3- túi ngực sau; 4- túi lưng; 5- túi bụng

Ngoài chức năng hô hấp, túi khí còn có tác dụng như sau: làm

mát tinh hoàn, tim và các nội quan khác; làm giảm khối lượng tương

đối của gia cầm giúp gia cầm bay và bơi được tốt; tăng độ ẩm của

không khí hít vào; giúp cho việc giữ cân bằng khi các cơ quan bên

trong thay đổi vị trí tương đối của nó...

2.2.4.Hệ tiêu hoá

2.2.4.1. Cấu tạo hệ tiêu hóa ở gia cầm

Quá trình tiêu hoá ở gia cầm diễn ra nhất nhanh. Ở gà, thức

ăn chuyển qua đường tiêu hoá khoảng 8 giờ, ở vịt khoảng 16-26 giờ.

Do vậy cấu tạo ống tiêu hoá ở gia cầm có khác với gia súc. Trong

quá trình phát triển của phôi, ban đầu hệ tiêu hoá chỉ là một ống

thẳng, về sau nó hình thành xoang miệng, thực quản, diều, dạ dày

B

5

4

3

1

A

2

Page 25: Chăn nuôi gia cầm

25

tuyến, dạ dày cơ, ruột (ruột non, ruột già) tận cùng là hậu môn (hình

2.4).

Gia cầm có mỏ (thay cho môi ở gia súc), phần sừng của mỏ

khá phát triển. Tác dụng của mỏ là để lấy thức ăn.

Lưỡi của gia cầm khá phát triển và có dạng như mỏ của nó. Ở

gà, phần gốc lưỡi hơi rộng, đầu lưỡi nhọn còn ở thuỷ cầm gốc lưỡi

và đầu lưỡi có độ rộng như nhau.

Ở xoang miệng không diễn ra quá trình tiêu hoá, không có

răng. Sau khi vào xoang miệng thức ăn được chuyển theo thực quản.

Ở gia cầm trên cạn (gà, gà tây, bồ câu...) thực quản phình to tạo

thành một túi nhỏ gọi là diều, còn ở thuỷ cầm (vịt, ngỗng) sự phình

to này ít hơn và tạo thành dạng ống (hình chai). Sự sai khác về giải

phẫu này cho phép nhồi béo thuỷ cầm mà ở gà không làm được.

Diều là một túi chứa thức ăn ở gia cầm. Sức chứa của diều từ

100-200g. Thức ăn được giữ ở diều với thời gian phụ thuộc vào loại

gia cầm và các loại thức ăn. Thức ăn cứng khoảng 10-15 giờ, thức ăn

mềm, bột khoảng 3-4 giờ. Thức ăn từ diều được chuyển dần xuống

dạ dày tuyến.

Dạ dày tuyến có dạng hình chai. Trong dạ dày tuyến có chất

tiết chứa men pepxin và axít HCl. Thức ăn được giữ lại trong dạ dày

tuyến là không lâu, sức tiêu hoá tại đây là không đáng kể. Tại dạ dày

tuyến có sự phân giải prôtit và đồng hoá chất khoáng.

Dạ dày cơ có dạng hình tròn hoặc ô van, có hai thành cứng,

phía trong được phủ lớp niêm mạc dày, cứng. Chất tiết trong dạ dày

cơ có dạng lỏng, có pH= 3-4,5. Thành phần dịch dạ dày gồm nước,

HCl, men pepxin. Dạ dày cơ có khối lượng 50g, nhưng do lớp cơ

dày nên sức co bóp lên tới 100-150 mmHg ở gà, 180 mmHg ở vịt,

260-280 mmHg ở ngỗng. Trong dạ dày cơ luôn luôn có cát sỏi hỗ trợ

cho sự tiêu hoá. Ở dạ dày cơ, hydratcacbon được cắt ngắn, chia nhỏ

ra, protit phân giải thành các peptit và axit amin tuy chưa thật triệt

để.

Page 26: Chăn nuôi gia cầm

26

Hình 2.4: Hệ tiêu hoá của gia cầm

1- mỏ; 2- thực quản; 3- hầu; 4- diều; 5- dạ dày tuyến; 6- dạ dày cơ;

7- gan; 8- tuỵ; 9- ruột non; 10- manh tràng; 11- lỗ huyệt

Ruột của gia cầm có độ dài ngắn khác nhau phụ thuộc vào

loài, giống, cá thể, tuổi, phương thức nuôi, loại thức ăn... Ruột non

bắt đầu từ nơi tiếp giáp với dạ dày cơ, kéo dài cho đến đoạn ruột

thừa (túi mù, ruột tịt). Ruột già bắt đầu từ chỗ tiếp giáp ruột non đến

hậu môn. Tiêu hoá và hấp thu các chất dinh dưỡng diễn ra chủ yếu ở

ruột non. Ở ruột già có nhiều vi sinh vật, nó giúp cho việc lên men

và tiêu hoá xenlulô, chất không được tiêu hoá được bài tiết qua hậu

môn (ổ nhớp) phần tận cùng của ống tiêu hoá.

2

3

4

7

9

10

11

5

6

8

1

Page 27: Chăn nuôi gia cầm

27

2.2.4.2. Quá trình tiêu hóa, hấp thu dinh dưỡng ở gia cầm

2.2.4.2.1. Tiêu hoá ở miệng

Gia cầm tìm thức ăn chủ yếu nhờ vào thị giác và xúc giác, rất

ít khi nhờ vào khứu giác và vị giác. Mỏ gà cấu tạo bằng chất sừng,

hình thoi có mép trơn và nhọn nên rất thích hợp cho việc lấy thức ăn

nhỏ và xé rách khối thức ăn lớn. Mỏ vịt và ngỗng hình bằng, mép

thô và có nhiều răng nhỏ bằng chất sừng nên thuận lợi cho việc lấy

thức ăn trong nước. Khi đó, nước sẽ qua khe hở của mép chảy ra

ngoài, thức ăn được giữ lại ở miệng.

Miệng gia cầm không có răng nên không nhai thức ăn. Sau

khi vào miệng, nhờ di động của lưỡi mà thức ăn được đưa nhanh

xuống hầu. Nước bọt của gia cầm rất ít, thành phần chủ yếu của

nước bọt là dịch nhầy có tác dụng thấm ướt thức ăn cho dễ nuốt. Gà

mái có thể tiết 7 -12 ml nước bọt trong một ngày đêm (Nguyễn Văn

Hùng và CTV, 1994), bình quân một ngày đêm tiết của gà khoảng 12

ml (Lê Văn Thọ và Đàm Văn Tiện, 1992).

Thực quản gia cầm rộng và dễ phình ra tiện lợi cho thức ăn

chưa nhai đi qua. Gia cầm nuốt thức ăn nhờ động tác ngẩng đầu lên

và đưa về trước. Thức ăn nuốt vào thực quản được đẩy xuống diều.

2.2.4.2.2. Tiêu hoá ở diều

Diều là là bộ phận phình to của thực quản, nằm tiếp giáp giữa

ngực và cổ, ở dưới da mặt trước cổ. Diều gà rất phát triển hình thành

một túi chứ thức ăn, diều vịt và ngỗng kém phát triển, chỉ là phần

phình to của thực quản.

Diều không có tuyến tiết dịch tiêu hoá, nó chỉ có tác dụng dự

trữ, thấm ướt và làm mềm thức ăn nhờ niêm dịch. Tuy vậy, thức ăn

trong diều vẫn được tiêu hoá một phần nhờ men amylaza của nước

bọt xuống và hoạt động của vi sinh vật, mặc dầu không đáng kể.

Khi gia cầm ăn, một phần thức ăn dừng lại ở diều, phần khác

thì đi thẳng xuống dạ dày. Thời gian thức ăn dừng lại ở diều khoảng

Page 28: Chăn nuôi gia cầm

28

3-4 giờ đến 16-18 giờ. Diều co bóp đẩy thức ăn xuống dạ dày nhưng

khi dạ dày đầy thức ăn thì diều ngừng co bóp.

Hoạt động của diều do dây thần kinh mê tẩu chi phối, nếu cắt

bỏ dây mê tẩu hai bên cổ làm co bóp của diều dừng lại. Gà bị cắt

diều sẽ mất tính thèm ăn, tỷ lệ tiêu hoá thức ăn giảm rõ rệt.

Bồ câu cả trống và mái, khi mớm thức ăn cho con trong diều

sản sinh ra một loại dịch thể màu trắng sữa (gọi là sữa diều). Nó

chứa protein, lipit, muối khoáng, men amylaza, sarcaraza (từ màng

niêm dịch của diều bị biến chất và rụng ra). Dịch này được bồ câu ợ

lên miệng để mớm cho con trong vòng 20 ngày đầu sau khi nở (Lê

Văn Thọ và Đàm Văn Tiện, 1992).

2.2.4.2.3. Tiêu hoá ở dạ dày tuyến

Dạ dày tuyến có dung tích nhỏ, nhưng thành của nó dày.

Trong thành niêm mạc dạ dày tuyến có tuyến dịch vị (khoảng 30-40

tuyến). Dịch vị do tuyến tiết ra chứa men pepxin và axit chlohydric

(HCl), độ pH là 3,1-4,5 (Nguyễn Văn Hùng và CTV, 1994). Lượng

dịch vị tiết ra sau 30 phút của gà là 11,3 ml, nhiều nhất là một giờ

sau khi ăn. Nếu cho thức ăn giàu protein thì dịch vị tiết ra nhiều hơn

so với cho ăn thức ăn thực vật. Trong khẩu phần chứa 15-20%

protein tiêu hoá thì dịch vị tiết ra nhiều nhất. Nếu lượng protein tăng

lên quá mức thì quá trình tiết dịch giảm xuống. Khi gia cầm ở giai

đoạn đẻ trứng với cường độ cao thì dịch vị tiết ra nhiều, còn khi thay

lông thì ngược lại.

Thức ăn chỉ ở lại dạ dày tuyến một thời gian ngắn nên không

được tiêu hoá ở đây. Dịch vị do dạ dày tuyến tiết ra sẽ theo thức ăn

xuống dạ dày cơ.

2.2.4.2.4. Tiêu hoá ở dạ dày cơ

Dạ dày cơ là cơ quan tiêu hoá phát triển nhất của gia cầm. Nó

có hình tròn, dẹt như hai chiếc đĩa nhỏ úp vào nhau, do lớp cơ dày

Page 29: Chăn nuôi gia cầm

29

rắn tạo thành. Nó có thể xem như hạ vị của dạ dày loài có vú và có

chức năng đặc biệt.

Lớp trong niêm mạc dạ dày cơ có nhiều tuyến nhỏ. Chúng tiết

ra chất keo dính phủ lên lớp biểu bì niêm mạc của dạ dày cơ một lớp

màng sừng dai cứng gọi là mô sừng (cutin), có tác dụng bảo vệ niêm

mạc thành dạ dày khỏi bị tổn thương khi nghiền nát thức ăn cứng

như thóc, sạn sỏi. Màng sừng này luôn luôn bị bong ra do cọ xát khi

hoạt động và cũng luôn được bổ sung do sản phẩm của tuyến tiết ra.

Chức năng chủ yếu của dạ dày cơ là nghiền nát thức ăn ngũ

cốc. Trong dạ dày cơ thường có một số lương nhất định các hạt cát,

sạn, sỏi nhỏ. Những hạt này giúp cho việc nghiền nát thức ăn ngũ

cốc dễ dàng khi dạ dày cơ co bóp.

Sự co bóp của dạ dày cơ diễn ra có chu kỳ, bình quân cứ 20 -

30 giây co bóp một lần. Khi đói nhịp co bóp chậm, khi no co bóp

tăng lên. Áp lực xoang dạ dày cơ khi co bóp tăng lên rất cao, đạt tới

140 mmHg ở gà, 100 mmHg ở vịt, 265 mmHg ở ngỗng, tạo thuận

lợi cho việc nghiền nát thức ăn cứng.

Dạ dày cơ không có tuyến dịch vị, sự tiêu hoá hoá học ở đây

do tác dụng của dịch vị từ dạ dày tuyến xuống. Dưới tác dụng của

axit HCl trong dạ dày cơ, các tế bào thực vật bị phá huỷ, protein

phồng và xốp lên. Dưới tác dụng của men pepxin, protein phân giải

thành pepton. Trong dạ dày cơ còn có quá trình phân giải

hydratcacbon dưới ảnh hưởng của vi khuẩn có trong thức ăn.

2.2.4.2.5. Tiêu hoá ở ruột

Ruột non của gia cầm đầu trên giáp với dạ dày cơ, đầu dưới

giáp với manh tràng. Ruột già của gia cầm không phát triển, nó do

trực tràng thô ngắn và 2 manh tràng đổ vào đoạn đầu trực tràng tạo

thành.

Thành ruột cũng có lớp nhung mao nhăn nheo. Các tuyến tiêu

hoá phân bố suốt dọc thành niêm mạc ruột. Riêng gà và gà tây không

Page 30: Chăn nuôi gia cầm

30

có tuyến tá tràng (tuyến Bruuner). Ngược lại, tuyến tuỵ của gia cầm

rất phát triển.

Ở tá tràng, các chất được tiêu hoá và hấp thu với tốc độ mạnh

dưới tác dụng của mật, tuyến tuỵ và tuyến ruột. Dịch mật được tiết ra

từ gan, có màu xanh lá cây và sánh nhầy. Dịch mật chứa 78-80%

nước, 20-22% chất đặc, trong đó có axit mật, keo, cholesterin, muối

vô cơ và sắc tố mật (bilirubin, biliverdin). Dịch mật của gia cầm

khác với gia súc là trong thành phần của nó chứa axit xtearic.

Axit HCl cùng với nhũ chấp được chuyển từ dạ dày vào tá

tràng, dưới tác dụng của HCl, hocmon dịch tràng được hình thành ở

màng nhầy tá tràng và theo máu đến tuyến tuỵ và kích thích tuyến

tuỵ tiết dịch tuỵ. Dịch tuỵ lỏng, trong suốt có phản ứng kiềm yếu, pH

= 7,2-7,5. Trong dịch tuỵ có nhiều men tripxin, erepxin, amylaza,

mantaza, lipaza.

Thông qua kích thích cơ học vào màng nhầy, tuyến ruột tiết

ra dịch ruột. Dịch ruột có tỉ trọng 1,076, phản ứng kiềm pH = 7,42,

màu đục. Trong dịch ruột có chứa men enterpkinaza, erepxin,

amylaza, mantaza.

Tiêu hoá ở ruột già cũng có hai quá trình lên men và thối rữa.

Lên men xảy ra mạnh ở manh tràng, thối rữa ở trực tràng. Manh

tràng gia cầm khá phát triển nên quá trình lên men tương đối mạnh,

nhất là những gia cầm ăn nhiều thức ăn thực vật thô sơ. Ruột của gia

cầm nói chung tương đối ngắn, thức ăn lưu lại không quá một ngày

đêm.

Đầu cuối của trực tràng đổ vào một xoang chung gọi là xoang

tiết niệu - sinh dục. Nó do bốn bộ phận thông với nhau tạo thành.

Trực tràng thông với bộ phận lớn nhất gọi là bộ phận đường phân

(A); tiếp theo về sau gọi là ngăn bài tiết chung (B), ống dẫn tinh

(hoặc ống dẫn trứng) và ống dẫn nước tiểu đều đổ chung vào đây;

tiếp theo là hậu môn (C); và bộ phận thứ tư là túi phabuli (D).

Page 31: Chăn nuôi gia cầm

31

Khi thức ăn chuyển xuống đoạn cuối ruột già, nước được hấp

thu mạnh, phần bã còn lại ở trạng thái đặc, khi đi vào xoang tiết niệu

sinh dục nó hỗn hợp với nước tiểu trở nên sền sệt. Phân gia cầm thải

ra ngoài nổi trên mặt một màu trắng hạt bã đó là các thể urat (muối

kết tinh của axit uric). Cấu tạo xoang tiết niệu-sinh dục của gia cầm

(hình 2.5)

ấp thu

Sự hấp thu các chất dinh dưỡng ở gia cầm cơ bản giống loài

có vú, chủ yếu ở đoạn ruột non nhờ các nhung mao tăng diện tích

hấp thu.

Manh tràng ruột già có thể hấp thu nước, muối khoáng, các

chất chứa nitơ, các sản phẩm lên men xelluloz (các axit béo bay

hơi). Xoang tiết niệu sinh dục hấp thu nước.

Quá trình hấp thu ở ruột diễn ra chậm, nhưng do diện

tích bề mặt lớn cho nên vẫn đảm bảo các chất dinh dưỡng cho cơ

thể. Diện tích màng nhầy (tính theo cm2) của toàn bộ ruột của gà là

1600-2400, của vịt là 1200-1800, của ngỗng là 5500-6000, của gà

A

B

C D

ống dẫn tinh

(ống dẫn trứng)

ống dẫn nước tiểu

Hình 2.5:Xoang tiết

niệu sinh dục

A. Đường phân

B. Ngăn bài tiết chung

C. Hậu môn nguyên thuỷ

D. Túi phabuli

Page 32: Chăn nuôi gia cầm

32

tây là 5000-9000 (Theo Tecver - trích từ Nguyễn Mạnh Hùng và

CTV, 1994).

2.2.5.Hệ tuần hoàn

Như các loài động vật khác, hệ tuần hoàn của gia cầm gồm

tim và mạch quản. Trung tâm của hệ tuần hoàn là tim. Tim có dạng

hình nón. Khối lượng của tim ở gia cầm khác nhau tuỳ thuộc vào

loài. Ở gà tim có khối lượng là 4,4g/1kg khối lượng sống, ở ngỗng là

8g/kg, còn ở vịt là 7,44g/kg khối lượng sống. Tần số tim đập ở gia

cầm trưởng thành 200-300 lần/phút, ở gia cầm non là 400-500

lần/phút.

Máu là tổ chức lỏng, là môi trường bên trong của cơ thể (nội

môi) tạo môi trường sống cho tế bào cũng như cung cấp dinh dưỡng

và ôxy cho tế bào, mô và toàn cơ thể. Máu gia cầm chiếm 8,5-9%

khối lượng cơ thể, có pH là 7,42-7,48. Trong máu có hồng cầu.

Hồng cầu gia cầm khác với hồng cầu gia súc là chúng có dạng ô van

dài, có nhân. Thời gian sống của hồng cầu là 90-120 ngày. Phần lớn

nitơ và axít amin trong tế bào nằm trong nhân của nó. Số lượng hồng

cầu phụ thuộc tuổi, giống, trạng thái khi nghiên cứu máu. Trong 1

mm3 máu có chứa 3,3-3,6 triệu hồng cầu (ở gà mái là 2,5-3,0 triệu,

trên 3 triệu ở gà trống). Bạch cầu chia 2 nhóm là nhóm có bắt màu

và nhóm không bắt màu. Trong 1 mm3 máu có chứa 20-34 triệu bạch

cầu. Số lượng phụ thuộc giống, tuổi, cá thể...

Trong huyết tương máu của gia cầm không có kháng thể mà

kháng thể chỉ có trong bạch cầu. Trong bạch cầu đã xác định có 63

loại kháng thể khác nhau. Kháng thể được di truyền và không thay

đổi trong suốt quá trình sống của gia cầm. Do vậy, nhóm kháng thể ở

mỗi loại gia cầm là đặc trưng cho cá thể và có thể sử dụng trong

công tác chọn giống.

2.2.6.Hệ bài tiết và sinh dục gia cầm trống

Hệ bài tiết gồm 2 quả thận dính sát cột sống và 2 ống dẫn

nước tiểu đỗ ra lỗ huyệt, gia cầm không có bọng đái (hình 2.5).

Page 33: Chăn nuôi gia cầm

33

Thận, ngoài chức năng bài tiết nước tiểu còn có tác dụng quan

trọng trong sự cân bằng muối-nước và áp lực thẩm thấu của mô bào.

Tuỳ thuộc vào độ pH của máu mà thận phân tiết nhiều hơn hay ít

hơn các yếu tố kiềm hoặc axít giữ cho máu có phản ứng cần thiết.

Mỗi ngày gà nhận 240-250 cm3 nước và thải ra 120-130 cm

3 nước

tiểu. Nếu gà thiếu nước một vài giờ thì sẽ phát sinh stress làm giảm

sức đẻ, sinh trưởng và khối lượng sống giảm, đồng thời nảy sinh một

số hậu quả nghiêm trọng khác.

Hình 2.5: Hệ bài tiết và sinh dục gia cầm trống

V.C. khí quản; T. tinh hoàn; V.il. phế quản; K. thận;

D.d. ống dẫn tinh; Ur. ống dẫn nước tiểu; Cl. lỗ huyệt.

Cơ quan sinh dục gia cầm trống bao gồm 2 tinh hoàn nằm sát

cột sống, trước thận một ít, 2 ống dẫn tinh, tuyến sinh dục phụ và gai

Page 34: Chăn nuôi gia cầm

34

giao cấu. Tinh hoàn có dạng hình trứng hoặc hạt đậu, bình thường

tinh hoàn bên trái có kích thước lớn hơn tinh hoàn bên phải. Tinh

hoàn nằm phía dưới và trước thận. Trong mùa sinh sản tinh hoàn có

thể tăng kích thước lên 200-300 lần. Từ mỗi tinh hoàn nối ra ống dẫn

tinh và đổ vào hậu môn với lỗ mở hoặc thông qua gai giao cấu. Gà

con 1 ngày tuổi có thể phân biệt đực cái thông qua xem gai giao cấu,

sau thời gian đó không thể phân biệt được. Ở ngỗng, vịt gai giao cấu

phát triển hơn ở gà.

Trong tinh hoàn hình thành tế bào sinh dục đực - tinh trùng.

Sự sản sinh tinh trùng cũng giống như ở các loài gia súc khác.

2.2.7. Hệ sinh dục cái và quá trình hình thành trứng ở gia

cầm

Quá trình sinh sản ở gia cầm mái khác nhau rất cơ bản so với

ở gia súc. Sinh sản ở gia cầm thông qua việc đẻ trứng. Trứng được

thụ tinh bên trong đường sinh dục cái. Phôi phát triển ngoài cơ thể

mẹ và đòi hỏi những điều kiện nhất định.

Giai đoạn đầu của quá trình phát triển phôi, cơ quan sinh dục

ở gia cầm không có sự phân biệt đực cái. Sự phân hoá giới tính chỉ

xảy ra từ tuần thứ hai của quá trình phát triển phôi. Ở gia cầm cái chỉ

có buồng trứng và ống dẫn trứng bên trái phát triển (trừ bồ câu),

nguyên nhân của sự mất đi của buồng trứng và ống dẫn trứng bên

phải chưa được xác định và giải thích thoả đáng.

Buồng trứng bên trái phân bố một vùng trong xoang bụng

(trước thận trái). Kích thước của buồng trứng thay đổi rất lớn phụ

thuộc vào loài gia cầm, tuổi, thời gian đẻ...Gà một ngày tuổi có kích

thước buồng trứng 1-3 mm, khối lượng 0,03g. Khi thành thục sinh

dục buồng trứng có chiều dài 10-15mm, rộng 10mm, dày 3-4mm và

có khối lượng là 0,3-0,5g. Lúc gà 18-20 tuần tuổi buồng trứng nặng

20g, lúc gà đẻ trứng cao nhất buồng trứng nặng 40-60g. Sự tăng khối

lượng của buồng trứng được xác định là do sự phát triển của 3-4

noãn bào. Mỗi noãn bào đạt đến đường kính chừng 40mm.

Page 35: Chăn nuôi gia cầm

35

Buồng trứng được tạo thành từ 2 lớp: lớp vỏ và lớp trung tâm.

Khi chưa thành thục (gia cầm chưa thành thục về tính) lớp vỏ của

buồng trứng được phủ các tế bào hình trụ (biểu mô hình trụ). Dưới

đó là lớp tổ chức liên kết, trong đó phân bố các noãn bào. Dưới kính

hiển vi quan sát thấy có tới 12.000 noãn bào. Phần trung tâm là các

tổ chức liên kết có chứa thần kinh, mạch quản, cơ trơn.

Hình 2.6: Cơ quan sinh dục gia cầm mái

1. cuống buồng trứng; 2. tế bào trứng nhỏ; 3. tế bào trứng chín ; 4. lòng

loa kèn; 5. cổ loa kèn; 6. phần phân tiết lòng trắng; 7. phần eo có chứa

trứng; 8. tử cung; 9. âm đạo; 10. phần còn lại của ống dẫn trứng bên trái;

12. lỗ huyệt.

8

1

3

4

7

10

11 9

6

5

2

Page 36: Chăn nuôi gia cầm

36

Khi gia cầm thành thục về tính, buồng trứng bao gồm nhiều tế

bào trứng. Số tế bào trứng có trong buồng trứng gà mái (theo

Jull,1967) là 3.600, tuy vậy gà mái đẻ trứng tốt nhất cho đến nay là

1.500 quả.

Như vậy còn một khoảng cách lớn giữa tiềm năng năng suất

trứng và năng suất thực tế. Điều đó cho phép đi sâu tìm hiểu các

biện pháp để nâng cao sức sản xuất trứng ở gà. Tại buồng trứng mỗi

tế bào trứng được bọc trong một túi nhỏ đính vào cuống buồng

trứng. Trên bề mặt noãn bào có nhiều mạch máu để nuôi tế bào

trứng. Thời gian từ khi hình thành trứng cho đến khi trứng chín và

rụng khoảng 7-10 ngày.

Ống dẫn trúng ở gia cầm được chia thành 5 phần với độ dài

ngắn khác nhau và có chức năng không giống nhau (hình 2.6).

+ Loa kèn: Loa kèn là phần đầu của ống dẫn trứng với chức

năng hứng trứng. Trứng được thụ tinh ở phần loa kèn. Niêm mạc ở

phần loa kèn tiết ra chất tiết có tác dụng nuôi dưỡng tinh trùng. Tinh

trùng có thể sống tại phần loa kèn được 1-30 ngày. Nhưng hoạt lực

thụ tinh tốt nhất từ 1-7 ngày. Trứng rơi vào phần loa kèn và lưu lại

tại đây 5-25 phút. Sau đó nhờ nhu động của ống dẫn trứng mà trứng

được di chuyển tiếp tục xuống các phần sau của ống dẫn trứng.

+ Phần phân tiết lòng trắng trứng: Là phần tiếp theo ngay loa

kèn của ống dẫn trứng có chiều dài bằng 80% chiều dài toàn bộ ống

dẫn trứng. Chức năng là sản sinh ra lòng trắng trứng. Chừng 40-50%

lòng trắng trứng được hình thành từ đoạn này, phần lòng trắng còn

lại sẽ tiếp tục được hình thành ở phần sau của ống dẫn trứng. Trứng

dừng lại ở phần phân tiết lòng trắng trứng không quá 3 giờ.

+ Phần eo của ống dẫn trứng: Tiếp theo phần phân tiết lòng

trắng, phần eo có chức năng hình thành màng vỏ trứng và một phần

lòng trắng trứng. Qua khỏi phần eo hình dạng của trứng được hình

thành. Trứng dừng lại ở phần eo khoảng 75 phút.

Page 37: Chăn nuôi gia cầm

37

+ Tử cung: Là phần phình to tiếp theo phần eo, có chiều dài

băng 10% chiều dài ống dẫn trứng. Tại tử cung phần lòng trắng tiếp

tục được sinh ra và thấm qua màng vỏ trứng vào trứng. Ngay khi

trứng vào đến phần eo thì đầu trước của nó hình thành vỏ lụa (màng

dưới vỏ trứng), sau đó vỏ cứng được hình thành dần dần (vỏ đá vôi).

Thời gian trứng lưu lại ở tử cung là 16-20 giờ. Tại tử cung màu sắc

của vỏ trứng cũng được hình thành.

+ Âm đạo: Là phần tận cùng của ống dẫn trứng, có chức năng

sinh ra lớp màng mỡ bao bọc vỏ trứng. Lớp màng mỡ này giúp cho

gia cầm dễ đẻ, ngăn chặn sự xâm nhập của vi khuẩn vào trong trứng,

hạn chế sự bốc hơi nước của trứng. Lớp màng mỡ tạo nên độ bóng

giúp ta phân biệt được trứng cũ và trứng mới.

Như trên đã trình bày, trứng được tổng hợp một phần ở buồng

trứng một phần ở ống dẫn trứng. Sự hình thành trứng là một quá

trình phức tạp có sự tham gia của hormone. Tuy lòng đỏ trứng được

hình thành ở buồng trứng, nhưng hàm lượng protein của nó lại được

tổng hợp ở các phần khác nhau của cơ thể mà chủ yếu ở gan và thận.

Mỡ của trứng được tổng hợp nên có nguồn gốc trực tiếp từ lipit của

khẩu phần và một phần lớn hơn lại từ giải phóng mỡ ở các kho dự

trữ mỡ trong cơ thể. Protein và mỡ được chuyển qua máu đến buồng

trứng tham gia hình thành trứng.

Mất vài ngày để lòng đỏ hình thành ở buồng trứng, phần còn

lại được hình thành trong ống dẫn trứng. Lòng đỏ trứng (tế bào sinh

dục cái) được phóng thích từ buồng trứng và tiếp tục hoàn thiện

trong ống dẫn trứng. Sự thụ tinh của trứng phụ thuộc vào sự hợp

nhất của tinh trùng và đĩa phôi hoặc nhân của trứng. Quá trình này

diễn ra trong phần đầu của ống dẫn trứng trước khi các phần khác

của trứng được bổ sung. Sự thụ tinh diễn ra là kết quả của sự gặp gỡ

giữa trứng và tinh trùng, còn sự hình thành trứng không phụ thuộc

trứng có được thụ tinh hay không. Trứng mất 5 phút ở phần loa kèn,

3 giờ ở phần phân tiết lòng trắng, 1 giờ 15 phút ở phần eo để hình

Page 38: Chăn nuôi gia cầm

38

thành màng vỏ trứng. Nếu phần eo thắt không bình thường thì có thể

dẫn đến thay đổi hình dạng trứng. Sự hình thành albumin ở tử cung

hoặc tuyến vỏ mất 12-20 giờ. Vỏ được hình thành chậm ở nửa đầu

của giai đoạn trứng trong tử cung và nhanh chóng hơn ở nửa còn lại.

Chất hoá học sử dụng để hình thành vỏ trứng chủ yếu là canxi và

photpho có nguồn gốc một phần từ khẩu phần và một phần giải

phóng ra từ xương. Kho dự trữ chất khoáng này trong xương bắt đầu

được giải phóng ra trước khi gia cầm vào đẻ trứng 2 tuần. Các chất

hình thành vỏ trứng được chuyển vào máu đến tử cung, không có

phần nào của vỏ được hình thành ở âm đạo và thời gian trứng lưu lại

đó là không đáng kể (bảng 2.2).

Bảng 2.2:Thời gian trứng lƣu lại trong các phần của ống dẫn

trứng ở gà

Các phần của

ống dẫn trứng

Thời gian lưu lại

Giờ % trong tổng thời

gian

Phần loa kèn

Phần phân tiết lòng trắng

Phần eo

Tử cung

Âm đạo

Cộng

0.33

3.00

1.17

19

rất ngắn

23.5

1.4

12.8

5.0

80.8

100.0

Bảng 2. 3: Chiều dài các phần của ống dẫn trứng ở vịt và gà

(theo David Farrell và Paul Stapleton, 1986 )

Các phần

ống dẫn

trứng

Vịt nhà Vịt

khakicampbell

Gà nhà

Loa kèn 4,8cm

11%

6,9cm 15% 9,0cm

12,0%

Phân tiết lòng

trắng

24,4cm

52%

24,3cm 54% 32,0cm 42%

Eo 10,6cm 7,9cm 18% 14.0cm

18,4%

Page 39: Chăn nuôi gia cầm

39

22%

Tử cung 7,3cm

15%

5,9cm 13% 21cm 27,6

Tổng cộng 47,2cm

100%

45cm 100% 76cm 100%

Bảng 2. 4: Thời gian hình thành trứng ở vịt và gà (giờ)

(theo David Farrell và Paul Stapleton, 1986 )

Các phần

ống dẫn

trứng

Vịt nhà Vịt

khakicampbell

Gà nhà

Loa kèn 0,16 + 0,25 0,16 + 0,08 0,40 + 0,18

Phần trước

khi vào tử

cung

4,50 + 0,60 5,41 + 1,10 5,66 + 0,42

Phần sau tử

cung

24,41 24,00 25,42

Tại tử cung 18,19 16,59 19,76

Thời gian trứng di chuyển từ loa kèn đến khi ra ngoài khoảng

24 giờ. Được sự điều chỉnh, kiểm tra của hormon, một tế bào trứng

không được phóng thích khỏi buồng trứng trước khi quả trứng trước

được đẻ ra nửa giờ. Như vậy một giai đoạn khoảng 24,5 giờ là chu

kỳ bình thường của 2 quả trứng được sinh ra từ cùng một gia cầm

mái. Ở gà, quả trứng thứ 2 được đẻ ra chậm hơn một chút trong ngày

hôm sau so với quả trứng đầu và sau một khoảng thời gian đẻ (chu

kỳ đẻ) có 1 hoặc hơn 1 ngày gia cầm mái nghỉ đẻ. Các hoạt động của

hormon là khá đồng bộ để các quả trứng bình thường được hình

thành và chỉ có một quả trứng trong ống dẫn trứng trong cùng một

thời gian. Gà đẻ trứng trong khoảng thời gian từ 8 giờ sáng đến 5 giờ

chiều, trong khi đó nhịp độ ngày đêm là 12 giờ (ở vùng nhiệt đới).

Gà nhà đẻ trứng theo chu kỳ từ 1-5 quả, giữa khoảng đó có nghỉ đẻ.

Page 40: Chăn nuôi gia cầm

40

Chu kỳ dài hơn, thời gian nghỉ ngắn hơn gia cầm sẽ cho trứng nhiều

hơn. Màu sắc vỏ trứng, chất lượng ngoài của trứng thay đổi không

đáng tin cậy ở những gà đẻ trứng liên tục.

Đôi khi ống dẫn trứng bị kích thích bởi các tác nhân bên

ngoài tác động đến việc tổng hợp lòng trắng trứng. Điều đó cũng ảnh

hưởng đến việc hình thành lòng đỏ trứng, kích thích buồng trứng

phóng thích ra một vài tế bào trứng cùng một lúc. Đó chính là

nguyên nhân để gia cầm mái đẻ ra một quả trứng có 2 lòng đỏ, 2 quả

trứng trong 1 ngày ở một số trường hợp hoặc các quả trứng không

bình thường khác.

2.2.8.Vai trò của hormon trong hoạt động sinh sản ở gia

cầm

Hormon không chỉ điều hoà hoạt động sống mà còn gắn liền

với quá trình hình thành trứng, hoạt động sinh sản và các đặc điểm

giống, giới tính ở gia cầm. Các hormon được sản sinh từ tuyến yên

có tên chung là Gonadotrophic Hormone (GH); các hormon sinh duc

khác gồm Androgen, Oestrogen, Progesteron.

Vai trò của hormon là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng trực

tiếp đến sức sản xuất của gia cầm. Các hormon chính và hoạt động

của nó ở gia cầm được tóm tắt trong bảng 2.3.

Chuỗi các hoạt động của hormon được trình bày trên hình

2.7 và hình 2.8. Cũng như ở gia cầm mái, sự phát triển và hoạt động

sinh sản ở gia cầm trống phụ thuộc vào hoạt động của hormon.

Chuỗi hoạt động của hormon ở gia cầm trống khởi đầu bằng ánh

sáng (hình 2.7). LH kích thích sản sinh ra androgen từ các tế bào kẽ

leydig nằm giữa các ống sinh tinh trong dịch hoàn, quy định tỷ lệ

giữa kích thước dịch hoàn với kích thước mào. Ở chim rất nhạy cảm

với hàm lượng androgen, nó ảnh hưởng ngay đến tính ngon miệng

và khả năng nhận thức ăn của gia cầm. Các hoạt động của ống sinh

tinh được kích thích bởi Polyculo Stymulin Hormon (FSH), đồng

Page 41: Chăn nuôi gia cầm

41

thời với Luteino Hormon (LH), thông qua sự kiểm tra và sản sinh

androgen và tham gia trực tiếp vào tổng hợp tinh trùng.

Bảng 2.5. Hoạt động của Hormon trong sinh sản ở gia cầm

Tuyến nội tiết Hormon Chức năng cơ bản tƣơng ứng

Thuỳ trước

Tuyến yên

FSH Kích thích sinh trưởng của tế bào trứng

LH Nguyên nhân của sự thải trứng

Prolactin Chi phối tính ấp bóng, tiết sữa diều

Thuỳ sau Tuyến

yên

Oxytoxin Điều hoà quá trình đẻ

Vosopressin Co thắt mạch máu

Tinh hoàn Adrogen Điều hoà sự phát triển cơ quan sinh

dục đực, hoạt động sinh dục...

Buồng trứng

Oestrogen Điều hoà sự phát triển buồng trứng,

ống dẫn trứng, hoạt động sinh dục...

Progesteron Cùng với Oestrogen điều hoà quá trình

hình thành trứng

Androgen, nguyên nhân của sự sinh trưởng và độ tươi của

mào, tích, tai và kiểm tra kho dự trữ canxi hàng ngày cung cấp cho

sự tạo tinh trùng.

Sự phát triển và hoạt động của ống dẫn trứng chịu sự kiểm tra

của Oestrogen và Progesteron. Hai hormon này còn ức chế hiệu quả

của Prolactin sinh sản ra từ tuyến yên, điều khiển tính ấp bóng của

gia cầm mái và phân tiết sữa diều ở bồ câu.

Page 42: Chăn nuôi gia cầm

42

Tía tử ngoại Mắt Não

Tuyến yên

(Hypophysis)

Thuỳ trước Thuỳ sau

Gonadotrophin Somatrophin Thyrotrophin

Sinh trưởng

FSH LH Thyroid

Tinh hoàn Thyroxin

Tinh trùng

Androgen Kết cấu của mào

Hoạt động tính dục

Sai khác bộ lông

Hình 2.7: Sơ đồ vai trò của hormon, khởi đầu bằng ánh sáng

trong hoạt động sinh dục của gia cầm trống

Đặc điểm

theo giới

tính

Page 43: Chăn nuôi gia cầm

43

TK nhận cảm

Tia tử ngoại

Tuyến yên

(Hypophysis)

Sữa diều Prolactin Thuỳ trước Thuỳ sau Ôxytoxin

Somatrophin Thyrotrophin Gonadotrophin Luteinising Hormone

Thyroid FSH LH

Sinh trưởng Thyroxin Oestrgen

Buồng trứng Mào,

Tích

Màu sắc, cấu trúc cơ thể

Bộ lông, cườm Ống dẫn trứng

Oestrogen

Phản xạ gại trống

Tích luỹ Ca cho hình thành

vỏ trứng

Tích luỹ mỡ cho hình thành

lòng đỏ

Kiểu lông của gia cầm mái

Hình 2.8:Sơ đồ vai trò của Hormon trong hoạt động sinh dục của gia

cầm cái

Não

Mắt

Page 44: Chăn nuôi gia cầm

44

2.2.8. Một số đặc điểm sinh học khác ở gia cầm

Trao đổi cơ bản ở gia cầm cao hơn 2-4 lần so với trao đổi cơ

bản ở động vật có vú. Dấu hiệu đặc trưng của trao đổi cơ bản là nhiệt

độ cơ thể cao, trung bình là 41,50C (40,8-41,9

0C). Thân nhiệt được

điều tiết nhờ thần kinh trung ương, cơ quan bài tiết và đặc biệt là các

túi khí. Khả năng điều tiết thân nhiệt kém ở gia cầm con từ sau khi

nở đến 5 tuần tuổi, nhiệt độ cơ thể thường thay đổi lớn phụ thuộc

vào nhiệt độ môi trường ngoài.

Sự thay lông: Gia cầm thay lông hàng năm, bình thường vào

cuối mùa hè, đầu mùa thu nếu gia cầm ở vào các tháng mùa xuân

của năm trước. Nếu ấp trứng và thành lập đàn liên tục trong cả năm

thì quá trình thay lông diễn ra ở các tháng khác nhau trong năm, bình

thường vào sau khi kết thúc chu kỳ đẻ trứng.

Sự thay lông có liên quan với hoạt động của hormon thyroxin.

Thay lông gắn liền với sản lượng trứng. Những gia cầm mái đẻ tốt,

quá trình thay lông diễn ra sớm và nhanh. Ngược lại, những gia cầm

mái đẻ kém quá trình thay lông diễn ra chậm và kéo dài. Sự thay

lông ở gà bắt đầu từ thay lông cổ, sau đó chuyển đến ngực, bụng,

cuối cùng là lông cánh. Quá trình thay lông mạnh nhất là lúc thay

lông cánh chính. Lúc này sức đẻ của gà mái giảm nhanh hoặc ngừng

hẳn. Sự thay lông cánh chính bắt đầu từ lông trục. Các lông cánh sơ

cấp rụng từng chiếc một (chiếc nọ tiếp chiếc kia) trong khoảng 2

tuần. Các lông cánh chính mới mọc lại trong vòng 6 tuần. Sự phát

triển nhanh hơn trong 3 tuần đầu tiên trước khi đạt đến 2/3 chiều dài

bình thường của nó.

Page 45: Chăn nuôi gia cầm

45

Hình 2.9: Sự thay lông ở gà

A. lông cánh ở gà: - lông trục; từ số 1 đến 10: lông cánh chính; B. đang

thay 2 lông cánh chính; C. thay được 2 lông cánh chính, đang thay tiếp

lông thứ 3,4; D. đã thay xong 5 lông; E. gà thay lông sắp xong.

Ở gà khi quá trình thay lông kết thúc thì bộ lông màu sáng

hơn, bóng hơn, bộ lông khép kín, xếp sát vào thân. Ở gà tây quá

trình thay lông diễn ra như ở gà ta. Ở vịt (thuỷ cầm) sự thay lông

diễn ra chậm hơn ở gà và phụ thuộc vào phương thức nuôi. Vịt nuôi

chăn thả thời vụ ở nước ta thường cho thay lông cưỡng bức theo yêu

cầu của người nuôi.

NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

Phân tích các đặc điểm sai khác về giải phẫu, sinh lý ở gia cầm so

với gia súc. Nghiên cứu những sai khác này có ý nghĩa gì trong chăn nuôi

gia cầm.

Page 46: Chăn nuôi gia cầm

46

CHƢƠNG 3

GIỐNG VÀ CÔNG TÁC GIỐNG GIA CẦM

3.1.Nguồn gốc và sự thuần hoá gia cầm

Gia cầm bắt nguồn từ gia cầm hoang dã, nó là một trong

những vật nuôi đầu tiên được con người thuần hoá. Nhiều di tích

khảo cổ và nguồn gốc văn hoá cổ xưa chứng minh rằng gia cầm đã

được sử dụng rộng rãi với mục đích kinh tế ngay từ thời văn hoá Ấn

Độ, Trung Quốc, Hy lạp cổ xưa.

Vài thế kỷ gần đây, với văn minh của loài người, con người

đã thông qua chọn lọc nhân tạo, tạo nên một sự đa dạng lớn các

giống gia cầm mới. Gần đây số lượng các giống gia cầm và các dạng

riêng biệt của nó, đặc biệt ở gà đã tăng lên rất nhiều và đã trở thành

chuyên ngành mũi nhọn về số lượng và chất lượng sản phẩm của nó.

Con người, ngay cả hiện nay đang tiếp tục hoàn thiện các

giống đã có tạo ra các giống gia cầm mới trên cơ sở sử dụng các đặc

điểm đặc thù của các nước và khu vực khác nhau trên thế giới để

phối hợp vào trong con giống. Vì vậy khác với các giống trước đây,

các giống gia cầm ngày nay có khả năng thích ứng nhanh hơn, phổ

biến rộng rãi hơn trên thế giới ngay khi nó được tạo ra. Chính đặc

trưng này đã thúc đẩy ngành gia cầm phát triển với tốc độ nhanh hơn

nhiều ngành sản xuất khác trong nông nghiệp.

Sự thuần hoá gia cầm tạo nên các giống gia cầm ngày nay là

cả một quá trình, gắn với sự phát triển của loài người và đều xuất

phát từ các dạng gia cầm hoang dã ban đầu.

3.1.1.Nguồn gốc gà nhà

Gà nhà (Gallus domesticus) hiện nay rất đa dạng về kiểu hình

là do kế thừa tính di truyền và trong các điều kiện ngoại cảnh khác

nhau của quá trình hình thành nó. Kiểu di truyền là do sự tổ hợp các

gen truyền lại từ cả hai phía bố và mẹ. Sự sai khác kiểu di truyền ở

gà nhà là do gà có nguồn gốc từ nhiều nhóm gà rừng khác nhau.

Page 47: Chăn nuôi gia cầm

47

Về nguồn gốc gà nhà hiện đang tồn tại 2 học thuyết là thuyết

đơn nguyên và thuyết đa nguyên. Theo thuyết đơn nguyên thì gà nhà

bắt nguồn từ duy nhất một nhóm gà rừng đó là Gallus gallus, còn

theo thuyết đa nguyên thì gà nhà có nguồn gốc từ nhiều nhóm gà

rừng khác nhau, trong đó gà rừng Gallus gallus như ta đã biết chính

là Gallus domestics trong thuyết đa nguyên.

Thuyết đơn nguyên dựa trên các kết quả nghiên cứu của

Đarwyn (1868), khi nghiên cứu nguồn gốc gà nhà đã khẳng định: Gà

nhà có chung một nguồn gốc và xuất phát từ giống Gallus. Trong

giống này có 4 dạng gà rừng khác nhau, đại diện của các giống này

ngày nay còn gặp ở Nam Á và một vài vùng khác trên thế giới. Phổ

biến rộng rãi nhất là dạng Gallus bankiwa hay còn có tên là Gallus

gallus, hay gặp ở rừng Đông nam Á, Ấn độ, Birma, bán đảo Mã lai

và vài nước khác. Dạng Gallus lapayette lesson gặp ở vùng rừng

Seilon và còn có tên gọi là gà rừng Seilon. Dạng thứ ba là Gallus

sonerati còn gọi là gà rừng màu xám thường gặp ở vùng rừng núi Ấn

độ. Một dạng khác nữa là Gallus varius shaw gặp phổ biến ở Java

nên còn gọi là gà rừng Java. Khi nghiên cứu nguồn gốc chung của gà

nhà từ các dạng này của giống Gallus, Đarwyn đã xác định cấu trúc

chung của cơ thể, bộ lông, đầu, khả năng nhận được con lai của gà

mái nhà... và khẳng định Gallus bankiwa là tổ tiên chung nhất. Bằng

chứng nói lên điều đó là gà nhà Gallus gallus chỉ sống tự do đồng

thời với gà rừng Gallus gallus mà rất hiếm thấy với các dạng gà

hoang khác. Con cháu của gà nhà với gà rừng Gallus gallus rất đa

dạng trong khi đó giữa gà nhà với các dạng gà rừng khác thì không

thấy. Cấu trúc chung của cơ thể, bộ lông, tiếng gáy ... rất giống gà

nhà; mặt khác khi lai giữa các giống gà nhà với nhau nhận được con

lai rất giống gà rừng Gallus gallus. Nhiều tác giả khác đã nhận định

rằng các dạng còn lại của giống Gallus đã tham gia để tạo nên các

giống gà nhà hiện nay.

Page 48: Chăn nuôi gia cầm

48

Đặc điểm của gà rừng Gallus gallus (Gallus bankiwa) là có

tầm vóc nhỏ, thể trong 0,6-0,8kg, dễ thích nghi, đẻ 2-3 lứa/ năm, mỗi

lứa 10-12 trứng, màu lông gần như màu lông của gà Ý và có hoạt

tính sinh dục mạnh. Gà trống có màu lông café sẫm, có lông đỏ ở

đuôi và ở ngực, lông cổ, bụng màu đỏ sáng. Gà mái có tầm vóc nhỏ

hơn gà trông, màu lông sẫm hơn và đồng nhất hơn. Gà có mào đơn,

thẳng, chân màu xám. Gà có cánh dài, hiếu động, giỏi bay nhảy,

sống trong các rừng tre nứa, ăn hạt, cỏ, côn trùng. Gà con dễ nuôi, dễ

thích nghi như gà đã được thuần hoá hoàn toàn.

Ngày nay có nhiều ý kiến cho rằng sự suy luận trên dựa trên

cơ sở các thông tin chưa đầy đủ vì vậy cần phải hiệu chỉnh lại. Trên

cơ sở đó mà học thuyết đa nguyên ra đời, thuyết này cho răng gà nhà

ngày nay là bắt nguồn từ các loại gà hoang khác nhau, một trong số

đó là gà Gallus Gallus. Hiện có 4 nhóm gà rừng (bảng 2-1) đang

phân bố ở nhiều nơi, được xem là thuỷ tổ của gà nhà (Gallus

domestic).

Sự thuần hoá

Gà được thuần hoá bắt đầu từ Ấn Độ, sau đó lan rộng ra nhiều

vùng khác nhau trên thế giới. Sự phát triển này gắn liền với hoạt

động giao lưu của con người.

Khi nghiên cứu sự di chuyển của gà trên thế giới, nhà nghiên

cứu người Anh tên là Eduara Braun đưa ra sơ đồ có tính thuyết phục

về sự du cư của gà từ vùng được thuần hoá ra các vùng còn lại. Từ

Ấn Độ gà chuyển lên Trung Quốc, đi lên Bắc châu Á, qua Mông Cổ,

phía Tây châu Âu, tiếp tục chuyển qua Bắc Âu đến cuối cùng là châu

Mỹ.

Page 49: Chăn nuôi gia cầm

49

Bảng 3.1. Tóm tắt đặc điểm của các nhóm gà rừng

Tên Nơi phân bố Một số đặc điểm

1.Gallus gallus

G.Bankiwa

G.Ferrugeneus

(Gà rừng màu

đỏ)

Phía Nam,

Trung, Đông của

Ấn Độ; Miến

Điện; Thái Lan;

Bán đảo Mã

Lai;Philippin và

Sumatra

Màu lông gà mái như ở gà

Lơgo đỏ, còn trống có lông

màu vàng da cam ở cổ, cánh,

lưng; lông ngực màu đen,

trứng màu vàng xỉn, chân

màu đá đen, mào màu đỏ.

2.Gallus

lafayetti

(Gà rừng Ceyl)

Srilanka

Giống như gà Gallus về bộ

lông, nhưng gà trống có màu

vàng da cam ở bụng, ngực.

Lông cánh của gà mái trụi.

Mào màu vàng ở chung

quanh còn ở trung tâm màu

đỏ. Trứng có vết đốm.

3.Gallus

sonneratti

(Gà rừng màu

xám)

Tây bắc Ấn Độ

Gà mang gen trội trắng bạc

(S), vì vậy trong tổng thể

màu trắng có một chỗ màu

vàng, xung quanh có màu

đen, trứng có chấm đốm,

tiếng gáy khác với gà

G.gallus.

4.Gallus varius

G.Furcatus

(Gà rừng màu

đen hoặc màu

xanh)

Java, Lombok

Gà có lông cổ ngắn và mền,

yếm màu đỏ, vàng hoặc xanh

da trời, mào có màu xanh.

Page 50: Chăn nuôi gia cầm

50

3.1.2.Nguồn gốc gà tây

Gà tây nhà xuất phát từ gà tây hoang dã (Meleagris

golanavo), hiện còn gặp ở Mỹ. Sự thuần hoá gà tây bắt đầu từ

Mêhicô trước khi người châu Âu tìm ra châu Mỹ và di cư đến châu

Mỹ. Gà tây được người Tây Ban Nha đưa vào châu Âu năm 1948.

Tồn tại 2 dạng gà tây hoang dã là Meleagris Americana và

Meleagris Mexicana. Từ các dạng ban đầu này đã tạo ra nhiều giống

gà tây khác nhau về độ lớn, sản lượng trứng, cường độ sinh trưởng,

chất lượng thịt và nhiều chỉ tiêu khác.

3.1.3.Nguồn gốc của vịt nhà

Thuỷ tổ của vịt nhà ngày nay là vịt hoang Anas bochas. Một

số tác giả còn chứng minh rằng vịt xiêm (Cairina moschata) cũng

bắt nguồn từ một vài giống vịt hoang xưa. Vịt hoang hiện còn ở Nam

Mỹ. So với các loại gia cầm khác thì vịt được thuần hoá tương đối

muộn. Sự thuần hoá vịt bắt đầu ở Trung Quốc, ở đó có một mạng

lưới sông ngòi, ao hồ dày đặc tạo điều kiện tốt cho chăn nuôi vịt phát

triển.

3.1.4.Nguồn gốc của ngỗng

Ngỗng nhà xuất phát từ ngỗng hoang màu xám (Anser

cinereus), thường gặp ở một số vùng Châu Âu và Châu Á. Sự thuần

hoá nó diễn ra ở Bắc, Trung Âu và Châu Á. Nhiều dấu vết ở Hy Lạp

và Thổ Nhĩ Kỳ xưa cho thấy ngỗng được thuần hoá từ thế kỷ thứ 10

trong kỷ nguyên của chúng ta.

3.1.5.Nguồn gốc bồ câu

Darwyn chứng minh rằng tất cả các giống bồ câu nhà hiện

này đều có nguồn gốc từ bồ câu rừng (Columbia livia), hiện nay

đang còn thấy ở Địa Trung Hải, Châu Á, Châu Phi. Bồ câu sống

thành từng cặp, con cái đẻ 2 trứng, thời gian ấp nở từ 17-21 ngày.

Page 51: Chăn nuôi gia cầm

51

3.2.Các quy luật di truyền cơ bản ứng dụng trong công tác

giống gia cầm

Trong công tác giống gia cầm, sự nhận biết các quy luật di

truyền các tính trạng từ bố mẹ sang con cái là rất quan trọng để tạo

ra con giống có được các tính trạng mong muốn.

Sự truyền đạt các thông tin di truyền từ bố mẹ sang các thế hệ

sau thông qua tế bào sinh dục - người ta gọi là giao tử (Gamet). Giao

tử chứa các thông tin di truyền và được đặt trên các nhiễm sắc thể

(NST). NST chỉ nhìn thấy khi phân chia tế bào, ở các giai đoạn khác,

NST tồn tại dưới dạng các sợi mảnh, dài phân bố trong bào tương và

nhân.

Số lượng NST của tế bào cơ thể là đặc trưng cho loài gia cầm,

gia súc khác nhau. Số lượng NST ở gà là 78, ở vịt là 80, ngỗng 80,

gà tây 82, bồ câu 62, bò 60, người 46... NST nằm thành từng cặp, có

hình dạng và kích thước xác định. Các NST của mỗi cặp được hình

thành từ 2 cặp của cha và mẹ. Đặc trưng của nó là sự phân chia theo

từng đôi và hoàn toàn giống nhau. Đôi NST là đối xứng (tương

đồng). Các gen trên NST cũng được phân bố đối xứng và được gọi

là các alen. Ở tế bào sinh dục thành thục NST là đơn bội (n), khi thụ

tinh có sự kết hợp giữa tế bào sinh dục đực và tế bào sinh dục cái, số

lượng NST trở về lưỡng bội (2n). Có 2 loại NST là NST thường và

NST giới tính.

Ở gia cầm, khác với gia súc, giao tử ở các thể đực là đồng

hợp ZZ, còn ở thể cái là dị hợp ZW-người ta thừa nhận kiểu gen là

Z0. (ở gia súc con đực: XY, con cái: XX).

Sự di truyền các tính trạng từ bố mẹ cho các thế hệ sau thông

qua NST, nhưng số lượng các tính trạng lại lớn hơn rất nhiều so với

số lượng NST. Vì vậy 1 NST mang nhiều gen (ngoài NST W-quy

định chỉ sự di truyền giới tính). Các gen (alen) của tính trạng này

được phân bố trên một NST tương đồng ở một vị trí chính xác gọi là

locus.

Page 52: Chăn nuôi gia cầm

52

Sự di truyền các tính trạng chất lượng như hình dạng mào,

màu sắc lông, da, màu mỏ, chân... cũng như các tính trạng số lượng,

sản lượng trứng, khối lượng trứng, thể trọng... đều phụ thuộc vào

alen. Các tính trạng chất lượng được quy định bởi 1 đôi gen, trong

đó không nhận thấy sự biến động và nó ít phụ thuộc vào môi trường

ngoài. Các tính trạng số lượng được quy định bởi số lượng lớn các

đôi gen, nó không ngừng biến đổi và phụ thuộc rất lớn vào điều kiện

ngoại cảnh.

3.2.1.Sự di truyền các tính trạng chất lƣợng ở gia cầm

Các tính trạng chất lượng tiêu biểu ở gia cầm như màu lông,

hình dạng mào, màu da, mỏ, chân... đặc trưng cho giống gia cầm và

được quy định bởi các gen gọi là gen chính hay gen chủ yếu. Sự di

truyền các tính trạng chất lượng được quy định bởi số lượng nhỏ các

cặp gen, thường được gắn với NST sinh dục và được di truyền theo

quy luật Menđen.

3.2.1.1. Sự di truyền màu sắc lông

Những màu sắc khác nhau của bộ lông gia cầm có thể chia

thành 2 nhóm: lông có màu và lông trắng. Bộ lông màu như là một

tính trạng được thể hiện bởi ký hiệu C (Colour). Ở gia cầm với bộ

lông đen là chủ yếu còn được thể hiện bằng E (Entarsion). Điều

khiển màu của các vằn trên lông là alen B. Màu đen của lông cũng

như các màu khác được quy định bởi các sắc tố mêlanin và

xantophin (ở gia súc chỉ có mêlanin). Xantophin chỉ nằm ở da.

Những con có sắc lông vàng ở da, mỏ, chân đều đồng hợp thể theo

gen W-gen điều khiển sự phân bố xantophin.

Màu vàng sáng được quy định bởi alen lặn s; màu sắc bạc do

gen trội S quy định là trội hơn so với màu vàng sáng.

Màu trắng của lông gặp ở gà Leghorn, Wyandotte, Plymouth

rock... ở gà Leghorn, màu trắng là trội và tương ứng với gen J, nó át

chế sự hình thành sắc tố (màu); có nghĩa là trong trường hợp này

Page 53: Chăn nuôi gia cầm

53

alen J lấn át các alen C và B. Theo Mener, cấu trúc di truyền màu

lông trắng của gà Leghorn có dạng sau:

II CC BB (ở gà trống) ; II CC B- (ở gà mái)

Ở các giống gà Plymouth, Wyandotte, Minhorka trắng mang

màu trắng lặn của lông (alen lặn của gen C), màu này là lặn so với

màu đen, mặc dù trong quan hệ kiểu hình ở các giống gà thuần

chủng không có sự khác nhau giữa màu trắng trội và lặn của bộ lông.

Gà có lông trắng lặn có kiểu di truyền là: II CC BB

Màu trắng trội nhưng không phải trội trên màu đỏ, vì vậy khi

lai với các giống gà lông đỏ, hầu như luôn luôn phát hiện gà lai có

màu lông đỏ ở cổ, cánh, đuôi của gà trống và ở ngực của gà mái.

Sự di truyền màu sắc lông ở các loài gia cầm khác (ngỗng,

vịt, gà tây, bồ câu...) cũng đã được nghiên cứu nhiều (xem thêm

trong tài liệu tham khảo).

Hình 3.1: Di truyền màu sắc lông ở gà

Gà trống giống Rốt đỏ (lông đồng nhất) lai với gà mái giống Plimút vằn

(lông vằn đen-trắng), đời con nhận được: gà mái có màu lông đồng nhất

(B), gà trống có màu lông có đốm trắng ở đầu (A).

A B

Page 54: Chăn nuôi gia cầm

54

3.2.1.2. Sự di truyền màu sắc da

Sự di truyền màu sắc da ở gia cầm gắn với sự di truyền màu

sắc của chân và mỏ. Chia ra 2 màu cơ bản của da là màu vàng và

màu trắng.

Da trắng ở các giống gà Leghorn, Plymouth, Sussex,

Wyandotte... da vàng ở các giống Rhode island, Orpiton, Dorkin,

Lang san...

Alen trội của gen W quy định màu trắng của da. Màu vàng

của da được quy định bởi alen tương ứng. Tất cả các mức độ của

màu phụ thuộc vào 2 sắc tố cơ bản là mêlanin và xantophin. Ở gà da

trắng không có các sắc tố này.

3.2.1.3. Sự di truyền hình dạng mào

Trong quá trình thuần hoá, mào đơn của gà rừng Bankiva đã

đột biến sang các dạng khác như mào lá, mào hoa hồng, mào hạt

đậu, mào hồ đào (óc chó)... mào lá được quy định bởi alen lặn của

gen r, còn mào hoa hồng là do gen trội R của nó quy định.

Mào hạt đậu được hình thành từ 3 hàng hạt, nó được quy định

từ alen trội không hoàn toàn của gen P.

Hình 3.2: Hình dạng mào ở gà

1: mào lá; 2: mào hoa hồng; 3: mào hồ đào (óc chó) 4: mào hạt đậu.

4 3

1 2

Page 55: Chăn nuôi gia cầm

55

Mào hoa hồng gặp ở một số giống gà Trung Quốc, Ấn Độ và

các giống gà Châu Á khác. Khi lai gà có mào hoa hồng với gà có

mào đơn thì nhận được sự phân ly với mào lá và mào hạt đậu. Khi

lai gà có mào hoa hồng với gà có mào hạt đậu, tất cả gà con ở thế hệ

thứ nhất (F1) đều có mào hạt đậu. Ở thế hệ thứ hai (F2) xuất hiện gà

có mào lá. Hiện tượng đó được giải thích trên cơ sở di truyền theo

phương thức sau đây: Bố mẹ có dạng mào hoa hồng với kiểu gen

RRpp, còn gà có mào lá có kiểu gen rrPP. Thế hệ F1 là mới -tồn tại

kiểu gen của bố và mẹ RrPp - nó quy định dạng mào hạt đậu. Ở F2

phân ly theo tỷ lệ 9 hạt đậu (R và P), 3 hoa hồng (p và R), 3 hạt đậu

(P và r) và 1 mào lá (rrpp).

Hình 3.3: Di truyền hình dạng mào ở gà

Lai gà trống mào hoa hồng với gà mái mào đơn,đời con thế hệ 1 có mào

hoa hồng ở cả trống và mái;thế hệ 2 tỷ lệ gà có mào hoa hồng/mào đơn là

3/1.

Page 56: Chăn nuôi gia cầm

56

2.1.4. Sự di truyền liên kết với giới tính và ứng dụng trong

phân biệt giới tính ở gà

Cơ chế di truyền ở người và động vật cho phép nhận được ở

thế hệ sau 50% cá thể đực và 50% cá thể cái. Tuy vậy, trong sản

xuất không phải lúc nào cũng cần một tỷ lệ đực cái như nhau nên

việc phân biệt và tách đực cái sớm sẽ có ý nghĩa rất lớn trong chăn

nuôi. Ở gia cầm, giao tử đực là đồng hợp ZZ nhiễm sắc thể, cá thể

cái là dị hợp ZW. Nhiễm sắc thể Z ngoài quy định giới tính còn

mang theo 13 yếu tố di truyền khác (Hutt, 1949). Nhiễm sắc thể sinh

dục W quy định chỉ sự di truyền giới tính. Một số tính trạng hình

thái được xác định bởi giới tính, điều này cho phép ngay khi gia cầm

con nở ra có thể phân biệt được dựa vào những sai khác về ngoại

hình như màu lông, độ dài lông... Các đặc điểm này gắn liền với giới

tính và dạng dị hợp của cá thể cái được sử dụng trong chăn nuôi gia

cầm để tạo gia cầm lai phân biệt được giới tính ngay khi mới nở ra

khỏi trứng (autoxexing). Ngày nay, dạng gà autoxexing nhận được

theo 2 tính trạng là màu sắc lông và tốc độ mọc lông. Để hiểu cơ sở

di truyền của việc tạo gà lai phân biệt trống mái khi mới nở, ta xét

các trường hợp sau (hình 3.4).

Trường hợp 1: Cho lai giữa gà trống có bộ lông vằn, trội do

gen BB quy định với gà mái có màu lông đồng nhất do gen lặn

tương ứng b- quy định. ĐờI con sinh ra cả trống và mái đều có bộ

lông vằn nên không thể tách riêng trống mái qua màu lông.

Trường hợp 2: Cho lai ngược lại, gà trống có bộ lông đồng

nhất do gen lặn bb quy định với gà mái có bộ lông vằn, trội do gen

B- quy định. Đời con sinh ra có sự sai khác về màu sắc lông: gà

trống có bộ lông vằn, còn gà mái có bộ lông đông nhất. Đây là cơ sở

để tách trống mái lúc mới nở.

Page 57: Chăn nuôi gia cầm

57

Sơ đồ về trường hợp 1:

Sơ đồ về trường hợp 2:

Hình 3.4: Di truyền liên kết giới tính ở gà

Để nhận được gà lai theo dạng này có thể sử dụng các khả

năng sau đây:

Page 58: Chăn nuôi gia cầm

58

*Lai giữa gà mái mang alen trội của gen SL quy định màu

trắng bạc của lông với gà trống mà giao tử của nó mang alen lặn

tương ứng s-, quy định màu vàng sáng của lông. Gà con nhận được

có màu lông trắng bạc sẽ là gà trống, còn gà con có màu lông vàng

sáng sẽ là gà mái.

Trong thực tế, gà trống được dùng là Rốt đỏ (Red Rhode), gà

mái là Rốt trắng. Các dạng gà lai cao sản nổi tiếng thế giới như

Uorel SSL, Decalb, Drilink, Benkoc B-380, Hisex brown... là những

sản phẩm theo hướng này.

*Lai giữa gà mái mang alen trội của gen B quy định màu của

các vằn trên lông và alen trội của gen E quy định màu đen của lông

với gà trống mang các alen lặn tương ứng của nó b, e. Gà con nhận

được có lông đen toàn thân là gà mái, gà con lông đen, trên đầu có

đốm trắng là gà trống. Trên thực tế ta dùng gà trống là giống Rốt đỏ

hay Niuhamsai (Newhampshire) với gà mái giống Plimut vằn.

Các giống gà mới đưa vào nước ta gần đây như: Moravia,

Goldline... được tạo ra theo hướng này cho phép phân biệt được

trống mái ngay khi mới nở nên đang được nhiều người ưa chuộng.

*Thông qua tốc độ mọc lông. Từ lâu ta đã biết rằng các giống

gà thuộc hướng đẻ trứng mọc lông nhanh hơn các giống gà thuộc

hướng kiêm dụng và hướng thịt. Ví dụ gà con giống Leghorn mọc

lông đầy đủ ở lứa tuổi còn non và khác với gà con từ các giống

Sussex, Rhode, các giống nặng cân khác. Tính trạng mọc lông nhanh

hay chậm gắn liền với giới tính. Khi lai gà mái mang alen trội của

gen K, quy định mọc lông chậm với gà trống mang alen lặn của gen

k, quy định mọc lông nhanh. Gà con nhận được nếu mọc lông chậm

là gà trống, mọc lông nhanh là gà mái. Gà mái ngay sau khi nở ra đã

có đủ các lông cánh chính. Người đầu tiên lai tạo gà lai dựa trên tốc

độ mọc lông liên kết với giới tính là Serebrov (1922), khi ông dùng

gà mái giống Orlop Nga với gà giống Plimut vằn.

Page 59: Chăn nuôi gia cầm

59

3.1.4. Sự di truyền các tính trạng số lƣợng

Các tính trạng số lượng ở gia cầm gắn liền với sức sản xuất,

sinh trưởng phát dục, khả năng sinh sản... Trong suốt một thời gian

dài các nhà di truyền cho rằng sự di truyền các tính trạng số lượng

không tuân theo quy luật Menđen và sự di truyền các tính trạng số

lượng từ bố mẹ cho các thế hệ sau không thông qua nhiễm sắc thể

mà chỉ thông qua tế bào chất (Citoplasma). Năm 1909 nhà di truyền

học Thuỵ Điển chứng minh rằng về thực chất sự di truyền các tính

trạng số lượng không vượt ra ngoài quy luật Menđen. Ngày nay sự

di truyền các tính trạng số lượng được hiểu như là một polygen. Một

tính trạng số lượng (TTSL) được quy định bởi không chỉ một gen

mà từ sự cộng gộp của nhiều gen, đôi khi từ 100-200 đôi gen. Cho

đến nay số lượng chính xác các gen quy định TTSL vẫn chưa được

xác định.

Trong chăn nuôi gia cầm, tất cả các TTSL đều có ý nghĩa

kinh tế lớn như sản lượng trứng, trọng lượng trứng, thể trọng... vì

vậy rất được quan tâm chú ý khi chọn lọc. Các quy luật di truyền

TTSL là đối tượng nghiên cứu của di truyền học quần thể (DTQT).

DTQT quan tâm đến sự tác động đồng thời của nhiều cá thể theo các

chỉ tiêu trung bình. Nói cách khác là các cá thể riêng biệt trong một

quần thể nhận được các đặc trưng tương ứng thông qua sự so sánh

nó với giá trị trung bình của quần thể về các tính trạng xác định.

Để hoàn thiện các giống gia cầm, điều quan trọng hơn cả là

nhận biết các đại lượng di truyền cơ bản của các tính trạng kinh tế,

cũng như mức độ di truyền (DT), sự tương quan giữa chúng và sự

lặp lại của các tính trạng...

Hệ số di truyền h2 (HSDT) thường được sử dụng nhiều trong

công tác giống. Thông qua HSDT sẽ hạn chế được ảnh hưởng của

môi trường ngoài và tìm thấy được giá trị di truyền thuần tuý của

tính trạng nghiên cứu. Theo Lasley, HSDT là một bộ phận của sự

biến dị kiểu hình nói chung, nó phụ thuộc vào sự khác nhau của gen

Page 60: Chăn nuôi gia cầm

60

và các cá thể khác nhau trong quần thể. Từ giá trị của HSDT rút ra

được những kết luận về sự đa dạng DT trong khuôn khổ một nhóm

hay một đàn gia súc, gia cầm. HSDT là khác nhau không chỉ trong

các quần thể mà ngay cả trong một quần thể trong quá trình hoàn

thiện nó. Do đó sẽ mắc sai lầm nếu như ứng dụng một cách máy móc

các giá trị của HSDT từ đàn này cho đàn khác và cần phải tính

HSDT trong điều kiện cụ thể của tiến trình công tác giống.

Theo Boyer (1964), HSDT của các tính trạng riêng biệt là

một đại lượng tương đối ổn định, nó phụ thuộc vào các tính trạng số

lượng khác nhau. Ở gia cầm, HSDT các tính trạng được chia ra theo

nhóm sau:

-Các tính trạng (TT) có giá trị của HSDT cao ( h2 =0,6) gồm

có khối lượng trứng và màu sắc vỏ trứng.

-Các TT có HSDT trung bình (h2 =0,35) gồm có khối lượng

cơ thể, vòng ngực, dài lườn… tức là các TT liên quan đến sản xuất

thịt nói chung.

-Các TT có HSDT thấp (h2 =0,25) gồm có tuổi đẻ trứng, sản

lượng trứng, cường độ đẻ… tức là các TT liên quan đến sức sản xuất

trứng.

-Các TT có HSDT rất thấp (h2 =0,1) gồm tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ

ấp nở, sức sống…HSDT nói lên rằng sự di truyền có ảnh hưởng rất

hạn chế đến các TT này.

Các nghiên cứu đã xác định HSDT của các đối tượng gia cầm

chủ yếu thể hiện trong các bảng 3.2, 3.3, 3.4, 3.5.

Bảng 3.2 : Giá trị HSDT của dòng gà 6E, giống Leghorn

(Theo Vanchep, Donchep và cộng sự, 1990)

Tính trạng Theo Vanchep và

cs.

Theo các tác giả

khác

Khối lượng cơ thể lúc -

Mới nở 0,63

Page 61: Chăn nuôi gia cầm

61

56 Ngày 0,31 -

154 Ngày 0,40 -

365 Ngày 0,55 0,63

Tuổi đẻ trứng đầu (ngày) 0,44 -

Sản lượng trứng 0,22 0,26

Trọng lượng trứng 0,53 0,50

Bảng 3.3 :Giá trị HSDT ở ngỗng

Tính trạng Tính trạng

Thể trọng lúc 1,5-2,5 tháng

tuổi 0,38 Sản lượng trứng 0,16

Khối lượng gan 0,45 Khối lượng trứng 0,38

Tỷ lệ thụ tinh 0,09 Tỷ lệ ấp nở 0,04

Bảng 3.4: Giá trị HSDT ở gà tây, vịt

Tính trạng Tính trạng

Gà Tây Vịt

Thể trọng lúc 2 tháng 0,38 Thể trọng lúc 1 ngày 0,65

Thể trọng lúc 6 tháng 0,39 Thể trọng lúc 2 tháng 0,42

Dài xương ngực 0,28 Thể trọng lúc 18 tháng 0,33

Rộng ngực 0,32 Thể trọng khi giết thịt 0,71

Sản lượng trứng 0,28 Sản lượng trứng 0.36

Khối lượng trứng 0,31 Khối lượng trứng 0,50

Tỷ lệ thụ tinh 0,17

Tỷ lệ nở 0,14

Trên cơ sở hệ số di truyền của từng tính trạng cho phép đưa ra

phương pháp công tác giống thích hợp, làm tăng nhanh tiến bộ di

truyền và hiệu quả chọn lọc giống.

Page 62: Chăn nuôi gia cầm

62

Bảng 3.5: Giá trị HSDT và công tác giống

Tính trạng HSDT (h2) Phƣơng pháp giống

Sản lượng trứng 0,30 (0,15-0,45) Theo dòng họ

Tuổi thành thục SD 0,25 (0,15-0,40) Theo dòng họ

Cường độ đẻ trứng 0,20 - Theo dòng họ

Tỷ lệ nở 0,15 - Theo dòng họ

Khối lượng trứng 0,60 (0,45-0,80) Theo cá thể

Màu vỏ trứng 0,60 (0,55-0,75) Theo cá thể

Hình dạng trứng 0,15 (0,1-0,2) Theo dòng họ

Độ dày vỏ trứng 0,30 - Theo dòng họ

Màu lòng đỏ 0,15 - Theo dòng họ

Sức sống 0,10 (0,05-0,1) Theo dòng họ

Khối lượng cơ thể 0,40 (0,4-0,5) Theo cá thể

Đến 12 tuần tuổi

Đến 6 tháng tuổi 0,45 (0,40-0,50) Theo cá thể

Khối lượng sống

cuối kỳ

0,60 (0,55-0,65) Theo cá thể

3. 3. Công tác giống gia cầm

Tuỳ thuộc vào phương thức biểu hiện giá trị giống và số

lượng các tính trạng cần củng cố và nâng cao ở những giống cụ thể

mà sử dụng phương pháp công tác giống thích hợp.

3.3.1. Chọn lọc giống gia cầm

3.3.1.1. Chọn lọc giống theo cá thể

Theo phương pháp này việc chọn lọc được thông qua kiểu

hình của các cá thể trong trong toàn đàn theo các giá trị của giống.

Phương pháp này thu được hiệu quả cao khi sự di truyền trội hoặc

lặn được qui định bởi các cặp gen. Ví dụ ở gà Plymouth trắng lặn qui

định bởi alen-c, mào đơn bởi alen-r, các cá thể mang các tính trạng

Page 63: Chăn nuôi gia cầm

63

này là đồng hợp theo màu lồng và hình dạng mào nên chọn lọc la rất

đơn giản. Phương pháp chọn theo cá thể là rất hiệu quả với các tính

trạng có HSDT cao.

3.3.1.2.Chọn lọc theo gia đình, dòng họ

Phương pháp chọn lọc này được thực hiện thông qua giá trị

giống trung bình của gia đình, dòng họ. Giá trị giống trung bình

được tính cho cả các cá thể trong gia đình được chọn lọc. Phương

pháp này có hiệu quả cao khi các tính trạng chọn lọc có HSDT thấp.

3.3.1.3.Chọn lọc hỗn hợp (cá thể, dòng họ, gia đình)

Trong phương pháp này cho phép chọn các cá thể tốt nhất

trong các gia đình tốt nhất, là phương pháp có nhiều triển vọng và

được ứng dụng rộng rãi trong chăn nuôi gia cầm.

Phụ thuộc vào chương trình công tác giống khác nhau, việc

chọn lọc được thực hiện trên 1 tính trạng hay nhiều tính trạng mà sử

dụng các hình thức chọn lọc sau:

-Chọn lọc liên tục theo một tính trạng: Được sử dụng chỉ

trong các trường hợp đặc biệt. Chọn lọc chỉ theo giá trị giống của

một tính trạng và kéo dài liên tục qua nhiều thế hệ cho đến khi đạt

mục đích giống đặt ra thì dừng lại. Sau đó chuyển sang chọn lọc theo

tính trạng khác. Phương pháp này được tiến bộ di truyền tương đối

nhanh nhưng chỉ ở một tính trạng. Ở gia cầm các tính trạng luôn có

liên quan với nhau nên việc chọn lọc theo phương pháp này gặp trở

ngại, vì vậy thường chỉ ứng dụng trong công tác giống với các dòng

chuyên dụng.

-Chọn lọc độc lập: Theo phương pháp này việc chọn lọc đồng

thời ở một số tính trạng cho đến khi các tính trạng đó đạt giới hạn

của giá trị giống xác định. Tức là đánh giá các cá thể thoả mãn đòi

hỏi thấp nhất được xác định cho mỗi tính trạng, nếu không thoả mãn

một tính trạng thì phải loại thải. Chỉ chọn các cá thể theo tất cả các

tính trạng trên giới hạn qui định. Ví dụ đưa ra giá trị giống về sức đẻ

trứng 220, trọng lượng trứng 55g thì tất cả các cá thể có SLT từ 220

Page 64: Chăn nuôi gia cầm

64

và TLT từ 55g trở lên mới được chọn. Nhược điểm của phương pháp

này là phải loại thải đi các cá thể có giá trị cao chỉ ở một TT mong

muốn, các gia cầm có đặc tính quí ở một hướng sản xuất nào đó. Đòi

hỏi phải có số lượng lớn để chọn lọc. Phương pháp này ứng dụng

nhiều trong CNGC.

-Chọn lọc theo chỉ số giống: Chỉ số giống được qui định cho

tất cả cá thể và cho tất cả tính trạng giống. Chỉ số giống chung nhất

được thể hiện với mô hình toán học tổng quát là:

I = V1P1+V2P2+….....+VnPn

Trong đó P1,P2..Pn là giá trị chuyển đổi của các tính trạng

giống; V1,V2..Vn là hệ số xác định của giá trị giống; n là số lượng

tính trạng giống. Chỉ số giống sau đây hay dùng trong chăn nuôi gia

cầm:

I = 0,236 (P1- P1) + 0,132 (P2 – P2) + 14,56 (P3 – P3)

Trong đó P1,P2,P3 là sản lượng trứng (quả); khối lượng trung

bình của trứng (g) và khối lượng của gia cầm sau năm đẻ trứng đầu

tiên (kg); P1, P2, P3 là giá trị trung bình của các tính trạng tương

ứng trong quần thể.

3.3.2 Sử dụng ƣu thế lai trong chăn nuôi gia cầm

Sản lượng cao của các giống gà hướng trứng, tăng trọng

nhanh, tầm vóc lớn của các giống gà hướng thịt, khả năng sử dụng

thức ăn tốt của các dòng gà gần đây đã trở thành nổi tiếng trên thế

giới không thể tách rời khỏi sự lai tạo và sử dụng ưu thế lai.

Sự tăng về sức sống, độ lớn, sức sinh sản, tốc độ phát triển,

khả năng chống đỡ với bệnh tật và những thay đổi của khí hậu thời

tiết biểu hiện ở cơ thể lai so với cơ thể bố mẹ, kết quả của sự kết hợp

giữa các giao tử của bố, mẹ ở cơ thể con lai được gọi là ưu thế lai.

Trong chăn nuôi gia cầm đẻ nhận được ưu thế lai cao người ta

thường sử dụng các phương pháp lai đó là: Lai giữa các giống, lai

giữa các dòng và lai hỗn hợp từ 2,3,4 dòng hợp lại. Các dạng gà lai

điển hình về năng suất cao theo hướng trứng vỏ trắng, trứng vỏ màu

Page 65: Chăn nuôi gia cầm

65

và gà lai theo hướng sản xuất thịt Broiler được giới thiệu trên các

bảng 3.6, 3.7.

3.3.2.1. Những lợi ích nhận được từ lai tạo

Thứ nhất, con lai có thể tổ hợp được các đặc tính tốt từ 2

giống khác nhau. Những khuyết tật tồn tại ở một giống sẽ không có

ở thế hệ sau nhờ vào sự bổ sung, đóng góp của các giống khác. Ví

dụ: một gà mái Leghorn trắng (LW) lai gà rốt đỏ (RIR) cho ra gà đời

con có sức đẻ trứng cao hơn gà RIR, trứng lớn hơn, thể trọng gà sau

thời gian đẻ trứng lớn hơn so với gà LW, trứng của gà lai sẫm màu

hơn…

Thứ hai, lai tạo hướng tới sự đồng nhất hơn về đặc trưng bên

ngoài thông qua chọn lọc, cho phép chọn, loại những con yếu, không

kinh tế và không cho sản phẩm.

Thứ ba, hai nhóm giống từ hai giống khác nhau có thể lai tạo,

sử dụng gen liên kết giới tính để chọn gà trống mái lúc mới nở ra

khỏi trứng.

Thứ tư, con lai thường biểu hiện ưu thế lai, các thành tích về

thế hệ con cháu cao hơn so với thành tích trung bình của bố mẹ

chúng. Ví dụ (theo Hutt và Cale) sự thay đổi sức sản xuất qua lai tạo:

sản lượng trứng đến 500 ngày tuổi là +22 quả; trọng lượng trứng

+2g; thể trọng +130g; tuổi đẻ trứng đầu tiên -5 ngày.

Bảng 3. 6: Gà lai đẻ trứng vỏ trắng

Gà lai Hãng sản

xuất

Sản lƣợng

trứng

Trọng

lƣợng

trứng (g)

Thức

ăn/trứng

Bebkok B-

300

Bebkok

Mỹ 255-288 59,5-60,0 133-160

Khixec trắng Euribrit Hà

lan 253-287 60,3-61,9 150-162

Page 66: Chăn nuôi gia cầm

66

Roc trắng Róc Anh 270 61,5 150

Sayvur-228 Roc

Canada 243-286 58,4-61,5 146-178

Belarus-9 Nga 227-277 59,4-60,0 133-188

Za ria-17 Nga 243-257 59,0-61,0 165-171

Hybrit-212 Đức 238-277 6,5-62,6 144-171

Tetran Babona

Hung 243-286 58,4-61,5 146-178

Giữa 2 nhóm gà đẻ trứng vỏ trắng và vỏ màu có đặc điểm là:

Sản lượng trứng tương đương nhau (230-290/235-296); trọng lượng

trứng vỏ màu cao hơn vỏ trắng; chi phí thức ăn để sản xuất trứng gà

vỏ màu cao hơn chút ít (133-190/151-190), tầm vóc cơ thể sau khi

đẻ nhóm gà vỏ màu cao hơn. Gà đẻ trứng vỏ màu ít chịu ảnh hưởng

của stress môi trường, sức sản xuất trứng ổn đinh và tỷ lệ nuôi sống

cao hơn gà lông trắng, đẻ trứng vỏ trắng. Vì vậy tạo gà lai đẻ trứng

vỏ màu đang là xu hướng của các nhà tạo giống gà.

Bảng 3. 7: Gà lai đẻ trứng vỏ màu

Gà lai Hãng sản

xuất

Sản lƣợng

trứng

Trọng

lƣợng

trứng (g)

Thức

ăn/trứng

Bebkok B-

380

Bebkok

Mỹ 235-255 61,8-62,5 151-193

Decan

Ambelin

Decanb

Mỹ 256-296 63,0-65,4 170

Decan

Drilink

Decanb

Mỹ 256-296 53,0-65,0 170

Khixec đỏ Euribrit Hà

lan 260-293 61,2-63,5 172

Khubard Khubard 265-279 61,4-62,5 165

Page 67: Chăn nuôi gia cầm

67

Mỹ

Lohman Lohman

Đức 279 62,5 168

Roc đỏ Roc Anh 270 63,0 154

Uoren SSL Uoren Mỹ 256-289 61,1-62,1 153-166

Tetral CL Babina

Hung 244-274 64,1-65 154-181

3.3.2.2. Lai tạo và sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi gia

cầm ở nước ta

Ứng dụng các thành tựu của di truyền học và lai tạo giống gia

cầm của thế giới vào thực tiễn chăn nuôi gia cầm ở nước ta đã được

các nhà khoa học quan tâm từ những năm 70, nhưng phát triển mạnh

và có đóng góp tích cực cho sản xuất là khoảng 10 năm trở lại đây.

Các công trình nghiên cứu lai tạo được thực hiện theo 3 hướng: 1)

lai giữa các giống/dòng gia cầm cao sản nhập nội; 2) lai giữa các

giống gia cầm địa phương trong nước; 3) lai giữa một giống là gia

cầm cao sản nhập nội với một giống địa phương. Kết quả các công

trình nghiên cứu đã được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành

chăn nuôi (tạp chí nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, nay là

nông nghiệp và phát triển nông thôn thuộc Bộ nông nghiệp và phát

triển nông thôn, tạp chí chăn nuôi của Hội chăn nuôi Việt Nam và

trên website của Bộ giáo dục và đào tao www/hed.edu.vn. Thông tin

chi tiết tìm trên các tài liệu này). Thống kê chưa đầy đủ, các công

trình nghiên cứu về lai tạo và sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi gà

thể hiện trên bảng 3.8.

Bảng 3. 8: Tổng hợp các công trình lai tạo gà đã công bố ở

nƣớc ta

Cặp lai Tác giả, năm công bố

Plymouth x Ri Tạ An Bình, 1973

Page 68: Chăn nuôi gia cầm

68

Red Rhode island x Mía

Cornish x Ri

Phù lưu tế x Sussex

Plymouth x Ri

Red Rhode island x Ri

Newhampshire x Ri

Nguyễn Đức Hưng, 1975

Các dòng gà Plymouth

TD8 xTD3

TD83 x TD9

Lê Hồng Mận, Đoàn Xuân Trúc,

1984

Red Rhode island x Ri Bùi Quang Tiến, Nguyễn Hoài

Tao, 1985

Các dòng gà Leghorn

BVX x BVY

Nguyễn Huy Đạt, 1991

Tổ hợp lai 3 máu của gà

Hybro 85

Đoàn Xuân Trúc, Lê Hồng Mận,

Nguyễn Huy Đạt, Trần Long,

1993

Ross 208 x HV85 Đoàn Xuân Trúc, Lê Hồng Mận,

Nguyễn Huy Đạt, Nguyễn

Thanh Sơn, 1996

Tiền Giang x Tam Hoàng Lê Thanh Hải, Lê Hoàng Dung,

Đồng Sỹ Hùng, 1997

Rhode island x Goldline Lê Thanh Hải, Lê Hoàng Dung,

Đồng Sỹ Hùng, 1997

Tam Hoàng 882 x RhodeRi Phạm minh Thu, Trần Công

Xuân, 1997

Đông Tảo x TH Jangcun Nguyễn Đăng Vang, Trần Công

Xuân, 1999

Giữa các dòng gà Bình

Thắng (BT1, BT2)

Lê Thanh Hải, Lê Hoàng Dung,

Đồng Sỹ Hùng, 1999

Kabir x Ri

Mía x Ri

Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn

Huy Đạt, 1999

Page 69: Chăn nuôi gia cầm

69

Tam Hoàng x Brownic

Tam Hoàng x Bình Thắng

Nguyễn Đức Hưng, Nguyễn Thị

Thanh, 1999

Kabir x Ri

Tam Hoàng x Ri

Tam Hoàng x Mía

Tam Hoàng x Hồ

Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn

Huy Đạt, Nguyễn Đăng Vang,

2001

Kabir x Lương Phượng

Lương Phượng x Kabir

Trần Công Xuân và cộng sự,

2002

Mía x Kabir

Ri x Kabir

Trần Sáng Tạo, Nguyễn Đức

Hưng, Nguyễn Đăng Vang,

2002

Lương Phượng x Sasso Phùng Đức Tiến và cộng sự,

2003

Tam Hoàng x Tàu Vàng

Lương Phượng x Tàu Vàng

Lâm Minh Thuận, 2004

Lương Phượng x Ri Nguyễn Huy Đạt, 2004

Goldline x Ai Cập Phùng Đức Tiến và cọng sự,

2004

Ri x Lương Phượng

Mía x Lương Phượng

Đông Tảo x Lương Phượng

Ri x Kabir

Mía x Kabir

Đông Tảo x Kabir

Vũ Ngọc Sơn, Nguyễn Huy Đạt,

2006

Các đối tượng gia cầm khác cũng được lai tạo với những

công thức khác nhau. Lai giữa vịt Bắc kinh với vịt Bầu (Phạm Văn

Trượng và cộng sự, 1990), lai giữa vịt Khakicampbell với vịt Cỏ

(Nguyễn Đức Hưng, 1993; Trần Thanh Vân, 1998), Giữa các dòng

vịt siêu thịt với nhau (Hoàng Văn Tiệu và cộng sự, 1993, 2003,

2004, 2005)… Lai giữa các dòng ngan pháp với nhau và với ngan

Page 70: Chăn nuôi gia cầm

70

nội: lai chéo dòng ngan pháp R31 x R51 (Nguyễn Đức Hưng, Mai

Danh Luân, 2001), lai giữa ngan R71 và vịt CV-2000 (Nguyễn Đức

Hưng, Lương Thị Thủy, 2004; Phạm Văn Trượng, Nguyễn Đức

Trọng, 2003)… Lai giữa các dòng bồ câu pháp với bồ câu nhà (Trần

Công Xuân và cộng sự, 2003-2004)…Ở hầu hết các công thức lai và

hầu như ở tất cả các đối tượng gia cầm khi lai đều cho ưu thế lai và

có thể sử dụng trong sản xuất thịt, trứng có hiệu quả cao hơn các

giống địa phương. Một số nhóm giống mới đã được công nhận đưa

vào sản xuất như gà RốtRi, gà Bình Thắng (BT1, BT2)…

3.3.3.Phƣơng pháp tạo các dòng gà lai có năng suất cao

Các dòng gà lai có năng suất cao hiện nay được ra theo

nguyên tắc chung và theo sơ đồ sau của Piuzen (1982).

Quần thể từ một hoặc nhiều giống ban đầu

+Hình thành các dòng cận huyết

Các dòng cận huyết

E B Z M

A B C F M

+Thử nghiệm sự kết hợp

giữa các dòng

Các dòng có khả năng kết hợp tốt

B E C Z M

BE x EC ZM +Con lai đơn (2 dòng)

BCE ECZM +Con lai phức tạp (3-4 dòng)

Page 71: Chăn nuôi gia cầm

71

Lai kinh tế trong chăn nuôi gà công nghiệp có nhiều công

thức khác nhau:

-Đơn giản nhất là lai chéo 2 dòng. Ví dụ: trống Leghorn dòng

X với mái dòng Y = mái thương phẩm Leghorn.

-Giữa trống dòng thuần với mái là sản phẩm lai tạo để tạo ra

con lai thương phẩm. Ví dụ: công thức lai Plymouth 791 (P.983)

Bước 1 tại trại ông bà lai trống 488 x mái 433 132A

(P.83).

trống 799 x mái 799 dòng thuần (P.9)

Bước 2 tại trại bố mẹ lai trống dòng thuần 799 x mái lai

132A 791

-Giữa gà trống dòng cha, mái dòng mẹ đều là sản phẩm lai

cùng giống hoặc khác giống tạo ra gà lai thượng thẩm 4 máu. Ví dụ

công thức lai tạo gà Hybro của Cuba. Bố là sản phẩm của 2 dòng

Cornic P1,I1; mẹ là sản phẩm của 2 dòng Plimut B1,B7.

3.4. Hệ thống công tác giống gia cầm

Các nước có ngành gia cầm phát triển, hệ thống giống có

dạng hình tháp mà đỉnh là các trung tâm giống gốc, tiếp đến là các

trại giống ông bà, trại giống bố mẹ, dưới cùng là hệ thống các trại

thương phẩm có số lượng và qui mô lớn gấp nhiều lần các cơ sở

cung cấp giống.

-Trung tâm giống gốc có nhiệm vụ giữ giống gốc nguyên

chủng, cải tiến giống cho phù hợp với địa phương và yêu cầu của

sản xuất, tự thay đàn. Sản phẩm là gia cầm thuần chủng dòng thuần,

cung cấp giống cho trại ông bà.

-Trại ông bà nhân giống và lai chéo dòng để tạo ra gia cầm

hậu bị bố mẹ theo các công thức lai đã định trước.

Page 72: Chăn nuôi gia cầm

72

-Trại thương phẩm chỉ nên mua gia cầm con từ trại bố mẹ

mới đảm bảo chất lượng con giống.

Trong chăn nuôi gia cầm không dùng dòng thuần để nuôi

thương phẩm mà phải trải qua quá trình lai kinh tế theo các công

thức nhất định đã được nghiên cứu xác định. Lai kinh tế nhằm mục

đích: Tạo giống thương phẩm có sức sống cao, dễ nuôi, hiệu quả

kinh tế cao hơn là dòng thuần. Tạo đặc điểm màu lông khác nhau để

tách trống mái lúc mới nở. Nhằm giữ độc quyền về con giống, giống

gốc, giống ông bà, người nuôi thương phẩm nuôi gia cầm lai không

tự nhân đàn để tái sản xuất được.

3.5. Các giống gia cầm đang nuôi phổ biến hiện nay

3.5.1. Các giống gà

3.5.1.1. Gà hướng trứng

Đặc điểm chung

Gà hướng trứng được phổ biến trong nước cũng như trên thế

giới bởi chính ở sản lượng trứng cao của nó (trên 250 trứng/năm).

Gà hướng trứng có đặc điểm chung là: Tầm vóc nhỏ, bộ lông dày,

sít, ép sát vào thân. Mào, tích tai phát triển lớn. Chân nhỏ, cao,

không có lông. Cơ thể có kết cấu vững chắc, dạng hình thoi hay hình

chữ nhật dài. Sinh trưởng chậm nhưng thành thục về tính sớm (20-

21 tuần tuổi). Hoạt động sinh dục mạnh, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ ấp nở

cao, không còn khả năng ấp bóng, thuộc loại thần kinh linh hoạt).

Hiện nay phân thành 2 nhóm gà đẻ trứng đó là gà đẻ trứng vỏ trắng

và gà đẻ trứng vỏ màu. Tiêu biểu cho các giống gà hướng trứng là

các giống Leghorn (trắng và đỏ), gà trắng Nga, gà Minhorka (Địa

Trung Hải)…điển hình là giống Leghorn (hình 3.5).

Page 73: Chăn nuôi gia cầm

73

Hình 3. 5: Gà Leghorn trắng

Gà Leghorn là giống chuyên trứng cao sản nhất thế giới hiện

nay. Gà được tạo ra từ giống gà địa phương của Ý (Từ cảng Livor Ý

gà chuyển sang Mỹ năm 1835, gà có lông màu trắng, nhỏ con nhưng

đẻ trứng tốt). Qua quá trình lai tạo các nhà khoa học Mỹ đã cho

giống gà Leghorn ngày nay. Gà Leghorn đã có ảnh hưởng lớn đến

toàn bộ ngành gà công nghiệp thế giới. Nó được nuôi rộng rãi ở hầu

khắp các nước, ở các vùng khí hậu khác nhau trên thế giới. Trong

sản xuất trứng gà Leghorn luôn chiếm tỷ trọng cao về đầu con và

cao nhất về sản lượng trứng.

Đặc điểm ngoại hình: Gà Leghorn có lông trắng toàn thân, và

có giống Leghorn màu đỏ. Bộ lông dày, sít, xếp sát vào thân. Cấu

trúc cơ thể chắc chắn, bộ xương khoẻ chắc. Mào đơn có 5 khía răng

cưa nhỏ, gà mái khi đã đẻ gà thường ngả về một phía. Đầu nhỏ, mắt

xanh, lá tai màu trắng xanh là đặc trưng di truyền trội của giống. Cổ

Page 74: Chăn nuôi gia cầm

74

dài trung bình, ngực phát triển và hơi thẳng. Bụng và đuôi phát triển,

với lông dài, mỏ, da, chân màu vàng.

Sinh trưởng phát dục: Thể trọng gà con 1 ngày tuổi là 39-

40g/con. Thể trọng khi đẻ trứng quả đầu tiên là 1,4-1,6kg. Trưởng

thành gà mái nặng 1,7-1,8kg, gà trống là 2,0-2,2kg/con. Là giống

thành thục sớm, gà con đủ lông ở thánh thứ nhất, gà mái bắt đầu đẻ

lúc 5-5,5 tháng tuổi.

Sản lượng trứng trung bình một gà mái trong năm là 250-280

trứng, trọng lượng trứng 55-60 g/quả. Nhiều nước nuôi tốt gà

Leghorn cho 300 trứng/con như Nhật, Canada, Mỹ. Tỷ lệ nở và

trứng thụ tinh cao. Vỏ trứng có màu trắng.

Ở Việt Nam gà Leghorn nhập vào lẻ tẻ từ nhiều nước khác

nhau nhưng nhiều nhất là từ Cuba từ năm 1974, khi Cuba giúp xây

dựng các trung tâm giống gà quốc gia. Ta nhập từ Cuba 2 dòng gà

hướng trứng giống Leghorn là X và Y.

Hình 3.6: Gà Leghorn nuôi ở Việt Nam

Đặc điểm gà dòng X: Thân gọn, thon nhẹ, dài; mỏ, da chân

màu vàng; lông màu trắng có ánh vàng; mào đơn 5 khía, to, đỏ tươi.

Gà trống mào thẳng đứng, gà mái mào to ngả về bên trái che kín

mắt. Lá tai màu trắng xanh. Tính tình nhanh nhẹn, ưa hoạt động. Gà

dòng Y đặc điểm tương tự gà dòng X. Khi mới nở gà con lông có

Page 75: Chăn nuôi gia cầm

75

màu nhạt hơn gà dòng X. Gà trống có chân cao hơn so với gà dòng

X.

Bảng 3.9: Sức sản xuất của 2 dòng gà Leghorn X và Y Ở

Việt Nam

Đặc điểm Gà dòng X Gà dòng Y

Thể trọng lúc 9 tuần tuổi (g/con):

trống

mái

700-800

600-650

700-800

580-650

Thể trọng lúc 19 tuần tuổi (g/con):

trống

mái

1750-1850

1300-1450

1680-1800

1250-1450

Thể trọng lúc trưởng thành (g/con)

trống

mái

2200-2500

1600-1800

2100-2300

1600-1800

Sản lượng trứng (quả/mái đẻ/năm) 240-260 235-255

Trọng lượng trứng (g/quả) 51-55 52-56

Tỷ lệ ấp nở (%) 76-79 76-77

Thức ăn chi phí để sản xuất 10 quả

trứng(kg) 1,60-1,90 1,70-1,80

Trong sản xuất tạo ra gà lai thương phẩm trứng từ việc lai

giữa trống dòng X với mái dòng Y, con lai XY có sức sống, sức đẻ

trứng cao hơn cả 2 dòng thuần, chi phí thức ăn thấp hơn. Gà Leghorn

hiện đang được nuôi ở hầu khắp các tỉnh trong nước.

Ngoài gà Leghorn các giống gà hướng trứng khác như

Minhorka, Leghorn đỏ, gà Nga trắng…Thế giới đang đi theo hướng

tạo gà Minileghorn, tầm vóc nhỏ nhưng sức đẻ trứng không thua gà

Leghorn hiện tại.

3.5.1.2. Gà hướng thịt

Đặc điểm chung

Page 76: Chăn nuôi gia cầm

76

Gà hướng thịt có đặc điểm chung là tầm vóc lớn, tốc độ sinh

trưởng nhanh, cơ thể có dạng hình khối vuông, bộ lông phát triển

không ép sát vào thân, đầu to, cổ to ngắn, mỏ to chắc, ngực sâu rộng,

lưng dài, rộng, phẳng, đùi lườn phát triển, xương thô, thành thục

muộn, bản năng ấp bóng cao nên ản lượng trứng thấp (150-170

trứng/năm), khối lượng trứng lớn (58-60g/quả), thường có bản năng

ấp trứng cao. Tỷ lệ thụ tinh và ấp nở thấp. Tính tình hiền lành, chậm

chạp. Đại diện tiêu biểu cho hướng thịt là giống gà Cornic (Cornish)

hình 3.7.

Hình 3.7: Gà giống Cornish

Một số đại diện điển hình

Các giống gà thịt Châu Á

Là những giống có tầm vóc lớn, trước đây đã nổi tiếng về khả

năng cho thịt cao. Được sử dụng nhiều để tạo ra các giống gà chuyên

Page 77: Chăn nuôi gia cầm

77

thịt cao sản hiện nay. Màu lông đa dạng, tuổi thành thục muộn, sản

lượng trứng thấp, trọng lượng trứng lớn. Các giống nổi tiếng gồm:

Gà Brama: Gốc ở vùng Brama Ấn độ, tạo ra từ gà thịt địa

phương với gà Châu Á khác. Từ Ấn độ được chuyển chuyển đi các

nước khác vào đầu thế kỷ IX. Gà có tầm vóc lớn, gà mái 4 kg; gà

trống 5-5,5kg; sản lượng trứng 80-100 quả /năm. Trọng lượng trứng

60-65 g/quả. Vỏ trứng màu nâu.

Gà Cochinchin (co xi xin): Gốc Trung Quốc. Màu lông đa

dạng, mào đơn; gà trống 4-5kg; gà mái 4kg; tuổi đẻ 8-9 tháng.

Gà Lang san: Gốc Trung Quốc; thể chất khoẻ, lông đen có

các vệt xanh sẫm, bộ lông dày. Thể trọng gà mái 3-3,5kg, gà trống 4-

4,5kg. Sản lượng trứng 120-140quả/năm; trọng lượng trứng 65-68g,

vỏ trứng màu nâu.

Các giống gà để sản xuất gà thịt broiler

Ở tất cả các nước có ngành chăn nuôi công nghiệp phát triển,

sản xuất gà thịt Broiler đều dựa trên cơ sở 2 giống Plymouh rock

(làm mẹ) và gà Cornish (làm bố).

Gà Plymouth trắng: Là giống được tạo ra ở Mỹ vào cuối thế

kỷ IX, gà mang tên thành phố mang tên nới đã sinh ra nó. Ban đầu

tạo ra gà Plymouth vằn (1860-1870), sau đó lai với gà Leghorn

trắng, Wyandotte trắng để tạo ra gà Plymouth trắng. Do có nhiều đặc

tính kinh tế quý nên gà nhanh chóng được phổ biến ra nhiều nước

trên thế giới. Gà được nuôi thuần chủng hoặc lai tạo gà lai nuôi thịt

Broiler.

Gà có tầm vóc lớn, lông trắng trội. Đầu hơi nhỏ so với toàn

thân. Mào đơn thẳng, độ lớn trung bình. Tích tai màu đỏ. Cổ và lưng

ngắn, ngực sâu, rộng.

Thể trọng trưởng thành gà trống 3-3,5kg; gà mái 2,8-3,2kg.

Thành thục muộn, tuổi đẻ 6,5-7 tháng. Sản lượng trứng 170-180

Page 78: Chăn nuôi gia cầm

78

quả/năm. Trọng lượng trứng 58-60g. Trong chăn nuôi gà công

nghiệp được dùng làm dòng mẹ để tạo gà lai Broiler.

Gà Plymouth ở Việt Nam

Nước ta nhập gà Plymouth rock từ Cuba với 3 dòng khác

nhau ký hiệu là 433, 488,799. Sau nhiều năm nuôi thích nghi tại

trung tâm gà giống Tam Đảo còn có tên là TĐ3 (dòng nhẹ),

TĐ8,TĐ9 (dòng nặng).

Bảng 3.10: Đặc điểm tóm tắt của 3 dòng gà Plymouth rock

nuôi ở nƣớc ta

Đặc điểm Dòng 433

(Nhẹ)

Dòng 488

(Nặng)

Dòng 799

(Nặng)

Hướng sản xuất Trứng-thịt Thịt Thịt

Lông, kết cấu cơ thể Trắng, thon

nhẹ Trắng, thô

Vằn đen-

trắng

Khả năng chịu nóng Tôt Kém Kem

Thể trọng 8 tuần tuổi 1150-1300

1000-1100

1250-1450

1050-1200

1500-1650

1250-1300

TT lúc 19 tuần tuổi 3100-3300

2100-2400

3200-3500

2200-2500

3600-4400

2400-2800

TT lúc trưởng thành 3900-4100

2900-3200

4000-4500

3000-3500

4350-4650

3450-3650

Gà thịt 8 tuần tuổi 1050-1100 1150-1250 1200-2500

Chí phí TĂ/kg P tăng 2500-3000 2500-3000 2200-2500

Sản lượng trứng/năm 180-190 170-180 170-175

Trọng lượng trứng (g) 56-59 56-57 57-58

Tỷ lệ phôi (%) 88-90 86-90 80-85

Tỷ lệ sống đến 8 tuần

(%) 95-98 96-98 90-95

Page 79: Chăn nuôi gia cầm

79

Trong sản xuất gà lai nuôi thịt ở nước ta thường lai giữa các

dòng thuần này với nhau theo các công thức:

Dòng mẹ 433 x dòng bố 488

Con lai 132A: làm mẹ x Dòng bố 799

Con lai 3 máu 791

Con lai 132A có đặc điểm đẻ tốt. Sản lượng trứng 183-185

quả/năm. Tỷ lệ ấp nở 82-87%. Gà nuôi thịt 8 tuần tuổi đạt 1100-

1200g/con. Gà lai này có thể nuôi được trong khu vực tập thể và cả

trong gia đình.

Con lai 791 có màu lông vằn giống dòng thuần 799. Nuôi thịt

8 tuần tuổi đạt 1350-1600g/con. Chi phí thức ăn thấp nên được

người nuôi nước ta ưa thích.

Gà Hybro

Gà Hybro hướng chuyên thịt, tạo ra ở Hà lan năm 1973. Nước

ta nhập vào từ Cuba năm 1985. Gà Hybro có bộ lông màu trắng,

nhập về nước ta 4 dòng S1, S3, S5, 12; nước ta gọi là V1,V3,V5,12.

Mục đích sử dụng 4 dòng này là tạo ra gà lai nuôi thịt theo hướng

Broiler theo các công thức 3-4 máu.

V1 x 12 V3 x V5

V1-12 x V3V5

V1-12V3V5 (gà lai 4 máu)

Công thức lai 4 máu hiện nay ít dùng.

Page 80: Chăn nuôi gia cầm

80

Công thức lai 3 máu theo sơ đồ sau được dùng phổ biến

V3 x V5

V3-5 x V1

V1V3V5 (con lai 3 máu)

Đặc điểm của các dòng thuần

-Dòng V1(S1) là dòng từ giống Cornish trắng. Tầm vóc to,

mào đơn, ngực nở, là dòng nặng cân nhất. Thể trọng lúc 49 ngày là

2,2-2,5kg, lớn nhanh, mọc lông nhanh.

-Dòng V3 (S3) là một dòng từ giống Plymouth rock trắng.

Tầm vóc to, mào đơn, chân ,da vàng, lớn nhanh.

-Dòng V5 (S5) là một dòng từ giống Plymouth rock trắng.

Tầm vóc nhỏ hơn hai dòng trên. Sức đẻ trứng cao đạt 180 quả/năm;

gà lớn nhanh.

Cả ba dòng đều có màu lông trắng tuyền, mào đơn; chân, da

vàng; cân đối; ngực sâu rộng; đùi to; sinh trưởng tốt.

Bảng 3.11: Sức sản xuất của 3 dòng thuần gà Hybro

Đặc điểm Dòng V1 Dòng V3 Dòng V5

Thể trọng lúc 42

ngày (g) 1000 900 800

Thể trọng lúc 140

ngày (g) 3400/2700 3200/2500 3100/2400

Thể trọng 252 ngày

(g) 4400/3700 4200/3500 4100/3500

Sản lượng trứng

(quả/năm) 130 150 180

Khối lượng trứng (g) 60 58 56

Page 81: Chăn nuôi gia cầm

81

Gà Cornic (Cornish)

Các nhà tạo giống Anh đã tạo ra gà Cornic từ việc lai gà chọi

Bôixốp (Ấn Độ) Với gà chọi Azil và gà chọi của Anh vào năm 1850.

Năm 1987 gà được đưa qua Mỹ và giống được hoàn thiện tại Mỹ.

Hiện nay gà Cornic là giống có vai trò quan trọng trong lai tạo ra các

gà lai nuôi thịt với vị trí luôn luôn là dòng bố. Là một giống chuyên

thịt nhưng ít được chú ý dưới dạng thuần chủng, chỉ khi lai với các

giống nặng cân trung bình cho kết quả nuôi thịt khá mới được mọi

người quan tâm. Gà trưởng thành thể trọng con trống là 4,0-4,8kg;

con mái 3,4-3,6kg. Nuôi thịt 10 tuần tuổi đạt 1,2-1,5kg. Sản lượng

trứng 130-140 quả/năm; trọng lượng trứng 58,06g. Tỷ lệ nợ 70%. Gà

có nhược điểm là tỷ lệ thụ tinh thấp, gà con khó nuôi, nên ít được

nhân thuần. Nước ta nhập gà Cornic từ lâu, gần đây có nhập thêm

dòng K làm bố trong các công thức lai tạo. Dòng K có sức sản xuất

cao, 8 tuần đạt 1340-1370g; 19 tuần đạt 2500-2600g. Sản lượng

trứng 160 quả; trọng lượng trứng 58-60g; chi phí thức ăn cho 1kg

tăng trọng là 2,4kg. Ở nước ta, lai giữa bố dòng K với mẹ dòng 799

thuộc giống Plymouth con lai cho kết quả tốt. Nuôi thịt 8 tuần tuổi

đạt 1600g (gà trống), 1300 (gà mái); 10 tuần tuổi đạt 1700-1800g.

3.5.1.3.Gà kiêm dụng

Đặc điểm chung

Các giống gà kiêm dụng mang đặc điểm trung gian giữa gà

trứng và gà thịt về cấu trúc cơ thể, tầm vóc, sức sản xuất. Nhìn

chung nó là sản phẩm lai tạo giữa các giống nhẹ cân và nặng cân.

Một số giống đã nhập vào nước ta có ý nghĩa trong sản xuất là:

Gà Rốt đỏ (Red Rhode island)

Gà Rốt được tạo ra tại bang Rhode island (Mỹ) và mang tên

của bang này.

Page 82: Chăn nuôi gia cầm

82

Từ khi được tạo ra gà không ngừng được hoàn thiện và nhanh

chóng phổ biến khắp các nước trên thế giới. Gà có màu lông đỏ sẫm,

mào đơn thẳng, to trung bình, lá tai đỏ, chân có màu vàng da cam.

Thể trọng gà mái 2,5-2,8kg, gà trống 3,2-3,5kg. Tuổi đẻ 5,5-6 tháng.

Sản lượng trứng 180-200 quả/năm; trọng lượng trứng 55-58g. Tỷ lệ

thụ tinh và ấp nở cao, gà dễ nuôi thích hợp với nhiều vùng khí hậu.

Gà thích hợp tốt với điều kiện Việt Nam và lai với gà mái Ri cho con

lai sinh trưởng và đẻ trứng đều tốt.

Hình 3.8: Gà Rhode Island

Sơ đồ lai tạo gà Rốt khá phức tạp.

Gà mái địa phương (Mỹ) x Gà trống gốc Châu Á (Cochichin)

Gà lai có màu đồng nhất x gà trống Leghorn đỏ

Red Rhode island

Gà có năng suất trứng cao, lông nâu đỏ

Page 83: Chăn nuôi gia cầm

83

Các giống gà khác đưa vào nước ta như Newhampshire,

Wyandotte, Sussex… những năm gần đây có nhập thêm các giống

gà đẻ trứng vỏ màu như Goldline, Moravia…

Các giống gia cầm chính được nhập nội vào nước ta qua con

đường chính thức từ năm 1990 đến nay thể hiện trên bảng 3.12, 3.13.

Bảng 3.12: Các giống gà đƣợc nhập nội từ năm 1990 đến nay.

Stt Giống Nguồn gốc

Năm

nhập

đầu tiên

Hiện trạng

I Gà chuyên thịt

1 BE.88 Cu Ba 1993 Không còn

2 AA (Arbor Acress) Mỹ 1993 Phát triển

3 ISA Vedette Pháp 1994 Không còn

4 ISA. MPK Pháp 1998 Phát triển

5 Avian Mỹ 1993 Phát triển

6 Ross-208, 308, 408 Anh 1993 Phát triển

7 Lohmann meat Đức 1995 Phát triển

8 Cobb Mỹ 1997 Phát triển

II Gà chuyên trứng

1 Goldline. 54 Hà Lan 1990 Không còn

2 Brown Nick Mỹ 1993 Phát triển

3 Hisex Brown Hà Lan 1995 Phát triển

4 Hyline Mỹ 1996 Phát triển

5 ISA Brown Pháp 1998 Phát triển

6 Babcodd-B380 Pháp 1999 Phát triển

7 Lohmann Brown Đức 2002 Đang phát

triển

Page 84: Chăn nuôi gia cầm

84

III Gà kiêm dụng

1 Tam Hoàng 882 Trung Quốc 1992 Còn lại

không nhiều

2 Tam Hoàng Jiangcun Hồng Công 1995 Còn lại

không nhiều

3 Lương Phượng Trung Quốc 1997 Phát triển

mạnh

4 ISA-JA 57 Pháp 1997 Còn lại

không nhiều

5 Sasso (SA 31) Pháp 1998 Phát triển

6 Kabir Israel 1997 Phát triển

7 ISA. Color Pháp 1999 Phát triển

8 Ai Cập Ai Cập 1997 Phát triển

9 Hubbard Plex Pháp 2000 Phát triển

10 Newhampshire Hungari 2002 Ít phát triển

11 Yellow Godollo Hungari 2002 Ít phát triển

12 Gà Sao Hungari 2002 Đang phát

triển

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2006.

Bảng 3.13: Các giống vịt đƣợc nhập nội từ năm 1990 đến nay.

TT Giống Nguồn gốc Năm

nhập Hiện trạng

I Các giống vịt

1 Super M Anh

Trước

1990 và

sau 1990

Phát triển tốt

2 Super Layer 2000 Anh Phát triển tốt

3 Khakicampell Anh Phát triển tốt

Page 85: Chăn nuôi gia cầm

85

II Các giống ngan

1 Dòng R31 Pháp 1992 Kém phát

triển

2 Dòng R51 Pháp 1992 Phát triển tốt

3 Dòng R71 Pháp 1997 Phát triển tốt

4 Dòng siêu nặng Pháp 1997 Phát triển tốt

Nguồn: Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2006.

3.5.1.4. Các giống gà đang nuôi ở nƣớc ta

1) Gà Ri.

Gà Ri là giống gà địa phương có từ lâu đời trên đất nước ta

và được nuôi phổ biến ở khắp mọi miền đất nước. Trong đó, phổ

biến nhiều nhất ở vùng đồng bằng trung du Bắc bộ và trung Nam

Bộ.

Ngoại hình : Qua nhiều năm, gà Ri bị pha tạp nhiều, sắc lông

không đồng nhất, gà mái có màu lông vàng, nâu, nâu nhạt, đen hoặc

điểm các đốm đen ở đầu, cánh, cổ và chót đuôi. Gà trống có bộ lông

sặc sỡ nhiều màu, nhất là lông cổ và đuôi, nhưng đa số có màu vàng

đậm, tía. Đầu thanh đa số mào đơn (95%). Da chân vàng, chân có 2

hàng vẩy, thịt vàng, vẩy chân có khi màu đen gọi là chân chì. Gà Ri

mọc lông sớm, chỉ hơn 1 tháng con đã đủ lông như gà trưởng thành.

Phần lớn gà Ri có màu lông vàng rơm, chân vàng, đầu nhỏ,

thanh, có mào đơn . Gà trống có lông màu đỏ tía, cánh và đuôi có

lông đen, dáng chắc khỏe, ngực vuông và mào đứng.

Page 86: Chăn nuôi gia cầm

86

Hình 3.9: Gà Ri

Khối lượng cơ thể lúc mới nở là 28g (Theo sử An Ninh và

đồng nghiệp- 2003), lúc 4 tháng tuổi gà trống trung bình đạt 1,7 kg,

gà mái 1,2 kg, khối lượng cơ thể khi 1 năm tuổi, con trống nặng 1,8 -

2,5 kg; con mái nặng 1,3 - 1,8 kg.

Gà Ri là giống phát dục sớm : 4- 4,5 tháng đã bắt đầu đẻ. Sản

lượng trứng đạt 120 - 150 quả/mái/năm. Nếu nuôi tốt, thực hiện chế

độ cai ấp khi có con có thể cho sản lượng 164 - 182 quả/mái/năm

(Theo kết quả nghiên cứu của viện chăn nuôi- 1970 ). Khối lượng

trứng 40 - 45 g, tỷ lệ trứng có phôi đạt 89 - 90%, tỷ lệ nở trứng ấp:

94% tỷ lệ nuôi con đến 2 tuần tuổi là 98% (Theo sử An Ninh và đồng

nghiệp - 2003 ).

Ưu điểm nổi bật nhất của gà Ri là gà mọc lông, phát dục sớm,

thịt trứng thơm ngon, thích nghi với khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới, ít

mẫn cảm đối với bệnh cầu trùng, bạch lỵ, đường hô hấp. Nhưng tầm

Page 87: Chăn nuôi gia cầm

87

vóc bé, trứng bé, sản lượng trứng thấp và tính đòi ấp cao. Vì vậy, gà

Ri thích hợp với chế độ nuôi quảng canh theo hướng cả thịt và trứng

ở từng hộ gia đình. Trong tương lai, khi mà trên đại trà ngành gà

nuôi các giống gà cao sản, nuôi thâm canh thì gà Ri sẽ được coi là

một đặc sản.

2) Gà Hồ.

Nguồn gốc của gà Hồ từ làng Lạc Thổ, Thị trấn Hồ, xã Song

Hồ, huỵện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Sự hình thành và phát triển

gà Hồ gắn liền với tập quán cổ truyền, với nền văn hiến vùng quê

Kinh Bắc cổ kính. Nơi sản xuất ra tranh Ðông Hồ, đã đi vào lịch sử

và được lưu truyền cho đến ngày nay. Gà Hồ cũng được nuôi phổ

biến ở một số huyện thuộc tỉnh Bắc Ninh cũ và một số vùng khác ở

miền Bắc (Theo Lê Hồng Mận, Hoàng Hoa Cương- 1994 ).

Đặc điểm ngoại hình: Gà Hồ có tầm vóc khá to so với các

giống gà địa phương khác. Đặc điểm của con trống theo thành ngữ

chọn giống của dân địa phương là : Đầu công, mình ốc, cánh võ trai,

đuôi nơm (chính cái nơm úp cá, để đạp mái dễ) da bụng, cổ màu đỏ,

mào xuýt (mào kép), diều cân ở giữa; quản ngắn, đùi dài (cho thịt

đùi nhiều) chân tròn, ngón tách nhau, da vàng, thịt ngon, lông mã

lĩnh hay mận chín. Lông gà mái màu lá chuối hay màu võ nhãn,

màu đất thó. Gà trống da vàng, màu lông mận chín hay mận đen,

ngực nở, chân cao vừa phải, mào xuýt, thân hình chắc chắn. Khối

lượng mới nở 45 g/con, lúc trưởng thành con trống nặng 4,5 - 5,5

kg/con; con mái nặng 3,5 - 4,0 kg/con. Bắt đầu đẻ lúc 185 ngày tuổi.

Một năm đẻ 3 - 4 lứa, mỗi lứa đẻ được 10-15 quả trứng. Khối lượng

trứng 50-55 g/quả.

Page 88: Chăn nuôi gia cầm

88

Hình 3. 10: Gà Hồ

Tuổi đẻ của gà Hồ muộn 7,5 - 8 tháng. Sản lượng trứng 55 -

57 quả/năm/mái, khối lượng trứng 55 - 58 g (Theo Hội chăn nuôi

Việt nam - 2002). Trong đó, tỷ lệ trứng có phôi là 80%, tỷ lệ ấp nở

70%, tỷ lệ nuôi sống đến 2 tuần tuổi 80% (Theo sử An Ninh và đồng

nghiệp - 2003). Theo Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận - 2003 gà Hồ có

sản lượng trứng đạt 60 quả/mái/năm, tỷ lệ trứng ấp 70 - 80%.

Gà Hồ có thân hình vạm vỡ và là giống gà địa phương có từ

lâu đời nên cũng có những ưu điểm của gà địa phương. Thịt, trứng

thơm ngon, sức chống chịu với ngoại cảnh tốt, nhưng sản lượng

trứng thấp. Do đó, gà Hồ được xếp vào nhóm ― gà hướng thịt ― của

Việt nam.

3) Gà Mía.

Gà Mía có nguồn gốc ở xã Phùng Hưng, huyện Tùng Thiện,

tỉnh Hà Tây (nay thuộc xã Sơn tây - Hà Tây )

Đặc điểm ngoại hình: Gà Mía là giống gà duy nhất ít bị pha

tạp so với các giống gà nội khác. Ngoại hình gà Mía hơi thô: Mình

ngắn, đùi to và thô, mắt sâu, mào đơn, chân có 3 hàng vảy, da đỏ

sắc lông gà trống màu tía, ga mái màu nâu xám hoặc vàng. Nói

Page 89: Chăn nuôi gia cầm

89

chung màu lông gà Mía tương đối thuần nhất. Tốc độ mọc lông

chậm, đến 15 tuần tuổi mới phủ kín lông ở gà trống.

Khối lượng cơ thể lúc mới sinh là 32g (Theo sử An Ninh và

đồng nghiệp- 2003). Lúc 4 tháng tuổi (giết thịt) bình quân con trống

đạt 2,32 kg, con mái 1,9 kg, Gà 6 tháng tuổi con trống đạt 3,1 kg,

con mái 2,4 kg (Theo tài liệu quỹ gen - 2001). Khi trưởng thành gà

nặng 3 - 3,5 kg; gà trống đạt tới 5 kg (Lê Hồng Mận, Hoàng Hoa

Cương - 1994). Theo hội chăn nuôi Việt nam khối lượng gà mái

trưởng thành 2,5 -3 kg; trống 3,5 - 4 kg.

Tuổi đẻ muộn 7 - 8 tháng, sản lượng trứng 50 - 55

quả/mái/năm, khối lượng trứng 50 - 55 g (Theo hội chăn nuôi Việt

Nam - 2002). Tỷ lệ trứng có phôi 88%; tỷ lệ ấp nở 83%, tỷ lệ nuôi

sống đến 8 tuần 98% (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003). Gà

Mía có sản lượng trứng trung bình 70 quả/mái/năm, tỷ lệ trứng có

phôi và ấp nở đạt 70 - 75% (Theo Bùi Đức Dũng, Lê Hồng Mận -

2003).

Gà Mía có chất lượng thịt thơm, da giòn, mỡ dưới da ít, sức

khoẻ tốt, thích hợp trong điều kiện chăn nuôi thả vườn nhưng tuổi đẻ

muộn, sản lượng trứng thấp nên hiện nay gà Miá được nuôi theo

hướng thịt và ở một số vùng như Thành Phố Hồ Chí Minh, Bình

Định, chủ yếu để lai với một số giống gà nội và nhập nội khác tạo

gà lai nuôi thịt.

4) Gà Đông Tảo.

Gà Đông Tảo là giống gà địa phương có nguồn gốc từ thôn

Đông Tảo, xã Cấp Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Hiện

nay nó được phát triển nhiều ở một số địa phương trong tỉnh Hưng

yên, ngoài ra còn được nuôi ở Tỉnh Hải Dương, Hà Nội, Thái Bình,

Hà Nam...

Gà Đông Tảo có tầm vóc thô: Đầu to, mào nụ, mắt sâu, chân

to xù xì có nhiều hàng vảy, xương to, nhiều thịt nhưng thịt không

Page 90: Chăn nuôi gia cầm

90

mịn, da đỏ ở bụng và cổ (gà trống ); da màu trắng đục (gà mái ).

Lông của con trống có màu mận chín (màu mã lĩnh) chiếm đa số,

con mái có hai màu lông điển hình: lông xám xen kẻ đốm đen, nâu

(dân địa phương gọi là lá chuối khô), chiếm đa số và lông nõn chuối

(màu nõn chuối) chiếm số ít. Nói chung, màu lông gà Đông Tảo

cũng ít bị pha tạp như gà Mía và tốc độ mọc lông chậm. Khối lượng

cơ thể lúc mới sinh là 33g (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp-

2003). Gà thịt lúc 4 tháng tuổi có khối lượng trung bình con trống

đạt 2,5 kg, con mái đạt 2 kg. Gà đẻ lúc 4 tháng tuổi con trống trung

bình đạt 4,8 kg, con mái 3,5 kg (Theo tài liệu quỹ gen vật nuôi -

2001). Lúc trưởng thành mái nặng 2,5 - 3 kg, trống nặng 3,5 - 4 kg

(Theo Hội chăn nuôi Việt Nam - 2002).

Hình 3.11: Gà Đông Tảo

Sản lượng trứng trong 10 tháng đẻ 68 quả mái, tỷ lệ có phôi

90%, tỷ lệ trứng ấp nở 68% (Theo tài liệu quỹ gen vật nuôi - 2001),

khối lượng trứng 55 - 57 g, tỷ lệ trứng có phôi 88%, tỷ lệ ấp nở 70%,

tỷ lệ nuôi sống đến 8 tuần tuổi 85% (Theo sử An Ninh và đồng

nghiệp - 2003).

Gà Đông Tảo có ưu điểm: Tầm vóc lớn, khối lượng trứng to.

Nhưng có nhược điểm xương to, đẻ ít, khả năng tăng đàn chậm, gà

con mọc lông chậm. Hiện nay, gà Đông Tảo được nuôi theo 2

Page 91: Chăn nuôi gia cầm

91

hướng: Hướng thịt và gà trống thường được dùng để lai với gà Ri,

Gà Lương Phượng, gà Kabir tạo con lai lấy thịt có tốc độ sinh

trưởng nhanh và chất lượng thịt thơm. Đây là vốn gen quí dùng để

lai với các giống gà khác sẽ cho gà broiler có năng suất cao.

5) Gà Mán.

Gà Mán là vật nuôi truyền đời của đồng bào Dao, H’Mông,

Nùng ở các huyện khác nhau của tỉnh Cao Bằng và một số tỉnh phía

Bắc.

Về đặc điểm ngoại hình nổi bật của gà Mán là có chân màu

vàng, trên da có những chấm xanh, màu hoa mơ. Lông màu hoa mơ

hoặc nâu thẩm. Con trống trưởng thành màu đơn rất phát triển, thân

dài, ngực rộng và sâu, lông đuôi cong dài. Gà Mán có nhiều màu

sắc: xám, vàng, nâu đất. Đặc biệt, hầu hết các con mái trưởng thành

(80%) các ― bộ râu ― rất phát triển đó là một chùm lông vũ mọc dưới

cằm của gà. Chùm lông này phát triển trở thành một đặc điểm ngoại

hình đặc trưng của gà Mán để phân biệt với các giống gà khác.

Gà Mán có tầm vóc tương đối lớn so với các giống gà nội

khác. Khối lượng cơ thể lúc sở sinh 34g, khi 24 tháng tuổi gà trống

có thể đạt 4,5 - 5kg, gà mái 3 - 3,5kg (Theo Bùi Hữu Đoàn - 2003).

Gà Mán thành thục sinh dục muộn, 200 ngày mới bắt đầu đẻ

quả trứng đầu tiên. Sản lượng trứng 48 - 50 quả/mái/năm . Khối

lượng trứng 50,34g/quả, trứng có phôi đạt tỷ lệ 95,35%, tỷ lệ nở

chiếm 85,66% ( Theo Bùi Hữu Đoàn - 2003 ). Gà Mán có bản năng

ấp rất cao và khéo, nuôi con khéo và kéo dài, tầm vóc lớn, nhưng đẻ

ít, khả năng tăng đàn chậm. Vì vậy mà gà Mán được nuôi để lấy thịt.

6) Gà Tàu vàng.

Được nuôi phổ biến ở các tỉnh miền Nam và hiện nay, phát

triển mạnh ở một số địa phương thuộc địa phận đồng bằng sông Cửu

Long, bị pha tạp nhiều.

Page 92: Chăn nuôi gia cầm

92

Gà Tàu vàng có lông màu vàng, chân có lông màu đen ở bàn,

có khi ở cả ngón, gà mẹ có loại trui đuôi hoặc cũng có loại đuôi dài.

Khối lượng có thể lúc mới sinh 30g (Theo sử An Ninh và

đồng nghiệp - 2003) khi trưởng thành, gà trống nặng 3kg, mái nặng

2kg (Theo hội chăn nuôi Việt nam - 2002).

Sản lượng trứng 70 - 90 quả/mái/năm, nặng 45 - 50 g/quả.

Trong đó, tỷ lệ trứng có phôi 85%, tỷ lệ ấp nở 88%, tỷ lệ nuôi sống

đến 8 tuần tuổi là 95% (Theo sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003).

Theo kết quả nghiên cứu khả năng sinh sản và sinh trưởng gà Tàu

Vàng ở Đồng Nai của Lâm Minh Thuận, Lâm Thanh Vũ (2003) thì

tỷ lệ trứng có phôi 93,5 - 97,6% ), tỷ lệ ấp nở 82,4 - 87,9%.

7) Gà Ác.

Gà Ác được thuần dưỡng phát triển đầu tiên ở các tỉnh Trà

Vinh, Long An, Kiên Giang. Đặc điểm ngoại hình: Thân hình nhỏ,

nhẹ, thịt xương màu đen, lông trắng tuyền xù như bông, mỏ, chân

cũng màu đen, mào cơ phát triển, màu đỏ tím khác với các giống gà

khác chân có 5 ngón nên còn gọi là gà ― Ngũ trảo ― và có lông chiếm

đa số.

Gà trên 4 tháng tuổi có khối lượng trung bình 640 -760 g.

Tuổi đẻ trứng đầu tiên là 110 -120 ngày, sản lượng trứng 70 - 80

quả/mái/năm, trứng nặng 30 - 32 g (Theo hội chăn nuôi Việt nam -

2002), tỷ lệ trứng có phôi 90%, tỷ lệ ấp nở /trứng xấp xỉ 64%. Gà

mái có thể sử dụng tới 2,5 năm (Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng

Mận - 2003)

Gà Ác có khối lượng nhỏ, tỷ lệ ít nhưng lại là loại gà thuốc,

bồi dưỡng (tỷ lệ sắt trong thịt cao hơn gà thường 45%, tỷ lệ axít

amin cao hơn 25%). Gà Ác được nuôi chủ yếu để hầm với thuốc bắc

hoặc ngâm rượu để bồi bổ sức khoẻ và trị bệnh.

Page 93: Chăn nuôi gia cầm

93

8) Gà Nòi ( còn gọi là gà chọi).

Số lượng không nhiều, rải rác nhiều nơi, thường tồn tại chủ

yếu ở những địa phương có phong tục truyền thống văn hoá ― chơi

chọi gà ― như tỉnh Hà tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Huế, Thành Phố Hồ

Chí Minh ( huyện Hoóc Môn )

Đặc điểm ngoại hình: Chân cao, mình dài, cổ cao, mào xuýt

(mào kép) màu đỏ tía; cựa sắc và dài (con trống có lông màu mận

chín pha lông đen ở cánh, đuôi, đầu). Tích và dái tai màu đỏ, con

mái màu xám ( lá chuối khô ) hoặc màu vàng nhờ điểm đen, mỏ và

chân màu chì, mắt đen có vòng đỏ.

Hình 3. 12: Gà nòi (gà chọi)

Gà trống 1 năm tuổi đạt 2,5 - 3 kg, gà mái 1,8 - 1,9 kg (Theo

hội chăn nuôi Việt nam -2002)...Khi trưởng thành gà trống 3-4kg, gà

mái 2 - 2,5kg (Theo Sử An Ninh và đồng nghiệp - 2003 ).

Page 94: Chăn nuôi gia cầm

94

Sản lượng trứng 50 - 70 quả/mái/năm, vỏ trứng màu hồng.

Khối lượng trứng 50 - 55 g/quả ( Theo sử An Ninh và đồng nghiệp -

2003 ).

Gà có sức khoẻ tốt nhưng đẻ ít, khả năng tăng đàn chậm.

Được người dân nuôi để làm gà chọi trong các cuộc lễ hội. Một số

địa phương như vùng Hoóc môn và các tỉnh miền Đông thường cho

lai với gà ta để nuôi lấy thịt.

9) Gà Văn Phú.

Gà Văn Phú là giống gà địa phương được thuần dưỡng từ lâu

ở xã Văn Phú, Xã Sài Ngã, huyện Cẩm khê, tỉnh Phú Thọ giống gà

này phân bố hẹp, chỉ chủ yếu ở một vài địa phương trong tỉnh.

Về đặc điểm ngoài hình, thể chất: gà Văn Phú có ngoại hình

cân đối, chân chì, cao, lông đen pha lẫn trắng ở cuống lông, mào

đơn, da trắng, xương nhỏ.

Khối lượng cơ thể qua các giai đoạn thấp hơn gà Đông Tảo,

gà Hồ, Gà Mán. Một năm tuổi con trống nặng 3,2kg, mái nặng 2 -

2,3kg. Sản lượng trứng khá 80- 100 trứng/mái/năm, khối lượng

trứng 50 - 55 g. Tỷ lệ nở thấp, chỉ đạt trên 70% (Theo Bùi Đức Lũng

và Lê Hồng Mận - 2003 )

Gà Văn Phú là giống gà kiêm dụng được dùng chăn nuôi theo

cả hướng thịt và hướng trứng.

10) Gà “ ô “ (gà đen).

Gà ―ô ‖ được nuôi ở vùng biên giới Việt Trung như: Bản Mễ

thuộc huyện Bắc Hà, một số xã của huyện Mường Khương.

Đặc điểm ngoại hình: Gà có tầm vóc nhỏ con, có nhiều màu

lông khác nhau, nhưng màu đen tuyền chiếm đa số, mào cờ (mào

đơn) màu đen nhạt, chân, da, thịt, xương, mề, mỡ màu đen khối

lượng gà lúc lên đẻ từ 1 – 1,3kg sản lượng trứng 90 - 100 quả/ mái/

năm. Ngoài ra còn có loại gà ― Ô ‖ to hơn (hướng thịt), màu lông

chủ yếu là màu vàng đất, xám, có lòng bàn chân, đa số mào trụ (mào

Page 95: Chăn nuôi gia cầm

95

kép) màu hồng xám. Khối lượng cơ thể lúc trưởng thành con mái 2,8

- 3 kg, con trống 2,8 - 3,2 kg ( Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng

Mận - 2003) . Gà có sức sống và chống bệnh cao nhưng khối lượng

cơ thể nhỏ. Đây là loại gà được sử dụng hầm với thuốc bắc, ngâm

rượu để bồi bổ cơ thể cho người rất tốt.

11) Gà Tre.

Được nuôi ở các tỉnh Nam Bộ, vóc dáng nhỏ, thịt thơm ngon.

Sáu tháng tuổi trống nặng 800 - 850 g, mái nặng 600 - 620g. Đầu

nhỏ, mào hạt đậu, con trống thường có màu vàng ở cổ và đuôi, phần

còn lại màu đen, lông dài, lông con mái thường màu xám xen lẫn

màu trắng. Sản lượng trứng 50 - 60 quả / mái/ năm, nặng 21 - 22 g.

Gà Tre được dùng làm cảnh và thi chọi ở nhiều nơi trong nước ta

(Theo hội chăn nuôi Việt Nam- 2002).

12) Gà Rốt - Ri.

Gà Rốt - Ri là một nhóm giống được lai tạo giữa gà Rhode

Island kiêm dụng trứng thịt với gà Ri của ta tại Viện chăn nuôi vào

những năm 70, năm 1985 được công nhận là nhóm giống. Gà có

lông nâu nhạt, mào đơn, chân vàng. Khối lượng gà lúc 9 tuần tuổi

660 g/con, 19 tuần tuổi 1,5 kg/con đến 44 tuần tuổi đạt 1,9 kg/con.

Tuổi đẻ trứng đầu là 135 ngày. Khối lượng trứng 49 g/quả. Năng

suất trứng 1 năm đạt 180 - 200 quả/mái.

Hình 3.13: Gà Rốt Ri

Page 96: Chăn nuôi gia cầm

96

Vỏ trứng màu nâu nhạt gần giống màu trứng gà Ri. Giống gà

này được nuôi giữ tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thuỵ Phương

(Từ Liêm, Hà nội), dùng để lai với một số giống gà nội và gà nhập

nội ( gà thả vườn) tạo ra con lai năng suất cao.

13) Gà Tam Hoàng.

Nhập vào nước ta từ Trung Quốc và Hồng Kông gồm 2 dòng:

882 và Jiangcun.

Gà có màu lông vàng, mỏ vàng, chân vàng, có thân hình chắc:

ngực nở, bầu bĩnh, nhanh nhẹn, thích kiếm mồi, thịt thơm ngon.

Tính chống chịu bệnh tật cao. Lông gà con mới nở không đồng nhất

về màu sắc, màu lông biểu hiện chính là màu vàng (62%) sau đó đến

màu xám (23%) và một số màu khác với tỷ lệ ít, khoảng cách sai

khác giữa màu lông mất dần theo tuổi. Gà trưởng thành chủ yếu là

màu vàng. Da chân vàng, mào đơn đỏ, ngực nở, đùi to.

Khối lượng cơ thể lúc mới sinh là 35g (Theo sử An Ninh và

đồng nghiệp- 2003). Dòng 882 màu lông vàng hoặc lốm đốm đen, đa

số có cườm cổ, ở 11 tuần tuổi trống nặng 1,4 - 1,45 kg, mái nặng 1,2

kg. Dòng Jiangcun lông màu vàng tuyền, ở 11 tuần tuổi con trống

1,3 kg; con mái nặng trên dưới 1kg ( Theo hội chăn nuôi Việt nam -

2002). Nếu được nuôi tốt dòng Jiangcun đạt 1,8 kg/ con/ 11- 12 tuần

tuổi (Theo Nguyễn Thiện - 1999) gà mái lúc 5 tháng tuổi đã đẻ bói,

lúc gần 7 tháng tuổi tỷ lệ đẻ đạt trên 60%. Sản lượng trứng dòng

Jiangcun đạt 170 quả/ mái/ năm, dòng 882 đạt 156 quả/ mái/ năm.

(Theo Hội chăn nuôi Việt nam - 2002). Khối lượng trứng 51 - 52 g/

quả, tỷ lệ trứng có phôi đạt 95%, tỷ lệ nở so với trứng có phôi đạt

83% ( Theo Nguyễn Thiện - 1999). Tỷ lệ nuôi sống đến 2 tuần tuổi là

95%.

Page 97: Chăn nuôi gia cầm

97

Hình 3.14: Gà Tam Hoàng

Gà Tam Hoàng có những đặc điểm nổi bật là: tỷ lệ nuôi sống

cao, chống chịu bệnh tật, chịu khó kiếm mồi, phẩm chất thịt và

trứng thơm ngon, sản lượng trứng và thịt cao hơn các giống gà nội

Việt Nam, hợp với thị hiếu của người nuôi và tiêu dùng ở Việt nam.

Do đó, gà Tam Hoàng được nuôi khắp 3 miền: Bắc - Trung - Nam

với số lượng trên triệu con để lấy thịt và trứng.

14) Gà Sasso.

Gà Sasso là dòng gà thịt của Pháp nhập vào nước ta từ năm

2002, được nuôi nhiều ở Tam Ðảo (Vĩnh Phú), trại thực nghiệm

Liên-Ninh (Hà Tây) và một số nơi ở miền Bắc. Dòng trống: con

trống lông màu nâu, con mái lông màu trắng. Dòng mái lông màu

nâu. Dòng thương phẩm có lông màu nâu vàng hoặc nâu đỏ; chân,

mỏ và da màu vàng. Khối lượng lúc 9 tuần tuổi nặng 2,5 kg/con.

Dòng trống, đàn ông bà có năng suất trứng 65 tuần đạt 180 quả, khối

lượng trứng 50 g/quả.

Gà Sasso có khả năng chống chịu bệnh tốt, chúng chịu được

nóng và độ ẩm cao. Gà lớn nhanh, lúc 2 tháng tuổi kể từ lúc bóc

trứng, nuôi đúng kỹ thuật gà đạt 2,2 - 2,5 kg/ con chất lượng thịt tốt:

thịt rắn, chắc, thơm ngon, có vị ngon đậm đà tương tự gà Ri của

Page 98: Chăn nuôi gia cầm

98

Việt Nam. Đặc biệt, gà Sasso tận dụng được ngô, tấm, gạo, sắn và

thức ăn thừa của lợn. Gà đạt hiệu quả kinh tế cao kể cả nuôi thả

vườn và tập trung. Do đó, gà Sasso có thể nuôi được từ Bắc vào

Nam và hiện nay nuôi gà Sasso theo hướng thịt.

Tại xí nghiệp gà giống Tam Đảo (Vĩnh Phúc) và trung tâm

nghiên cứu gia cầm Vạn Phúc đã nhập 4 dòng ông bà và gà bố mẹ

SA 31 L để lai tạo ra gà thịt (broiles) Các chỉ tiêu sản xuất của gà bố

mẹ SA 31L trung bình.

Hình 3. 15: Gà Sasso

+ Khối lượng cơ thể lúc giết thịt ( 9 tuần tuổi): 2390g

+ Khả năng nuôi sống 23 - 66 tháng tuổi : 92%

+ Sản lượng trứng/ 10 tháng đẻ: 159 quả/ mái

+ Tỷ lệ trứng giống: 95,5%; Tỷ lệ ấp nở: 80%.

+ Sản lượng trứng giống/ mái: 152 quả/ mái

+ Sản lượng gà con 1 ngày tuổi: 129 con/ mái

( Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận - 2003)

Page 99: Chăn nuôi gia cầm

99

15) Gà Lƣơng Phƣợng.

Gà Lương Phượng hay còn gọi là Lương Phượng Hoa Trung

Quốc do lai tạo giữa giống gà nội của Trung Quốc với gà nhập nội,

được nhập vào nước ta từ sau năm 1997. Gà có màu lông đa dạng:

vàng đốm đen ở vai, lưng và lông đuôi. Lông cổ có màu vàng ánh

kim, búp lông đuôi có màu xanh đen. Dòng mái có màu đốm đen,

cánh sẻ là chủ yếu.

Dòng trống chủ yếu có màu vàng nâu nhạt - đốm đen. Chân

màu vàng, mào đơn đỏ tươi. Thân hình cân đối. Gà có thân hình

chắc, thịt ngon. Khối lượng cơ thể lúc mới sinh: 34,5 g, lúc 8 tuần

tuổi đạt 1,2 - 1,3 kg. Khối lượng gà lúc 20 tuần tuổi con trống 2,0 -

2,2 kg, gà mái 1,7 - 1,8 kg/con. Tuổi dẻ đầu tiên 140 - 150 ngày, sản

lượng trứng 150 - 170 quả/mái/năm.

Gà Lương Phượng có sức kháng bệnh tốt, thích hợp với mọi

điều kiện chăn nuôi ở Việt Nam. Nuôi công nghiệp, bán chăn thả và

chăn thả.

Hình 3.16: Gà Lƣơng Phƣợng

16) Gà Kabir.

Gà Kabir có nguồn gốc từ Israel, nhập vào nước ta tháng

7/1999 và được người nuôi Việt Nam ưa chuộng. Các dòng khác

Page 100: Chăn nuôi gia cầm

100

nhau có ngoại hình và màu lông khác nhau:. Gà có màu lông nâu

vàng hoặc đỏ vàng, da , chân vàng, thân hình chắc, to hơn giống gà

hướng trứng. Khối lượng gà mới nở 41 g/con, lúc 8 tuần tuổi đạt 920

g/con, lúc 25 tuần tuổi gà trống nặng 2,8 kg, gà mái nặng 2,2 kg/con.

Năng suất trứng của đàn bố mẹ 170 quả /mái/70 tuần tuổi. Khối

lượng trứng 59 g/quả, tỷ lệ nuôi sống 97%. Khối lượng cơ thể lúc sơ

sinh 39g/ con, lúc 8 tuần tuổi đạt 1520g/ con (Theo Nguyễn Minh

Hoàn - 2003). Khi 20 tuần tuổi đạt 2 - 2,1kg / con (Theo Hội chăn

nuôi Việt nam , 2002), lúc 9 tháng tuổi trung bình 2100g/ con (Theo

Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận – 2003).

Hình 3.17: Gà Kabir

Sản lượng trứng của gà bố mẹ 140 quả / 9 tháng đẻ/ mái

(Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận - 2003). Có khi sản lượng

trứng 70 tuần tuổi đạt trên dưới 00 trứng, khối lượng trứng 57 - 58

g/ quả (Theo Hội chăn nuôi Việt Nam - 2002). Gà có tỷ lệ nuôi sống

cao 96,6% (Theo Nguyễn Minh Hoàn - 2003)

Gà Kabir có thịt chắc ngon, sức sống tốt, phù hợp với điều

kiện khí hậu Việt Nam, khối lượng cơ thể và trứng tương đối lớn.

Đây là giống gà kiêm dụng trứng và thịt. Nhưng gà Kabir có khả

năng chống chịu bệnh tật và thay đổi ngoại cảnh không được tốt lắm.

Page 101: Chăn nuôi gia cầm

101

17) Gà Bình Thắng (BT1).

Gà BT1 là giống gà cải tiến trong nước được lai tạo tại Trung

tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi Bình Thắng trên đối tượng là

gà Goldline 54 và gà Rhode Ri.

Ngoại hình: Gà có lông màu nâu nhạt, mào đơn, chân vàng,.

gà có tầm vóc to, chân cao vừa phải, chắc khoẻ con trống lông màu

đỏ, con mái lông nâu nhạt, lông cổ nâu sẫm, đầu thanh, ngực sâu,

bụng sệ, chân da màu vàng.

Khối lượng cơ thể lúc 5 tháng con trống : 2 - 2,2 kg, con mái

1,5 - 1,7 kg. Nuôi 1 năm con trống nặng 3,2 - 3, 5 kg; con mái nặng

2,2 - 2,5 kg.

Sản lượng trứng đạt 180 - 200 quả./ năm/ mái, khối lượng

trứng 54 - 55 quả. Gà BT1 có những ưu điểm của gà bố là : tốc độ

sinh trưởng nhanh, khả năng đẻ trứng lớn, có những ưu điểm của

gà mẹ là có sức sống tốt, khả năng chống chịu với ngoại cảnh, bệnh

tật... cao. Đây là giống gà kiêm dụng thích hợp với tất cả các hình

thức: Chăn thả, bán chăn thả và công nghiệp.

Hình 3.18: Gà Bình Thắng

Page 102: Chăn nuôi gia cầm

102

18) Gà Brown Nick (braonic)

Là dòng gà trứng cao sản ở Mỹ, được nuôi nhiều ở Thành phố

Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam, phía Bắc.

Lúc mới nở gà trống có lông màu trắng, gà mái màu nâu có 2

sọc ở lưng. Khối lượng mới nở 36 g/con, trưởng thành 1,8 kg/con.

Bắt đầu đẻ lúc 18 tuần tuổi. Sản lượng trứng 305 - 325 quả/56 tuần.

Khối lượng trứng 62 - 64 g/quả.

Hình 3.19: Gà Brown Nick

3.5.2. Các giống vịt

3.5.2.1. Vịt Cỏ

Vịt cỏ (hay còn gọi là vịt đàn, vịt tàu) là một trong những

giống vịt được nuôi lâu đời và phổ biến ở nước ta. Phân bố phổ biến

khắp mọi miền đất nước, chiếm 85% trong tổng đàn, tập trung nhiều

ở các vùng lúa nước. Trong vòng 10 năm trở lại đây, vịt có xu hướng

chủ yếu phân bố ở Ðồng bằng Bắc Bộ và ven biển miền Trung, ở các

tỉnh phía Nam có số lượng vịt giảm dần và được thay thế bằng vịt

Anh Ðào.

Nguồn gốc bắt nguồn từ vịt trời, qua quá trình thuần hóa tự

nhiên tạo thành giống vịt cỏ thích nghi với đời sống chăn thả hiện

Page 103: Chăn nuôi gia cầm

103

nay. Do con người không có tác động chọn lọc, nên giống vịt này

đang bị pha tạp nhiều.

Vịt có lông màu vàng, có con màu xanh, màu cà cuống có

chấm đen, có con đen nhạt. Vì bị pha tạp nhiều nên có nhiều màu

lông khác nhau.

Vịt có đầu thanh, mắt sáng, linh lợi, mỏ dẹt, khỏe và dài, mỏ

thường có màu vàng, có con mỏ màu xanh cà cuống lấm chấm đen,

có con màu tro. Cổ dài, mình thon nhỏ, ngực lép. Chân hơi dài so

với thân, chân thường màu vàng, có con màu nâu, một số con màu

đen (những con này toàn thân có màu da xám). Những con màu lông

khác thì có da trằng hơi vàng. Dáng đi nhanh nhẹn, kiếm mồi giỏi, tỷ

lệ nuôi sống cao.

Hình 2.20: Vịt Cỏ

Khối lượng mới nở 42 g/con. Lúc trưởng thành con trống

nặng 1,6 kg, con mái nặng 1,5 kg/con. Mỗi năm có thể đẻ từ 150 -

250 quả, tuỳ theo điều kiện nuôi dưỡng. Khối lượng trứng 65 g/quả,

70-80 ngày tuổi có thể giết thịt.

3.5.2.2. Vịt Bầu

Giống to con, ngon thịt, nặng trung bình 2,0-2,5 kg, 6 tháng

tuổi bắt đầu đẻ trứng, trứng nặng 50-60 g. Vịt phổ biến hầu hết các

Page 104: Chăn nuôi gia cầm

104

địa phương ở nước ta, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là loại vịt Bầu bến

(Hòa Bình), vịt Phủ Quì (Nghệ An).

Vịt Bầu Bến có nguồn gốc ở vùng Chợ Bến, huyện Lạc Sơn,

tỉnh Hoà Bình, hiện nay được nuôi ở nhiều nơi như Hà Nội, Hà Tây,

Thanh Hoá và một số mơi khác. Vịt có thân hình bầu bỉnh, đầu to, cổ

dài. Con mái có màu nâu-vàng xen lẫn. Con trống có màu cánh sẻ

phía đầu, lưng. Tuy nhiên vẫn có một số con có màu khác. Chân

màu vàng, thỉnh thoảng có chấm đen. Khối lượng mới nở 42 g/con.

Lúc trưởng thành, con trống nặng 1,6 - 1,8 kg, con mái nặng 1,3 -

1,7 kg. Vịt bắt đầu đẻ lúc 154 ngày tuổi. Khối lượng trứng 64 - 66

g/quả. Sản lượng trứng/mái/34 tuần đẻ 134 - 146 quả. Tỷ lệ phôi 95 -

96%. Tỷ lệ nở đạt 80%.

Vịt Bầu Quì có nguồn gốc từ huyện Quì Châu, tỉnh Nghệ An.

Hiện nay được phân bố ở các huyện Quì Châu, Quế Phong, Vinh

(Nghệ An), Hà Nội, Hà Tây, Thanh Hoá.

Vịt có thân hình gần giống vịt Bầu Bến. Khối lượng trưởng

thành con trống nặng 1,6 - 1,8 kg, con mái nặng 1,4 - 1,7 kg/con. Vịt

bắt đầu đẻ lúc 162 - 168 ngày tuổi. Trứng nặng 70 - 75 g/quả. Tỷ lệ

phôi 96 - 97%. Tỷ lệ ấp nở đạt 80%. Sản lượng trứng/mái/34 tuần đẻ

đạt 122 - 124 quả.

Hình 3.21: Vịt Bầu Bến

Page 105: Chăn nuôi gia cầm

105

Hình 3.22: Vịt Bầu Quì

3.5.2.3.Một số giống vịt khác

Những năm gần đây, chúng ta có nhập một số giống vịt ngoại

như: giống vịt Khaki-Campbell, CV-Super Meat, CV-2000 ...để

nhân thuần, lai với các giống địa phương và với các giống cao sản

khác.

- Vịt CV-Super M. Vịt được nhập vào Việt Nam từ năm

1989. Hiện nay được nuôi nhiều ở các vùng Ðồng bằng Sông Cửu

Long và Ðồng bằng Sông Hồng. Vịt có lông màu trắng tuyền. Chân

và mỏ màu nâu vàng.

Khối lượng mới nở 54 g/con. Lúc trưởng thành con trống

nặng 3,2 - 3,8 kg/con, con mái nặng 3,2 - 3,5 kg/con tuỳ theo dòng

chọn lọc. Giết thịt ở 49 ngày tuổi có khối lượng 2,8 kg/con, tỷ lệ thịt

xẻ đạt 86%. Ðến 40 tuần tuổi đẻ 200 quả. Khối lượng trứng 79 - 82

g/quả. Là giống vịt chuyên thịt.

Page 106: Chăn nuôi gia cầm

106

Hình 3. 23: Vịt CV-Super M

Hình 2. 24: Vịt Khaki-Campbell

- Vịt Khaki-Campbell là giống vịt cao sản về trứng. Lông

màu xám, kaki. Tầm vóc không lớn: 2,2-2,5kg/con trống; 1,6-1,7

kg/con mái. Sản lượng trứng cao 280-300 quả/ năm, khối lượng

trứng 58-64 g/quả. Thích hợp với điều kiện chăn nuôi ở nước ta.

3.5.2.4. Các giống ngan, ngỗng

Ngan nội có nguồn gốc xa xưa từ Nam Mỹ, được nhập

vào nước ta từ lâu, được nuôi nhiều ở nhiều nơi thuộc vùng Ðồng

bằng Sông Hồng. Có 3 loại màu lông: trắng (ngan Ré), loang trắng

đen (ngan Sen) và màu đen (ngan Trâu). Ngan Ré có khối lượng lúc

4 tháng tuổi con mái 1,7 - 1,8 kg/con, con đực 2,8 - 2,9 kg/con.

Page 107: Chăn nuôi gia cầm

107

Ngan Sen có khối lượng lúc 4 tháng tuổi, con mái 1,7 - 1,8

kg/con, con đực 2,9 - 3,0 kg/con.

Ngan Trâu có tầm vóc to, thô, dáng đi nặng nề. Sau 5 tháng

ngan bắt đầu đẻ. Một năm đẻ 3 - 5 lứa, năng suất trứng 50 - 75

quả/mái/năm. Khối lượng trứng 65 - 67 g/quả.

Hình 3. 25: Ngan nội

Ngan Pháp R51 có nguồn gốc từ Pháp, nhập vào Việt

Nam từ năm 2001. Hiện nay được nuôi ở một số địa phương: Hà nội,

Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá..... Ngan 1 ngày tuổi có

lông màu vàng rơm, chân, mỏ có màu hồng hoặc trắng, trên đầu có

đốm đen hoặc nâu. Ðến tuổi trưởng thành, ngan có màu lông trắng.

Mọc lông đầy đủ lúc 11 - 12 tuần tuổi, 4-5 tháng tuổi thay lông.

Khối lượng mới nở 55 g/con; 12 tháng tuổi đạt 3,5 kg; 24 tháng tuổi

nặng 4,0 kg/con. Tuổi đẻ 5% lúc 200-205 ngày. Khối lượng trứng 75

g/quả. Năng suất trứng 110 quả/mái. Tỷ lệ ngan nở loại 1/tổng số

trứng ấp là 80%.

Ngan Pháp R71 có nguồn gốc từ Pháp và được nhập

vào Việt nam năm 2001 được nuôi ở Hà Nội, Thái Nguyên, Vĩnh

Phúc... Ngan 1 ngày tuỏi có màu lông vàng rơm, có hoặc không có

đốm đen trên đầu. Chân, mỏ màu hồng. Khi trưởng thành ngan có

màu lông trắng. Khối lượng ngan mới nở 53 g/con, lúc 12 tuần tuổi

Page 108: Chăn nuôi gia cầm

108

nặng 3,6 kg, 24 tuần tuổi nặng 4,2 kg/con. Tuổi đẻ 5% lúc 203 ngày.

Năng suất trứng/mái/2 chu kỳ 185 - 195 quả. Khối lượng trứng 80

g/quả. Tỷ lệ phôi 93%, tỷ lệ nở loại 1/tổng số trứng ấp là 81%.

Ngan Pháp siêu nặng có nguồn gốc từ Pháp được nhập

vào Việt Nam năm 1998, được nuôi ở nhiều nơi như: Hà Nội, Hưng

Yên, Hà Bắc, Hà Tây... Ngan có lông màu trắng tuyền. Mào và tích

tai màu đỏ. Khối lượng ngan lúc 1 tuần tuổi 150 g/con, lúc 6 tuần

tuổi 1,8 kg và lúc 12 tuần tuổi con trống nặng 4,4 kg, con mái nặng

2,7 kg/con. Sau 165-185 ngày ngan bắt đầu đẻ. Năng suất trứng 95 -

100 quả trong 28 tuần. Khối lượng trứng 80 g/quả.

Hình 3. 26: Ngan Pháp R51

Page 109: Chăn nuôi gia cầm

109

Hình 3. 27: Ngan Pháp R71

Hình 3.28: Ngan Pháp siêu nặng

Ngỗng Xám là con lai giữa ngỗng Cỏ (Ngỗng Sen) với

các giống ngỗng khác như ngỗng Sư Tử Trung quốc, ngỗng

Rheinland, được nuôi nhiều ở Ðồng bằng Sông Hồng, nhiều nhất là

ở Hà Tây. Có 3 loại màu: lông màu xám có loang trắng từ cổ tới

bụng, chân, mỏ màu xám chiếm 60%; lông xám hoàn toàn, mỏ có

đốm trắng, ống chân vàng, bàn chân xám chiếm 20%; lông xám có

loang trắng, da chân màu vàng hoặc xám chiếm 20%. Khối lượng

lúc 11 tuần, con mái nặng 3,8 kg, con trống nặng 4,3 kg/con. Bắt đầu

Page 110: Chăn nuôi gia cầm

110

đẻ lúc 240 ngày tuổi. Mỗi năm đẻ 3-4 lứa, mỗi lứa đẻ 10 quả. Khối

lượng trứng nặng 180 g/quả.

Hình 3.29: Ngỗng Xám

Ngỗng Sư Tử có nguồn gốc từ Trung quốc, được nuôi

ở nhiều nơi thuộc đồng bằng Sông Hồng và tập trung ở Hà Tây.

Lông màu xám, đầu to, mỏ den thẩm, mào màu đen và to (đặc biệt là

con đực). Mắt nhỏ màu nâu xám. Phân trên cổ có yếm da. Thân hình

dài vừa phải, ngực khá to nhưng hẹp. Khối lương con cái 5-6 kg, con

đực nặng 6-7 kg/con. Thành thục lúc 8-9 tháng tuổi. Năng suất trứng

55 - 70 quả/mái/năm.

Page 111: Chăn nuôi gia cầm

111

Hình 3. 30: Ngỗng Sƣ Tử

Ngỗng Rên Lan (Reinland) có nguồn gốc từ vùng

Reinland của Ðức. Ðược nhập vào Việt Nam năm 1976 từ Hungari.

Ngỗng được nuôi ở nhiều nơi thuộc vùng Ðồng bằng Sông Hồng

như: Gia Lâm, Ðông Anh (Hà Nội), Cẩm Giàng, Khoái Châu (Hưng

Yên), Yên Phong, Việt Yên ( Băc Giang), Vĩnh Yên, Vĩnh Lạc

(Vĩnh Phúc). Ngỗng có lông màu trắng tuyền. Khối lượng cơ thể lúc

77 ngày tuổi, con mái nặng 3,6 kg, con trống nặng 4,0 kg/con. Thành

thục lúc 7,5 tháng tuổi. Năng suất trứng 57 quả /mái/năm. Tỷ lệ phôi

88-92%, tỷ lệ nở/phôi 75,4%. Ngỗng được nuôi để lấy thịt, vỗ béo

lấy gan và lấy lông.

Page 112: Chăn nuôi gia cầm

112

Hình 3.31: Ngỗng Rheinland

3.5.2.5. Gà Tây nội.

Gà tây nội được thuần hoá ở Mêxicô từ thế kỷ thứ XIII, về

sau được phát triển nhiều ở Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Á.

Ở Việt Nam cho đến nay chưa biết xuất hiện từ bao giờ, chỉ

biết nhiều thập kỷ qua chúng được nuôi nhiều ở một số huyện: Ân

Thi, Phù Cừ, Khoái Châu... của tỉnh HưngYên, huyện Hoài Đức,

Thường Tín , thị xã Hà Đông của tỉnh Hà Tây, huyện Thuận Thành -

Hà Bắc...

Đặc điểm ngoại hình: thân hình cao to hơn các loại gà nội,

lông có 3 loại màu: Màu đen, màu đồng (giống như đồng thau), màu

trắng, nhưng màu đen vẫn chiếm đa số, chân đen, da trắng, da đầu

gà trống, Mỹ gà mái màu xanh xám. Gà tây trưởng thành, con trống

mào phát triển chảy xuống đến mỏ, hoặc quá mỏ , da cổ phát triển

thành ― yếm ‖ màu đỏ, lúc dính nhau hoặc đạp mái mới chuyển

thành màu xanh tím, đối với con mái mào và yếm kém phát triển.

Rau cỏ là nguồn thức ăn chủ yếu của gà tây nội địa.

Khả năng sản xuất của gà tây nội: gà thịt ( lúc 28 tháng tuổi )

gà mái có khối lượng ống trung bình 3000g, gà trống 5155g. Khả

năng sinh sản, tuổi đẻ quả trứng đầu tiên trung bình 227 ngày, năng

Page 113: Chăn nuôi gia cầm

113

suất trứng 47 - 53 quả/ mái/ năm khối lượng trứng trung bình 68 -

227 ngày, năng suất trứng 47 - 53 quả/ mái/ năm. Khối lượng trứng

trung bình 68 - 69 g/ quả. Gà mái ấp 18 - 23 quả/ lứa: Tỷ lệ có phôi

cao: 91 - 92%, tỷ lệ nở bình quân 95 - 96%/ trứng ấp. Gà Tây bố

mẹ sinh sản có thể sử dụng tối đa 2 - 3 năm (Theo tài liệu quỹ gen

vật nuôi , 1999), ( Theo Bùi Đức Lũng và Lê Hồng Mận - 2003).

Gà Tây nội có ngoại hình đẹp, khối lượng cơ thể và trứng

lớn, tỷ lệ nở cao, chất lượng thịt thơm ngon. Nhưng khả năng

chống chịu kém với bệnh tật và thời tiết khắc nghiệt. Thích hợp với

điều kiện chăn nuôi chăn thả và bán chăn thả ở nước ta. Đây là giống

gà kiêm dụng, nuôi vừa sản xuất thịt, vừa lấy trứng. Ngoài ra còn

được dùng để lai với các giống gà địa phương.

NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

1. Nguồn gốc và quá trình thuần hóa gia cầm.

2. Sự di truyền các tính trạng màu sắc lông, hình dạng mào ở

gà; sự di truyền các tính trạng số lượng ở gia cầm. Sự di

truyền liên kết với giới tính và ứng dụng trong lai tao gà.

3. Lai tạo và sử dụng ưu thế lai trong chăn nuôi gia cầm. Kể

một số nhóm gà lai năng suất cao của các hãng nổi tiếng

thế giới. Quy trình tạo gà lai năng suất cao.

4. Đặc điểm chính của các giống/dòng gia cầm đang được

nuôi phổ biến hiện nay.

Page 114: Chăn nuôi gia cầm

114

CHƢƠNG 4

SỨC SẢN XUẤT Ở GIA CẦM

Sức sản xuất là khả năng cho thịt, trứng, gan, lông ở gia cầm.

Sức sản xuất là tính trạng số lượng được quy định bởi số lượng lớn

các gen (alen) và chịu ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh. Nghiên

cứu về sức sản xuất và các nhân tố ảnh hưởng đến sức sản xuất ở gia

cầm có ý nghĩa to lớn đối với việc nâng cao năng suất và chất lượng

sản phẩm.

4.1- Sức sản xuất trứng (Sức đẻ trứng)

Sức sản xuất trứng còn gọi là sức đẻ trứng ở gia cầm thể hiện

ở các chỉ tiêu: sản lượng trứng, khối lượng trứng, phẩm chất (chất

lượng) trứng.

4.1.1. Sản lượng trứng

Sản lượng trứng là số trứng đẻ ra từ một gia cầm mái trong một

khoảng thời gian nhất định- thường là một năm đẻ trứng (sản lượng

trứng/năm/gia cầm mái). Sản lượng trứng được xác định theo cá thể

(các cơ sở giống bắt buộc phải theo dõi cá thể) hoặc theo nhóm. Sản

lượng trứng cá thể phải theo dõi thông qua đánh số gia cầm và sử

dụng ổ đẻ tự động (ổ sập). Sản lượng trứng theo nhóm, chính là sản

lượng trứng trung bình bằng tổng số trứng thu được trong thời gian

nhất định chia cho số lượng gia cầm mái bình quân trong thời gian

đó. Hiện tồn tại nhiều cách tính sản lượng trứng khác nhau, đó là

tính trên số mái đầu kỳ, tính trên số mái cuối kỳ hay tính trên số mái

bình quân có mặt. Mỗi cách tính đưa ra những sai số nhất định so

với sản lượng trứng thực tế của gia cầm mái. Sản lượng trứng /năm

cũng có nhiều cách xác định khác nhau. Năm đẻ trứng sinh học tính

từ khi gia cầm mái đẻ quả trứng đầu tiên đến ngày đó của năm tiếp

theo. Năm đẻ trứng cũng có thể tính từ 1/X cho đến 31/IX năm tiếp

theo. Một số nước tính sản lượng trứng cho đến khi gia cầm mái đạt

Page 115: Chăn nuôi gia cầm

115

500 ngày tuổi. Vì vậy trước khi phân tích, so sánh cần xem cách tính

cụ thể như thế nào, trong trường hợp cụ thể mà số liệu được đưa ra.

4.1.2. Khối lượng trứng

Khối lượng trứng của gia cầm mái được xác định bằng khối

lượng trứng trung bình/năm (g/quả) hoặc khối lượng trứng sản xuất

ra từ một gia cầm mái/ năm (kg trứng). Khối lượng trứng thường

được xác định ở các thời điểm: Khối lượng quả trứng đẻ đầu tiên;

Khối lượng quả trứng đẻ lúc 32 tuần tuổi; Khối lượng quả trứng đẻ

lúc 52 tuần tuổi.

Lúc 32 tuần là lúc sức sản xuất biểu hiện cao nhất, lúc 52 tuần tuổi là

lúc gia cầm hoàn toàn trưởng thành. Để tính khối lượng trứng trung

bình/năm, người ta tính khối lượng trứng trung bình của 10 tháng đẻ

trứng. Ở mỗi tháng đẻ, cân 3 quả trứng rồi lấy khối lượng trung bình.

Ba quả trứng được cân từ một gia cầm mái hoặc khối lượng trứng

trung bình toàn đàn gia cầm mái vào 3 ngày liên tiếp trong tháng,

hoặc 3 ngày với khoảng cách cố định (ví dụ ngày 4, 5, 6 hàng tháng

hoặc ngày 10, 20, 30 hàng tháng). Cân bằng cân kỹ thuật có độ chính

xác 0,1g. Khối lượng trứng trung bình của gà 55-65g, trứng vịt70-

80g, trứng ngỗng 140-200g, trứng gà tây 100-110g, trứng bồ câu

25g, trứng chim cút 16-18g, trứng đà điểu 1000-1200g/quả.

4.1.3. Phẩm chất trứng (chất lượng trứng).

Phẩm chất trứng thể hiện ở nhiều chỉ tiêu: phẩm chất bên ngoài

và phẩm chất bên trong. Các chỉ tiêu bên ngoài của trứng đó là chỉ

số hình dạng, màu sắc vỏ trứng, độ dày vỏ và độ bền vỏ trứng. Chỉ

số bên trong đó là tỷ lệ các thành phần cấu tạo trứng, chỉ số lòng

trắng trứng, chỉ số lòng đỏ trứng, độ đậm của lòng đỏ, tổng hợp chỉ

quan hệ giữa khối lượng và chất lượng lòng trắng trứng là chỉ số

Haugh...

- Hình dạng trứng có ý nghĩa quan trọng trong việc ấp trứng

cũng như trong vận chuyển bảo quản trứng thương phẩm. Hình dạng

trứng được đánh giá qua chỉ số hình dạng trứng. Chỉ số hình dạng

Page 116: Chăn nuôi gia cầm

116

trứng (I) là tỷ lệ giữa đường kính lớn D (chiều dài) và đường kính

nhỏ d (chiều rộng) của trứng. Đo đường kính lớn (D) và đường kính

nhỏ (d) của trứng bằng thước kẹp.

I = D/d hoặc I = d/D

I: chỉ số hình dạng

D: đường kính lớn

d: đường kính nhỏ

Trứng gà có chỉ số 1,3-1,4 (hoặc 0,73-0,74) là thích hợp, có tỉ lệ dập

vỏ thấp nhất trong quá trình bảo quản, vận chuyển, và cho tỷ lệ ấp

nở cao.

- Độ dày vỏ trứng thu hút sự chú ý lớn của các nhà chăn nuôi

vì nó liên quan đến tỉ lệ dập vỡ và tỉ lệ ấp nở. Trứng có độ dày từ

0,25-0,58mm; phụ thuộc vào loài, giống, cá thể, điều kiện nuôi

dưỡng, bệnh tật. Hệ số di truyền về độ dày vỏ trứng ở mức thấp

0,15-0,3. Phương pháp xác định thông qua đo độ dày vỏ bằng thước

kẹp hoặc thước chuyên dùng đo độ dày vỏ trứng. Đo trên 3 vị trí:

đầu nhọn, giữa, đầu tù của trứng rồi lấy giá trị trung bình. Độ dày vỏ

tỉ lệ thuận với khối lượng trứng.

Xác định độ bền vỏ trứng bằng dụng cụ chuyên dùng đo độ

chịu lực của trứng (kg/cm2); trung bình từ 3-5 kg/cm

2.

- Tỉ lệ trứng dập vỡ (%) có ý nghĩa quan trọng quyết định

hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gà đẻ trứng. Hàng ngày thống kê

ghi chép trứng dập vỡ và tính tỉ lệ %.

D d

Page 117: Chăn nuôi gia cầm

117

Tỉ lệ dập vỡ(%) =

Trứng dập vỡ

Tổng số trứng

X 100

- Màu sắc vỏ trứng được quyết định bởi yếu tố di truyền mạnh hơn

là dinh dưỡng. Ngược lại độ đậm nhạt của lòng đỏ là do sắc tố trong

thức ăn quyết định. Để thay đổi màu vỏ trứng phải thông qua việc

tạo ra các tổ hợp gen mới, còn để thay đổi màu lòng đỏ trứng chỉ cần

thay đổi thành phần khẩu phần ăn. Xu hướng chung hiện nay là tạo

ra gia cầm lai đẻ trứng có vỏ màu (nâu, hồng, nâu xẫm...) thay cho

trứng vỏ trắng. Ở Anh 100% gà đẻ trứng thương phẩm là vỏ màu, ở

Pháp 85%, Đức 80%... Vỏ trứng màu thường gắn với bộ lông màu

và thường di truyền liên kết với giới tính.

- Chỉ số lòng đỏ trứng. Chỉ số lòng đỏ trứng là mối quan hệ

giữa chiều cao và đường kính lòng đỏ.

h I: chỉ số lòng đỏ

I = ------------ h: chiều cao lòng đỏ

D D: đường kính lòng đỏ

Chỉ số này càng cao thì trứng có phẩm chất càng tốt.

Phương pháp xác định: đập trứng ra đĩa petri đo đường kính và

chiều cao. Chỉ số này thay đổi theo thời gian bảo quản trứng và độ

bền của màng lòng đỏ.

- Chỉ số lòng trắng trứng: Chỉ số lòng trắng trứng là mối quan

hệ giữa chiều cao lòng trắng đặc và trung bình giữa đường kính lớn

và đường kính nhỏ của lòng trắng đặc.

I = 2H

D+ d

H: chiều cao lòng trắng đặc

d: đường kính nhỏ lòng trắng đặc

D: đường kính lớn lòng trắng đặc

Chỉ số này càng cao thì trứng có phẩm chất càng tốt.

Page 118: Chăn nuôi gia cầm

118

- Đơn vị Haugh (Chỉ số Haugh - Haugh Unit).

Chỉ số Haugh là chỉ mối quan hệ giữa khối lượng trứng với chiều

cao lòng trắng đặc của trứng, do Haugh xác định và đưa ra công thức

tính đầy đủ:

0,37G(30w 100100log[H- 19]

100HU

Để dễ tính toán, sử dụng công thức rút gọn:

0,37100log( 1,7w 7,57)HU H

HU : đơn vị Haugh

H: chiều cao lòng trắng đặc; G: Hằng số trọng lực = 32,2.

W: khối lượng trứng

Phương pháp: cân khối lượng trứng, đập ra đo chiều cao lòng

trắng và tra bảng cho sẵn ta có chỉ số Haugh (bảng 4.1). HU càng

cao phẩm chất trứng càng tốt. Trứng chênh lệch 1 – 8 đơn vị Haugh

thì coi như có chất lượng tương tự.

Bảng 4.1: Liên quan giữa chỉ số Haugh với chiều cao lòng trắng

đặc của trứng

Khối lượng trứng (g)

Chiều cao

lòng trắng đặc (mm)

49,9 53,2 56,7 60,2 63,8

10

9

8

7

6

5

4

3

2

102

97

92

87

80

73

64

53

37

101

96

91

86

79

71

62

50

34

100

95

90

84

78

70

60

48

30

99

95

89

83

77

68

58

45

26

98

94

88

82

75

67

56

42

22

Page 119: Chăn nuôi gia cầm

119

Chỉ số Haugh Chiều cao lòng trắng đặc (mm)

100

90

80

70

60

50

40

30

20

9,6

7,6

5,9

4,6

3,6

2,8

2,2

1,6

1,2

9,8

7,8

6,1

4,8

3,8

3,0

2,3

1,8

1,4

10,0

7,9

6,5

5,0

4,0

3,2

2,5

2,0

1,6

10,2

8,1

6,5

5,2

4,2

3,3

2,7

2,2

1,8

10,3

8,3

6,7

5,4

4,3

3,5

2,8

2,3

1,9

Chất lượng trứng của một số dòng gà công nghiệp nuôi ở Việt

Nam những năm qua thể hiện trên bảng 4.2. Kết quả cho thấy gà

công nghiệp nuôi trong điều kiện nóng, ẩm nhưng chất lượng trứng

đạt tương đương so với nguyên gốc (nuôi ở Cu Ba).

Bảng 4.2: Chất lƣợng trứng của một số giống gà nuôi công

nghiệp ở Việt nam

BVX BVY XR XY

Khối lượng trứng (g) 58,7 64,8 58,83 58,0

Chỉ số hình dạng 1,38 1,40 1,39 1,38

Độ chịu lực (kg/cm2) 5,19 2,52 2,81 2,75

Độ dày vỏ (mm) 0,34 0,36 0,35 0,33

Chỉ số lòng đỏ 0,45 0,46 0,43 0,42

Chỉ số lòng trắng 0,09 0,09 0,10 0,09

Đơn vị Haugh 80,5 85,0 83,0 78,0

Trứng dập vỡ (%) 11,0 6,0 - -

XR: gà lai F1 hướng trứng giữa Lơgo dòng X và Rốt R

XYgà lai F1 hướng trứng giữa Lơgo dòng X và Rốt Y

BVX Lơgo dòng X

BVY Lơgo dòng Y

Page 120: Chăn nuôi gia cầm

120

4.1.4. Thành phần cấu tạo trứng gia cầm

Trứng gia cầm là tế bào sinh dục phức tạp được biệt hoá rất

cao, gồm các phần (tính từ trong ra):lòng đỏ, lòng trắng, màng dưới

vỏ, vỏ cứng và có một lớp nhầy (màng mỡ) bao bọc, phủ ngoài vỏ

trứng khi được đẻ ra. Mỗi phần của chúng đều có chức năng riêng

biệt. Tỉ lệ tương đối (%) và tuyệt đối (g) giữa các thành phần tuỳ

thuộc vào loại gia cầm, mùa vụ, tuổi sinh sản. Lòng đỏ chiếm 32-

35%, lòng trắng 54-58%, vỏ cứng 11-14% so với khối lượng trứng.

Sự sai khác phụ thuộc vào loài gia cầm, tuổi đẻ, mùa vụ, chất lượng

thức ăn v.v…

Bảng 4.3. Tỷ lệ các thành phần cấu tạo trứng

Loại gia

cầm

Khối lƣợng

trứng (g)

Lòng trắng

(%)

Lòng đỏ

(%)

Vỏ cứng

(%)

Vịt

Ngỗng

58

80

200

55.8

52.6

52.5

31.9

35.4

35.1

12.3

12.0

12.4

Tỉ lệ thành phần cấu tạo trứng thay đổi tuỳ thuộc giống, tuổi, chế độ

dinh dưỡng…

Bảng 4.4: Tỉ lệ các thành phần cấu tạo của trứng gà, ngan

(theo Bạch Thị Thanh Dân, Nguyễn Quí Khiêm - 2002)

Chỉ tiêu Trứng gà Trứng ngan

Pháp

Trứng ngan

Nội

Lòng trắng( %) 58,62 53,76 55,39

Lòng đỏ (%) 31,04 35,01 32,60

Vỏ (%) 10,34 11,23 12,01

4.1.4.1.Vỏ trứng

- Màng nhầy (màng mỡ). Bên ngoài cùng của vỏ trứng phủ

một lớp màng nhầy (màng mỡ) được hình thành trong thời gian

Page 121: Chăn nuôi gia cầm

121

trứng nằm ở âm đạo, trước khi đẻ ra. Màng nhầy (màng mỡ) có cấu

tạo từ protein (sợi muxin) có những hạt mỡ nhỏ li ti. Độ dày của

màng nhầy 0,05 - 0,01mm. Màng nhầy có tác dụng:+Giảm ma

sát khi đẻ; +Hạn chế sự bốc hơi nước của trứng; +Hạn chế sự xâm

nhập của vi khuẩn từ bên ngoài vào bên trong trứng. Thời gian bảo

quản trứng càng lâu độ bóng và tác dụng của màng mỡ càng giảm đi.

- Vỏ cứng (vỏ đá vôi): Trong tử cung của gia cầm có tuyến

vôi tiết ra một lớp dịch nhờn và trắng, dịch này tạo ra từ

cacbonatcanxi và các bó protein. Chất này nhanh chóng cứng lại tạo

thành lớp vỏ bao quanh trứng. Vỏ cứng được tạo thành bởi 93,5%

muối canxi (cacbonat canxi); 4,09% protein; 0,14% chất béo; 1,2%

nước; 0,5% oxit magiê; 0,25 photpho; 12% dioxit silic; 0,03% natri;

0,08% kali và các chất sắt, nhôm. Chức năng của nó là bảo vệ các

thành phần bên trong của trứng, đồng thời là nguồn cung cấp canxi,

phốt pho cho phôi để tạo xương. Thời gian tạo vỏ là một quá trình

kéo dài từ 9 - 12 giờ. Để hình thành xương phôi nhận 75% canxi từ

vỏ, còn lại 25% lấy từ lòng trắng. Trên bề mặt của vỏ có các lỗ khí

có kích thước rất nhỏ. Có khoảng 7000 - 7600 lỗ khí trên bề mặt vỏ

cứng). Đường kính lỗ khí, theo Jehn là 4-42 ; trung bình: 18-24 .

Độ dày vỏ cứng của từng loại gia cầm không giống nhau. Vỏ

trứng gà có độ dày từ 0,2 - 0,4mm. Trứng có vỏ dày chịu lực cao

hơn trứng có vỏ mỏng.

Bảng 4.5:Thành phần hóa học của vỏ trứng gia cầm (%)

(theo Rômanop, 1969)

Loài

gia

cầm

CaCO3 MgCO3 Ca3

(PO4)2

P2O5 K Chất

hữu

Gà 92,4-

97,9

1,3-1,8 0,8 0,4-

0,8

0,3 4,1-5,5

Vịt 94,4 0,5 0,8 0,8 - 4,2-4,3

Ngỗng 95,3 0,7 0,5 0,5 - 3,5

Page 122: Chăn nuôi gia cầm

122

- Màng dưới vỏ trứng gồm 2 lớp dính sát vào nhau, được cấu

tạo từ sợi keratin đan chéo vào nhau, protein, chất keo dính chứa

nhiều lưu huỳnh. Màng vỏ ngoài có thể gắn thêm vôi. Sau khi trứng

đẻ ra được tách ra ở đầu lớn của trứng làm thành buồng khí. Một lớp

màng dính sát vào vỏ còn lớp bên trong dính sát vào lớp lòng trắng

ngoài. Độ dày của 2 lớp màng này khoảng 0,057 - 0,069mm. Màng

dưới vỏ bao bọc lấy lòng trắng. Buồng khí có chức năng cung cấp

oxy cho phôi trong giai đoạn đầu của sự hô hấp bằng phổi. Trong

quá trình bảo quản trứng, buồng khí rộng ra do sự bốc hơi nước của

trứng qua lỗ khí. Giá trị dinh dưỡng của trứng cũng giảm đi theo thời

gian bảo quản.

4.1.4.2.Lòng trắng trứng:

Bao bọc bên ngoài lòng đỏ, lòng trắng gồm nhiều lớp có độ

quánh khác nhau. Lớp ngoài cùng loãng, đến lớp giữa đặc và trong

cùng là một lớp loãng, lớp thứ 4 gọi là lớp lòng trắng đặc bên trong.

Tỉ lệ các lớp lòng trắng như sau:

+ Lòng trắng loãng phía ngoài 23,2%

+ Lòng trắng đặc giữa 57,3%

+ Lòng trắng loãng trong 10,8%

+ Lòng trắng đặc trong 7,2%

+ Dây chằng Albumin 1,5%

Lòng trắng đặc ngăn cản không cho lòng đỏ dính vào vỏ

trứng bằng cách hạn chế sự di động của lòng đỏ. Trong lòng trắng có

dây chằng albumin giữ cho lòng đỏ nằm giữa quả trứng và giữ cho

lòng đỏ không chuyển động.

Thành phần hoá học của lòng trắng chủ yếu là albimin hoà

tan trong nước và trong muối trung tính. Lòng trắng chứa 85-89% là

nước, protêin 11-12%, lipit 0,03-0,08%, đường 0,9-1,2%, khoáng

0,6-0,8%, còn lại các chất dinh dưỡng như vitamin B2, đường cung

cấp năng lượng cho nhu cầu phát triển của phôi. Nếu B2 bị thiếu,

phôi thai sẽ bị chết vào tuần thứ hai của giai đoạn ấp. Khi đun nóng

Page 123: Chăn nuôi gia cầm

123

lòng trắng đóng vón lại. Lipit trong lòng trắng trứng rất ít. Trong

thành phần còn có mucin, mucoprotein thuộc vào nhóm

Glucoprotein có độ quánh cao. Lòng trắng có tạo môi trường hoạt

động của các enzyme, trong lòng trắng còn có chứa ion sắt…

Chức năng của lòng trắng là cung cấp năng lượng, cung cấp

nước, khoáng… cho phát triển phôi.

4.1.4.3.Lòng đỏ trứng

Lòng đỏ là một loại tế bào trứng đặc biệt có cấu tạo không

đồng nhất mà bao gồm nhiều vòng đồng tâm đậm nhạt khác nhau.

Lòng đỏ được bao bọc bằng màng lòng đỏ, mỏng có tính đàn hồi cao

nhờ đó mà lòng đỏ không lẫn vào lòng trắng mà luôn giữ được hình

tròn. Trứng để lâu tính đàn hồi mất dần, lúc đó màng bị rách và lòng

đỏ, lòng trắng tan dần vào nhau. Trên bề mặt lòng đỏ là đĩa phôi.

Lòng đỏ là phần giàu chất dinh dưỡng nhất. Thành phần hóa học của

lòng đỏ: protein 16-17%, đường 0,8-1,1%, lipit 33- 36%, khoáng

1,1-1,8%, nước 43-50% và các vitamin.

Trong các loại protein thì Photphoprotein chiếm nhiều nhất. Các

axít béo gồm Palmitic, Stearic, Oleic và các axit béo chưa no khác.

Các photphotit của Lơxetin và Cafalin. Trong lòng đỏ chứa sẳc tố

Lutein được cấu tạo từ sắc tố thực vật Xantophin, Zeacxactin do gia

cầm ăn vào từ thức ăn xanh, cà rốt…

Khoáng gồm K, Na, Mg, Ca, Sunfat, Photphat, Clorit, các

Vitamin nhưng thiếu vitamin C (bảng 4.9)

Bảng 4.6:Thành phần hoá học của trứng gia cầm (%)

Loại

trứng H2O Đạm Mỡ Đƣờng Khoáng

Gà 73,6 12,8 11,8 1,0 0,8

Vịt 72,8 13,7 14,4 1,2 1,0

Ngỗng 70,6 14,0 13,0 1,2 1,2

Page 124: Chăn nuôi gia cầm

124

Bảng 4.7. Thành phần hoá học của lòng trắng và lòng đỏ (%)

Trứng

Lòng trắng

Nƣớc Protein Lipid Glucid Khoáng

Vịt

Gà tây

85.6

87.0

86.7

12.77

11.1

11.5

0.25

0.03

0.03

0.7

1.07

0.97

0.67

0.5

0.8

Trứng

Lòng đỏ

Nƣớc Protein Lipid Glucid Khoáng

Vịt

Gà tây

50.9

45.8

48.3

16.06

16.8

17.4

31.7

36.2

32.9

0.29

0.29

0.20

1.02

1.20

1.20

Bảng 4.8: Thành phần hoá học chung của trứng gà, ngan

(theo Bạch Thị Thanh Dân, Nguyễn Quý Khiêm - 2002)

Chỉ tiêu Trứng gà Trứng ngan

Nước (%) 73,6 63,1 - 71,1

Protein (%) 12,8 12,5 - 13,0

Mỡ (%) 11,8 13,6 - 14,5

Khoáng (%) 1,09 1,1 - 1,5

Hình 4.1: Cấu tạo trứng gia cầm

Page 125: Chăn nuôi gia cầm

125

1. Màng ngoài vỏ 6. Lòng trắng đặc lớp ngoài 12. Màng lòng đỏ

2. Vỏ cứng 7. Lòng trắng loãng lớp ngoài 13. Lớp sáng lòng

đỏ

3. Lỗ không khí 8. Dây chằng 14. Lớp tối lòng đỏ

4. Màng trong vỏ 9. Buồng khí 15. Tâm phôi

5. Màng lòng

trắng

10. Lòng trắng loãng lớp

trong

16. Đĩa phôi

11. Lòng trắng đặc lớp trong

Bảng 4.9: Hàm lƣợng Vitamin trong trứng gà tính trong 100g

vật chất khô

(Theo Bengart)

Vitamin Toàn bộ

trứng Lòng đỏ Lòng trắng

A (mg) 0,2 0,03 - 1,2 -

D (mg) 200 100 - 400 -

E (mg) 1 3 -

K (mg) 0,02 - -

B1 (mg) 0,15 0,3 -

B2 (mg) 0,4 - -

B12 (mg) 0,05 18 0,1

Axit

pantotenic

(mg)

0,7 7,2 0,1

4.1.5. Các nhân tố ảnh hƣởng đến sức sản xuất trứng

4.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng

Vào đầu thế kỷ XX người ta đã nghiên cứu cơ sở di truyền

của sức đẻ trứng nhưng số gen ảnh hưởng đến tính trạng này đến nay

chưa xác định được. Thí nghiệm đầu tiên nâng cao sức đẻ trứng vào

đầu thế kỷ XX là của Gouell (Mỹ): 9 năm liền chọn lọc gà mái đẻ

Page 126: Chăn nuôi gia cầm

126

trứng tốt nhất của giống gà Plymut vằn nhưng các thí nghiệm của

ông không có kết quả. Peeler tiến hành các thí nghiệm và suy ra giả

thiết sức đẻ trứng do hai cặp gen qui định (1 trong autoxom và 1 liên

kết với giới tính). Theo Gudeil và Makmallen thì có 2 cặp gen trong

autoxom quy định sức đẻ trứng. Hess chỉ ra sức đẻ trứng cao cả năm

là do nhiều gen trội còn sức đẻ trứng cao về mùa hè là do 1 gen lặn.

Theo Punmett (1930): Sức đẻ trứng cao do gen L2 liên kết giới tính.

.

Bằng những thí nghiệm lai, người ta đưa ra những yếu tố liên

kết với giới tính là yếu tố lông ánh bạc (S) và yếu tố lông vằn (B). Ở

gà có 2 yếu tố (S) và (B) thì sức đẻ trứng cao hơn các alen tương

ứng: s; l.

Theo Gudeil và Scheinberg, thí nghiệm trên giống gà rốt đỏ

(Red Rhode island) đưa ra 5 yếu tố ảnh hưởng đến sản lượng trứng,

nhưng trật tự về mức độ ảnh hưởng có thể thay đổi, đó là:

1.Tuổi gà mái khi đẻ quả trứng đầu tiên hoặc tuổi thành thục

sinh dục:

2.Cường độ đẻ trứng (chu kỳ đẻ);

3.Mức độ biểu hiện của bản năng ấp trứng (tính ấp bóng)

4.Thời gian nghỉ đẻ, đặc biệt là nghỉ đẻ mùa đông

5.Thời gian kéo dài của sự đẻ trứng

Hays cho rằng những yếu tố về năng suất nêu trên là ứng với các gen

khác nhau.

Theo Knox, Jull, Quinn: các yếu tố 1,2,5 là quan trọng và

quyết định 75-79% năng suất trứng toàn năm. Theo Lerner và Taylor

(1943): 3 yếu tố đầu quyết định 55-91%.

Hays đưa ra khoảng chênh lệch so với sức đẻ trứng cao của

các yếu tố đó là: Thời gian kéo dài đẻ trứng: 55,2;Cường độ đẻ :

31.4; Bản năng ấp trứng:16.8; Nghỉ đẻ mùa đông : 24.2; Tuổi thành

thục: 6.9.

Page 127: Chăn nuôi gia cầm

127

Lerner và Taylor (1943) xếp số 1 là thời gian kéo dài của sự

đẻ trứng.

Albada (1955-1956): thời gian kéo dài và cường độ đẻ trứng

là quan trọng, ngoài ra còn có các yếu tố khác ảnh hưởng gián tiếp:

+ Gen thể trọng: vì gà mái nặng cân bắt đầu đẻ muộn hơn nhẹ

cân; có thể do gen qui định thời gian thành thục sinh dục chậm cũng

như các gen thể trọng lớn.

+Gà mái đẻ trứng to thì số lượng trứng thường ít hơn đẻ

trứng nhỏ.

+Phụ thuộc và khả năng thành thục sinh dục của gia cầm mái.

1) Tuổi của gà mái khi đẻ quả trứng đầu tiên:

+Tuổi thành thục về tính (tuổi đẻ quả trứng đầu tiên) là thời gian

tính từ khi nở ra đến khi gia cầm đẻ quả trứng đầu tiên. Trong đàn

hoặc nhóm gia cầm thì tuổi thành thục được tính từ khi nở ra đến khi

sức đẻ trứng đạt 50% trong đàn. Thời gian thành thục về tính dài hay

ngắn ảnh hưởng đến sản lượng trứng cả năm. Kết quả nghiên cứu

cho thấy

Tuổi thành thục (ngày) Sản lượng trứng (quả/mái)

151-180 173,3

181-210 157,0

211-240 140,1

Các nhân tố ảnh hưởng đến thành thục gồm Giống: gà trứng có tuổi

thành thục sớm 5-6 tháng, gà kiêm dụng 6-7tháng, gà hướng thịt 7-

8tháng; Loài:Gà150-190, Vịt 200-250, Ngỗng 250-300…Mùa vụ ấp

nở ảnh hưởng đến tuổi thành thục, thường gà nở mùa đông -xuân

thành thục sớm hơn là hè-thu. Do gà lớn lên trong điều kiện có thời

gian chiếu sáng dài. Ví dụ thí nghiệm của Thomson ấp trứng gà

Lơgo suốt 1 năm cách nhau 14 ngày xác định gà con nở từ tháng XI

đến tháng I năm sau đẻ lúc 170 ngày tuổi; gà con nở từ tháng IV đến

tháng VI năm sau đẻ 210 ngày tuổi.

Page 128: Chăn nuôi gia cầm

128

Tuổi của gà mái khi đẻ trứng đầu tiên là chỉ tiêu đánh giá sự

thành thục sinh dục. Tuổi gà đẻ trứng đầu tiên sớm nhưng phải có

thể trọng tốt để không đẻ ra trứng có trọng lượng nhỏ.

Theo nghiên cứu của Harel và Lamourex (1947) cũng như

Lerner và Cruden (1951) không có sự di truyền liên kết với giới tính

về tính trạng thành thục sinh dục.

Onishin (1954) cho rằng tính trạng này là tác động tổng hợp

của các gen liên kết giới tính với ưu thế lai, trong đó gen liên kết

giới tính kém quan trọng hơn.

Hệ số di truyền của tính trạng tuổi đẻ trứng đầu đã được công

bố trên bảng 4.10.

Bảng 4.10: Hệ số di truyền về tuổi đẻ trứng đầu tiên ở gà

Tác giả, năm công bố Giá trị của hệ số di

truyền

Lerner và Taylor (1943)

Lerner (1945)

Harel và Lamoureux (1947)

Comstock Bostian và Diarstyne (1947)

Lerner và Cruden (1951)

Lerner, Cruden (1948)

Lerner, Wilson (1948)

Munro (1936)

Munro, Bird và Hopkins (1957)

Krueger (1952)

King và Henderson (1954)

Yamada (1956)

Peeler, Glazener và Blow (1955)

Henderson và King (1956)

Abplanalp (1956)

0,22 (22%)

0,16 và 0,33

0,27

0,12-0,45

0,20-0,30

0,33

0,31

0,15-0,20

0,31

0,34

0,25

0,20

0,27

0,48

0,21-0,40

Page 129: Chăn nuôi gia cầm

129

2) Cường độ đẻ trứng:

+Chu kỳ đẻ trứng (chu kỳ đẻ): là số lượng trứng đẻ liên tục trong

một thời gian nhất định, sau một vài ngày nghỉ đẻ, cách quãng và lập

lại nhiều lần. Chu kỳ đẻ trứng được chia ra chu kỳ đều và không đều,

ổn định và không ổn định. Gia cầm đẻ trứng có chu kỳ dài, đều và

ổn định cho sản lượng trứng cao và ngược lại.

Ví dụ: XX-XX-XX chu kỳ đều, hai;

XX-XXX-XX—X-----XXX-X chu kỳ không đều.

Gà có chu kỳ từ từ 3 trở lên và ổn định là gà đẻ tốt.

Hays và Scheinberg tính bằng cách lấy số trứng đẻ ra trong

60 ngày đầu sau khi đẻ quả trứng đầu tiên hoặc thời gian từ khi đẻ

quả trứng đầu đến 1/III. Waren và Skott xác định sự phụ thuộc giữa

thời gian kéo dài của chu kỳ với độ dài ngày chiếu sáng. Hays chứng

minh rằng về mùa thu và mùa đông khoảng cách giữa các lần nghỉ

đẻ tăng lên dần làm giảm chu kỳ đẻ. Sau đó khối lượng trứng giảm

và đến tháng 4 thì chu kỳ đẻ là dài nhất. Byerly và Munro cho rằng

chu kỳ đẻ có thể kéo dài bằng cách kéo dài ngày chiếu sáng cho đến

14 giờ. Hays và Scheinberg khẳng định gà mái giống tốt phải đẻ mỗi

chu kỳ ít nhất 3 quả.

Hệ số di truyền về cường độ đẻ trứng (theo Lerner, Taylor) ở gà

Lơgo: r = +0.22.

3) Thời gian kéo dài đẻ trứng:

Thời gian kéo dài đẻ trứng là thời gian từ khi gà bắt đầu đẻ

cho đến khi nghỉ đẻ thay lông. Thời gian này càng dài thì sản lượng

trứng càng cao. Jull cho rằng năng suất trưng trong cả năm, sự thành

thục sinh dục, cường độ đẻ trứng và thời gian kéo dài của sự đẻ

trứng được qui định bởi cùng những gen như nhau.

4) Thời gian ngừng đẻ (nghỉ đẻ mùa đông).

Sự thay lông và nghỉ đẻ mùa đông. Sau 1 thời gian đẻ trứng

gia cầm sẽ thay lông và đồng thời với sự thay đổi này là sự nghỉ đẻ.

Nguyên nhân là do điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi và sự giảm

Page 130: Chăn nuôi gia cầm

130

sút về thể chất sau 1 thời gian dài đẻ trứng. Hiện tượng nghỉ đẻ có

thể kéo dài một vài tuần đến 1-2 tháng. Đã qui định gia cầm nào

nghỉ đẻ 7 ngày liên tục vào mùa đông là gia cầm có tính nghỉ đẻ mùa

đông. Nghỉ đẻ càng dài sản lượng trứng càng thấp.

Thay lông ở gà 1 năm 1 lần, bắt đầu tháng 10-11, kéo dài 2-3

tuần là gà đẻ tốt. Bắt đầu sớm tháng 7-8 kéo dài 2-3 tháng là gà đẻ

kém. Sau một thời gian đẻ trứng gia cầm thường ngừng đẻ, thường

gọi là tính nghỉ đẻ mùa đông khi thời tiết bất lợi, độ dài ngày chiếu

sáng ngắn. Hiện tượng ngừng đẻ trứng thường gặp nhiều ở gà; có thể

kéo dài thời gian ngừng đẻ trong năm đầu đẻ trứng từ vài ngày đến

vài tuần và thậm chí 1-2 tháng; thường ở các tháng mùa đông có

điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi gia cầm ngừng đẻ nhiều hơn.

Hays xác định thời gian nghỉ đẻ mùa đông ở gà Rốt là 4 ngày.

Lerner, Taylor xác định thời gian nghỉ đẻ mùa đông ở gà Rốt là 7

ngày. Các nghiên cứu đã xác định hệ số di truyền của tính trạng này

là không đáng kể: ở gà Lơgo 10% (Lerner), gà Rốt 6% (Hays).

5) Bản năng ấp trứng (tính ấp bóng).

Ấp trứng là đặc tính sinh vật của gia cầm để duy trì nòi giống.

Thời gian ấp bóng dài hay ngắn ảnh hưởng đến sản lượng trứng.

Hiện nay qua con đường chọn giống đã loại trừ và hạn chế tính ấp

bóng của gà.Vịt, gà cao sản không còn bản năng ấp bóng. Ảnh

hưởng đến tính ấp bóng gồm giống, loài, hướng sản xuất, tuổi, mùa

vụ… Nguyên nhân của sự ấp bóng được xác định là có sự tham gia

điều tiết của Hormon prolactin. Hàm lượng prolactin cao trong máu

ở gà có tính ấp bóng cao.

Bản năng ấp trứng có sự khác nhau lớn ở các dòng và các

giống gà (Lerner, Cruden). Tập tính của gà khi ấp, thời gian kéo dài

và tần số khi ấp rất khác nhau, làm phức tạp cho việc chọn giống

theo hướng loại bỏ bản năng ấp trứng. Bản năng ấp có biểu hiện ở

năm 1,2,3… Năm đầu biểu hiện 1-13 lần, các năm sau còn nhiều

hơn...

Page 131: Chăn nuôi gia cầm

131

Bản năng ấp trứng càng mạnh thì sản lượng trứng càng thấp

(bảng 4.11).

Bảng 4.11: Sản lƣợng trứng giữa gà mái ấp và không ấp

(quả/mái)

không

ấp

có ấp

Chênh

lệch Tác giả công bố (giống gà)

181,3

184,9

212,2

205,0

194,0

272,0

271,4

164,9

177,5

203,4

180,0

153,0

269,0

269,1

- 16

- 7,4

- 8,8

- 25,0

- 41,0

- 3,0

- 2,3

Hays, Scheinbeg (Rốt)

Hays (dòng gà Lơgo có ấp)

Hays (dòng gà Lơgo không ấp)

Jull (Rốt)

Jull (Lơgo trắng)

Hays (Rốt)

Lanson (Rốt)

Có nhiều yếu tố chi phối có ảnh hưởng lên bản năng ấp trứng

nhưng số lượng chưa xác định và tính chất của các yếu tố này chưa

rõ. Pennett và Bailey cũng như Grudeit cho rằng có sự tham gia của

1 số gen trong autoxan. Theo Grueit đó là những gen bổ trợ. Robest

và Card khi cho lai trống Lơgo trắng với mái Cornic đen thì

thấy:88% có ấp ở gà con của trống Cornic, 37% có ấp ở gà con của

trống Lơgo.

Bản năng ấp trứng có sự liên quan của các gen liên kết giới

tính. Waren (1942), Karifman (1948), Meuller (1952) thu được kết

quả tương tự. Nên ta kết luận được bản năng ấp trứng ngoài một gen

trong autoxom còn có (ít nhất1gen) gen liên kết giới tính. Theo

Sacki (1957) lai gà Nhật Nagôi (có ấp) với Lơgo trắng (không ấp) thì

đúng là có sự liên kết giới tính.

Bằng con đường chọn lọc chặt chẽ làm giảm khả năng ấp trứng.

Crudeit trong 5 năm chon lọc trong đàn gà Rhode island đã giảm

được từ 91% xuống 19%; giảm số lần ấp từ 5,4 lần xuống 1,9 lần.

Page 132: Chăn nuôi gia cầm

132

Hays, Scheinberg giảm tỷ lệ ấp trứng trong đàn xuống còn 2,2%.

Mc. Cartney (1956) cho là kết quả đạt được bằng chọn lọc cá thể.

Hệ số di truyền về năng suất trứng trong năm đẻ đầu đã được

nhiều tác giả công bố (bảng 4.12). Số liệu này sai khác không nhiều

so với hệ số di truyền tuổi đẻ trứng đầu tiên (bảng 4.10).

Bảng 4.17: Hệ số di truyền về năng suất trứng trong năm

đẻ đầu ở gà

Tác giả, năm công bố Hệ số di truyền

sức đẻ trứng (%)

Theo Comstock, Bostian, Dearstyne (1947)

Munro (1936)

Munro, Bird và Hopkins (1957)

Lerner, Taylor (1943)

Shoffner, Sloan (1945)

Lerner, Cruden (1948)

Lerner, Wilson (1948)

Krueger và ctv (1952)

King, Henderson (1954)

Hill, Diekerson, Kempster (1954)

Morris (1956)

Jerome, Henderson, King (1956)

Oliver, Bohr, Anderson (1957)

Abplanalp (1956)

King, Henderson (1954)

16-47

20-15

31

23

34

33

31

25

31

24

33

12

15

21-24

20

Hệ số di truyền sức đẻ trứng ở các mốc thời gian khác nhau

cũng khác nhau (sức đẻ trứng các tháng khác nhau, sức đẻ trứng

trong mùa đông, sức đẻ trứng trong cả năm). Lerner, Taylor (1948)

nghiên cứu ở gà Lơgo toàn năm: 33%. Morris (1956) trên Lơgo 1

phần năm hoặc cả năm: 33%. Hogsett và Nordskog (1956) giai đoạn

đẻ mùa đông: 30%.Ảnh hưởng rõ rệt của thời gian ấp lên HSDT sức

Page 133: Chăn nuôi gia cầm

133

đẻ trứng mùa đông đã được xác định bởi Hogsett và Nordskog

(1956) là 10%; Abplanalp (1956-1957) là 23-31%.

Jerome, Henderson, King (1956) thấy sự tăng dần của HSDT sức đẻ

trứng trong tháng đầu, tháng đầu-tháng thứ 2, tháng đầu-T2-T3,

tháng đầu- T2-T3-T4. Vì giữa năng suất trong thời gian (trước 1/I)

và năng suất chung cả năm đầu đẻ trứng có mối tương quan di

truyền cao. Do đó mà ngày nay chọn gà theo năng suất cao của các

tháng đẻ đầu tiên để làm giống. Điều đó cho phép sử dụng ngay

những gà mái đẻ còn non để làm giống, nhờ vậy sẽ rút ngắn được

khoảng cách giữa các thế hệ trong quá trình chọn giống.

+ Thời gian sử dụng gia cầm đẻ trứng thích hợp

Dựa vào sự biến động của sản lượng trứng để quyết định thời

gian sử dụng gia cầm đẻ trứng thích hợp. Lấy sản lượng trứng năng

đầu là 100%, sản lượng trứng biến động qua các năm đẻ ở gia cầm

(bảng 4.13).

Bảng 4.13: Sản lƣợng trứng qua các năm đẻ (%)

Năm Gà Vịt Ngỗng Gà tây

1 100 100 100 100

2 85 109 125 106

3 72 82 165 94

4 62 73 150 76

5 55 54 75 34

Gà thương phẩm thường loại thải sau một năm đẻ trứng, gà giống sử

dụng không quá 2 năm; Vịt, Gà tây: 3năm; Ngỗng: 4năm.

+ Giữa sản lượng trứng và khối lượng trứng có mối tương quan

nghịch, vì vậy cần phối hợp tốt trong chọn lọc, lai tạo giữa hai tính

trạng này. Nghiên cứu trên gà lai CZ 80 và các dòng bố mẹ của nó

(Nguyễn Đức Hưng, 1989), cho thấy hệ số tương quan giữa sản

lượng trứng với khối lượng trứng lúc 52 tuần tuổi R = - 0,07đến -

Page 134: Chăn nuôi gia cầm

134

0,34; giữa khối lượng gà với khối lượng trứng có tương quan dương

(+) ở các mức độ khác nhau phụ thuộc vào tuổi gà.

Khối lượng (KL) gà KL. trứng lúc 32 tuần đẻ KL.trứng lúc 52 tuần đẻ

4 tuần tuổi

8 ,,

20 ,,

Khi vào đẻ

52 tuần đẻ

0,33 - 0,57

0,15-0,40

0,10-0,20

0,09-0,61

0,16-0,39

0,10-0,42

0,20-0,44

0,10-0,11

0,20-0,46

0,11-0,59

Tuổi đẻ với khối lượng trứng có tương quan dương (+) lúc 32 tuần

đẻ là 0,08-0,20; lúc 52 tuần đẻ là 0,09-0,37.

Khối lượng (KL) trứng có tương quan với tỉ lệ các thành phần

cấu tạo trứng.

Tương quan giữa tính

trạng 32 tuần đẻ 52 tuần đẻ

KL. trứng với KL.vỏ

trứng + 0,49-0,62 + 0,43-0,62

KL. trứng với Độ dày vỏ + 0,42-0,61 + 0,15-0,32

KL. trứng với chỉ số hình

dạng - 0,12-0,26 - 0,20-0,38

4.2. Sức sản xuất thịt

Sức sản xuất thịt là một tính trạng kinh tế quan trọng trong

chăn nuôi gia cầm hướng thịt. Đặc biệt là gà tây, ngỗng, vịt, gà

chuyên dụng hướng thịt.

4.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất thịt ở gia cầm

Sức sản xuất thịt ở gia cầm được đánh giá bằng các chỉ tiêu:

- Khối lượng cơ thể (khối lượng sống);

- Khối lượng khi giết thịt (khối lượng giết thịt);

Page 135: Chăn nuôi gia cầm

135

- Tốc độ sinh trưởng; Tốc độ mọc lông;

- Thời gian nuôi để đạt khối lượng tiêu chuẩn;

- Chi phí thức ăn để sản xuất 1 kg tăng trọng;

- Chất lượng thịt khi mổ giết: phần thịt ăn được, năng suất

thịt, phần bỏ đi... Thành phần và hàm lượng các axít amin trong thịt.

Trong sản xuất thịt gia cầm theo phương pháp công nghiệp

người ta đưa ra các chỉ tiêu cụ thể cho từng loại gia cầm, từng giống,

dòng riêng biệt và trong những điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc cụ

thể. Ví dụ gà thịt broiler, thời gian nuôi 56 ngày; khối lượng giết thịt

2,6-2,8kg; chi phí thức ăn /1kg thịt dưới 2,2kg; giảm lượng mỡ tích

luỹ trong bụng và mỡ dưới da.

Hình 4.2: Phƣơng pháp xác định chiều dài lƣờn (dài xƣơng lƣỡi hái)

Chiều dài xương lườn (xương lưỡi hái), cơ lườn và độ lớn

góc ngực là những chỉ tiêu được quan tâm trong chăn nuôi gia cầm

hướng thịt. Phương pháp xác định thông qua chiều đo dài xương

lưỡi hái (bằng thước kẹp) hoặc đo góc ngực (Hình 4.2).

Gia cầm giết mổ, phân loại thành các loại thịt thuận tiên cho

người tiêu dùng. Có thể là thịt đông lạnh nguyên con hoặc thịt được

Page 136: Chăn nuôi gia cầm

136

pha lọc thành thịt đùi, thịt lườn, cổ cánh, dạ day, tim, gan… và được

bao gói riêng biệt (Hình 4.3).

Hìmh 4.3: Thịt gà đã pha lọc

Ở Việt nam, gà chuyên dụng thịt Plymouth rock nhập từ

Cuba dòng TD3, TD8, TD9 và gà Hybro dòng V1, V2, V3, nuôi

công nghiệp đạt các chỉ tiêu kỹ thuật như bảng 4.14 và bảng 4.15.

Bảng 4.14: Khối lƣợng gà (g/con) lúc 56 ngày tuổi giống

Plymouth rock (trung bình qua 10 đời)

Dòng gà Tuổi

(ngày) Trống Mái

Chi phí

thức

ăn/1kg

TĐ3 1 39,85 39,85

56 1343,0 1139,0 2,35

TĐ8 1 39,30 39,30

56 1396,40 1186,30 2,32

TĐ9 1 40,6 40,6

56 1577,2 1327,7 2,18

Page 137: Chăn nuôi gia cầm

137

Bảng 4. 15: Khối lƣợng gà (g/con) lúc 42 ngày tuổi giống Hybro

(HV85)

Dòng gà Trống Mái Chi phí thức

ăn/1kg

V1 1057 956 2,18

V2 963 880 2,16

V5 935 857 2,15

4.2.2. Tốc độ sinh trưởng.

Tốc độ sinh trưởng ở gia cầm có ý nghĩa quyết định đến sức

sản xuất thịt. Tốc độ sinh trưởng được đánh giá thông qua độ sinh

trưởng tuyệt đối, độ sinh trưởng tương đối hoặc số lần tăng lên về

thể trọng trong khoảng thời gian nhất định (bảng 4.16 và 4.17).

Bảng 4.16: Độ sinh trƣởng tƣơng đối của gia cầm(%)

Tháng Gà Vịt Gà tây Ngỗng

1 150 180 150 170

2 85 90 100 45

3 50 25 70 35

4 30 4 40 10

5 20 4 30 7

Bảng 4.17: Khối lƣợng tăng so với 1 ngày tuổi ở gia cầm

Loài gia cầm Thời gian (ngày) để tăng khối lƣợng gấp

Vịt

Ngỗng

Gà Tây

10 lần 20 lần 30 lần 40 lần

40 70 90 -

20 30 40 60

20 30 50 80

30 60 70 8-

Page 138: Chăn nuôi gia cầm

138

4.2.3.Thành phần hoá học thịt gia cầm

Thịt gia cầm có giá trị dinh dưỡng cao hơn thịt các gia súc

khác.Ví dụ: protein trong thịt gia cầm chiếm 21%, trong khi ở thịt bò

16%, thịt lợn 11%. Protein trong thịt gia cầm có giá trị sinh vật học

cao do có đầy đủ các axit amin thiết yếu và cân đối với các thành

phần dinh dưỡng khác. Khả năng đồng hoá hấp thu của cơ thể khi sử

dụng thịt gia cầm cao hơn hẳn thịt các loại gia súc khác. Khả năng

đồng hoá protein ở thịt gà 19%, thịt lợn 10%; mỡ thịt gà 4.8%, mỡ

bò 1.1%.

Giá trị dinh dưỡng của thịt được đánh giá trước hết là tỉ lệ của

các chất có trong tổ chức của nó. Tỉ lệ này ở các loại gia cầm khác

nhau thì khác nhau. Qua bảng ta thấy được rằng thịt gà và gà tây có

hàm lượng protein cao hơn; còn ở vịt, ngỗng thì hàm lượng mỡ

nhiều hơn nên năng lượng trong 100g thịt cao hơn (bảng 4.18).

Trong protein thịt gia cầm chứa nhiều axit amin không thay

thế với hàm lượng cân đối và cao hơn trong thịt loài gia súc khác vì

vậy thịt gia cầm có giá trị dinh dưỡng cao hơn. Trong thịt gia cầm

còn chứa một hàm lượng khoáng, vitamin đáng kể. Đặc biệt là

Canxi, Photpho, Sắt, vitamin A, nhóm B…

Bảng 4.18: Thành phần hoá học và trị số Calo của thịt gia cầm

Loài gia cầm

Phần

thịt ăn

đƣợc

% Năng

lƣợng của

100g sản

phẩm % H2O Mỡ Đạm Khoáng

Gà 52 65,5 13,7 19,0 1,0 200

Vịt 48 49,4 37,0 13,0 0,6 365

Ngỗng 54 48,9 38,1 12,2 1,8 369

Gà tây 51 60,0 19,1 19,9 1,0 250

Gà broiler 46 67,5 11,5 19,8 1,2 185

Gà tây broiler 47 68,4 8,2 22,5 0,9 176

Page 139: Chăn nuôi gia cầm

139

Thịt gia cầm có tính ngon miệng cao, điều này liên quan đến

hàm lượng vitamin và nhất là các đặc điểm cấu trúc của tổ chức cơ ở

gia cầm. Tính chất lý, hoá học của cơ, độ mềm và độ tươi của thịt.

Đường kính sợi cơ ở thịt gia cầm mỏng và các tổ chức liên kết giữa

chúng ít. Sự khác nhau này thấy ở ngay cả các loại gia cầm khác

nhau, hướng sản xuất khác nhau, giới tính khác nhau, lứa tuổi khác

nhau. Những sợi cơ ở vịt, ngỗng dày và to hơn ở gà và gà tây…

(bảng 4.19).

Bảng 4.19: Hàm lƣợng chất khoáng và vitamin trong thịt

gia cầm (mg%)

Loài gia

cầm Ca P Fe

Vitamin

A B1 B2 PP

Gà 12 200 1,5 1,02 0,15 0,16 8,1

Broiler 12 200 1,5 - - - -

Gà tây 24 320 3,2 0,18 0,06 0,08 7,0

Vịt 13 280 1,8 0,27 0,32 0,69 5,7

Ngỗng 13 210 1,8 0,27 0,20 0,19 5,7

Bảng 4.20: Sự thay đổi của đƣờng kính sợi cơ ở gà

Tuổi (ngày) Đƣờng kính sợi cơ

Gà lơgo Gà rốt

1 8,3 8,5

15 11,5 12,5

30 21,2 21,8

60 30,4 36,6

90 38,8 44,2

120 45,8 56,3

Page 140: Chăn nuôi gia cầm

140

4.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sức sản xuất thịt

+Loài, giống, cá thể: Ngỗng, gà tây khả năng cho thịt cao hơn

vịt ,gà. Trong một loài các giống khác nhau khả năng cho thịt khác

nhau. Hướng sản xuất của gia cầm liên quan chặt chẽ với ngoại hình

thể chất của nó. Gia cầm hướng thịt khả năng cho thịt cao hơn gia

cầm hướng kiêm dụng. Gia cầm hướng trứng chuyên dụng khả năng

cho thịt thấp. Gia cầm hướng thịt thường có ngoại hình: đầu to, cổ

ngắn, thân dài rộng, ngực sâu, lườn dài, đùi dài, khả năng đẻ trứng

kém, kém linh hoạt, phản ứng chậm với các yếu tố của tress. Thể

trọng lớn, tốc độ sinh trưởng nhanh cho năng suất và phẩm chất thịt

cao.

Các giống gà chuyên dụng nổi tiếng hiện nay là Cornish,

Plymouth rock và các con lai của nó có ưu thế lai cao về khả năng

cho thịt.

Thể trọng là tính trạng số lượng được qui định bởi các yếu tố

di truyền truyền. Số lượng các yếu tố này đến nay vẫn chưa rõ.

HSDT khối lượng cơ thể là cao: 0,3-0,64.

Trong sự di truyền khối lượng cơ thể phải có sự tham gia của

ít nhất là một gen liên kết giới tính. Vì vậy trong cùng điều kiện gia

cầm trống có khối lượng cao hơn gia cầm mái từ 24-32%.

Khối lượng gà khi nở phụ thuộc khối lượng trứng đem ấp: 64-

68%.

Sự mọc lông (tốc độ mọc lông): những gà lớn nhanh thì cũng

mọc lông đều và nhanh hơn những gà lớn chậm.

Theo Warren gà con mới nở 1 ngày tuổi đã mọc rất nhanh các

lông cánh chính là một tiêu chuẩn về mọc lông nhanh và do đó cũng

sinh trưởng nhanh.

Sự phát triển của xương liên quan đến sự sinh trưởng và khối

lượng . Mức độ biến dị di truyền của xương tương đối ít hơn là khối

lượng cơ thể. Ví dụ: hệ số biến dị khối lượng cơ thể 12-18%, còn

của khối lượng xương 3-4,5%.

Page 141: Chăn nuôi gia cầm

141

Trong sự phát triển xương ta thấy chiều dài xương bàn chân

và khối lượng cơ thể có tương quan dương chặt chẽ r = 0,659, do đó

trong công tác giống chiều dài xương bàn chân được sử dụng rộng

rãi như chỉ tiêu về khối lượng cơ thể để chọn, tạo giống sinh trưởng

nhanh (gia cầm có xương bàn chân dài thường có khối lượng và tốc

độ sinh trưởng nhanh hơn xương ngắn).

4.3. Sức sinh sản

Do đặc điểm của gia cầm là đẻ trứng, ấp trứng, nuôi con và

gia cầm con có khả năng tự dưỡng nên sức sinh sản được đánh giá

thông qua các chỉ tiêu sau:

4.3.1.Tỉ lệ thụ tinh

Tỉ lệ thụ tinh (TLTT) là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá

sức sinh sản của bố mẹ. Tỉ lệ thụ tinh được xác định theo công thức

(1) hoặc (2):

TLTT (%) = Số trứng có phôi

Số trứng đẻ ra x100 (1)

TLTT (%) = Số trứng có phôi

Số trứng đem ấp x100 (2)

Mỗi cách tính có ý nghĩa riêng của nó.

Các yếu tố ảnh hưởng đến tỉ lệ thụ tinh

-Giống, dòng: hướng trứng có TLTT cao hơn hướng kiêm trứng và

TLTT thấp nhất là hướng thịt

-Tuổi: tỉ lệ thụ tinh cao ở những năm đầu.

-Thức ăn: Protit và vitamin ảnh hưởng đến TLTT lớn hơn cả

-Ngoại cảnh, mùa vụ: mùa xuân, mùa thu cho TLTT cao, mùa hè,

đông TLTT thấp.

Page 142: Chăn nuôi gia cầm

142

-Tỉ lệ trống/mái thích hợp khi ghép đôi giao phối: Gà hướng trứng

1/10-12, Gà kiêm dụng 1/7-8, Gà hướng thịt 1/4-5; Vịt cỏ 1/7-10,

Vịt bầu 1/4-5. Tuổi gia cầm trống có ảnh hưởng đến TLTT.

4.3.2. Tỉ lệ ấp nở

Tỉ lệ ấp nở (TLAN) (%) được xác định theo công thức (1),

(2) hoặc tỷ lệ nở của trứng thụ tinh (3).

Tỉ lệ ấp nở (%) = Số gà con nở ra loại I

Tổng số trứng đẻ ra X 100 (1)

Tỉ lệ ấp nở (%) = Số gà con nở ra loại I

Tổng số trứng đem ấp X 100

Tỷ lệ nở của trứng

thụ tinh (%) =

Số lượng gà con nở loại I

Số lượng trứng có phôi X 100

Khi so sánh cần chú ý xem kết quả được tính theo công thức nào.

Những nhân tố ảnh hưởng đến tỉ lệ ấp nở

-Giống, dòng gia cầm, chế độ nuôi dòng đàn bố mẹ, thời gian

bảo quản và điều kiện bảo quản trứng giống trước khi ấp, chế độ ấp

trứng.

-Chất lượng trứng ấp: trứng có khối lượng trung bình của

giống có tỉ lệ ấp nở cao hơn trứng lớn hoặc nhỏ trong cùng giống.

Trứng có chỉ số hình dạng 74-76 (d/D) nở tốt.

Đã xác định 21 gen gây chết ở gia cầm thì 16 gen tác động

đến khả năng ấp nở. HSDT về tỉ lệ ấp nở là 13-16%; có sự biến động

lớn qua các năm. Phần lớn các gen gây chết đều có kiểu di truyền lặn

và chỉ biểu hiện khi có giao phối cận huyết qua tỉ lệ nở giảm. Trứng

quả to hoặc quá nhỏ đều có tỉ lệ nở thấp . Kết quả cho thấy gà Lơgo

Page 143: Chăn nuôi gia cầm

143

có khối lượng trứng 45-64g có TLAN 87%, dưới 45g TLAP 80%,

lớn hơn 64g có TLAN 71%

Tỉ lệ nở liên quan đến thời gian của chu kỳ đẻ, trứng đẻ giữa

chu kỳ có tỉ lệ nở cao hơn đầu và cuối chu kỳ. Thời gian và điều kiện

bảo quản trứng giống, chế độ dinh dưỡng gia cầm bố mẹ… đều ảnh

hưởng đến TLAN (thảo luận ở chương ấp trứng gia cầm).

4.3.2.Tỉ lệ nuôi sống

Tỉ lệ nuôi sống (TLNS) (%) là chỉ tiêu sản xuất quan trọng,

quyết định hiệu quả trong chăn nuôi gia cầm, được tính theo công

thức (1) hoặc (2).

Tỉ lệ nuôi sống (%) = Số gia cầm còn sống cuối kỳ

Số gia cầm con ở ra X 100 (1)

Tỉ lệ nuôi sống (%) = Số gia cầm sống cuối kỳ

Số gia cầm được chọn vào nuôi đầu kỳ X 100

TLNS chịu ảnh hưởng của giống, dòng gia cầm, kỹ thuật

nuôi, phương thức nhân giống… HSDT khả năng sống 13-16% và

thấp hơn nữa vì vậy tính trạng này chịu sự chi phối nhiều của điều

kiện ngoại cảnh.

NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

1. Thành phần cấu tạo trứng gia cầm.

2. Sức sản xuất trứng, chỉ tiêu và phương pháp đánh giá, các

nhân tố ảnh hưởng đến sức sản xuất ở gia cầm.

3. Sức sản xuất thịt, chỉ tiêu và phương pháp đánh giá, các nhân

tố ảnh hưởng đến sức sản xuất thịt ở gia cầm.

4. Sức sinh sản và sức sống của gia cầm, chỉ tiêu và phương

pháp đánh giá.

Page 144: Chăn nuôi gia cầm

144

CHƢƠNG 5

ẤP TRỨNG GIA CẦM

Gia cầm là đối tượng nuôi có đặc điểm đẻ trứng, ấp trứng,

nuôi con, gia cầm con có khả năng sống bằng nguồn dinh dưỡng từ

noãn hoàng trong tuần đầu, vì vậy có thể nuôi tách mẹ ngay từ 1

ngày tuổi. Khác với gia súc, phôi gia cầm phát triển ngoài cơ thể mẹ

nên chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố di truyền cũng như ngoại cảnh.

Nắm vững các đặc điểm về sự phát triển và những yêu cầu cần thiết

cho sự phát triển của phôi gia cầm cho phép nâng cao hiệu quả kinh

tế trong chăn nuôi.

6.1. Sinh lý sinh sản ở gia cầm

6.1.1. Chức năng sinh lý của cơ quan sinh dục gà mái

6.1.1.1. Buồng trứng

Buồng trứng nằm bên trái xoang bụng, được giữ bằng màng

bụng. Kích thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào tuổi và

loại gia cầm. Ở gà một ngày tuổi có kích thước 1 - 2mm, khối lượng

0,03g. Gà ở thời kỳ đẻ, buồng trứng hình chùm nho, chứa nhiều tế

bào trứng có khối lượng 45 - 55g. Sự hình thành buồng trứng kể cả

các tuyến sinh dục xảy ra vào thời kỳ đầu của sự phát triển phôi

(phôi gà vào ngày thứ 3). Trong buồng trứng có chất vỏ và chất huỷ.

Bề mặt vỏ được phủ bằng lớp biểu mô có lớp tế bào hình trụ. Dưới

chúng có màng cứng liên kết mỏng, sau nó có hai lớp nang với các

tế bào trứng. Chất tuỷ nằm ở buồng trứng và được cấu tạo từ mô

liên kết với một lượng mạch máu và dây thần kinh lớn. Trong chất

tuỷ có những chất được phủ bằng lớp biểu mô dẹt và tế bào kẽ. Mỗi

lứa tuổi xảy ra những thay đổi về cấu trúc và chức năng.

* Chức năng sinh lý của buồng trứng gia cầm mái

Chức năng của buồng trứng là tạo trứng. Trong quá trình phát

triển của tế bào trứng có 3 thời kỳ: Tăng sinh, sinh trưởng và chín.

- Thời kỳ tăng sinh: Trước khi bắt đầu đẻ trứng trong buồng

Page 145: Chăn nuôi gia cầm

145

trứng ở gà mái có khoảng 3500 - 4000 tế bào trứng, mỗi tế bào trứng

có một noãn hoàng và nhìn thấy được qua soi kính lúp. Trên gà

Leghorn: 3800, gà Rốt: 3200 (Theo nghiên cứu của trung tâm

NCGC Vạn Phúc - 1986). Trong tế bào trứng (phần noãn hoàng) có

nhân to với những hạt nhỏ và thể nhiễm sắc. Trong noãn hoàng có

chứa nhân tế bào.

- Thời kỳ sinh trưởng: Tế bào trứng tăng trưởng nhanh, đặc

trưng bằng tăng nhanh lòng đỏ trong nó. Trong khoảng thời gian 3-

14 ngày, lòng đỏ chiếm 90 - 95% khối lượng tế bào trứng, thành

phần gồm protit, photpholipit, mỡ, các chất khoáng và vitamin. Đặc

biệt lòng đỏ được tích luỹ mạnh vào ngày thứ 9 và 4 ngày trước khi

rụng trứng. Lòng đỏ được bao bởi lớp màng long đỏ có tính đàn hồi.

Lòng đỏ sẫm (đậm) được tích luỹ ban ngày đến nửa đêm, còn lòng

đỏ sáng (nhạt) hình thành ở phần còn lại của ban đêm. Việc tăng quá

trình sinh trưởng của tế bào là do ảnh hưởng của foliculin được chế

tiết ở buồng trứng khi thành thục sinh dục. Vào cuối thời kỳ phát

triển của tế bào trứng giữa vỏ lòng đỏ của nó và thành nang xuất

hiện khoang gần lòng đỏ chứa đầy limpho.

Màu của lòng đỏ phụ thuộc vào sắc tố trong máu, từ thức ăn

mang lại. Khi gà ăn nhiều, thức ăn chứa carotenoit thì lòng đỏ màu

đậm. Như vậy, tuỳ theo màu của lòng đỏ có thể xác định hàm lượng

vitamin của trứng.

- Thời kỳ chín của noãn hoàng (thời kỳ cuối hình thành

trứng). Thời kỳ này có sự phân bào giảm nhiễm, số nhiễm sắc thể

của trứng từ 2n giảm còn n. Trong quá trình phân chia giảm nhiễm

xảy ra sự trao đổi các thành phần di truyền giữa các dị nhiễm sắc thể.

Nhiễm sắc thể xích lại gần nhau và tạo thành đôi. Vào thời kỳ kết

hợp nhiễm sắc thể trao đổi thành phần của mình. Quá trình này có ý

nghĩa quan trọng trong việc di truyền các tính trạng di truyền từ thế

hệ này sang thế hệ khác.

Page 146: Chăn nuôi gia cầm

146

* Sự rụng trứng, cơ chế điều hoà quá trình phát triển và rụng

trứng

Tế bào trứng rời khỏi buồng trứng gọi là rụng trứng, nang

trứng chín do áp suất nang trứng tăng lên dẫn tới phá vỡ vách nang

tại vùng lỗ hở. Tế bào trứng cùng lúc đó tách khỏi buồng trứng và

ngay lập tức được loa kèn của ống dẫn trứng hứng lấy và hút vào

lòng loa kèn. Tinh trùng gặp tế bào trứng và thụ tinh tại phần loa kèn

này.

Sự rụng trứng của gà xảy ra một lần trong ngày, nếu trứng đẻ

vào cuối buổi chiều thì sự rụng trứng thực hiện vào sáng hôm sau.

Trứng được giữ lại trong ống dẫn trứng làm ngừng sự rụng trứng

tiếp theo. Sự rụng trứng gà thường xảy ra từ 2 - 14 giờ.

Chu kỳ rụng trứng phụ thuộc nhiều yếu tố: Điều kiện nuôi

dưỡng chăm sóc, lứa tuổi và trạng thái sinh lý của gia cầm....

Các hormon hướng sinh dục của tuyến yên: FSH (Fuliculo

Stimulin Hoocmone) và LH (Luteino stimulin Hoocmone) kích thích

sự sinh trưởng và chín của trứng. Còn nang trứng tiết ra oestrogen

trước khi rụng, kích thích hoạt động của ống dẫn trứng. Oestrogen

ảnh hưởng lên tuyến yên ức chế FSH và LH. Như vậy tế bào trứng

phát triển và chín chậm lại làm ngừng rụng trứng khi trứng còn nằm

trong ống dẫn trứng hoặc tử cung.

Gà mái vào 2 tuần đầu của giai đoạn đẻ trứng thứ nhất (5-45

tuần tuổi) thường mỗi cá thể gặp 2-3 lần đẻ trứng 2 lòng đỏ. Đó là do

khi gà mái bắt đầu vào đẻ nhiều tế bào trứng phát triển, chín và rụng.

Ngoài ra LH chỉ tiết vào buổi từ lúc bắt đầu tiết đến lúc rụng trứng 6

- 8 giờ. Vì vậy việc chiếu sáng bổ sung vào buổi tối làm chậm tiết

LH dẫn đến giảm đi sự rụng trứng 3 - 4 giờ. Việc chiếu sáng bổ sung

3 - 4 giờ buổi tối thực chất để gà đẻ ổn định và tập trung vào khoảng

8-11 giờ. Nếu không bảo đảm đủ thời gian chiếu sáng 15 - 18 giờ

trong một ngày. Không những làm gà đẻ rải rác mà con giảm năng

suất trứng.

Page 147: Chăn nuôi gia cầm

147

Như vậy điều hoà sự rụng trứng là do yếu tố thần kinh thể

dịch ở tuyến yên và buồng trứng phụ trách. Ngoài ra còn có vỏ bán

cầu đại não tham gia vào quá trình này.

6.1.1.2. Ống dẫn trứng

* Cấu tạo ống dẫn trứng(xem chương 2)

* Chức năng ống dẫn trứng

Chức năng của ống dẫn trứng chủ yếu là nhận tế bào trứng

rụng (thực chất là khối long đỏ trứng), hình thành nên các thành

phần khác của trứng (lòng trắng bao quanh lòng đỏ, màng dưới vỏ

và vỏ cứng của trứng....) tạo nên quả trứng hoàn chỉnh và nhu động

giúp trứng di chuyển từ loa kèn đến âm đạo. Chức năng cụ thể của

từng bộ phận như sau:

Loa kèn có nhiệm vụ hứng tế bào trứng, nhu động tạo ra lực

đẩy tế bào trứng xuống phần ống dẫn. Niêm mạc loa kèn tiết ra chất

tiết có tác dụng bảo tồn tinh trùng. Tại loa kèn tinh trùng có thể sống

được 30 ngày và có khả năng thụ tinh tốt nhất trong 7 ngày.

Phần phân tiết lòng trắng tiết ra khoảng 50% chất lòng trắng

đặc và lòng trắng loãng. Lòng trắng này bao quanh lòng đỏ. Đi qua

phần đầu của phần phân tiết lòng trắng, lòng đỏ quay chậm, dịch

nhầy bao quanh tạo dây chằng albumin, giữ lòng đỏ ở tâm trứng. Sát

với lòng đỏ có lớp lòng trắng loãng bao quanh.

Phần eo của ống dẫn trứng tạo ra dung dịch muối đi vào lòng

trắng. Trứng nằm ở đoạn này một giờ. Ở tại đây lớp lòng trắng loãng

được bổ sung và tạo màng vỏ trứng.

Tử cung là phần dài nhất của ống dẫn trứng. Ở đây trứng

được hình thành hoàn toàn. Khối lượng trứng tăng gấp đôi. Vỏ cứng

của trứng được tạo thành bao quanh lòng trắng. Vỏ cứng cấu tạo bởi

các sợi colagen nhỏ đan chéo dày lên nhau, thấm các chất vô cơ

(muối canxi - cacbonatcanxi chiếm 99% và canxi photphat chiếm

1%) được tổng hợp trong suốt thời gian trứng hình thành ở tử cung

khoảng 18 - 20 giờ.

Page 148: Chăn nuôi gia cầm

148

Bên ngoài vỏ cứng phủ một lớp màng mỏng, gọi là màng mỡ

tráng ngoài vỏ cứng. Chất màng nhầy này tiết ra từ tế bào biểu mô

âm đạo, trước khi trứng được đẻ ra.

Men cacbonhydrase và photphatase kiềm tham gia vào quá

trình hình thành vỏ trứng. Khi gà đẻ lượng cacbonhydrase nhiều hơn

hẳn so với gà không đẻ. Trứng vỏ mềm hoặc trứng vỏ cứng là do

chất ức chế men cacbonhydrase gây ra. Đó là sunfanilamit (Bùi Đức

Lũng - 2002).

Từ một tế bào trứng trên buồng trứng, sau khi rụng, rơi vào

loa kèn, di chuyển qua các phần của ống dẫn trứng hình thành một

quả trứng hoàn chỉnh như chúng ta thường gặp. Qua trình hình thành

trứng là phức tạp và diễn ra trong thời gian dài (hơn 24 giờ).

6.1.2. Chức năng sinh lý của cơ quan sinh dục gà trống

* Cấu tạo cơ quan sinh dục gà trống

Cơ quan sinh dục của gà trống bao gồm tinh hoàn, mào tinh

hoàn, ống dẫn tinh và ổ nhớp (xem thêm chương 2).

- Tinh hoàn có hình ovan hoặc hạt đậu, màu trắng nằm trong

xoang bụng và trước thận. Ở gà trống trưởng thành trong thời gian

hoạt động sinh dục tinh hoàn dài 4,7 chiều rộng 2,7 và chiều dày

2,5cm. Khối lượng 17- 19g thời kỳ thay lông còn 3 - 5g.

Tinh hoàn được bao bọc bởi một lớp màng màu trắng, mỏng.

Những ống dẫn tinh gấp khúc nối với nhau tạo thành mạng lưới dày.

Những phần riêng biệt của ống dẫn tinh hơi phình to. Ở đây diễn ra

sự tạo thành tế bào sinh dục. Trên bề mặt cắt ngang của ống gấp

khúc ta thấy lớp ngoài cùng là mô liên kết hình sợi. Bên trong có 5-

6 lớp tế bào tạo thành độ dày thành ống. Giữa các lớp đó có những tế

bào hình chóp Sertoly, chân tế bào này nằm ở màng đáy, còn đỉnh

của chúng hướng vào ống dẫn tinh. Những tế bào này đảm nhận

chức năng dinh dưỡng, giữa chúng có tế bào tinh ở các giai đoạn

phát triển khác nhau. Gần màng đáy ống dẫn tinh là tế bào sinh dục

Page 149: Chăn nuôi gia cầm

149

cấp I, trên đó là tế bào cấp II sau đó là đến tiền tinh trùng và tinh

trùng. Tinh trùng trưởng thành đi vào ống sinh tinh nhỏ từ đó vào

mào tinh hoàn và ống dẫn tinh.

- Mào tinh hoàn ở gia cầm phát triển yếu, một số lượng ống

dẫn tinh từ màng dưới tinh hoàn ăn sâu vào đó. Những ống nhỏ này

tạo thành ống dẫn là nơi bắt đầu của ống dẫn tinh. Trong mào tinh

hoàn tinh trùng tiếp tục thành thục và tăng thêm khả năng hoạt động

của chúng. Dịch tinh trùng được hình thành ở những ống gấp khúc

trong tinh hoàn. Nó tạo ra môi trường cần thiết để đảm bảo hoạt

động sống của tế bào sinh dục đực.

- Ống dẫn tinh có dạng hình ống nhỏ gấp khúc, thành ống có

cấu tạo bởi lớp niêm mạc, cơ và thanh mạc. Ống dẫn tinh nối với

ống mào tinh và vào tận giữa của ổ nhớp. Phần cuối cùng của ống

dẫn tinh là chỗ phình hình bong bong gọi là bể tinh. Đây là nơi tích

tụ tinh trùng. Trong lỗ huyệt ống dẫn tinh được kết thúc bằng những

gờ nhỏ nằm ở phía ngoài của ống dẫn niệu. Ống dẫn tinh có cấu trúc

thay đổi phụ thuộc vào trạng thái sinh lý và chức năng của bộ máy

sinh dục. Trong thời gian sinh dục hoạt động ống dẫn tinh to ra,

thành ống dày lên, tăng số lượng gấp khúc. Cơ quan giao cấu của gà

trống không phát triển. Nó chỉ là chỗ phình hình bong bóng của ống

dẫn tinh. Khi giao phối ổ nhớp của con trống áp sát vào lỗ huyệt con

mái, lúc này âm đạo mở ra. Tinh trùng được phóng vào âm đạo và đi

vào trong tử cung.

* Sự tạo thành tinh trùng

Quá trình phát triển của tế bào sinh dục đực được chia làm 4

giai đoạn: sinh sản, sinh trưởng, phát triển và thành thục.

- Giai đoạn sinh sản: Giai đoạn này nguyên bào ở màng đáy

thành ống được phân chia giảm nhiễm nhiều cấp hình thành tế bào

cấp I. Một phần trong số đó ngừng sinh sản và bắt đầu vào giai đoạn

sinh trưởng.

- Giai đoạn sinh trưởng: Các tế bào cấp I, nhờ các chất dinh

Page 150: Chăn nuôi gia cầm

150

dưỡng của ống dẫn, tế bào tăng về kích thước. Trong nhân tế bào

hình thành từng đôi nhiễm sắc thể, rồi sau đó chúng xích lại gần

nhau. Thời điểm này chất dinh dưỡng đi vào nguyên bào giảm dần

và giai đoạn sinh trưởng kết thúc.

- Giai đoạn phát triển: Giai đoạn này gồm 2 lần phân chia tế

bào liên tục. Tinh bào cấp I phân chia thành 2 tinh bào cấp II, rồi

phân chia lần thứ 2 thành 4 tinh bào - tiền tinh trùng. Trong nhân

tiền tinh trùng chứa 1/2 số nhiễm sắc thể (n). Như vậy một tinh

nguyên bào phân chia thành 4 tinh tử. Hình dạng tinh trùng các loại

gia cầm (hình 5.1).

Hình 5.1: Tinh trùng của các loài gia cầm khác nhau

A. Gà trống B. Vịt đực C. Đầu tinh trùng ngỗng đực

1. Đầu; 2. Cổ; 3. Phần liên kết; 4. Phần giữa; 5. Đuôi.

Page 151: Chăn nuôi gia cầm

151

- Giai đoạn thành thục tinh trùng: Giai đoạn này đầu tiên

nhân lệch về một phía tế bào. Tương bào dãn ra. Tâm tế bào vuông

góc với bề mặt của nhân. Nhân đó được bao phủ chỉ một lớp mỏng

tương bào. Phần này của tế bào được tạo thành phần đầu tinh trùng.

Phần kéo dài của tế bào, hình thành đuôi tinh trùng, chung quanh có

bào tương co bóp được.

Tinh trùng thành thục, ở đầu được bọc lớp bào tương. Tinh

trùng được thành thục trong tế bào Sertoly trong ống sinh tinh, sau

đó chúng đi từ ống sinh tinh gấp khúc di chuyển đến mào tinh hoàn

vào ống dẫn tinh. Tinh trùng nằm trong ống sinh tinh của tinh hoàn

không có khả năng thụ tinh và không chuyển động. Tinh trùng nằm

ở mào tinh hoàn có khả năng thụ tinh thấp hơn ở ống dẫn tinh. Thời

gian tinh trùng thành thục là 14 - 15 ngày.

6.1.3. Cấu tạo và thành phần của trứng (xem chương 2).

6.2. Sự phát dục của phôi gia cầm

6.2.1. Thời gian phát dục của phôi gia cầm

Trứng gia cầm nếu được thụ tinh (có phôi) sau khi đẻ ra phải

đặt trong điều kiện nhất định, phôi mới tiếp tục phát dục, từng bước

hình thành cơ thể gia cầm con hoàn chỉnh và mổ vỏ ra khỏi vỏ trứng.

Các loại gia cầm khác nhau cần thời gian phát dục của phôi (thời

gian ấp trứng) khác nhau và đòi hỏi các điều kiện cũng không hoàn

toàn như nhau. Nghiên cứu quá trình phát dục của phôi giúp ta tạo

được điều kiện ấp trứng phù hợp, nhất là trong ấp trứng nhân tạo, để

có tỷ lệ ấp nở cao và gia cầm con khoẻ mạnh. Thời gian ấp trứng các

loại gia cầm thể hiện trên bảng 5.1.

Bảng 5.1: Thời gian ấp trứng các loại gia cầm

Loài gia

cầm

Thời gian

ấp (ngày) Loài gia cầm

Thời gian

ấp (ngày)

Gà 20-21 Gà tây 26-28

Vịt 26-28 Ngan 33-35

Page 152: Chăn nuôi gia cầm

152

Ngỗng 33-35 Chim cút (Bobwhite) 22-24

Đà điểu 40-42 Chim bồ câu (Pigeon) 17-19

Thời gian ấp trứng nêu trên là thời gian trung bình. Gia cầm

có thể nở sớm hoặc muộn hơn vài giờ, phụ thuộc vào điều kiện ấp

trứng, chất lượng trứng giống, khối lượng trứng,…

6.2.2. Điều kiện cần thiết cho sự phát triền của phôi gia cầm

Trứng gia cầm được thụ tinh sau khi đẻ ra được đặt trong

những điều kiện thích hợp sẽ phát dục và hình thành cơ thể gia cầm

con hoàn chỉnh, mổ vỏ ra khỏi vỏ trứng và tiếp tục quá trình phát

triển. Các điều kiện cần cho sự phát triển phôi gia cầm đó là:

- Nhiệt độ. Nhiệt độ là điều kiện cần thiết đầu tiên và quan

trọng nhất cho sự phát triển của phôi gia cầm. Nhiệt độ trong ấp

trứng thích hợp cho sự phát triển phôi là 37,5-37,80 C. Tuy vậy ở các

đối tượng gia cầm khác nhau (gà, vịt, gà tây, ngan, ngỗng, chim cút,

đà điểu) cần có sự điều chỉnh tăng, giảm 1-20 C. Trứng ở các giai

đoạn ấp khác nhau yêu cầu nhiệt độ cũng khác nhau. Thường tuần ấp

đầu do phôi phát dục nhanh, nhưng còn nhỏ, khả năng điều tiết nhiệt

kém vì vậy nhiệt độ ấp phải hơi cao và ổn định (37,7-37,80 C), tuần

giữa, phôi đã hình thành, trao đổi chất mạnh, tự sản sinh nhiệt vì vậy

nhiệt độ ấp trứng thấp hơn chút ít so với giai đoạn đầu. Giai đoạn ấp

cuối, phôi vận động mạnh, điều tiết nhiệt tốt, nhiệt độ ấp trứng cần

cao (37,8- 380 C) giúp gia cầm con dễ nở. Tuỳ theo loại trứng ấp mà

chế độ nhiệt được đặt trước (máy ấp điện) hoặc điều chỉnh trong quá

trình ấp (máy ấp thủ công).

- Ẩm độ. Ẩm độ là yếu tố thứ hai sau nhiệt độ ảnh hưởng

nhiều đến tỷ lệ ấp nở. Ẩm độ thích hợp là 60-75%. Điều tiết tốt ẩm

độ có thể làm tăng tỷ lên nở. Tuần đầu do phôi bắt đầu phát dục,

nhiệt độ ấp trứng cao, phôi cần nhiều nước nên ẩm độ máy ấp cần

cao (75-80%). Tuần giữa, phôi sinh nhiệt, trao đổi chất mạnh, ẩm độ

máy ấp giảm xuống còn 50-55%, tạo điều kiện cho hơi nước bốc ra

Page 153: Chăn nuôi gia cầm

153

từ trứng mang theo khí độc, NH3...thải độc cho phôi. Giai đoạn cuối

ẩm độ tăng cao (75-80%) để gia cầm không bị dính lông vào vỏ, dễ

nở.

- Đảo trứng. Đảo trứng trong quá trính ấp có tác dụng giúp

phôi hấp thu đều nhiệt, kích thích sự phát triển phôi và phôi không bị

dính sát vào vỏ trứng, làm tăng tỷ lệ nở. Đảo trứng giai đoạn đầu tác

dụng tốt hơn giai đoạn sau của qúa trình ấp. Chế độ đảo trứng của

mỗi loại máy ấp có khác nhau. Thường tuần đầu đảo trứng 1-2 giờ

một lần, tức là 12-24 lần/ngày đêm, sau đó giảm dần số lần đảo

trứng trong ngày.

- Thông thoáng, làm mát trứng. Trong quá trình phát triển

phôi cần không khí sạch (O2) và thải khí độc CO2, NH3.... Lượng

CO2 không vượt quá 0,2-0,4%. Thông thoáng máy ấp giúp đạt được

mục đích này. Trong ấp trứng thủ công thường kết hợp thông thoáng

với làm mát trứng và đảo trứng. Khi đó người ta đưa trứng ra khỏi

máy ấp hoặc mở cửa máy ấp. Thông thoáng giai đoạn cuối có ý

nghĩa hơn ở giai đoạn ấp đầu. Thời gian làm mát trứng từ 20-60 phút

tùy theo loại máy ấp và điều kiện ấp cụ thể.

Các điều kiện trên đây cần được theo dõi trong suốt quá trính

ấp và điều chỉnh cho phù hợp với trứng của các đối tượng gia cầm

khác nhau, loại máy ấp cụ thể và từ kinh nghiệm của kỹ thuật viên

trong ấp trứng.

6.2.3. Quá trình phát triển phôi gia cầm trong quá trình ấp

trứng

Trứng được thụ tinh ở phần đầu của ống dẫn trứng và di

chuyển tiếp xuống các phần tiếp theo. Trong quá trình đó phôi phân

chia, diễn ra quá trình phát dục nhanh trước khi được đẻ ra ngoài cơ

thể mẹ. Ngoài cơ thể mẹ, dưới 20 độ C được xem là ''độ không sinh

lý'' (physiologycal zero) của phôi gia cầm. Ở nhiệt độ này phôi

Page 154: Chăn nuôi gia cầm

154

ngừng phát dục trong một vài ngày. Trứng gia cầm đẻ ra, đặt trong

những điều kiện thích hợp phôi sẽ tiếp tục phát triển và hình thành

gia cầm con. Sự hình thành các mầm cơ quan, bắt đầu từ các lá phôi

được tóm tắt như sau (theo Bùi Đức Lũng - 2002),(hình 5.2).

Hình 5.2: Sự hình thành phôi từ đĩa phôi và sự tạo thành các

màng phôi

( theo Hertler)

1.Lòng trắng 7. Màng serosa

2.Nếp gấp màng ối trước 8. Màng ối

3.Phôi 9. Đầu

4.Buồng khí 10. Túi niệu

5.Nếp gấp màng ối sau 11. Túi lòng đỏ

6.Mấm tim 12. Vòng

13. Lòng đỏ dinh dưỡng

Ngày đầu: 6 giờ sau khi ấp phôi gà dài 0,5mm, hình thành

nếp thần kinh trên dây sống nguyên thuỷ. Sau 24 giờ nếp thần kinh

tạo thành ống thần kinh và hình thành 5- 6 đốt thân.

Ngày thứ 2: phôi tiếp tục phát triển tạo thành hệ thống mạch

máu bên ngoài bào thai. Bắt đầu xuất hiện mầm tim. Mạch máu bao

quanh lòng đỏ (noãn hoàng). Chất dinh dưỡng của noãn hoàng cung

cấp cho phôi.

Ngày thứ 3: bắt đầu hình thành đầu, cổ và ngực của phôi. Từ

Page 155: Chăn nuôi gia cầm

155

đó màng ối, màng nhung phân chia thành 2 màng túi, màng ở ngoài

là màng nhung, màng trong là màng ối. Hai màng này dính liền với

nhau. Qua ngày thứ 3 hình thành gan và phổi.

Ngày thứ 4: phôi có dạng như ở bào thai động vật bậc cao, độ

dài phôi 8mm.

Ngày thứ 5: phôi phát triển tăng dần, có chiều dài 12mm.

Nhìn bề ngoài có hình dáng của loài chim.

Ngày thứ 6: kích thước phôi đạt 16mm. Mạch máu phủ nhiều

qua phôi, trông như màng nhện, ngày này tiến hành kiểm tra sinh vật

học lần thứ nhất để loại trứng chết phôi và trứng không phôi.

Ngày thứ 7: vòng rốn biểu mô màng ối biến thành da phôi.

Trong màng ối hình thành huyết quản. Thành màng ối xuất hiện cơ

trơn để màng có thể co bóp được. Phôi phát dục trong môi trường

nước của màng ối. Nước ối vừa chứa chất dinh dưỡng, vừa chứa cả

amoniac và axit uric của phôi thải ra. Đã hình thành ống mật và dạ

dày, chất dinh dưỡng đã qua đó.

Ngày thứ 8: cánh và chân đã rõ nét, phần thân đã phủ xuống

đến ức, lông đã nhú ở lưng, phôi dài 18mm.

Ngày thứ 9: lông mọc nhiều ở vùng lưng, phía ngoài đùi và

cánh. Lòng trắng thu nhỏ lại ở phía đầu nhọn của trứng.

Ngày thứ 10: chất dinh dưỡng bắt đầu được hấp thu vào ống

ruột.

Ngày thứ 11: phôi dài 25mm, đã mang hình dáng gà con, mỏ,

móng chân sừng hoá hoàn toàn, phần thân lớn lên câu đối hơn. Lòng

trắng thu nhỏ ở đầu nhỏ của trứng, các túi phôi hoàn thiện, tiết

enzyme chuyển hoá albumin và Canxi thành chất dễ hấp thu để nuôi

phôi, hấp thu Oxy qua vỏ trứng để cung cấp cho phôi. Đồng thời thải

CO2 và chất thải của thận chuyển ra đổ vào xoang niệu nang thành

dạng khí thải ra ngoài qua các lỗ khí của vỏ trứng.

Ngày thứ 12: huyết quản của túi noãn hoàng phát triển mạnh,

chuyên vận chuyển chất dinh dưỡng đến phôi. Thời kỳ này là quá độ

Page 156: Chăn nuôi gia cầm

156

của hô hấp túi niệu. Tế bào cơ, gân phân bố khắp thành niệu nang.

Ngày thứ 13: trên đầu phôi gà xuất hiện lông tơ, chân và mỏ

hình thành vảy.

Ngày thứ 14: phôi lớn chiếm gần hết khoang trứng, phôi đã

cử động được, lông phủ kín toàn thân.

Ngày thứ 15 và 16: kích thước của niệu nang tăng lên tương

ứng với kích thước của phôi. Protein được phôi tiêu thụ gần hết. Sự

hô hấp vẫn nhờ mạch máu của tuần hoàn niệu nang.

Ngày thứ 17, 18 và 19: phôi chiếm toàn bộ khối lượng trứng,

trừ buồng khí.

Ngày thứ 20: mỏ của phôi gà mổ thủng buồng khí. Lúc này

gà con lấy oxy từ buồng khí và qua hệ thống lỗ khí trên bề mặt vỏ

trứng qua đường hô hấp, phổi và mạch máu. Gà con mổ thủng vỏ

trứng.

Ngày thứ 21: Vào đầu của ngày này gà bắt đầu chui khỏi vỏ.

Kết thúc thời kỳ ấp trứng.

Ở các đối tượng gia cầm khác do thời gian phát dục của phôi

khác nhau, nên sự hình thành các cơ quan tương ứng sẽ kéo dài hoặc

ngắn hơn so với thời gian phát dục của phôi gà. Trong quá trình ấp

trứng cần lưu ý tính đặc thù để điều chỉnh chế độ ấp trứng thích hợp

mới cho tỷ lệ ấp nở cao.

Trong 4 ngày đầu của sự phát triển phôi, carbonhydrat là

nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho phôi. Protêin được sử dụng

thay cho carbonhydrat, đồng thời cũng làm tăng sản phẩm phân giải

ure từ 4 đến 9 ngày ấp. Mỡ sẽ là nguồn năng lượng chính của phôi

vào thời gian còn lại của quá trình ấp trứng. Canxi từ vỏ trứng được

sử dụng, nhưng trước hết lấy từ lòng đỏ trứng trong giai đoạn đầu.

6.3. Kỹ thuật ấp trứng gia cầm

Gia cầm có thể được ấp nở tự nhiên (dùng gia cầm mẹ ấp

trứng) hoặc ấp trứng nhân tạo (do con người thực hiện). Việc ấp

trứng gia cầm nhân tạo đã trở thành ngành kinh tế độc lập, quan

Page 157: Chăn nuôi gia cầm

157

trong, hiệu quả cao nhờ tiến bộ kỹ thuật cơ khí, điện và tự động hoá.

6.3.1. Ấp trứng tự nhiên. Ấp trứng tự nhiên là dùng gia cầm

mẹ ấp trứng. Thường chọn gà, gà tây, ngan, ngỗng để ấp trứng. Hình

thức ấp trứng tự nhiên chỉ còn thích hợp với chăn nuôi gia đình, quy

mô nhỏ tự túc giống, vì gia cầm mẹ ấp trứng sẽ ngừng đẻ làm sức

sản xuất trứng giảm rõ rệt. Trong ấp trứng tự nhiên cần chú ý: nơi

đặt ổ ấp phải thoáng mát, tránh nắng chiếu, mưa tạt, yên tĩnh và hơi

tối. Gia cầm mẹ phải chọn con say ấp, bộ lông phát triển tốt, chân

không quá cao và không có lông ở chân.Trong quá trình ấp cho gia

cầm mẹ ăn đầy đủ, nhất là thức ăn giàu năng lượng, huấn luyện cho

xuống ổ đúng giờ để bài tiết, tránh thải phân trong ổ trứng, thường

xuyên kiểm tra chuột, thú dữ gây hại trong quá trình ấp.

6.3.2. Ấp trứng nhân tạo. Nghiên cứu kỹ các điều kiện cần

cho sự phát triển của phôi gia cầm, con người đã thực hiện ấp trứng

nhân tạo gia cầm thông qua việc chế tạo các loại tủ ấp, máy ấp, và cả

các lò ấp thủ công bằng trấu, thóc nóng. Ấp trứng nhân tạo mang lại

lợi ích kinh tế cao do giải phóng gia cầm mẹ làm tăng sản lượng

trứng, tiến hành ấp trứng, sản xuất giống quanh năm với quy mô lớn.

Trình độ công nghiệp hoá và chuyên môn hoá cao của ngành ấp

trứng đã thúc đẩy nhanh quá trình chăn nuôi gia cầm công nghiệp,

tạo ra sản phẩm hàng hoá ở quy mô lớn. Hiện nay ở nước ta đang tồn

tại ấp trứng thủ công bằng trấu thóc nóng (chủ yếu các là ấp trứng

vịt với kinh nghiệm cổ truyền); ấp trứng bằng tủ ấp nước nóng, cung

cấp nhiệt nhờ đèn dầu hoặc nguồn điện (quy mô nhỏ ấp trứng chim

cút, gà, vịt); ấp bằng máy ấp điện tự sản xuất trong nước hoặc hệ

máy hiện đại, tự động hoá cao của nước ngoài nhập về (các cơ sở ấp

trứng chuyên cung cấp gia cầm giống, cơ sở ấp trứng quốc doanh

sản xuất giống gốc...). Dưới đây chỉ giới thiêu về máy ấp điện ứng

dụng cho các quy mô ấp trứng khác nhau.

Page 158: Chăn nuôi gia cầm

158

Hình 5.3 : Máy ấp trứng quy mô nhỏ tự chế tạo

6.3.2.1. Cấu tạo máy ấp và máy nở trứng gia cầm

* Máy ấp.

Hiện nay có nhiều loại máy ấp trứng với công suất khác nhau,

Page 159: Chăn nuôi gia cầm

159

từ 500 quả trứng đến 7-8 vạn quả và nhiều hơn được nhập vào nước

ta, từ Canada, Hungari, Hà Lan, Trung Quốc . . .

Máy ấp công suất nhỏ dưới 1.000 quả thường được dùng cho

gia đình hoặc phòng thí nghiệm nghiên cứu. Còn trong sản xuất công

nghiệp của các doanh nghiệp hoặc tổ hợp sản xuất thường dùng các

loại máy với công suất lớn từ 1 vạn trứng trở lên.

Tuy khác nhau về hình thức và công suất, cũng như thiết kế

về kỹ thuật, tất cả các loại máy ấp đều tuân theo một nguyên lý

chung và phải gồm các bộ phận: Vỏ máy, bảng điều khiển tự động,

giá đỡ khay, khay trứng, hệ thống cung cấp và điều tiết nhiệt độ, ẩm

độ, cung cấp không khí, đảo trứng và hệ thống bảo vệ. Các hệ thống

thiết bị tạo nên máy ấp phải đáp ứng thoả mãn các điều kiện cần cho

sự phát triển của phôi đó là nhiệt độ, ẩm độ, không khí sạch...

1). Vỏ máy

Vỏ máy hình chữ nhật. Ở một số máy lớn người ta tận dụng

nền xi măng hoặc gạch lát để làm đáy máy. Vỏ máy có nhiệm vụ

ngăn cách khoang máy với môi trường bên ngoài, giữ nhiệt và ẩm

trong máy ổn định. Vỏ máy làm bằng nguyên liệu chịu lực và cách

nhiệt. Vỏ máy gồm 2 lớp, giữa để trống, nhét mùn cưa hoặc bông

thuỷ tinh hoặc bột xốp để cách nhiệt. Vỏ máy làm bằng gỗ dán

thường chóng hỏng, dễ hút ẩm và mất vệ sinh. Máy ấp trứng thế hệ

mới của Hà Lan, Úc, Trung Quốc ... vỏ máy thường làm bằng hợp

kim nhôm hoặc nhựa.

2). Bảng điều khiển

Bảng điều khiển tập trung các nút điều khiển các hoạt động

của máy được lắp đặt bên trên, mặt trước của máy.

Bảng điều khiển có công tắc tổng để bật tắt máy, có các nút

để tăng thêm nhiệt, để đảo trứng... và các đèn hiệu để báo bộ phận

nào của máy đang làm việc hoặc không làm việc.

3). Giá đỡ khay và khay đựng trứng

Giá đỡ khay là một giàn các khung đỡ các khay đựng trứng.

Page 160: Chăn nuôi gia cầm

160

Các giá đỡ khay có kích thước sao cho các khay đựng trứng nằm vừa

khít ở bên trong lòng của nó. Tuy có cùng mục đích nhưng ở các

máy khác nhau, giá đỡ khay có thể khác nhau, chủ yếu phụ thuộc

vào thiết kế của máy. Đối với giá đỡ cố định, giàn đỡ khay có hình

dáng cố định, không bị thay đổi khi máy đảo trứng. Vì vậy toàn bộ

giàn đỡ khay được lắp trên một trục chạy qua tâm của giàn. Khi đảo

trứng có giàn đỡ cố định này thường chỉ có ở các máy công suất vừa

và nhỏ dưới 1vạn trứng. Còn giá đỡ có khớp mềm thường gặp ở các

máy có công suất lớn, giàn giá đỡ tự nó chuyển động và thay đổi

hình dạng khi máy đảo trứng. Trong máy thường chia ra làm nhiều

cột giá đỡ, cột giá đỡ có từ 12 - 15 tầng, mỗi tầng giá đỡ một khay

trứng (Hình 5.4, 5.5).

Hình 5.4: Máy ấp trứng công suất lớn

Page 161: Chăn nuôi gia cầm

161

Hình 5. 5: Máy ấp trứng công suất trung bình đã vào trứng

Khay đựng trứng ở máy ấy gọi là khay ấp (Hình 5.6). Khay

ấp trứng đưa vào ấp phải giữ cho tất cả các trứng ở trong khay nằm

theo thứ tự nhất định, đầu nhỏ của trứng xuống dưới, đầu to lên trên.

Khay ấp có thể làm bằng gỗ, bằng kim loại khác nhau. Những máy

thế hệ mới, khay ấp làm bằng nhựa, nhẹ, bền, sạch. Sức chứa trứng

các khay ấp cũng khác nhau theo công suất máy và kích cỡ máy.

Mỗi khay ấp chứa 80 hoặc 180 quả trứng gà. Có một số loại máy,

khay không cố định. Đáy khay là một mặt phẳng có đục lỗ để đảm

bảo độ thông thoáng. Loại khay này có ưu điểm là chứa được nhiều

trứng hơn. Nhưng nhược điểm, xếp trứng và loại trứng khó hơn. Tuy

vậy khay ấp có lỗ hiện nay là tiên tiến nhất.

Page 162: Chăn nuôi gia cầm

162

Hình 5. 6: Khay ấp đã xếp đủ trứng trƣớc khi đƣa vào máy ấp

4).Hệ thống đảo trứng

Để các phôi trong trứng phát triển bình thường và không bị

sát vào vỏ, trong quá trình ấp máy phải đảo trứng. Ở các máy ấp

công nghiệp việc đảo trứng được thực hiện bằng hai cách, đó là dùng

môtơ hoặc dùng khí nén.

Hệ thống đảo môtơ hoạt động một đồng hồ thời gian chạy

bằng điện sẽ đúng chu kỳ 1 - 2 giờ một lần bật môtơ. Khi môtơ đảo

hoạt động sẽ làm quay bánh răng hoặc cần đảo, rồi làm xoay trục

đảo hoặc kéo các quang treo về một phía làm các giá đỡ khay

nghiêng đi. Khi góc đảo đạt yêu cầu 450

C, công tắc giới hạn sẽ tự

động làm ngừng môtơ đảo, để kỳ sau đảo ngược lại.

5). Hệ thống làm thông khí

Thông thoáng không khí là một vấn đề hết sức quan trọng ở

máy ấp công nghiệp. Độ thông khí ảnh hưởng trực tiếp đến cân bằng

nhiệt, tới độ ẩm và nồng độ O2, CO2 trong máy. Hệ thống thông khí

được chia thành 3 phần: Quạt gió, lỗ hút khí, lỗ thoát khí.

Các máy ấp thường chỉ có 1 lỗ hút khí, được đặt ở trước,

Page 163: Chăn nuôi gia cầm

163

hoặc mặt sau, hoặc trên nóc máy nhưng không gần lỗ thoát khí.

Không khí qua lỗ này đi theo đường ống vào phía sau quạt gió. Quạt

quay, tạo ra lực hút trong ống và đẩy không khí sạch vào mọi vị trí

của máy.

Hình 5.7: Tủ chứa trứng trƣớc khi đƣa vào máy

Lỗ thoát khí có thể là một hoặc nhiều lỗ thông ra ngoài máy,

để thoát khí bẩn chứa CO2 ra ngoài. Lỗ thoát khí được đặt trên nóc

hoặc bên hông của máy.

Quạt máy trong khi ấp có nhiệm vụ đảo đều không khí trong

máy, đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm ở các vị trí trong máy xấp xỉ nhau.

Quạt có sải cánh dài có tốc độ 800 - 1000 vòng/phút, thường một

máy ấp chỉ lắp một quạt. Quạt có sải cánh nhỏ có tốc độ trên 1700

vòng/phút. Tuỳ loại máy, quạt có thể lắp phía sau, trên nóc máy. Ở

máy ấp đa kỳ hệ thống quạt được lắp phía cửa vào và thổi khí về

phía cửa ra.

6). Hệ thống cấp nhiệt

Để cấp và làm ổn định nhiệt trong máy ấp, người ta dùng các

thiết bị cảm nhiệt hoặc nhiệt kế công tắc hoặc màng ête và dây

mayso cấp nhiệt.

Page 164: Chăn nuôi gia cầm

164

Cảm nhiệt là thiết bị hiện đại có mức độ tin cậy cao, độ chính

xác lớn. Cảm nhiệt hoạt động sẽ truyền tín hiệu về làm đóng, ngắt

dây mayso đang đốt nóng ở nhiệt độ nhất định.

Nhiệt kế công tắc là thiết bị vừa làm nhiệm vụ đo nhiệt độ,

vừa làm công tắc tự động đóng, ngắt mạch điện. Còn đối với màng

ête giãn nở, hoặc co lại làm thay đổi bề dày của lá đồng và làm nối

hoặc ngắt mạch điện điều khiển.

Dây mayso là dây điện trở, mà khi có dòng điện chạy qua sẽ

được đốt nóng lên và toả nhiệt nhiều. Ngày nay dây mayso trong

máy ấp thường được bọc lớp cách điện, bền, an toàn, không bị oxy

hoá khi tiếp xúc với hoá chất và nước.

7). Hệ thống tạo ẩm

Mỗi loại máy có thiết bị tạo ẩm khác nhau. Tuy nhiên theo

nguyên tắc chung chỉ có 2 dạng là thiết bị phun sương nước và dùng

diện tích bề mặt bay hơi nước.

Để điều khiển ẩm độ, trong máy được đặt ẩm kế hoặc nhiệt

kế bấc ẩm. Loại ẩm kế này được chế tạo đặc biệt, liên hệ với thiết bị

làm ẩm. Đối với máy ấp dùng thiết bị tạo ẩm bằng phun sương mù

thì nước vào máy cần có áp suất cao. Nếu loại máy dùng diện tích bề

mặt bay hơi, thì nước vào máy không cần áp suất lớn như máy phun

sương mà chỉ thay đổi diện tích bề mặt bay hơi nước.

8). Hệ thống bảo vệ

Hệ thống bảo vệ trong máy ấp bao gồm các thiết bị được lắp

đặt nhằm ngăn chặn hoặc thông báo trước các sự cố có thể xảy ra

làm hỏng máy hoặc trứng ấp. Tín hiệu dễ nhận thấy là chuông báo

động kêu vang và đèn đỏ bật sáng.

Ngoài ra, đa số máy ấp công nghiệp lắp hệ thống báo động tự

động chế độ không khí, chuông điện, đèn báo, cầu chì tự động cho

từng thiết bị...

Page 165: Chăn nuôi gia cầm

165

Hình 5.8: Máy nở dung lƣợng trung bình

* Máy nở

Máy nở có kết cấu và các thiết bị điều hoà hệ thống cấp nhiệt,

cấp ẩm và cấp không khí như ở máy ấp (Hình 5.8) chỉ khác giá đỡ

khay nở là cố định.

Khay đặt trứng vào máy nở gọi là khay nở, khác khay ấp

khay nở không có các thành ngăn ngang dọc để đặt cố định quả

trứng. Khay nở có thành xung quanh cao 8 - 9cm. Đáy khay là lưới

với nhiều lỗ nhỏ đường kính 2mm và thành khay có đục lỗ.

Hình 5.9: Máy nở dung lƣợng lớn

Page 166: Chăn nuôi gia cầm

166

6.3.2.2. Quy trình ấp trứng bằng máy ấp công nghiệp

1). Bảo quản trứng trước khi đưa vào ấp

Trứng sau khi đẻ ra gặp nhiệt độ môi trường thấp hơn so với

nhiệt độ cơ thể mẹ, quá trình phát triển của phôi bị ngừng lại. Để bảo

quản trứng ấp có hiệu quả cao nhất nên giữ trứng ở nơi thoáng mát,

tránh ánh sáng chiếu trực tiếp hay mưa ẩm, không có mùi lạ. Nhiệt

độ bảo quản trứng thích hợp là 15 - 200C. Khi nhiệt độ bảo quản cao

sẽ tạo điều kiện cho phôi phát triển, song nếu nhiệt độ không thích

hợp gây chết phôi, đặc biệt khi nhiệt độ quá cao sẽ gây chết phôi

hàng loạt. Ngoài ra trong khi bảo quản, trứng bị bốc hơi nước. Muốn

hạn chế sự bốc hơi nước của trứng phải tăng độ ẩm môi trường. Độ

ẩm càng cao tỷ lệ mất nước càng ít nhưng không được phép để ẩm

độ 90-100% vì ở mức ẩm độ này sẽ tạo điều kiện cho nấm mốc phát

triển. Ẩm độ thích hợp trong thời gian bảo quản trứng là 75 - 82%.

Theo nghiên cứu của Nguyễn Quý Khiêm, Nguyễn Đăng

Vang, Trần Công Xuân, Bạch Thị Thanh Dân (2002-2003), trên đối

tượng trứng gà Tam Hoàng thì nên bảo quản phòng lạnh yêu cầu nhiệt

độ 10 - 150C, ẩm độ 70 - 80%. Trước khi ấp cần đưa ra khỏi phòng

lạnh 4 - 8 giờ. Cách bảo quản tuỳ thuộc vào mùa vụ và thời gian giữ

trứng trước khi đưa vào ấp (bảng 5.3)

Bảng 5.3: Cách bảo quản trứng

Thời gian

bảo quản Vụ thu đông Vụ hè Xuân hè

3 ngày

4 - 6 ngày

7 - 9 ngày

Trên 9 ngày

Bảo quản tự nhiên

Bảo quản tự nhiên

Bảo quản phòng lạnh

Bảo quản phòng lạnh

Bảo quản tự nhiên

Bảo quản tự nhiên

Bảo quản phòng lạnh

Bảo quản phòng lạnh

Trong thời gian bảo quản trứng gia cầm xếp đầu nhỏ xuống

dưới, nếu bảo quản dài ngày xếp nghiêng để dễ đảo trứng. Xếp trứng

vào khay nghiêng góc 300- 45

0, đầu buồng khí xếp lên trên. Hàng

Page 167: Chăn nuôi gia cầm

167

ngày trứng được đảo một lần. Không được xếp trứng vào thùng, rổ,

đậy kín hoặc xếp chồng lên nhau.

2). Chọn trứng để ấp

Trên cơ sở hình dạng bên ngoài của trứng có thể chọn để tăng

tỷ lệ ấp nở (bảng 5.4.).

Khi chọn trứng chú ý loại bỏ các quả trứng quá to, quá nhỏ,

vỏ quá mỏng, méo mó, xù xì, rạn, dập, bẩn... Vì những trứng này nở

kém, chất lượng gà con thấp và không thể làm giống. Trứng quá dài,

quá tròn cũng không nên cho vào ấp vì tỷ lệ lòng đỏ và lòng trắng

không cân đối.

Bảng 5.4 : Kết quả nở theo đặc điểm của trứng ấp

( Bạch Thị Thanh Dân, Nguyễn Quý Khiêm - 2002)

Đặc điểm của trứng ấp Kết quả ấp nở

Trứng trung bình của giống

Trứng nhỏ so với trứng trung bình

Trứng to so với trung bình

Trứng có vỏ mỏng, rạn

Trứng méo mó

Trứng xù xì hoặc quá mỏng

87%

80%

71%

53%

49%

41%

Sau khi kiểm tra bằng ngoại hình, cần soi kiểm tra để phát

hiện rạn dập, lòng đỏ có nằm ở vị trí giữa hay không, có dị vật, cục

máu ở bên trong. Nếu có nên loại bỏ khi soi, cần kiểm tra kích thước

buồng khí, vị trí buồng khí. Nếu vị trí buồng khí không ở đầu to,

kích thước buồng khí quá lớn, buồng khí di động hoặc rung động

đều không nên chọn vào ấp.

3). Vận chuyển trứng

Trong quá trình bao gói chuyên chở, cần xếp trứng vào thùng

gỗ hoặc thùng bằng các-tông cứng, xếp thành từng lớp, mỗi lớp phủ

một lớp trấu hoặc dăm bào mỏng dàn đều, rồi lại xếp tiếp lớp sau.

Page 168: Chăn nuôi gia cầm

168

Các góc thùng phải chèn trấu và dăm bào cho đều, phần trên cùng

chèn chặt để khi vận chuyển trứng không bị xóc lắc gây dứt dây

chằng, trứng dập, vỡ buồng khí.

4). Xử lý trứng ấp

Trước khi đưa trứng vào ấp phải xông khử trùng bằng

foocmon, thuốc tím diệt vi khuẩn. Nếu trứng không được xông, vi

khuẩn lưu giữ trên vỏ trứng và trong máy sẽ có điều kiện xâm nhập

vào trứng gây chết phôi, tỷ lệ trứng bị thối tăng, độc tố lây lan sang

trứng khác, lượng khí độc tăng gây ngộ độc cho phôi trong máy ấp.

Phương pháp xông như sau: Xếp trứng đứng trong các khay,

đầu to là đầu có buồng khí được xếp quay lên trên. Sau đó xếp vào

tủ xông, 1m3 buồng xông cần lượng foocmon 35ml + 35ml nước đổ

vào khay có 17,5g thuốc tím, xông trong vòng 30 phút. Trong trường

hợp ấp trứng thủ công hoặc ở quy mô nhỏ có thể khử trùng bằng

cách dung khăn mềm nhúng dung dịch thuốc tím lau nhẹ bên ngoài

vỏ trứng hoặc phơi trứng dưới ánh nắng nhẹ (ấp trứng vịt). Các khay

và máy phải được cọ rửa, phun thuốc sát trùng thường xuyên.

Trường hợp đặc biệt trứng quá bẩn phải rửa bằng dung dịch thuốc

tím. Không cọ vỏ tránh nạo bỏ màng nhầy bên ngoài vỏ trứng.

5). Đưa trứng vào máy ấp

Trước khi đưa trứng vào ấp, máy ấp phải được kiểm tra cẩn

thận từng bộ phận, vệ sinh khử trùng máy bằng foocmon và thuốc

tím. Khi đưa trứng vào ấp, cho bộ phận tạo ẩm ngừng hoạt động, bật

công tắc để tất cả các giá đỡ ở vị trí nằm ngang, lần lượt đặt các

khay trứng vào máy, sau đó vận hành máy. Có sổ ghi chép số trứng

ấp, thời gian ấp, thời gian kiểm tra phôi, thời gian ra gà.

6). Quá trình ấp nở và chế độ ấp nở

- Nhiệt độ

Trong máy ấp đa kỳ trứng được đưa vào máy nhiều đợt, vào

ấp theo thời gian khác nhau, nên có tuổi ấp khác nhau. Vì không thể

Page 169: Chăn nuôi gia cầm

169

làm nhiều chế độ ấp trong cùng một máy, nên ở máy ấp đa kỳ phải

sử dụng chế độ nhiệt mà tất cả các lô trứng điều có thể chấp nhận

được và do trứng trong máy không cùng một lứa tuổi nên máy ấp đa

kỳ đòi hỏi máy nở riêng.

Trong mùa nóng, nhiệt độ 37,50C (99,5

0F). Trong mùa lạnh,

chế độ ấp vẫn như trên, nhưng mỗi khi đưa một lô trứng mới vào

phải tăng nhiệt độ buồng máy lên 37,80C (100

0F) trong 24 giờ đầu,

sau đó trở lại mức như trên 37,50C. Sau khi ấp được 18 - 18,5 ngày,

trứng được chuyển từ máy ấp sang máy nở.

- Đảo trứng và thông thoáng

Trong quá trình ấp, trứng cần được đảo và thông thoáng. Mục

đích của việc đảo trứng là giúp phôi hấp thu đều nhiệt, tránh cho

phôi bị dính vào vỏ, làm cho quá trình trao đổi chất của phôi tốt hơn.

Đồng thời có tác dụng làm cho phôi phát triển tốt nhất, đặc biệt quan

tâm giai đoạn đầu và giữa. Trứng được đảo 900 với thời gian 2 giờ/1

lần.

Ngoài đảo trứng để thuận lợi cho phôi phát triển, không khí

trong máy ấp cũng cần được lưu thông nhằm đẩy không khí bẩn, khí

nóng trong máy ra ngoài và hút không khí sạch ở ngoài vào. Đảm

bảo thông thoáng khí là đảm bảo cung cấp lượng oxy cần thiết cho

phôi hô hấp và phát triển. Đồng thời loại khí độc ra ngoài, đảm bảo

CO2 không quá 0,2% trong máy ấp.

- Chuyển trứng từ máy ấp sang máy nở

Trước khi chuyển trứng từ máy ấp sang máy nở thì máy nở

phải được cọ rữa vệ sinh, để khô, xông sát trùng như máy ấp bằng

hỗn hợp 17,5g thuốc tím + 35cc foocmon/m3 buồng máy. Sau đó cho

máy chạy đồng thời điều chỉnh nhiệt độ và ẩm độ sao cho đạt chế độ

nở. Tiếp đó tạm thời tắt bộ phận tạo ẩm của máy ấp, bật công tắc cho

bộ phận đảo hoạt động để các khay về vị trí ngang, kiểm tra sinh vật

học và chuyển trứng từ khay ấp sang khay nở của máy nở.

7). Ra gà

Page 170: Chăn nuôi gia cầm

170

Trước khi ra gà cần chuẩn bị hộp đựng gà con đã được sát

trùng, khay đựng trứng không nở, thùng rác đựng vỏ trứng và gà

chết. Người chọn gà phải được mặc bảo hộ, đeo khẩu trang và sát

trùng tay bằng xà phòng. Tiến hành tắt công tắc cho bộ phận tạo ẩm

ngừng hoạt động, lần lượt lấy khay nở ra khỏi máy chọn những con

gà khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, chân đứng vững, lông bông, kín rốn.

Loại bỏ những con gà có những khuyết tật, bết lông, nặng bụng, hở

rốn, mù mắt, chéo mỏ... nhặt trứng không nở ra khay. Khi đã đưa hết

gà ra khỏi máy thì tắt máy để thu dọn vệ sinh, cọ rữa và xông khử

trùng.

Tất cả các gà loại I được tiêm hoặc nhỏ vacxin hoặc các

thuốc phòng các bệnh truyền nhiễm: Vacxin phòng bệnh Marek,

thuốc Tyroxin phòng bệnh CRD, vacxin phòng bệnh

Gumboro...Chọn tách trống mái nếu có yêu cầu.

Gà con được đựng trong hộp cát- tông cứng, hộp đủ đựng 50

hoặc 100 gà con, ngăn thành từng ô, mỗi ô chứa được 20-25 gà 1

ngày tuổi. Mặt trên và xung quanh hộp phải đục lỗ tròn đường kính

1-1,2cm, cách nhau 7-8cm, chiều cao hộp 12-13cm. Hộp gà con

trước khi xuất phải để trong phòng ấm, kín gió và thoáng khí. Quá

trình vận chuyển phải đảm bảo tránh gió, tránh làm gà con xô đè lên

nhau. Tốt nhất là dùng xe chuyên dụng để vận chuyển từ nơi ấp đến

nơi nuôi, nếu phải đi xa để không ảnh hưởng đến gà con. Úm gà con

tại nơi đã bật đèn sưởi và có sẵn nước uống pha vitamin B + đường

glucoza.

6.4. Kiểm tra sinh vật học trứng ấp

Trong quá trình ấp trứng gia cầm, trứng cần được kiểm tra sinh

vật học. Bao gồm: soi trứng; theo dõi sự giảm khối lượng trứng

trong quá trính ấp; giải phẫu, đánh giá các phôi chết nhằm để kiểm

tra sự phát triển của phôi, phát hiện trứng không phôi, trứng chết

phôi. Từ đó xác định được nguyên nhân các đợt ấp kém để có biện

pháp khắc phục như cải thiện việc nuôi dưỡng đàn gà sinh sản, điều

Page 171: Chăn nuôi gia cầm

171

chỉnh chế độ ấp cho phù hợp...

Trong quá trình ấp trứng thường kiểm tra sinh vật học trứng ấp

3 lần. Lần 1 ngày ấp thứ 6-7 ở gà, 7-8 ở vịt, ngỗng. Lần 2 vào ngày

ấp 11-12 ở gà, 13-14 ở vịt, ngỗng. Lần 3 trước khi nở 2-3 ngày. Mỗi

lần kiểm tra có mục đích cụ thể, nhưng đều nhằm làm tăng tỷ lệ nở,

sử dụng máy ấp hiệu quả nhất.

1). Soi trứng.

Dụng cụ soi trứng có thể là bóng đèn đặt trong một hộp gỗ,

hộp cát- tông có các lỗ ở thành bên đặt vừa quả trứng, hoặc dụng cụ

soi có bóng điện đặt trong bầu phản ánh sáng mạnh ra ngoài, có

miệng chụp vừa quả trứng. (Hình 5.9).

Hình 5.9: Soi trứng bằng đèn soi

- Soi trứng kiểm tra sự phát triển phôi sau 6 ngày ấp

Trong giai đoạn này có thể phân biệt và thấy rõ phôi phát

triển tốt, phôi phát triển yếu, chết phôi, không phôi.

Đặc điểm của trứng có phôi phát triển tốt là phôi lớn nằm

Page 172: Chăn nuôi gia cầm

172

chìm sâu trong lòng đỏ, chỗ phôi nằm có màu trắng đục mờ, túi

nước ối lớn lên quanh phôi, bên ngoài túi nước ối có hệ thống mạch

máu của lòng đỏ, trứng có màu hơi hồng. Khi soi phải xoay trứng

hơi mạnh mới thấy phôi.

Đối với trứng có phôi phát triển yếu, chết phôi trong giai

đoạn này là phôi nhỏ nhẹ nằm sát vỏ trứng, túi nước ối nhỏ, hệ thống

mạch máu phát triển yếu, mờ nhạt. Trứng bị chết phôi thì khi xoay

trứng phôi không di động, có vết đen nằm sát buồng khí, mạch máu

màu sẫm, vòng máu chạy ngang. Trứng không phôi trong suốt có

màu ánh hồng của lòng đỏ, hoặc lòng đỏ trôi tự do vì dây chằng

trứng bị đứt (hình 5.10)

Khi soi, loại bỏ trứng không phôi, chết phôi. Tính tỷ lệ trứng

không phôi, chết phôi. Khi soi trứng đồng thời kiểm tra sự giảm khối

lượng trứng sau 1 tuần ấp.

Hình 5.10: Trứng không phôi và trứng có phôi

- Soi trứng kiểm tra sự phát triển phôi sau 11 ngày ấp

Đối với trứng ấp được 11 ngày, phải soi đầu nhọn của trứng,

cần chú ý xem màng niệu nang đã khép kín chưa. Quá trình soi trứng

phải nhanh, để đưa vào máy ngay kéo trứng bị mất nhiệt. Phòng soi

trứng bảo đảm vệ sinh, ấm và tuyệt đối không bật quạt máy.

Page 173: Chăn nuôi gia cầm

173

Phôi phát triển tốt có màu đen phủ kín 2/3 vỏ trứng, hệ thống

mạch máu phát triển hình mạng nhện, đỏ tươi, buồng khí rộng, rìa

gọn. Quan sát thấy phôi di động mạnh.

Đặc điểm để nhận biết phôi đã chết trong giai đoạn 11 ngày ấp,

đó là phôi không chuyển động, trứng có màu nâu sẫm, sờ vỏ trứng

lạnh, buồng khí hẹp, ranh giới buồng khí không rõ. Phôi nhỏ trôi tự

do.

Sau khi soi hết một khay, kiểm đếm số trứng chết phôi tính

số trứng phôi sống, xếp lại và đặt vào máy ấp.

- Soi trứng kiểm tra sự phát triển của phôi sau 19 ngày ấp

Đây là lần kiểm tra sinh học lần thứ 3 trước lúc gà bắt đầu mổ

mỏ. Đặc điểm của phôi phát triển trong giai đoạn này có thể chia làm

4 loại.

Loại thứ nhất: Gồm những trứng khi soi thấy màng niệu nang

phát triển, buồng khí lớn, đầu nhọn trứng tối sẫm, thấy rõ cổ gà con

ngọ nguậy. Đây là loại tốt nhất, phôi phát triển hoàn chỉnh, trứng có

khả năng nở tốt và sớm.

Loại thứ hai: Gồm những trứng khi soi thấy màng niệu nang

đã tiếp giáp với buồng khí, đầu nhọn của trứng tối sẫm, nhưng đầu

gà con chưa nhô lên buồng khí. Những trứng có phôi phát triển như

vậy là bình thường nhưng nở chậm hơn loại thứ nhất.

Loại thứ ba: Đầu nhọn của trứng còn có vùng sáng do màng

niệu chưa phủ kín vỏ trứng và lòng trắng chưa tiêu hết. Loại trứng

này phôi phát triển yếu (không bình thường), gây tỷ lệ chết và nở

kém, gà mổ vỏ nhưng không nở được (gọi là chết tắc), khi nở ra túi

lòng đỏ không được hấp thu hết vào xoang bụng.

Loại thứ 4: Gồm những trứng có phôi phát triển không hoàn

chỉnh. Đầu nhọn còn sáng, đầu phôi chưa nhô lên buồng khí, buồng

khí nhỏ. Gà không nở hoặc nở chậm, rải rác, kéo dài. Gà nở được

chất lượng cũng kém, gà xấu và yếu.

Kết thúc 21 ngày ấp, gà nở hết trừ những trứng tắc. Gà con

Page 174: Chăn nuôi gia cầm

174

được chọn lọc, phân loại: gà nở tập trung, đều, gà khoẻ (loại I); gà

xấu, yếu (loại II); gà bị khuyết tật (loại III); gà nở ra bị chết, hoặc

mổ vỏ nhưng không nở được... Tiến hành đếm từng loại gà và tính tỷ

lệ, cân khối lượng gà 1 ngày tuổi.

2). Kiểm tra sự giảm khối lượng trứng.

Trong quá trình ấp, đồng thời với soi trứng, cân kiểm tra khối

lượng trứng và tính ra tỷ lệ giảm khối lượng trứng qua các giai đoạn

ấp trứng. Khối lượng trứng giảm quá nhiều hoặc quá ít so với tiêu

chẩn đều ảnh hưởng đến sự nở của gà và cần được kiểm tra, điều

chỉnh chế độ ấp trứng kịp thời.

3). Giải phẫu phôi chết.

Phôi chết trong quá trình ấp cần được giải phẫu kiểm tra.

Phôi chết giai đoạn nào để lại đặc trưng về giải phẫu ở giai đoạn đó.

Từ kết quả giải phẫu phôi chết cho định hướng khắc phục sai sót

trong ấp trứng và điều chỉnh chế độ dinh dưỡng đàn gia cầm giống

thích hợp để có kết quả tốt hơn.

6.5. Một số nhân tố ảnh hƣởng đến tỷ lệ ấp nở

6.5.1. Nguyên nhân di truyền.

Tỷ lệ nở cũng do một vài gen chi phối. Ngoài ra các điều kiện

môi trường có ảnh hưởng quyết định. Khối lượng của quả trứng ảnh

hưởng gián tiếp đến tỷ lệ nở, tỷ lệ giữa lòng đỏ và lòng trắng, khuyết

tật về cấu tạo của quả trứng cũng có một ảnh hưởng như vậy. Mối

tương quan giữa độ dày và độ xốp của vỏ trứng với tỷ lệ nở đã được

xác định.

Các yếu tố gây chết và nửa gây chết có tầm quan trọng lớn,

ảnh hưởng của chúng biểu hiện ở chỗ gà con có thể không nở ra

được hoặc chết trong giai đoạn phát triển đầu của phôi. Điều này làm

khó khăn cho việc tìm ra nguyên nhân của sự chết. Phần lớn các yếu

Page 175: Chăn nuôi gia cầm

175

tố gây chết di truyền dưới dạng lặn, được thể hiện trong giao phối

cận huyết.

6.5.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ

Trong các máy ấp lớn, nhiệt độ thường nằm trong khoảng 37

- 380C. Giai đoạn đầu 6 -7 ngày sau khi ấp cần nhiệt độ khoảng 37,8

- 380C. Nhiệt độ này làm phôi phát triển nhanh, do làm tăng tiêu hoá

thức ăn trong trứng của phôi, niệu nang khép kín sớm. Nước trong

trứng bốc hơi nhanh, tạo khoảng trống niệu nang để chứa nước nội

sinh (nước tạo ra trong quá trình trao đổi chất). Do đó kích thích

phôi tiêu hoá nhiều lòng trắng, lòng đỏ hơn và thải nhiều nước cặn

bã. Vào cuối chu kỳ ấp, khoang niệu nang khép kín, màng niệu nang

tiêu đi, lúc này phôi hô hấp bằng phổi.

Nếu thiếu nhiệt trong những ngày đầu ấp trứng sẽ làm giảm

sự lớn của phôi, biểu hiện phôi nhỏ, nằm gần vỏ và di động yếu,

mạch máu ở lòng đỏ phát triển kém. Làm phôi chết nhiều trong 4 - 6

ngày ấp, những trứng chết lúc này có vòng máu nhỏ, nhạt.

Nếu thiếu nhiệt kéo dưới 370C gà nở bị nặng bụng, thường bị

ỉa chảy sau này. Sau khi nở mặt trong của vỏ trứng có màu nâu ngà

hoặc hồng nhạt. Khi trứng ấp phải chịu nhiệt độ quá thấp dưới 35 -

360C kéo dài trong nhiều thời điểm ấp thì túi lòng đỏ không co vào

được xoang bụng, gà nở bị hở rốn.

6.2.3. Ảnh hưởng của ẩm độ

Phần lớn trong thời gian ấp, độ bay hơi nước từ trứng phụ thuộc

trực tiếp vào ẩm độ tương đối của máy ấp. Nếu ẩm độ máy tăng thì

lượng nước bay hơi từ trứng giảm và ngược lại.

Trong những ngày đầu ấp trứng, cần làm giảm bay hơi nước

trong trứng để các chất dinh dưỡng của lòng trắng và lòng đỏ dễ hoà

tan, cung cấp cho phôi phát triển và làm giảm tỷ lệ chết phôi. Vì vậy

ẩm độ tương đối trong máy phải duy trì ở mức quy định, để giảm độ

bay hơi nước trong trứng, giữ nhiệt.

Page 176: Chăn nuôi gia cầm

176

Sau 10 ngày ấp lượng nước trong trứng bớt dần, cho nên ẩm

độ tương đối trong máy cao hơn, chỉ đủ để bay hơi nước nội sinh.

Vào cuối thời kỳ ấp khi chuyển sang máy nở phôi đã phát

triển hoàn toàn thành gà con, trong trứng cần đủ độ ẩm để cho gà

con dễ nở. Cho nên độ ẩm tương đối trong máy cao hơn so với các

giai đoạn ấp khác, mục đích làm giảm độ bay hơi nước trong trứng.

Nếu độ ẩm trong máy thấp hơn so với quy định sẽ làm gà chết trong

trứng. Độ ẩm trong máy nở ở giai đoạn gà con chuẩn bị nở phải đảm

bảo 75 - 80%. Nếu cao hơn mức yêu cầu, gà con nở chậm lông ướt

(bảng 5.5).

Bảng 5.5: Một số biểu hiện do ảnh hƣởng của nhiệt độ và ẩm độ

trong ấp trứng qua các giai đoạn

(Bạch Thị Thanh Dân, Nguyễn Quý Khiêm - 2002)

Giai đoạn

ấp Do nhiệt độ Do ẩm độ

6 ngày (gà)

NHIỆT ĐỘ CAO

- Tỷ lệ trứng chết có

vành máu cao.

- Phôi chết dính vào

màng vỏ.

- Trọng lượng trứng

giảm nhiều.

- Phôi phát triển nhanh

ẨM ĐỘ THẤP

- Tỷ lệ trứng chết phôi có

vành máu cao.

- Phôi chết dính vào

màng vỏ.

- Trọng lượng trứng giảm

rõ rệt.

- Buồng khí quá lớn.

11 ngày

- Túi niệu phát triển

nhanh.

Màng niệu khép kín sớm

trước thời hạn.

- Túi niệu khép kín trước

thời hạn.

19 ngày

- Hao hụt trọng lượng

quá lớn, buồng khí rộng.

- Gia cầm mổ vỏ sớm, lỗ

- Hao hụt trọng lượng lớn

buồng khí rộng hơn 1/3

dung tích trứng.

Page 177: Chăn nuôi gia cầm

177

thủng vỏ nhỏ, mổ vỏ

nhiều ở đầu nhọn của

trứng.

- Tỷ lệ chết phôi cao

- Tỷ lệ chết phôi cao.

21 ngày

- Gia cầm nở ra hở rốn

nhiều.

- Trọng lượng gia cầm

nở không đồng đều, nhẹ.

- Nhiều gia cầm con lòng

đỏ không tiêu thụ hết,

khô chân chậm chạp, khó

nuôi.

6 ngày

NHIỆT ĐỘ THẤP

- Hao hụt trọng lượng ít,

buồng khí nhỏ.

- Tỷ lệ chết phôi cao.

- Phôi phát triển chậm,

mạch máu mờ nhạt, khó

nhìn thấy.

- Hình thành các vành

mạch máu chậm.

ẨM ĐỘ CAO

- Hao hụt trọng lượng ít.

- Buồng khí nhỏ

- Phôi phát triển yếu,

chậm

11 ngày

- Tỷ lệ trứng có màng

niệu chưa khép kín cao.

- Phôi chậm phát triển

- Niệu nang chậm phát

triển.

- Dinh dưỡng hấp thụ

kém, rối loạn trao đổi

chất, phôi chậm phát

triển.

21 ngày

- Gia cầm nở chậm,

muộn, thời gian nở kéo

dài.

- Tỷ lệ chết phôi cao.

- Mổ vỏ nhiều nhưng

không đẩy vỏ ra ngoài

được, hay mổ vỏ nhưng

máu đông đọng xung

- Gia cầm nở chậm, vỏ

trứng bẩn.

- Tỷ lệ gia cầm yếu nhiều

nặng bụng, hở rốn.

- Tỷ lệ chết cao.

Page 178: Chăn nuôi gia cầm

178

quanh chỗ mổ.

- Gia cầm nở ra nặng

bụng, chậm chạm, hở

rốn.

6.2.4. Ảnh hưởng của độ thông thoáng

Độ thông thoáng là tốc độ hút không khí sạch ở ngoài vào và

tốc độ đẩy không khí bẩn, khí nóng trong máy ra ngoài. Đảm bảo

thông thoáng khí là đảm bảo cung cấp lượng oxy cần thiết cho phôi

hô hấp và phát triển, đồng thời loại khí độc ra ngoài, đảm bảo lượng

CO2 không quá 0,2% trong máy.

Nếu nồng độ khí CO2 vượt cao, nồng độ khí oxy giảm có thể

làm cho phôi chết hàng loạt. Dấu hiệu phôi chết ngạt thường thấy ở

phôi của trứng được ấp sau 9 - 12 ngày và một số nguyên nhân khác

như trứng bị bẩn lấp hết lỗ thông khí trên mặt vỏ trứng. Để đảm bảo

độ thoáng khí, thì những hệ thống quạt hút, quạt đẩy phải làm việc

liên tục chạy đủ tốc độ.

6.2.5. Ảnh hưởng của đảo trứng

Trứng xếp vào khay ấp ở ngày đầu phải để đầu to chứa buồng

khí lên trên, đầu nhọn xuống dưới. Nếu xếp ngược lại, tuy phôi phát

triển bình thường, nhưng vào ngày cuối chu kỳ ấp đầu phôi gà ở phía

đầu nhọn không có buồng khí sẽ không có không khí thở. Có thể đặt

trứng nghiêng 450 sẽ không ảnh hưởng đến sự ấp nở. Nếu đảm bảo

đầu to lên trước khi sang máy nở thì trứng không phải xếp như trên

mà đặt trứng nằm ngang. Vì lúc này gà con đã ngóc đầu lên buồng

khí.

Trứng trong khay ấp phải được đảo nghiêng 2 chiều theo chu

kỳ 1 - 2 giờ/1 lần. Trong những ngày ấp đầu tiên nếu không đảo

trứng phôi sẽ bị lòng đỏ ép vào vỏ, sự phát triển sẽ bị ngừng lại và

phôi bị chết. Khi soi trứng sẽ thấy một vết đen dính vào vỏ.

Page 179: Chăn nuôi gia cầm

179

6.2.6. Ảnh hưởng của khối lượng trứng

Khối lượng trứng ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ ấp nở và tỷ lệ gà

con loại I. (Theo Bùi đức Lũng, Nguyễn Thị San 1993).

Bảng 5.6: Kết quả ấp nở theo mức khối lƣợng khác nhau

Khoảng khối

lƣợng trứng

(g)

Tỷ lệ ấp nở

%

Tỷ lệ gà loại

I (%)

Khối lƣợng

gà con 1 ngày

tuổi

44 - 48

49 - 52

53 - 56

57 - 60

61 - 64

65 - 70

63,0

74,0

81,0

86,1

86,5

76,7

61,0

73,0

80,7

85,1

85,7

74,7

30,2

34,1

36,4

39

40,9

44,9

Trứng nở cao và tỷ lệ gà con loại I cao nhất ở khoảng khối lượng

trứng từ 53 - 65g.

6.2.7. Ảnh hưởng của thời gian bảo quản và phương thức bảo

quản.

Kết quả ấp nở không những chịu ảnh hưởng của thời gian bảo

quản mà còn phụ thuộc vào phương thức bảo quản trứng ấp (Nguyễn

Quí Khiêm và CTV -2001) Bảng 5.7).

Page 180: Chăn nuôi gia cầm

180

Bảng 5.7: Kết quả ấp nở ở hai phƣơng thức qua các thời gian

khác nhau

Chỉ tiêu

theo dõi

Bảo quản kho lạnh

3

ngày

6

ngày

9

ngày

12

ngày

Tổng số trứng ấp

Tỷ lệ phôi

Tỷ lệ chết phôi

Tỷ lệ chết tắc

Tỷ lệ nở/tổng

Tỷ lệ nở/phôi

948

96,62

6,96

5,17

84,49

87,45

1030

95,63

8,16

6,12

81,36

85,08

1040

95,38

11,44

7,98

75,96

79,64

1040

95,67

13,27

11,92

70,48

73,67

Chỉ tiêu

theo dõi

Bảo quản môi trƣờng

tự nhiên

3

ngày

6

ngày

9

ngày

12

ngày

Tổng số trứng ấp

Tỷ lệ phôi

Tỷ lệ chết phôi

Tỷ lệ chết tắc

Tỷ lệ nở/tổng

Tỷ lệ nở/phôi

875

96,00

6,17

4,91

84,91

88,45

957

96,45

9,09

7,21

80,15

83,10

960

95,83

12,71

12,81

70,42

73,48

960

96,25

22,19

15,63

58,44

60,71

Thời gian bảo quản càng dài thì kết quả ấp nở càng giảm ở cả

hai phương thức bảo quản. Trong điều kiện vụ thu đông thì trứng có

thể kéo dài đến 6 ngày, để trứng lâu hơn thì phải bảo quản lạnh, nếu

nhiệt độ môi trường cao hơn thì thời gian bảo quản phải ngắn hơn.

Ngoài ra sự thiếu một số vitamin và khoáng trong trứng (chính là

thiếu chúng trong thức ăn cho gà đẻ trứng) cũng ảnh hưởng lớn đến

Page 181: Chăn nuôi gia cầm

181

sự phát triển phôi, quá trình ấp nở và chất lượng của gà con.

6.6. Một số bệnh lý thƣờng gặp ở ấp trứng bằng máy

1). Ấp trứng đã bảo quản lâu ngày

Phôi của trứng ấp đã qua bảo quản lâu ngày phát triển chậm,

muộn, gà nở chậm. Nhiều gà con đã mổ được vỏ nhưng không nở

được, kéo dài thời gian nở, nở rải rác. Gà con nở ra dính bết và bẩn

do lòng trắng chưa tiêu thụ hết, gà con yếu, nặng bụng, tỷ lệ nuôi

sống thấp.

2). Bệnh chân, cánh ngắn

Phôi bị biến dạng, do sự phát triển sụn, xương của tứ chi kém.

Biểu hiện chân và cánh của phôi ngắn. Xương bàn chân cong và to.

Xương ống ngắn và cong, đầu to, xương hàm và mỏ dưới ngắn, mỏ

trên quặp xuống, lông không bông.

Phôi bị chết sớm, đôi khi cơ thể sưng mọng. Nguyên nhân do

thiếu dinh dưỡng trong trứng chính là do đàn gà sinh sản ăn thức ăn

không cân đối, không đầy đủ chất đạm, chất khoáng vitamin.

3). Bệnh khèo chân

Các khớp xương nối đùi với xương ống chân và bàn chân bị

sưng, gân bị trượt khỏi khớp. Làm cho chân gà khoeo về một phía,

gà không đi lại được hoặc đi bằng khuỷu chân. Nguyên nhân do

thiếu chất khoáng trong thức ăn cho gà.

4). Bệnh động kinh

Gà con vừa nở ra cử động hỗn loạn, gà ngả đầu về phía lưng,

mặt ngửa lên trời, xoay quanh hình tròn, hoặc đầu gục vào bụng.

Thần kinh không điều khiển được quá trình vận động. Gà không ăn

uống được, kiệt sức và chết ngay trong 1 - 2 ngày đầu. Nguyên nhân

của bệnh là thức ăn cho gà bố mẹ thiếu vitamin và chất khoáng.

5). Bệnh dính bết khi nở

Bệnh xảy ra khi gà bắt đầu mổ vỏ. Lỗ vỏ trứng gà vừa mổ

tràn ra một chất lỏng dính màu vàng và khô rất nhanh, làm bịt kín

mũi và mỏ của gà con làm gà chết ngạt, cũng có thể làm lông dính

Page 182: Chăn nuôi gia cầm

182

bết. Có khi dính cả vỏ trứng gà không cử động được. Nguyên nhân

là thức ăn cho bà bố mẹ thiếu vitamin, thừa chất đạm.

Ngoài ra gà con mới nở cũng có thể bị bệnh hở rốn, lông xoăn

tỷ lệ chết cao...

NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

1. Cấu tạo bộ máy sinh dục gà mái và quá trình hình thành trứng

ở gia cầm.

2. Thời gian ấp trứng ở các loại gia cầm. Sự phát triển phôi gia

cầm và các điều kiện cần thiết cho sự phát triển phôi gia cầm.

3. Quy trính ấp trứng nhân tạo bằng máy ấp tự chế và quy trình

ấp trứng bằng máy ấp công nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng

đến tỷ lệ ấp nở.

4. Kỹ thuật kiểm tra sinh vật học trứng trong quá trình ấp.

Page 183: Chăn nuôi gia cầm

183

CHƢƠNG 6

THỨC ĂN VÀ DINH DƢỠNG GIA CẦM

Thức ăn có ý nghĩa quyết định đến giá thành sản phẩm chăn

nuôi. Gia cầm với cường độ trao đổi chất mạnh, nhu cầu về dinh

dưỡng cao, nhưng dung tích đường tiêu hoá nhỏ nên cần khẩu phần

ăn có hàm lượng năng lượng cao, hàm lượng protein cao. Vì vậy

nguồn thức ăn dùng trong chăn nuôi gia cầm chủ yếu là hạt ngũ cốc,

hạt của cây bộ đậu và thức ăn giầu protein. Các loại thức ăn này giá

cao và có sự tranh chấp với người. Đây chính là yêu cầu đặt ra khi

chọn nguồn thức ăn cho khẩu phần chăn nuôi gia cầm, để đảm bảo

hiệu quả kinh tế cao. Tiêu hoá ở gia cầm có sai khác chút ít so với

các đối tượng vật nuôi khác cũng cần nắm vững để vận dụng trong

nuôi dưỡng cho hợp lý.

6.1. Nguồn thức ăn trong chăn nuôi gia cầm

Nguồn thức ăn trong chăn nuôi gia cầm chủ yếu là hạt ngũ cốc

(ngô, lúa, gạo, lúa mỳ) bột sắn, hạt bộ đậu (đậu tương, đậu đỏ...),

thức ăn giàu protein (bột cá, bột tôm...) và các phụ phẩm từ các loại

thức ăn trên. Dưới đây là một số đặc điểm chính về khả năng sản

xuất và giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn này.

6.2.1. Cây ngô.

Ngô là cây lương thực quan trọng trên thế giới bên cạnh cây

lúa mì và lúa nước. Ngô là nguồn nguyên liệu chính cho sản xuất

thức ăn chăn nuôi: 50-70% thức ăn hỗn hợp cho vật nuôi là từ ngô

hạt. Năm 2004, theo FAO diện tích ngô thế giới là 147,2 triệu hecta,

sản lượng 721,34 triệu tấn. Mỹ là nước có sản lượng ngô cao nhất

thế giới: 229,92 triệu tấn (chiếm 41,6% của thế giới), năng suất cũng

cao: 100,7 tạ/Ha. Châu Á có 184,7 triệu tấn (chiếm 25% sản lượng

của thế giới), trong đó Trung Quốc cao nhất: 13,6 triệu tấn (sau Mỹ),

Page 184: Chăn nuôi gia cầm

184

tiếp đến Ấn Độ, Inđônêsia. Năng suất ngô cao nhất thế giới là tại

Jordani 232,6 tạ/Ha, Israel 120-140 tạ/Ha, Newzealand 113 tạ/Ha,

Mỹ 100,7 tạ/Ha.

Việt Nam, năm 2004, diện tích ngô cả nước 990,4 nghìn Ha,

sản lượng 3,45 triệu tấn. Tỉnh có sản lượng ngô cao là Đắc Lắc:

402,7 nghìn tấn; Thanh Hóa: 245,9; Sơn La: 219,1nghìn tấn. Giá trị

dinh dưỡng của ngô và các loại thức ăn chính trên bảng 6.1.

6.2.2. Cây lúa gạo.

Lúa gạo là cây trồng chính của các nước Đông Nam Á.. Trên

toàn thế giới, lúa gạo đướng thứ hai về diện tích (sau lúa mỳ), thứ

hai về sản lượng (sau ngô). Châu Á sản xuất lúa gạo hàng đầu thế

giới. Năm 2004, diện tích lúa 135,75 triệu Ha, sản lượng 546,5 triệu

tấn (chiếm 90% sản lượng lúa gạo thế giới). Trong đó Trung Quốc

đứng đầu thế giới về sản lượng: 177,43 triệu tấn, tiếp đến Ấn Độ

(129,0 triệu tấn). Các nước đông Nam Á: Indonesia 54,1 triệu tấn,

Việt Nam 36,2 triệu tấn, Thái Lan 26,95 triệu tấn. Năng suất lúa cao

nhất là Australia (82,3 tạ/Ha) Mỹ (77,8 tạ/Ha), Tây Ban Nha (74,1

tạ/Ha), Nhật (64,2 tạ/Ha). Việt Nam năng suất lúa cao của cả khu

vực (48,5 tạ/Ha), Indonesia 45,4 tạ/Ha, Thái Lan 27,5 tạ/Ha.

Việt Nam, lúa sản xuất trong cả nước, nhưng tập trung ở đồng

bằng sông Của Long và sông Hồng. Năm 2004 diên tích lúa 7,44

triệu Ha, sản lượng 36,2 triệu tấn ( theo FAO, 2005).

6.2.3. Cây sắn.

Sắn là cây màu quan trọng, có ý nghĩa trong chăn nuôi. Năm

2004 diện tích sắn toàn thế giới là 18,51 triệu Ha, sản lượng 202,65

triệu tấn. Sắn nhiều nhất là Châu Phi, Châu Á chỉ 3,52 triệu Ha, sản

lượng 58,92 triệu tấn chiếm 29,1% sản thế giới) (theo FAO,2005).

Việt Nam, năm 2004 có 383,6 nghìn Ha sắn, sản lượng 5,69

triệu tấn, năng suất cao nhất là 200-224 tạ/Ha ở miền Đông Nam bộ.

6.2.4. Cây đậu tương.

Page 185: Chăn nuôi gia cầm

185

Trên thế giới, đậu tương đướng sau lúa mỳ, lúa nước và ngô, là cây

thích ứng rộng và có ở khắp các vùng. Năm 2004, diên tích đậu

tương thế giới là 91,44 triệu Ha, sản lượng 204,7 triệu tấn. Châu Á

đứng thứ hai (sau Châu Mỹ) về sản xuất đậu tương: 18,81 triệu Ha

(20,6% của thế giới), sản lượng 25,52 triệu tấn ( 12,5% toàn cầu).

Việt Nam, năm 2004 có 182,5 nghìn Ha, sản lượng 16,8 nghìn

tấn đậu tương. Tỉnh sản xuất nhiều là Hà Tây, Hà Giang, Đắc Nông,

Sơn La.

Phân tích thành phần hóa học của hạt 17 giống ngô, 13 giống lúa

(13 loại cám gạo của các giống lúa này), củ sắn khô cả vỏ của 12

giống sắn, hạt của 12 giống đậu tương đang được trồng chủ yếu ở

các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc, Phạm Thị Hiền Lương (2005)

đã công bố kết quả trên bảng 6.1, và các axít amin chủ yếu trên bảng

6.2.

Các kết quả nhận được cho thấy có sự sai khác đáng kể về thành

phần hóa học và giá trị dinh dưỡng giữa các giống cây trồng cùng

loại. Đáng quan tâm là các axít amin thiết yếu quan trọng là lysine,

methionine… trong hầu hết các loại thức ăn hiện có (trừ hạt đậu

tương) đều thấp. Vì vậy khi sử dụng làm thức ăn chăn nuôi cần chú

ý phối hợp nhiều nguồn nguyên liệu hoặc phải bổ sung chế phẩm các

axit amin tổng hợp để đảm bảo sự cân bằng dinh dưỡng cho gia cầm.

Bảng 6.1: Thành phần hóa học của một số nguyên liệu chính

làm thức ăn cho gia súc, gia cầm (%)

Loại

nguyên

liệu

Protein

thô

Lipit

thô

Dẫn

xuất

không

đạm

Khoáng

tổng số

Năng

lƣợng

trao đổi

(Kcal)

Ngô hạt 9,17-

11,57

3,42-

9,85

72,8-

84,14

1,25-

2,99

3236-

3457

Page 186: Chăn nuôi gia cầm

186

Cám gạo 6,89-13,7 6,07-

22,6

39,98-

64,65

6,08-

12,42

2245-

2802

Sắn củ

khô cả

vỏ

1,93-4,13 0,15-

1,46

89,87-

92,59

1,03-

3,07

3112-

4030

Đậu

tương hạt

38,64-

48,44

14,47-

22,48

20-

38,70

4,49-

6,42

3738-

4030

Bảng 6. 2: Hàm lƣợng các axít amin có trong các loại

thức ăn chính

Axít amin Hàm

lƣợng

Ngô

hạt

Cám

gạo

Sắn củ

khô

Đậu

tƣơng

Aspartic % trong

Pr.

g/Kg

5,30-

8,46

5,14-

8,06

5,79-

9,37

6,80-

10,20

3,26-

8,54

0,88-

2,86

8,60-

13,50

38,34-

49,70

Threonine % trong

Pr.

g/Kg

2,26-

3,62

1,95-

3,42

2,75-

3,76

3,03-

4,10

1,63-

3,52

0,44-

0,68

2,80-

4,22

10,50-

18,81

Serine % trong

Pr.

g/Kg

2,50-

4,66

2,07-

4,44

2,84-

4,95

3,26-

6,52

1,81-

5,22

0,64-

1,74

3,92-

6,45

16,79-

24,18

A.Glutamic % trong

Pr.

g/Kg

9,38-

23,41

7,85-

22,31

10,80-

12,12

12,39-

14,24

12,14-

23,85

2,50-

6,33

10,16-

17,75

39,45-

79,13

Proline % trong

Pr.

3,70-

10,48

3,78-

9,18

1,24-

9,19

3,03-

8,65

Page 187: Chăn nuôi gia cầm

187

g/Kg 3,61-

9,05

4,16-

10,53

0,34-

3,08

11,77-

37,05

Glycine % trong

Pr.

g/Kg

1,68-

4,11

1,64-

3,44

2,86-

4,12

3,11-

8,77

1,22-

4,77

0,41-

0,92

3,35-

4,16

14,34-

15,60

Alanine % trong

Pr.

g/Kg

1,98-

8,11

1,92-

7,73

3,73-

8,77

4,38-

9,66

3,37-

7,68

1,00-

2,85

3,48-

4,43

14,19-

16,32

Cystine % trong

Pr.

g/Kg

1,20-

5,12

0,80-

4,97

1,14-

2,12

1,34-

2,80

0,69-

11,26

0,24-

4,18

1,66-

2,90

6,68-

11,20

Valine % trong

Pr.

g/Kg

2,36-

6,12

2,06-

5,78

3,44-

6,57

3,95-

8,66

0,99-

5,58

0,33-

2,07

3,77-

6,55

16,14-

25,43

Methionine % trong

Pr.

g/Kg

0,17-

1,76

0,14-

1,71

0,57-

1,40

0,63-

1,52

0,28-

1,35

0,08-

0,26

0,94-

1,88

3,65-

6,93

Isoleucin % trong

Pr.

g/Kg

2,38-

4,48

2,06-

4,27

2,30-

4,03

2,64-

4,74

0,48-

3,00

0,16-

0,88

3,75-

5,04

15,29-

19,84

Leucine % trong

Pr.

g/Kg

11,87-

14,51

9,81-

13,83

4,33-

6,80

4,97-

7,99

0,72-

6,17

0,24-

1,19

6,66-

7,98

27,13-

29,92

Tyrosine % trong 1,99- 1,16- 0,75- 2,40-

Page 188: Chăn nuôi gia cầm

188

Pr.

g/Kg

2,97

1,76-

2,48

3,86

1,28-

4,20

3,47

0,27-

1,29

3,72

9,32-

15,94

Phenylalanine % trong

Pr.

g/Kg

3,17-

6,16

2,76-

5,09

2,40-

5,37

2,75-

5,92

0,63-

11,50

0,21-

3,36

3,65-

5,59

15,61-

22,00

Histidine % trong

Pr.

g/Kg

1,86-

4,30

1,77-

3,55

1,78-

3,37

2,09-

3,87

0,95-

2,45

0,35-

0,82

0,69-

2,51

3,08-

9,75

Lysine % trong

Pr.

g/Kg

2,19-

3,39

1,87-

2,96

1,93-

4,64

2,21-

6,12

2,00-

4,92

0,67-

0,95

3,70-

5,55

16,52-

21,55

Arginine % trong

Pr.

g/Kg

2,96-

4,96

2,58-

4,81

4,43-

6,73

4,82-

8,87

1,37-

7,08

0,51-

1,07

6,28-

8,42

23,13-

37,53

Tổng số % trong

Pr.

g/Kg

79,23-

94,53

71,12-

90,06

66,09-

81,76

75,81-

107,52

59,37-

82,24

19,88-

33,10

80,66-

88,31

329,18 -

325,24

6.1.5. Một số loại thức ăn giàu protein sử dụng trong chăn nuôi

Ngoài các thức ăn kể trên, nhiều loại thức ăn sẵn có ở các địa

phương được khai thác, sử dụng làm thức ăn gia súc gia cầm như là

một nguồn thức ăn giàu đạm. Kết quả nghiên cứu của Ngô Hữu

Toàn (2005) tại miền trung về thành phần hóa học và giá trị dinh

dưỡng thể hiện trên bảng 6.3 và 6.4.

Page 189: Chăn nuôi gia cầm

189

Bảng 6. 3 :Thành phần hóa học của một số nguyên liệu giàu đạm

làm thức ăn cho gia súc, gia cầm (%)

Loại nguyên

liệu

Protein

thô

Lipit

thô

thô

Khoáng

tổng số

Năng

lƣợng

thô

(MJ/kg )

Bột cá nục 60,56 5,10 1,05 16,03 19,56

Bột đầu tôm 36,44 2,91 18,31 22,40 14,51

Bột đậu nành 38,39 16,59 5,07 5,75 22,47

Khô dầu lạc 41,80 7,58 9,89 4,32 20,74

Bảng 6. 4: Hàm lƣợng các axít amin có trong các loại thức ăn

giàu đạm

Axít amin Hàm

lƣợng

Bột cá

nục

Bột

đầu

tôm

Bột đậu

nành

Khô

dầu lạc

Aspartic % trong

Pr.

% trong

TA

9,14

5,54

8,54

3,11

10,62

4,08

9,96

4,16

Threonine % trong

Pr.

% trong

TA

3,96

2,40

3,29

1,20

3,16

1,21

2,42

1,01

Serine % trong

Pr.

% trong

TA

4,11

2,49

4,08

1,48

4,64

1,78

5,57

2,33

A.Glutamic % trong

Pr.

% trong

13,66

8,27

11,12

4.05

16,30

6,26

8,80

7,86

Page 190: Chăn nuôi gia cầm

190

TA

Proline % trong

Pr.

% trong

TA

0,94

0,57

1,13

0,41

0,19

0,07

1,82

1,91

Glycine % trong

Pr.

% trong

TA

5,40

3,27

4,30

1,57

3,12

1,20

4,99

2,09

Alanine % trong

Pr.

% trong

TA

6,28

3,80

11,39

4,15

3,90

1,50

3,84

1,61

Valine % trong

Pr.

% trong

TA

5,18

3,14

4,65

1,69

4,42

1,70

4,12

1,72

Methionine % trong

Pr. %

trong

TA

1,99

1,20

1,55

0,56

1.09

0,42

1,21

0,51

Isoleucin % trong

Pr.

% trong

TA

4,84

2,93

3,67

1,34

4,48

1,72

3,73

1,56

Leucine % trong

Pr.

% trong

TA

7,80

4,72

5,10

1,86

7,15

2,74

6,77

2,83

Tyrosine % trong

Pr.

% trong

TA

3,61

2,19

4,15

1,51

3,64

1,40

3,62

1,51

Page 191: Chăn nuôi gia cầm

191

Phenylalanine % trong

Pr.

% trong

TA

4,44

2,69

4,77

1,74

5,14

1,97

5,32

2,22

Histidine % trong

Pr.

% trong

TA

3,08

1,86

1,61

0,58

2,45

0,94

2,14

0,89

Lysine % trong

Pr.

% trong

TA

6,42

3,88

3,63

1,32

4,84

1,86

3,29

1,37

Arginine % trong

Pr.

% trong

TA

6,81

4,12

5,71

2,08

6,53

2,50

10,88

4,55

Tổng số % trong

Pr.

% trong

TA

96,69

58,58

83,29

30,30

88,97

34,16

93,88

39,12

Mỗi loại thức ăn còn có những đặc điểm riêng, thậm chí có

chứa các chất có ảnh hưởng đến tiêu hóa, hấp thu ở từng đối tượng

gia súc, gia cầm. Vì vậy cần nghiên cứu nắm vững để có cách chế

biến sử dụng thích hợp. Các loại thức ăn đáp ứng các yêu cầu của

gia cầm về năng lượng, protein, mỡ, khoáng, vitamin, chất kích thích

sinh học; theo độ tuổi, khả năng sinh trưởng và sức đẻ trứng của

từng đối tượng gia cầm nuôi. Vai trò sinh học của từng yếu tố dinh

dưỡng: nước, protein, lipit, xơ, khoáng, vitamin…; nguồn cung cấp

các yếu tố dinh dưỡng này xem thêm trong các giáo trình dinh

dưỡng và thức ăn chăn nuôi.

Page 192: Chăn nuôi gia cầm

192

6.4. Nhu cầu dinh dƣỡng của gia cầm

6.4.1. Năng lượng trong thức ăn và nhu cầu năng lượng của gà

6.4.1.1. Các dạng năng lượng của thức ăn gia cầm. Tỷ lệ giữa các

dạng năng lượng của thức ăn được thể hiện qua hình 6.2.

Hình 6. 2: Sơ đồ các dạng năng lƣợng trong thức ăn gia cầm

(Smith, 1993)

Năng lượng là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh

giá giá trị dinh dưỡng của thức ăn.

Năng lượng toả nhiệt tuỳ thuộc vào môi trường nuôi dưỡng,

thành phần dinh dưỡng của khẩu phần và trạng thái, chức năng sinh

lý của cơ thể (Vũ Duy Giảng, 1996).

Năng lƣợng thô (18,0 KJ/g)

(Gross enery - GE)

Năng lƣợng trong phân

(4,0 KJ/g) (Faeces energy -

FE)

Năng lƣợng tiêu hoá (14,0

KJ/g) (Digestble energy -

DE)

Năng lƣợng trong nƣớc tiểu

(1,0 KJ/g) (Urine energy -

UE)

Năng lƣợng trao đổi

(13,0 J/g) (Metabolizable

energy - ME)

Năng lƣợng tỏa nhiệt (2,0-6,0

KJ/g) (Heat Inreament - HI) Năng lƣợng thuần (7,0-11,0

KJ/g) (Net energy - NE)

Năng lƣợng

cho duy trì

Năng lƣợng

cho sản xuất

Page 193: Chăn nuôi gia cầm

193

Đối với gia cầm phân và nước tiểu thải ra đồng thời, vì thế

trong thực tiễn sản xuất giá trị năng lượng của thức ăn thường được

biểu thị dưới dạng năng lượng trao đổi.

Theo Krazemen, trao đổi năng lượng trong 1 ngày đêm của gà

có khối lượng sống 2,0 kg, sản lượng trứng 250 quả/năm, như sơ đồ

ở hình 6.3.

Hình 6.3: Sơ đồ các dạng năng lƣợng trong thức ăn gia cầm

(Krazemen, 1990)

6.4.1.2. Phương pháp xác định năng lượng trao đổi trong thức ăn

của gia cầm

Công thức tính năng lượng trao đổi (ME) trong thức ăn của

gia cầm:

ME = GE - (FE + UE)

Trong đó: ME là năng lượng trao đổi (Kcal/kg TĂ), GE là năng

lượng thô; FE là năng lượng trong phân; và UE là

năng lượng trong nước tiểu.

Năng lƣợng tổng số tiếp nhận

từ thức ăn 460Kcal (1,93MJ)

Năng lƣợng thải ra theo chất

bài tiết 100Kcal (0,42 MJ)

Năng lƣợng tiêu hoá

360Kcal (1,51 MJ)

Năng lƣợng thải theo nƣớc tiểu

20Kcal (0,0 84 MJ)

Năng lƣợng trao đổi

340 Kcal (1,43 MJ)

Năng lƣợng cho duy trì

210Kcal (0,88 MJ)

Năng lƣợng cho sản xuất

130Kcal (0,54MJ))

Page 194: Chăn nuôi gia cầm

194

Năng lượng thô trong thức ăn, trong phân và nước tiểu được

xác định bằng máy đo năng lượng (bomb calorimeter). Theo Nguyễn

Văn Thưởng (1992) và Vũ Duy Giảng (1996), khi đốt các chất hữu

cơ trong bomb calorimeter, năng lượng thu được: 1 gam protein thu

được 5,65 Kcal, 1 gam gluxit thu được 4,1 Kcal,1 gam mỡ thu

được 9,3 Kcal.

Có thể tính năng lượng trao đổi của thức ăn dựa vào thành

phần hoá học của chúng theo công thức:

ME = 34,76 x mỡ + 15,25 x protein thô + 16,72 x tinh bột + 11,43 x

đường

Trong đó ME (MJ/kg) và mỡ, protein thô, tinh bột và đường

tính bằng %.

Có thể xác định ME (chưa hiệu chỉnh) bằng các công thức

sau:

ME (Kcal/kg) = 4,26X1 + 9,5X2 + 4,23X3 + 4,23X4

(Bùi Văn Chính và CTV, 1995)

ME (KJ/kg) = 17,84X1 + 39,78X2 + 17,71X3 + 16,95X4

(Nguyễn Văn Thưởng, 1992)

Trong đó, X1, X2, X3, X4 lần lượt là protein tiêu hoá, mỡ tiêu

hoá, xơ tiêu hoá và dẫn xuất không đạm tiêu hoá (đơn vị tính: g/kg

thức ăn).

6.4.1.3. Nhu cầu năng lượng của gà

Để cung cấp đầy đủ, cân đối và chính xác khẩu phần ăn cho

gia cầm thì yếu tố đầu tiên là mức năng lượng thích hợp trong khẩu

phần. Năng lượng cần thiết cho việc duy trì các hoạt động, sinh

trưởng và phát triển của cơ thể. Lượng năng lượng thừa so với nhu

cầu sẽ được sử dụng không có hiệu quả và tích luỹ thành mỡ. Chi

phí năng lượng trong khẩu phần gia cầm khoảng 45-55% tổng chi

phí (Nowland, 1978). Trong khẩu phần gia cầm, nguồn năng lượng

trước hết từ carbohydrate, thứ đến là từ mỡ và cuối cùng là từ

Page 195: Chăn nuôi gia cầm

195

protein (Ewing, 1963). Năng lượng rất cần thiết cho sự sinh trưởng

của mô bào, các hoạt động và duy trì thân nhiệt. Vì thế, năng lượng

là "ngọn lửa của sự sống".

6.4.1.3.1. Nhu cầu năng lượng cho duy trì

Trong tổng số nhu cầu về năng lượng, năng lượng cho duy trì

chiếm tỷ lệ cao hơn (Singh, 1988). Năng lượng cho duy trì bao gồm

năng lượng cho các hoạt động bình thường và năng lượng cho trao

đổi cơ bản.

Nhu cầu năng lượng cho hoạt động bình thường phụ thuộc vào mức

độ hoạt động của con vật. Trong điều kiện nuôi dưỡng bình thường,

nhu cầu năng lượng cho hoạt động chiếm khoảng 50% so với nhu

cầu năng lượng cho trao đổi cơ bản (Singh, 1988). Tổng chi phí năng

lượng cho trao đổi cơ bản của gia súc lớn cao hơn so với gia súc

nhỏ, nhưng nếu tính 1 kg thể trọng thì gia súc càng nhỏ chi phí năng

lượng trao đổi cơ bản càng lớn. Nhu cầu năng lượng cho trao đổi cơ

bản /1kg thể trọng của gà cao gấp 3 lần so với bò. Năng lượng trao

đổi cơ bản gắn liền với bề mặt của cơ thể, không phụ thuộc vào loài

động vật và độ lớn của chúng mà theo một mức chuẩn là 1000

Kcal/m2 bề mặt cơ thể (McDonald, 1988). Nếu tính diện tích bề mặt

bằng dm2 thì nó sẽ bằng khối lượng (kg) với số mũ trung bình là

0,75. Khối lượng cơ thể (W) với số mũ 0,75 thành W0,75

được gọi là

khối lượng trao đổi.

Trong thực tiễn sản xuất, người ta thường tính nhu cầu năng

lượng cho 1 kg khối lượng trao đổi (W 0,75

), trị số khoảng 70 Kcal

(15%) và ít biến động giữa các loài. Đối với gà, nhu cầu ME cho

trao đổi cơ bản cho 1kg thể trọng là 72 Kcal/ngày, còn cho 1kg W0,75

là 86 Kcal/ngày (McDonald, 1988).

Singh (1988) đưa ra công thức tính nhu cầu năng lượng trao

đổi cho duy trì như sau:

Năng lượng thuần cho duy trì (NEm) = 83 x W0,75

Trong đó W là khối lượng cơ thể (kg)

Page 196: Chăn nuôi gia cầm

196

Ví dụ: một con gà nặng 1,7 kg thì nhu cầu duy trì: NEm = 83 x 1,7 x

0,75 = 126 Kcal

Năng lượng thuần cho duy trì chiếm 82% năng lượng trao đổi cho

duy trì (MEm), vậy:

MEm = 126/0,82 = 154 Kcal

Năng lượng cho hoạt động sống bình thường bằng 50% năng

lượng trao đổi cơ bản, tức là 77 Kcal.

Vây, tổng ME cho duy trì là 154 + 77 = 231 Kcal

6.4.1.3.2. Nhu cầu năng lượng cho sản xuất

* Nhu cầu năng lượng cho tăng trọng:

Theo Nguyễn Mạnh Hùng (1994), cứ 1 gam tăng trọng cần 4

Kcal, hiệu quả sử dụng năng lượng là 80%, do đó nhu cầu năng

lượng cho tăng trọng/ngày là:

MEtt = Pt x 4,0

0,8

Trong đó: MEtt - Nhu cầu ME cho tăng trọng/ngày

Pt - Số gam tăng trọng/ngày;

4,0 - Số Kcal/1g tăng trọng

0,8 - Hiệu quả sử dụng ME cho tăng trọng

Theo Bùi Đức Lũng (1995), có thể tính nhu cầu năng lượng theo

công thức:

MEtt = Pt (0,3 x 5,7 + 0,05 x 9,5)

0,82

Trong đó: MEtt - Nhu cầu ME cho tăng trọng/ngày

Pt - Số gam tăng trọng/ngày; 0,3 - % protein trong thịt; 5,7

- Số Kcal/g protein; 0,05 - % mỡ trong thịt; 9,5 - Số

Kcal/g mỡ; 0,82 - Hiệu quả sử dụng ME cho tăng trọng.

Trong thời kỳ sinh trưởng, nhu cầu năng lượng của gia cầm

rất khác nhau, không chỉ do sự thay đổi về tỷ lệ năng lượng chuyển

thành nhiệt mà còn do sự thay đổi về số lượng năng lượng được tích

Page 197: Chăn nuôi gia cầm

197

luỹ và sự phân chia năng lượng tích luỹ đó trong protein và mỡ

(MacLeod, 1990). Khi mức năng lượng ăn vào cao, khoảng 85%

năng lượng tích trong mỡ và 15% năng lượng dự trữ trong protein.

Khi mức năng lượng ăn vào thấp, một lượng mỡ cơ thể được huy

động trong khi protein được tích luỹ. Hệ số dự trữ năng lượng trong

protein và trong mỡ ước tính tương đương 0,66 và 0,86 (Boekholt và

CTV, 1994).

Sự thay đổi về việc tích luỹ năng lượng và việc sinh nhiệt của

cơ thể cho thấy rằng khi năng lượng trong khẩu phần bị thiếu, sự có

mặt của vi sinh vật đường tiêu hoá rất có lợi cho cơ thể do làm giảm

hao tổn năng lượng, ngược lại khi năng lượng khẩu phần được cung

cấp đầy đủ, hiệu quả sử dụng năng lượng giảm xuống do sự có mặt

của các vi sinh vật này. Vì vậy, có thể kết luận rằng chính vi sinh vật

đường tiêu hoá làm thay đổi quá trình trao đổi năng lượng và giảm

hiệu quả sử dụng năng lượng của gia cầm (Muramatsu và CTV,

1994).

* Nhu cầu năng lượng cho sản xuất trứng

Theo Singh (1988), nhu cầu năng lượng để sản xuất 1 quả trứng gà

Leghorn là 86 Kcal ME. Theo Nguyễn Mạnh Hùng và CTV (1994),

nhu cầu năng lượng để sản xuất 1 quả trứng là:

MEsxt = (P x 1,6)

0,8

Trong đó: P - Khối lượng của trứng (gam); 1,6 - Giá trị năng lượng

của 1 gam trứng;

0,8 - Hiệu quả sử dụng năng lượng cho sản xuất trứng

6.4.1.3.3. Nhu cầu năng lượng tổng thể

* Nhu cầu năng lượng cho gà tăng trưởng

Theo Wu và Han (1982), nhu cầu năng lượng của gà thịt là:

Page 198: Chăn nuôi gia cầm

198

(0-4 tuần tuổi) ME = 128,5 BW0,75

+ 2,5 (W)

(5-10 tuần tuổi) ME = 128,5 BW0,75

+ 3,8 (W)

Trong đó: BW là khối lượng cơ thể (kg); (W) là tăng trọng (gam).

Theo Larbier và Leelercq (1993), nhu cầu năng lượng trao đổi

cho gà broiler có thể tính theo công thức:

ME (Kcal/ngày) = 100 W0,75

+ 14,4 (Pr) + 11,0 (Lip)

Trong đó:W là khối lượng cơ thể (kg)

(Pr) là số protein tăng (g/ngày); (Lip) là số mỡ tăng (g.ngày)

Theo Hoàng Văn Tiến (1995), nhu cầu năng lượng gà thịt là:

ME = [105 + 4,6(25 - T)]Pm0,75

+ 10,4L + 14,0Pr

Trong đó: ME là số Kcal ME cần thiết/con/ngày

Pm là Khối lượng trung bình (kg)

L là lượng mỡ tích luỹ (g/ngày)

Pr là lượng protein tích luỹ (g/ngày)

T là nhiệt độ, nếu dưới 25oC

Trong trường hợp nhiệt độ cao hơn 25oC thì kết quả này sẽ

thay đổi ở độ mọc lông và lượng mỡ tích luỹ dưới da.

* Nhu cầu năng lượng cho gà đẻ trứng

Theo Nguyễn Mạnh Hùng (1994), nhu cầu năng lượng cho gà

có thể tính theo công thức: ME = 5 P + P(170 - 2,2T) + 2LE

Trong đó: ME là số Kcal ME/con/ngày; T là nhiệt độ môi trường (oC);P

là khối lượng gà (kg);

P là tăng trọng bình quân (g/ngày); L là tỷ lệ đẻ (%); E là khối lượng

trứng sản xuất ra (g).

Ví dụ, gà mái nặng 1,59 kg, tăng trọng hàng ngày 3 g, tỷ lệ đẻ 80%,

khối lượng trứng 62 g, nhiệt độ môi trường 26,7 oC, thì nhu cầu

năng lượng sẽ là:

ME = (5 x 3) + 1,59[170 - (2,2 x 26,7)] + (62 x 0,8 x 2) = 292

Kcal ME/con/ngày.

Page 199: Chăn nuôi gia cầm

199

Theo Hoàng Văn Tiến (1995), có thể tính nhu cầu năng lượng

cho gà như sau:

Gà Leghorn: ME = (170 - 2,2T)Pm + 5(P) + 2E

Gà Rhode Island: ME = (140 - 2T)Pm + 5(P) + 2E

Trong đó: ME là số Kcal ME/con/ngày

T là nhiệt độ môi trường (oC)

Pm là khối lượng gà (kg)

(P) là tăng trọng bình quân (g/ngày)

E là khối lượng trứng sản xuất ra (g/ngày)

Công thức trên không tính đến sự khác nhau giữa các cá thể

về mức độ mọc lông và các hoạt động cơ bắp khi nuôi trong lồng

hay trên nền.

6.4.2. Protein và nhu cầu protein của gà

6.4.2.1. Đặc tính chung và vai trò sinh học của protein đối với cơ thể

gia súc

Protein là thành phần cấu trúc quan trọng nhất của cơ thể gia

súc, gia cầm. Protein có những đặc tính mà các chất hữu cơ khác

không có được. Những đặc tính này bảo đảm chức năng của protein

như chất biểu hiện của sự sống. Khác với lipit và gluxit, trong cấu

trúc của protein bao giờ cũng chứa nitơ (16%). Một số protein còn

chứa lượng nhỏ lưu huỳnh (S), đôi khi có chứa phốt pho (P) và một

số các nguyên tố vi lượng khác như sắt (Fe), kẽm (Zn), đồng (Cu),

mangan (Mn), ...

Trong cơ thể động vật nói chung và cơ thể gia cầm nói riêng,

protein không thể tổng hợp từ lipit hay gluxit mà phải lấy protein từ

thức ăn đưa vào hàng ngày với số lượng đẩy đủ và theo một tỷ lệ

thích hợp theo nhu cầu của cơ thể (McDonald, 1988; Singh, 1988;

Vũ Duy Giảng và CTV, 1995).

Đối với gia cầm, protein có rất nhiều chức năng và là thành

phần chính của xương, dây chằng, lông, da, các cơ quan và cơ. Do

Page 200: Chăn nuôi gia cầm

200

protein được sử dụng cho duy trì, sinh trưởng và sản xuất nên nó

được thường xuyên đưa vào cơ thể. Nếu lượng protein ăn vào thấp

hơn nhu cầu thì độ sinh trưởng và điều kiện sống của các mô bào sẽ

bị ảnh hưởng, dẫn đến sự phát triển chậm các cơ quan cần thiết trong

cơ thể.

6.4.2.2. Nhu cầu về protein và axit amin của gà thịt

6.4.2.2.1. Nhu cầu về protein của gà thịt

Nhu cầu protein cho gà thịt bao gốm nhu cầu cho duy trì, cho tăng

trưởng và cho tổng hợp lông. Theo Singh (1988), nhu cầu protein

tổng thể cho gà thịt là:

Pr(g) = 0,0016 x KLCT(g) + (0,18 x TT(g) )+ (0,07 x KLCT x 0,82)

0,64

Trong đó: Pr(g) - Nhu cầu protein cần thiết (g/con/ngày);

KLCT - Khối lượng cơ thể (g);

TT - Tăng trọng (g/ngày);

0,0016 - Nhu cầu protein (g) cho duy trì 1 gam KLCT;

0,18 - Tỷ lệ protein trong thịt là 18%;

0,07 - Tỷ lệ lông gà so với KLCT là 7%;

0,82 - Tỷ lệ protein trong lông là 82%;

0,64 - Hiệu quả sử dụng protein của gà thịt.

Trong giai đoạn sinh trưởng, tỷ lệ protein và axit amin trong

khẩu phần của gà thịt cần được tăng lên. Nếu protein khẩu phần

giảm thì sức sinh trưởng và tích luỹ nitơ của gia cầm sẽ bị giảm mặc

dù hiệu quả sử dụng thức ăn có thể tăng (Shafey và McDonald,

1991). Do gà rất nhạy cảm với mức protein khẩu phần nên trong thời

kỳ sinh trưởng gà có thể ăn vào lượng protein tương ứng với nhu cầu

của chúng khi nuôi các khẩu phần tự chọn. (Shariatmadri và Forbes,

1993).

Page 201: Chăn nuôi gia cầm

201

6.4.2.2.2. Nhu cầu về axit amin của gà thịt

Khả năng sinh trưởng của gia cầm liên quan mật thiết với

hàm lượng các axit amin không thay thế trong khẩu phần. Nếu các

axit amin không thay thế trong khẩu phần thấp, gà sẽ giảm tốc độ

sinh trưởng và hiệu quả chuyển đổi thức ăn.Với các khẩu phần cùng

lượng axit amin không thay thế, gà sẽ có cùng lượng axit amin ăn

vào mà không phải là cùng lượng năng lượng (Skinner và CTV,

1991). Khi gà được nuôi dưỡng cùng mức axit amin không thay thế

nhưng khác nhau về axit amin thay thế và năng lượng thì gà sẽ tiêu

tốn lượng thức ăn như nhau và tích luỹ lượng protein như nhau

(Summers và CTV, 1992). Như vậy, gà có thể ăn lượng thức ăn để

thoả mãn nhu cầu axit amin không thay thế mà không phải là nhu

cầu năng lượng (Parr và Summers, 1991).

Ví dụ, tăng lysine trong khẩu phần đã làm tăng đáng kể cả

khối lượng cơ thể và hệ số chuyển đổi thức ăn (Surisdiarto và

Farrell, 1991). Nhu cầu lysine tiêu hoá được xác định là không quá

1.01% đỗi với khẩu phần cho mức tăng trọng cao nhất và không quá

1.21% đối với khẩu phần cho hiệu quả chuyển đổi thức ăn tốt nhất

(Han và Baker, 1991). Ở một báo cáo sau đó, Han và Baker (1994)

đã khẳng định rằng nhu cầu lysine tiêu hoá cho sức tăng trọng tối đa

là 0.85% đối với gà trống và 0.78% đối với gà mái. Nhu cầu lysine

cho sự hiệu quả chuyển đổi thức ăn tốt nhất có cao hơn: 0.89% đối

với con trống và 0.85% đối với con mái.

Nhu cầu tổng số axit amin chứa lưu huỳnh tăng lên cùng với

tăng mức protein trong khẩu phần (Huyghebaert và CTV, 1994).

Chất lượng của thịt được cải thiện đáng kể khi tăng protein và các

axit amin chứa lưu huỳnh (Pack và Schutte, 1995; Schutte và Pack,

1995). Tuy nhiên, lượng axit amin chứa lưu huỳnh quá cao có thể

ảnh hưởng đến sự trao đổi chất hữu cơ của xương bởi vì các axit

amin chứa lưu huỳnh có thể đóng vai trò là nguyên nhân gây bệnh

mềm xương (Frankel, 1995). Nhu cầu tổng số axit amin chứa lưu

Page 202: Chăn nuôi gia cầm

202

huỳnh từ 0.79 đến 0.86% đối với khẩu phần gà thịt và nhu cầu này

không bị ảnh hưởng bởi mức protein của khẩu phần (Kassim và

Suwanpradit, 1996).

Do nhu cầu tuyệt đối về axit amin rất biến động, phụ thuộc

vào các yếu tố giống, tính biệt, môi trường, quản lý, nuôi dưỡng, v.v.

nên xác định nhu cầu các axit amin trong khẩu phần của gà thịt dựa

vào tỷ lệ tương đối của các axit amin so với lysine, vì lysine thường

là axit amin giới hạn thứ nhất trong khẩu phần thức ăn của gà.

Cùng với các axit amin không thay thế, gia cầm cũng có nhu

cầu nitơ phi protein để tổng hợp các axit amin thay thế được. Do sự

sinh trưởng của gà đạt mức cao nhất ở những khẩu phần có tỷ lệ

protein thô cao, nên có thể cho rằng đó chỉ là nhu cầu về protein thô

thực chất. Thay vào đó, do hầu hết các khẩu phần đều chứa một

lượng nhất định các axit amin tổng hợp được nên gà thịt có thể có

nhu cầu các axit amin trong mạch peptid mà các axit amin tự do

không thể đảm bảo được (Surisdiarto and Farrell, 1991).

Bảng 6.1: Nhu cầu axit amin không thay thế cho gà thịt

(Larbier và Leelercq, 1992)

Axit amin Duy trì

(mg/kgP/ngày)

Tăng trƣởng

(g/100g TT)

Lyzin 82 1,49

Methionin 36 0,70

Cystin 24 0,46

Isolơxin 58 0,27

Tryptophan 10 0,27

Threonin 86 0,75

Page 203: Chăn nuôi gia cầm

203

Nhu cầu các axit amin không thay thế so với lysine (NRC, 1994)

Axit

amin Lysine Arginiê Threoniee Valine Methionine Cystine

% 100 110 74 82 38 43

6.4.2.3. Nhu cầu về protein và axit amin của gà mái đẻ

6.4.2.3.1. Nhu cầu protein của gà mái đẻ

* Nhu cầu protein cho duy trì

Protein rất cần thiết cho sự sống. Trao đổi protein xảy ra ngay

cả khi cơ thể động vật không nhận được protein từ thức ăn. Nhu cầu

protein cho duy trì sự sống được xác định từ giá trị trao đổi chất của

cơ thể và mối tương quan chặt chẽ với nhu cầu năng lượng cho quá

trình trao đổi cơ bản. Trung bình 1Kcal năng lượng trao đổi cơ bản

tạo ra được 2 mg N nội sinh trong nước tiểu (Bùi Đức Lũng, 1995).

Lượng N trong nước tiểu có liên quan chặt chẽ với khối lượng

cơ thể và nhu cầu protein cho duy trì. Theo Scott (Trích từ Bùi Thị

Oanh, 1996), cách tính protein cho duy trì như sau:

N nước tiểu (mg) = 201 x W0,75

; Trong đó W là khối lượng cơ

thể (kg).

Lượng N thải qua phân bằng 50% lượng N thải theo nước tiểu

nên tổng lượng N thải ra khỏi cơ thể là 201 + 100 = 301 (mg).

Lượng protein cho duy trì (Prm) sẽ được tính theo công thức:

Prm = 301 x W

0,75

1000 x 0,55 x 6,25

Ví dụ, một con gà mái có khối lượng 1,8 kg thì lượng protein cần

thiết cho duy trì là:

Prm = 301 x 1,8

0,75

1000 x 0,55 x 6,25 = 5,3 g/ngày

Page 204: Chăn nuôi gia cầm

204

Theo Oluyemi (1979), nhu cầu protein cho duy trì được tính

theo công thức:

Prm = 0,0016 x W (g)

0,55

Trong đó: Prm là protein cho duy trì (gam); W là khối lượng

cơ thể

0,0016 là nhu cầu protein (g) cho duy trì 1 g W

0,55 là hiệu quả sử dụng protein thức ăn

Như vậy, một gà mái năng 1,8 kg thì lượng protein cần cho

duy trì là:

Prm = 0,0016 x 18000

0,55 = 5,2 g/ngày

* Nhu cầu protein cho tăng trưởng

Sự phát triển của gà gắn liền với sự tích luỹ protein trong cơ

thể chúng. Sự tích luỹ xảy ra nhanh ở gia cầm non, sau đó giảm dần

theo lứa tuổi. Theo Bùi Đức Lũng (1995), nhu cầu protein cho tăng

trưởng của gà có thể tính theo công thức:

Prtt = Wc - Wo

0,64 x 0,18

Trong đó: Prtt là nhu cầu protein cho tăng trưởng (gam)

Wo là khối lượng cơ thể lúc ban đầu

Wc là khối lượng cơ thể lúc kết thúc

0,18 là hàm lượng protein trong thịt

0,64 là hệ số sử dụng protein

* Nhu cầu protein cho sản xuất trứng

Bằng kết quả nghiên cứu, Ivy và Gleaves (1976) cho rằng nhu

cầu protein cho sản xuất trứng là 8,9 g/mái/ngày nếu gà đẻ 10% và

7,1 g/mái/ngày nếu gà đẻ 80%.

Page 205: Chăn nuôi gia cầm

205

Protein chiếm 12% thành phần của trứng và hiệu quả sử dụng

protein cho tổng hợp trứng là 55%, gọi Wt là khối lượng trứng thì

nhu cầu protein để sản xuất một quả trứng (Prsx) là:

Prsx = 0,12 x Wt

0,55

Ví dụ, một quả trứng năng 56g

thì lượng protein cần thiết để

sản xuất quả trứng đó là:Prsx =

0,12 x 56

0,55

= 12,2 gam

Như vậy, nếu một con gà nặng 2,2 kg đẻ 45g trứng/ngày, tăng trọng

5 g/ngày thì tổng nhu cầu protein/con/ngày là:

Nhu cầu Pr = 0,0016 x 2200

+ 0,18 x 5

+ 0,12 x 45

= 17 g 0,55 0,64 0,55

Theo Nguyễn Mạnh Hùng và CTV (1994), có thể tính nhu

cầu protein hàng ngày cho gà mái đẻ trong các giai đoạn khác nhau

(bảng 6.2).

Bảng 6.2: Nhu cầu protein hàng ngày của gà mái Leghorn trong

3 giai đoạn đẻ

Nhu cầu protein để

Lƣợng protein

Giai

đoạn I

(g/ngày)

Giai

đoạn II

(g/ngày)

Giai

đoạn III

(g/ngày)

Đẻ 1 quả trứng 5,6 6,0 5,3**

Protein duy trì/ngày 3,0 3,0 3,0

Protein sinh trưởng/ngày 1,2 0 0

Protein phát triển lông/ngày 0,4 0,1 0,1

Tổng số 10,2 9,1 8,4

Page 206: Chăn nuôi gia cầm

206

Hiệu suất sử dụng protein (%) 56,6 56,8 56,0

Nhu cầu protein hàng ngày (g) 18,0 16,0 15,0**

** Nhu cầu protein cho tỷ lệ đẻ trứng 85%

6.4.2.3.2. Nhu cầu về axit amin của gà mái đẻ

Axit amin là một trong những chất dinh dưỡng có tầm quan

trọng trong quá trình tăng trưởng, tạo sản phẩm trứng và nâng cao

hiệu quả sử dụng thức ăn. Xác định đúng nhu cầu axit amin cho từng

đối tượng gia cầm sẽ mang lại hiệu quả kinh tế trong nuôi dưỡng.

Bảng 6. 3: Nhu cầu axit amin không thay thế cho gà đẻ

(Larbier và Leelercq, 1992)

Axit amin

Duy trì

(mg/kgP/ngày)

SX trứng

(mg/1g trứng)

Lyzin 73 10,00

Methionin 31 4,77

Cystin 55 8,48

Isolơxin 67 7,97

Tryptophan 11 2.62

Threonin 32 6,9

Theo Thomas và Zuckerman (1986), nhu cầu lysine và

methionine cho gà mái đẻ được xác định bằng công thức:

Lysine (mg/mái/ngày) = 0,04P + 8(p) + 12,6E

Methionine (mg/mái/ngày) = 0,037P + 4,5(p) + 5,39E

Trong đó: P - Khối lượng cơ thể (g);

(p) - Tăng trọng bình quân (g/ngày);

E - Sản lượng trứng bình quân (g/ngày)

6.4.3. Nhu cầu các vitamin

Các vitamin rất cần thiết cho sức khoẻ, duy trì, sinh trưởng và

sinh sản của gia cầm và các loài động vật khác. Một số vitamin có

liên quan trực tiếp với sức khoẻ và bảo vệ tổ chức, nhiều vitamin

Page 207: Chăn nuôi gia cầm

207

khác lại rất cần thiết cho trao đổi chất. Các vitamin luôn có mặt

trong các mô bào của cây trồng và vật nuôi và thông thường nhu cầu

rất nhỏ để bổ sung vào trong khẩu phần. Tuy nhiên, nhu cầu về một

loại vitamin nào đó phụ thuộc vào điều kiện môi trường, loại thức ăn

và giai đoạn sinh trưởng hay sản xuất của gia cầm. Loại trừ vitamin

tan trong dầu mỡ (A, D, K, E), các vitamin dự trữ trong cơ thể rất ít,

đặc biệt vitamin nhóm B và vitamin C, cho nên cần phải cung cấp

đầy đủ vitamin trong khẩu phần ăn hàng ngày nhằm thoả mãn nhu

cầu của gia cầm (Nowland, 1978).

Các vitamin hoà tan trong mỡ được dự trữ một lượng thích

hợp trong cơ thể và không bị bài tiết ra ngoài theo nước tiểu. Vì vậy

khi nào lượng vitamin đưa vào thiếu thì cơ thể có thể sử dụng nguồn

dự trữ.

Tuy nhiên, khi lượng vitamin đưa vào cơ thể nhiều, các

vitamin hoà tan trong mỡ có thể tích luỹ đạt đến mức tối đa. Các

vitamin hoà tan trong nước trong khẩu phần thực tế thường không đủ

cho nhu cầu của gia cầm nên cần được bổ sung thêm. Nếu không bổ

sung vitamin trong thời gian ngắn cũng có thể ảnh hưởng đến ssức

sống của gà thịt (Glavits và CTV, 1994). Gia cầm ăn khẩu phần thiếu

các vitamin, chỉ bổ sung vi khoáng có triệu chứng gầy yếu, giảm độ

nhạy cảm. Stress nhiệt và thiếu vitamin trong khẩu phần ảnh hưởng

xấu đến sức sống và tính miễn dịch của gà thịt (Deyhim và ctv,

1994).

Bảng 6.4: Nhu cầu vitamin tính cho 1 kg thức ăn hỗn hợp của

gia cầm (NRC, 1994)

Vitamin ĐVT Gà con Gà sinh

trưởng

Gà đẻ

thương

phẩm

Gà đẻ

giống

Vitamin A IU 11000 6600 8800 11000

Vitamin D3 IU 2200 2200 2200 2200

Vitamin E IU 11 8,8 - 16,5

Page 208: Chăn nuôi gia cầm

208

Vitamin K mg 2,2 2,2 2,2 2,2

Vitamin B1 mg 2,2 2,2 2,2 2,2

Vitamin B2 mg 4,4 4,4 4,4 5,5

Axit

pantotenic

mg 14,3 13,2 5,5 16,5

Axit

nicotinic

mg 33 33 26,4 33

Piridoxin mg 4,4 3,3 3,3 4,4

Biotin B8 mg 0,132 0,11 0,11 0,176

Axit folic

B9

mg 0,132 0,396 0,396 0,88

Cholin mg 1320 990 1100 1100

Vitamin

B12

mg 0,0099 0,0055 0,0022 0,011

Axit

linoleic

% 1,2 0,8 1,4 1,4

6.4.2.4. Nhu cầu khoáng

Khoáng rất cần thiết đối với gia cầm và tuỳ theo nhu cầu đối

với cơ thể mà khoáng được chia làm hai loại là các nguyên tố đa

lượng và các nguyên tố vi lượng. Gia cầm cần khoáng cho các hoạt

động sống vì vậy thiếu khoáng thì gia cầm giảm sinh trưởng, và

trong trường hợp thiếu nghiêm trọng gia cầm sẽ giảm sức khoẻ và

sức kháng bệnh (Nowland, 1978). Khẩu phần thiếu các nguyên tố đa

lượng hoặc vi lượng đều làm giảm khả năng tăng trọng, lượng thức

ăn ăn vào và hệ số chuyển đổi thức ăn của gia cầm. Chúng đồng thời

làm giảm lượng canxi xương, khoáng tổng số của xương nhưng làm

tăng lượng phốt pho xương (Southern và CTV, 1994).

Việc thiếu canxi và phốt pho sẽ được khắc phục nếu bổ sung

một lượng thức ăn bột thịt và xương vào khẩu phần. Tuy nhiên, mức

canxi trong khẩu phần cao sẽ làm giảm khả năng sinh trưởng và hiệu

Page 209: Chăn nuôi gia cầm

209

quả sử dụng thức ăn (Shafey and McDonald, 1991) và mức phốt pho

trong khẩu phần cao sẽ làm tăng hiện tượng yếu xương (Nelson và

CTV, 1990). Ảnh hưởng của natri đến sự sinh trưởng của gia cầm

cúng đã được nghiên cứu, nhiều báo cáo cho rằng sự sinh trưởng của

gia cầm bị giảm đáng kể khi khẩu phần nuôi thiếu natri.

Bảng 6. 5: Nhu cầu chất khoáng tính trong 1 kg thức ăn hỗn hợp

của gia cầm

(NRC, 1984)

Loại

gia

cầm

Ca

(%)

P

(%)

NaCl

(%)

Fe

(mg)

Cu

(mg)

I2

(mg)

Mg

(mg)

Mn

(mg)

Se

(mg)

Zn

(mg)

con 0 -

8 tuần

0,9 0,7 0,4 80 4 0,35 600 55 0,1 40

sinh

trưởng

0,6 0,4 0,4 40 3 0,35 400 25 0,1 35

Gà đẻ

thương

phẩm

3,25 0,5 0,4 50 3 0,30 500 25 0,1 50

Gà đẻ

trứng 2,75 0,5 0,4 80 4 0,30 500 33 0,1 65

6.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến nhu cầu dinh dƣỡng của gia

cầm

6.5.1. Ảnh hưởng của di truyền

Khối lượng cơ thể, tốc độ sinh trưởng và năng suất sản phẩm

của gia súc và gia cầm rất khác nhau do khả năng tiêu hoá, hấp thu

cũng như quá trình trao đổi chất của chúng khác nhau (N.R.C, 1984;

Moral và Bilgilki, 1990; Han và Baker, 1993). Tuỳ theo hướng sản

Page 210: Chăn nuôi gia cầm

210

xuất mà nhu cầu về các chất dinh dưỡng cho duy trì, sinh trưởng và

sản xuất khác nhau. Vì dụ, nhu cầu năng lượng cho duy trì của gà

leghorn thấp hơn 36% so với gà Broiler khi chúng ở cùng độ tuổi và

giới tính (Reid và Maiorino, 1980). Giống gà nhẹ cân tiêu thụ ít thức

ăn và ít năng lượng hơn so với giống gà nặng cân. Gà có tốc độ tăng

trọng cao tiêu thụ nhiều thức ăn hơn so với gà có tốc độ tăng trọng

vừa. Tuy nhiên tăng trọng càng nhanh thì hiệu quả sử dụng thức ăn

càng tốt bởi vì phần thức ăn dành cho tăng trọng nhiều hơn.

Các giống gà khác nhau có phản ứng khác nhau với mức

protein và axit amin trong khẩu phần. Gà nặng cân yêu cầu về số

lượng axit amin nhiều hơn so với gà nhẹ cân. Nếu tính theo tỷ lệ %

trong khẩu phần thì không có sự sai khác nhau nhiều, bù vào đó gà

nặng cân ăn lượng thức ăn nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu về số

lượng (Baker, 1993).

Hệ số tương quan giữa khối lượng cơ thể với lượng thức ăn

tiêu thụ tương đối cao (r = 0,5) và hệ số tương quan giữa khả năng

tăng trọng với lượng thức ăn ăn vào rất cao (r = 0,9). Còn hệ số

tương quan giữa sinh trưởng và chuyển hoá thức ăn lại có giá trị âm

(r = -0,2 đến -0,8) (Chambers và CTV, 1984 - dẫn theo Trần Long,

1994).

Như vậy, gà có khối lượng cơ thể càng lớn, mức tiêu thụ thức

ăn càng nhiều; gà có tốc độ tăng trọng càng cao, đòi hỏi lượng thức

ăn ăn vào càng lớn; đồng thời gà càng lớn chỉ số tiêu tốn thức ăn

càng cao.

6.5.2. Ảnh hưởng của tính biệt

Quá trình trao đổi chất của gà trống và gà mái khác nhau. Con

trống luôn có hệ số trao đổi chất cao hơn con mái (Singh, 1988). Hệ

số tích luỹ năng lượng so với mức ăn vào của gà Plymouth Rock lúc

1 ngày tuổi của con trống là 46,71% còn của mái là 40,60%. Chỉ số

Page 211: Chăn nuôi gia cầm

211

này của gà Broiler Hybrid Hà lan tương ứng là 41,11% và 37,20%

(Cheshmedzhiev, 1984).

Kết quả nghiên cứu của các tác giả trong nước cho biết, khối

lượng cơ thể của gà trống cao hơn gà mái 15 - 20% (Bùi Đức Lũng,

1991). Gà trống và mái có qui luật sinh trưởng khác nhau rõ rệt khi

cùng nuôi khẩu phần có mức protein 24% và mức năng lượng 3100

Kcal/kg thức ăn (Lê Hồng Mận và CTV, 1993). Khả năng tăng trọng

của các dòng gà V1, V3 và V5 giống Hybro HV85 của con trống cao

hơn con mái (Trần Long, 1994).

Các hoạt động sinh lý như hô hấp, tuần hoàn, thần kinh của

gà trống và mái khác nhau, vì vậy chúng có nhu cầu khác nhau về

mức năng lượng và protein trong khẩu phần.

Theo Summer và Leeson (1984), mức năng lượng trong khẩu

phần ảnh hưởng rất lớn đến tăng trọng của gà mái, trong khi đó ít

ảnh hưởng đến tăng trọng của gà trống. Gà trống giai đoạn 5-8 tuần

tuổi sử dụng năng lượng trong khẩu phần hiệu quả hơn so với gà mái

(Singh, 1988).

Nhu cầu mức protein trong khẩu phần của gà mái luôn thấp

hơn so với gà trống khi khẩu phần đó có cùng mức năng lượng. Hàm

lượng protein trong khẩu phần nuôi gà trống phải trên 20% khi năng

lượng trao đổi là 3220 Kcal/kg, trong khi đó mức protein để nuôi gà

mái chỉ cần 16% (Bùi Đức Lũng, 1991).

Khi tăng đồng thời mức protein và năng lượng trong khẩu

phần, phản ứng của gà trống và gà mái có khác nhau. gà trống có

phản ứng mạnh khi thay đổi khẩu phần về protein tăng từ 22% lên

24% đồng thời với mức năng lượng tăng từ 2445 Kcal lên 3325

Kcal/kg, trong khi đó gà mái không có phản ứng rõ rệt. Gà mái bị

hạn chế phát triển ở khẩu phần có mức protein cao, năng lượng thấp

(Beremski, 1978 - dẫn theo Bùi Đức Lũng, 1991).

Page 212: Chăn nuôi gia cầm

212

Kết quả nghiên cứu của Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng và CTV

(1993) khẳng định rằng nhu cầu protein cho gà Broiler giai đoạn 0-4

tuần tuổi của con trống là 24%, của con mái là 22%.

6.5.3. Ảnh hưởng của lứa tuổi

Nhu cầu các chất dinh dưỡng trong thức ăn của gà thịt trong

quá trình phát triển có khác nhau. Nhu cầu năng lượng ngày càng

tăng trong khi nhu cầu các chất dinh dưỡng khác thì giảm dần theo

lứa tuổi. Vì có sự thay đổi về cấu trúc của cơ thể, gà càng lớn nhu

cầu năng lượng cho tăng trọng càng cao, trong khi đó nhu cầu

protein cho tăng trọng càng giảm.

Để đáp ứng nhu cầu năng lượng, trong tiêu chuẩn hoặc khẩu

phần ăn khuyến cáo cho gà broiler, mức năng lượng trong khẩu phần

đều tăng dần theo lứa tuổi. Mức năng lượng (Kcal ME/kg) cho giai

đoạn đầu (0-3 tuần tuổi) và giai đoạn sau (4-6 tuần tuổi) của gà thịt

tương ứng là 3050 và 3150 - hãng Arbor Acress Mỹ; 3000-3100 -

Liên Hiệp các xí nghiệp gia cầm Việt Nam; 3100-3200 - Hãng Ross

Breeder (Bùi Đức Lũng, 1995).

Gà càng lớn tuổi, khả năng tích luỹ năng lượng so với mức

thức ăn ăn vào của gà càng giảm dần. Kết quả nghiên cứu trên gà

Plymouth Rock trắng cho thấy, hệ số tích luỹ năng lượng so với

lượng thức ăn ăn vào ở giai đoạn đầu của gà trống là 46,71% và của

gà mái là 40,64%; trong khi đó chỉ số này ở giai đoạn cuối (lúc 56

ngày tuổi) giảm xuống tương ứng còn 29,43% và 27,93%

(Cheshmedzhiev, 1984).

Tỷ lệ protein trong thịt gà và tuổi có mối tương quan tuyến

tính âm (Baker, 1993). Như vậy, khác với năng lượng gà càng lớn

nhu cầu về tỷ lệ protein trong khẩu phần càng giảm.

Page 213: Chăn nuôi gia cầm

213

6.5.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ và ẩm độ chuồng nuôi

Gia cầm là động vật đẳng nhiệt, thân nhiệt luôn ổn định mặc

dù nhiệt độ môi trường có thể thay đổi lên xuống. Thân nhiệt bình

quân của gà trưởng thành dao động 41,2 - 42,2oC, cao hơn so với

thân nhiệt của loài động vật có vú (36 - 39oC). Gà con mới nở có

thân nhiệt thấp hơn 2-3oC và đạt được thân nhiệt của gà trưởng thành

sau 6 ngày tuổi do tích luỹ lớp mỡ dưới da và phát triển bộ lông bao

phủ có tác dụng cách nhiệt. Sự ổn định thân nhiệt của cơ thể gà được

điều khiển bởi trung tâm điều hoà thân nhiệt nằm ở vùng dưới đồi

(hypothalamus) bằng hai quá trình sinh nhiệt và toả nhiệt (Lê Văn

Thọ và Đàm Văn Tiện, 1992).

Khi nhiệt độ môi trường tăng, nhu cầu năng lượng cho duy trì

của gia cầm giảm. Mối liên quan đó được biểu thị theo phương trình:

MEm = 170 - (2,2 x ToC)

Trong đó: MEm: Nhu cầu năng lượng (Kcal/kg thể

trọng/ngày)

ToC: Nhiệt độ môi trường.

Khoảng nhiệt độ tối thích đối với gà trưởng thành là 18-26 o

C,

gọi là vùng nhiệt độ trung bình. Khi nhiệt độ môi trường cao hoặc

thấp hơn khoảng nhiệt độ trên đều gây bất lợi cho cơ thể và có thể

gây cho quá trình điều hoà thân nhiệt khó khăn. Khi nhiệt độ chuồng

nuôi dưới vùng trung bình, gia cầm phải ăn nhiều thức ăn để sinh

nhiệt, gây lãng phí thức ăn. Khi nhiệt độ cao hơn vùng trung bình thì

gà phải chịu hiện tượng stress nhiệt. Gà chịu lạnh tốt hơn chịu nóng,

chính vì thế gà thường bị chết nóng nhiều hơn bị chết lạnh.

Khi nhiệt độ chuồng nuôi tăng lên 26,6 oC, thân nhiệt của gà

tăng 0,1-0,4 oC. Vì vậy, nhiệt độ của dòng máu chảy đến não bộ tăng

lên, làm rối loạn các hoạt động sống của gà. Vì gà không có tuyến

mồ hôi nên cách toả nhiệt hiệu quả nhất là qua đường hô hấp, thở

bằng miệng. Trong điệu kiện bình thường, nhịp thở của gà là 20

Page 214: Chăn nuôi gia cầm

214

lần/phút. Khi bị tác động của stress nhiệt độ, nhịp thở của gà lên tới

140-200 lần/phút và sự bốc hơi nước cũng tăng từ 5g lên 30g/giờ

(Oluyemi, 1979). Khi thở gà thải ra lượng khí CO2 nên làm giảm

lượng CO2 trong máu và gây ra hiện tượng kiềm hoá máu. Những

biến đổi đó làm thay đổi nồng độ các chất điện phân, độ pH và áp

suất thẩm thấu của máu (Leeson, 1986; Dale và Fuller, 1980; Robert

và Blaxter, 1994). Trong điều kiện như vậy gà không thể thực hiện

được các chức năng của cơ thể một cách bình thường. Gà giảm tính

thèm ăn, uống nước nhiều, khả năng chuyển hoá thức ăn kém, hiệu

quả sử dụng thức ăn thấp.

Ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của stress nhiệt độ là làm giảm

khả năng tiếp nhận thức ăn và dẫn đến giảm sức tăng trọng của gà

thịt (Hurwitz, 1980; Dale và Fuller, 1980). Nếu nhiệt độ chuồng

nuôi trong khoảng 21-30oC, cứ tăng 1

oC thì lượng ăn vào của gà

giảm 1,5%, tương tự nhiệt độ chuồng nuôi trong khoảng 32-38oC, cứ

tăng 1oC thì lượng thức ăn giảm 4,6%. Trong giai đoạn 3-8 tuần tuổi,

mức tiêu thụ thức ăn và tăng trọng của gà thịt giảm 0,12% cho mỗi

1oC tăng ngoài khoảng 21

oC (Han và Baker, 1993).

Mức tiêu thụ nước ở thời tiết nóng cũng tăng lên đáng kể.

Nếu gà 2 tuần tuổi tiêu thụ 0,045 lít/ngày ở nhiệt độ 21oC thì chỉ số

này tăng lên 0,064; 0,083 và 0,098 lít/ngày ở nhiệt độ tương ứng

27,32 và 38oC. Gà giai đoạn 7 tuần tuổi tiêu thụ 0,212 lít/ngày ở

nhiệt độ 21oC thì lượng nước tiêu thụ tăng lên 0,295; 0,382 và 0,466

lít/ngày ở nhiệt độ tương ứng 27, 32 và 38oC (Robert và Blaxter,

1994).

Gà tăng mức tiêu thụ nước ở nhiệt độ cao để bù đắp cho sự

mất nước trong quá trình bốc hơi và làm giảm nhiệt độ cơ thể bằng

cách thở và thải phân. Chình vì nước uống vào đi nhanh qua đường

tiêu hoá nên kéo theo cả lượng thức ăn chưa được tiêu hoá và hấp

thu hết. Quá trình đó đã gây nên sự thay đổi về cấu trúc tế bào của

Page 215: Chăn nuôi gia cầm

215

bộ máy tiêu hoá, làm thay đổi cả về sức chứa lẫn khả năng tiêu hoá

các chất dinh dưỡng.

Robert và Blaxter (1994) cho biết tỷ lệ tiêu hoá các axit amin

giảm khi nhiệt độ chuồng nuôi tăng. Tỷ lệ tiêu hoá của lysine ở 21oC

là 83% thì ở 31oC là 80%; tỷ lệ tiêu hoá của methionine ở 21

oC là

92%, giảm xuống ở 31oC là 87%; tương tự đối với isoleucine là 87

và 80%. Ở nhiệt độ cao, mức độ giảm tỷ lệ tiêu hoá axit amin của gà

mái cao hơn so với gà trống.

điều kiện nhiệt độ cao, ẩm độ tương đối có ảnh hưởng lớn

đến năng suất và hiệu quả sử dụng thức ăn. Ẩm độ tương đối trong

khoảng 48-90% không ảnh hưởng đến năng suất và khả năng chuyển

hoá thức ăn của gà nếu nhiệt độ chuồng nuôi là 21oC. Ngược lại, nếu

nhiệt độ chuồng nuôi là 29oC thì khi tăng độ ẩm từ 30% lên 70% đã

ảnh hưởng xấu đến mức độ tăng trọng của gà thịt và năng suất trứng

của gà đẻ.

6.5.5. Ảnh hưởng của chất lượng thức ăn và sự cân bằng các chất

dinh dưỡng

Chất lượng của thức ăn và sự có mặt của các chất dinh dưỡng

trong khẩu phần ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu dinh dưỡng của gà.

Chất lượng của protein rất khác nhau từ các nguồn protein khác

nhau. Protein từ nguồn động vật có tỷ lệ tiêu hoá và hấp thu tốt hơn

so với nguồn protein từ thực vật. Trong các loại thức ăn thực vật,

protein từ hạt nhiều dầu tốt hơn protein từ hạt ngũ cốc (Singh, 1988).

Quá trình xử lý nhiệt có ảnh hưởng đến chất lượng protein. Hạt đậu

tương đã xử lý nhiệt, chất ức chế tripsin bị phá vỡ nên tỷ lệ tiêu hoá

protein tốt hơn so với hạt đậu tương chưa xử lý. Tuy nhiên, nếu nhiệt

độ xử lý quá cao, ngoài việc mất mát các chất dinh dưỡng còn ảnh

hưởng xấu đến khả năng hấp thu axit amin, đặc biệt là lysine.

Hiệu suất chuyển hoá mỡ động vật và dầu thực vật sang dạng

năng lượng cao hơn cacbonhydrat và protein. Chính vì vậy, khi phối

Page 216: Chăn nuôi gia cầm

216

hợp khẩu phần, một lượng mỡ được bổ sung vào như một nguồn

năng lượng để giảm sự toả nhiệt của cơ thể gia cầm ở điều kiện thời

tiết nóng và cân đối nhu cầu protein để không lãng phí trong quá

trình sử dụng các nguồn thức ăn.

Cơ thể sống là một khối toàn vẹn, thống nhất vì vậy các quá

trình xảy ra trong cơ thể được thực hiện trong mối tương tác chặt

chẽ. Các chất dinh dưỡng cần được đưa vào cơ thể với số lượng nhất

định và theo một tỷ lệ hài hoà để đảm bảo sự hoạt động bình thường

và nhịp nhàng của các cơ quan chức năng. Trong tất cả các chất dinh

dưỡng, gia cầm luôn cố gắng tiếp nhận thức ăn trước tiên là để đáp

ứng nhu cầu năng lượng. Năng lượng trong khẩu phần càng tăng,

mức thu nhận thức ăn của gà càng giảm và ngược lại nhưng tổng

năng lượng ăn vào gần như không đổi (Singh, 1988).

Tuy nhiên, gà không điều chỉnh chính xác số Kcal năng lượng

ăn vào với khẩu phần có mức năng lượng khác nhau. Khi nuôi khẩu

phần có mức năng lượng cao, gà sẽ tiếp nhận một lượng năng lượng

cao hơn và khi đó tỷ lệ mỡ trong thịt xẻ, tỷ lệ mỡ bụng cao hơn so

với gà ăn khẩu phần năng lượng thấp (Rece và Deaton, 1984;

Holsheimer, 1993). Gà ăn khẩu phần có mức năng lượng cao, chi phí

thức ăn sẽ giảm. Theo hãng Arbor Acress (Mỹ), cứ tăng 55 Kcal/kg

TĂ sẽ giảm chi phí thức ăn xuống 0,04 đơn vị. Ví dụ, gà thịt nuôi

khẩu phần 3080 Kcal/kg TĂ thì chi phí thức ăn là 2,04 kg TĂ/kg

tăng trọng, chỉ số này giảm xuống còn 2,0 khi gà được nuôi khẩu

phần có mức năng lượng 3135 Kcal.kg TĂ. Tuy nhiên, mỗi yếu tố

năng lượng không thể mang lại hiệu quả sử dụng tốt thức ăn cũng

như tốc độ tăng trọng của gà. Protein, axit amin cũng như một số

chất dinh dưỡng khác cần phải được cân đối một cách hợp lý so với

năng lượng. Hiệu quả sử dụng thức ăn của gia cầm tăng lên, nhu cầu

về protein và các axit amin tăng lên khi mức năng lượng trong khẩu

phần tăng (Grigoriev, 1981).

Page 217: Chăn nuôi gia cầm

217

Khi protein trong khẩu phần được cung cấp đầy đủ và các axit

amin đạt mức cân bằng chính xác thì tốc độ sinh trưởng và hiệu quả

sử dụng thức ăn đạt mức cực đại. Khi khẩu phần bị thiếu một lượng

nhỏ axit amin thì con vật có xu hướng ăn nhiều hơn để thoả mãn nhu

cầu. Trong trường hợp này, tốc độ sinh trưởng có thể đạt tối đa, song

hiệu quả sử dụng thức ăn lại giảm (Almquist, 1952).

Cân bằng các chất dinh dưỡng, đáp ứng đúng nhu cầu của gia

cầm là biện pháp tốt nhất để tăng năng suất sản phẩm và tăng hiệu

quả sử dụng thức ăn tốt nhất. Trước hết là khẩu phần đó có hàm

lượng và tỷ lệ thích hợp giữa năng lượng và protein. Tuỳ theo giai

đoạn phát triển của gia cầm mà khẩu phần thức ăn cần có hệ số năng

lượng (Kcal)/%protein thô (hệ số C/P) khác nhau.

Hệ số C/P trong khẩu phần gia cầm ở giai đoạn còn non là

một chủ đề được nhiều người quan tâm trong dinh dưỡng gia cầm

qua nhiều năm. So sánh khẩu phần chứa 20% protein thô với khẩu

phần chứa 28% protein thô với cùng mức năng lượng, Leong và

CTV (1955) khẳng định rằng, sự thay đổi này đã làm giảm mức năng

lượng xấp xỉ 11,5%. Hiệu quả chuyển đổi thức ăn của những gà ăn

khẩu phần có mức protein cao tốt hơn so với gà ăn khẩu phần có

mức protein thấp. Tuy nhiên, khả năng tăng trọng sẽ ở mức bình

thường nếu như mức năng lượng đồng thời giảm xuống (Hill và

Dansky, 1950).

Donaldson và CTV (1955, 1956) cho rằng khi mức năng

lượng của khẩu phần tăng lên thì tỷ lệ protein cũng tăng lên nhằm

tăng hiệu quả sử dụng thức ăn và tăng trọng tối ưu của gà. Hiệu quả

kinh tế nhất của khẩu phần nuôi gà giai đoạn đầu tối thiểu 1%

protein thô cho 92.4 Kcal ME/ kg thức ăn (Ewing, 1963). Nếu mức

protein giảm xuống, hiệu quả sử dụng thức ăn giảm và kéo theo kết

quả lông bị xơ (Combs, 1962).

Pesti (1987) ghi nhận rằng trong số những gà thịt nuôi dưỡng

các khẩu phần có hệ số C/P xấp xỉ nhau (147.4 Kcal ME/1% protein

Page 218: Chăn nuôi gia cầm

218

thô trên một kg thức ăn), những gà nào được nuôi khẩu phần có năng

lượng và protein đều cao thì có sức sinh trưởng và chuyển hoá thức

ăn tốt nhất. Sự sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của gà tăng lên khi hệ

số năng lượng/protein giảm từ 106 xuống 71 Kcal/1% protein thô.

Tuy nhiên, cả sự sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn giảm khi tỷ số trên

giảm xuống từ 53 đến 43 Kcal/1% protein (Rosebrough và CTV,

1992).

Hệ số năng lượng / protein tăng lên theo tuổi của gà vì gà

càng lớn nhu cầu năng lượng càng cao và nhu cầu protein thấp. Vấn

đề quan trọng là ở chỗ hoặc là năng lượng trao đổi hay protein thô

trong khẩu phần được cố định, sau đó một trong hai yếu tố đó được

điều chỉnh để chỉ số năng lượng / protein vẫn giữ nguyên (Donamy

and Gippert, 1990; Ajang và CTV, 1993).

Ở giai đoạn kết thúc, lượng protein tiêu thụ tăng lên đáng kể

theo tuổi nhưng lượng protein tiêu tốn cho 1 kg khối lượng cơ thể

thực tế giảm xuống. Tỷ lệ năng lượng/protein tính trên 1 kg thức ăn

của gà ở giai đoạn vỗ béo là 105.6 - 110 Kcal/1% CP, và tỷ lệ C/P là

121 có thể chấp thuận (Combs, 1962). Hệ số C/P có thể giữ ở mức

175 trong khẩu phần chứa 18% protein thô và cân bằng các axit

amin (Uzu, 1982).

Tăng mức protein trong khẩu phần làm giảm đáng kể lượng

mỡ tích ở bụng (Cabel và ctv, 1988). Khối lượng mỡ càng giảm khi

năng lượng ăn vào giảm. Nuôi hạn chế năng lượng không ảnh hưởng

đến tỷ lệ thịt móc hàm nhưng có tác dụng đáng kể giảm lượng thức

ăn so với nhu cầu (Arafa và ctv, 1983).

Qua những phân tích trên đây về nhu cầu dinh dưỡng và các

yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu dinh dưỡng của gia cầm, chúng ta có

thể thấy các chất dinh dưỡng đóng vai trò rất quan trọng trong chăn

nuôi gia súc. Tuỳ theo hướng sản xuất, giai đoạn phát triển của cơ

Page 219: Chăn nuôi gia cầm

219

thể và giống mà nhu cầu về năng lượng, protein và axit amin ,

vitamin và khoáng khác nhau giữa các cá thể.

Rất nhiều nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng, đặc biệt là năng

lượng, protein và axit amin của gia cầm ở các hướng sản xuất khác

nhau. Nhu cầu dinh dưỡng của gia cầm chịu ảnh hưởng của nhiều

yếu tố như di truyền, tính biệt, môi trường, chất lượng của thức ăn và

sự cân đối của các thành phần dinh dưỡng ở trong đó.

Các công trình nghiên cứu về dinh dưỡng gia cầm ở Vệt Nam

những năm gần đây (thống kê chưa đầy đủ, trong bảng 6.6) có thể

tìm thấy trong các tạp chí chuyên ngành: Nông nghiệp và phát triển

nông thôn của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tạp chí Chăn

nuôi của Hội chăn nuôi Việt Nam, Website http//ww.vcn.vn/khoahoc

của Viện chăn nuôi quốc gia, Website http// hed.edu.vn của Vụ đại

học và sau đại học, Bộ giáo dục và đào tạo…

Bảng 6.6: Thống kê một số công trình nghiên cứu về dinh dƣỡng

trong chăn nuôi gà ở Việt Nam

Công trình nghiên cứu Tác giả, năm công bố

Xác định mức protein thích hợp cho

gà nuôi thịt 1-8 tuần tuổi

Nguyễn Nghi và cộng sự,

1988

Hiệu quả sử dụng L-lysinevà D.L-

methyonine cho gà broiler, gà đẻ

Nguyễn Kim Anh, Bùi Đức

Lũng…, 1996

Xác định mức protein, tỷ lệ lysine,

methionine + cystine thích hợp cho

gà broiler

Bùi Thị Oanh, Ninh Thị Len,

Hoàng Hương Giang…,1997

Xác định mức protein và năng

lượng thích hợp cho gà trống ISA

nuôi thịt 1-8 tuần tuổi

Bùi Đức Lũng và cộng sự,

1999

Nghiên cứu sử dụng thức ăn không

có protein động vật trong chăn nuôi

Nguyễn Khánh Quắc, Trần

Thanh Vân, 2000

Page 220: Chăn nuôi gia cầm

220

Xác định mức protein và năng

lượng thích hợp cho gà broiler

ROSS 208, ROSS 208V35 và HV35

Trần Công Xuân, Phùng Đức

Tiến…, 1999

Thay thế bột cá bằng bột đậu nành

cho gà thịt Hubbard

Lã Văn Kính, 1999

Nhu cầu protein, năng lượng, axit

amin cho gà broiler ISA

Bùi Đức Lũng và cộng sự,

2001

Thay thế hoàn toàn thức ăn đạm

động vật bằng đạm từ đậu đỗ cho gà

thịt giống Kabir

Trần Tố, 2001

Hàm lượng năng lượng, axit amin

thích hợp cho gà Tam Hoàng và

Kabir thịt

Trần Quốc Việt và cộng sự,

2001

Nghiên cứu sản xuất thức ăn cho gà

Kabir thương phẩm

Hồ Lam Sơn, Trịnh Xuân

Cư…, 2001

Xác định tỷ lệ protein thích hợp

trong khẩu phần cho gà Kabir,

F1(Mía x Kabir), F1 (Ri x Kabir)

nuôi ở miền trung

Trần Sáng Tạo, Nguyễn Đức

Hưng, 2001

Xác định mức năng lượng thích hợp

trong khẩu phần cho gà Kabir,

F1(Mía x Kabir), F1 (Ri x Kabir)

nuôi ở miền trung

Trần Sáng Tạo, Nguyễn Đức

Hưng, 2001

Nghiên cứu mức năng lượng và tỷ

lệ lysine/năng lượng cho gà broiler

Trịnh Xuân Cư, Hồ Lam Sơn,

2002

Ảnh hưởng của tỷ lệ protein và mức

năng lượng đến sinh trưởng của gà

Kabir và gà Lương Phượng

Trần Sáng Tạo, Nguyễn Đức

Hưng, 2003

Nghiên cứu sử dụng đậu đỗ miền

núi phía Bắc làm thức ăn cho gà

broiler giống Kabir

Trần Tố, 2003

Page 221: Chăn nuôi gia cầm

221

Nhu cầu dinh dưỡng và tiêu chuẩn ăn cho từng đối tượng gia

cầm nuôi, theo độ tuổi và theo sức sản xuất được trình bày trong

chương 7, đồng thời với kỹ thuật nuôi dưỡng các đối tượng gia cầm

này.

NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

1. Nguồn thức ăn chính sử dụng trong chăn nuôi gia cầm.

2. Nhu cầu năng lượng, protêin, khoáng, vitamin cho các đối

tượng gia cầm nuôi, phương pháp xác định.

3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu các chất dinh dưỡng ở

gia cầm.

Page 222: Chăn nuôi gia cầm

222

CHƢƠNG 7

KỸ THUẬT NUÔI DƢỠNG GIA CẦM

Gia cầm bao gồm nhiều đối tượng nuôi khác nhau: gà, vịt, gà

tây, ngan, ngỗng, bồ câu, chim cút, đà điểu…vì vậy kỹ thuật nuôi

dưỡng có những nguyên tắc chung giống nhau, nhưng cũng có nhiều

điểm sai khác nhau. Để đạt hiệu quả kinh tế cao, người nuôi cần nắm

chắc các đặc điểm riêng của mỗi loại gia cầm, vận dụng các nguyên

lý chung cho các đối tượng cụ thể và trong những điều kiện kinh tế,

kỹ thuật của mỗi cơ sở chăn nuôi nhằm tạo ra nhiều sản phẩm, chất

lượng cao với giá thành thấp.

7.1. Các phƣơng thức chăn nuôi gia cầm

Gia cầm đa dạng về chủng loài, vòng đời ngắn, sinh sản nhanh, thích

ứng rộng với nhiều vùng sinh thái, quy mô nuôi linh hoạt dễ công

nghiệp hóa, cơ khí và tự động hóa… vì vậy tồn tại nhiều phương

thức nuôi khác nhau. Có thể khái quát thành 3 phương thức chính

sau:

1) Nuôi chăn thả. Gia cầm được thả tự do, hoặc trong giới hạn

không gian rộng như vườn nhà, đồi nhà (thả vườn) hoặc thả đồng

(thường là nuôi vịt). Phương thức nuôi này thường có quy mô nhỏ,

trong nông hộ. Ưu điểm của phương thức này là đầu tư chuồng trại

thấp, tận dụng được nguồn thức ăn trong thiên nhiên nên giảm được

tiền chi phí thức ăn, chất lượng sản phẩm tốt (thịt, trứng thơm ngon),

tận dụng được lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Nhược điểm là quy

mô nuôi nhỏ, phân tán nên dễ phát sinh và lây lan dịch bệnh, sản

phẩm có tính mùa vụ, sản xuất thiếu tính bền vững, sản phẩm chưa

mang tính hàng hóa cao. Thích hợp với phương thức nuôi chăn thả là

các giống gia cầm địa phương thường có năng suất thấp. Trong điều

kiện kinh tế phát triển, cần phải được cải tiến để phương thức này

thu được hiệu quả cao hơn, đặc biệt trong sản xuất sản phẩm an toàn

cho con người.

Page 223: Chăn nuôi gia cầm

223

2) Nuôi bán thâm canh (bán chăn thả). Gia cầm được nuôi nhốt

trong các chuồng nuôi có sân chơi hoặc bãi chăn thả được giới hạn

bởi tường hoặc rào lưới. Thức ăn sử dụng là thức ăn công nghiệp,

thức ăn tự phối chế hoặc phối hợp cả hai loại thức ăn này. Ngoài

thức ăn do người chăn nuôi chủ động cung cấp, gia cầm tận dụng

được thức ăn thiên nhiên trong quá trình thả ngoài sân, gia cầm được

vận động nên sản phẩm có chất lượng cao. Chủ động trong công tác

thú y nên hạn chế được dịch bệnh. Sản phẩm ít mang tính mùa vụ,

có tính hàng hóa cao. Phương thức bán chăn thả thích hợp với chăn

nuôi nông hộ hoặc chăn nuôi trang trại quy mô vừa và nhỏ, đầu tư

cao hơn so với nuôi chăn thả. Phương thức nuôi bán chăn thả hiện

đang được quan tâm phát triển ở nước ta.

Hình 7. 1: Lồng nuôi gà

1

2

3

4

Page 224: Chăn nuôi gia cầm

224

1- lồng kim loại 1 ngăn; 2- lồng xếp một tầng 2 dãy;

3- lồng 3 tầng xếp chồng lên nhau; 4- lồng 3 tầng xếp bậc thang.

3) Nuôi thâm canh (nuôi nhốt hoàn toàn). Đây là phương thức

chăn nuôi gia cầm tiên tiến., được ứng dụng phổ biến ở các nuớc có

nền kinh tế và chăn nuôi công nghiệp phát triển. Gia cầm được nuôi

quy mô lớn, mang tính sản xuất hàng hóa, năng suất sản phẩm cao,

chất lượng theo chuẩn mực chung. Giống thường là cao sản, chuyên

dụng, thức ăn là thức ăn công nghiệp. Quy trình thú y và sản xuất

được kiểm soát nghiêm ngặt. Đi theo phương thức nuôi này là các cơ

sở chế biến thức ăn, chế biến sản phẩm, sản xuất các thiết bị phục vụ

chăn nuôi có liên quan đều phát triển để hỗ trợ cho sản xuất thịt và

trứng hàng hóa. Tùy thuộc vào mức độ đầu tư và trình độ kỹ thuật

mà quy mô có thể khác nhau, do tư nhân, tập thể, tập đoàn sản xuất

hoặc nhà nước quản lý. Ở nước ta các cơ sở nhân giữ giống gốc và

các doanh nghiệp chăn nuôi lớn đều nuôi gia cầm theo phương thức

này.

Trong phương thức nuôi gia cầm bán thâm canh và thâm canh

đang được áp dụng hai hình thức là nuôi trên nền (trên sàn) và nuôi

trên lồng. Mỗi hình thức có ưu điểm, nhược điểm riêng và chỉ thích

hợp với những đối tượng gia cầm và mục đích nuôi nhất định. Vì

vậy cần phân tích, lựa chọn kỹ trước khi quyết định áp dụng cho cơ

sở chăn nuôi của mình.

- Nuôi trên lồng. Lồng nuôi gia cầm có thể làm từ tre, nứa, gỗ

hoặc từ kim loại (lồng kim loại; hình 7.1). Lồng nuôi có thể 1 tầng

hoặc nhiều tầng. Kích thước các ô khác nhau. Nuôi lồng cần sự đầu

tư lớn ban đầu về hệ thống lồng nuôi, thức ăn cần đầy đủ và cân đối

về dinh dưỡng, hệ thống máng ăn, máng uống, băng tải trứng, vệ

sinh chuồng trại…được cơ khí và tự động cao, nhưng tiết kiệm được

diện tích đất xây dựng. Gia cầm nuôi lồng bị hạn chế vận động nên

Page 225: Chăn nuôi gia cầm

225

thể chất yếu. Do đó thích hợp với chăn nuôi gà thương phẩm trứng,

thương phẩm thịt, nuôi chim cút.

- Nuôi trên nền (trên sàn). Gia cầm được nuôi trực tiếp trên nền

gạch, nền đất nện, nền xi măng có lớp độn chuồng hoặc trên sàn kim

loại, sàn bằng tre, nứa cao hơn mặt đất. Nuôi trên nền thích hợp với

chăn nuôi gà con, gà hậu bị, đàn gia cầm giống (gà, vịt, ngan, ngỗng,

gà tây). Gia cầm nuôi nền thể chất khỏe mạnh, sức sản xuất cao nếu

nuôi với mật độ thích hợp và chăm sóc nuôi dưỡng hợp lý. Khi áp

dụng hình thức nuôi gia cầm trên nền cần lưu ý một số điểm dưới

đây.

Nuôi trên lớp độn chuồng dày không thay đổi. Cho vào

nền chuồng lớp độn chuồng dày 8-10cm vào mùa hè, 15-20 cm vào

mùa đông trước khi cho gia cầm vào nuôi. Trong quá trình nuôi, độn

chuồng không thay đổi cho đến khi xuất chuồng toàn bộ đàn gia

cầm. Trong quá trình nuôi nếu độn chuồng bị ẩm, ướt có thể bổ sung

thêm cho đến khi lớp độn chuồng đạt 25-30 cm. Khi đó thay toàn bộ

lớp độn chuồng, tổng tấy uế, khử trùng chuồng nuôi rồi đưa lớp độn

chuồng mới vào nuôi đợt tiếp theo. Hình thức này có ưu điểm tiết

kiệm được chi phí độn chuồng, chuồng nuôi giữ ấm tốt, đàn gia cầm

không bị xáo trộn trong quá trình nuôi. Theo các nghiên cứu gần đây

cho rằng cách này có lợi cho gia cầm vì các yếu tố hiếm (vi lượng,

đặc biệt vitamin nhất là vitamin B12) có trong lớp độn chuồng

không thay đổi được gia cầm sử dụng rất hiệu quả. Theo A.. Pôpôv,

trong 100g chất độn chuồng chứa trung bình 42mg vitamin B12,

trong cả màu xuân số lượng có thể đạt đến 100mg. Tuy vậy có

nhược điểm là không khí dễ nhiễm bẩn, ẩm độ chuồng nuôi có thể

lên cao gây ảnh hưởng sức khỏa đàn gia cầm. Hình thức này áp dụng

cho chăn nuôi gà giống, gia cầm hướng thịt và các nhóm gia cầm

nuôi thời gian ngắn (gà con, gia cầm nuôi thịt).

Nuôi trên lớp độn chuồng thay đổi. Cho vào nền

chuồng lớp độn chuồng dày 5-10cm trước khi cho gia cầm vào

Page 226: Chăn nuôi gia cầm

226

chuồng nuôi. Trong quá trình nuôi sau 10-12 ngày thay lớp độn

chuồng một lần, loại bỏ lớp cũ thay vào bằng lớp độn chuồng mới.

Hình thức này chuồng nuôi luôn khô, sạch, vệ sinh, nhưng chi phí

độn chuồng tăng lên, mỗi lần thay đổi độn chuồng gây xáo động đàn

gia cầm, ảnh hưởng đến sinh trưởng hoặc làm giảm đẻ trứng. Hình

thức này áp dụng cho đàn gia cầm phải nuôi trong thời gian dài (gia

cầm giống, gia cầm đẻ trứng).

Yêu cầu của nguyên liệu dùng làm chất độn chuồng.

Nguyên liệu dùng làm chất độn chuồng nuôi gia cầm phải thảo mãn

các yêu cầu: hút ẩm tốt. khả năng hút ẩm từ 140 đến 1200% so với

khối lượng ban đầu của nó; không bị nát vụn, không tạo nhiều bụi;

giá phải rẻ và dễ kiếm. Trong chăn nuôi gia cầm công nghiệp thường

sử dụng các nguyên liệu như lõi ngô (hút ẩm 140-150%); rơm, rạ,

trấu (240%, nếu dày 5cm hút ẩm đến 265%), tuy vậy rơm rạ có

nhược điểm là dễ bị mấm mốc; dăm bào được xem là tốt nhất cho

gia cầm con (420%); phân bò, phân ngựa khô (600-12000%); than

bùn khô (160%). Trên thực tế thường dùng hỗn hợp các nguyên liệu

này với nhau như trấu + mùn cưa, trấu + dăm bào… với những tỷ lệ

thích hợp.

7.2. Kỹ thuật nuôi dƣỡng gà

Căn cứ vào đặc điểm sinh lý, sinh trưởng phát dục và để

thuận tiện cho nuôi dưỡng chăm sóc, quản lý, đàn gà được chia ra

các nhóm sau:

- Gà con. là gà từ khi nở ra khỏi mấy ấp (1 ngày tuổi)

đến 8 tuần tuổi (gà hướng trứng) hoặc 10 tuần tuổi (gà hướng thịt).

Gà broiler là gà nuôi sản xuất thịt theo quy trình công nghiệp kết

thúc, bán thịt luc 8-10 tuần tuổi.

- Gà dò (còn gọi là gà choai, gà đang lớn) là gà từ 8

hoặc 10 tuần tuổi cho đến 20 hoặc 22 tuần tuổi, tương ứng với

Page 227: Chăn nuôi gia cầm

227

hướng chuyên dụng trứng hoặc chuyên dụng thịt. Đối với đàn gà

giống thì độ tuổi này thuộc giai đoạn gà hậu bị.

- Gà đẻ (hay gà sinh sản) là gà tiếp theo giai đoạn gà

dò, đẻ qủa trứng đầu tiên cho đến khi kết thúc chu kỳ sinh sản

(thường 12 tháng đẻ trứng) hoặc ở 500 ngày tuổi. Ở đàn gà giống

giai đoạn này gọi là gà sinh sản. Gà sinh sản khác với gà đẻ ở chỗ

trong đàn bắt buộc phải thả trống, đảm bảo cho trứng có phôi, ấp nở

để nhân đàn tiếp tục.

7.2.1. Kỹ thuật nuôi dƣỡng gia cầm con

7.2.1.1. Đặc điểm của gia cầm con.

Gia cầm con có tốc độ sinh trưởng nhanh, cường độ trao đổi

chất mạnh nhưng dung tích đường tiêu hoá nhỏ; khả năng tiêu hoá

còn thấp nên cần có chế độ nuôi dưỡng hợp lý. Khối lượng gia cầm

con nở ra khoảng 68-70% khối lượng trứng đưa vào ấp. Khối lượng

gia cầm tăng gấp 2-3 hoặc 5 lần trước 6 tuần tuổi và tăng trưởng kéo

dài đến khoảng 10 tuần tuổi, sau đó tốc độ sinh trưởng giảm đi rõ

rệt. Cùng với sự tăng trọng là sự hoàn thiện của bộ lông. Ở 4-5 tuần

tuổi bộ lông tơ của gia cầm con được thay bằng bộ lông vũ có khả

năng giữ ấm, còn trước 5 tuần tuổi bộ lông chưa hoàn thiện, khả

năng điều tiết thân nhiệt kém nên gia cầm con dễ bị nhiễm lạnh, đòi

hỏi nhiệt độ chuồng nuôi phải cao (350C). Giai đoạn 13-14 tuần tuổi

gia cầm thay bằng bộ lông hoàn thiện hơn và giữ cho đến trước khi

thành thục về tính. Sau khi thành thục về tính, gia cầm có bộ lông

của gia cầm trưởng thành. Cùng với sự tăng trưởng kích thước cơ

thể, tiêu thụ thức ăn của gia cầm cũng tăng lên nhưng hiệu quả sử

dụng thức ăn giảm xuống. trước 6 tuần tuổi gà hướng trứng tiêu thụ

khoảng 1 kg thức ăn hốn hợp, ở gà thịt (Broiler) là 2-2,3 kg. Tổng

thức ăn tiêu thụ cho gà cho đến thời điểm đẻ trứng là khoảng 8-12

kg.

Các cơ quan của cơ thể gia cầm phát triển với tốc độ khác

nhau qua các giai đoạn sinh trưởng phát dục của nó. Các cơ quan của

Page 228: Chăn nuôi gia cầm

228

cơ thể có thể phân làm 3 nhóm liên quan đến giai đoạn phát triển.

Các cơ quan thành thục sớm là đầu, tim, gan, máu, ống tiêu hoá,; các

cơ quan phát triển ở mức trung bình là chân, phổi, cánh, lông, thân.

Trong đó các cơ quan: buồng trứng, ống dẫn trứng, lách, bài tiết và

mô mỡ của gia cầm thuộc nhóm thành thục muộn.

7.2.1.2. Công tác chuẩn bị nhận gà con một ngày tuổi

Trước khi đưa gà về nuôi cần chuẩn bị chu đáo chuồng trại,

các thiết bị dụng cụ chăn nuôi và đảm bảo khử trùng sạch sẽ.

Khử trùng chuồng trại: Chuồng trại được quét sạch bụi bẩn,

mạng nhện trên trần, lưới, sàn nhà. Khử trùng nền chuồng bằng cách

phun dung dịch formol 2%, liều lượng 0,5 lít trên 1m2 nền chuồng

hoặc quét một lớp nước vôi đặc lên trên nền chuồng (nền ximăng

hoặc lát ngạch); để khô trước khi cho vào lớp độn chuồng.

Chuẩn bị rèm che: rèm che quây quanh chuồng có thể làm

bằng cót, vải bạt nhưng phải đảm bảo kín , linh hoạt khi mở ra hoặc

đóng vào. Rèm che treo cách trần 30-40cm đảm bảo thông thoáng và

phủ sát nền chuồng để tránh gió lùa.

Chuẩn bị nguồn sưởi: nguồn sưởi có thể là lò sưởi điện, bếp

than, củi, trấu, bóng đèn điện… đảm bảo cung cấp nhiệt trong quây

gà lên được 36-37 0C. Phải được vận hành thử để kiểm tra trước khi

đưa gà vào chuồng.

Quây gà: quây gà được làm băng cót, bìa cứng, hộp gỗ…

quây có đường kính 2,5m, chiều cao 0,5m dùng cho 300 gà 1 ngày

tuổi. Quây có thể nới rộng, để có thể mở ra khi tuổi gà lớn lên.

Máng ăn, máng uống. Máng ăn, máng uống cho gia cầm

con có thể hình trụ, hình ống. Cần tính toán đủ cho đàn gà và phân

bố đều trong quây gà. Khay làm máng ăn, máng uống cỡ 70x70cm

cho 75-100 gà. Một số loại máng ăn, máng uống hiên đang sử dụng

trong chăn nuôi gia cầm con (hình 7.2, 7.3).

Page 229: Chăn nuôi gia cầm

229

Hình 7. 2: Các dạng máng uống cho gia cầm con

Page 230: Chăn nuôi gia cầm

230

Hình 7. 3: Các dạng máng ăn cho gia cầm

Nguyên liệu làm độn chuồng: nguyên liệu làm lớp độn

chuồng cho chăn nuôi gia cầm con có nhiều loại. Khi chọn nguyên

liệu làm độn chuồng cần chú ý là các vật liệu không nát vụn, có khả

năng giữ ẩm tốt, không tạo thành nhiều bụi, không bị nấm mốc.

Thông thường hay dùng phôi bào, mùn cưa, trấu, rơm rạ, phân ngựa

Page 231: Chăn nuôi gia cầm

231

hoặc than bùn phơi khô làm độn chuồng. Lớp độn chuồng lúc đầu

dày 8-10cm, sau đó bổ sung hoặc thay mới.

Thức ăn, nước uống: chuẩn bị thức ăn theo yêu cầu độ tuổi

của gà , đảm bảo chất lượng thức ăn và không ẩm mốc. Nước uống

phải từ nguồn nước sạch và cung cấp đủ cho cả giai đoạn nuôi.

Tất cả dụng cụ, vật liệu đều được khử trùng sạch sẽ

trước khi đưa vào chuồng nuôi. Chú ý kiểm tra lưới, nền, trần để

phòng chuột, thú dữ có thể tấn công đàn gia cầm.

7.2.1.3-Chọn gà 1 ngày tuổi

Gà nở ra khỏi máy ấp cần được chọn lọc kỹ. Chọn gà có

khối lượng trung bình của giống, không quá to, không quá nhỏ. Gà

lông khô, bồng, min, mắt sáng tinh nhanh, bụng to mềm, không hở

rốn, khòeo chân, đứng vững trên hai chân. Loại bỏ gà quẹo mỏ, lông

xoăn, chân yếu, khòeo chân, rốn không kín có dính máu, có các dị

tật… Nhưng gà con nở đúng ngày quy định (không quá sớm, không

quá muộn) là những gà tốt. Cần tách riêng trống mái ngay khi gà 1

ngày tuổi (nếu có yêu cầu nuôi riêng).

7.2.1.4-Vận chuyển gà con

Gia cầm con dược vận chuyển tốt nhất bằng các xe chuyên

dụng, cũng có thể vận chuyển bằng tàu hoả, ô tô, máy bay hoặc xe

mô tô nhưng cần chú ý tránh xóc lắc mạnh, tránh gió lùa và gà xô

vào nhau chết vì ngạt. Gà con nở ra được đựng trong các hộp cỡ

450x450x125mm bằng bìa cotton hoặc hộp nhựa.

Page 232: Chăn nuôi gia cầm

232

Hình 7. 4: Gà con mới nở ấp theo máy ấp tự chế tạo

Hộp được chia làm 4 ô nhỏ, mỗi ô 20-25 gà con 1 ngày tuổi,

xung quanh hộp có những lỗ thông hơi tránh ngạt. Nếu vận chuyển

đi xa, khi gà về cần mở hộp cho thông thoáng, cho uống nước có pha

vitamin C, B, glucose trước khi thả gà vào quây.

7.2.1.5- Kỹ thuật nuôi dưỡng gà con

Các yêu cầu đối với gà con

+Nhiệt độ

Nhiệt độ là yếu tố đầu tiên và cũng là yêu tố quan trọng nhất

trong chăn nuôi gia cầm con. Tuần đầu nhiệt độ trong quây gà là 33-

350C, cứ mỗi tuần sau đó giảm đi 2-3

0C và giữ ổn định ở 20-22

0C

lúc 8 tuần tuổi. Thực tế tuỳ thuộc vào sức khoẻ đàn gà và nhiệt độ

môi trường mà sử dụng nguồn sưởi, mùa hè có thể chỉ sử dụng 3-4

tuần đầu. Thường xuyên theo dõi quan sát đàn gà trong quây để điều

chỉnh nhiệt độ. Gà con phân tán xa nguôn sưởi, ép sát vào mép quây

là nhiệt độ cao. Gà tập trung thành cụm sát nguồn sưởi, chen lấn

nhau là nhiệt độ quá thấp. Gà phân bố đều trong quây, ăn uống tốt,

Page 233: Chăn nuôi gia cầm

233

hoạt động linh hoạt là nhiệt độ thích hợp.Gà nằm dạt về một phía

của quây, chen lấn, kêu nhiều cân chú ý kiểm tra có gió lùa.

+Ẩm độ trong chuồng nuôi gà con thích hợp là 75-80%.

Tránh ẩm thấp do nước uống đổ ra nên chuồng.

+Mật độ nuôi

Mật độ nuôi là số gà/m2 nền chuồng. Trong những ngày đầu

một quây gà dùng cho 500 gà con thương phẩm hoặc 300 gà giống.

Sau 4-5 ngày nới rộng dần quây, sau 10 ngày có thể bỏ quây cho gà

tự do trên nền chuồng (nếu gà khoẻ, sinh trưởng tốt và thời tiết tốt).

Vẫn giữ quây nếu thời tiết xấu. Sau khi bỏ quây mật độ gà giống

8con/m2, gà thịt thương phẩm 10-12 con/m

2, gà trứng thương phẩm

18-22 con/m2. Mật độ có thể thay đổi theo mùa nóng -lạnh.

+Sử dụng rèm che:

Tùy điều kiện thời tiết và độ tuổi gà mà sử dụng rèm che cho

thích hợp (bảng 7.1).

Bảng 7.1. Sử dụng rèm che chuồng nuôi gà con

Trạng thái rèm che Mùa hè Mùa đông

Che kín chuồng tuần1 tuần 1 và 2

Che kín bên có gió ban ngày,

ban đêm che kín hoàn toàn

tuần2 tuần 3

Cả ngày đêm che kín bên có

gió thổi

tuần 3 tuần 4

Tuỳ thời tiết có thể che hoặc

không che

Từ tuần 4; 5 trở đi

+Ánh sáng, thông thoáng

Tuần đầu gà con cần chiếu sáng 24/24 giờ. Sử dụng bóng đèn

công suất 75-100W, định mức 3-4W/m2 nền chuồng (5-10lux). Thời

gian chiếu sáng các tuần tiếp theo giảm 2-4h/tuần, và giữ ở 18h/tuần

ở tuần thứ 8. Màu sắc ánh sáng tốt nhất ở gà con là màu đỏ hoặc ánh

sáng trắng(đèn neon), ánh sáng yêu cầu toả đều trong chuồng nuôi.

Page 234: Chăn nuôi gia cầm

234

Cần thông thoáng tốt chuồng nuôi để đủ không khí sạch cho gà. Gà

con cần không khí sạch: 0,9-1,0 m3 vào mùa đông và 5-8m3 vào

mùa hè, có thể cao hơn nữa ở chuồng nuôi gà giống.

+Thức ăn và nuôi dưỡng gà con

Gà con 1-8 tuần tuổi có cường độ sinh trưởng nhanh, nhưng

không đồng đều. Giai đoạn 5-6 ngày tuổi đầu sinh trưởng châm, sau

đó nhanh dần và đạt đến 3% so với khối lượng cơ thể. Khối lượng

lúc 8-10 tuần tuổi cần đạt 600-800g/con gà hướng trứng và 800-

1000g/con ở gà giống nặng cân trung bình. Để đạt được khối lượng

này, thức ăn hỗn hợp cho gà con cần có:hàm lượng dinh dưỡng

(trong 1kg thức ăn) như sau:

Năng lượng trao đổi: 2750-2950 Kcal (11,50-12,34 MJ);

Protêin thô: 18-20%;

Canxi: 1,0-1,3%; Phốt pho: 0,75-0,80%.

Số lượng thức ăn cần thiết cho 1 con gà đến 10 tuần tuổi là

3kg (giống nặng cân trung bình) và 2,4 kg (giống hướng trứng).

Có thể chia ra các giai đoạn tuổi 1-3, 4-8 hoặc 1-3, 4-7; 7-10

tuần tuổi và điều chỉnh thức ăn theo từng giai đoạn. Thức ăn sử dụng

cho gà con, trong 1 kg thức ăn hỗn hợp cần có 3000-3200 Kcal năng

lượng trao đổi protein thô 19-21% ở 1-3 tuần tuổi đầu, sau đó giảm

xuống 2800-3000 Kcal và 17-19% tương ứng ở các tuần tiếp theo.

Thức ăn cho gà hâu bị. Sau 10 tuần tuổi tốc độ sinh trưởng

của gà giảm 3-1% khối lượng cơ thể. Sự thay đổi về tăng trọng cần

phải thay đổi thức ăn. Prôtêin thô giảm còn 15-16%, trong một số

trường hợp giảm còn 13%. Giai đoạn này, thức ăn hỗn hợp có:

Năng lượng trao đổi: 2750-3000 Kcal (11,50-12,55 MJ);

Protêin thô: 15-16%;

Canxi: 1,0-1,3%; Phốt pho: 0,70-0,80%.

Số lượng thức ăn cần thiết cho 1 con gà/1ngày đêm gần 100g

(giống hướng trứng); gần 130g (giống nặng cân trung bình). Cả giai

Page 235: Chăn nuôi gia cầm

235

đoạn từ 10 đến 20-22 tuần tuổi cần 13kg thức ăn (giống nặng cân

trung bình) và 10 kg (giống hướng trứng).

+ Máng ăn, máng uống

Lượng cho ăn tự do bằng máng ăn tự động là tốt nhất. Cần

chứa đủ vitamin, khoáng trong thức ăn. Từ ngày tuổi thứ 43-46

chuyển dần thức ăn từ thức ăn cho gà con qua thức ăn cho gà dò theo

tỉ lệ 75/25, 50/50, 25/75 và 100. Nước uống sạch và đủ cho gà uống

tự do. Máng ăn cần 8-11cm/con, máng uống cần 2cm/con, ở gà

broiler tương ứng là 4 và 1,5cm/con.

+Chủng ngừa vaccine

Trong giai đoạn gà con cần cho uống hoặc tiêm phòng các

loại vaccine phòng bệnh đậu gà, Gumboro, Niucatxon, tụ huyết

trùng, viêm rốn…theo hướng dẫn của thú y (quy trình phòng bệnh

cho từng đối tượng gia cầm nuôi).

Ở vịt, ngan, ngỗng, gà tây con có quá trình nuôi tương tự như

chăn nuôi gà con. Các yếu tố kĩ thuật có điều chỉnh chút ít. Nuôi vịt

chăn thả thời vụ có quy trình nuôi vịt riêng.

Ở vịt: yêu cầu nhiệt độ 26-28 0C ở tuần đầu, 22-25

0C tuần thứ

2, 20-22 0C tuần thứ 3 và 16-19

0C ở tuần cuối. Cần cung cấp không

khí sạch/1kg khối lượng sống trong 1 giờ là 0,7-1m3 trong mùa đông

và 4-5m3 trong mùa hè. Kiểm tra điều chỉnh lượng khí độc trong

chuồng CO2 không quá 0,25% thể tích không khí, NH3 không quá

0,01cm3/lít và H2S không quá 0,005cm

3/lít. Chiếu sáng tuần đầu

24giờ (15-20lux), tuần thứ 2: 16-18 giờ từ tuần 3 trở đi giảm dần

xuống còn 10giờ (5-7lux). Máng ăn 1,5- 2cm/con tuần đầu, những

tuần sau 2-3cm/con, nuôi vịt giống có thể 10-15cm/con; máng uống

tương ứng với tuần tuổi trên là 1,2-1,5cm/con và 1,5-2cm/con và 10-

15cm/con.

Ở ngan: yêu cầu nhiệt độ 30-32 0C ở tuần đầu, giữ ổn định

nhiệt độ 21-240C tới tuần thứ 4, sau 4 tuần là 15-20

0C. Các yêu cầu

khác tương tự như ở vịt. Máng ăn 2,0- 2,5cm/con tuần đầu, những

Page 236: Chăn nuôi gia cầm

236

tuần sau 3-4cm/con, nuôi vịt giống có thể 10-15cm/con; máng uống

tương ứng với tuần tuổi trên là 2,0-2,5cm/con và 2,5-3,0cm/con và

12-16cm/con.

7.2.2. Kỹ thuật nuôi dƣỡng gà dò

Sau khi kết thúc giai đoạn gà con, nếu nuôi thịt (broiler) thì

gà được xuất chuồng 8-10 tuần tuổi, nếu nuôi thả hoặc nuôi sinh sản

gà được chuyển nuôi theo quy trình nuôi gà dò. Nếu nuôi gà giống

thì chuyển qua giai đoạn nuôi gà hậu bị cho đến 20-22 tuần tuổi. Gà

dò cơ thể đã phát triển hoàn thiện nên ít chịu ảnh hưởng của điều

kiện ngoại cảnh. Trong chuồng nuôi không cần nguồn sưởi, quây,

rèm che và có thể nuôi chăn thả ngoài sân vườn…

7.2.3. Kỹ thuật nuôi dƣỡng gà đẻ (gà sinh sản)

Gà hướng thịt sau 22 tuần tuổi, gà hướng trứng sau 20 tuần

tuổi chuyển qua giai đoạn nuôi gà đẻ trứng thương phẩm. Cũng ở độ

tuổi này nhưng là gà sinh sản lấy trứng giống đem ấp được gọi là gà

giống và chăn nuôi theo quy trình nuôi gà giống. Yêu cầu gà giống

khác gà thương phẩm là phải đảm bảo tỉ lệ trống/ mái thích hợp để

có tỉ lệ phôi, tỉ lệ ấp nở cao. Gà đẻ trứng thương phẩm thường loại

thải sau 1 năm đẻ (500-550 ngày tuổi), gà giống sinh sản có thể kéo

dài hơn.

7.2.3.1. Đặc điểm gia cầm sinh sản

Gia cầm từ khi đẻ quả trứng đầu tiên được xem là gia cầm

sinh sản hoặc là gia cầm giống. Gia cầm giống khác gia cầm sinh sản

ở chỗ có sự nuôi chung trống mái với tỉ lệ thích hợp để sản xuất ra

các quả trứng có phôi, ấp nở ra gà con. Ở gia cầm sinh sản có các

đặc điểm sau:

- Quy luật của sự đẻ trứng

Từ khi đẻ quả trứng đầu tiên gia cầm mái trải qua các biến đổi

về sinh lý, sinh hoá có liên quan đến sức đẻ trứng, khối lượng trứng,

khối lượng cơ thể và hiệu quả sử dụng thức ăn. Ở gia cầm tơ hay gà

mái đẻ trứng năm đầu quy luật đẻ trứng diễn ra theo ba pha:

Page 237: Chăn nuôi gia cầm

237

+Pha 1: Thường là từ khi đẻ quả trứng đầu tiên đến hết ba

tháng đẻ trứng. Trong pha này sản lượng trứng đẻ tăng từ ngày đẻ

đầu tiên đến khoảng 2-3 tháng đẻ. Đồng thời với tăng sản lượng

trứng, khối lượng trứng, khối lượng cơ thể gà mái tăng lên. Pha đầu

tiên của sự đẻ trứng thường kết thúc lúc 42 tuần tuổi.

+Pha 2: Sau khi sản lượng trứng đạt đỉnh cao thì pha 2 của sự

đẻ trứng băt đầu. Lúc này sản lượng trứng giảm từ từ nhưng khối

lượng trứng và khối lượng cơ thể gà không giảm, giai đoạn cuối gà

mái có biểu hiện tích luỹ mỡ. Pha 2 kéo dài đến khoảng 62 tuần tuổi,

khi sức đẻ trứng giảm xuống còn 65% so với tổng số gà mái đẻ trong

ngày.

+ Pha 3: Pha 3 tiếp theo pha 2 cho đến khi gà mái có biểu

hiện thay lông. Trong pha này sản lượng trứng giảm đến khi ngừng

đẻ hẳn. Khối lượng trứng giảm nhẹ hoặc ổn định, nhưng chi phí thức

ăn để sản xuất trứng tăng lên.

Gà đẻ trứng các năm sau, quy luật đẻ trứng diễn ra tương tự

như gà đẻ trứng năm đầu nhưng sản lượng trứng và thời gian kéo dài

đẻ trứng giảm đi. Sản lượng trứng theo năm đẻ ở gà và các đối

tượng gia cầm khác có khác nhau thể hiện trên bảng 7.2.

Trên thực tế gà đẻ trứng thương phẩm chỉ sử dụng 1 năm đẻ

trứng, gà giống có thể sử dụng ở cả năm đẻ thứ 2. Vịt sử dụng 2-3

năm, ngỗng 3-4 năm, gà tây 3-4 năm.

Đồ thị về quy luật đẻ trứng của gà mái thể hiện ở hình 7.5;

7.6.

Page 238: Chăn nuôi gia cầm

238

Pha 1 Pha 2 Pha 3 Thay lông

Hình 7.5. Đồ thị về quy luật đẻ trứng ở gà năm đầu

Năm đẻ thứ nhất Năm đẻ thứ hai Năm đẻ thứ ba

Hình 7.6. Đồ thị về quy luật đẻ trứng ở gà qua các năm

Bảng 7.2: Sản lƣợng trứng qua các năm đẻ trứng ở gia cầm (%)

Năm đẻ Gà Vịt Ngỗng Gà tây

I 100 100 100 100

II 75 115 110 110

III 45 95 125 120

IV - 50 85 80

V - - 48 45

Page 239: Chăn nuôi gia cầm

239

- Quá trình hình thành trứng diễn ra trong một thời gian

dài và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nội tại cũng như ngoại cảnh.

Từ khi tế bào trứng hình thành ở buồng trứng, quá trình phát dục,

chín và rụng khỏi buồng trứng, di chuyên trong ống dẫn trứng để

hình thành lòng trắng, màng vỏ trứng, vỏ trứng và dược đẻ ra ngoài

diễn ra trong thời gian dài (bảng 2.3, 2.4, chương 2) và chịu ảnh

hưởng của nội tiết tố, trạng thái sinh lý của gia cầm, điều kiện dinh

dưỡng, điều kiện môi trường sống: nhiệt độ, ánh sáng, thời tiết…Vịt

nhà thường đẻ tập trung từ 0 đến 8 giờ, vịt khakicampbell có 97%

tổng đàn đẻ lúc 7 giờ. Gà đẻ tập trung từ 10-13 giờ.

- Sản phẩm do gia cầm mái tạo ra có giá trị dinh dưỡng

cao. Trong đó hàm lượng protein chiếm 18-23%, trong protein có

đầy đủ các axitamin thiết yếu và cân đối với các yếu tố dinh dưỡng

khác. Vì vậy giá trị sinh vật học của trứng là 100%. Thịt gia cầm có

hàm lượng các chất dinh dưỡng cao, tính ngon miệng cao. Thịt gia

cầm chứa hàm lượng protein 21% (trong khi ở thịt bò là 16%, thịt

lợn là 11%). Thành phần hoá học và giá trị năng lượng của thịt gia

cầm tình bày trên bảng 7.5).

Bảng 7.5. Thành phần hoá học và nhiệt năng (Q-kcalo)

có trong 100g thịt gia cầm

Loại gia

cầm

Tuần

tuổi

Nƣớc Lipid Protêin khoáng Q(kcal)

Gà trưởng

thành

52 65,5 13,7 19,0 1,0 200

Gà thịt

Broiler

46 67,5 11,5 19,8 1,2 180

Vịt trưởng

thành

48 49,1 37,0 13,0 0,6 365

Vịt thịt

Broiler

34 56,6 26,8 15,8 0,8 294

Page 240: Chăn nuôi gia cầm

240

Ngỗng

trưởng

thành

54 48,9 38,1 12,2 0,8 369

Gà tây

trưởng

thành

51 60,0 19,1 19,9 1,0 250

Thành phần thịt gia cầm thay đổi phụ thuộc vào tuổi, loài,

phương thức chăn nuôi và thời gian nuôi.

7.2.3.2. Kỹ thuật nuôi dưỡng gà sinh sản

- Chọn gà mái đẻ

Gà mái đẻ, đặc biệt gà giống cần được chọn lọc kỹ trước

khi lên đẻ và trong quá trình cho sinh sản. Ngoài việc chọn lọc theo

nguồn gốc, trong quá trình nuôi thường chọn theo ngoại hình để loại

thải kịp thời những gà mái đẻ kém ra khỏi đàn, tăng hiệu quả chăn

nuôi. Căn cứ vào độ lớn, độ mềm và độ đậm của mào, độ rộng của

bụng và vkhoảng cách của hai mỏm xương háng, độ mềm và bóng

của niêm mạc hậu môn của gà mái đẻ để chọn lọc. Những gà mái có

mào phát triển, mềm, đỏ tượ, độ rộng bụng đặt lọt 3 ngón tay trở lên,

bụng mềm, khoảng cách hai mỏm xương háng đặt lọt 2 ngón tay trở

lên, mỏm xương háng mềm, niêm mạc hậu môn ướt, mềm, độ đàn

hồi cao là những gà mái đẻ tốt. (xem hình 7.7).

- Mật độ nuôi

Mật độ nuôi là số gà /m2 nên chuồng, phụ thuộc vào loài, lứa

tuổi, hướng sản xuất và phương thức nuôi.

Gà giống hướng trứng nuôi nền: 3,5 con/m2

Gà giống hướng thịt nuôi nền :3 con/m2

Gà thương phẩm nuôi nền : 8-12 con/m2

Gà thương phẩm nuôi lồng : 16-30 con/m2

Page 241: Chăn nuôi gia cầm

241

Hình 7. 7 : Ngoại hình gà mái đẻ tốt (bên trái) và đẻ kém

(bên phải)

- Nhiệt độ, ẩm độ chuồng nuôi

Gà sinh sản nhiệt độ chuồng nuôi tốt nhất là 18-20oC, không

quá 25oC. Nếu nhiệt độ nuôi dưới 15oC hoặc cao hơn 30oC ảnh

hưởng lớn dến sức đẻ trứng và khối lượng trứng, tỉ lệ gà chết tăng

lên.

Ẩm độ chuồng nuôi gà sinh sản thích hợp là 60-70%.

Page 242: Chăn nuôi gia cầm

242

- Chế độ chiếu sáng:

Thời gian chiếu sáng ở gà đẻ không dưới 14h/ngày dêm, tuần

đẻ thứ 16 trở đi tăng dần và đạt tối đa là 17h/ngày đêm. Cường độ

chiếu sáng 3-4 W/m2 nền. Ánh sáng màu đỏ có lợi cho gà đẻ.

- Thức ăn và nuôi dưỡng gà sinh sản

Gà mái đẻ (gà sinh sản) cần cho ăn thức ăn hỗn hợp với dinh

dưỡng đầy đủ. Trong 1kg thức ăn hỗn hợp gà đẻ cần:

Năng lượng trao đổi: 2700-2800 Kcal (11,29-11,71MJ);

Protêin thô: 15-18%;

Canxi: 2,1-3,2%; Phốt pho: 0,75-0,80%.

Số lượng thức ăn cần thiết cho 1 con gà mái đẻ/1ngày đêm

phụ thuộc khối lượng cơ thể, sản lượng trứng (bảng 7.6), hoặc xác

định theo tuổi và hướng sản xuất của gà (bảng 7.7). Các yế tố dinh

dưỡng khác theo hướng dẫn trên bảng 7.8, 7.9.

Bảng 7. 6: Thức ăn cho gà mái đẻ (g/ngày đêm) theo

khối lƣợng (P) gà và sản lƣợng trứng (SLT) khác nhau

SLT

(quả/

năm)

P gà

1,75kg/

con

P gà

2,00kg/

con

P gà

2,25kg/

con

P gà

2,50kg/

con

P gà

2,75kg/con

120 102,5 111,5 120 128 136

150 109 117,5 126 134 142

180 115 124 132,5 140,5 148,5

210 121,5 130 138,5 147 154,5

240 128 136 145 153 161

Page 243: Chăn nuôi gia cầm

243

Bảng 7. 7: Lƣợng thức ăn cho gà sinh sản (g/ngày/con)

Tuần tuổi Gà hƣớng

thịt

Gà hƣớng

trứng

Gà thƣơng phẩm

nuôi lồng

23-24 100-130 107-112 105-110

25-26 120-140 110-120 110-115

27-28 140-155 110-120 110-115

29-42 140-155 110-120 110-115

43-52 135-150 110-118 110-115

53-64 130-145 108-115 105-110

- Máng ăn, máng uống

Máng ăn, máng uống đảm bảo đủ cho gà và phân bố đều

trong chuồng nuôi, tốt nhất sử dụng máng ăn, máng uống tự động.

- Ổ đẻ, cầu đậu

Trong chuồng nuôi gà sinh sản cần có ổ đẻ và sào đậu (cầu

đậu). Ổ đẻ được treo trên tường hoặc đặt trên mặt đất, kích thước có

thể khác nhau (hình 7.8). Đối với gà giống theo dõi cá thể, ổ đẻ cần

có cửa sập (tự động). Mỗi ổ đẻ dùng cho 3-4 gà mái.

Cầu đậu (sào đậu). Gia cầm xuất phát từ lớp chim nên thích đỗ trên

cao. Trong chuồng nuôi gà, nhất là gà đẻ phải bố trí các cầu đậu.

Cầu đậu là các thanh tre, gỗ vót nhẵn kích thước 0,2 x 0,4cm, đóng

dọc cách nhau 3-4 cm, hoặc nghiêng cách nhau 25-30cm, tạo thành

các giá đỗ hay cầu đậu. Chiều dài cầu đậu dành cho mỗi con gà 8-

10cm (hình 7.9).

Page 244: Chăn nuôi gia cầm

244

Hình 7.8: Ổ đẻ dùng cho gia cầm mái

Page 245: Chăn nuôi gia cầm

245

Hình 7.9: Cầu đậu cho gà đẻ

Bảng 7.8: Nhu cầu về năng lƣợng, protêin và một số axít amin

cho gà

Nhóm gà Gà

Broiler

Gà hậu bị

hƣớng trứng

Gà đẻ

hƣớng

trứng và

hƣớng thịt

Tuổi (tuần) 0-6 7-10 0-6 7-14 15-20 20- 54

Năng lượng trao

đổi (kcal/kg thức

ăn)

3200 3200 2900 2900 2900 2850

Protêin (%) 23 20 20 16 12 15

Lysine (%) 1,25 1,10 1,10 0,90 0,66 0,50

Page 246: Chăn nuôi gia cầm

246

Methionine (%) 0,86 0,75 0,75 0,60 0,45 0,53

Methionine +

Cyctine (%)

0,46 0,40

0,40 0,35

0,40 0,32 0,24

0,35 0,28 0,21

0,28

0,25

Bảng 7.9: Nhu cầu về một số vitamin và khoáng cho gà

Tuổi gà (tuần) 0-8 9-18 Gà đẻ

(19-52)

Gà giống

(22-74)

Vitamin A (UI) 1500 500 4000 4000

Vitamin D (UI) 200 200 500 500

Calcium (%) 1,0 0,8 2,75 2,75

Phosphorus(%) 0,7 0,4 0,6 0,6

Sodium (%) 0,15 0,15 0,15 0,15

Các loại gia cầm khác như vịt, ngan, ngỗng, gà tây...về

nguyên tắc nuôi dưỡng như là gà, nhưng do có đặc điểm sinh sống

khác nhau nên trong quy trình chăn nuôi cụ thể cho mỗi loại cần có

yêu cầu riêng và điều chỉnh các yếu tố kỹ thuật cho thích hợp. Dưới

đây là những kiến thức cơ bản nhất, cần tham khảo thêm các tài liệu

chuyên sâu cho các đối tượng nuôi này.

7.3. Kỹ thuật nuôi dƣỡng vịt, ngan, ngỗng

Chăn nuôi vịt là một nghề truyền thống khá phát triển ở nước

ta. Tổng đàn vịt ở việt Nam là 44 triệu con, chỉ đứng thứ hai sau

Trung Quốc. Trong đàn vịt thì vịt hướng trứng chiếm tới 63%, gắn

với phương thức chăn nuôi thả đồng thời vụ là chính. Nuôi nhốt kiểu

công nghiệp chỉ ở vịt giống và các giống vịt cao sản mới nhập vào

trong những năm gần đây. Ngoài vịt, ngan cũng được quan tâm phát

triển để cung cấp thịt cho nhu cầu trong nước. Chăn nuôi vịt cũng

đang tồn tại ba phương thức chính đó là:

- Nuôi chăn thả (nuôi quảng canh). Đây là phương thức chăn

nuôi truyền thống có từ lâu trong nhân dân. Theo phương thức này

Page 247: Chăn nuôi gia cầm

247

vịt con được úm đến 3 tuần tuổi, tiếp đó được thả trên vuìng nước

hoặc trên đồng với giới hạn không hạn chế. Vịt đẻ có thể di chuyển

đi nhiều vùng cách xa nhau 20-30km hoặc hơn nữa. Thức ăn cho vịt

nuôi theo phương thức này chủ yếu là thóc, ngô mảnh. Thức ăn đạm

là cá, ốc, ếch nhái, côn trùng và động vật thủy sinh ở các nguồn

nước và thóc rơi vãi sau các vụ thu hoạch. Đầu tư làm chuồng trại

không lớn, chỉ là các lều, trại tạm để vịt nghỉ lại buổi tối hoặc khi

thời tiết xấu. Thích hợp với phương thức này là các giống vịt địa

phương, vịt lai nuôi lấy trứng hoặc lấy thịt thời vụ. Từ phương thức

này hình thành kỹ thuật ấp trứng vịt bằng trấu, thóc nóng ở các lò ấp

thủ công cung cấp vịt con giống và trứng vịt lộn. Ưu điểm là tận

dụng tốt điều kiện tự nhiên nuôi vịt, đầu tư thấp nên hiệu quả cao,

nhưng nhược điểm lớn là dễ dịch bệnh, sự phát triển, lây lan dịch

bệnh nhanh chóng gây hại không chỉ về kinh tế mà ảnh hưởng đến

môi trường và sức khoẻ con người. Từ sau khi có dịch cúm gia cầm

H5N1, phương thức nuôi này đang được hạn chế và cải tiến.

- Nuôi bán thâm canh. Phương thức này vịt 0-3 tuần tuổi nuôi

trong chuồng ấm hoàn toàn có lớp độn chuồng dày không thay đổi,

có sân chơi, bể nước để vịt tắm. Sau 3 tuần vịt được chuyển ra gần

mặt nước (ao, hồ, đầm, phá, kênh rạch) đề bơi lộ, tìm thêm thức ăn.

Thức ăn tự phối chế hoặc thức ăn công nghiệp do con người cung

cấp là chính.

- Nuôi thâm canh. Vịt được nuôi nhốt hoàn toàn, trong

chuồng, trên nền có độn lót hoặc trên sàn. Tiểu khí hậu chuồng nuôi

được khống chế thích hợp. Thức ăn, nước uống cung cấp chủ động

và đầy đủ, quá trình tự động hóa và cơ khí hóa cao.

Page 248: Chăn nuôi gia cầm

248

Hình 7. 10: Ngan pháp dòng R71 và con lai với vịt

Super Meat

- 7.3.1. Kỹ thuật nuôi vịt thâm canh.

Nuôi thâm canh áp dụng cho các cơ sở giống quốc gia, nuôi

giữ giống gốc, sản xuất, cung cấp giống cho các cơ sở sản xuất

thương phẩm. Các yêu cầu kỹ thuật chính cho vịt nuôi nhốt là:

Page 249: Chăn nuôi gia cầm

249

+ Nhiệt độ chuồng nuôi 15-20 0C, ẩm độ 70-75%; không khí

sạch chuồng nuôi: 8 m3 không khí/giờ/1kg khối lượng sống. Lượng

H2S không quá 0,007mg/lít, NH3: 0,034mg/lít, CO2 : 0,025mg/lít.

+ Chiếu sáng: vịt con 8 giờ/ngày, vịt đẻ 14giờ/ngày, cuối kỳ đẻ

trứng có thể đến 16giờ/ngày. Cường độ chiếu sáng 5W/m2 nền,

tương đương 15lux.

+ Thức ăn và nuôi dưỡng vịt.

Các nghiên cứu đã khẳng định rằng vịt ít mẫn cảm với số lượng

và chất lượng prôtêin, và đồng hóa prôtêin tốt hơn ở gà. Vịt và

ngỗng ở 2 tháng tuổi sử dụng năng lượng trong thức ăn tương ứng

79,5% và 80,5%, trong khi đó gà chỉ là 65,5% (Shinhesova,1966).

Thức ăn cho vịt thịt (broiler). Vịt 50-55 ngày tuổi tốc độ sinh

trưởng nhanh và khối lượng tăng 50-60 lần so với lúc mới nở, đạt

khối lượng 2,5-3,0kg/con. Theo đặc điểm sinh trưởng thức ăn cho

vịt chia làm 2 dạng: thức ăn khởi động và thức ăn vỗ béo. Giai đoạn

2-3 tuần đầu sau khi nở, thức ăn cần:

Năng lượng trao đổi: 2800-2900 Kcal (11,71-12,13MJ);

Protêin thô: 18-20%;

Canxi: 0,6-0,8%; Phốt pho: 0,6-0,7%.

Vịt không nhận biết được việc giảm hay tăng thức ăn có

nguồn gốc động vật. Hàm lượng thích hợp thức ăn prôtêin động vật

trong giai đoạn này là 25-30%, còn ở thức ăn giai đoạn vỗ béo là

10% so với tổng lượng prôtêin trong thức ăn. Giai đoạn vỗ béo từ

sau 3 tuần tuổi, thức ăn cho vịt cần có:

Năng lượng trao đổi: 3000- 3100 Kcal (12,55- 12,97MJ);

Protêin thô: 15- 16%;

Canxi: 0,6-0,8%; Phốt pho: 0,6-0,7%.

Theo Donchev và cộng sự, 1973: sự phát triển khối lượng vịt

là như nhau khi cho ăn thức ăn với 18% prôtêin thô và cho ăn thức

ăn với 12% prôtêin thô, có bổ sung 0,2% lysine và 0,1% DL-

Page 250: Chăn nuôi gia cầm

250

Methionine. Số lượng thức ăn cần thiết cho 1 con vịt trong cả giai

đoạn này là 7,5-8,0Kg.

Hình 7. 11: Vịt Super Meat và con lai với ngan Pháp dòng R71

Page 251: Chăn nuôi gia cầm

251

Nuôi dưỡng vịt hậu bị. Trước 7-8 tuần tuổi vịt ăn thức ăn như

của vịt thịt. Sau 8 tuần tuổi cho vịt ăn hỗn hợp thức ăn với 12%

prôtêin thô, nếu nuôi nước thả vịt xuống nước cho ăn thức ăn hõn

hợp 160-170g/con/ngày đêm và cho ăn thức ăn xanh. Từ 8 tuần tuổi,

tốc độ sinh trưởng giảm. Lượng thức ăn cho cả giai đoạn là 17-20kg

thức ăn.

Nuôi dưỡng vịt đẻ. Vịt bắt đầu vào đẻ lúc 6-8 tháng tuổi (tuy

theo giống), tỷ lệ đẻ trứng coa nhất tới 70-90%. Vịt đẻ cần cho ăn

thức ăn hỗn hợp chứa:

Năng lượng trao đổi: 2300- 2600 Kcal (9,62- 10,88MJ);

Protêin thô: 16- 18%;

Canxi: 2,3- 2,6%; Phốt pho: 0,6-0,8%.

Trong chăn nuôi gia đình ngoài thức ăn hỗn hợp cho ăn thêm

thức ăn xanh với lượng 50-60g/con/ngày.

+ Nước uống cho vịt

Vịt cần được cung cấp đủ nước uống sạch. Nước uống cần 600-

700ml/con/ngày đêm, nếu ăn thức ăn viên cần 1000ml

nước/con/ngày đêm.

+ Các yêu cầu kỹ thuật khác có thể tham khảo tiêu chuẩn ở

bảng 7.10, của hãng Chery Velley (1996), cho vịt sinh sản.

Bảng 7. 10: Tiêu chuẩn nuôi dƣỡng đàn vịt sinh sản hƣớng thịt

( theo hãng Chery Velley, 1996)

Yêu cầu Tuổi vịt 5-180

ngày

Tuổi vịt 181-390

ngày

Mật độ nuôi (con/m2) 3 16

Máng ăn (cm/con) 25 30

Máng uống (cm/con) 15 20

Thời gian kéo dài đẻ

trứng: Chu kỳ I

Chu kỳ II

210

190

Page 252: Chăn nuôi gia cầm

252

7.3.2. Kỹ thuật nuôi vịt chăn thả

Nuôi vịt chăn thả là phương thức nuôi cổ truyền của người

nông dân nước ta. Con vit, lúa nước, gần đây mở rộng hơn việc nuôi

vịt trên các vùng nước trong hệ thống canh tác lúa-vit, lúa-vịt-

cá…đem lại lợi ích kinh tế không nhỏ cho người chăn nuôi và cung

cấp một phần thực phẩm cho người tiêu dùng.

Kỹ thuật nuôi vịt chăn thả có thể chia ra các giai đoạn sau:

- Úm vịt con (nuôi vịt con)

Vịt sau khi nở ra khỏi trứng, nuôi dưỡng trong chuồng 3 tuần

đầu. Thức ăn cho vịt chuyển dần từ cơm, bún dấp nước (3 ngày tuổi

đầu), qua cơm gạo lức (4-10 ngày tuổi), qua gạo ngâm mềm (11-15

ngày tuổi), chuyển qua thóc luộc chín (16-18 ngày tuổi) và cuối cùng

là thóc sống (17-20 ngày tuổi). sau 20 ngày tuổi vịt đã ăn thóc sống

thành thạo, được nuôi thả trên đồng lúa sa khi thu hoạch, trên các bãi

bồi, các nguồn nước với thức ăn chính là thóc và động vật thủy sinh

của các nguồn nước. Cùng với thức ăn trên, từ ngày thứ 3 trở đi, cần

cung cấp thức ăn đạm (mồi), thường là tôm, tép, cá con, giụ đất, giun

đỏ,cua ốc đập vỡ vỏ; sau 10 ngày bổ sung bột cá. Cho ăn rau xanh

thái nhỏ, bèo tấm, bèo hoa dâu…Số lượng thức ăn và số lần cho ăn

tùy thuộc vào tuổi vịt và kinh nghiệm của mỗi chủ hộ. Vịt con được

giữ ấm và tập làm quen với nước từ ngày tuổi thứ 5-6, thời gian bơi

lội tăng dần. Các điều kiện chuồng nuôi như yêu cầu với nuôi vịt

nhốt hoàn toàn, cần chú ý tránh sự tấn công và phá hoại cuả thú dữ,

chuột.

Vịt con sau 21 ngày nếu nuôi thịt thời vụ sẽ được thả trên

đồng và cho ăn thêm thức ăn vào đầu ngày (trước khi thả vịt) hoặc

cuối ngày (khi vịt về chuồng), hoặc nhốt vịt, nuôi vỗ béo 5-10 ngày

trước khi bán thịt nếu đồng chăn ít mồi, thời gian chăn thả ngắn.

Nuôi theo phương thức này vịt xuất bán lúc 60-70 ngày tuổi, khối

lượng 1,2-1,6kg/con (giống thịt có khối lượng cao hơn), chi phí thức

Page 253: Chăn nuôi gia cầm

253

ăn thấp hơn nuôi nhốt hoàn toàn từ 2-3 kg/kg thịt. Hiệu quả kinh tế

cao.

- Nuôi vịt đẻ (vịt sinh sản)

Đàn vịt sau khi kết thúc 8 tuần tuổi được chọn lọc đưa lên đàn

hậu bị và sinh sản. Trong nuôi vịt chăn thả, quan trọng nhất là tính

đúng thời vụ để cho vịt vào đẻ hoặc cho ngừng đẻ thay lông. Kỹ

thuật nuôi vịt sinh sản, chăn thả có các giai đoạn sau:

+ Thúc đẻ: Vịt hậu bị thay lông lần cuối trước khi vào đẻ, bộ

lông bóng mượt, vịt mái nhanh nhẹn, trên đồng luôn theo sát vịt đực,

một số vịt đã phối giống, lúc này cần tăng cường dinh dưỡng, tăng

thức ăn đạm cho vịt vào đẻ. Lượng thức ăn 100-120g/con/ngày.

Tăng thêm giờ chăn thả để vịt tận dụng thêm thức ăn. Từ khi vịt đẻ

quả trứng đầu tiên đến khi tỷ lệ đẻ trong đàn cao nhất (80-85%) càng

ngắn thì đàn vịt cho sản lượng trứng càng cao. Tỷ lệ đẻ cao và ổn

định sẽ cho sản lượng trứng cao. Thời gian này thường 4 tháng.

+ Dập vịt: Dập vịt là cho vịt ngừng đẻ, thay lông chuẩn bị cho

chu kỳ đẻ tiếp theo. Nuôi vịt chăn thả gắn với thời vụ và đồng chăn

nên dập vịt là kỹ thuật được người chăn nuôi sử dụng. Sau thời gian

dài đẻ trứng, vịt mái đuối sức, lông xơ xác, tỷ lệ đẻ giảm còn dưởi

50%, nhiều vịt mái trong đàn đã nghỉ đẻ, lúc này cần dập vịt. Nhốt

vịt tại chuồng, cho uống đủ nước, không cho ăn 2-3 ngày. Đàn vịt sẽ

ngừng đẻ gần như hoàn toàn, bộ lông tự rụng hoặc phải nhổ lông

cánh chính (thay lông cưỡng bức). Khi thay lông cưỡng bức lưu ý

toàn bộ đàn vịt phải hoàn thiện việc nhổ lông trong ngày. Cho vịt ở

tại chuồng và cho ăn trở lại với lượng tăng dần. Sau 3-4 ngày cho vịt

chăn thả trở lại và ăn lượng thức ăn băng 55-65% khi vịt đẻ (nuôi

cầm xác). Giai đoạn này vịt phục hối sức khỏa và bộ lông mới mọc

trở lại.

+ Dựng vịt cho đẻ lại: Sau khi bộ lông vịt thay sắp xong,

trước khi cho vịt đẻ lại 7-10 ngày cần tăng cường thức ăn, dinh

dưỡng cao chuẩn bị cho vịt đẻ lại. Chăm sóc nuôi dưỡng gần như

Page 254: Chăn nuôi gia cầm

254

giai đoạn thúc đẻ. Đàn vịt đẻ lại cho khối lượng trứng cao hơn đẻ lần

đầu. Nuôi chăn thả mỗi năm cho vịt nghỉ đẻ 2 lần. Duy trì sự đẻ

trứng của vịt mỗi lần 4 tháng. Thời gian còn lại là vịt ngừng đẻ và

chuẩn bị cho đẻ lại.

Phương thức nuôi vịt đẻ theo thời vụ, thả đồng đem lại hiệu

quả kinh tế cao, nếu điều khiển tốt thời vụ và các khâu kỹ thuật nói

trên. Nhưng phương thức nuôi này đang gặp trở ngại ngày càng

nhiều do đồng chăn thu hẹp, thời gian trống đồng để thả vịt ngắn,

nguy cơ dịch bệnh và ô nhiễm môi trường ngày càng lớn, nhất là sau

cúm gia cầm H5N1. Vì vậy cần nghiên cứu cải tiến để phương thức

chăn thả hợp lý hơn.

7.3.3. Kỹ thuật nuôi dưỡng ngan

Ngan có nhiều đặc điểm giống vịt (nhiều vùng gọi ngan là vịt

xiêm), tuy vậy vẫn có những điểm khác biêt đáng lưu ý trong khi

nuôi dưỡng ngan.

- Phương thức nuôi. Ngan chủ yếu nuôi nền, nuôi trên nền (đất,

gạch, xi măng) hoặc trên sàn (gỗ, tre,nứa); có thể nuôi ngan gần

nguồn nước hoặc nuôi khô không cần nước bơi lội.

- Các điều kiên nuôi dưỡng ngan

Mật độ nuôi: 5 con/m2 nền; 7 con/m2 sàn. Nhiệt độ chuồng

nuôi theo tuổi (bảng 7.11), ẩm độ chuồng nuôi 60-65%, không khí

sạch cần 4m3 vào mùa đông, 10m3 vàp mùa hè/1kg khối lượng sống

trong 1 giờ, nên cần độ thông thoáng tốt của chuồng nuôi; chiếu

sáng, tuần đầu 5 lux, sau đó giảm dần còn 10 lux (lux là

1lumen/m2). Máng uống: những ngày đầu khi mới nở 50 con/máng

hình trụ 4 lít. Sau 15 ngày: 250con ngan/máng dài 2m hoặc 1 máng

treo tự động cho 100-150 ngan. Máng ăn: những ngày đầu khi mới

nở 100 con/máng dài hoặc máng tròn cho chu vi 1,5m. Sau 15 ngày:

100 con ngan/3 máng như trên. Bố trí máng ăn, máng uống trải đều

nền chuồng.

Page 255: Chăn nuôi gia cầm

255

Bảng 7.11: Nhiệt độ thích hợp cho ngan con (0C)

Tuần tuổi 1 2 3 4 5

Nhiệt độ dưới

chụp sưởi

35-37 30-32 28-30 23-26 20-21

Nhiệt độ môi

trường

18-20 18-20 16-18 15-18 15-18

- Thức ăn. Thức ăn cho ngan chia làm 3 giai đoạn với yêu cầu

dinh dưỡng khác nhau: thức ăn khởi động 0-3 tuần tuổi, thức ăn sinh

trưởng 4-6 tuần tuổi, thức ăn kết thúc 7 tuần tuổi đến khi xuất thịt

(10-12 tuần tuổi). Dinh dưỡng cho ngan theo Docacvin và Docrut

(bảng 7. 12).

Bảng 7. 12: Tiêu chuẩn dinh dƣỡng cho ngan

Tuần

tuổi

ME

(Kcal/kg)

Protein

thô(%)

Methionine

(%)

Lysine

(%)

0-3 2800-3000 17-19 0,38-0,41 0,90-0,96

4-6 2800-3000 14-15 0,32-0,34 0,73-0,78

7-12 2800-3000 12-13 0,22-0,28 0,51-0,55

Nuôi dưỡng ngan cần lưu ý ngan con không ăn thêm thức ăn khi

khẩu phần có mức protein thấp. Vì vậy cần cân đối, đầy đủ các axit

amin nếu không sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng. Ở ngan trưởng thành

có khả năng tự điều chỉnh lượng ăn vào để có đủ dinh dưỡng cần

thiết, ngay cả khi chất lượng thức ăn thay đổi (theo Bùi Đức Lũng,

1998).

- Nuôi dưỡng ngan đẻ.

Mật độ 2-3 con/m2 (tính chung cho cả ngan mái và trống). Quy

mô đàn không quá 500 con ngan mái sinh sản. Máng uống 1,6

cm/con, máng ăn 6cm/con; ánh sáng 10-20 lux, thời gian chiếu sáng

14 giờ và tăng dần đến 16 giờ/ngày. Nhiệt độ chuồng nuôi tối ưu 15-

Page 256: Chăn nuôi gia cầm

256

200C, ngan chịu nóng tốt hơn gà, vịt. Chế độ dinh dưỡng cho ngan

sinh sản: Giai đoạn ngan hậu bị: Năng lượng trao đổi (Kcal/kg)

2700-2800, ngan sinh sản như ngan hậu bị 2700-2800; protein thô

(%) tương ứng là 11-15 và 16-17.

7.3.4. Kỹ thuật nuôi dưỡng ngỗng

Ngỗng là đối tượng gia cầm nuôi chưa được phát triển nhiều ở

nước ta, nhưng trên thế giới ngỗng là nguồn cung cấp thịt quan

trọng. Những năm gần đây ngoài sưu tầm, phục hồi các giống ngỗng

địa phương và nghề nuôi ngỗng trong nông hộ, nước ta đã nhập nội

nhiều giống ngỗng quý làm tăng sản xuất thịt và đa dạng vật nuôi,

đang được người dân quan tâm.

- Thức ăn cho ngỗng thịt.

Thức ăn hỗn hợp cho ngỗng thịt giai đoạn khởi động cần có:

Năng lượng trao đổi: 3093Kcal (12,94MJ);

Protêin thô: 22%;

Canxi: 1,2%; Phốt pho: 0,8%.

Giai đoạn kết thúc:

Năng lượng trao đổi: 3145Kcal (13,16MJ);

Protêin thô: 18%;

Canxi: 1,2%; Phốt pho: 0,8%.

Sau 3 tuần tuổi ngoài thức ăn hỗn hợp, trong khẩu phần bắt

buộc phải có thức ăn xanh. Tỷ lệ tương ứng là 3/1. Lượng thức ăn

cho ngỗng thịt có thể cho ăn tự do cả thức ăn tinh và cả rau xanh.

- Thức ăn cho ngỗng hậu bị. Năng lượng trao đổi: 3000-

3100Kcal (12,55-12,97MJ); Protêin thô: 13-14%; Canxi: 1,2%;

Phốt pho: 0,8%. Hàng ngày thả trên bài cỏ và có nguồn nước sạch.

- Thức ăn cho ngỗng đẻ (sinh sản). Năng lượng trao đổi:

2700-2800100Kcal (11,29-11,71MJ); Protêin thô: 14-16%; Canxi:

2,0-3,0%; Phốt pho: 0,7- 0,8%. Hàng ngày thả trên bài cỏ và có

nguồn nước sạch.Yêu cấu protein cho ngỗng thấp hơn ở gà mái đẻ.

Page 257: Chăn nuôi gia cầm

257

Lượng thức ăn mỗi ngày 200-300g thức ăn hỗn hợp và 400-

6000g thức ăn xanh. Nuôi thả tự nhiên, sử dụng bãi cỏ và nguồn

nước mỗi ngày giảm được 100g thức ăn. Chi phí thức ăn ít hơn 25-

30% nuôi nhốt công nghiệp.

Ngỗng vỗ béo lấy gan. Lúc 8 tuần tuối gan ngỗng khoảng

280g, nếu vỗ béo đến 14 tuần tuồi đạt 586g. Thức ăn vỗ béo ngỗng

chủ yếu là ngô. Lượng ngô nhồi béo ngỗng tăng dần 300, 500, 600,

700- 800g/con/ngày. Giống ngỗng dùng nhồi béo có thể dùng hết

1000g/ngày.

7.3. Kỹ thuật nuôi dƣỡng bồ câu

Ở nước ta, bồ câu được nuôi phân tán trong nông hộ như là

một thú vui và là nguồn thức ăn bổ dưỡng cho người già. Những

năm gần đây, đa dạng đối tượng gia cầm nuôi, chúng ta đã nhập về

các dòng bồ câu năng suất cao nhằm nhân thuần và lai với bồ câu

nội để tăng năng suất thịt. Các dòng bồ câu pháp VN1, TiTan và

MiMas đã được nghiên cứu và thích nghi với quy trình do Viện chăn

nuôi quốc gia đưa ra.

* Bồ câu nội. Các giống chim bồ câu của nước ta có khối

lượng cơ thể nhỏ, lúc 28 ngày đạt 250-300g/con; khi trưởng thành

con trống 400-450g, con mái 350-400g/con (Tô Du, Đào Đức Long,

1996). Trong khi đó thế giới có nhiều giống/dòng bồ câu năng suất

thịt cao. Năm 1996,1998 nước ta đã nhập các dòng bồ câu pháp về

nuôi.

Bồ câu pháp là giống bồ câu chuyên thịt gồm 3 dòng chính

VN1, TiTan, MiMas

* Bồ câu pháp dòng VN1 được nhập vào Việt Nam năm

1996, số lứa đẻ/mái/năm: 08-09; Tỷ lệ nở:78-80%; số chim non tách

mẹ 28 ngày:12-13 con; khối lượng chim lúc 28 ngày tuổi: 540-

580g/con.

Page 258: Chăn nuôi gia cầm

258

* Bồ câu pháp dòng TiTan được nhập vào Việt Nam năm

1998, số lứa đẻ/mái/năm: 06-0,7 ; Tỷ lệ nở:66-72%; số chim non

tách mẹ 28 ngày:11-12 con; khối lượng chim lúc 28 ngày tuổi:

650g/con.

* Bồ câu pháp dòng MiMas được nhập vào Việt Nam năm

1998, số lứa đẻ/mái/năm: 10; Tỷ lệ nở:76-82%; số chim non tách mẹ

28 ngày:14-15 con; khối lượng chim lúc 28 ngày tuổi: 930-

980g/con.

Theo nghiên cứu của Trương Thuý Hường và cộng sự (2005),

các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của các dòng bồ câu pháp thể hiện trên

bảng 7.13.

Bảng 7.13: Các chỉ tiêu sản xuất của các dòng bồ câu pháp

nuôi ở Việt Nam

Chỉ tiêu Bồ câu dòng

TiTan

Bồ câu dòng

MiMas

Tỷ lệ sống (%):

0-28 ngày

29-180 ngày

> 180 ngày

94,01

94,55

98,08

94,99

95,02

97,54

Khối lượng cơ thể (g/con):

sơ sinh

2 tuần tuổi

4 tuần tuổi

16,58

423,67

636,47

15,24

342,61

582,90

Thức ăn tiêu thụ và chi phí

thức ăn (kg):

0-28 ngày tuổi

2-6 tháng tuổi

> 6 tháng: Nuôi con

Không nuôi con

Cho 1 lứa đẻ

TA tiêu tốn cho 1kg thịt hơi

0,37

6,43

1,91

0,63

2,54

6,53

0,31

6,40

1,81

0,48

2,29

5,90

Page 259: Chăn nuôi gia cầm

259

Năng suất thịt: khối lượng

(g)

Tỷ lệ thịt xẻ (%)

Tỷ lệ thịt đùi/thịt xẻ (%)

Tỷ lệ thịt ức/ thịt xẻ (%)

650,47

75,18

19,55

40,20

585,24

75,51

19,00

39,90

Tuổi đẻ trứng đầu (ngày) 175,21 173,85

Số trứng trung bình/lứa

(quả)

1,96 1,97

Tỷ lệ phôi (%) 92,02 93,37

tỷ lệ nở (%) 70,39 79,01

Khối lượng trứng (g/quả) 24,25 23,69

Khoảng cách 2lứa đẻ (ngày) 40,80 36,32

Số chim non tách mẹ lúc 28

ngày tuổi/cặp/năm (con)

11,34 14,73

- Kỹ thuật nuôi dưỡng chăm sóc.

+ Chim bồ câu chọn phải khoẻ mạnh, lông mượt, không bệnh

tật, không dị tật, nhanh nhẹn. Nên mua chim 6 tháng tuổi đã

ghép đôi.

+ Chuồng nuôi phải có ánh sáng mặt trời, khô ráo, thoáng

mát, sạch sẽ, yên tĩnh, tránh gió lùa, tránh tiếng ồn.

+ Lồng nuôi chim: mỗi cặp chim cần 01 ô chuồng có thể bằng

tre, gỗ, lưới sắt. Kích thước ô chuồng: cao 40cm, sâu 40cm, rộng

50cm.

+ Ổ đẻ: mỗi ô chuồng cần 02 ổ đẻ, 01 ổ để đẻ và ấp trứng đặt

trên, 01 ổ để nuôi con đặt dưới. Kích thước: đường kính 20-25cm,

chiều cao 07-08cm.

+ Máng ăn: bằng tre hoặc bằng tôn, dài 15cm, rộng 05cm, sâu

05cm.

+ Máng uống: Đường kính 05-06cm, cao 08-10cm, đảm bảo

tiện lợi và vệ sinh.

Page 260: Chăn nuôi gia cầm

260

+ Máng đựng thức ăn bổ sung: nên làm bằng gỗ hoặc chất

dẻo, không dùng kim loại; kích thước như máng uống.

- Dinh dưỡng và thức ăn .

+ Nhu cầu dinh dưỡng. Thức ăn cho chim sinh sản: năng

lượng trao đổi (Kcal/kg) 2900-3000;Protein thô 13,4-14,4%; Canxi:

2,3-3,0%; Phốt pho: 0,6-0,8%. Bồ câu nuôi nhốt cần bổ sung thường

xuyên chất khoáng, theo công thức: khoáng premix 85%, muối ăn

5%, sỏi nhỏ 5%.

+ Khẩu phần cho chim (bảng 7.14).

Bảng 7.14: Khẩu phần cho chim bồ câu

Nguyên liệu

Giai đoạn tuổi

Ngô hạt

(%)

Hạt đỗ

xanh (%)

Gạo xay

hoặc thóc

(%)

Chim sinh sản (> 6 tháng) 50 30 20

Chim dò (2-6 tháng) 50 25 25

Thành phần nguyên liệu, giá trị dinh dưỡng của khẩu phần

cho chim bồ câu Pháp đã được sử dụng trong nghiên cứu của Trương

Thúy Hường (2005) cho kết quả tốt (bảng 7.15).

Bảng 7.15: Khẩu phần cho chim bồ câu Pháp sinh sản

Thành phần nguyên liệu (%)

Bồ câu

dòng

MiMass

Bồ câu

dòng

Titan

Bồ câu dò

(cả 2 dòng)

- Ngô hạt

- Cám viên proconco C64

- Đỗ tương rang

- Hạt đậu xanh

42

51

3

4

42

45

7

6

52

48

-

-

Giá trị dinh dưỡng

ME (Kcal)

Prôtêin thô (%)

Mỡ thô (%)

2928

14,98

2,20

2963

16,00

2,77

2964

13,06

2,19

Page 261: Chăn nuôi gia cầm

261

Xơ thô (%)

Canxi (%)

Phôtpho tổng số (%)

Khoáng tổng số (%)

Lysine (%)

Methionine (%)

4,64

1,84

0,29

0,94

1,35

0,32

4,53

1,64

0,28

1,20

2,55

0,57

4,47

1,73

0,27

0,78

0,13

0,08

+ Lượng thức ăn tiêu thụ: chim dò: 80g/đôi/ngày; chim sinh

sản thời kỳ nuôi con: 120-130g/đôi/ngày, thời kỳ không nuôi con:

90-100g/đôi/ngày. Lượng thức ăn cho 01 đôi chim sinh sản/năm:42-

43kg.

- Chăm sóc chim.

+ Chim non (0-28 ngày tuổi). Chim mới nở ít long, rất yếu,

chưa mở mắt và chưa tự ăn được, cần được nuôi dưỡng chăm sóc

tốt.

+ Chim dò (2-6 tháng tuổi). Sau 28 ngày chim tách mẹ, gọi là

chim dò. Rời ổ, chim còn yếu, sức đề kháng và khả năng tiêu hoá

kém, dễ bệnh tật nên cần nuôi riêng. Cần thường xuyên bổ sung

vitamin A, B, D... và kháng sinh để trợ giúp tiêu hoá và kháng bệnh.

+ Chim sinh sản (> 6 tháng tuổi). Thường xuyên theo dõi

chim đẻ, bổ sung lót ổ bằng rơm khô, sạch và dày để chim ấp trứng

tốt. Khi chim nuôi con cần thay ổ 02 lần/tuần, tránh tích tụ phân trên

ổ.

Bồ câu nuôi thâm canh là kỹ thuật mới ở nước ta nên cần

tham khảo thêm các tài liệu và trợ giúp của các nhà kỹ thuật để có

kết quả nuôi tốt nhất.

7.4 Kỹ thuật nuôi dƣỡng chim cút (nuôi cút)

Chim cun cút gọi tắt là chim cút được thuần hoá ở Nhật Bản

từ thế kỉ XI. Cút nuôi có nguồn gốc từ châu á, cút được nuôi phổ

biến ở nhiều nước trên thế giới để sản xuất thịt và trứng. Hiện nay,

Page 262: Chăn nuôi gia cầm

262

Nhật Bản sản xuất mỗi ngày 1,5 triệu trứng cút và khoảng 1 triệu

con cút thịt; ở Pháp cũng sản xuất hơn 300 nghìn trứng cút /ngày; Ai

Cập mỗi năm xuất khẩu hơn 3 triệu con cút thịt. Ở nước ta nuôi chim

cút mới được quan tâm gần đây. Năm 1971-1972 Viện chăn nuôi

nhập cút vào nuôi và sản xuất cút giống. Ở miền Nam cút được phát

triển sớm hơn ở miền Bắc.Trong những năm gần đây nghề chăn nuôi

cút ( nuôi chim cút) đã phát triển rộng rãi ở nhiều vùng trong cả

nước, tập trung ở ven thành phố, thị trấn, có hộ gia đình nuôi tới 50

nghìn cút đẻ; quy mô trung bình 500 - 2000 con /hộ.

Chăn nuôi chim cút đã mang lại hiệu quả kinh tế và góp phần

xoá đói giảm nghèo cho nhiều nông hộ ở nước ta.

+ Một số đặc tính sinh học của chim cút.

- Chim cút có những tập tính sinh học đáng chú ý đó

là thị giác rất phát triển nên có khả năng nhận biết và chọn lọc thức

ăn cao, nhưng vị giác và khứu giác lại kém phát triển nên khó nhận

biết về mùi vị thức ăn. Vi vậy, cút rất dễ bị ngộ độc thức ăn do ăn

phải thức ăn ôi, mốc.

- Chim cút còn mang nhiều đặc tính hoang dã, đặc

điểm sinh sản của cút có khác các loài chim khác. Chim cút cái giữ

phầm lớn chức phận mà lẽ ra là ở giới đực như khoe mẽ, gù, đánh

nhau với chim cái khác để tranh dành chim đực. Sau khi đẻ xong

phần việc ấp trứng và chăm sóc chim non do chim đực đảm trách,

còn chim cái đi tìm bạn và kết đôi với các chim đực khác. Chim cút

hoang dã làm tổ trên mặt đất, đẻ theo mùa, mỗi năm 4 lứa, mỗi lứa

15- 17 trứng. Chim cút đã được thuần dưỡng thành cút nuôi vẫn sợ

tiếng động, tiếng ồn, thường bay lên va đầu vào thành lồng, chết.

Ngày nay, chim cút nuôi nhốt, cho ăn đầy đủ, chăm sóc tốt cho sản

lượng trứng 300-360 trứng/ năm, có con đẻ đến 400 trứng / năm. Tỷ

lệ đẻ trung bình 80-90%, khối lượng trứng trung bình 10- 15g/ quả.

Tuổi bắt đầu đẻ trứng khoảng 40 ngày, thời gian sử dụng đẻ trứng

đến 14- 18 tháng.

Page 263: Chăn nuôi gia cầm

263

- Chim cút có tốc độ sinh trưởng nhanh. Lúc 35 ngày

tuổi cút trống có khối lượng trung bình 153g/ con, tăng 18,8 lần khối

lượng lúc mới nở; cút mái khối lượng 170g/ con, tăng 20,8 lần lúc sơ

sinh. Khi vào đẻ cút có khối lượng 140g, 6 tháng nặng 150-170g/con

cá biệt có con tới 250g/ con (tùy theo giống).

- Nuôi cút không đòi hỏi nhiều diện tích chuồng nuôi,

thức ăn chi phí không nhiều nhưng hiệu quả chăn nuôi cao. Mỗi

ngày cho cút trưởng thành cho ăn 20-23g thức ăn và cút cho một

quả trứng nặng 10-11g cho thấy cút là loài gia cầm nuôi có năng

suất tạo trứng cao. Thịt và trứng cút có giá trị dinh dưỡng cao, dễ

chế biến, cút có thể nuôi lồng với mật độ cao phù hợp với các vùng

ven thành phố, thị xã đất ở chật hẹp.

+ Các giống chim cút.

Trên thế giới có nhiều giống chim cút khác nhau. Nuôi để

phục vụ giải trí, săn bắn có giống cút Bốp oai (Bop white); nuôi làm

cảnh, nghe hót như giống Xinh Xinh (Singing gruil); giống nuôi lấy

thịt và đẻ trứng như pharaoh của Anh; Cotusnix Tatonica của Nhật

Bản, một số giống khác của Pháp, Mỹ, Philippine, Malaysia. Nhìn

chung các giống cút đều có kích thước không lớn, mỏ cút ngắn,

khoẻ; cánh ngắn, tròn, yếu, có 10 lông cánh sơ cấp. Đuôi ngắn,

mềm gồm 12 lông, phần lớn đều có 3 ngón chân. Chim cái lớn hơn

chim đực và màu lông cũng sặc sỡ hơn.

Ở nước ta nuôi giống cút Pharaoh (nhập vào miền Nam từ rất

lâu), khối lượng trưởng thành 180-200g/con. Khoảng năm 1980

nhập chim cút pháp khối lượng to hơn cút Pharaoh, trưởng thành

khoảng 200-250g/con. Các giống cút này pha tạp trong quá trình

phát triển chăn nuôi cút.

Căn cứ vào màu sắc vỏ trứng để nhận biết độ thuần chủng của

các giống cút.

Cút Pharaoh thuần vỏ trứng có màu trắng và các đốm đen nhỏ

đều như đầu đinh ghim.

Page 264: Chăn nuôi gia cầm

264

Cút Anh thuần vỏ trứng có màu nâu nhạt, các đốm đen to.

Hiện nay ở các đàn cút nuôi thường nhận được trứng có

nhiều màu pha trộn, đốm đen to, nhỏ không như nhau chứng tỏ cút

đã bị pha tạp ở các mức độ khác nhau.

+ Kỹ thuật chăn nuôi cút.

- Kỹ thuật nuôi cút con (1-25 ngày tuổi)

* Chọn cút mới nở nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, khối lượng trung

bình của giống 6-10g/con, lông màu vàng với các vằn đen, loại bỏ

con hở rốn, khòeo chân, dị tật.

* Các thiết bị dùng nuôi cút

** Lồng úm: kích thước lồng úm: Rộng 1m dài 1,5m cao

0,5m có bao lưới chống thú dữ, chuột, mèo đáy lồng cách mặt đất

0,4-0,5m. Lưới lót đáy cần có lỗ nhỏ, lót bìa cứng, cót trong những

ngày đầu tránh cút bị kẹt chân.

** Chuồng nuôi: Cút hay bay nhảy nên thiết kế chuồng cần

chú ý đặc điểm này. Thường nuôi cút trên lồng tầng, tuỳ điều kiện

đất đá, loại cút nuôi mà bố trí chuồng nuôi thích hợp. Yêu cầu

chuồng nuôi sàn phải lót lưới thép nắp trên làm bằng lưới mềm để

cút bay nhảy không đụng vào sàn trên. Vách chuồng có các song dọc

đủ kẻ hở cho cút lấy được thức ăn, nước uống từ bên ngoài thành của

chuồng nuôi. Một số nơi có thể nuôi trên nền có quây lưới và lót trấu

hay mùn cưa (một số kiểu chuồng như hình trang 213).

- Máng ăn máng uống: Máng ăn cho cút 2 tuần đầu thường

dùng máng rộng 5-7cm, cao 2cm, dài 20-30cm, trên có nắp lưới

ngăn không cho cút con bới làm rơi vãi thức ăn mỗi chuồng cút đặt

2-4 máng ăn. Cút 3 tuần trở lên dùng máng ăn rộng 5-7cm, cao 5-

6cm, dài 20-30cm, máng được mắc bên ngoài chuồng, cút thò đầu

qua song cửa lấy thức ăn.

- Máng uống có nhiều dạng: dài, tròn, trụ.

Page 265: Chăn nuôi gia cầm

265

- Nguồn sưởi: Thường dùng bóng đèn điện 45w để làm

nguồn sưởi trong chuồng nuôi cút. Khi không có điện có thể dùng

đèn bão làm nguồn sưởi.

Chuồng nuôi cút

Hình 7.12. Chuồng nuôi cút

a.Cửa; b.Máng ăn bằng nhôm hoặc bằng gỗ; c. Máng uống;

d. Vỉ hứng phân; g.Máng đón trứng.

* Yêu cầu kỹ thuật khi nuôi cút:

+ Nhiệt độ trong lồng úm nhiệt trong 3 ngày đầu là 350C đến

280C, tuần thứ 2: 25

0C tuần thứ 3 trở đi nếu thời tiết tốt không cần

nguồn sưởi nhưng nhiệt độ không dưới 200C.

+ Ánh sáng cần 60w/m2.

Page 266: Chăn nuôi gia cầm

266

+ Mật độ nuôi. Số cút /m2 tuần đầu 200-250 con, tuần 2: 150-

200, tuần 3:100-150. Với quây có đường kính 1m thì nhốt được 200

cút tuần đầu và 150 cút tuần 2 và 100 cút tuần 3.

+ Thức ăn cho cút.

Thức ăn nuôi cút cần lượng protein thô 26-28% (cao hơn gà)

có thể tham khảo các khẩu phần bảng 7.3.

Hàng ngày cho thức ăn vào máng nhiều lần, chỉ đổ ½-1/3

máng, không nên đổ quá đầy tránh rơi vãi. Đảm bảo đủ nước sạch

,thường xuyên cho cút cả ngày, đêm.

Bảng 7. 16: Khẩu phần thức ăn cho cút con

(tính trong 10kg hỗn hợp)

Nguyên liệu Đơn vị Công thức 1 Công thức 2

Bột bắp Kg 3.0 1.0

Tấm Kg 1.0 3.0

Cám gạo Kg 1.0 1.0

Bột cá nhạt Kg 1.5 1.5

Khô dầu lạc Kg 1.2 1.2

Khô dầu đậu tương Kg 1.0 1.0

Bột đậu xanh Kg 1.0 1.0

Bột sò, xương Kg 0.2 0.2

Premix khoáng Kg 0.05 0.05

Premix vitamin Kg 0.05 0.05

Vitamin gói 4 10

- Kỹ thuật nuôi cút đẻ:

Cút con sau 20 ngày tuổi có thể phân biệt trống mái. Nuôi đến

25 ngày tuổi thì chọn lọc chuyển qua nuôi cút thịt hoặc giữ lại nuôi

cút đẻ.

+ Chọn cút trống, mái

Qua màu sắc lông để chọn. Cút trống lông ức và hai bên má

màu nâu đỏ, cút mái lông ức màu vàng rơm, lốm đốm chấm đen.

Page 267: Chăn nuôi gia cầm

267

Chọn cút trống : chọn con thon thả, nhanh nhẹn, khoẻ mạnh,

lông ngực màu đỏ(verni) không xen màu khác, khối lượng lớn (70-

80g/con lúc 20 ngày tuổi) có bầu tinh tròn căng đỏ sẫm co bóp

thường xuyên.

Chọn cút mái: Chọn con đầu thanh tú cổ nhỏ vừa phải mắt

linh hoạt, lông mượt, bóng, lông ngực có đốm đen trắng lan tới

bụng, hậu môn niêm mạc đỏ hồng, xương chậu rộng. Khối lượng 70-

75g/con lúc 20 ngày tuổi.

+ Ghép trống mái

Thông thường ghép trống mái từ nhỏ nhưng theo kinh nghiệm

nhiều người nuôi cút thì nuôi cút trống tới 3-4 tháng tuổi mới cho

phối giống vì ở tuổi này cho tỷ lệ thụ tinh cao (>80%). Tỷ lệ ghép

trống mái có thể 2-3/5, 5/15 hoặc 5/20 (5 trống cho 20 mái). Nếu

trống quá nhiều thì cắn mổ, đạp lẫn nhau gây trụi lông, vỡ đầu, chết,

tỷ lệ thấp thì tỷ lệ thụ tinh thấp.

+ Kỹ thuật nuôi cút đẻ.

Cút mái bắt đầu đẻ quả trứng đầu tiên lúc 42-45 ngày tuổi. Tỷ

lệ đẻ tăng dần và đạt cao nhất tới 90-95% (biểu đồ tỷ lệ đẻ…trang

16). Đẻ tập trung vào buổi chiều từ 13-18h (khoảng 75% tổng số

trứng đẻ/ ngày). Thời gian đẻ kéo dài tới 60 tuần thì giảm đẻ.

Hình 7.13: Đồ thị về tỷ lệ đẻ của cút

Page 268: Chăn nuôi gia cầm

268

Nhiệt độ thích hợp cho cút đẻ 20-250C, mùa hè có nhiệt độ

35-370C cút đẻ giảm đi nhiều. Vì vậy, cần chống nóng cho cút

trong mùa hè và giữ ấm cho cút trong mùa đông.

Bảng 7.17: Khẩu phần nuôi cút đẻ (tính cho 10kg thức ăn)

Nguyên liệu Đơn vị Công thức 1 Công thức 2

Bột ngô Kg 2,5 3,0

Cám gạo Kg 2,0 1,5

Bột cá nhạt Kg 1,2 2,0

Khô dầu lạc Kg 1,2 1,2

Bột đậu tương Kg 1,5 0,5

Bột đậu xanh Kg 1,0 1,0

Bột sò Kg 0,3 0,3

Bột xương Kg 0,1 0,1

Bột cơ Kg 0,1 0,2

Premix khoáng Kg 0,05 0,5

Premix Vitamin Kg 0,05 0,5

Vitamin A,D,E gói 10g Gói 4 4

Ánh sáng: Cần 16h chiếu sáng/ ngày. Dùng bóng đèn 40-

60w/3m2.

Thức ăn: Cút đẻ cần thức ăn dinh dưỡng cao vì lượng trứng

sản xuất ra bằng 10% khối lượng cơ thể cút. Protein thô trong thức

ăn là 24-26%, nguyên liệu tốt tránh thiu mốc và không thây đổi thức

ăn đột ngột. Khẩu phần cho cút đẻ có thể tham khảo bảng 7.4.

Chú ý: Tránh các thay đổi đột ngột thành phần khẩu phần

và đảm bảo yên tĩnh, tránh ồn ào, xáo động đàn cút đẻ.

Khẩu phần nuôi cút thịt bảng 7.18.

Page 269: Chăn nuôi gia cầm

269

Bảng7.18:Khẩu phần thức ăn nuôi cút thịt

(tính trong 10kg thức ăn)

Nguyên liệu Đơn

vị

Công

thức 1

Công thức 2

Bột bắp Kg 4,0 3,5

Tấm Kg 1,0 -

Cám gạo Kg 0,7 2,5

Khô dầu lạc Kg 2,0 1,7

Bột cá nhạt Kg 1,0 1,0

Bột đậu tương, đậu xanh Kg 1,0 1,0

Bột sò, xương Kg 0,2 0,2

Premix khoáng Kg 0,01 0,1

- Kỹ thuật nuôi cút thịt (25-50 ngày tuổi)

Sau 25 ngày tuổi cút được chuyển đem qua nuôi thịt không

cần chọn lọc nếu không giữ lại nuôi cút đẻ. Tuổi bán cút thịt thích

hợp lúc 40-50 ngày, lúc mày thịt ngon, mềm, nuôi dài hơn nữa sẽ

tiêu tốn thức ăn, hiệu quả thấp.

Giai đoạn 1-25 ngày tuổi nuôi như quy trình chăn nuôi cút

con.

Giai đoạn 26-50 ngày tuổi. Cút khoẻ, ăn mạnh dễ nuôi, chóng

lớn. Cần cho ăn thức ăn năng lượng cao, lượng đạm trong thức ăn

giảm (22-24%). Khi chuyển thức ăn cầ tránh đột ngột. Mật độ nuôi

70-90 con/m2 (30-45 ngày tuổi). Có thể cho cút ăn tự do.

Page 270: Chăn nuôi gia cầm

270

NỘI DUNG ÔN TẬP, KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ

1. Các phương thức chăn nuôi gia cầm, phân tích ưu

nhược điểm và khả năng ứng dụng cho các đối

tượng gia cầm nuôi.

2. Đặc điểm và kỹ thuật nuôi dường gia cầm con.

3. Đặc điểm và kỹ thuật nuôi dưỡng gà thịt.

4. Đặc điểm và kỹ thuật nuôi dưỡng gà sinh sản.

5. Kỹ thuật nuôi dưỡng ngan, vịt, bồ câu, chim cút.

THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ CỦA GIÁO TRÌNH

ẢNH

PGS.TS Nguyễn Đức Hƣng

- Họ và tên: Nguyễn Đức Hưng

- Sinh năm 1953, tại Thanh Hóa

- Tốt nghiệp đại học ngành Chăn nuôi, năm 1975; Phó tiến sỹ Chăn

nuôi, năm 1990; Phó giáo sư, năm 2001; Nhà giáo ưu tú ,năm 2002.

Cơ quan công tác: Đại học Huế (Bộ môn Chăn nuôi chuyên khoa,

Khoa Chăn nuôi thú y, Trường Đại học Nông Lâm- Đại học Huế)

- Địa chỉ Email: [email protected].

Page 271: Chăn nuôi gia cầm

271

THÔNG TIN VỀ ĐỐI TƢỢNG SỬ DỤNG GIÁO TRÌNH

- Giáo trình là tài liệu chính thức dùng cho sinh viên đại học ngành

chăn nuôi, chăn nuôi thú y các trường Đại học Nông Lâm. Và là tài

liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh các

ngành học có liên quan.

- Các từ khóa: Chăn nuôi gia cầm, gia cầm, ấp trứng gia cầm.

- Yêu cầu tiên quyết: Trước khi học môn học này sinh viên cần học

qua sinh học đại cương, giải phẫu, sinh lý gia súc gia cầm, sinh hóa

động vật, di truyền và chọn giống vật nuôi, dinh dưỡng và thức ăn

chăn nuôi.

- Giáo trình đã xuất bản tại nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội,

năm 2006.