Chương 5 TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐẠO ĐỨC QUẢN TRỊ SAU KHI ĐỌC VÀ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG NÀY, BẠN CÓ THỂ: 1. Giải thích quan điểm cổ điển và quan điểm kinh tế - xã hội về trách nhiệm xã hội 2. Đưa ra những lập luận ủng hộ và phản đối việc trở nên có trách nhiệm xã hội 3. Phân biệt giữa nghĩa vụ xã hội, đáp ứng xã hội, và trách nhiệm xã hội 4. Giải thích quan hệ giữa trách nhiệm xã hội của công ty và hiệu quả kinh tế 5. Mô tả hoạt động quản trị dựa trên các giá trị và nó liên quan như thế nào đến văn hóa tổ chức 6. Giải thích quản trị “xanh” là gì và tại sao các tổ chức lại “xanh hóa” 7. Định nghĩa đối tượng hữu quan và mô tả vai trò của họ trong trách nhiệm xã hội 8. Phân biệt bốn quan điểm về đạo đức quản trị 9. Xác định các nhân tố có ảnh hưởng đến hành vi đạo đức 10. Mô tả các giai đoạn phát triến của đạo đức 11. Thảo luận các phương pháp khác nhau mà các tổ chức có thể sử dụng để cải thiện hành vi đạo đức của nhân viên. 106
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Chương 5
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐẠO ĐỨC QUẢN TRỊ
SAU KHI ĐỌC VÀ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG NÀY, BẠN CÓ THỂ:
1. Giải thích quan điểm cổ điển và quan điểm kinh tế - xã hội về trách
nhiệm xã hội
2. Đưa ra những lập luận ủng hộ và phản đối việc trở nên có trách
nhiệm xã hội
3. Phân biệt giữa nghĩa vụ xã hội, đáp ứng xã hội, và trách nhiệm xã
hội
4. Giải thích quan hệ giữa trách nhiệm xã hội của công ty và hiệu quả
kinh tế
5. Mô tả hoạt động quản trị dựa trên các giá trị và nó liên quan như
thế nào đến văn hóa tổ chức
6. Giải thích quản trị “xanh” là gì và tại sao các tổ chức lại “xanh hóa”
7. Định nghĩa đối tượng hữu quan và mô tả vai trò của họ trong trách
nhiệm xã hội
8. Phân biệt bốn quan điểm về đạo đức quản trị
9. Xác định các nhân tố có ảnh hưởng đến hành vi đạo đức
10.Mô tả các giai đoạn phát triến của đạo đức
11.Thảo luận các phương pháp khác nhau mà các tổ chức có thể sử
dụng để cải thiện hành vi đạo đức của nhân viên.
106
Các ngân hàng có trách nhiệm đối với xã hội hay không và trách nhiệm đó là gì?
Đây là một vấn đề được tranh cãi nóng bỏng ở Australia ngày nay. Khi các Ngân
hàng tái thiết những mạng lưới chi nhánh trong suốt những thập niên 1990 trong
khi công bố những khoản lợi nhuận kỷ lục hết lần này đến lần khác- tất cả bốn
ngânh hàng lớn nhất của Australia đã thu được lợi nhuận từ 1,9 tỉ USD đến 2,4 tỉ
USD trong năm tài chính 2000-2001 – không còn thắc mắc gì nữa vể câu hỏi đã
nêu ra. Khi đề cập đến trách nhiệm xã hội trong nhiều trường hợp có hai quan
điểm.
Một quan điểm ngêi b¶o vÖ ngêi tiªu dïng và có lẽ cũng là của
đông đảo quần chúng rằng là các ngân hàng nên hành động một cách có trách
nhiệm hơn với xã hội trong những việc họ làm. Chẳng hạn như một ngân hàng ở
khu vực nông thôn, được xem như là một cái giếng và khi cái iếng ấy cạn –
đóng cửa, thì cộng đồng địa phương cũng như vậy; người ta sẽ ngừng mua sắm
ở địa phương vì việc đó sẽ thuận tiện hơn khi họ đi cùng một quãng đường như
vậy và đến gửi tiền ngân hàng Khi các ngân hàng giảm đáng kể các chi nhánh
của mình, để giảm sự thiệt hại cho các thị trấn và các cửa hàng mua sắm địa
phương ở ngoại ô, và thu phí nhiều hơn, 2$ đối với một lần rút tiền ở quầy và 60
cent đối với một lần từ máy rút tiền tự động, và thu các phí dịch vụ khác - khỏi
phải nói, dân chúng bắt đầu thấy phiền hà với các ngân hàng. Đặc biệt, dường
như ngân hàng gây tổn hại nhiều nhất cho người dân 6– người nghèo và người
già – là những người thường có những khoản tiển nhỏ gửi trong ngân hàng.
Ngân hàng thường được xem như là một định chế thu lãi nhờ vào lợi thế độc
quyền do cấu trúc của thị trường. Những ngân hàng – riêng đối với bốn ngân
hàng lớn thống lĩnh thị trường của Australia – có đủ sức mạnh tài chính để uy
hiÕp bÊt k× ngân hàng mới tham gia vào thị trường hay thôn tính các ngân
hàng đó nếu họ trở nên quá nguy hiểm đối với hoạt động của bốn đại gia này.
Quan điểm thứ hai từ phía các ngân hàng rất thống nhất rằng họ thực sự
coi trọng trách nhiệm đối với xã hội và thực hiện điều này một cách nghiêm túc.
Họ lập luận rằng người dân Australia cần một hệ thống ngân hàng ổn định, có
hiệu suất và an toàn, và cách duy nhất để đạt được điều này là bảo đảm rằng
các ngân hàng hoạt động lành mạnh và có lãi. Là một lĩnh vực thương mại rủi ro,
họ phải thoả mãn yêu cầu của tất cả các đối tượng hữu quan – cổ đông, các
khách hàng, các nhân viên và cả cộng đồng nữa. Để tự bảo vệ mình khỏi những
phê phán trong các cuộc họp các chi nhánh, các ngân hàng đã chỉ ra cách họ sử
107
dụng công nghệ mới đã mang lại cho ngân hàng và những dịch vụ tài chính một
cách làm mới và hiệu quả hơn. Các ngân hàng giao dịch qua điện thoại chẳng
hạn, và EFTOS ở những cửa hàng để giảm nhu cầu thành lập ngân hàng chi
nhánh ở các địa phương.
Vào cuối năm 2001 khi mà những phê phán của dư luận tiếp tục tăng,
cuối cùng các ngân hàng phải bắt đầu thừa nhận rằng họ đã phải vật lộn với việc
cân bằng giữa cổ đông và khách hàng. Nhiều ngân hàng giờ đây cho biết rằng
họ đang tài thiết lập mối quan hệ giữa khách hàng và cộng đồng sau đợt suy
thoái nghiêm trọng. Có lẽ, sự đơn giản hoá các giảm luật lệ cũng gây tác động
đến ngành. Bốn ngân hàng lớn này quyết định sẽ trao tặng 3 tài khoản miễn phí
vào cuối năm 2001 cho những người làm việc trong lĩnh vực an ninh xã hội và
ngành ngân hàng cũng cam kết sẽ đưa ra một bộ luật ứng xử ngân hàng mới
quan tâm nhiều hơn đến khách hàng vào năm 2002.
Các ngân hàng thực sự có trách nhiệm xã hội bởi vị trí đặc biệt của nó trong
xã hội chúng ta, hoặc họ chỉ là các doanh nghiệp chạy theo những vấn đề kinh tế
thông thường? Bạn nghĩ gì? Rõ ràng, đạo đức và trách nhiệm xã hội là những
vấn đề đang đòi hỏi các nhà quản trị phải giải quyết khi họ thực hiện các hoạt
động hoạch định, tổ chức lãnh đạo và kiểm soát trong tổ chức của mình. Các
nhân tố xã hội có những ảnh hưởng nhất định đến hành động của họ.
Chương này sẽ giới thiệu những vấn đề thường mang tính phức tạp liên
quan đến trách nhiệm xã hội và đạo đức quản trị, Phần thảo luận của các nội
dung này được đặt tại chương này trong cuốn sách để liên kết chúng với các nội
dung trước và sau. Tức là, chúng ta sẽ tìm hiểu về việc cả trách nhiệm xã hội và
đạo đức quản trị đều là những phản hồi đối với những thay đổi của môi trường
và chịu ảnh hưởng của văn hóa tổ chức (chương 3). Hơn nữa, cả trách nhiệm xã
hội và đạo đức quản trị đều được xem là những vấn đề quan trọng khi ra quyết
định (chương 6).
108
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI LÀ GÌ?
Thông qua kỹ thuật Internet, những hình thức kỹ thuật số như MP3 và những dịch vụ
Internet về trao đổi nhạc như Napster, những người yêu nhạc trên thế giới có thể nhận
được những băng hình / đĩa hát mà mình yêu thích với chi phí thấp nhất. Những tập đoàn
toàn cầu lớn ngày càng quan tâm đến việc hạ giá thành và tính cạnh tranh bằng cách mở
thị trường sang những nước mà quyền con người không được đề cao và điều chỉnh với lời
giải thích: họ đang tạo ra công việc cho người dân và giúp nền kinh tế địa phương lớn
mạnh. Các nhà sản xuất xe hơi chế tạo ra những loại xe bốn bánh chạy ngoài đường ngốn
rất nhiều xăng và những loại xe đó có khả năng làm tổn thương nghiêm trọng đến những
người sử dụng những loại xe nhỏ hơn và sử dụng năng lượng tiết kiệm hơn bởi vì khách
hàng có nhu cầu và sẵn sàng trả giá cao cho những loại xe như thế. Những công ty này có
trách nhiệm xã hội không? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến quyết định của giám đốc
trong những tình huống như thế? Ban giám đốc bây giờ thường xuyên đối diện với những
quyết định mang tính trách nhiệm đối với xã hội. Mối quan hệ giữa nhân viên, lòng nhân
từ, giá cả, sự bảo tồn các nguồn tài nguyên, chất lượng và an toàn sản phẩm cũng như
cách thức kinh doanh ở các quốc gia rõ ràng là đã can thiệp vào quyền con người. Các vị
giám đốc ra quyết định như thế nào? Hãy để chúng tôi bắt đầu bằng việc nhìn vào 2 quan
điểm khác nhau có liên quan đến trách nhiệm xã hội.
Hai quan điểm đối lập về trách nhiệm xã hội
Trách nhiệm xã hội đựơc định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Trong số đó, một vài
thuật ngữ phổ biến cho rằng trách nhiệm xã hội chỉ đơn giản là “tạo ra lợi nhuận”, “hơn
cả tạo ra lợi nhuận”,”những hoạt động tình nguyện”, “quan tâm đến viÖc më réng hệ
thống xã hội được mở rộng” và “®¸p øng xã hội”. Hầu hết những tranh cãi đều tập
trung vào những vấn đề này. Một bên là quan niÖm cổ điển cho rằng trách nhiệm xã
hội duy nhất của ban lãnh đạo là tối đa hoá lợi nhuận. Bên còn lại đứng trên lập trường
kinh tế học xã hội, họ cho rằng trách nhiệm của ban giám đốc là làm tốt hơn cả việc tạo ra
lợi nhuận, bao gồm việc bảo vệ và nâng cao phúc lợi xã hội.
Quan điểm của trường phái cổ điển
Quan điểm của trường phái cổ điển cho rằng trách nhiệm xã hội duy nhất của ban giám
đốc là tối đa hoá lợi nhuận. Người tán thành quan điểm này nhiều nhất là nhà kinh tế học
và cũng là người đã đạt giải Nobel ông Milton Friedman. Ông cho rằng trách nhiệm chính
109
của các nhà quản trị là điều hành kinh doanh để đem lại lợi ích cao nhất cho các cổ đông
(những người chủ thực sự của một tập đoàn). Những lợi ích đó là gì? Friedman cho rằng
những cổ đông chỉ có một mối quan tâm duy nhất: lợi nhuận tài chính. Ông ta cũng cho
rằng nếu giám đốc tự quyết định sử dụng các nguồn lực của công ty vào các “hàng hoá xã
hội” thì họ đã tăng thêm chi phí kinh doanh. Và chắc chắn phải có ai đó trả cho việc phân
phối lại tài sản này. Nếu những hoạt động mang tính trách nhiệm xã hội làm giảm lợi
nhuận và cổ tức thì cổ đông sẽ là người chịu lỗ. Nếu hàng hoá và lợi nhuận bị giảm do
phải chi trả cho những hoạt động xã hội thì nhân viên sẽ bị thiệt thòi. Nếu giá cả tăng do
các hoạt động xã hội đó thì doanh nghiệp sẽ mất khách hàng. Nếu khách hàng không chấp
nhận giá cao và việc buôn bán giảm sút thì công việc kinh doanh có thể sẽ không tồn tại
và trong trường hợp này thì tất cả những người có liên quan đến công ty sẽ gánh chịu rủi
ro. Hơn thế nữa, Friedman cho rằng khi những nhà quản lý chuyên nghiệp theo đuổi bất
kỳ điều gì ngoài lợi nhuận thì họ đang tự coi mình là những nhà họach định chính sách
không được bầu chọn. Ông ta đặt ra câu hỏi liệu các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thành
thạo trong việc ra quyết định xã hội không. Friedman nói rằng điều đó là những gì mà
chúng ta bầu chọn những vị đại diện về chính trị để đưa ra quyết định.
Những lập luận của Friedman có lẽ hiểu được rõ ràng nhất bằng kinh tế học vi mô.
Nếu những hành động mang tính trách nhiệm xã hội được cộng vào chi phí thì những chi
phí đó hoặc là được đẩy qua cho người tiêu dùng dưới hình thức giá cao hoặc các cổ đông
chịu thông qua mức lợi nhuận thấp. Nếu các nhà quản trị tăng giá trong thị trường cạnh
tranh thì doanh số bán sẽ giảm. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo với những đối thủ
không hề tính các chi phí về trách nhiệm xã hội, thì khi giá tăng doanh nghiệp chắc chắn
sẽ mất hết thị trường. Trong những tình huống như thế, chi phí xã hội đẩy qua sẽ các hoạt
động kinh doanh và hậu quả là lợi nhuận giảm sút.
Quan điểm của trường phái cổ điển cũng cho rằng với những áp lực trong thị trường
cạnh tranh, dòng vốn đầu tư sẽ chảy đến những nơi có tỉ suất lợi nhuận cao nhất. Nếu
những công ty có trách nhiệm xã hội không thể chuyển những chi phí xã hội cao cho
người tiêu dùng và hoàn toàn gánh chịu thì tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư sẽ thấp. Càng ngày
những dòng vốn đầu sẽ rời bỏ những công ty hoạt động xã hội và hướng đến những công
ty không hoạt động xã hội vì về sau những công ty này sẽ tạo ra mức tỉ suất cao hơn.
Trong bối cảnh này, nếu tất cả những công ty ở những quốc gia đặc biệt như Australia và
New Zealand tự gánh chịu những chi phí xã hội do ban giám đốc nhận thấy trách nhiệm
xã hội là một trong những mục tiêu trong kinh doanh của công ty, thì sự tồn tại của toàn
110
ngành công nghiệp nội địa có thể bị đe dọa bởi những công ty cạnh tranh nước ngoài
không phải gánh chịu những chi phí xã hội.
Quan điểm của trường phái kinh tế xã hội
Vị trí của kinh tế học xã hội cho thấy thời gian cũng như những quan niệm về kinh doanh
của xã hội đã thay đổi. Theo quan điểm này, những tập đoàn không phải là những thực
thể tồn tại độc lập và không chỉ có trách nhiệm duy nhất đối với những cổ đông. Các công
ty này còn phải có trách nhiệm đối với xã hội rộng lớn đã tạo ra và duy trì chúng. Để ủng
hộ quan điểm kinh tế xã hội, một tác giả đã nhắc nhở chúng ta rằng “tối đa hoá lợi
nhuận là ưu tiên hàng thứ 2 của công ty chứ không phải là hàng đầu. Điều đầu tiên là phải
bảo đảm sự sống còn của công ty.”
Hãy xem xét ví dụ của tập đoàn Manville ở Mỹ. 50 năm trước ban giám đốc cũ của
công ty đã chỉ ra rằng những sản phẩm của công ty chứa chất amiăng gây ra bệnh ung thư
chết người. Vì điều này nằm trong chính sách của công ty nên ban giám đốc quyết định
che giấu thông tin về những nhân viên bị nhiễm bệnh. Lý do? Đó là lợi nhuận! Giữa thập
niên 40, trong một toà án về chứng thực lời khai, một vị luật sư đã đặt câu hỏi cho người
luật sư riêng của tập đoàn Manville về chính sách của công ty trong việc che giấu kết quả
chụp X-quang khoang ngực của nhân viên. Vị luật sư đã hỏi “ông muốn nói rằng hãy để
cho họ làm việc cho đến khi họ gần kề tới cái chết phải không?”. Câu trả lời là “vâng,
chúng tôi đã tiết kiệm được nhiều tiền theo cách đó”. Điều này có lẽ chỉ đúng trong một
khoảng thời gian ngắn nhưng chắc chắn nó không thể kéo dài. Năm 1982, công ty buộc
phải đệ trình đơn xin phá sản để bảo vệ công ty tránh khỏi những tố tụng liên quan đến
chất amiăng. Năm 1988 việc Manville phá sản rất được nhiều người quan tâm nhưng
đáng kinh ngạc là số nợ của công ty liên quan đến chất amiăng. Tiền bồi thường quá
nhiều đến nỗi công ty phải dàn xếp vụ bồi thường này bằng cách mở một quỹ tín thác có
giá trị 2,6 tỷ USD, bao gồm tiền mặt, trái phiếu và thế chấp cho một tỷ lệ phần trăm nhất
định đối với phần tiền lãi trong tương lai. Ngày 01/04/1996 tập đoàn Manville chấm dứt
hoạt động kinh doanh của mình vĩnh viễn. Chỉ còn lại khỏan quỹ tín thác độc lập, tiếp tục
chi trả cho những thiệt hại có liên quan đến tên của tập đoàn Manville.
Những gì diễn ra trong tập đoàn Manville chỉ làmột ví dụ cho thấy hậu quả khi các
nhà lãnh đạo chỉ có tầm nhìn ngắn. Nhiều công nhân đã chết một cách vô ích, nhiều cổ
đông mất một số tiền lớn và một tập đoàn lớn đã chấm dứt hoạt động kinh doanh của
mình. Và nếu bạn nghĩ rằng điều đó chỉ có thể xảy ra ở Mỹ thì hãy nghĩ lại. Ơ
Wittenoom, miền Tây Australia, chất amiăng xanh được khai thác trong nhiều năm và
111
công nhân phải khai thác những khoáng chất nguy hiểm. Hơn thế nữa, người chủ hầm mỏ
Wittenoom – CSR – đã phải dàn hoà với hơn 200 người công nhân cũ có liên quan đến
bệnh ung thư do chất amiăng. Ước tính có khoảng 25% trong số những người làm việc
trong hầm mỏ sẽ chết vì mắc bệnh liên quan đến chất amiăng.
Một ví dụ khác chỉ ra tại sao các công ty phải hành động một cách có trách nhiệm để
đảm bảo sự sống còn của công ty trong những cuộc tranh cãi và những vụ kiện ở toà án
đang tiếp diễn nhằm vào việc liệu những nhà điều hành ban quản trị công ty thuốc lá vài
năm trước đây có biết về sự nguy hiểm của việc hút thuốc và hút thuốc một cách tiêu cực
cũng như kiến thức của họ có ảnh hưởng như thế nào đến quyết định của công ty. Điều đó
trở thành một vấn đề khiến cho các công ty thuốc lá tốn hàng tỷ đôla.
Sai lầm lớn nhất về quan điểm của trường phái cổ điển bị những người khởi xướng
của trường phái kinh tế học xã hội tìm ra là khung thời gian của chúng. Những người ủng
hộ quan điểm của trường phái kinh tế học xã hội cho rằng các vị giám đốc nên quan tâm
đến tối đa hoá quay vòng vốn trong một thời gian hoạt động kinh doanh dài. Để làm điều
đó, họ phải chấp nhận một vài nghĩa vụ đối với xã hội và chi phí cho những điều đó. Họ
phải bảo vệ phúc lợi xã hội bằng cách không gây ô nhiễm, không phân biệt chủng tộc và
không đưa ra những quảng cáo mang tính chất dối lừa. Họ cũng phải đóng vai trò là một
nhà hoạt động trong việc cải tạo xã hội bằng cách hoà nhập với cộng đồng và đóng góp
cho những tổ chức từ thiện.
Điểm cuối cùng mà những nhà khởi xướng trường phái kinh tế học xã hội đưa ra là
quan điểm cổ điển đã đi ngược lại hiện thực. Những cơ quan kinh tế hiện đại không còn
đơn giản là những tổ chức kinh tế. Họ vận động, thành lập những ủy ban hoạt động chính
trị và tham gia vào những hoạt động khác để tạo ảnh hưởng trong những tiến trình chính
trị đối với việc tạo ra lợi nhuận. Xã hội chấp nhận và thậm chí khuyến khích các nhà kinh
doanh quan tâm đến môi trường pháp luật, chính trị và xã hội. Điều này không thành sự
thật ở 50 năm về trước nhưng nó trở thành sự thật trong thời đại ngày nay. Ngày càng
nhiều tổ chức trên thế giới có trách nhiệm đối với xã hội. Thật vậy, một cuộc điều tra về
những chủ doanh nghiệp cho thấy rằng 68% các doanh nghiệp tiếp tục thực hiện những
trách nhiệm / công việc mang tính xã hội thậm chí nếu họ thấy rằng những hoạt động đó
làm giảm lợi nhuận của họ.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Bạn hãy mô tả đôi nét về quan điểm của trường phái kinh tế cổ
điển đối với trách nhiệm xã hội.
112
2. Bạn hãy mô tả đôi nét về quan điểm của trường phái kinh tế xã hội
đối với trách nhiệm xã hội.
3. Dựa vào quan điểm của trường phái kinh tế xã hội về trách nhiệm
xã hội, hãy cho biết những thiếu sót hay hạn chế trong quan điểm
của trường phái kinh tế cổ điển về trách nhiệm xã hội
Những lập luận ủng hộ và phản đối trách nhiệm xã hội
Một cách khác để hiểu trách nhiệm xã hội với vai trò ảnh hưởng đến những quyết định
của nhà lãnh đạo khi họ ra kế hoạch, tổ chức và điều hành là nhìn vào những lập luận
ủng hộ và phản đối trách nhiệm xã hội. Bảng 5.1 sẽ đưa ra những điểm chính về những
lập luận trên.
BẢNG 5.1 NHỮNG LUẬN ĐIỂM ỦNG HỘ VÀ PHẢN ĐỐI TRÁCH
NHIỆM XÃ HỘI
Ủng hộ Phản đối
Những kỳ vọng của xã hội: hiện nay xã hội đang ủng hộ các doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu kinh tế và xã hội.
Lợi nhuận dài hạn: những công ty có trách nhiệm xã hội sẽ nhận được lợi nhuận lâu dài và bền vững hơn.
Những nghÜa vô ®¹o lý: nên thùc hiÖn những họat động có trách nhiệm.
Hình ảnh của doanh nghiệp: doanh nghiệp cần xây dựng một hình ảnh đẹp về mình bằng cách theo đuổi các mục tiêu xã hội.
Giảm bớt các luËt lệ của chính phủ: khi doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội, những quy định của chính phủ sẽ được giảm bớt.
Cân bằng giữa quyền lực và trách nhiệm: những doanh nghiệp có nhiều quyền lực cũng cần có trách nhiệm tương xứng.
Lợi ích của các cổ đông: trách nhiệm xã hội sẽ nâng giá cổ phiếu của doanh nghiệp trong dài hạn.
Sở hữu các nguồn lực: doanh nghiệp có khả năng hỗ trơ các dự án công cộng và từ thiện.
Cách bảo vệ công ty tốt nhất: doanh nghiệp nên giải quyết các vấn đề xã hội trước khi phải trả giá về điều đó.
Vi phạm tối đa hóa lợi nhuận: doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội chỉ khi doanh nghiệp theo đuổi các mục tiêu kinh tế.
Lệch mục tiêu: theo đuổi các mục tiêu xã hội sẽ làm chệch hướng các mục tiêu chính của doanh nghiệp – năng suất về mặt kinh tế.
Chi phí: các họat động xã hội không thể tự trang trải chi phí được nên phải có ai đó trả cho các chi phí này.
Quá nhiều quyền lực: các doanh nghiệp đã có quá nhiều quyền lực nên khi họ theo đuổi các mục tiêu xã hội, quyền lực của họ lại càng tăng hơn nữa.
Thiếu kỹ năng: các nhà lãnh đạo doanh nghiệp thiếu những kỹ năng cần thiết để giải quyết các vấn đề về xã hội.
Thiếu trách nhiệm: không có trách nhiệm trực tiếp đối với các họat động xã hội.
113
Từ nghĩa vụ đến đáp ứng
Có bao nhiêu loại trách nhiệm xã hội mà những nhà hoạt động kinh doanh nên theo đuổi
vẫn tiếp tục trở thành đề tài được tranh cãi nhiều nhất. Hiện nay có lẽ là thời điểm tốt để
định nghĩa chính xác thuật ngữ “trách nhiệm xã hội” mà chúng ta đề cập có nghĩa gì.
Chúng ta định nghĩa trách nhiệm xã hội như là nghĩa vụ của doanh nghiệp. Ngòai ra, đó
còn là những yêu cầu của luật pháp, của nền kinh tế để doanh nghiệp có thể theo đuổi
những mục tiêu lâu dài có lợi cho xã hội. Lưu ý rằng định nghĩa này cho thấy kinh doanh
phải vừa tuân thủ pháp luật vừa theo đuổi lợi ích kinh tế. Chúng ta lấy những ví dụ để
thấy rằng tất cả các doanh nghiệp – cả những công ty có trách nhiệm đối với xã hội cũng
như những công ty không có trách nhiệm đối với xã hội - sẽ phải tuân thủ tất cả những
luật lệ mà xã hội đặt ra. Cũng cần lưu ý rằng định nghĩa này xem kinh doanh như một tổ
chức có đạo đức. Với nỗ lực làm những việc có ích cho xã hội các công ty phải phân biệt
được điều đúng và điều sai.
Chúng ta có thể hiểu trách nhiệm xã hội tốt hơn nếu chúng ta so sánh nó với hai quan
điểm tương tự: nghĩa vụ xã hội và đáp ứng nhu cầu xã hội. Như trong Hình 5.1 nghĩa vụ
xã hội là nghĩa vụ của công ty trong việc đáp ứng những trách nhiệm về mặt kinh tế và
pháp lý của mình. Theo cách tiếp cận nghĩa vụ đối với xã hội thì một công ty theo đuổi
những mục tiêu xã hội chỉ để tăng thêm những gì mà họ đã đóng góp cho những mục tiêu
kinh tế. Cách tiếp cận này dựa trên quan điểm cổ điển về trách nhiệm xã hội, đó là một
công ty cảm thấy nhiệm vụ xã hội duy nhất của nó là phục vụ những cổ đông. Tuy nhiên,
trái hẳn với nghĩa vụ xã hội, cả trách nhiệm xã hội và đáp ứng nhu cầu xã hội đều có ý
nghĩa nhiều hơn là chỉ đơn thuần đáp ứng những yêu cầu về luật pháp và kinh tế cơ bản.
Trách nhiệm xã hội là tăng thêm những ràng buộc về mặt đạo đức nhằm làm cho xã
hội tốt đẹp hơn chứ không phải xấu đi. Những công ty có trách nhiệm xã hội đã vượt qua
những ràng buộc về mặt pháp luật cần phải tuân theo hay những gì mà công ty chọn làm,
đơn thuần chỉ vì công ty muốn góp phần cải tạo xã hội. Đó là những việc đúng, có đạo
đức và đáng làm. Trách nhiệm xã hội yêu cầu công ty chỉ rõ những điều đúng, sai cũng
như những quyết định mang tính đạo đức và tham gia vào những hoạt động kinh doanh có
đạo đức.Các tổ chức có trách nhiệm xa hội cần làm những gì được cho là đúng bởi vì nó
có nghĩa vụ phục vụ xã hội.
Mặt khác, đáp ứng xã hội cũng cho thấy khả năng thích ứng của các công ty nhằm
thay đổi các điều kiện xã hội. Quan điểm đáp ứng nhu cầu xã hội nhấn mạnh rằng giám
114
đốc phải đưa ra những quyết định thực tế về các hoạt động xã hội mà họ tham gia. Tổ
chức đáp ứng nhu cầu xã hội hành động theo phương hướng riêng bởi vì ước muốn của tổ
chức này là thỏa mãn một số nhu cầu xã hội nhất định nào đó. Đáp ứng nhu cầu xã hội
được hướng dẫn bởi những chuẩn mực xã hội. Giá trị của những chuẩn mực xã hội đó là
có thể cung cấp cho các nhà lãnh đạo những hướng dẫn hữu ích trong việc ra quyết định.
Ví dụ sau cho thấy sự khác biệt giữa trách nhiệm xã hội và đáp ứng nhu cầu xã hội rõ nét
hơn:
HÌNH 5.1 CÁC MỨC ĐỘ LIÊN QUAN ĐẾN XÃ HỘI
Giả định rằng trách nhiệm xã hội của các công ty đa sản phẩm là sản xuất ra những
sản phẩm cã ®é an toµn hîp lý. Tương tự các công ty phải có hµnh ®éng xö lý
bÊt k× khi nµo c«ng ty s¶n xuÊt ra mét sản phẩm thiếu an toàn. Ngay khi nhận
thấy các sản phẩm của mình không an toàn cho người tiêu dùng, công ty phải thu hồi lại
tất cả các sản phẩm đó. Sau 10 lần thu hồi sản phẩm như thế, liệu công ty có được coi là
có trách nhiệm xã hội hay không? Có được xem là ®¸p øng xã hội hay không? Câu trả
lời sẽ là “Không” cho câu thứ nhất nhưng “có” cho cho câu thứ 2.
Ví dụ này cho thấy sự khác biệt giữa trách nhiệm xã hội và đáp ứng xã hội như thế
nào? Quyết định của công ty trong việc tiếp tục sản xuất những sản phẩm không an toàn
sẽ làm cho hình ảnh của công ty trong mắt của công chúng xấu đi và điều đó cũng có
nghĩa là công ty đã làm sai và trái đạo đức. Tuy nhiên, với hành động nhanh chóng thu
hồi các sản phâm thiếu an toàn của mình, công ty được công nhận làmột doanh nghiệp
biết chịu trách nhiệm
Một công ty đáp ứng những tiêu chuẩn kiểm soát về ô nhiễm môi trường do chính
phủ liên bang đề ra hoặc không phân biệt nam nữ đối với các nữ nhân viên khi đưa ra
những quyết định về thăng tiến được coi là đáp ứng nghĩa vụ xã hội. Khi công ty cung
Trách nhiệm xã hội
Đáp ứng xã hội
Nghĩa vụ xã hội
115
cấp những dịch vụ chăm sóc trẻ em trong khi nhân viên làm việc, đóng gói bao bì bằng
100% giấy sử dụng lại hay không trao đổi, sản xuất cũng như bán bất kỳ lọai trứng cá nào
có liên quan đến cá heo thì lúc đó công ty cũng được xem có trách nhiệm đối với xã hội.
Tại sao? Áp lực từ những nhân viên có con đi làm và các nhà môi trường đã tạo ra những
yêu cầu thực tế như thế. Dĩ nhiên một tổ chức cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho
trẻ em, cung cấp bao bì bằng giấy tái sử dụng hoặc đề ra các biện pháp bảo vệ cá heo
trong những năm 1970 sẽ đươc công nhận là có trách nhiệm xã hội.
BẢNG 5.2 TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐÁP ỨNG XÃ HỘI
Trách nhiệm xã hội Đáp ứng xã hội
Lý do chính Đạo đức Thực dụng
Trọng tâm Kết quả Phương tiện
Nhấn mạnh Nghĩa vụ Đáp ứng
Khuôn khổ ra quyết định Dài hạn Trung hạn và ngắn hạn
Nguồn: S.L Wartick, P.L. Cochran, “The Evolution of the corporate social performce model,”
Academy of management Review, 10/1985 tr. 766
Những người ủng hộ cho quan điểm chịu trách nhiệm xã hội tin rằng quan điểm này
sẽ thay thế những buổi thảo luận mang tính triết lý bằng những hành động thực tiễn. Họ
cho rằng trách nhiệm xã hội là những mục tiêu rõ ràng hơn và có thể đạt được so với trách
nhiệm xã hội. Để quyết định điều gì là tốt cho xã hội trong một thời gian dài, các giám
đốc trong những công ty chịu trách nhiệm đối với xã hội cần phải xác định những tiêu
chuẩn xã hội hiện thời, sau đó sẽ điều chỉnh mức độ chịu trách nhiệm của công ty sao cho
phù hợp với những điều kiện xã hội đang thay đổi. Ví dụ, việc quản lý môi trường là một
tiêu chuẩn xã hội quan trọng hiện nay và rất nhiều công ty đang nỗ lực trong việc chịu
trách nhiệm đối với môi trường. Những tổ chức/công ty khác đang chú tâm vào những
vấn đề xã hội phổ biến khác. Ví dụ, công ty Shepparton Preserving (SPC) đã hoạt động từ
thiện với hình thức “một ngày chia sẻ”. Ở đây, các nhân viên, những người trưởng thành
và những nhà cung cấp sẽ tặng một ngày làm việc và những nguyên liệu để sản xuất thức
ăn trị giá 750.000 đôla Mỹ cho Victorian Relief Agency và ngân hàng dữ trữ thức ăn của
bang Victorian. Từ năm 1998, Công ty Kellogg’s (ở Australia và New Zealand) đã tặng
1.9 triệu đôla Mỹ cho những tổ chức giúp đỡ trẻ em, dịch vụ hướng dẫn qua điện thoại bí
mật dành cho trẻ em từ 5 đến 18 tuổi và công ty Kellogg’s cũng là nhà tài trợ chính cho
chương trình Surf Life Saving Australia. Những ví dụ này là những hoạt động đáp ứng
nhu cầu xã hội ngày nay.
116
CÂU HỎI THẢO LUẬN
4. Những lập luận nào ủng hộ quan điểm doanh nghiệp phải có trách
nhiệm xã hội?
5. Những lập luận nào phản bác quan điểm doanh nghiệp phải có
trách nhiệm xã hội?
6. Cho biết sự khác biệt giữa nghĩa vụ xã hội, chịu trách nhiệm xã
hội và có trách nhiệm xã hội.
Trách nhiệm xã hội và hiệu quả kinh tế
Trong phần này chúng tôi muốn trả lời câu hỏi: liệu những họat động có trách nhiệm đối
với xã hội có làm cho hiệu quả kinh tế của công ty giảm đi không?
Rất nhiều công trình nghiên cứu đã xem xét vấn đề này. Tất cả đều nhận thấy rằng
những hạn chế của phương pháp luận có liên quan đến các tiêu chuẩn đo lường “trách
nhiệm xã hội” và “hiệu quả kinh tế”. Hầu như người ta đánh giá quá trình phục vụ xã hội
của một công ty bằng cách phân tích nội dung của các bảng báo cáo hàng năm, những
minh họa cho những hoạt động xã hội được đăng trên báo tường của công ty hoặc trong
những danh mục liệt kê các tổ chức và doanh nghiệp hoạt động xã hội. Tất nhiên những
tiêu chuẩn như thế cũng có những hạn chế giống như những phương pháp đánh giá trách
nhiệm xã hội đáng tin cạy khác. Mặc dù những tiêu chuẩn đo lường hiệu quả kinh tế (lợi
nhuận ròng, tỉ suất lợi nhuận hay giá cổ phiếu) rất khách quan nhưng các tiêu chuẩn này
chỉ được dùng để đánh giá tình hình tài chính trong thời gian ngắn. Trách nhiệm xã hội có
thể tác động tích cực hay tiêu cực đối với lợi ích của công ty mà trong một thời gian ngắn
ta không thể xác định được. Một số nghiên cứu đã cho thấy rằng sử dụng những dữ liệu
tài chính trong ngắn hạn sẽ không thể đưa ra bất kỳ một kết quả có giá trị nào. Đó cũng là
vấn đề của tính nhân quả. Ví dụ nếu trách nhiệm xã hội và hiệu quả kinh tế có quan hệ
tích cực với nhau thì không có nghĩa là mối quan hệ xã hội giúp cho hiệu quả kinh tế tốt
hơn. Và ngược lại.
Với những lời cảnh báo như trên thì những cuộc nghiên cứu tìm kiếm điều gì? Vấn đề
chính ở đây là chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa mối quan hệ xã hội của doanh nghiệp với
hiệu quả kinh tế. Chỉ có một bài phê bình trong 13 bài nghiên cứu tìm thấy mối liên kết
tiêu cực và trong trường hợp này thì giá cổ phiếu của những công ty có trách nhiệm đối
với xã hội sẽ thấp hơn mức giá cổ phiếu trung bình trong nước. Xét về mối liên hệ tích
117
cực thì các họat động xã hội còn mang lại lợi nhuận cho công ty chứ không chỉ là bù đắp
chi phí. Những lợi nhuận này bao gồm hình ảnh tích cực trong mắt người tiêu dùng, nhân
viên năng động và tận tụy cũng như ít có sự can thiệp của các nhà chức trách.
Nhìn nhận vấn đề trên phương diện khác. Ở nhiều nước công nghiệp, rất nhiều quỹ cổ
phiếu xã hội được thành lập vào thập niên 1980 và 1990. Điển hình là những quỹ này đã
sử dụng các biện pháp sàng lọc, có nghĩa là áp dụng những tiêu chuẩn xã hội trong việc
đưa ra quyết định đầu tư. Nhân tố chủ chốt phía sau những quỹ tiền đó chính là tập trung
đầu tư vào những tập đoàn “có đạo đức” hoặc “biết bảo vệ môi trường”. Vì thế các khỏan
tiền này sẽ không đầu tư vào những công ty sản xuất vũ khí, sử dụng vũ khí hạt nhân, có
liên quan đến các dung dịch có cồn, cá cược, thuốc lá, hoặc lừa đảo. Ví dụ nếu chúng ta
xem xét sự lưu thông của những dòng tiền này ở Mỹ, chúng ta sẽ thấy nó tương tự như
vốn cổ phần của doanh nghiệp. Ở Australia và New Zealand, lợi ích trong những khỏan
tiền này lại không nhiều. Tuy nhiên, các nhà quản trị tài chính của Australia vẫn ủng hộ
nguyên tắc : một nhà quản trị giỏi và các họat động mang tính đạo đức có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Chúng ta có thể rút ra được kết luận gì? Kết luận có ý nghĩa nhất mà chúng ta có thể
rút ra là có rất ít bằng chứng cho thấy các họat động xã hội của công ty gây tổn hại đáng
kể đến hiệu quả kinh tế trong dài hạn. Những áp lực về xã hội và chính trị trong kinh
doanh buộc các doanh nghiệp phải có trách nhiệm xã hội và điều đó có nghĩa là các nhà
quản trị nên xem xét các mục tiêu xã hội khi họ lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm
tra.
QUẢN TRỊ DỰA TRÊN GIÁ TRỊ
Quản trị dựa trên giá trị là một cách quản trị trong đó nhà quản trị sẽ thiết lập, đẩy mạnh
và thực thi những giá trị chung của công ty. Những giá trị của công ty phản ánh những
mục tiêu mà công ty hướng đến cũng như tin vào. Như đã thảo luận ở chương 3, những
giá trị chung tạo nên văn hoá tổ chức, ảnh hưởng đến phương hướng hoạt động của công
ty và thái độ cư xử của nhân viên. Ví dụ ở Body Shop, những giá trị chung đã trở thành
một phần trong chiến lược kinh doanh. Body Shop luôn luôn hướng đến những vấn đề
môi trường và xã hội như quyền công dân và quyền con người, môi trường sạch hơn và
tiến tới việc kiểm tra vật nuôi, quan hệ với cộng đồng và mua bán công bằng với người
bản địa. Tuy nhiên cùng lúc công ty cũng luôn mục tiêu họat động có lãi và tạo ra mức lợi
nhuận hấp dẫn cho những cổ đông của mình. Đối với các công ty tin và thực thi lối quản
trị dựa trên giá trị, những giá trị chung của công ty sẽ có thể phục vụ cho nhiều mục đích.
118
Mục đích của những giá trị chung
Những giá trị mà những thành viên của công ty chia sẻ phục vụ ít nhất cho bốn mục đích
chính. Mục đích thứ nhất của những giá trị chung đó là kim chỉ nam cho những quyết
định quản trị. Ví dụ tại cơ sở sản xuất quần áo Blue Bell ở Mỹ, những giá trị chung luôn
hướng dẫn các nhà quản trị khi họ ra kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt
động của công ty. Những giá trị chung của công ty được phát triển qua hàng loạt những
cuộc thảo luận và được thể hiện qua từ PRIDE: P (profitability) – họat động có lãi thông
qua tính chuyên nghiệp về nghiệp vụ; R (respect for the individual) – tôn trọng cá nhân; I
(involved citizenship): quyền công dân có liên quan; D (dedication to fairness and
integrity)- luôn công bằng và liêm chính; và E (Existing for the customers) – tồn tại để
phục vụ khách hàng. Thật vậy, tất cả các nhà quản trị mới tham gia vào chương trình
huấn luyện về quản lý của Blue Bell đã nhanh chóng nhận ra rằng phần quan trọng nhất
để trở thành nhà quản trị của công ty là chia xẻ và theo đuổi những niềm tin được thể hiện
qua PRIDE.
HÌNH 5.2 MỤC ĐÍCH CỦA CÁC GIÁ TRỊ CHUNG
Mục đích khác của những giá trị chung là sức ảnh hưởng đối với thái độ cư xử và
cách giao tiếp của nhân viên. Ví dụ, những nhân viên ở Herman Miller- công ty sản xuất
bàn ghế văn phòng, dân dụng và chăm sóc sức khỏe luôn tuân thủ những giá trị của công
ty khi họ thiết kế, sản xuất và giao hàng ra khắp thế giới. Những giá trị của những công ty
này là gì? Lời cam kết đối với sự đổi mới và chất lượng cao, và bảo vệ môi trường.
Những giá trị chung của công ty cũng ảnh hưởng đến những nỗ lực marketing. Ví dụ
công ty sản xuất mỹ phẩm Avon đã phổ cập cho phụ nữ về ung thư vú. Sự hỗ trợ của
CÁC GIÁ TRỊ CHUNG CỦA TỔ
CHỨC
Định hướng các quyết định và
hành động của các nhà quản trị
Hình thành hành vi của nhân viên
Ảnh hưởng đến các nỗ lực marketing
119
Phát triển tinh thần đồng đội
công ty đối với chương trình này bắt nguồn từ sau khi công ty hỏi phụ nữ mối quan tâm
hàng đầu về sức khỏe của họ là gì và câu trả lời là ung thư vú. Đáp lại nhu cầu đó, công ty
đã thành lập quỹ Avon toàn cầu cho sức khoẻ phụ nữ, tổ chức bảo trợ đã trải rộng ra 19
nước trên thế giới. Chương trình sức khỏe cho phụ nữ lớn nhất của công ty với sự tài trợ
của quỹ này là cuộc vận động ý thức về bệnh ung thư vú. Lực lượng bán hàng của công ty
đã giúp hơn 440.000 phụ nữ hiểu về căn bệnh ung thư bằng cách phát các tập sách trong
quá trình đi chào hàng. Giám đốc của chiến dịch này phát biểu “ các họat động xã hội của
Avon sẽ giúp cho công ty thắt chặt mối quan hệ với khách hàng, qua đó nâng cao mức
doanh thu cua công ty.” Avon đã tìm ra cách liên kết công việc kinh doan của mình với
trách nhiệm xã hội và cải tiến những nỗ lực marketing trong cùng một thời gian.
Cuối cùng, những giá trị chung là cách để xây dựng tinh thần đồng đội trong công ty.
Khi nhân viên tuân theo những giá trị do công ty đưa ra thì tự họ đã cam kết cống hiến
hết mình cho công việc và cảm thấy bắt buộc phải có trách nhiệm đối với những hành
động của mình. Vì những giá trị chung sẽ ảnh hưởng đến cách làm việc, nhân viên sẽ
nhiệt tình hơn đối với những gì họ làm và tin tưởng. Ở những công ty như Body Shop,
Blue Bell, Avon Products, Herman Miller và vô số những công ty khác, nhân viên biết rất
rõ họ cần va mong đợi những gì. Họ dùng những giá trị chung của công ty để định hình
phương pháp làm việc. Nhưng các công ty phát triển hệ thống những giá trị chung này
như thế nào?
Phát triển những giá trị chung
Ở bất kỳ công ty nào sử dụng phương pháp quản lý dựa trên giá trị sẽ nói cho bạn nghe
rằng để tạo ra những giá trị chung của công ty thì thật sự không dễ tí nào. Tại Body Shop,
niềm tin và giá trị của Anita Roddick có ảnh hưởng rất lớn đến những giá trị của công ty
nhưng các giá trị này dần dần được cải tiến khi công ty phát triển và có nhiều người mới
tham gia họat động cho công ty. Nhiều chương trình giới thiệu và huấn luyện của công ty
tập trung vào những vấn đề như “chúng ta là ai” và “chúng ta muốn gì”. Theo cách hiểu
này, Body Shop đã phát triển nền văn hoá, khuyến khích mọi người chia xẻ và tin vào
những giá trị đó. Đây là những giá trị đối với hầu hết các cá nhân đang làm việc trong
công ty.
Một cuộc điều tra của tờ tạp chí Fortune về 1000 công ty năm 1993 nhận thấy rằng
95% số người được hỏi tin rằng họ sẽ chọn những hính thức kinh doanh có trách nhiệm
xã hội hơn trong những năm tới để bảo vệ lợi thế cạnh tranh của mình. Để yêu cầu nhân
viên tham gia vào hệ thống các giá trị cốt lõi của công ty và cam kết thực hiện tốt những
120
đòi hỏi về giá trị, công ty cần phải có một tinh thần lãnh đạo tốt. Những nhà quản trị công
ty có trách nhiệm định hình các giá trị, chuẩn mực và những lý tưởng có sức thu hút nhân
viên mạnh mẽ.
Một số đề nghị cụ thể đối với việc phát triển các giá trị của doanh nghiệp trong hình
5.3 .
HÌNH 5.3 LÀM THẾ NÀO ĐỂ TẠO RA MỘT BẢN TUYÊN BỐ TỐT VỀ CÁC
GIÁ TRỊ CÔNG TY
Những công ty đang họat động và áp dụng phương pháp quản trị dựa trên giá trị đã
cam kết có trách nhiệm đối với xã hội và đáp ứng nhu cầu xã hội. Đặc biệt, nhiều nhà
quản trị đã nhận ra tầm quan trọng về trách nhiệm của công ty và các cá nhân về môi
trường . Chúng ta xem xét tiếp “Quản lý môi trường”
Quản trị trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương
Công ty Bảo tồn Shepparton
Một tổ chức đã có cam kết đáng chú ý với vai trò của mình trong xã hội là Công
ty Bảo tồn Shepparton (SPC). Là một trong những công ty sử dụng lao động
chính ở tị trấn Shepparton, bang Victoria – lên đến 1400 nhân viên trong mùa
cao điểm – công ty đã coi trách nhiệm xã hội là một việc rất nghiêm túc. Một
Lôi kéo mọi người trong công ty tham gia
Cho phép cá biÖt hóa các giá trị theo tõng phòng ban hay đơn vị.
Kỳ vọng và chấp nhận sự phản ứng của nhân viên.
Giữ bản tuyên bố thật ngắn gọn.
Tránh tuyên bố những giá trị vụn vặt
Tránh đề cập đến vấn đề tôn giáo.
Thách thức nó.
Sống chung với nó
121
phần câu chuyện của công ty nằm ở thực tế là công ty đã đứng trên bờ vực
phá sản vào đầu thập kỷ 1990, và nỗ lực để tồn tại đã đưa SPC trở thành một
huyền thoại ở địa phương.
SPC đã thua lỗ một khoản khổng lồ vào năm 1989-1990 do sự cạnh tranh
gia tăng từ hàng nhập khẩu giá rẻ và khó khăn về tài chính và đã gần như đã
ngừng hoạt động. Công ty đã thực hiện một giải pháp vô cùng rủi ro. Công ty
đã sa thải 5 thành viên hội đồng quản trị và giảm ¼ số lao động. Một ban giám
đốc mới đựơc thành lập, chủ yếu là những người địa phương, và công ty đã
thương lượng một thỏa thuận về nơi làm việc đầy tranh cãi với các nhân viên
của mình, liên quan đến việc giảm lương như một biện pháp đánh đổi để tiếp
tục hoạt động. Toàn bộ thỏa thuận – mặc dù bị phản đối quyết liệt của Ủy ban
Nghiệp đoàn Australia – đựơc dựa trên sự tin tưởng đội ngũ quản trị và người
lao động và cam kết sẽ hoàn trả phần lương người lao động đã hy sinh khi – và
nếu – công ty hồi phục. Kết cục là sự thay đổi ngày nay đã trở thành một phần
câu chuyện của địa phương. SPC đã sống sót và nó đã thực hiện lời hứa bằng
việc trả 1,2 triệu đô-la cho người lao động của công ty như một khoản đền bù
cho phần lương họ đã hy sinh.
Ngày nay, SPC quan tâm đến việc chuyển tiền trở lại cho cộng đồng, hoặc
là trực tiếp hoặc là gián tiếp. Chính sách mua hàng của công ty là mua nguyên
liệu sản xuất và các dịch vụ do người Australia cung cấp, và chính sách này
thâm nhập vào cộng đồng địa phương. Công ty đã đóng góp vào hoạt động từ
thiện với ngày “Chia sẻ trách nhiệm”. Vào tháng Tư hàng năm, 600 nhân viên
tình nguyện là những nhân viên của công ty, những người trồng trọt và cung
cấp đã hiến một ngày làm việc và nguyên liệu sản xuất để sản xuất lượng
lương thực trị giá 750 000 $ cho Tổ chức Cứu trợ Victoria và Tổ chức Dự trữ
Lương thực Victoria. SPC đề cao sự hỗ trợ mà nó nhận được từ cộng đồng khi
nó gần như phá sản, và ngày nay nó cam kết đền đáp sự trung thành này bằng
việc trỏ nên hào phóng và sẵn sàng giúp đỡ đối với cộng đồng địa phương.
Ban giám đốc của công tu biết rằng công ty có thể đã không còn tồn tại nữa
nếu như nó không nhận được sự hỗ trợ của những người dân địa phương.
Một nền văn hoá tổ chức mạnh sẽ có tác động lớn hơn đến nhà quản trị so với những
văn hoá mờ nhạt. Nếu văn hoá mạnh và ủng hộ các tiêu chuẩn đạo đức khắt khe, nó sẽ có
tác động mạnh và tích cực đến hành động của nhà quản trị. Ví dụ như công ty Boeing, có
một văn hoá tổ chức mạnh từ lâu đã nhấn mạnh rằng luôn phải đối xử với khách hàng, với
nhân viên, với cộng đồng và đối tượng hữu quan một cách lịch sự và có văn hoá. Để tăng
cường tầm quan trọng của vấn đề đạo đức kinh doanh, công ty đưa ra một loạt poster để
nhân viên nhận thức được rằng quyết định và hành động cá nhân của họ là rất quan trọng
đối với hình ảnh của doanh nghiệp. Trong một văn hoá tổ chức mờ nhạt, nhà quản trị
thường dựa vào các nguyên tắc văn hoá nhóm như là kim chỉ nam cho hành động. Các
138
tiêu chuẩn của nhóm công tác và phòng chức năng sẽ tác động mạnh đến hành vi đạo đức
trong những tổ chức mà văn hoá tổ chức còn mờ nhạt.
Một sinh viên sẽ không bao giờ có ý định đột nhập vào văn phòng của giáo viên để ăn
cắp đề thi môn kế toán có thể sẽ không ngần ngại hỏi một người bạn đã theo học khoá
học này vào năm ngoái , cũng với giáo viên đó về những câu hỏi trong đề thi năm ngoái.
Tương tự, một giám đốc điều hành có thể không hề suy nghĩ gì khi đem về nhà một số đồ
dùng văn phòng, nhưng lại rất lo ngại về vấn đề biển thủ tài sản công ty.
Những ví dụ sau thể hiện nhân tố chính tác động đến hành vi của nhà quản trị.
1. Tổn hại (hoặc lợi ích) sẽ như thế nào đối với các nạn nhân (hoặc
người hưởng lợi) tạo ra bởi một hành động liên quan đến đạo đức
được đặt ra ? Ví dụ: quyết định sa thải 1000 nhân viên thì có hại hơn
quyết định sa thải 10 nhân viên.
2. Mức độ đồng ý rằng hành động đó là xấu (hoặc tốt) như thế nào? Ví
dụ: người Australia và New Zealand thường cho rằng hối lộ nhân viên
hải quan trong nước là xấu nhưng lại có thể không phản đối việc hối
lộ hải quan các nước châu Phi.
3. Khả năng hành động đó thật sự xảy ra và thật sự gây nguy hại (hay
đem lại lợi ích)? Ví dụ: Bán một khẩu súng cho một tên cướp có vũ
trang sẽ có khả năng nguy hại hơn bán một khẩu súng cho một công
dân biết tuân thủ luật lệ.
4. Khoảng thời gian giữa khi xảy ra hành động và khi hành động đó có
gây ra hậu quả dự kiến? Ví dụ: Giảm phúc lợi hưu trí dối với những
người hiện đang nghỉ hưu sẽ có hậu quả tức thời lớn hơn giảm phúc
lợi hưu trí của những người lao động đang ở tuổi 40-50.
5. Bạn cảm thấy như thế nào (về mặt xh, tâm lý hoặc vật chất) đối với
nạn nhân (hoặc người hưởng lợi) của hành động xấu (hoặc tốt) đó? Ví
dụ: sa thải trong bộ phận của chính mình sẽ tác động mạnh đến gia
đình mình hơn là việc sa thải xảy ra ở một thành phố xa xôi nào đó.
6. Tác động chính của hành động đó đến những người liên quan lớn như
thế nào? Ví dụ: Sự thay đổi trong chính sách bảo hành mà từ chối bảo
hành cho 10 người với chi phí bảo hành $10.000 có tác động chính
lớn hơn thay sự thay đổi từ chối bảo hành cho 10.000 người với chi
phí bảo hành $10.
139
Theo những nguyên tắc này, số lượng người bị hại càng lớn, số người cho rằng hành
động đó là sai càng đông, khả năng hành động gây nguy hại càng cao, hậu quả có tính cấp
thời càng cao, mức độ cảm thông với nạn nhân càng nhiều, và tác động chính càng lớn,
thì vấn đề càng nghiêm trọng.
HÌNH 5.7 CÁC ĐẶC ĐIỂM QUYẾT ĐỊNH ĐẾN MỨC ĐỘ CĂNG THẲNG CỦA
VẤN ĐỀ
CÂU HỎI THẢO LUẬN
19. Văn hóa của một tổ chức ảnh hưởng như thế nào đến hành vi đạo
đức ?
20. Mô tả các loại hình văn hóa tổ chức có thể hình thành những
chuân mực đạo đức ở mức cao.
21. Yếu tố nào quyết định đến mức độ căng thẳng của vấn đề ?
Sự thống nhất về cái sai
Sự cận kề đối với nạn nhân
Tính tức thời của các hậu quả
Xác suất x¶y ra tác hại
Sự tập trung của các ảnh hưởng
Độ lớn của tác hại
Mức độ căng thẳng của vấn
đề
Khả năng hành động này sẽ gây hại như thế nào?
Tác hại có xảy ra ngay lập tức không?
Møc ®é tËp trung ¶nh h ëng cña hành động đối với các nạn nhân có mức độ tập trung như thế nào?
Bao nhiêu người sẽ bị tæn hại?
Mức độ đồng ý rằng hành động đó là sai?
Mức độ cận kề các nạn nhân tiềm năng như
thế nào?
140
Đạo đức kinh doanh trong bối cảnh toàn cầu
Các tiêu chuẩn đạo đức có mang tính toàn cầu? Hầu như không! Sự khác biệt về văn hoá
và xã hội giữa các quốc gia là các nhân tố môi trường quan trọng quyết định đến các hành
vi đạo đức và vô đạo đức. Ví dụ, một giám đốc công ty Mexico hối lộ một vài quan chức
cấp cao của chính phủ ở thủ đô Mexico City để đảm bảo giành được một hợp đồng béo
bở của chính phủ. Những hành vi như vậy sẽ bị xem là trái nguyên tắc đạo đức, nếu
không bị xem là bất hợp pháp ở Australia và New Zealand. Tuy nhiên đó là nghiệp vụ
phổ biến được chấp nhận ở Mehicô và nhiều quốc gia khác.
Những giám đốc điều hành người Australia hay New Zealand hoạt động ở Đông Nam
Á nên luôn tuân thủ các nguyên tắc đạo đức của nước họ hay nên làm theo nguyên tắc
“nhập gia tuỳ tục”? Nếu một công ty xây dựng Hồng Kông chi 10 triệu đô la “phí giao
dịch” cho một người trung gian để giành được một hợp đồng lớn với chính phủ các nước
Đông Nam Á, liệu các công ty Australia có nên không làm theo vì những chuyện như thế
được xem là sai trái ở Australia?
Các nhà quản trị và các công ty toàn cầu sẽ phải đối mặt với những vấn đề trên. Sẽ là
sáng suốt khi học theo các quốc gia có nhiều kinh nghiệm giải quyết những vấn đề này.
Hoa Kỳ đã có điều luật để hướng dẫn các nhà quản trị trong trường hợp dùng tiền để gây
ảnh hưởng đến các quan chức hay chính trị gia nước ngoài. Đạo luật về Hoạt động hối lộ
ở nước ngoài (Foreign Corupt Practices Act), được thông qua năm 1977, đã qui dịnh rằng
việc các công ty Mỹ hối lộ quan chức nước ngoài là phạm pháp. Nhưng ngay cả điều luật
này cũng không phải lúc nào cũng có thể làm rõ ranh giới giữa đúng và sai. Ví dụ như ở
một số quốc gia Mỹ Latinh, các quan chức chính phủ được trả lương cực kì thấp vì tập
quán cho rằng họ đã được nhận tiền từ những người họ giúp đỡ. Chi tiền cho những quan
chức này tức đã bôi trơn cỗ máy chính phủ và đảm bảo rằng mọi việc được thực hiện
đúng theo mong muốn của doanh nghiệp. Đạo luật Hối lộ Nước ngoài không cấm những
khoảng chi nhỏ cho những nhân viên làm việc trong chính phủ, những người làm công
việc thư ký khi mà những khoản chi nhỏ như vậy là tập quán được chấp nhận rộng rãi ở
Mỹ.
Levi Strauss đã quyết định áp dụng các chuẩn mực đạo đức theo kiểu Mỹ của hãng ở
nước ngoài. Sau khi điều tra 400 nhà cung cấp và gia công của mình, công ty phát hiện
rằng khoảng 25% các công ty này đã bóc lột trắng trợn công nhân của họ. Ví dụ như một
công ty gia công ở đảo Saipan đã buộc công nhân làm việc 11 giờ/ngày, 7 ngày/tuần! Một
số công đoạn dùng lao động trẻ em. Để xoá bỏ sự lạm dụng lao động này, ban quản trị
của Levi Strauss đã đưa ra các qui định khắt khe đối với các công ty gia công nước ngoài
141
– bao gồm việc tạo ra điều kiện làm việc an toàn và khoẻ mạnh và mức lương không thấp
hơn mức lương phổ biến ở địa phương. Để đảm bảo các nguyên tắc này được thực hiện,
các thanh tra của trụ sở Mỹ sẽ có những chuyến viếng thăm bất ngờ.
Mặc dù việc nhận thức các tác động văn hoá, xã hội, chính trị và luật pháp ảnh hưởng
đến cái gì được xem là hợp lý và là hành vi được chấp nhận là rất quan trọng, các công ty
toàn cầu phải xác định rõ các nguyên tắc đạo đức của mình để các nhân viên hiểu được
công ty mong muốn gì ở họ khi họ làm việc ở nước ngoài.
Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới tháng 1/1999, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đã yêu cầu
các doanh nghiệp hàng đầu thế giới “đề xuất và thông qua” Thoả thuận Toàn cầu, một
văn bản gồm 9 nguyên tắc về kinh doanh toàn cầu xét về mặt quyền con người, lao động
và môi trường. 9 nguyên tắc này được liệt kê ở hình 5.9. Các doanh nghiệp toàn cầu buộc
phải thực hiện những nguyên tắc này trong hoạt động kinh doanh. Nhiều công ty cam kết
thực hiện vì họ tin rằng cộng đồng kinh doanh đóng một vai trò quan trọng trong nâng
cao các điều kiện kinh tế và xã hội.
HÌNH 5.9 THỎA THUẬN TOÀN CẦU
Nhân quyềnNguyên tắc 1:Ủng hộ và tôn trọng luật bảo về nhân quyền trong phạm vi ảnh hưởng của luật này.Nguyên tắc 2:Đảm bảo các doanh nghiệp không lạm dụng nhân quyềnTiêu chuẩn lao độngNguyên tắc 3:Người lao động có quyền tập hợp thành các hiệp hội và có quyền đưa ra yêu sách.Nguyên tắc 4: Xoá bỏ mọi hình thức cưỡng bức lao độngNguyên tắc 5:Không sử dụng lao động trẻ emNguyên tắc 6:Xoá bỏ phân biệt nghề nghiệpMôi trườngNguyên tắc 7: Ủng hộ việc phòng ngừa những thảm họa môi trườngNguyên tắc 8:Tiến hành các sáng kiến tăng cường trách nhiệm đối với vấn đề môi trườngNguyên tắc 9:Khuyến khích sự phát triển và phổ biến của các công nghệ sạch
142
Hướng đến nâng cao tư cách đạo đức
Các nhà quản trị cấp cao có thể làm được nhiều việc nếu họ nghiêm túc trong vấn đề giảm
thiểu những hoạt động trái đạo lý trong tổ chức của mình. Họ có thể nỗ lực tuyển dụng
những cá nhân có phẩm chất đạo đức tốt, lập nên các qui định, xác định mục tiêu công
việc và có kế hoạch rèn luyện đạo đức nhân viên… Nếu thực hiện một cách riêng lẻ,
những hành động này có thể không có tác động lớn. Nhưng khi tất cả các hoạt động này
được thực hiện như một phần của một kế hoạch toàn diện, khả năng cải thiện đáng kể môi
trường văn hoá của tổ chức là rất lớn. Tuy nhiên, vấn đề chính ở đây là “khả năng”.
Không có gì đảm bảo rằng một chương trình được thiết kế tốt sẽ giúp đạt được những kết
quả mong muốn. Chẳng hạn như Dow Corning, từ lâu được xem là người tiên phong
trong lĩnh vực đạo đức kinh doanh, và chương trình của công ty được xem là hoàn hảo ở
Mỹ. Nhưng chương trình của công ty không chấm dứt được tình trạng các giám đốc che
giấu và bóp méo các kết quả báo cáo về các hoạt động yếu kém của họ.
Tuyển chọn nhân viên
Giả sử rằng các cá nhân đang ở những giai đoạn phát triển nhân phẩm khác nhau và có
những giá trị và tính cách riêng, một quá trình tuyển chọn nhân viên của tổ chức – phỏng
vấn, kiểm tra, xem xét trình độ - cần phải được sử dụng để loại ra những ứng viên không
tốt về mặt đạo đức. Chúng ta nên xem quá trình tuyển chọn như một cơ hội để biết thêm
về mức độ phát triển nhân phẩm, giá trị, lòng tự trọng và khả năng tự chủ của một cá
nhân. Nhưng đây không phải là công việc dễ dàng. Ngay cả trong những môi trường tốt
nhất, vẫn có trường hợp tuyển dụng những cá nhân không phân biệt rõ đúng và sai. Tuy
nhiên, điều này không gây ra vấn đề lớn nếu có những biện pháp kiểm soát khác.
Những quy tắc đạo đức và những nguyên tắc ra quyết định
Chúng ta đã nhận thấy rằng sự mập mờ giữa cái gì được xem là hợp đạo lý hay không là
một vấn đề lớn đối với nhân viên. Một bộ quy tắc đạo đức, một bản tuyên bố chính thức
về những giá trị nền tảng của tổ chức và những nguyên tắc đạo đức mà công ty muốn
nhân viên tuân theo, là một sự lựa chọn phổ biến nhằm giảm bớt sự mập mờ đó. Ví dụ
như gần 95% các công ty trong danh sách 500 doanh nghiệp hàng đầu thế giới do tạp chí
Fortune bình chọn đưa ra các điều lệ về tư cách đạo đức. Và qui định về chuẩn mực đạo
đức ngày càng trở nên phổ biến trên toàn cầu. Một khảo sát các doanh nghiệp ở 22 quốc
143
gia cho thấy 78% doanh nghiÖp công bố chính thức các chuẩn mực đạo đức và qui
định về chuẩn mực đạo đức.
Qui t¾c đạo đức cã néi dung như thế nào? Người ta cho rằng qui định này cần
phải chi tiết đủ để nhân viên nhận biết được họ phải làm việc với một tinh thần như thế
nào nhưng cũng phải đủ mềm dẻo để cho nhân viên quyền tự do. Một khảo sát về đạo đức
kinh doanh ở Mỹ – bao gồm khảo sát cả những công ty hoạt động trong các lĩnh vực khác
nhau như Exxon, Sara Lee, DuPont, Ngân hàng Boston và Wisconsin Electric Power cho
thấy rằng nội dung của họ thường ®Ò cËp ®Õn vào 3 phần: (1) Hãy là thành viên
đáng tin cậy của tổ chức, (2) Không làm bất kì điều gì trái luật hay ảnh hưởng đến tổ
chức, (3) Đối xử tốt với khách hàng. Hình 5.10 liệt kê những nội dung được sắp xếp theo
mức độ phổ biến.
144
HÌNH 5.10 CÁC NHÓM BIẾN SỐ TÌM ĐƯỢC TRONG 83 QUY TẮC ĐẠO ĐỨC
TRONG KINH DOANH
Một nghiên cứu các công ty ở Australia, cũng tương tự như nghiên cứu các công ty
Mỹ nói trên, cho thấy rằng chỉ 2 vấn đề trong phần 1 là quan trọng ở Australia. 33% công
ty đưa ra nguyên tắc 1 “tuân thủ các qui định và an toàn và sức khoẻ”, 30% công ty đưa
ra “ Cư xử nhã nhặn, tôn trọng, trung thực và công bằng” đối với khách hàng, nhà cung
cấp, đối thủ cạnh tranh và nhân viên khác. Nguyên tắc phổ biến nhất nằm ở phần 2 như:
tránh xung đột quyền lợi – 71%, trong quan hệ công việc cũng như quan hệ cá nhân, tuân
thủ luật pháp, qui định và chính sách – 70%; và bảo mật thông tin về khách hàng, nhân
viên và công ty – 68%. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các công ty Australia quan
tâm hơn đến xây dựng các điều lệ phù hợp với các điều lệ ở Mỹ và châu Âu. Một nghiên
cứu của Australia cho thấy các tổ chức thuộc sở hữu của chính phủ thường đưa ra qui
định về chuẩn mực đạo đức hơn những tổ chức khác. Thêm vào đó, qui định về chuẩn
mực đạo đức cũng khá ngắn gọn, thường chiếm từ 1-5 trang. Bạn có thể lên website
Phần 1: Hãy là thành viên đáng tin cậy của tổ chức
Tuân thủ các qui định về an toàn, sức khoẻ và an ninh.
Xử sự nhã nhặn, tôn trọng, trung thực và công bằng
Tuyệt đối không được uống rượu và hút thuốc trong khi làm việc
Quản lý tài chính cá nhân tốt
Làm việc đầy đủ và đúng giờ và có kỷ luật
Tuân theo chỉ thị của cấp trên
Không dùng ngôn ngữ dung tục
An mặc lịch sự
Cấm mang theo vũ khí đến nơi làm việc
Phần 2: Không làm bất kì điều gì trái luật hay ảnh hưởng xấu đến tổ chức
Làm việc đúng luật
Cấm các khoản chi cho các mục đích bất chính
Cấm hối lộ, mua chuộc
Tránh những hoạt động bên ngoài làm ảnh hưởng đến công việc
Giữ bí mật sổ sách, hồ sơ
Tuân theo các luật chống độc quyền và luật thương mại.
Tuân thủ mọi qui tắc và kiểm soát kế toán
Không dùng tài sản công ty cho mục đích cá nhân.
Mỗi cá nhân đều có trách nhiệm đối với ngân quỹ công ty
Không tuyên tuyền những thông tin sai lệch, lừa dối
Ra quyết định không dựa trên lợi ích cá nhân
Phần 3: Đối xử tốt với khách hàng
Chuyển tải các thông tin trung thực trong quảng cáo
Làm việc với nổ lực cao nhất để hoàn thành nhiệm vụ
Cung cấp sản phẩm và dịch vụ với chất lượng cao nhất.
145
www.lendlease.com.au để tham khảo một ví dụ điển hình về qui định về chuẩn mực đạo
đức.
Những qui t¾c về chuẩn mực đạo đức này có hiệu quả như thế nào? Thực tế cho
thấy qui định về chuẩn mực đạo đức không phải lúc nào cũng hiệu quả trong việc khuyên
khích các tác phong đạo đức trong tổ chức. Một khảo sát các nhân viên của các công ty
Mỹ có qui định về chuẩn mực đạo đức cho thấy 75% những người được khảo sát đã từng
vi phạm nội quy hay nguyên tắc đạo đức trong 12 tháng gần đây, bao gồm những việc
như buôn bán gian lận, điều kiện làm việc không an toàn, quấy rối tình dục, xung đột
quyền lợi và gây ô nhiễm môi trường. Liệu điều này có nghĩa là không nên đưa ra qui
định về chuẩn mực đạo đức? Không. Nhưng các nhà quản trị có thể tham khảo một số đề
xuất sau. Thứ nhất, việc đưa ra và thực hiện phải đi đôi với nhau. Thông tin về những
chuẩn mực đạo đức mà công ty mong đợi và sự nhắc nhở về cam kết của công ty đối với
đạo đức kinh doanh cần được liên tục chuyển tải đến nhân viên. Thứ hai, tất cả các cấp
quản trị nên hỗ trợ và liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của qui định về chuẩn mực đạo
đức và các kỉ luật dành cho những ai vi phạm. Một khi nhà quản trị nhận thức tầm quan
trọng của qui định về chuẩn mực đạo đức, thường xuyên khẳng định nội dung của nó, và
công khai khiển trách những ai vi phạm, qui định về chuẩn mực đạo đức có thể tạo ra một
nền tảng vững chắc cho các chương trình đạo đức doanh nghiệp hiệu quả. Cuối cùng, qui
định về chuẩn mực đạo đức của một tổ chức có thể được thiết kế dựa trên 12 câu hỏi liệt
kê ở hình 5.11. Những câu hỏi này có thể được sử dụng như nguyên tắc hướng dẫn ra
quyết định dành cho các nhà quản trị khi họ gặp vấn đề khó xử liên quan đến đạo đức
Giữa năm 1990 những người chủ đất tiến hành kiện BHP với sự giúp đỡ của
công ty Slater&Gordon ở Melbourne. BHP dàn xếp để tránh ra toà và đồng ý trả
150 triệu đôla bồi thường cho nh÷ng ngêi chñ ®Êt nµy. Họ cũng hứa tìm
ra giải pháp cho tình trạng này.
Tuy nhiên, vấn đề tiếp tục leo thang, mặc dù BHP đã cố gắng nạo vét lòng
sông, thì 14 năm đã trôi qua kể từ ngày công ty bắt đầu đổ chất thải vào dòng
sông. Vì thế vào cuối thập niên 90 một vụ kiện mới bắt đầu khi mà báo cáo của
Ngân hàng thế giới được công bố trước công chúng. Báo cáo này xác định hai
hiểm hoạ môi trường có thể ngày càng trầm trọng. Thứ nhất, người ta lo ngại về
đồng. Mặc dù hầu hết đồng đã được chiết suất, vẫn còn một ít thâm nhập vào hệ
sinh thái của dòng sông. Dần dần nồng độ đồng cao có thể làm chết cá và tảo.
Thứ hai, một mối quan ngại lớn hơn là đá axit. Khi lớp đá non bị phơi ra, vi khuẩn
có thể tấn công đá, tạo ra axit mà mưa sẽ hoà tan axit này. Viễn cảnh xấu nhất là
cái giá phải trả cho sự rò rỉ axit là 3.7 tỉ đô la mỗi năm trong vòng 50 năm tới.
Không ngạc nhiên gì khi BHP và Paul Anderson đã xác định Ok Tedi mine là
một dự án dysfunctional trong danh mục đầu tư của công ty, with potentially high
cost to shareholders. Năm 2000 BHP phải đối mặt với sự công kích về 4 vấn đề:
(1) tính toán lại khoản bồi thường ( kết quả dàn xếp năm 1996 là công ty chỉ trả
160
cho những chủ đất nhỏ một khoản 100 đôla mỗi người), (2) đe doạ đưa BHP ra
toà án quốc tế về việc tàn phá môi trường, (3) đòi bồi thường cho những chủ đất
ở thượng nguồn (400 km xuôi dòng) nơi mà bị ô nhiễm, và (4) có thể là chi phí
giải quyết ô nhiễm do đồng và đá axit.
Sau 16 năm hoạt động, trong khoảng thời gian đã thu được 8 tỉ đôla từ vàng
và đồng khai thác được, BHP bắt đầu thủ đoạn / vận động rút khỏi dự án, mặc
dù khu mỏ dự kiến sẽ có thể khai thác cho đến năm 2010 và dự án đang trong
giai đoạn có lợi nhuận béo bở nhất.
Tình huống này gợi lên nhiều nghi vấn. Sau khi thu lợi từ khu mỏ, BHP có
phải gánh bất kì một trách nhiệm lâu dài nào? BHP có thể thoát khỏi tình trạng
lộn xộn hiện nay, nhưng PNG phải gánh chịu hậu quả. Nhiều quốc gia đang phát
triển phải gánh chịu những hậu quả như vậy khi họ chấp nhận ô nhiễm để đổi lấy
việc làm và sự phát triển. Vậy sự lựa chọn nào cho những quốc gia đang phát
triển nhỏ bé khi đàm phán các dự án kinh doanh với những công ty toàn cầu lớn
mạnh?
Tahgns 12/2001, BHP Billiton tuyên bố rằng công ty sẽ rút khỏi Ok Tedi đầu
năm 2002, sau khi quốc hội PNG thông qua một đạo luật về vấn đề này 1 ngày
trước đó. Theo một thoả thuận với một công ty vận hành mới – PNG Sustainable
Development chương trình phát triển bền vững cho PNG sẽ được thành lập ở
Singapore – BHP sẽ cung cấp cho chương trình khoản vay có hoàn trả 250 triệu
đôla trong 3 năm. BHP nói rằng khoản cho vay đó không phải là khoản bồi
thường. Tuy nhiên, Slater&Gordon, đại diện cho những chủ đất, đang tiến hành
kiện, thách thức đạo luật mới này.
Câu hỏi
1. BHP đã (a) hoàn thành trách nhiệm xã hội, (b) socially
responsive, hay (c) có trách nhiệm đối với xã hội? Giải thích sự
chọn lựa của bạn.
2. Xác định những chủ thể liên quan trong vấn đề này. Mỗi chủ
thể quan tâm những gì? Có những mối quan tâm nào đối lập?
Giải thích. Những gợi ý nào cho 2 bên liên quan chính – BHP
và chính phủ PNG?
3. Dùng Hình 5.8, phân tích mức độ của vấn đề đạo đức mà các
nhà quản trị BHP và chính phủ PNG gặp phải. Những vấn đề
161
khác ảnh hưởng đến hành động đạo đức hay không đạo đức
có liên quan thế nào?
4. Nghiên cứu về những diễn biến mới nhất của vụ việc Ok Tedi.
Những gì xảy ra kể từ khi bài viết này được xuất bản năm
2002?
162
Chương 5 211TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐẠO ĐỨC QUẢN TRỊ..........................................211TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI LÀ GÌ?........................................................................214
Hai quan điểm đối lập về trách nhiệm xã hội 214Quan điểm của trường phái cổ điển.........................................................................214Quan điểm của trường phái kinh tế xã hội...............................................................216
Những lập luận ủng hộ và phản đối trách nhiệm xã hội 218
BẢNG 5.1 NHỮNG LUẬN ĐIỂM ỦNG HỘ VÀ PHẢN ĐỐI TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI 218
Phản đối 218
Vi phạm tối đa hóa lợi nhuận: doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội chỉ khi doanh nghiệp theo đuổi các mục tiêu kinh tế. 218
Từ nghĩa vụ đến đáp ứng 219
Trách nhiệm xã hội và hiệu quả kinh tế 222QUẢN TRỊ DỰA TRÊN GIÁ TRỊ......................................................................223
Mục đích của những giá trị chung 224
Phát triển những giá trị chung 225
Quản trị trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương 227
Công ty Bảo tồn Shepparton 227QUẢN TRỊ XANH..............................................................................................228
Những vấn đề môi trường mang tính toàn cầu 229
Các công ty xanh hóa như thế nào? 229
Hoạt động quản trị nhìn từ quan điểm toàn cầu 231
Xanh hóa 231TỔNG KẾT TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI.................................................................233
Những nhà quản trị đã tạo ra sự khác biệt 236
Greg Bourne, Chủ tịch khu vực, BP 236ĐẠO ĐỨC QUẢN TRỊ.......................................................................................237
Bốn quan điểm về đạo đức 237
Các nhân tố ảnh hưởng đến đạo đức trong quản trị 239Giai đoạn phát triển nhân phẩm...............................................................................240Đặc điểm cá nhân.....................................................................................................241Các biến cấu trúc......................................................................................................242Văn hoá tổ chức........................................................................................................243
Đạo đức kinh doanh trong bối cảnh toàn cầu 246
Hướng đến nâng cao tư cách đạo đức 248Tuyển chọn nhân viên..............................................................................................248Những quy tắc đạo đức và những nguyên tắc ra quyết định....................................248Sự lãnh đạo của ban quản trị cấp cao.......................................................................251Mục tiêu công việc và đánh giá hoạt động...............................................................252Rèn luyện đạo đức....................................................................................................252Sự kiểm soát độc lập................................................................................................253
163
Cơ chế bảo vệ chính thức.........................................................................................254
Những tình huống khó xử về đạo đức trong quản trị 254
Tham nhũng lớn xảy ra khắp nơi trên thế giới 254LỜI KẾT............................................................................................................256TÓM TẮT...........................................................................................................259SUY NGHĨ VỀ CÁC VẤN ĐỀ CỦA QUẢN TRỊ.................................................261TRUY CẬP INTERNET: BÀI TẬP TRÊN INTERNET.......................................261LẤY THÔNG TIN TRÊN INTERNET.................................................................261LÀM VIỆC NHÓM: BÀI TẬP NHÓM.................................................................262NGHIÊN CỨU TÌNH HUỐNG: Sau cơn sốt tìm vàng........................................263