Top Banner
Các vn đề trong ngành công nghip đin và đin tca các nước ASEAN và các bài hc rút ra cho Vit nam Tháng 08 năm 2005 Hisami Mitarai Vtư vn kinh doanh châu Á Vin Nghiên Cu Nomura Bài nghiên cu này xem xét, phân tích chi tiết nhng vn đề ny sinh trong quá trình phát trin gn đây ca ngành công nghip đin và đin tca Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philipines. Đối vi mi quc gia chúng tôi stiến hành phân tích chính sách công nghip, quá trình phát trin công nghip và và các ưu tiên tchính phtquan đim ca các doanh nghip Nht bn .Bài nghiên cu này cũng cung cp các bài hc kinh nghim tham kho cho Vit nam trong tình hình ngành công nghip đin và đin tca Vit nam còn trong giai đon đầu ca sphát trin. Nhng thông tin trong bài nghiên cu này được đưa ra da vào quá trình nghiên cu lâu dài và quá trình làm vic tư vn trong ngành đin và đin tca các nước khu vc Đông Á ca tác gi. Nhng thông tin trong bài viết cũng được cp nht nhiu hơn tnhng nghiên cu chuyên sâu cho tchc hp tác quc tế Nht Bn (JICA) trong các năm 2003 và 2004. I .Thái Lan 1.Chính sách công nghip. Trong sut thp k70 Thái Lan đã thc hin chính sách khuyến khích xut khu cho ngành đin và đin tthông qua nhng khuyến khích vthuế cho xut khu. Theo sau ThoThun Plaza năm 1985, Thái Lan phát trin ngun đin, các khu công nghip và các cơ shtng khác đồng thi thc hin nhng ci cách lut pháp bao gm lut liên quan đến tlgóp vn để đảm bo môi trường sn xut kinh doanh tdo cho các công ty nước ngoài. Điu này đã đưa đến kết qulà mt slượng ln các nhà đầu tư vi định hướng xut khu đầu tư vào Thái Lan tNht Bn và nhiu quc gia khác. Ktđó, đầu tư nước ngoài vào Thái lan tăng lên liên tc cho đến gia thp k90 khi mà nn kinh tế Thái Lan lâm vào tình trng khng hong kinh tế trm trng vi stt giá ca đồng Bt vào năm 1997. Tđó BCông Nghip Thái Lan đã tiến hành thc hin ci cách trit để cơ cu ngành công nghip và sphát trin ca các doanh nghip quy mô va và nh. Tna cui thp k90 trđi mt thc tế ni lên là đầu tư nước ngoài vào Thái Lan đã bgim xung nghiêm trng do cuc khng hong kinh tế gây ra, sni lên và cnh tranh quyết lit tTrung Quc. Tuy nhiên dch bnh SARS đã làm cho các nhà đầu tư thy s
42

Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Oct 05, 2021

Download

Documents

dariahiddleston
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các nước ASEAN và các bài học rút ra cho Việt nam

Tháng 08 năm 2005

Hisami Mitarai Vụ tư vấn kinh doanh châu Á

Viện Nghiên Cứu Nomura

Bài nghiên cứu này xem xét, phân tích chi tiết những vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển gần đây của ngành công nghiệp điện và điện tử của Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philipines. Đối với mỗi quốc gia chúng tôi sẽ tiến hành phân tích chính sách công nghiệp, quá trình phát triển công nghiệp và và các ưu tiên từ chính phủ từ quan điểm của các doanh nghiệp Nhật bản .Bài nghiên cứu này cũng cung cấp các bài học kinh nghiệm tham khảo cho Việt nam trong tình hình ngành công nghiệp điện và điện tử của Việt nam còn trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Những thông tin trong bài nghiên cứu này được đưa ra dựa vào quá trình nghiên cứu lâu dài và quá trình làm việc tư vấn trong ngành điện và điện tử của các nước khu vực Đông Á của tác giả. Những thông tin trong bài viết cũng được cập nhật nhiều hơn từ những nghiên cứu chuyên sâu cho tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) trong các năm 2003 và 2004.

I .Thái Lan 1.Chính sách công nghiệp. Trong suốt thập kỷ 70 Thái Lan đã thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu cho ngành điện và điện tử thông qua những khuyến khích về thuế cho xuất khẩu. Theo sau Thoả Thuận Plaza năm 1985, Thái Lan phát triển nguồn điện, các khu công nghiệp và các cơ sở hạ tầng khác đồng thời thực hiện những cải cách luật pháp bao gồm luật liên quan đến tỷ lệ góp vốn để đảm bảo môi trường sản xuất kinh doanh tự do cho các công ty nước ngoài. Điều này đã đưa đến kết quả là một số lượng lớn các nhà đầu tư với định hướng xuất khẩu đầu tư vào Thái Lan từ Nhật Bản và nhiều quốc gia khác. Kể từ đó, đầu tư nước ngoài vào Thái lan tăng lên liên tục cho đến giữa thập kỷ 90 khi mà nền kinh tế Thái Lan lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng với sự tụt giá của đồng Bạt vào năm 1997. Từ đó Bộ Công Nghiệp Thái Lan đã tiến hành thực hiện cải cách triệt để cơ cấu ngành công nghiệp và sự phát triển của các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Từ nửa cuối thập kỷ 90 trở đi một thực tế nổi lên là đầu tư nước ngoài vào Thái Lan đã bị giảm xuống nghiêm trọng do cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra, sự nổi lên và cạnh tranh quyết liệt từ Trung Quốc. Tuy nhiên dịch bệnh SARS đã làm cho các nhà đầu tư thấy sự

Page 2: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

cần thiết phải phân tán rủi do kinh doanh về mặt địa lí hơn là chỉ tập trung tất cả các dự án vào đầu tư vào Trung Quốc. Kết quả là đã có sự phục hồi đầu tư vào Thái Lan, một đất nước có môi trường đầu tư thuận lợi và tiềm năng phát triển cao đặc biệt là ngành sản xuất ô tô. Mặc dù môi trường đầu tư trong khu vực đang thay đổi nhanh tróng do sự cạnh tranh đang nổi lên của Trung Quốc và sự tháo dỡ những rào cản thương mại theo hiệp định tự do thương mại Đông Nam Á (AFTA), ngành điện và điện tử ở Thái Lan đã dần hồi phục và phát triển mạnh trong những năm gần đây một phần là nhờ vào những tiến bộ trong các nỗ lực của chính phủ trong việc cải cách cơ cấu kinh tế. Ở Thái Lan những chính sách khuyến khích dành cho các nhà đầu tư nước ngoài đã được Ủy Ban Đầu Tư ( BOI ) thực hiện theo một phương thức nhằm đạt được một sự cân bằng giữa các công ty nước ngoài và các công ty trong nước. Trước đây, chính phủ có nhiều chính sách hạn chế về tỷ lệ góp vốn nước ngoài dựa trên sự tham gia của thị trường trong nước và việc đóng góp vào xuất khẩu. Một đặc điểm nổi bật của hệ thống chính sách này là chính phủ Thái Lan điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo ưu đãi từng vùng ( từ vùng một đến vùng ba ) theo đó mỗi vùng sẽ có những sự khuyến khích khác nhau cho các nhà đầu tư bao gồm mức giảm hoặc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trao cho các công ty đóng ở các vùng khác nhau. Điều này nhằm hạn chế việc tập trung quá mức các công ty nước ngoài đóng ở thủ đô Băng Cốc. Tuy nhiên, sau cuộc khủng hoảng kinh tế thì hầu hết những hạn chế này đã được dỡ bỏ. Từ khi chính phủ do thủ tướng Thaksin lên lãnh đạo, chính phủ chuyển những ưu đãi khuyến khích cho những dự án phát triển khoa học và công nghệ, các dự án nghiên cứu và phát triển ( R&D) nhằm khuyến khích thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Thái Lan. Sự ra đời và vai trò của Viện Điện và Điện Tử (EEI) đối với sự phát triển công nghiệp điện và điện tử ở Thái Lan. Viện Điện và Điện Tử ( VĐ&ĐT ) được thành lập vào năm 1998 bởi Bộ Công Nghiệp như là một cơ quan độc lập với mục đích phục vụ lợi ích chung cho ngành điện và điện tử như là một trong những kế hoạch hành động cụ thể nhằm thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp. Một số chức năng như việc thiết lập các chính sách cho các ngành khác, dự thảo ngân sách và các dịch vụ dành cho các doanh nghiệp tư nhân đã được chuyển từ Bộ Công Nghiệp sang VĐ&ĐT. Bảy Viện với chức năng vai trò tương tự như viện điện và điện tử , bao gồm một viện phụ trách về ngành công nghiệp ô tô cũng, cũng được thành lập. VĐ&ĐT bắt đầu hoạt động vào đầu năm 1999, đóng vai trò là cơ quan chính phủ thúc đẩy ngành điện và điện tử của Thái Lan phát triển. Nó cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo ra cầu nối giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước cũng như phối kết hợp lợi ích từ việc hợp tác giữa các công ty tư nhân với nhau.

Page 3: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Nguồn kinh phí cho hoạt động chính của Viện Điện&Điện Tử là từ các khoản phí từ việc kiểm tra và cấp giấy xác nhận chất lượng cho sản phẩm điện , điện tử của các doanh nghiệp; các khóa đào tạo và tập huấn kỹ thuật; các dịch vụ tư vấn. Từ năm 2004 khi Viện này trở thành một cơ quan độc lập thì nó bắt đầu gặp phải hàng loạt các vấn đề khó khăn như việc việc đảm bảo kinh phí cho hoạt động của Viện cũng như cho việc duy trì trình độ, thiết bị công nghệ cao cho việc kiểm tra các tiêu chuẩn về an toàn. Tổng công ty phát triển Hải Ngoại của Nhật Bản (JODC) đã tiến hành một nghiên cứu liên tục về vai trò chức năng của Viện Điện&Điện Tử và đã đưa ra một số nhận xét trong các lĩnh vực được chỉ ra dưới đây, tuy nhiên những vai trò đó vẫn chưa được thực hiện: Chất lượng sản phẩm, những kiểm tra về môi trường và độ an toàn liên quan đến ngành điện và điện tử ( ví dụ : như việc chuyển giao các cơ sở, thí nghiệm từ TISI ) Cung cấp thông tin về hoạt động sản xuất, công nghệ và hỗ trợ bán hàng. Tạo một khung hợp tác giữa các ngành do nhà nước quản lí và các ngành do tư nhân quản lí với các ban ngành liên quan ở Thái Lan và các nước khác. Nghiên cứu về việc ban hành thiết lập các chính sách và chiến lược cho ngành điện và điện tử dựa trên dự thảo của các kế hoạch phát triển dành cho ngành này. Nghiên cứu và chương trình phát triển của Cơ quan Chiến lược Khoa học và Công nghệ Quốc gia ( CQCLKH&CNQG ) Chính phủ Thái Lan đang thực hiện Kế hoạch Chiến lược Khoa học và Công nghệ Quốc gia ( 2004 -2013 ) Trọng tâm nhắm vào việc hình thành mạng lưới khoa học và công nghệ và xúc tiến việc hợp tác giữa các cơ quan tư nhân và nhà nước bao gồm các công ty sản xuất, các nhà cung cấp dịch vụ, các cơ quan tài chính, cơ quan giáo dục vv… . ở Thái Lan các trường đại học trước tiên là nhằm đào tạo nguồn nhân lực tuy nhiên vẫn chưa có được vị thế giống như các trung tâm Nghiên cứu và Phát triển (R&D). Trong bối cảnh đó CQCLKH&CNQG đã được thành lập dưới sự ủng hộ của bộ Khoa học và Công nghệ đã phát triển và quản lí một khu trung tâm khoa học công nghệ từ năm 1996. Người ta đặt nhiều hy vọng vào trung tâm nghiên cứu khoa học này như là một trung tâm nghiên cứu và phát triển trong việc hỗ trợ chính sách khoa học và công nghệ của quốc gia. Trong gần 1800 người đang làm việc ở trung tâm khoa học công nghệ này có tới gần 800 người là các nhà khoa học và nhà nghiên cứu. Họ đang thực hiện việc nghiên cứu và phát triển trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu, công nghệ Nano, vv… Tại khu trung tâm nghiên cứu khoa học này, tập đoàn sản xuất ô tô Toyota và tập đoàn Honda đã cùng nhau thực hiện một dự án nghiên cứu chung trong lĩnh vực phát triển vật liệu cũng như nhiều nghiên cứu khác. Mặc dù còn hạn chế nhưng có thể nói việc hợp tác

Page 4: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

giữa các công ty của Nhật Bản và đội ngũ nghiên cứu và phát triển của Thái Lan đã được tiến hành trong ngành sản xuất ô tô. Mặc dù các nghiên cứu chung được thực hiện trong số các doanh nghiệp tư nhân thì chưa sôi động lắm nhưng người ta hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều nghiên cứu chung hơn trong các lĩnh vực như ô tô, công nghệ sinh học và các lĩnh vực khác có liên quan. Đặc biệt là đã có những nghiên cứu chung về việc nuôi trồng tôm với tập đoàn CP, một doanh nghiệp có vốn đầu tư của Thái Lan cũng như một nghiên cứu về sản xuất phanh ô tô với một công ty sản xuất linh kiện ô tô cho tập đoàn Honda Hình 1. Cơ cấu tổ chức của công viên khoa học công nghệ của Thái Lan.

Nguồn: Trang chủ của CQCLKH&CNQG. 2. Khái quát về ngành công nghiệp điện và điện tử của Thái Lan Ở Malaisia ngành công nghiệp điện tử phát triển mạnh mẽ và gặt hái nhiều thành công nhờ vào vào mối liên hệ, liên kết hợp tác giữa các nhà sản xuất linh kiện và các nhà lắp ráp các sản phẩm điện tử của Nhật Bản. Ngược lại, hầu như các công ty đang hoạt động ở Thái Lan không phụ thuộc nhiều vào nhau. Trong nước, có nhiều công ty nước ngoài sản xuất đồ điện gia dụng như tủ lạnh, điều hòa, tivi, máy quay phim và các thiết bị thông tin và cũng có nhiều nhà sản xuất linh kiện cho các sản phẩm điện tử nghe nhìn và, các sản phẩm cho ngành công nghệ thông tin và viễn thông. Tuy nhiên, đặc điểm của ngành điện và điện tử ở Thái Lan là các doanh nghiệp này hoạt động một cách độc lập với nhau. Đồng thời số lượng các công ty tập trung vào sản xuất các sản phẩm điện và cơ khí như máy in và các phụ kiện của nó có số lượng nhiều hơn các công ty sản xuất các sản phẩm điện tử. Thái Lan, nước có dân số đông hơn Malaisia, có nhu cầu lớn về các sản phẩm và

Ủy ban khoa học công nghệ quốc gia

Tiểu ban quản lý quỹ phát triển khoa học công nghệ Tiểu ban quản lý nhân sự

Tiểu ban kiểm toán

Trung tâm di truyền và công nghệ sinh học quốc gia

Trung tâm nghiên cứu điện tử và máy tính quốc gia

Văn phòng trung tâm

Trung tâm công nghệ nano quốc gia

Trung tâm công nghệ vật liệu quốc gia

Page 5: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

linh kiện cho máy móc chính vì vậy mà Thái Lan có trình độ công nghệ về máy móc gia công tương đối cao. Với sự nổi lên của Trung Quốc và việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á ( AFTA), Thái Lan đang điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất của ngành điện và điện tử mặc dù Thái Lan bị ảnh hưởng bởi chính sách khuyến khích đầu tư phát triển có lựa chọn theo quốc gia của các công ty Nhật Bản trong khu vực ASEAN, điều này không có nghĩa là Thái Lan kém năng lực cạn tranh so với Trung Quốc trong lĩnh vực nhân công và chi phí hậu cần cho sản xuất kinh doanh. Trên thực tế quá trình tái cơ cấu đang cho thấy rõ Thái Lan là trung tâm xuất khẩu hàng gia dụng như tủ lạnh , điều hòa nhiệt độ, máy giặt và thiết bị thông tin. Đáng chú ý ý là công ty Seagate có trụ sở ở Mỹ gần đây đã tuyên bố những kế hoạch xây dựng một nhà máy sản xuất đĩa cứng máy tính ở Thái Lan. Ngoài ra còn có sự dịch chuyển đầu tư tương tự ví dụ như trường hợp của các công ty trách nhiệm hữu hạn Fujitsu và Hitachi. Thái Lan đang dần thay thế Sinhgapo để trở thành một trung tâm chính sản xuất đĩa cứng máy tính.

Hình 2. Xu hướng sản xuất của ngành điện-điện tử Thái Lan

0.0

2.0

4.0

6.0

8.0

10.0

12.0

14.0

16.0

18.0

20.0

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

Billion Dollar

0

50

100

150

200

250

300

350

400

Billion Dollar

Parts

Device

Communication

Computer

AV

Japanese investmentfor Thailand

Nguồn : Niên giám thống kê ngành điện tử thế giới ( Year Book of World Electronics Data trên thế giới hàng năm ( Viện nghiên cứu điện tử READ) và từ các số của tạp chí thống kê tài chính

0.0 2.0 4.0 6.0 8.0 10.0 12.0 14.0 16.0 18.0 20.0

199 199 199 199 199 200 200 200 2000

5

10

15

20

25

30

3540

Linh phụ kiện Thiết bị Viễn thông Máy tính Thiết bị nghe nhìn Đtư của Nhật Bảnvào Thái Lan

Tỷ đô-la Tỷ đô-la

Page 6: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Hình 3 : Thị phần của Thái Lan sản xuất điện và điện tử ở khu vực ASEAN

Nguồn : Xem bảng 2 3. Những ưu đãi dành cho các công ty Nhật Bản. Trong khi các công ty Nhật Bản đang góp phần to lớn vào sự phát triển công nghiệp điện và điện tử của Thái Lan thì họ cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề khác nhau từ khung luật pháp, chính sách đến sự thiếu phát triển của của công nghiệp phụ trợ cũng như sự thiếu hụt nguồn nhân lực. Những giải pháp cơ bản cho vấn đề này vẫn chưa được đưa ra mặc dù đã đã có những cố gắng từ phía chính phủ Thái Lan và nguồn vốn ODA của Nhật Bản. Khung chính sách và thể chế pháp lí Đề cập đến khung chính sách luật thì Thái lan đã có nhiều luật điều chỉnh hoạt động đầu tư cũng như các cơ quan chính phủ tham gia việc việc thực thi các luật trên. Tuy nhiên mức độ phạm vi tham gia của cơ quan chính phủ và các quan chức tham gia vào việc thực thi những luật này có những sai khác đáng kể. Điều này đã gây ra những phiền toái nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh của nhiều công ty Nhật Bản. Ví dụ như các công ty nước ngoài được Ủy Ban Đầu Tư (BĐT ) thừa nhận thì trên lí thuyết được phép nhập khẩu vật liệu mà không phải nộp thuế. Tuy nhiên trên thực tế chính sách này chỉ hoàn lại thuế nhập khẩu cho doanh nghiệp tại thời điểm các doanh nghiệp đưa ra chứng cứ có hàng xuất khẩu. Thủ tục này gây ra phiền hà cho các doanh nghiệp và nhiều công

0.0

20.0

40.0

60.0 80.0

100.0

120.0

140.0

199 199 199 199 199 200 200 200 200

Tỷ đô-la

0.0

2.0

4.0

6.0

8.0

10.0

12.0

14.0

16.0

18.0

Thái Lan Các nước ASEAN khác Tỷ trọng

Page 7: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

ty đã chỉ ra rằng việc hoàn lại thuế nhập như vậy đôi khi bị trì hoãn một cách tuỳ tiện. Ngoài ra chính phủ thay đổi mức thuế suất nhập khẩu, các công ty bị yêu cầu phải trả khoản chênh lệch giữa mức thuế cũ và mới trước đây và điều này xảy ra rất thường xuyên. Vì thế tính bền vững của chính sách luôn được quan tâm. Phần lớn các công ty đang hoạt động ở Thái Lan gồm cả những công ty hoạt động trong ngành điện và điện tử đang phải đối mặt với những phiền toái này và đang kêu gọi sự điều chỉnh phù hợp. Mặc dù nhiệm vụ chính của Ủy Ban Đầu Tư (BĐT) là thu hút các công ty nước ngoài đến Thái Lan nhưng giờ đây chính là lúc mà Ủy Ban Đầu Tư nên dành nhiều quan tâm hơn tới việc cung cấp các dịch vụ theo dõi hỗ trợ thường xuyên cho các công ty nước ngoài mà đã có mặt tại Thái Lan. Sự kém phát triển của công nghiệp phụ trợ Đối với các công ty Nhật Bản đang hoạt động ở Thái Lan và mong muốn khuyến khích sự phát triển các doanh nghiệp Thái Lan thì việc cung cấp những nguyên tắc kinh doanh cho các doanh nhân Thái Lan là cần thiết để nhận ra nguyên tắc QCĐS ( chất lượng, giá cả, phân phối, dịch vụ ). Điều này có lẽ còn quan trọng hơn cả công nghệ sản xuất, nâng cấp thiết bị và máy móc sản xuất. Việc nâng cấp có thể đạt được bằng việc tăng nguồn nhân lực và tăng thêm vốn đầu tư. Ngược lại đầu óc kinh doanh thì ăn sâu vào và trở thành đặc điểm của người dân Thái Lan. Để thay đổi được điều này thì cần phải có một số biện pháp cơ bản nhất định như là cải cách toàn diện hệ thống giáo dục là điều hết sức cần thiết. Ở Thái Lan từ lâu người ta đã nhận cần phải khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ tuy nhiên nhu cầu cấp bách này đang trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết khi đất nước này theo đuổi chiến lược đang hướng ra xuất khẩu. Một số việc chuyển giao công nghệ và đào tạo tay nghề đã được thực hiện trong các lĩnh vực nhựa và thiết bị kim loại , những ngành đó cần sự chính xác tương đối thấp. Tuy nhiên các trình độ về sản xuất linh kiện và nguyên vật liệu, công nghệ xử lí bề mặt như phun sơn và mạ cho các linh kiên dùng trong các sản phẩm điện tử xuất khẩu vẫn còn rất. Lĩnh vực này cần phải được hỗ trợ nhiều hơn nữa thông qua việc chuyển giao công nghệ, kỹ thuật từ các chuyên gia Nhật Bản và các biện pháp khác.Trong những năm gần đây khi các công ty ô tô phương Tây và Nhật Bản bắt đầu xem Thái Lan như một trung tâm sản xuất ở khu vực ASEAN thì sự tập trung và phát triển của các nhà sản xuất linh kiện cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Điều này cũng dẫn tới việc cần thiết phải nâng cấp các ngành công nghiệp phụ trợ mạnh mẽ hơn nữa. Nếu như đạt được mục tiêu này, Thái Lan bắt đầu có khả năng phát triển các công nghệ phức tạp trong các ngành sản xuất công nghiệp. Phòng Thương mại và Công nhiệp Nhật Bản và Liên Đoàn Công nghiệp Thái Lan đã đồng tổ chức một cuộc “Hội nghị chuyên đề về năng suất” với sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Đoàn các tổ chức kinh tế của Nhật Bản. Sự

Page 8: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

kiện diễn ra hàng năm này đã được tổ chức 4 lần kể từ năm 2000. Chương trình này nhắm vào các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ của Thái Lan, đào tạo 40 người của 20 công ty cho mỗi khoá (mỗi công ty có 2 người đó là chủ tịch và giám đốc ). Hội nghị kéo dài 4 ngày trọng tâm nhằm vào đào tạo hướng nghiệp; bao gồm các bài giảng tập trung vào các nghiên cứu tình huống, thăm quan nhà máy và đào tạo thực tế trong xưởng của các công ty mẫu.Chương trình này được đánh giá cao bởi tính thực hành của nó. Nhiều người cho rằng hội nghị này nên được tổ chức thường xuyên hơn và số lượng công ty cũng nên mở rộng thêm. Nhưng vấn đề nằm ở quá trình tiếp theo sau khi hội nghị kết thúc do không có công ty nào tham gia vào chương trình một cách liên tục nên khó có thể đánh giá được lợi ích của khoá này đào tạo đến đâu. Chương trình hành động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNV&N ) và một quy hoạch tổng thể đang được tiến hành để phát triển các doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ. Ngoài ra Viện Phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ ( VPTDNV&N ) đã được thiết lập vào tháng 4 năm 1999 với tư cách là cơ quan nòng cốt phục cho mục đích này. Nó hợp tác với các trường đại học lớn và các phòng thương mại và công nghiệp ở các vùng khác nhau để mở ra các chương trình đào tạo và cung cấp các dịch vụ tư vấn. Tuy nhiên những đối tượng tham gia và nội dung của đa phần các chương trình hiện nay được thiết kế cho các doanh nghiệp quy mô rất nhỏ chỉ có một số ít chương trình phù hợp với công ty lớn hơn một chút để phục vụ cho các ngành phụ trợ của ngành điện và điện tử. Đảm bảo nguồn nhân lực Nguồn nhân lực mà các công ty Nhật Bản trong ngành điện và điện tử cần nhất là kỹ sư thiết kế, sản xuất và hệ thống thông tin cũng như cán bộ quản lí gồm có các kế toán. Chẳng hạn như trong khi họ muốn tuyển các kỹ sư thiết kế và kế toán có tài, thì rất ít trường đại học ở Thái Lan có khoa khoa học cơ bản, kỹ sư hoặc kế toán. Khi có nhu cầu lớn về một loại lao động nào đó thì số lượng lại rất hạn chế vì thế rất khó cho các công ty có thể đảm bảo tuyển được các cán bộ có tài. Để giải quyết vấn đề này các công ty phải đưa ra một cơ chế khuyến khích như trả thêm lương cho những người làm việc tốt hơn, tuy nhiên do lề lối quản lí lao động cũ nên hầu như không thể làm cho liên đoàn lao động chấp thuận sự chênh lệch lớn về lương ( trả cho lao động ) trong một công ty. Ở Thái Lan có khoảng 70 trường đại học gồm Chulalongkorn, Thamasat và Viện Công Nghệ Hoàng Gia Mongkut đào tạo các sinh viên ngành khoa học cơ bản và xây dựng. Mặc dù nếu chỉ tính các trường đại học quốc gia và đại học công khác thì số lượng các sinh viên tốt nghiệp ngành khoa học và xây dựng ước tính hàng năm chỉ vào khoảng hơn 20000 sinh viên, trong đó có khoảng 10000 học chuyên ngành hoá hoặc khoa học và chỉ khoảng 10 000 theo lĩnh vực xây dựng như kỹ sư điện, kỹ sư cơ khí. Ngược lại, ở Trung Quốc có 1225 trường đại học với số lượng sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành khoa học và xây

Page 9: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

dựng hành năm là trên 450 000 sinh viên ( số liệu năm 2001 ) . Trong khi việc tuyển dụng các kỹ sư có tài với lương thấp tương đối dễ dàng ở Trung Quốc , thì các công ty hoạt động ở Thái Lan hầu như không biết liệu họ có thể thuê được các kỹ sư có năng lực cao hay không thậm chí nếu có tìm thấy các ứng viên đó thì các công ty cũng phải trả lương rất cao. Hiện nay có một kế hoạch đang được tiến hành với sự giúp đỡ của Bộ Kinh Tế Thương Mại và Công Nghiệp Nhật Bản (METI) để thiết lập một tổ chức trong tương lai gần nhằm đào tạo công nhân cho các công ty Nhật Bản đang hoạt động ở Thái Lan. Chương trình giảng dạy theo như đã thảo luận sẽ kéo dài từ 3 đến 6 tháng vừa lí thuyết và thực hành trong các lĩnh vực quản lý ( kế toán, quản lý lao động, các công việc liên quan đến luật pháp vv …) , các lĩnh vực liên quan đến thiết kế và các lĩnh vực kỹ thuật liên quan đến sản xuất ( khoa lắp riáp và khoa công nghệ ). Dự tính mỗi một buổi có xấp xỉ 10 giáo viên hướng dẫn và 80 học viên (lên lớp). Một câu hỏi vẫn tồn tại đó là làm thế nào có thể lồng việc đào tạo hướng nghiệp vào chương trình này ngoài các bài giảng trên lớp. Bảng 1. Các hệ thống giáo dục cung cấp nguồn nhân lực ở Thái Lan Hệ thống giáo dục của Bộ Giáo Dục

Có hai định hướng giáo dục. Định hướng thứ nhất gồm có giáo dục bắt buộc kéo dài trong 6 năm, 3 năm cho trung học cơ sở, 3 năm trung học phổ thông và 4-5 năm học đại học. Định hướng thứ hai học sinh nhận được một chứng chỉ đào tạo nghề, sau hai năm học nữa sẽ nhận được bằng trung cấp và sau 2-3 năm học nữa sẽ nhận được bằng cử nhân

Hệ thống giáo dục của Bộ Lao Động và Phúc Lợi Xã Hội

Theo hệ thống này thì theo sau giáo dục bắt buộc kéo dài 6 năm là đào tạo nghề (tương đương 3 năm trung học cơ sở ) và học sinh phải học thêm về đào tạo nghề để lấy chứng chỉ bậc 1 ( tương đương với 1 chứng chỉ đào tạo nghề ), để lấy chứng chỉ bậc 2 ( tương đương với một khoá học trung cấp kéo dài 2 năm ) và bậc 3 ( tương đương với bằng cấp của một cử nhân ). Tuy nhiên, hiện nay giáo dục dành cho bậc 2 và bậc 3 vẫn chưa được thực hiện.

Các trung tâm đào tạo và phát triển kỹ năng

Phòng phát triển kỹ năng ( PPTKN ) của Bộ Lao động và Phúc Lợi Xã Hội Xấp xỉ 50 trung tâm đào tạo nghề trên khắp cả nước ( trung

Page 10: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

tâm RISD được thành lập năm 1994, PCSD năm 1999 ) Trong ngành điện và điện tử, đào tạo để vận hành máy tính, các công việc liên quan đến điện, sửa chữa tivi và máy điều hoà.. 2.Cục phát triển công nghiệp phụ trợ -Tiền thân là trung tâm đào tạo vận hành cơ khí máy móc thành lập năm 1998 -Với sự giúp đỡ của JICA (1999-2004), tập trung vào thúc đẩy ngành chế biến nhựa và khuôn đúc 3.Viện hợp tác công nghệ Đức-Thái Lan(TGI) -Được thành lập dưới một dự án chung giữa chính phủ Thái Lan và Đức vào năm 1995 -Đào tạo kỹ năng trong 3 lĩnh vực: tự động hóa, CAD/CAM, và thiết kế khuôn kim loại cho dập và gia công nhựa 4. Trung tâm đào tạo kỹ thuật Ayutya -Một liên doanh giữa công ty Canon và Viện Công nghệ King MongKuk, thành lập năm 1992 tại Công viên công nghệ Ayuatta, bắc Bangkok -Đào tạo tự động hóa,điện, điện tử, và gia công nhựa, CNC 5. Hiệp hội xúc tiến công nghệ ( Thái Lan – Nhật Bản) (TPA) -Một tổ chức thành lập với sự giúp đỡ của Bộ Công Nghiệp Thương Mại Nhật (METI) và hội phát triển kinh tế Thái Nhật -Tổ chức các hội nghị chuyên đề về quản lý sản xuất, công nghệ thông tin, tiêu chuẩn chất lượng và các lĩnh vực quản trị kinh doanh 6. Trung tâm công nghệ điện tử máy tính quốc gia (NECTEC) -Thành lập vào năm 1994 trực thuộc Bộ Khoa Học Môi Trường -Tổ chức hội nghị chuyên đề cho phát triển nguồn nhân lực, như là công nghệ thông tin phục vụ doanh nghiệp, thiết kế IC, và các hoạt động nghiên cứu phát triển 7. Viện Điện và Điện Tử

Page 11: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

-Thành lập như là một tổ chức độc lập vào năm 1998 dưới sự quản lý của Bộ Công Nghiệp -Tổ chức hội nghị chuyên đề về công nghệ và quản trị kinh doanh.

II. Malaysia 1. Chính sách công nghiệp Dưới sự lãnh đạo của thủ tướng Mahathir, Bộ Phát triển Công Nghiệp ( MIDA) đã thự hiện nhiều chính sách phát triển công nghiệp bao gồm chính sách phát triển nguồn tài nguyên tự nhiên, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực điện và điện tử và các ngành công nghiệp liên quan cũng như chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất ô tô nội địa. Đặc biệt dưới chính sách “ Nhìn về Đông Á” với mục đích cố gắng đạt sự tăng trưởng kinh tế như Nhật Bản, Chính phủ đã tập trung phát triển chính sách nhằm thúc đẩy các ngành hướng xuất khẩu thông qua các chính sách hấp dẫn đầu tư nước ngoài đến những năm của thập kỷ 90 và đã thành công tạo ra một hệ thống rộng lớn các nhà sản xuất trong ngành điện và điện tử.Công việc quản lý kinh tế rất khó khăn trong suốt thời kỳ khủng hoảng tài chính khu vực trong năm 1997, và đã buộc Chính phủ phải cải cách cấu trúc công nghiệp. Tuy nhiên, Malaysia đã trải qua thời kỳ khó khăn do biết chấp nhận một chính sách tỷ giá hối đoái độc lập ( một tỷ giá hối đoái cố định) không chịu ảnh hưởng với các thúc ép tử quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF) và bây giờ đang phát huy tác dụng, tạo tiền đề cho con đường phát triển khi Malaysia tiến vào thế kỷ 21. Chính sách kinh tế dựa vào sự hấp thụ của vốn nước ngoài và đã chứng minh đã thành công, và Malaysia đang trở thành người dẫn đầu về phát triển kinh tế trong khu vực ASEAN.Tuy nhiên , với đặc thù là một quốc gia đa chủng tộc với người Mã Lai chiếm tới 60% dân số, người Trung Quốc chiếm 20% còn lại là người Ấn và các dân tộc khác 20% . Chính sách kinh tế hướng về cộng đồng thiểu số Bumiputra với mục đích tăng vai trò và địa vị của người Mã lai, đã có những tác động cả thuận lợi và không thuận đối với đất nước. Đối lập với những dự định hồi đó của thủ tướng Mahathir, xã hội Malaysia đã đối xử ưu đãi thiên vị người Mã Lai trong kinh tế , chính trị . Trong bối cảnh đó, vô hình chung nền kinh tế và các doanh nghiệp đã không phổ biến triết lý sản xuất ( monodukuri) mà các công ty Nhật bản tìm kiếm. Kết quả là không có nhiều các kỹ thuật công nghệ cao đuợc chuyển giao cho những doanh nghiệp của người bản địa.

Page 12: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Với nguồn lực lao động có hạn và sự yếu kém dần năng lực cạnh tranh, chính phủ đã công bố một chính sách chuyển dịch nền kinh tế dựa vào sản xuất ( P-Economy) sang nền kinh tế dựa trên tri thức(K-economy) trong khoảng thời gian giữa thập niên 90 với mục tiêu thoát khỏi nền kinh tế phụ thuộc vào các ngành công nghiệp lắp ráp phụ thuộc vào vốn đầu tư từ nước ngoài. Mặc dù các doanh nghiêp của Malaysia dường như có vị trí tương đối tốt khi cạnh tranh với các doanh nghiệp Trung Quốc do nhờ vào một hệ thống rộng lớn của các công ty Nhật bản và các công ty nước ngoài, nó vẫn thay đổi mạnh mẽ chính sách đầu tư nước ngoài sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Những dự định của Malaysia giờ đây là chuyển dịch sang phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao thông qua đầu tư vào nghiên cứu và phát triển và đầu tư vào công nghệ thông tin. Malaysia đang nỗ lực rất lớn để tạo ra Hành lang siêu xa lộ thông tin được đưa ra từ giữa năm 1990. Chính sách “ Hướng Đông Á” Trong quá trình thiết kế phát triển chiến luợc xây dựng quốc gia, thủ tướng Mahathir đã chọn lựa chính sách “ Hướng Đông Á” vào năm 1981 với mục đích học tập kinh nghiệp phát triển của Nhật và Hàn Quốc. Cùng với chính sách ưu đãi người thiểu số Malai ( Bumiputra), Thủ tướng Mahathir đã xây dựng một hệ thống cử người Malay tới các nước trên thế giới để học hỏi. Khi thủ tướng Mahathir lưu ý đặc biệt với đặc điểm về tinh thần công việc, đạo đức kinh doanh và kỹ năng quản lý của người Nhật, xấp xỉ 14000 sinh viên Mã Lai đã được học tập tại Nhật Bản dưới chính sách này đến năm 2003. Những sinh viên muốn tham gia vào chương trình này được học tập khóa dự bị trong các trung tâm của Nhật trong khuôn viên các trường đại học của Malaysia trước khi tới các trường đại học Nhật để học tập. Tính tới hôm nay, 1580 sinh viên Mã lai đã hoàn thành chương trình học tập của mình trong các trường đại học quốc gia Nhật Bản thuê nhân công địa phương thường nhìn nhận các sinh viên du học tự túc tốt nghiệp các trường nước ngoài tài năng hơn các sinh viên tốt nghiệp các trường đại học ưu đãi cho người Mã lai. Tuy nhiên, chính sách Nhìn về hướng Đông đã tồn tại 20 năm, một số cựu sinh viên ở Nhật bản đã tận dụng ưu thế kinh nghiệm làm việc với các công ty Nhật Bản để thành lập các doanh nghiệp riêng. Gần đay, 25 các doanh nghiệp thành công đã tập hợp lại để thành lập một liên doanh” Hướng Đông Á” ,và bằng cách phát triển và thành lập văn phòng công nghiệp và thương mại, đang triển khai công việc cầu nối giữa doanh nghiệp Nhật Bản( đặc biệt là phòng thương mại công nghiệp Nhật Bản) và các doanh nghiệp nội đia của người bản xứ.

Page 13: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Hình 04. Số sinh viên du học dưới chính sách Hướng Đông Á Nguồn : Ngân hàng phát triển hải ngoại Nhật Bản (JBIC). Ghi chú: Chính sách Hướng Đông của Malaysia bao gồm các chương trình (i) Chương trình đào tạo học thuật (AEP); (ii) Chương trình đào tạo kỹ thuật (TEP); (iii) Chương trình học tiếng Nhật cho các giáo viên Malaysia (JLPMT); (iv) Chương trình đào tạo kỹ thuật-công nghiệp trong nhà máy (công nghệ thông tinTP); (v) Chương trinh đào tạo ngắn ngày cho các doanh nhân quản lý (STME); (vi) Chương trình đào tạo quản trị kinh doanh và chương trình kèm với các công ty Nhật Bản; (vii) Học bổng do tổ chức, chính phủ Nhật tài trợ. Sáng kiến hành lang siêu xa lộ thông tin Mặc dù Malaisia tiếp tục là một trung tâm sản xuất chính của công nghiệp điện và điện tử trong khu vực ASEAN, nhưng nó đang bị cản trở bởi hai vấn đề chính (i) mạng lưới các ngành công nghiệp phụ trợ gây ra sự phụ thuộc vào các sản phẩm nhập khẩu nguyên vật liệu và phụ tùng; (ii) tình trạng khan hiếm lực lượng lao động gây nên chi phí lao động cao. Như là một phần trong chương trình Siêu xa lộ thông tin, chính phủ đã công bố chính sách thúc đẩy lĩnh vực điện và thiêt bị viễn thông-phần mềm. Điều này có nghĩa là sự chuyển dịch sản xuất thiết bị điện và thiết bị hàng điện dân dụng tiêu dùng sang các linh vực khác . Trong bất cứ trường hợp nào, bởi vì khu vực tự do mậu dich ASEAN( AFTA) sẽ buộc các quốc gia tập trung vào những lĩnh vực mà có lợi thế cạnh tranh do vậy không sớm thì muộn, tốc độ sản xuất các hàng hóa thiết bị điện tiêu dùng thông dụng sẽ có xu hướng giảm xuống.

Others(10514)73%

Postgraduate(71)0%

HelpⅠ&HelpⅡ(522)4%

TEP(1121)8%

AEP( 2078)15%

Page 14: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Chương trình Siêu xa lộ thông tin đã tạo ra một trung tâm nghiên cứu và phát triển cho các ngành công nghiệp dựa trên công nghệ thông tin.Trung tâm này có diện tích khoảng 15 km2 trải dài từ trung tâm thủ đô Kuala Lumpur (KL) ở phía bắc tới sân bay quốc tế Kuala Lumpur ở Sepang ở phía nam. Trung tâm này tổng cộng có 8 dự án đặc biệt bao gồm một trung tâm y tế từ xa, một trường học chất lượng cao, các cơ sở nghiên cứu R&D, trung tâm đa chức năng và chính phủ điện tử. Các công ty liên quan đến bất kỳ một trong những dự án trên được những ưu đãi như được lựa chọn miễn 100% thuế đầu tư hoặc là ưu đãi cho các nhà đầu tư tiên phong trong vòng 10 năm. Các công ty này cũng được phép tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài khi cần thiết. Bảng 02. Hành lang siêu xa lộ thông tin: Các doanh nghiệp tham gia

Nguồn: MSC Hình 5. Hành lang siêu xa lộ thông tin: Tham gia phân theo ngành (tháng 11. 2002)

1997 1998 1999 2000 2001 2002/11

Malaysian capita� i50%<� j 47 84 181 276 410 522Foreign capita� i50%<� j 44 84 112 144 198 239JV� i50%-50%� j 12 31 34 38 50 53� iGlobal big company� j 3 6 7 9 13 18

Total 94 197 300 429 621 779

0 20 40 60 80 100 120 140 160

Phần cứng – Điện tử

Linh phụ kiện, thiết bị

Kinh doanh bằng Internet, Dịch vụ/Cung ứng thương mại điện tử

Phát triển phầm mềm kinh doanh

Phát triển phần mềm Ứng dụng kỹ thuật

Hệ điều hành

Viễn thông

Các ngành khác

Số lượng

Kinh doanh bằng Internet, Dịch vụ ứng dụng

Page 15: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Ban đầu, những nghi ngờ chung quanh việc xây dựng hành lang siêu xa lộ thông tin như là biểu tượng của sự chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức sau hậu quả của khủng hoảng kinh tế. Nhưng trong thực tế, hành lang siêu xa lộ thông tin đã mở rộng một cách vững chắc. Xấp xỉ khoảng 800 công ty trong và ngoài nước đã tham gia vào siêu xa lộ thông tin và tham gia vào dự án chính phủ điện tử được xúc tiến bởi chính phủ Malaysia hoặc là sử dụng chúng như là một trung tâm nghiên cứu phát triển riêng của công ty mình. Có rất ít sự tham gia của các công ty Nhật Bản tại hành lang siêu xa lộ thông tin, tuy nhiên hoạt động của các công ty Nhật tham gia dự án, như các công ty NTT và Matsushita cũng rất nhỏ và chỉ có một số ít các chuyên gia và các nhân viên phát triển tham gia. Bên cạnh đó, công ty IBM và các công ty phương Tây khác đang bắt tay xây dựng các nhóm chuyên nghiên cứu phát triển ở đó với hàng trăm các chuyên viên nghiên cứu liên quan. 2. Khái quát vể sự phát triển ngành công nghiệp điện và điện tử Công nghiệp điện và điện tử là ngành công nghiệp quan trọng trong nền kinh tế Malaysia chiếm 3.5 % tổng số nhân công trong cả nước, 56 % kim ngạch xuất khẩu và 49 % kim ngạch nhập khẩu của nền kinh tế. Giai đoạn đầu, các công ty sản xuất nước ngoài đầu tư vào Malaysia với mục đích tận dụng chi phí sản xuất rẻ nhờ vào các chính sách cơ chế khuyến khích đầu tư , nguồn nhân lực rẻ, các khu chế xuất và hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sá, hải cảng, sân bay và thông tin liên lạc. Hơn nữa, hoạt động đầu tư phát triển không ngừng trong suốt hơn 30 năm dưới nền tảng một nền chính trị ổn định, minh bạch, nhất quán và khả năng giao tiếp tiếng Anh và các điều kiện môi trường thuận lợi đã chuyển hóa Malaysia thành một trung tâm sản xuất công nghiệp điện và điện tử. Ở góc độ các chính phủ địa phương, các chính phủ địa phương liên tục điều chỉnh các chính sách nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi nhất cho các công ty nước ngoài và cung cấp những dịch vụ phù hợp cho các công ty đã đầu tư trước kia.Điều này đã dẫn tới vòng đầu tư tuần hoàn thuận lợi cho việc mời gọi các dự án mới theo sau. Hiện tại, Malaysia có 14 khu chế xuất và 200 khu công nghiệp mà hầu hết được xây dựng do sự quản lý và khuyến khích của chính phủ địa phương.

Page 16: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Hình 6. Xu hướng sản xuất của ngành công nghiệp điện và điện tử Malaysia Nguồn: Niên giám số liệu thống kê ngành điện tử thế giới; các số của Tạp chí thống kê tài chính Hình 7. Thị phần của ngành điện và điện tử của Malaysia’ trong khu vực ASEAN

Nguồn: Từ hình 6. Các công ty sản xuất các sản phẩm và linh kiện điện và điện tử ở Malaysia , hầu hết la các công ty của Nhật , đã thành lập các cụm sản xuất sản phẩm linh kiện và đóng góp vào

0.0

20.0

40.0

60.0

80.0

100.0

120.0

140.0

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

Billion Dollar

0.0

5.0

10.0

15.0

20.0

25.0

30.0

35.0

40.0

Malaysia Other Asean Countries Ratio

0.0 5.0 10.0 15.0 20.0 25.0 30.0 35.0 40.0 45.0 50.0

199 199 199 199 199 200 200 200 200

Tỷ đô-la

0

5

10

15

20

25

30

35

40%

Linh phụ kiện

Thiết bị

Viễn thông

Máy tính

Thiết bị nghe nhìn

Đầu tư của Nhật Bản vào Malaysia

Page 17: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

kim ngạch xuất khẩu. Các công ty mà hình thành các cụm sản xuất này thường phụ thuộc lẫn nhau và thu được lợi thế nhờ tập trung và chuyên môn hóa. Tuy nhiên các cơ sở sản xuất này phần lớn thuộc các doanh nghiệp của họ ( các doanh nghiệp Nhật) và các cơ sở này rất ít liên hệ hợp tác với các công ty bản địa. Chính vì vậy, điều này tạo ra rất ít sự chuyển giao công nghệ giữa các công ty nước ngoài và các công ty bản địa. Điều này không phải do các công ty của Nhật bản mong muốn hạn chế chuyển giao công nghệ mà là do ảnh hưởng của chính sách ưu đãi các doanh nghiệp bản địa(Bumiputra) của chính phủ Malaysia. Cái lý do lớn nhất cho sự thiếu phối kết hợp sản xuất kinh doanh với khu vực các doanh nghiệp nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước là sự thiếu vắng những doanh nhân có tham vọng trong số người Mã lai bản địa, những người mà muốn tham gia hoạt động sản xuất trong những ngành dựa trên công nghệ cao. 3. Những ưu đãi dành cho các công ty Nhật Công nghiệp điệ và điện tử của Malaysia phụ thuộc rất lớn vào các hoạt động của các công ty Nhật. Mặc dầu dưới thời của thủ tướng Mahathir, chính phủ đã có rất nhiều cải cách về khung chính sách, pháp luật, công nghiệp phụ trợ, nguồn nhân lực và các cải cách khác, nhưng môi trường đầu tư vẫn còn chưa đủ điều kiện thuận lợi. Các vấn đề của sự yếu kém thiếu phát triển của các doanh nghiệp trong nước của người bản xứ và tình trạng thiếu nguồn nhân lực, đặc biệt là các vấn đề này dường như chưa được giải quyết sớm. Chúng đang trở thành vật chướng ngại cho sự phát triển trong tương lai của lĩnh vực sản xuất của Malaysia. Khung chính sách pháp luật Một mặt, luật đầu tư sửa đổi vào năm 2003 đã tháo dỡ các quy định về hạn chế sự tham gia góp vốn của các công ty nước ngoài trong các ngành công nghiệp sản xuất mà trước đây tạm thời được gỡ bỏ trong cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Cơ chế khuyến khích cũng có nhiều cải thiện hơn thông qua các ưu đãi cho các nhà đầu tư tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển và tham gia vào phân phối buôn bán toàn cầu và các ưu đãi khác. Mặt khác, người ta cũng nghi ngờ về sự liên tục và nhất quán của chính sách của chính phủ khi mà nhiều quan chức chính phủ không có khả năng bắt kịp với sự thay đổi đến chóng mặt của công nghệ. Ví dụ, biểu thuế cho các linh kiện và vật tư sử dụng trong ngành điện và điện tử thường được áp đặt tùy tiện bởi các quan chức quản lý liên quan. Một số các quy trình hợp pháp như đăng ký đất đai, quan hệ với công đoàn và tố tụng thường tốn rất nhiều thời gian. Rất nhiều các vấn đề cũng được báo cáo như vấn đề về quan liêu cửa quyền của các quan chức chính phủ , nhũng nhiễu và tình trạng mập mờ không rõ ràng của các quy trình nộp đơn xét duyệt. Thiếu sự phát triển của công nghiệp phụ trợ

Page 18: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Mặc dầu chính phủ nỗ lực phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua Tổng Công Ty phát triển công nghiệp vừa và nhỏ(SMIDEC), Malaysia hiện vẫn chỉ có một số ít các công ty trong nước mà có thể cung cấp phụ tùng linh kiện cho các công ty nước ngoài cũng như xuất khẩu thông qua các nỗ lực marketing độc lập. Chương trình phát triển Vendor (Vendor Development Program ) tập trung vào phát triển ngành công nghiệp phụ trợ bằng cách hỗ trợ các công ty trong nước hợp tác với tập đoàn Matshushita và các công ty nước ngoài khác là một trong những chính sách quan trọng phục vụ cho mục đích kể trên, nhưng mục tiêu ban đầu đặt ra vẫn chưa đạt được như mong muốn. Chương trình phát triển Vendor là một chương trình được thiết lập bởi chính phủ Malaysia vào giữa thập kỷ 90 để thúc đẩy các công ty có vốn đầu tư của người Mã lai quan hệ hợp tác với các công ty của Nhật. Trong chương trình này, các công ty lớn của nước ngoài liên kết với một ngân hàng thương mại và các công ty cung cấp linh kiện phụ tùng. Các công ty nước ngoài này được yêu cầu tạo ra một hoặc hai đối tác là các công ty địa phương hàng năm. Chương trinh này tìm kiếm các nhà cung cấp trong nước mà có khả năng cạnh tranh để liên kết với các công ty nước ngoài trong số các công ty chế tạo các sản phẩm nhựa plastics trong vùng Shah Alam và trong số các công ty cung cấp phụ tùng HDD và các nhà sản xuất sản phẩm liên quan trong khu vực Penang. Các nhà cung cấp trong trong nước được chọn lựa này là những công ty đang nhận các kỹ sư ,kỹ thuật viên Nhật làm việc vào khoảng thời gian cố định và là những doanh nghiệp đang thành công trong việc mở rộng hệ thống khách hàng. Các nhà cung cấp mà chỉ phụ thuộc vào sự giúp đỡ của các công ty nước ngoài noi chung không được chọn trong dự án này. Tương phản ngược lại với tình hình trên là các công ty có vốn của người Hoa không được sợ hỗ trợ của dự án này thì đã phát triển hệ thống khách hàng một cách mạnh mẽ và liên kết hợp tác rất gần gũi với các doanh nghiệp nước ngoài hơn nhiều. Phát triển công nghiệp phụ trợ là thật sự quan trọng, nó là một nhân tố chính trong việc thúc đẩy tính cạnh tranh và để hạn chế các công ty điện và điện tử Nhật bản chuyển nhà máy sang nước khác. Bản thân các công ty nước ngoài cũng đang nỗ lực rất lớn để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước, Tuy nhiên, đối mặt với cạnh tranh toàn cầu, các công ty này không có đủ thời gian và nguồn nhân lực để hỗ trợ trên cơ sở từng doanh nghiệp trong nước một. Mặc dù chính phủ Malaysia, chính phủ Nhật và các công ty Nhật đã có hàng loạt những nỗ lực chung để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, bao gồm cả chương trình phát triển Vendor như đã đề cập ở trên, họ cũng không thành công một phần do ảnh hưởng của chính sách ưu đãi các doanh nghiệp nội địa ( Bumaputra ) Vào cuối năm 2003, phòng thương mại và công nghiệp Nhật tại Malaysia (JACTIM) đã có một bản đề xuất mới gửi tới thủ tướng Mahathir đề cập đến tầm quan trọng của sự

Page 19: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

phát triển ngành công nghiệp phụ trợ.Vào tháng 07 năm 2003, phòng thương mại đã tổ chức buổi hội nghị chung với sự tham gia của MIDA, SUMIDEC và các quan chức chính phủ cũng như các doanh nghiệp lớn của Nhật . Hội nghị cũng đưa ra kết luận tới chính phủ Malaysia rằng phát triển công nghiệp phụ trợ là hết sức quan trọng đối với Malaysia nếu muốn tồn tại trong môi trường biến động và cạnh tranh toàn cầu, đặc biệt là từ Trung Quốc và sự thực thi AFTA, và cũng để duy trì sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp sản xuất của Malaysia.Hội nghị này cũng đề xuất một chương trình với mục đích thúc đẩy hơn nữa sự lớn mạnh của công nghiệp phụ trợ, như là tăng cương trình độ chuyên môn cho công nhân trong tạo khuôn, chế tạo nhựa, dập.. bằng sự hỗ trợ từ hệ thống bảo trợ của SUMIDEC. Bảo đảm nguồn nhân lực Trong quá trình lắp ráp các linh kiện thiết bị điện và điện tử , các công ty Nhật luôn cần và kỳ vọng vào nguồn cung cấp nhân lực chất lượng ổn định và dồi dào. Tuy nhiên, dân số của Malaysia chỉ có khoảng 24 triệu người và lực lượng lao động khoảng 11 triệu. Chính vì vậy , Malaysia phải nhờ cậy vào khoảng khoảng 3 triệu nhân công nước ngoài . Khi Malaysia hồi phục sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997, tình trạng thiếu lao động lại một lần nữa là một vấn đề đối với nền kinh tế Malaysia. Các nhà sản xuất Nhật Bản tại Malaysia đã tuyển dụng các công nhân nữ nước ngoài với hợp đồng 2 năm. Có khoảng 3 triệu lao động như vậy được tuyển dụng, trong số đó hầu hết là lao động từ Indonexia. Đối với nguồn nhân công có tay nghề cao, các công ty rất khó tìm kiếm ví dụ các kỹ sư chuyên ngành chế biến khuôn đúc. Các công ty Nhật thường ký hợp đồng thuê các kỹ sư tay nghề cao trong các ngành nghề như vậy từ các nước Ấn Độ, Bangladesh. Như là một phần của Chương trình Hành lang siêu xa lộ thông tin, trường đại học Truyền thông đa phương tiện ( Multi Media) được thành lập với mục đích đào tạo công nghệ thông tin và đa phương tiện cho các sinh viên , kể cả các sinh viên không gốc Mã lai.Nhiều doanh nghiệp hy vọng đại học này sẽ đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành công nghệ thông tin. Trường đại học này không những đào tạo các chuyên gia công nghệ thông tin,. mà còn đào tạo các kỹ sư kỹ thuật tay nghề cao cho ngành điện và điện tử. Đại học truyền thông đa phương tiện có hai khu học xá tại hai nơi khác nhau là Cyberjaya và Meraka. Trường cũng dự định mở chi nhánh tại Thái Lan trong một tương lai không xa. Với mục tiêu như vậy, trường đại học này sẽ đóng góp quan trọng vào hoạt động của các doanh nghiệp bằng cách cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện tại, trường đại học truyền thông đa phương tiện tuyển sinh khoảng hơn 7000 sinh viên cho mỗi khu học xá. Bởi vì quy chế tuyển sinh của trường đại học này không phải tuân theo chính sách ưu tiên người Mã Lai( Bumiputra ), nên chất lượng sinh

Page 20: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

viên ra trường tương đối cao. Tuy nhiên, rất nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp đã làm cho các công ty phương Tây như Motorola, Intel và rất ít làm việc cho các công ty Nhật. Tại cuộc gặp thượng đỉnh giưa Malaysia và Nhật, hai nước đã đồng ý thành lập Đại học kỹ thuật quốc tế Nhật Malaysia. Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Ngân Hàng đầu tư hải ngoại ( JBIC) đang chuẩn bị cho giai đoạn nghiên cứu tiền dự án cho dự án này. Mặc dầu chưa có kế hoạch chính thức nào được soạn thảo cho việc chọn vị trí khu học xá và nguồn tài trợ,nhưng hai nước hy vọng trường đại học này sẽ được chính thức khai trương vào tháng 06 năm 2004.Những công việc cần thiết cho việc hoàn thành dự án này sẽ được triển khai trong vòng 3 năm liên tục. Các công ty Nhật thì mong muón trường đại học này sẽ có khung chương trình học mà truyền tải, khắc sâu tinh thần monozukuri ( các sản phẩm chế tạo) cho sinh viên, đây chính là nguồn cạnh tranh cho các công ty này. Dự án này cũng kêu gọi thành lập một consortium bao gồm 17 các trường đại học Nhật để hỗ trợ cho trường đại học mới này. Dự án này cũng mong muốn các giáo sư, giảng viên của các trường đại học Nhật sẽ giảng dậy bằng tiếng Nhật. Một số người lo ngại rằng, việc giảng dậy bằng tiếng Nhật sẽ là một trở ngại cho việc tuyển sinh được các sinh viên giỏi ở trong nước và quốc tế. Nâng cao năng lực nghiên cứu phát triển và nguồn nhân lực cho ngành điện và điện tử Với một lượng lớn các linh kiện nhập từ các nước khác trong khu vực ASEAN ( các linh kiện nhập k hẩu chiếm hơn 90%) và sự thiếu hụt nguồn nhân lực tay nghề kỹ thuật cao trong lĩnh vực công nghệ Analog ở Nhật khi chuyển nền kinh tế chuyển nhanh sang công nghệ số. Các nhà lắp ráp Nhật tại Malaisia,bao gồm Matshushita và Sony đã thúc đẩy năng lực tự thiết kế của các kỹ sư Malaysia cho các thiết bị sử dụng công nghệ Analog như Tivi sử dụng đèn Catod để cạnh tranh với Trung Quốc. Các công ty lớn đã thiết lập các trung tâm nghiên cứu triển khai với hàng trăm nhân viên địa phương đã làm cho Malaysia trở thành trung tâm toàn cầu cho việc phát triển công nghệ Analog. Họ cũng không ngần ngại cử các chuyên gia Nhật sang Malaysia sang công tác trong thời gian ngắn để tăng hiệu quả nghiên cứu và phát triển cho các trung tâm này.

Page 21: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Hình 8. Trung tâm nghiên cứu và triển khai của công ty Matsushita Electric Industry (PAVCKM)

Nguồn: Matsushita Electric Industry.

Hai tổ chức này được kiểm soất trực tiếp bởi PAVC’s Picture Display Device Business Group, chi nhánh chính của Nhật

Panasonic AVC Networks KL

Malaysia Sdn. Bhd. (PAVCKM)

(1,627 người)

Quản lý (63 người)

Quản lý chất lượng (116 người)

Asia IPO (16 người)

Đấu thầu, mua sắm (107 người)

Asia R&D (94 người)

Chế tạo (1231 persons)

Page 22: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Hình 9. Nhóm nghiên cứu toàn cầu cho phát triển Tivi Trường hợp của công ty Matsushita Electric Industry

Nguồn: Matsushita Electric Industry.

III. Indonesia 1. Chính sách công nghiệp. Trong những ngày đầu của chính quyền Suharto và đặc biệt là vào nửa đầu những năm 1970, luồng vốn nước ngoài tăng lên dưới dạng liên doanh và hợp tác công nghệ để nắm bắt thị trường trong nước dưới chính sách thay thế nhập khẩu của Indonexia. Vào khoảng giữa cuối những năm 1980, chính phủ bắt đầu chuyển hướng chính sách công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu để theo kịp với sự tăng trưởng công nghiệp mạnh mẽ có được nhờ vào luồng vốn lớn FDI đang đổ vào mà trước kia chủ yếu tập trung tại các nước ASEAN đi trước khác. Inđônesia đã thực hiện một loạt các phương pháp để khuyến khích xuất

Nhật Digital và

màn hình phẳng

Asia

�Malaysia �

Digital/flat tivi màn hình phẳng

Châu Âu (Anh) Analog→Digital/màn hình phăng

Mỹ (San Diego) Analog→Digital/màn hình

phẳng

Hỗ trợ Hỗ trợ

Chi nhánh

Vai trò của bộ phận mua bán �Toàn cầu ( trung tâm mua bán cho nguyên vật liệu linh kiện, 10 tỷ yên �Mua từ 194 nhà cung cấp (Malaysia 97, Singapore 73,nước khác 24) �Cung cấp vật liệu và linh kiện phụ tùng cho 17 nhà máy trên thế giới

Bộ phận mua bám

Vai trò của trung tâm nghiên cứu phát triển châu Á �Thiết kế Tivi analog �Hỗ trợ các công ty mẹ ở khu vực châu Á ( tận dụng sự hòa hợp dân tộc của Malaysia)

Page 23: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

khẩu bao gồm việc tạo ra các khu chế xuất và việc loại bỏ các rào cản quy định về nguồn vốn nước ngoài như cho phép sự hoạt động của các công ty sở hữu 100% vốn nước ngoài. Điều này dẫn đến sự tăng lên đột ngột của các công ty nước ngoài theo hướng xuất khẩu, đặc biệt là các công ty sản xuất linh kiện , phụ tùng và lắp ráp của nước ngoài và của Nhật. Tuy nhiên, việc đầu tư vào ngành điện tử và điện của Nhật bản vào Inđônexia có biến động đột ngột do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế vào năm 1977; các cuộc bạo động vào năm 1998 và sự lớn mạnh của Trung Quốc vào những năm 1990. Mặc dù các công ty của Nhật Bản ban đầu đã coi Inđônêxia là điểm đầu tư quan trọng trong mối liên hệ với mạng lưới sản xuất trong khu vực mà được tập trung ở Malaysia và các nơi khác, tuy nhiên họ bắt đầu xem xét lại chiến lược này do nguyên nhân suy thoái của môi trường đầu tư ở Inđônêxia. Các trở ngại đầu tư bao gồm sự bất ổn về chính trị, thiếu các ngành công nghiệp bổ trợ, sự thiếu vắng các ưu đãi thuế quan và các ưu đãi khác cũng như sự không minh bạch của hệ thống thuế và các thủ tục hải quan. Hiện tại, Inđônêsia vẫn có sự cạnh tranh về xuất khẩu so với các nước khác trong khu vực nhờ vào các yếu tố tỷ giá hối đoái, lao động và các chi phí cố định khác, cũng như là một thị trường tiềm năng rộng lớn. Vấn đề mấu chốt để thu hút lại đầu tư nước ngoài là tăng cường môi trường đầu tư thuận lợi. Trong khi việc đầu tư của Nhật bản rất chậm chạp, thì đầu tư của Korea lại đang khởi sắc. Các tập đoàn lớn của Hàn Quốc bao gồm tập đoàn LG, đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế và nay đang xây dựng các nhà máy sản xuất thiết bị nghe nhìn (AV) ở Inđônêsia. Sự di chuyển này cũng đang thu hút các công ty sản xuất vừa và nhỏ của Korea vào Inđônêsia. Sự phát triển của đảo Batam bởi các công ty Singapore. Từ những năm của thập kỷ 90, một số lượng lớn các doanh nghiệp điện và điện tử Nhật Bản và các đối tác sản xuất linh kiện phụ tùng của các công ty Nhật đã bắt đầu hoạt động ở đảo Batam, một khu vực nằm trong lãnh thổ của Inđônêxia và nằm cách xa bờ biển khoảng tầm 20km về phía tây nam của Singapore. Nhiều nhà sản xuất của Nhật Bản đã tiến hành sản xuất ở công viên công nghiệp Batamind (BIP) bắt đầu hoạt động vào năm 1991 như là một bộ phận của hiệp định liên kết kinh tế giữa Inđônêxia và Singapore để phát triển tỉnh Riau. Khi các nhà lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh của Nhật Bản xây dựng các nhà máy sản xuất ở khu vực ASEAN từ cuối những năm 1980 đến đầu những năm 1990, nhiều nhà sản xuất linh kiện, phụ tùng mà có mối liên hệ kinh doanh với chúng ở Nhật bản bắt đầu đến đảo Batam để cung cấp các phụ tùng cho các nhà máy lắp ráp ở ASEAN. Cũng có nhiều trường hợp trong đó các nhà máy hoạt động ở Singapore đã chuyển đến đảo Batam để tận dụng các lợi thế về nguồn lao động rẻ và dồi dài, bởi vì tiền lương tăng cao cùng với sự

Page 24: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

thiếu hụt lao động ở Singapore đã gây khó khăn cho các nhà sản xuất ở đó. Một số trường hợp khác thì tất cả hàng hoá nhập khẩu và xuất khẩu đều phải thông qua Singapore Bên cạnh chi phí lao động thấp, lợi ích của việc sản xuất ở đảo Batam bao gồm có thực tế rằng khả năng của của nhân công lao động ở đây phù hợp với loại hình lao động sản xuất giản đơn. Hơn nữa, khi Singapore là trung tâm phân phối hàng hoá trong khu vực ASEAN và tự hào là khu vực mua bán quốc tế (IPO) của một số lượng lớn các doanh nghiệp thì các nhà sản xuất linh kiện, phụ tùng trong khu vực đảo Batam xuất nhập khẩu thông qua Singapore có khả năng đáp ứng nhanh chóng với sự thay đổi với các yêu cầu của các nhà lắp ráp khi họ xây dựng các nhà máy sản xuất trong khu vực 2. Khái quát vể sự phát triển ngành công nghiệp điện và điện tử Nhiều công ty Nhật Bản hoạt động trong lĩnh vực điện và điện tử đã đầu tư vào Inđônêsia để tận dụng các lợi thế về lực lượng chi phí lao động thấp cũng như sự thu hút của tiềm năng thị trường to lớn của Inđônêxia. Họ đã có những đóng góp đáng kể vào sự mở rộng của ngành điện và điện tử của đất nước. Các công ty Nhật bản, cùng với các công ty của các quốc gia khác hình thành các cụm công nghiệp nằm trên đảo Batam, và vùng ngoại ô của Jakarta. Mục tiêu là để đạt được sự phân chia lao động trong sản xuất giữa Inđônêxia và Singapore hoặc Malaysia, chúng đã trở thành các trung tâm cung ứng không chỉ cho các nước trong khu vực ASEAN mà cho các nước Châu Âu bao gồm các quốc gia Xô viết cũ. Từ năm 2000, việc đầu tư sản xuất của Nhật Bản vào Inđônêxia đã giảm xuống. Sự đầu tư trong khu vực điện và điện tử không ngoại trừ theo xu hướng đó. Sự giảm sút này có thể do các điều kiện trong nước của Inđônêsia như sự bất ổn về chính trị trước khi chính phủ Megawati lên nắm quyền lực vào năm 2001, triển vọng phát triển của nền kinh tế thì mờ nhạt và chi phí lao động tăng. Tuy nhiên, một nhân tố quan trọng chính là các công ty Nhật, là động cơ của sự phát triển của ngành công nghiệp điện và điện tử từ trước tới nay trong khu vực ASEAN, đã buộc phải giảm các chi phí do sự cạnh tranh trong thị trường nội địa và thị trường quốc tế, mức cầu giảm sút và sự suy thoái lâu dài ở Nhật bản Hình 10. Xu hướng sản xuất của các ngành điện và điện tử ở Inđônêxia

Page 25: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Nguồn: Niên giám thống kế về điện tử ( Viện nghiên cứu điện tử Read) ;và các số của tạp chí thống kê tài chính

Hình 11. Thị phần của Inđônêxia trong sản xuất điện và điện tử ở ASEAN

0.0

20.0

40.0

60.0

80.0

100.0

120.0

140.0

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

Tỷ US

0.0

1.0

2.0

3.0

4.0

5.0

6.0

7.0

8.0

9.0

10.0

Indonesia Các nước ASEAN Tỷ lệ

0.0

2.0

4.0

6.0

8.0

10.0

12.0

199 199 199 199 199 200 200 200 200

Tỷ đô-la

0

5

10

15

20

25

30

35

40Tỷ đô-la

Linh phụ kiện

Dụng cụ

Viễn thông

Máy tính

Thiết bị nghe nhìn

Đầu tư của Nhật Bảnvào Inđônêxia

Page 26: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Nguồn: Hình 10.

3. Các ưu đãi dành cho các công ty Nhật bản. Do cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, nên đã có một sự suy thoái trong môi trường đầu tư ở Inđônêxia do sự lộn xộn về chính trị, việc kém phát triển của cơ sở hạ tầng, việc thực hiện luật lao động mới và sự tăng tiền lương. Nhiều công ty Nhật bản hy vọng có một sự cải tiến trong các khu vực này, đặc biệt là các vấn đề các tổ chức công đoàn, hệ thống thuế không rõ ràng và mức độ thấp kém trong giáo dục. Mặc dù hãng Sony đã rút khỏi Inđônêxia , nhiều doanh nghiệp Nhật Bản bao gồm công ty như Sanyo, Công ty Victor của Nhật, tập đoàn Toshiba và công ty điện tử Matsushita cũng đã cố gắng để tiếp tục hoạt động trong một môi trường đầu tư xuống cấp. Ngoài việc không rút lui khỏi thị trường, họ thậm chí chuyển việc sản xuất máy ảnh kỹ thuật số và các sản phẩm kỹ thuật số mới khác đến Inđônêxia. Cơ chế luật pháp và chính sách Chính phủ Inđônêxia vẫn chưa có một sự giải thích rõ ràng về vị trí của ngành công nghiệp điện và điện tử trong sự phát triển của tổng thể các ngành công nghiệp. Hiện tại, Inđônêxia vẫn chưa có các quy hoạch tổng thể cho ngành công nghiệp này. Để đối phó với quá trình thực thi theo hiệp định AFTA, cần phải có một quy hoạch tổng thể trong đó đề cập rõ ràng về vai trò của các công ty nước ngoài, sự phân chia lao động ở các nước ASEAN và định hướng cho sự phát triển của ngành trong tương lai. Người ta hy vọng rằng chính phủ đang chuẩn bị quy hoạc tổng thể cho ngành công nghiệp điện và điện tử, một phần từ nguồn viện trợ không hoàn lại ODA nếu cần thiết. Trong trường hợp này, Inđônêsia cần tranh thủ sự trợ giúp kỹ thuật từ chính phủ Nhật Bản trong việchoàn thiện chính sách đầuu tư nước ngoài với các hệ thống và thể chế có liên quan, phát triển nguồn nhân lực và chính sách thúc đẩy trong các ngành công nghiệp phụ trợ. Sự lạc hậu trong việc quản lý hệ thống thuế ở Inđônêxia đã gây tác động rất tiêu cực lên sản xuất của các công ty nước ngoài. Một số các vấn đề đòi hỏi phải giải quyết nhanh đã được đưa ra bao gồm hệ thống thuế doanh nghiệp phân biệt đối xử giữac các công ty trong nước và công ty nước ngoài và các vấn đề liên quan đến hoàn trả thuế giá trị gia tăng và thuế nhập khẩu. Các vấn đề nghiêm trọng nảy sinh trong quá trình thực thi chính sách thuế chứ không phải bản thân hệ thống thuế. Để sửa chữa các vấn đề này, cần phải có các cuộc cải cách bao gồm một cuộc cải cách của các tổ chức có liên quan và các cơ quan chức năng của chúng. Giấy phép làm việc cho người nước ngoài là một vấn đề lớn nữa đối với các công ty Nhật Bản. Thường mất khoảng 3 tuần kể từ ngày nộp visa làm việc cho đến khi nhận được visa làm việc, khoảng thời gian này là qúa lâu. Có rất nhiều người xin visa làm việc nhập cảnh

Page 27: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

vào Inđônêxia để chuyển giao công nghệ, lắp đặt sản phẩm mới hoặc để ủng hộ việc khởi sự của sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ Inđônêxia đã không hiểu được tình thế hiện tại của sự cạnh tranh toàn cầu, đặc biệt là chu kỳ sản phẩm rút ngắn trong ngành điện và điện tử trong những năm gần đây. Các công ty nước ngoài đã phải đợi gần tháng trời để chuyển giao công nghệ do thủ tục chậm chạp của khâu xin visa làm việc. Điều này dẫn đến việc đánh mất các cơ hội đầu tư. Trong khi đó, buôn lậu là một vấn đề tồn tại rất lâu ở Inđônêxia. Bởi vì Inđônêxia là một quốc đảo, với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ , do vậy rất dễ dàng vận chuyển hàng hoá từ khắp mọi nơi. Hơn nữa, như đã thành lệ là các nhân viên hải quan cũng thường quan hệ với bọn buôn lậu. Khi các loại thuế (bao gồm thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập và thuế hàng hoá đặc biệt) không đánh trên hàng hoá buôn lậu, giá cả của chúng thấp hơn giá các hàng hoá khác được bán và sản xuất hợp pháp. Như vậy sự gia tăng của hàng hoá buôn lậu có thể dẫn đến làm cho hàng hoá sản xuất trong nước bị đẩy ra khỏi thị trường Cơ sở hạ tầng và môi trường lao động. Từ năm 2000, môi trường đầu tư ở Inđônêxia đã giảm sút do các vấn đề về lao động, chi phí gia tăng, an toàn và trật tự công công và sự gia tăng nạn buôn lậu. Các liên đoàn lao động đã được hợp thức hoá sau sự sụp đổ của chính phủ Suharto, các liên đoàn lao động ở cấp quốc gia nay được tổ chức thành các liên đoàn lao động ở cấp công ty để tổ chức hoạt động công đoàn mạnh mẽ hơn. Các liên đoàn lao động thường phát động phong trào phản kháng để kiểm tra lại sự chống lại sự sa thải công nhân . Các cuộc phải kháng cũng xuất phát từ nhu cầu đòi tăng lương. Khi công nhân ngày nay có thể tự do đưa ra ý kiến của mình, thì họ càng làm cho vấn đề từ đơn giản trở nên rất phức tạp. Chi phí kinh doanh ở Inđônêxia đã tăng từ năm 2000 do sự gia tăng của tiền lương tối thiểu và các chi phí ràng buộc khác. Mặc dù tiền lương tối thiểu bắt buộc đã được giữ ở mức thấp trong suốt và sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế, hệ thống đã thay đổi trong năm 2000 từ hệ thống trong đó chính phủ đặt mức tiền lương tối thiểu cho từng tỉnh đến hệ thống trong đó các chính quyền ở các tỉnh có quyền đặt ra mức tiền lương tối thiểu miễn là chúng ở trên mức tiến lương tối thiểu được chính phủ đưa ra. Kết quả là, sự tăng lên trong tiền lương tối thiểu gần 40% trong năm 2002 mặc dù chúng được khống chế tăng dưới 7% vào năm 2003. Ngoài ra, sử dụng chính sách tài khoá thắt chặt do phải thanh toán nợ, chính phủ đã cắt giảm trợ cấp cho ngành dầu khí và tăng giá điện cùng mức với giá của dầu thô. Sự thiếu hụt của các ngành công nghiệp bổ trợ Inđônêxia phụ thuộc nặng nề vào các linh kiện phụ tùng nhập khẩu và các nguyên vật liêụ lắp ráp cho ngành công nghiệp điện và điện tử. Nó cũng không có khả năng cung cấp

Page 28: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

các khuôn đúc kim loại. Tuy nhiên, gần đầy, một số bộ phận và nguyên vật liệu bằng nhựa ép đã trở nên sẵn có do sự gia nhập của các công ty của Hàn Quốc. Gần đây đã có một công ty ( được tài trợ bởi các công ty của Hàn Quốc và và Singapore) đã bắt đầu sản xuất khuôn đúc kim loại cho việc sản xuất TV 14 inch. Tuy nhiên, nhìn chung, ngành công nghiệp điện và điện tử ở Inđônêxia vần yêu cầu nhiều thời gian và vốn đầu tư trước khi nó có thể sản xuất được khuôn đúc kim loại trong nội địa một cách ổn định với nhiều chủng loại đa dạng. Phát triển nguồn nhân lực. Trong hoạt động của một công ty sản xuất điện và điện tử ở Inđônêxia, trình độ văn hóa tay nghề thấp của đội ngũ nhân công là một vấn đề lớn. Hệ thống giáo dục từ cấp thấp đến cấp cao không phát triển. Chỉ có giới thượng lưu mới có thể xâm nhập đựoc vào hệ thống giáo dục, đặc biệt là ở giáo dục đại học và sau đại học .Kết quả là, công nhân thường thiếu kiến thức để tự nâng cao trình độ, khả năng tự quản lý hoặc tính cần cù. Mặc dù các công ty Nhật bản đào tạo nhân công theo tiêu chuẩn "5S" ( Seiri - đặt mọi thứ theo trật tự; Seiton - sắp xếp hiệu quả; Seiketsu - sạch sẽ; seiso - làm sạch nơi làm việc và Shitsuke - nguyên tắc) mà cần thiết cho việc sản xuất điện - điện tử, chỉ một số nhân công có đủ kiến thức cơ bản để hiểu chúng. Vấn đề này có thể được giải quyết trong hệ thống giáo dục trẻ em ở bậc tiểu học hoặc trung học. Đây là một gánh nặng cho hệ thống giáo dục quốc gia mà nằm ngoài khả năng của một công ty cá nhân. Inđônêxia có một số tổ chức và trung tâm có thể cung cấp nhân công với việc đào tạo thực tế theo tiêu chuẩn 5S, quản lý sản phẩm, quản lý chất lượng, phát triển thiết kế hoặc làm các khay đúc bằng kim loại. Các công ty của Nhật bản thường dựa trên việc đào tạo trên công việc (OJT) cho các kỹ năng trên, nhưng điều này đặt ra một gánh nặng về tài chính. Đặc biệt, sự sụt giảm các chuyên gia sản xuất ở các công ty mẹ của Nhật bản đã gây khó khăn cho việc sử dụng nguồn lực nội bộ để đào tạo các công nhân Inđônêxia. Vì mục đích này, các trung tâm phát triển nguồn nhân lực được hoạt động dựa trên các tổ chức phi lợi nhuận, hỗ trợ bởi các doanh nghiệp tư nhân như tổ chức đào tạo Gobel Matsushita, đã được đánh giá cao hơn các trung tâm đào tạo của chính phủ với sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA. Hệ thống bằng cấp chứng chỉ quốc gia là một trong những công cụ chủ yếu cho việc phát triển nguồn lực con người. Gân đây , Inđônêsia nhận được sử ủng hộ của JICA theo chương trình hợp tác công nghệ nhưng vẫn chưa được phát triển mạnh lắm. Hệ thống bằng cấp quốc gia là rất quan trọng bởi vì chúng cung cấp các thông tin hữu ích khi các công ty Nhật Bản thuê nhân công và có chế độ khuyến khích các kỹ sư nâng cao trình độ kỹ thuật tay nghề của họ. Nếu trình độ và kỹ năng của các nhân công nhận được thông qua các chương trình đào tạo trên công việc hoạc theo các hệ đào tạo bên ngoài mà được

Page 29: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

đánh giá bởi hệ thống bằng cấp chứng chỉ quốc gia thì nó có những đóng góp đáng kể vào việc nối kết việc đánh giá trình độ theo bằng cấp chứng chỉ với các khả năng làm việc thực tế tại các công ty sản xuất cũng như xây dựng một hệ thống phát triển nghề nghiệp cho người lao động. Hệ thống giáo dục Gobel Matsushita Hệ thống giáo dục Gobel Matsushita (MGEF) được thành lập vào năm 1979 như là một trung tâm đào tạo trong nhóm tập đoàn công nghiệp điện tử Matsushita. Năm 2000, nó trở thành một tổ chức phi lợi nhuận hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh ở Inđônêxia. Ngày nay, doanh thu của nó được quản lý độc lập (với ngân sách hàng năm là 40 triệu Yên) chủ yếu tăng từ nguồn học phí của các học viên. Tổ chức này đã đào tạo khoảng 54,000 người và trong năm 2003 là 1,500 người. Bởi vì mang danh là một tổ chức phi lợi nhuận nên nó có khả năng nhận viện trợ từ cơ quan hợp tác quốc tế hải ngoại JICA ( thông qua chương trình tự nguyện ), Tổng công ty phát triển hải ngoại (JODC) (thông qua các chuyên gia ), Hội cung cấp học bổng kỹ thuật hải ngoại (AOTS) và và hội các trường đào tạo kỹ thuật hải ngoại (OVTA). Sự hợp tác công nghệ chính thức thường được đưa ra dưới dạng tham quan của các chuyên gia Nhật bản. MGEF cũng tăng cướng các mối quan hệ với các tổ chức này thông qua sự chủ trì các cuộc hội thảo của OTS hoặc OVTA ở Inđônêxia. MGEF có 6 nhân viên bao gồm : giám đốc, 3 quản lý và 2 hướng dẫn viên, tất cả họ đều có bằng quản trị kinh doanh (MBA) của các trường trong nước hoặc quốc tế. Họ cũng được nghiên cứu các phương pháp hướng dẫn được sử dụng bởi tập đoàn điện tử Matsushita hoặc AOTS. Ngoài ra, họ còn có 43 hướng dẫn viên làm việc bán thời gian mà hiện tại là các kỹ sư đang làm việc tại Matsushita. Khung chương trình của MGEF rất đa dạng, từ việc quản lý sản xuất đến quản lý chất lượng và Jcông nghệ thông tin. Việc hướng dẫn bao gồm làm việc trên lớp (40%) và thực hành (60%), bởi vì nó nhấn mạnh đến sự phát triển khả năng thích nghi và ứng dụng kiến thức vào các tình huống cụ thể. Nó cũng sử dụng đa dạng các phương pháp đào tạo, như các trò chơi, thảo luận nhóm, phác thảo kế hoạch từ AOTS.

IV. Philippines 1. Chính sách công nghiệp Vào nữa cuối những năm 1980s, chính phủ Philipin đã thiết lập chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để đáp ứng ưu tiên hàng đầu của đất nước, đó là chính sách tạo công ăn việc làm. Vào giữa những năm 1990, có một sự gia tăng mạnh mẽ của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực điện và điện tử nhờ vào việc thiết lập các tổ chức mới để khuyến khích FDI như Ủy Ban Đầu Tư (Board of Investment-BOI) và cơ

Page 30: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

quan quản lý đặc khu kinh tế Philipin (PEZA) cũng như việc tạo ra một số lượng lớn các khu công nghiệp và sự phát triển của cở sở hạ tầng như điện và viễn thông. Chính sách chính không nhằm mục đích phát triển ngành điện và điện tử một cách cụ thể. Tuy nhiên từ giữa những năm 1990, các chính sách đã thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp thay thế nhập khẩu nhờ sử dụng lợi thế nhân công rẻ như việc sản xuất chất bán dẫn hoặc hoặc hàng gia dụng sang tập trung phát triển một mạng lưới các các nhà sản xuất ổ đĩa cứng và các trang thiết bị cho PC và các linh kiện liên quan khác.Gần đây, mạng lưới các nhà sản xuất các linh kiện điện tử, các sản phẩm công nghệ thông tin đang ngày càng phát triển. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các công ty nước ngoài vào Philipin từ đầu những năm 1990 đã đóng góp vào việc giảm rủi ro cho nền kinh tế và nỗ lực lớn của Philipin trong việc để biến các căn cứ cũ trước kia của quân đội Hoa Kỳ thành các khu công nghiệp. Một yếu tố quan trọng khác là các điều kiện có lợi cho đầu tư như việc sử dụng thành thạo tiếng Anh và một số lượng lớn các kỹ sư được đào tạo tại các trường cao đẳng. Chính sách thúc đẩy FDI rất mở rộng cho các công ty nước ngoài cỡ vừa và nhở cũng là một yếu tố quan trọng nữa để tăng FDI. Từ nửa cuối những năm 1980 đến đầu những năm 1990, có một cơ hội khác để thu hút sự đầu tư của các công ty Nhật Bản, đó là sự tăng giá của đồng Yên, nhưng Philipin đã không thành công khi tận dụng lợi thế này bởi vì còn tồn tại các bất ổn về chính trị, xã hội và hệ thống cơ sở hạ tầng kém phát triển. Kết quả là, Philipin đã không thể phát triển thành các khu công nghiệp với sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhà lắp ráp và các nhà sản xuất phụ tùng như trường hợp của Malaysia. Việc tham gia của các công ty lớn trong việc sản xuất các thiết bị máy tính và các phụ tùng có liên quan từ giữa những năm 1990 vào thời điểm bùng nổ của công nghệ thông tin (công nghệ thông tin) toàn cầu đã dẫn đến một sự phát triển cơ cấu công nghiệp không cân xứng, việc thiết hụt các ngành công nghiệp phụ trợ để cung cấp các phụ tùng thiết yếu cho sản xuất nội địa. Vào thời điểm đó, ngành sản xuất thiết bị gia dụng đã giữ ở mức thay thế được nhập khẩu, nó đã mất thế lợi thế cạnh tranh về giá so với hàng nhập khẩu. Các công ty Nhật bản, người đóng vai trò chính trong lĩnh vực này đã buộc phải rút ra khỏi Philipin. Chính sách để phát triển ngành công nghệ thông tin Trong khi người ta đang nghi ngờ về khả năng sản xuất và cạnh tranh của các sản phẩm phần cứng của Philipin với Trung Quốc, thì tiềm năng của đất nước trong ngành sản xuất dịch vụ phần mềm như việc phát triển phần mềm và các trung tâm giải đáp được đánh giá cao về khả năng sử dụng tiếng Anh thành thạo và việc cung cấp dồi dào nguồn kỹ sư và các nguồn nhân lực khác. Chính phủ Philipin với việc tạo công ăn việc làm như là mục đích hàng đầu của đất nước, đã coi trọng ngành công nghệ thông tin như là ngành công

Page 31: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

nghiệp ưu tiên hàng đầu của đất nước từ giữa những năm 1990 và đã cố gắng để đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp này. Có khoảng gần 100,000 các nhà lập trình có thể phát triển các phần mềm, và các trung tâm giải đáp được thiết lập với tốc độ nhanh hơn cả ở Ấn Độ. Trong khi Ấn Độ là nước vượt xa Philipin trong ngành công nghệ thông tin đã bắt đầu tập trung vào các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, Philipine bắt đầu tập trung vào các sản phẩm có trình độ thấp hơn mà nó có thể hoạt động tốt trong sự liên kết với ngành công nghệ thông tin của Mỹ. Chính phủ đã thiết lập " chương trình 10 năm công nghệ quốc gia thế kỷ 21-công nghệ thông tin21" từ năm 1998. Ủy Ban Đầu Tư (BOI), trực thuộc Bộ Công Nghiệp và Thương Mại (DTI) đã bắt đầu thực hiện các chính sách ưu đãi tập trung chủ yếu vào các ưu đãi thuế trong khi chú ý đến sự phát triển cuả Ấn Độ và Ireland, là các quốc gia hơn hẳn Philipin trong lĩnh vực này. Nó tập trung vào việc đảm bảo nguồn nhân lực tài năng, phát triển cơ sở hạ tầng điện lực và viễn thông, cung cấp các khu văn phòng với chi phí thấp và môi trường làm việc năng động. Ưu đãi cho các công ty nước ngoài cũng tương tự như ưu đãi cho các công ty sản xuất theo hướng xuất khẩu hoạt động ở PEZA: miễn giảm thuế thu nhập cho ít nhất 4 năm, miễn giảm thuế nhập khẩu cho tài sản thiết bị dành cho sản xuất, cho phép 50% chi phí đào tạo nhân công có thể được tính vào chi phí và tự do tuyển dụng các công nhân nước ngoài. Tuy nhiên chính phủ cũng đang xem xét khả năng của việc mở rộng hệ thống để cạnh tranh với các nước láng giềng, bao gồm việc mở rộng giảm thuế thu nhâp đến 12 năm và cho phép các công ty có thể hoạt động bên ngoài các khu công nghệ cao. Các trường đại học ở Philipin đã đào tạo hơn 40,000 kỹ sư hàng năm. Các trường đại học này khuyến khích sinh viên của họ đạt được các kiến thức cần thiết thông qua hệ thống mạng internet, vì vậy học có thể tham gia vào hoạt động kinh doanh ngay sau khi tốt nghiệp. Bằng việc tận dụng lợi thế của việc sử dụng thành thạo tiếng Anh, các sinh viên có thể tiếp nhận được các thông tin mới nhất mà không có sự rào cản về ngôn ngữ. Tiền lương trung bình cho các nhà lập trình ở Philipin chỉ khoảng 20% so với nhân công của Mỹ và 50% so nhân công với Malaysia. Thậm chí nếu tính toán các yếu tố chi phí khác, thì các doanh nghiệp còn có thể tiết kiệm chi phí lên tới gần 40-50% nếu công nghệ phần mềm được sản xuất ở Philipin. Hơn nữa, khi văn hoá kinh doanh và các tổ chức của đất nước được hình thành sau Hoa Kỳ và Châu Âu, các kỹ sư công nghệ thông tin có thể dễ dàng phát triển công nghệ phần mềm đáp ứng nhu cầu cuả các nước phương tây. Do đó, người Philipin được coi là có lợi thế trong lĩnh vực công nghệ thông tin trên phương diện nguồn nhân lực. Các yếu tố quan trọng nhất trong ngành công nghệ thông tin là chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng và giao tiếp. Các công ty Nhật Bản nhắm tới thị

Page 32: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

trường Nhật Bản khi họ đầu tư vào việc phát triển phần mềm ở Philipin. Bởi vì tất cả các công đoạn của việc phát triển phần mềm từ việc tư vấn kinh doanh đến hình thành ý tưởng thiết kế sản phẩm và thông số kỹ thuật được thực hiện dựa trên tiếng Nhật, nên đòi hỏi các kỹ sư Philipin phải thông thạo tiếng Nhật ngoài việc có các kỹ năng lập trình đáp ứng tiêu chuẩn cao của khách hàng Nhật Bản. Hiện tại chỉ có khoảng một vài nghìn kỹ sư công nghệ thông tin Philipin làm việc cho các công ty Nhật Bản. Tuy nhiên người ta cũng đang hy vọng rằng Philipin sẽ trở thành trung tâm chuyên viết các modul chương trình cho các công ty phần mềm Nhật Bản. 2. Khái quát ngành công nghiệp điện và điện tử của Philipin Tính đến cuối năm 2000, có khoảng 589 công ty điện và điện tử đăng ký với khu chế xuất dưới sự quản lý của Ủy Ban Đầu Tư và Ban quản lý các khu chế xuất (PEZA/BOI). Số lượng các công ty Nhật Bản chiếm tỷ lệ lớn nhất (30%) so với các công ty Philipin ở Philipin (28%), các công ty của Hàn quốc (10%), Mỹ (9%), Châu Âu (7%), và Đài Loan (4%). Tổng số lượng nhân công là 315,000. Số lượng đầu tư của các doanh nghiệp Nhật bản tương đối lớn, tương tự như các công ty của Mỹ, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Philipin. Bởi vì phần lớn các sản phẩm lắp ráp ở Philipin cạnh tranh trực tiếp với các sản phẩm của Trung quốc và Thai Lan, nên có xu hướng các công ty chuyển cơ sở sản xuất tới các nước này. Tuy nhiên, một phần do sự tác động của bệnh SARS, một vài công ty (ví dụ, NEC) chuyển kinh doanh ổ đĩa mềm từ Trung Quốc sang Philipine. Các công ty của Hoa Kỳ như Intel và Texas Instrument chuyên sản xuất lắp ráp các sản phẩm bán dẫn tiếp tục coi Philipin như là một nơi sản xuất quan trọng mang tính chiến lược. Gần đây, các công ty Nhật Bản đã bắt đầu coi Philipin như là trung tâm sản xuất các phụ tùng lắp ráp máy ảnh, màn hình tinh thể lỏng và bộ khuếch đại điện áp được lắp ráp trong các máy kỹ thuật số đang phát triển với tốc độ cao. Các nhà đầu tư bắt đầu chú ý tới Philipin như một trung tâm sản xuất linh kiện lớn do lợi thế về chi phí nhân công rẻ và nguồn nhân lực dồi dào.

Page 33: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Hình 12: Xu hướng sản xuất của ngành điện và điện tử ở Philipin Nguồn: Niên giám thống kế về điện tử ( Viện nghiên cứu điện tử Read) ;và các số của tạp chí thống kê tài chính

0.0

2.0

4.0

6.0

8.0

10.0

12.0

14.0

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

Tỷ đô-la

0

50

100

150

200

250

300

350

400

Tỷ đô-la

Linh phụ kiện

Dụng cụ

Viễn thông

Máy tính

Thiết bị nghe nhìn

Đầu tư của Nhật Bản vào Phillipin

Page 34: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

Hình 13. Thị phần hàng điện và điện tử của Philipine ở các nước ASEAN.

Nguồn: Từ hình 12 Trong khi môi trường đầu tư ở Philipin vẫn đang cần phải tiếp tục nâng cấp cải thiện về cơ sở hạ tầng (điện, đường....) và các mối quan hệ lao động, mức lương ở Phillipine không phải là thấp so với mức lương của các nước như Inđônêxia, Việt nam và Trung Quốc. Do đó, Philipin rất khó có thể cạnh tranh với các nước có lợi thế về lao động. Philipin hiện tại sản xuất một số các bộ linh kiện đặc biệt cho xuất khẩu và sản xuất các linh kiện đa chức năng với sản lượng nhỏ. Mặt khác, lợi thế của Philipine là (i) khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh của nhân công, (ii)nguồn nhân lực cho các vị trí quản lý trung gian được đảm bảo nhờ vào khoảng một trăm nghìn kỹ sư tốt nghiệp từ các trường đại học kỹ thuật và dậy nghề và (iii) lợi thế vị trí do Philipin nằm giữa Nhật Bản và các nước ASEAN , điều này hoàn toàn thích hợp để Philipin xây dựng một mạng lưới sản xuất khu vực. 3. Những ưu đãi dành cho các công ty của Nhật Bản Mặc dù Philipin không có một quy hoạch tổng thể rõ ràng cho ngành điện và điện tử, nhưng các công ty Nhật Bản đầu tư vào Philipin đang sản xuất ổ đĩa cứng và vi mạch điện tử với việc sử dụng các công nhân nói tiếng anh thành thạo chi phí thấp. Gần đây, các nhà đầu tư chú ý tới nguồn nhân lực làm việc trong ngành công nghệ thông tin thì bắt

0.0

20.0

40.0

60.0

80.0

100.0

120.0

140.0

1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003

Billion Doll

0.0

2.0

4.0

6.0

8.0

10.0

12.0

� “

Philippins Other Asean Countries Ratio

Page 35: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

đầu có xu hướng các công ty phát triển phần mềm đã bắt đầu đầu tư vào Philipin ngày càng lớn. Tuy nhiên , Philipin không phải là nước có mức chi phí cạnh tranh thấp một phần do sự nổi lên của Trung Quốc. Nhiều công ty Nhật Bản ở Philipin đang hoạt động trong một môi trường ngày càng khốc liệt, khó có thể phục hồi một cách nhanh chóng. Họ phải đương đầu với rủi ro chỉ có riêng của Philipin, sự di chuyển chặt chẽ của lao động và sự kém phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm cả hệ thống điện và đường. Trong khi đề cập đến sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các công ty ở Trung Quốc, thì chi phí lao động tính theo đồng đô la ở Philipin dường như vẫn duy trì ở mức độ hiện tại trong dài hạn và người ta cho rằng Philipin vẫn giữ được mức chi phí cạnh tranh với các nước khác. Không có dấu hiệu nào cho thấy các công ty lớn của Hoa Kỳ như Texas Instruments , Intel và các công ty có tên tuổi khác muốn rút khỏi Philipine. Tương tự, tập đoàn Toshiba, là tập đoàn lắp ráp máy tính và chiếm lĩnh thị trường rộng lớn nhất trong các doanh nghiệp Nhật bản ở Philipine dường như không muốn rút khỏi thị trường Philipin và chuyển sang đầu tư tại thị trường Trung Quốc. Do đó khả năng là FDI sẽ lại tiếp tục quay trở lại Philipine khi có thời cơ. Và cũng vì lý do này mà Philipine cần tiếp tục phát triển và cải thiện môi trường đầu tư. Khung pháp lý và chính sách Trên giấy tờ thì ưu đãi đầu tư các công ty nước ngoài hoạt động ở Philipine là thuận lợi nhất trong khu vực ASEAN. Tuy nhiên, thực tế thì không phải lúc nào các nhà đầu tư cũng được hưởng các ưu đãi này. Có một số điểm làm các nhà đầu tư lo ngại như sau: thủ tục hành chính quá phiền hà và mất nhiều chi phí, có nhiều vấn đề liên quan đến tham nhũng, quản lý lao động, ổn định xã hội. Thậm chí khi các phương pháp và chính sách khuyến khích môi trường đầu tư được thiết lập, các chính sách này trong khi thực thi cũng hay gặp những trở ngại tại toà án do bị cáo buộc vi phạm các điều khoản trong hiến pháp. Kết quả là Philipin đang tiến hành quá trình sửa đổi hiến pháp để hạn chế sự can thiệp quá mức vào của tư pháp vào các lĩnh vực kinh tế. Do các khó khăn trong việc thu thuế trực thu nên chính thủ tập trung vào thuế gián thu bao gồm cả thuế giá trị gia tăng (VAT), là loại thuế dễ dàng thu từ các công ty nước ngoài. Các công ty nước ngoài cảm thấy khó khăn trong hoạt động kinh doanh khi chính phủ luôn thay đổi chính sách thuế một cách thường xuyên, thời gian từ khi luật ban hành cho đến khi luật có hiệu lực ngắn làm cho các công ty khó điều chỉnh hoạt động kinh doanh cũng như và thiếu sự tính cụ thể khi các thủ tục bị thay đổi. Hơn nữa, có sự sai lệch trong cách hiểu của chính phủ và các công ty nước ngoài về chi phí thực tế cho hoạt động sản xuất kinh doanh cho nên có những mức thuế đặc biệt áp dụng không phù hợp. Các công ty xuất điện và điện tử với số vốn đầu tư lớn và một số lượng lớn công nhân,

Page 36: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

như Fujitsu, thường phải đối đầu với gánh nặng thuế gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng lợi nhuận của công ty. Việc hoàn trả lại thuế giá trị gia tăng cho các công ty Nhật Bản đã đăng ký với ủy ban đầu tư (BOI) và ban quản lý các khu chế xuất (PEZA) thường mất nhiều thời gian, cũng là một tác động xấu lên công việc kinh doanh của họ. Cơ sở hạ tầng và môi trường lao động Việc cung cấp năng lượng điện không ổn định khiến cho các công ty Nhật Bản phải xấu dựng các nhà máy điện có chi phí lớn hơn là chi phí mua điện. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ điều kiện để tạo ra nguồn năng lượng sản xuất thường gặp phải rất nhiều vấn đề về sản xuất và tăng chi phí do sự ngừng sản xuất gây ra bởi sự thiếu năng lượng. Việc không đủ năng lượng cùng với nguồn năng lượng không ổn định cũng gây ảnh hưởng đến các mạch điện của các thiết bị sử dụng trong nhà của các hộ gia đình. Các công ty Nhật Bản muốn có một hệ thống cung cấp điện ổn định mà không yêu cầu phải có việc tạo ra nguồn năng lượng trong nhà. Nhiều công ty Nhật Bản rất sợ mình sẽ trở thành mục tiêu tranh luận gay gắt của các liên đoàn lao động. Các cuộc tranh chấp lao động luôn luôn là một vấn đề, và chúng các ngày càng tăng lên trong những năm gần đây. Sự tồn tại mối quan hệ giữa liên đoàn lao động và các đảng viên đảng cộng sản ngày càng làm phức tạp thêm vấn đề. Điều kiện giao thông lại là một vấn đề làm đau đầu các nhà chức trách Philipin khi mạng lưới đường sá và đường cao tốc nối với các khu công nghiệp không được xây dựng một cách hợp lý. Việc kém phát triển của giao thông đường bộ đã làm tăng thêm nạn tắc nghẽn đường giao thông và các hoạt động tội phạm khác. Tệ nạn buôn lậu đã vượt quá khả năng kiểm soát của cảnh sát và các cơ quan có liên quan, nhưng vấn đề chung về an ninh con người của công nhân , hệ thống giao thông và các điều kiện đường sá tồi tàn vẫn còn đang được giải quyết. Đảm bảo nguồn nhân lực trong ngành công nghệ thông tin. Trong lĩnh vực sản xuất linh kiện máy tính, như các sản phẩm bán dẫn và đĩa cứng, khối lượng sản xuất và đầu tư dường như không tăng thêm. Hiện tại, người ta vẫn hy vọng vào việc sản xuất các thiết bị có nhu cầu tiêu thụ cao, nhưng quan trong hơn cả là Philipin có thể xây dựng được một cấu trúc công nghiệp rộng khắp mà có mối liên kết với thị trường Mỹ và Nhật Bản như đối với ngành công nghiệp công nghệ thông tin. Ví dụ điển hình là sự phát triển về công nghệ phần mềm. Các công ty Nhật bản hoạt động trong lĩnh vực này ngày càng tăng như đã nói ở trên, Philipin có một tiềm năng lớn cho việc phát triển ngành dịch vụ phần mềm, bao gồm việc phát triển phần mềm và trung tâm tư vấn mà có thể tận dụng được lợi thế về giao tiếp tiếng anh của người lao động và nguồn lao động có kiến thức trong ngành công nghệ thông tin. Mặc dù Philipin đào tạo một số lượng lớn các kỹ sư công nghệ thông tin, nhưng các công ty Nhật Bản vẫn muốn đào tạo tiếng Nhật cho

Page 37: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

các nhà lập trình và các mức độ của các kỹ năng lập trình. Để Philipin có thể xâm nhập được một phần của thị trường phần mềm Nhật Bản, rào cản ngôn ngữ giữa các công ty Nhật Bản và các kỹ sư công nghệ thông tin Philipin vẫn còn là một trở ngại lớn. Giải pháp cho vấn đề này có thể là sự tấn công vào các sản phẩm công nghệ thông tin của Philipin của các công ty Nhật Bản. Phòng thương mại và công nghiệp Nhật bản đang cố gắng tạo ra môi trường kinh doanh trong đó có đào tạo tiếng Nhật cho các chuyên gia công nghệ thông tin. Hệ thống đào tạo nhân sự công nghệ thông tin của ADTX (Ví dụ) ADTX là một công ty của Nhật Bản hoạt động ở Philipin chuyên sản xuất các chương trình phát triển hệ thống cho IBM của Nhật và các công ty khác đang hoạt động tại Nhật. Ban đầu, các công ty thường sản xuất phần mềm đã được lắp đặt trong phần cứng. Gần đây, việc phát triển phần mềm ứng dụng cho hệ thống tích hợp ngày càng tăng cao.ADTX cần các nhà thiết kế chương trình lỗi lạc với khả năng nói tiếng Nhật hoàn hảo bởi vì khách hàng của họ chủ yếu là người Nhật. Mặc dù vậy, vẫn chưa có một trung tâm hay tổ chức dạy tiếng Nhật nào ở Philipin một cách hoàn chỉnh (chỉ có các khoa tiếng Nhật ở các trường đại học, nhưng ở mức độ trung bình) do đó ADTX hoạt động như là một trung tâm đào tạo với mức chi phí tự có của mình. Trung tâm này liên kết với công nghệ chương trình , giáo dục tiếng Nhật và giáo dục theo phương châm "5S". Hàng năm đào tạo khoảng trên 40 kỹ sư từ các khoa công nghệ thông tin của các trường đại học, các khoá học ngắn hạn trong vòng 5 tháng có thể bao quát được toàn bộ nội dung của toàn bộ khoá học dài hạn trong 2 năm. Những ai đã hoàn thành xong khoá học của ADTX thì có thể được tuyển dụng cho ADTX miễn là đạt được trình độ tiếng Nhật ít nhất ở mức 3 và giấy chứng nhận tiêu chuẩn Bộ kinh tế, công nghiệp và thương mại Nhật Bản về công nghệ thông tin cấp trong khu vực các nước ASEAN. ADTX đã hoàn thành xong hai chương trình trong vòng hai năm qua, và hiện nay đang xây dựng tiếp chương trình cho năm thứ ba. Hoạt động của trung tâm này tiêu tốn khoảng 8 triệu peso một năm để trả lương cho các giáo viên người Nhật, trả tiền chi phí sinh hoạt cho sinh viên, mua sắm các thiết bị giảng dạy. Đây là gánh nặng tài chính lớn nhất của công ty.

IV Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

1. Xu hướng đầu tư nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực điện và điện tử. Những năm gần đây đã chứng kiến sự tăng lên trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Các doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử tiêu dùng lớn của Nhật bản như tập đoàn Sony, Matsushita, JVC và Toshiba đã hình thành liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam vào giữa những năm 1990 để xâm nhập vào thị trường nội địa và

Page 38: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

ngày nay còn bao gồm các sản phẩm lắp ráp như ti vi màu. Các doanh nghiệp của Hàn Quốc như Samsung, LG đã xâm nhập vào thị trường Việt Nam muộn hơn so với các đối thủ cạnh tranh của Nhật, tiếp theo là TCL, một doanh nghiệp phát triển nhanh ở Trung Quốc trong những năm 2000. Trong khi các hãng Hàn Quốc đạt được qui mô sản xuất lớn về xuất khẩu sản phẩm của mình thì các doanh nghiệp Nhật Bản lại hướng vào thị trường Việt Nam và sản xuất nhằm mục đích thay thế nhập khẩu. Do đó họ đã gặp phải rất nhiều khó khăn nảy sinh từ các thể chế của địa phương, như thuế cao trong các hàng nhập khẩu, và các quyền bắt buộc xuất khẩu ngay từ ban đầu, và phải chống chọi với khả năng lợi nhuận. Trong năm 2001, chính phủ đã đưa ra các yêu cầu và thuế quan nhập khẩu có liên quan để khuyến khích ngành sản xuất trong nước gây khó khăn cho sự hoạt động của các công ty Nhật Bản. Ở Việt Nam, việc sản xuất đồ gia dụng như tủ lạnh và máy giặt của các công ty Nhật Bản và Hàn Quốc bao gồm hãng điện tử Sanyo, điện tử LG, điện tử Samsung. Trong lĩnh vực tủ lạnh và máy giặt chỉ có Sanyo có thể phát triển một hệ thống sản xuất với qui mô xuất khẩu cao. Các hãng khác, bị giới hạn bởi thị trường nội địa nhỏ bé và các ngành công nghiệp phụ trợ hỗ trợ kém phát triển, duy trì ở mức độ sản xuất cầm chừng của thị trường nội địa chỉ sử dụng các bộ phận nhập khẩu. Cũng không có các công ty nước ngoài có tên tuổi sản xuất máy điều hoà nhiệt độ, lò vi sóng, máy hút bụi, nồi cơm điện, lò sưởi và nồi ga ở Việt Nam hiện nay Trước đây, Việt Nam vẫn chưa có sản xuất ở qui mô lớn các thiết bị thông tin hơn là việc lắp ráp các máy tính điện tử cá nhân do các công ty tư nhân và nhà nước cho thị trường nội địa. Tuy nhiên, đầu năm 2000, hãng Canon đã đầu tư gần 10 tỷ yên vào xây dựng nhà máy mực in mới ở khu công nghiệp Thăng Long, ngoại thành Hà Nội. Các hãng nước ngoài khác đang có kế hoạch đầu tư theo Canon. Mặc dù còn nhiều vấn đề liên quan đến FDI ở Trung quốc trong việc sản xuất các thiết bị máy tính, Canon và các hãng khác muốn phân tán rủi ro của việc tập trung vào Trung quốc. Quan điểm này dựa trên khả năng cho rằng Việt nam có thể trở thành điểm thu hút vốn FDI với mục đích này do khả năng sẵn có của cung và chi phí lao động thấp Trong lĩnh vực sản xuất thiết bị điện tử, việc sản xuất bị thống trị bởi các công ty của Nhật bản và các hãng nước ngoài đến Việt nam vào giữa những năm 1990 và sau đó.10 trong số các hãng của Nhật Bản bao gồm Mabuchi Motor, Fujitsu ngày nay đã liên kết trong việc lắp ráp các bộ phận đơn giản, như máy biến thế, dây cuộn, mô tơ cũng như bảng mạch điện tử và xuất khẩu tất cả các sản phẩm . Bởi vì các nhà sản xuất dụng cụ của Nhật nhập khẩu toàn bộ các thiết bị của họ và xuất khẩu các bộ phận đã lắp ráp. Họ thường đặt trong khu vực sản xuất cho xuất khẩu (EPZs) để tận dụng các lợi thế của họ. Trước đây, các hãng phải đương đầu với hệ thống hải quan không hợp lý và hiệu quả và

Page 39: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

các thủ tục kinh doanh phiền hà khác đặc trưng của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, tình trạng này đã được khắc phục với dịch vụ một cửa tại khu xuất khẩu thành phố Hồ Chí Minh và các khu vực khác và việc giải thích các thủ tục thanh toán hải quan. Điều này đối lập với những khó khăn mà các hãng Nhật Bản sản xuất hàng điện tử tiêu dùng cho thị trường nội địa đang phải đối đầu. 2. Giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI); bài học từ các nước ASEAN khác. Vào nửa đầu năm 2004, đoàn của chúng tôi đã đến thăm và đánh giá môi trường đầu tư của các ngành điện và điện tử vào Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia và Philipin theo quan điểm của các hãng sản xuất Nhật Bản. Các kết quả đã được trình bày trên đây. Dựa trên kinh nghiệm của các nước khác, phần này tóm tắt lại các vấn đề chính về các mối quan tâm của Chính phủ Việt nam nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là từ Nhật Bản nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp điện và điện tử. Đặc biệt, 4 lĩnh vực cần được chú ý hoàn thiện như sau: (i)Khung pháp lý và chính sách; (ii) cơ sở hạ tầng; (iii) phát triển nguồn nhân lực; và (iv) các ngành công nghiệp phụ trợ. Sự phát triển vững chắc trong lĩnh vực điện và điện tử ở Việt Nam đòi hỏi một sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ Nhật Bản và các nước khác. Để nhận ra điều này, Việt Nam cần phải nghiên cứu các xu hướng thay đổi và những khó khăn mà các hãng nước ngoài gặp phải trong các nước ASEAN láng giềng và sử dụng thông tin này để tránh các sai sót trong chính sách. - Các quốc gia phải nhận thức rằng, cần có một quy hoach tổng thể ngành hoàn chỉnh

cho ngành điện và điện tử ở các nước đang phát triển. Mặc dù còn có các yếu tố khác như rủi ro quốc gia và vị trí địa lý, chúng ta không thể phủ nhận rằng nếu có một bản quy hoạch tổng thể phát triển ngành rõ ràng như các nước Malaysia , Thái Lan thì sẽ tốt hơn nhiều so với các nước không có quy hoạch tổng thể giống như Inđônêxia và Philipine. Sự khác biệt này thể hiện ngay ở việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, qui mô sản xuất, kim ngạch xuất khẩu và sự thu hút lao động.

- Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các nước đang phát triển thường gặp phải các thủ tục hành chính phiền hà trong nhiều lĩnh vực bao gồm việc cấp giấy phép đầu tư, thủ tục hải quan, thuế và lao động. Thông qua sự chuẩn bị một quy hoạch tổng thể và sự tham gia vào hiệp định quốc tế AFTA và FTA, chính phủ nên đề cao sự phối kết hợp giữa các bộ ngành có liên quan để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển hoạt động thương mại, tạo công ăn việc làm. Để làm việc được như vậy thì Việt Nam cần phải duy trì tính nhất quán, minh bạch, liên tục trong chính sách có liên quan đến các công ty nước ngoài.

Page 40: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

- Quy hoạch tổng thể là một định hướng cho các nhà hoạch định chính sách và nhà đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào ngành công nghiệp điện và điện tử. Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, và khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp trong nghiệp trong nước trong dài hạn, chính phủ cần phải phác thảo một quy hoạch tổng thể trong đó đề ra các mục tiêu và các chính sách phát triển rõ ràng của đất nước trong dài hạn. và các nỗ lực cần thiết để đạt được các mục tiêu đó, đồng thời tăng cường quản lý và trình độ công nghệ của các doanh nghiệp Philipin để thấy rõ tiềm năng của mình.

- Một tổ chức cùng với Viện Điên và Điện Tử (EEI) ở Thái Lan đóng vai trò quan trọng hết sức quan trọng cho các hoạt động phối hợp giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp này. Cơ quan này đóng vai trò quan trọng trong: (i) xác định các yêu cầu của ngành ; (ii) khuyến khích sự trao đổi thông tin trong và ngoài nước; (iii) tăng cường quản lý và trình độ công nghệ của các doanh nghiệp trong nước với sự trợ giúp của các doanh nghiệp nước ngoài; (iv) hỗ trợ sự phát triển nguồn nhân lực của các doanh nghiệp trong nước; và (v) cung cấp các dịch vụ về kiểm tra chất lượng và tiêu chuẩn an toàn cho các sản phẩm quốc tế. Mặc dù sự trợ giúp chính thức có thể được yêu cầu trong giai đoạn đầu, nhưng vẫn cần có sự nỗ lực để tuyển dụng của nguồn nhân lực chất lượng cao từ khu vực tư nhân và sự độc lập về tài chính.

Xây dựng cơ sở hạ tầng - Có sự khác biệt lớn giữa Thailan và Malaysia, và giữa Inđônêxia và Philipine về chất lượng của các dịch vụ cơ sở hạ tầng , đặc biệt là trong lĩnh vực cung cấp ổn định nguồn điện và mạng lưới giao thông. Đối với các hãng nước ngoài, nguồn cung ứng điện và giao thông là các yếu tố cực kỳ quan trọng bởi vì chúng quyết định môi trường đầu tư với sự tác động lên sản xúat và chi phí. - Trong khi các doanh nghiệp có qui mô lớn có thể đầu tư vào việc cung cấp nguồn năng lượng, nhưng điều này đòi hỏi phải có chi phí lớn về bảo dưỡng, các phương pháp chống ô nhiễm... Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tìm các hình thức đầu tư với chi phí quá cao và buộc phải phụ thuộc vào nguồn điện công cộng. Việt thiếu hụt năng lượng ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này, đặc biệt là đôí với các doanh nghiệp trong ngành sản xuất nhựa. - Đối với mạng lưới đường sá, cần phải có một sự cải thiện đối với hệ thống đường xe tải quốc tế và nội địa như đường nối Hà Nội - HCM , HCM - Băng Kốc và Hà Nội và Nam Trung quốc. Phát triển nguồn nhân lực

Page 41: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

-Ngoại trừ Malaysia, các nước ASEAN đã đề cập trên đây có qui mô dân số lớn nên việc tuyển dụng nhân công số lượng lớn không mấy khó khăn. Tuy nhiên, do các hạn chế trong hệ thống giáo dục, việc hiểu và đạt được tiêu chuẩn đào tạo 5S của các doanh nghiệp Nhật bản là cực kỳ khó khăn. Ngoài ra , số lượng các trườgn đại học, cao đẳng và dạy nghề, đào tạo đội ngũ kỹ sư và các chuyên gia còn ít , do đó các doanh nghiệp rất khó khăn trong việc tuyển lựa các kỹ sư và chuyên gia trong các lĩnh vực như kế toán. -. Sự cải tiến lớn về giáo dục và phát triển nguồn nhân lực đòi hỏi một chiến lược cơ bản của chính phủ về mặt dài hạn. Nếu nguồn vốn hỗ trợ chính thức (ODA) được sử dụng cho mục đích này thì các nước đang phát triển cần phải khẳng định rằng hệ thống giáo dục phổ thông, đại học và dạy nghề là các khu vực ưu tiên để nhận việc trợ nước ngoài. - Việt Nam cần phải học tập kinh nghiệm từ các nước khác và đề ra các giải pháp để phát triển nguồn nhân lực. ví dụ, xem xét đến khả năng của các chương trình như (i) chương trình học tập tại nước ngoài ở Malaysia dưới chính sách "Hướng Đông”; (ii) các trung tâm đào tạo dưới sự quản lý của các khu công nghiệp hoặc các doanh nghiệp tư nhân với sự hỗ trợ chính thức như tập đoàn giáo dục Gobel Matsushita; và (iii) mời để thiết lập chi nhánh đại diện ở Việt nam của hãng truyền thông Malaysia (MM) hoặc học viện công nghệ quốc tế Malaysia - Japan. Tăng cường các ngành công nghiệp phụ trợ. - Các doanh nghiệp Nhật Bản hoạt động ở các nước ASEAN thực sự muốn tăng số lượng giao dịch với các công ty trong nước để giảm chi phí sản xuất và cạnh tranh với Trung quốc. Tuy nhiên, thậm chí ở Malaysia và Thailan với sự tích tụ của các ngành công nghiệp thiết yếu, như dập kim loại, đúc, phun , đúc khuôn thép, cán và mạ... vẫn còn rất yếu - Khi các nhà đầu tư nhận thấy thị trường tiềm năng rộng lớn của Trung Quốc, các ngành công nghiệp phụ trợ ở Trung Quốc có xu hướng phát triển mạnh trong những năm qua. Thị trường ASEAN cũng là một thị trường lớn cho ngành công nghiệp phụ trợ khi có sự hoạt động của FTA giữa Trung Quốc và ASEAN. Nếu các ngành công nghiệp phụ trợ không được tăng cường nhanh chóng ở các nước ASEAN , thì chúng sẽ nhanh chóng bị thôn tính bởi các đối thủ của Trung Quốc. - Để tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng Thái Lan và Malaysia đang cố gắng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và đã có các chương trình liên kết với các doanh nghiệp Nhật Bản sẵn sàng kinh doanh với các doanh nghiệp trong nước bao gồm VDP ở Malaysia. Tuy nhiên, các giải pháp này đã không đưa ra được các kết quả rõ ràng phần lớn là do thiếu thái độ đúng đắn trong việcquản lý của các doanh nghiệp trong nước.

Page 42: Các vấn đề trong ngành công nghiệp điện và điện tử của các ...

- Nhiệm vụ tăng cường ngành công nghiệp phụ trợ không chỉ được tiến hành ở Việt Nam. Câu hỏi đặt ra từ các nước trong khu vực bao gồm không chỉ Malaysia và Thai Lan là nước có sự tích tụ có qui mô trong ngành lắp ráp, nhưng thiếu sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ, mà còn cả các nước như Inđônêxia và Philipine nơi mà các ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn chưa được tồn tại. Nếu ODA được sử dụng, thì các nước nhận viện trợ phải có thể chế làm việc hiệu quả để nhận được sự hợp tác công nghệ diễn ra liên tục, như đã đề cập ở trên đối với trường hợp giáo dục. Chính phủ Việt nam cần phải coi trọng tầm quan trọng của một cơ chế làm việc trong mối quan hệ với các nước tài trợ .