Top Banner
CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐI-ĐẠO 1 LI TA Chúng tôi có cơ duyên nhận đƣợc bản copy cũ “Kinh Tam-Hoàng- Thiên-KinhtDì By Ngc Trâm Hƣơng ti Cao Đài Thiên Lý Bu Tòa, San Jose, California, USA, trong dp Rm Trung Thu năm 2010. Nhn thy giá trquí báu ca quyn Kinh, chúng tôi phát nguyện đánh vào máy vi-tính để có thđƣa lên mạng cho mi ngƣời cùng đọc và tìm hiu. Vì đánh máy gấp rút và bản copy cũng có những chkhó đọc, sơ xut lỗi đánh máy do đó khó có thtránh đƣợc. Xin quí vđộc ginim tình bqua nhng li lầm và đồng thi chbo các chsai lầm để chúng tôi có thhoàn thin quyn Kinh quí báu này trong nhng ln in ti. Xin chân thành cm t, Viễn Lƣu, Nov/19/2010 tc Rm tháng mƣời năm Canh Dần. Email: [email protected] TIÊN-THIÊN THÁNH-LUN Tnhiên, Thiên-cơ Tuần-Hƣờn chuyn-phc, vt cc tc phn, hoa khai hu hoa lc, lc tc hồi nguyên. Thì ra, cơ Tạo-Hóa sanh, huyền linh, cũng phải tuân y lut chung, tùy duyên nhứt lý đó ! Phải đi theo Thiên-Cơ Động-Tnh, chuyn biến tánh qui hƣờn nhƣ nhứt. Ban đầu, thxuất “Vô-Cc-Xƣng-Tôn”, rồi ln lần đến Lƣỡng- Nghi, ra Âm-Dƣơng phân biệt. Kế vô smãn khai, tƣợng tƣợng hóa-sanh, sanh-hóa; do chThái-Thƣợng trung-gian th-xut, cùng chsđịnh phân khai Lƣỡng-Nghi. Đoạn Ngài bèn hiệp Lƣỡng Nghi nhkhí, hóa thành Thanh-Đạo gidã ! Rồi Đạo-gitnhiên nhi chuyn gi. Chuyn-gilà: “Nhứt-Bn-Tán-Ƣ-Vn-Thù”; là biến pháp do Hng Mông; Vô-
112

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

Sep 25, 2019

Download

Documents

dariahiddleston
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

1

LỜI TỰA Chúng tôi có cơ duyên nhận đƣợc bản copy cũ “Kinh Tam-Hoàng-

Thiên-Kinh” từ Dì Bảy Ngọc Trâm Hƣơng tại Cao Đài Thiên Lý

Bửu Tòa, San Jose, California, USA, trong dịp Rằm Trung Thu

năm 2010. Nhận thấy giá trị quí báu của quyển Kinh, chúng tôi phát

nguyện đánh vào máy vi-tính để có thể đƣa lên mạng cho mọi

ngƣời cùng đọc và tìm hiểu.

Vì đánh máy gấp rút và bản copy cũng có những chỗ khó đọc, sơ

xuất lỗi đánh máy do đó khó có thể tránh đƣợc.

Xin quí vị độc giả niệm tình bỏ qua những lỗi lầm và đồng thời

chỉ bảo các chỗ sai lầm để chúng tôi có thể hoàn thiện quyển Kinh

quí báu này trong những lần in tới.

Xin chân thành cảm tạ,

Viễn Lƣu, Nov/19/2010 tức Rằm tháng mƣời năm Canh Dần.

Email: [email protected]

TIÊN-THIÊN THÁNH-LUẬN

Tự nhiên, Thiên-cơ Tuần-Hƣờn chuyển-phục, vật cực tắc phản,

hoa khai hựu hoa lạc, lạc tắc hồi nguyên. Thì ra, cơ Tạo-Hóa sanh,

huyền linh, cũng phải tuân y luật chung, tùy duyên nhứt lý đó ! Phải

đi theo Thiên-Cơ Động-Tịnh, chuyển biến tánh qui hƣờn nhƣ nhứt.

Ban đầu, thủ xuất “Vô-Cực-Xƣng-Tôn”, rồi lần lần đến Lƣỡng-

Nghi, ra Âm-Dƣơng phân biệt. Kế vô số mãn khai, tƣợng tƣợng

hóa-sanh, sanh-hóa; do chỗ Thái-Thƣợng trung-gian thủ-xuất, cùng

chỗ sở định phân khai Lƣỡng-Nghi.

Đoạn Ngài bèn hiệp Lƣỡng Nghi nhị khí, hóa thành Thanh-Đạo

giả dã ! Rồi Đạo-giả tự nhiên nhi chuyển giả. Chuyển-giả là:

“Nhứt-Bổn-Tán-Ƣ-Vạn-Thù”; là biến pháp do Hồng Mông; Vô-

Page 2: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

2

Cực tịnh nhi bất mãn, bèn phát động cơ, mới có ra phân phối nhƣ

vậy.

Còn ngày hôm nay là ngày y Thiên-cơ phục-hƣờn, do chỗ Đạo giả

sanh biến hóa lý, biên thiên ƣ-cực điểm thái thậm vậy !

Vì loài chủng đã bị luân hồi, đa kiếp, nhiễm trần lao, phiền não đa

đoan, cho nên vô minh mãn-tệ, mà ra thiệt lý Niệm-Sơ; do nhiễm

trần mà sanh nịch ái lƣu lãng, sanh-tử tử-sanh; bởi tranh giành hơi

thở, mà ra tiều tụy thân hình, mới hƣ thế cuộc !

Đến đỗi chết, mà chẳng thấy đƣờng về. Đành cam chịu theo cơ

Luân-Hồi báo ứng của Tuần-Hƣờn vần xây, theo chỗ thuận hành

của ngoại cơ Thiên chuyển, trong Võ-Trụ Càn-Khôn! Mà là về cơ

Thiền Tịnh, Địa Động, HUYỀN, HỒNG, tƣơng hiệp, chuyển hóa

thành nhơn.

Còn về Đại Đạo, thì hoằng khai Nguyên mạch, cứu đời mê đắm

mạt vận hƣờn lai; đem chánh lý phục hƣng, độ dân chơn chƣởng

toàn linh hữu căn ngộ kiếp, y hƣờn cựu vị; cho Phụ-Tử trùng

phùng, khỏi Mẫu-Tử hoài vọng; Hoàn toàn thệ-hải-sơn minh, theo

lời nguyện lối Đại-Hội Bàn-Đào, đồng xin hạ trần cứu thế, lập đức

bồi công, hay báo ân sanh sản của Hoằng-Thâm Sở-Tạo.

Duyên do đó, nên phải có công đồng lập pháp phân minh ! Lấy

chỗ Âm-Dƣơng giao cảm ứng hiện vi bằng, của Khảm-Ly-địa-vị,

hóa ra “VẠN-TỰ”, làm nền cho nhơn-tài hội thí, khảo dƣợt khoa-

tràng, lập thân hành đạo, mà đặng dƣơng danh Đạo mạch thành

chơn, ƣ kỳ-hậu-thế; mà cũng do trong “VẠN TỰ” tuần hƣờn mà ra

biến, thiên sanh, vạn hóa, hóa sanh !.

Nay hết đến thời kỳ, hết sức động chuyển của vô cực Tuần-Hƣờn,

đến lối hồi đầu phục nhứt bổn-nguyên, phục-hƣng chánh Đạo;

Thiện-Đức ban hành, vạn dân tịnh-lập, nên mới có chỗ Động-Tịnh

hƣờn sanh, lập thành Chơn-Cơ. Cho nên pháp biến ấy là Vạn-Tự

hết thiên, nên đành tiêu vong diệt tƣớng đó!

Vậy thì là thời kỳ qui nhứt bổn căn, Tinh Thần Thống Nhứt; nên

vật chất của pháp biến, đã lập thành bấy lâu, lƣu hành Võ-Trụ Vô-

Biên, hôm nay phải Qui-hƣờn Tuyệt-Căn Tự-Chuyển nữa; mà là

chỗ định pháp vậy. Mà hễ Định-Pháp thì ngoại tịnh, mới bèn có nội

động niệm sanh, sanh căn chơn chƣởng vậy. – Về “Thủ-xuất Vô-

Cực”, là Tịnh-Cực Động-sanh, biến hóa, hóa thành Tứ-Vị Tƣợng-

Chuyển, thành “Vạn-Tự” vậy.

Trái lại; hôm nay đây là Động-Cực Tịnh-Sanh, mới là phục-y

Chơn-Cơ sơ-thỉ của Tiên-Nguyên Vô-Cực đó. Vì thuở xƣa kia

Tịnh-Cực Bất-Mãn, mà động chuyển bèn sanh, rồi Động-Cực Bất-

Mãn mà lại Tịnh-Sanh, là lẽ cố nhiên của Tuần-Hƣờn Tạo-Đoan

Thiên-Lý vậy.

Chính là: Tạo-Đoan Vô-Cực Tịnh-Động biến sanh khai dẫn, nay

chí-kỳ cực để phản nguyên Chung-kiết, sở chung, Châu Nhi Phục

Thỉ, vạn bổn hồi căn của Lý Huyền-Thâm Cơ-Ngẫu, Thiên Lý đã

vận chuyển lƣu hành, thuận sanh chơn-vật, mà là Tuần Hƣờn Chí

Cực chi xứ! Chí Cực kỳ mạng, Định Tịnh tự ngƣng, qui phục thỉ

vậy; nhi ngƣng giả, nãi thị: Phục Nguyên Chơn Bổn, Tiên sanh ngũ

hành, Tiên Thể đó, mà là Nhứt Khí Bổn Nguyên.

Mà hễ là Phục Nguyên-Bổn Thi-Sơ là nghịch kỳ vận hành, thì ra

vạn loại Toàn-Cầu phải chịu chung đồng thọ khổn, chỗ báo ứng

trực chƣởng của nguyên nhân, vi thiện hữu ứng, vi ác thọ báo, giai

do thiện ác chi cơ duyên sở tạo, mà nguyên nhân đã làm.

Page 3: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

3

Mới ra có chuyển kiếp hồi nguyên, khinh phù thăng thƣợng, trọng

trƣợc hạ giáng, báo ứng hiện nhiên; cho nhơn sanh tỉnh mộng tự sát

kỳ chơn, hầu hồi tâm hƣớng thiện, tầm lý chơn nhƣ, tịnh thủ Hƣ

Vô, thâu hƣờn Chơn Tánh, thông nhập Huyền Quang Thái Cực hạ

điền, hầu cho ngày xuất lộ hƣờn nguyên, phế mạng trƣợc trần, mới

có thăng thƣợng Cảnh Hƣờn Hƣ, mà lập Vị !. Đó là: Lý chơn-nhƣ

giáo chỉ, cho kẻ đời kiến công lập đức, trả quả báo rồi đi, thêm làm

công quả, tấn hóa trần duyên, duyên lập vậy. Ôi ! Chỉ có biết tánh

lành, mà nguyên chƣởng linh căn nơi cảnh trần thọ mạng, lập công

bồi đức, trừ tuyệt quả căn oan trái vậy ! Mà là: Trung Gian lập vị,

lập đức tấn hóa cập kỳ trung gian; Mới có Đại Đạo hoằng khai,

Tam Kỳ Ân-Xá, Phổ-Độ vạn linh, qui nhứt chƣởng hƣờn nguyên

thƣợng cổ. Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn,

phóng quang ban truyền linh điển nhuận, khai hoát động môn, bố

ban võ lộ, chỉ rõ máy trời hành vi phục nhứt bổn nguyên, y nhƣ

Tam-Hoàng Hi-Cổ, chỗ diệu linh cơ tạo, tạo đoan sơ thỉ vậy. Và

bày cách vận chuyển Càn Khôn, chí ƣ Chí Cực, phục thâu linh tánh

hồi không, cho thiện căn Đạo đức, tài bồi tu thân luyện kỷ, phản

tánh phục sơ, đắc thành Chơn Đạo vậy ru, cho hạp kỳ phục nhứt

vãn nguyên.

Nhƣng từ bấy lâu nay, gọi là chỗ ẩn-vi vi-diệu của chỗ hiển-vi u

ẩn, trần tục nan thông, tạo hƣờn mỹ tục, mà ban bố, minh lộ chơn

cơn, cho động tịnh hƣờn sanh, phân biệt minh quang, là biết chuyển

hƣờn.

Còn Khoa Triết Lý “Âm-Dƣơng Thống Nhứt Tinh Thần Học” đã

tận tƣờng, cho nhơn sanh thức ngộ, hầu đốn giáo tiệm tu, trực tiếp

Thiên Linh, mới đắc; hầu rõ rệt đạo lý chơn cơ, rồi giáng tiếp cho

nhơn sanh tri cơ vi-diệu của Đại Đạo hoằng hóa hồi-chơn, chỗ tấn

thân thánh đức, mới đắc truyền Linh Thiên ban-nhuận hóa thành

pháp-thân.

Nhờ nƣơng theo đây, minh tận Chơn-Cơ, mà hầu thông cơ báo

ứng, hiện lộ, chỗ lý tận-diệt, diệt-sanh, đƣợc linh-chƣởng khỏi sa

vào Tam-Ác-Đạo, của nghiệp chƣớng, buộc ràng; mà là lòng nhơn-

ái đức-hậu của Cao-Đài Thiên lộ nhuận vậy. Nhờ ân-đức bố-nhuận

huyền-thâm, mới đoạn-tuyệt trần cấu, hóa ra pháp-thân, Thiện-

Chƣởng đó.

Khi đoạn tuyệt trần căn, thì thăng hƣờn vô-xứ, do trong bổn thể

tạp niệm hết động-sanh, mới đặng phản về thần-thanh khing phù

thăng thƣợng; tạp–hỏa là do trong bổn thể tạp-niệm hết động-sanh,

vì nó tịnh niệm; nhờ động sanh mới đặng phản uế thuần thanh,

khinh phù thăng thƣợng (Vì tạp-hỏa hạ giáng, chơn-thủy thƣợng

thăng), mới mong dụng lý Vạn-pháp hƣờn nguyên, diệt vọng tuyệt

căn; rồi thâu lấy Tam-Tài: Thiên-Địa-Nhơn, phục phản …

Mà hễ Tam-Tài, đã phục phản hƣờn nguyên rồi, có phải đặng phần

Quang-Tƣớng xuất lộ, chỗ bày tỏ công đức của Tam-Hoàng, ba

Ngài kế thiên thủ xuất, có công tô điểm Dinh-Hoàn, bố ban vạn vật,

vật dụng, mà có đƣợc ánh quang lộ ảnh thiệt tƣớng, truyền cổ chí

đƣơng kim, chuẩn lệ, bất tận, vô cùng vậy.

Tam-Hoàng-Xuất-Thế, lập thế độ nhơn, tế vạn vật chi tồn sanh,

bảo đạo giáo quần lê, trƣờng tịnh; thọ hƣởng Tuế thiên, mà vạn vật

còn đặng tối linh, đặng thạnh hành tấn hóa, đến cực điểm chí hƣ, rồi

hóa thành chất linh minh, gọi : “Chơn Nhơn Bổn Thể”, đó là hƣờn

lai Ngũ-Hành Tiên Sơ.

Với Tứ Ân, cần lo đền đáp, là Ân thâm trọng; vì mỗi vật đều có

thọ một điểm Linh-Quang Vô-Vi thể tƣớng, Thiên điển nhuận thân

con ngƣời, cho nên mới đặng biết mảnh thân Tứ Đại này, là thể;

còn nhớ lấy chỗ dụng, tức là: Linh-Quang nhập tại nhơn thân.

Page 4: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

4

Do đó: thân Tứ-Đại đã hiệp này, mới có hƣợt động, mới thi hành

thế cuộc, phát triển tấn hóa, hóa thành; cũng do duyên phúc hậu,

của đức “Thái Thƣợng Đạo-Quân” hiệp hòa tinh chƣởng hạo khí

thiên nhiên, của vạn vật tối linh, hòa hiệp âm dƣơng, tạo thành

nhơn thể; với nhờ điển Vô Vi kia, Võ Trụ mới thạnh hƣng tấn hóa.

Thì ra mảnh Linh chơn này của nguyên nhân, đều trọn nhờ ân điển

Thiên Đức bố ban; mà mảnh Linh Chơn Thiên Tánh ấy mới hƣợt

động, tùy năng-lực thọ yểu cù thông, tinh-thần bèn chuyển xây thủ-

túc; là do nhờ động sanh phát huệ thông định-đoạt mới ra có lập

thành công đức tấn hóa, hóa sanh cho thế cuộc phi thƣờng triệt-để,

chí-ƣ chí-thiện, chí-mỹ; thì là hoàn toàn nhơn sanh thế-hệ, đặng có

thi thố trong cõi nhơn-gian, thạnh hành Đạo-mạch bổn-nguyên và

lý-sự roi dấu cửu-trƣờng, thế lƣu, lƣu-thế vĩnh xƣơng ! Háo sanh

chi đức ! Hầu để cho nguyên-chƣởng danh dƣơng hậu thế; vậy mới

là Đạo giả vô tranh.

Nay rất mong thay! Tam Kỳ Phổ Độ Hoằng Pháp Lợi Sanh, có

Đại Đức Ân-Sƣ, Từ-Tâm Tôn-Mẫu truyền thọ chơn-giáo, phƣơng-

pháp thoàn-tu, tịnh-tâm đại-định, tài-bồi âm-đức hầu lƣỡng đắc

tƣơng-phò, toàn bằng chơn niệm tức số: Tam-Bá quả công; và dạy

cách hƣờn-nguyên phục-nhứt, chí-cực tận-truyền, cũng do bởi

thâm-ân Thiên-Địa-Nhơn-Hoàng thậm trọng, của mối nợ Vô-Vi,

ngàn đời lƣu-lai thống hệ, đã chỉ rõ cho nguyên nhân đền-đáp trọn

về Tứ-Ân.

Nên chi: Bần Đạo thấy khổ, than ôi! Bần-Đạo chẳng đành ngó lơ,

cho các trò yêu dấu, phải chịu tánh mạng vong linh, vì chỗ trƣợc-

nhiễm trần tình, vô-minh chứng-nghiệp, thọ-khổn trầm-kha cố-

bịnh, do danh lợi giựt-giành, mà cam-thọ não-phiền trong cảnh ta

bà, hồn sầu hỏa trạch. Trò ôi ! Các trò có biết lòng ái nhơn-sanh của

Bần-Đạo đây chăng? Hỡi các trò !.

Nguyên-nhân chơn chƣởng ôi ! Nguyên-nhân đã biết chỗ huệ

mạng cù thông, hoàng ân do cơ động-tịnh, mà rƣới nhuận hƣờn

kiếp thoàn-tu, lai sanh chơn tánh; thì ra thân tứ-đại, tuy là giả-hiệp

nhƣng mà: Loại-cập linh-chơn mới có ra; thì nguyên-nhân mau mau

phải cần lo gắng công tịnh-luyện phƣớc huệ, cùng tu nhơn tích-đức,

lụy-thế công-tham, cho lƣỡng toàn kỳ mỹ; học vấn lấy chỗ thâm

uyên Cơ-Tạo-Hóa, mới thấy rõ cuộc tuần-hƣờn của kiếp hoại, mà

dƣỡng tánh tu-tâm, phục-hồi nguyên-thỉ, lại khỏi lầm lạc đƣờng tu,

mới khỏi hủy-hƣ tánh-mạng !.

Nguyên-nhân khá y-hành Cao-Pháp Đạo-căn đi, cho hoàn chỗ chí

thiện linh-chơn, tịnh-luyện bổn căn, chơn-thân phục-pháp, đắc xá-

lợi đơn-quang hầu phi thăng cựu-cảnh, thì đâu còn là khổ nghiệp?

Với khi các trò đại tịnh, cần phân thanh trƣợc, nguyên căn nơi đâu

mà đặng giáng thăng, y theo cơ động tịnh, biến-sanh của Đại-

Thiên-Địa, mới là ngƣời tu, đƣợc chỗ giao-hòa bình-tâm, lƣỡng

huyền tƣơng-hiệp, Càn-Khôn tƣơng-đối, mới có Chơn-Nhƣ thƣợng

đẳng Nê-Hƣờn-Cung, dƣỡng Thần linh-chơn, hầu chờ ngày phá đại

khiếu, xuất linh quang, đều đƣợc nhờ ân Thiên-Sƣ điểm xuyết cho

đó đặng đơn, sẽ qui hƣờn không khí, bái kiến Thiên-Nhan, phục

triều Tử-Mẫu, hội điển Thần-Tiên, mới gọi là: Nhân-tài xuất-thế;

nhảy khỏi ra vòng trần ai ! Vậy mới trọn vẹn-tròn câu “Tứ-ân báo

bổ” !. Mà là nhờ biết có “Động-Tịnh hƣờn-sanh”, mà là hoàn-toàn

chơn đạo vậy. Vì Chơn-cơ của Thiên-Địa tuần hƣờn là “Nhứt-âm

Nhứt-dƣơng chi vi Đạo”.

Thì các Trò khôn ngoan, toàn làm Đạo-Chánh, mới là trả xong

mối nợ Vô Vi chung thành, mới là tròn chỗ: Quân, Sƣ, Phụ-Mẫu,

Thiên-Địa đó !.

Page 5: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

5

Đặng tứ ân duyên nợ đã đền rồi, là về thƣợng phẩm chi nhân, mới

đặng từ-hòa, thƣợng báo Tứ-Trùng-Ân, rồi mới hạ tế tam-đồ-khổ

vậy; đó mới rằng: Vẹn phần nguyên-nhân, anh-hùng xuất thế đó.

Lại còn khi tu-kỷ lập thân, cần thật tỏ-ngộ yếu-lý tham-thoàn Đại-

Tịnh, chỗ Tam-Hoàng xuất-vị, khai-Thiên tịch-Địa, thông thấu

Thiên-Lý lƣu hành, kế vị Cao-Thiên, lập đời lƣu thế, tế cấp dân

gian, minh truyền chơn Đạo, dẫn học tầm tu vậy !.

Mà ba vị Tam-Hoàng ân thâm lịch thế là:

1. Thiên Hoàng khai sáng. 2. Địa-Hoàng lập thành.

3. Nhơn-Vƣơng giáo trị.

Rất lắm sự công-phu trong khi tạo thành thế thái, mới là rõ cuộc

ngoại cảnh với nội dung; ân đức ba Ngài đã cuối cùng về: công

tham thiên-địa, khai thác nhơn-gian, của Ngƣời đầu tiên, Thƣợng-

cổ vậy; và cùng chƣ vị phụ-tá chơn-cơ của cuộc tuần hƣờn thỉ-sáng,

hoàn-toàn, chí mỹ-mãn, lƣu chi hiện tại tận tƣơng lai. Chƣ Môn Đồ

khá đồng kính cung chiêm bái !.

Nơi chỗ Từ-Bi, Bác-Ái, Công-Bình, duyên cớ đó mà: Bần-Đạo

phải nhắc lại cho Linh-Chƣởng nguyên-nhân ghi-gắn vào lòng;

Bần-Đạo còn phải lập lại kỷ-niệm bổn-nguyên của Nguyên-Nhân

đã cho Đạo càng tấn hóa, do câu phổ-tế vạn-sanh mà tài-bồi đức-

hạnh, để cho ngƣời lần bƣớc tới, theo chỗ viễn-lai hy hữu vậy.

Nay đã tả ra trong ba bổn Thiên-Kinh, theo thứ-tự của ngoại-nội-

chơn, đều cách-vật trí-tri, mà y-hành phận-sự, của bản mục-lục

danh đề, cho nguyên-nhân xem thế-hệ, học theo, và bảo tồn Đạo-

Mạch-căn-miêu, về công: khai thác nhơn gian, lƣu tồn Đạo-Mạch-

Thiên-Khai, hầu thi thố lại phân minh; rồi sẽ đƣợc “đắc cảnh

thông”. (1) mà biết chỗ Hoàng-Ân, “Công-Tham-Tế-Độ” vậy.

Nguyên nhân có ba điều trọng hệ là:

a) Nguyên-nhân thông suốt ngoại-thể, mà rõ lấy nội-dung về Nhân-

Hoàng, là “Thánh-Vị”.

b) Nguyên-Nhân minh lý ngoại-thể, mà tỏ ngộ nội dung về Địa-

Hoàng là “Thần Vị”.

c) Nguyên-Nhân đắc thông ngoại-thể, mà hành nội dung về Thiên-

Hoàng là “Tiên-Vị”.

Nguyên-nhân ôi ! ai là hoàn toàn thông suốt, Đạo Lý quán thông,

mạch-nguyên túc lý, lối đại khái minh biện trong nội dung ba quyển

Thiên-Kinh này, thì là về mặt hựu-hộ toàn linh, dẫn đƣờng Chơn-

Lý, Đạo-Mạch hồi-nguyên, chỗ phát bồ-đề tâm chơn-chƣởng, tu

tâm chơn giác ngộ; hầu bỉ ngạn đồng đăng, hƣởng nhờ ân thâm Ba-

La-Bát-Nhã vậy, (Là gặp đặng CHA TRỜI).

Hạnh-thay! Lành-thay! Lạc-thay! Cho nguyên-nhân đều đặng

hạnh-phùng cam võ, tuyết lộ triêm ân của Trời, trong ba quyển

kinh: “Tam-Hoàng Thống-Hệ”, kim triêu huyền-linh tự chuyển;

linh quang xuất chơn lộ cảnh, vậy ru!

Mong-thay! Hạnh-thay! Lạc tại kỳ trung hỷ !.

THI:

Vô hình vô ảnh, xuất chơn thanh,

Cực chí bửu-quang, sáng lập thành,

Hƣ-Giáo Đạo truyền, Thiên Địa luật,

Linh-nhơn đắc ngộ: kiến Hoàng-danh.

oOo

___________________________________

(1) – Xuất hiện điển-lành. Bài tựa này tại “NGŨ-PHỤNG-KỲ-

SƠN”, Tây Ninh, ngày 14-1-42.

Page 6: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

6

2. THÁNH-TỰA PHÂN MINH

Phân minh Tam-Giái, Vô-Cực từ nhiên, Cực-tịnh hóa động, Tịnh-

động biến sanh, Do Không xuất Hữu, Huyền-diệu nan lƣơng, Huy-

hoàng định vị, Thiên Địa Nhơn Linh, Luân hành Nhựt Nguyệt, Ngũ

thể trình tƣờng, Ngƣơn hanh lợi trinh, Tuần-hƣờn chuyển chuyển,

Kỳ trung Chơn-diệu, Dĩ Đạo Chỉ-Nam, Huyền-huyền thiệt tƣớng,

Quang chiếu bao-la, Hồng-Quang lộ ảnh, Bản-lảng Càn-Khôn, Bổn

hồ sơ-thỉ, Chỉ tại diệu-Chơn; Tam-Hoàng Đại-Thể, Nhứt Khí Chơn-

nguyên, Phân Tam-Tài hệ, Thống ngũ sắc-quang, Vô-hình biến

thái, Lập: Cửu-Trùng-Thiên, Do trung tự chuyển, Nhựt giáng,

nguyệt thăng, Hóa Hữu thành Vô, Phát sanh Tú-Khí; Linh-diệu

Hòa-Quang, Ôn, lƣơng, hàn, thử, Bão-hựu vạn loài, Điểm nhuận

chƣ phƣơng, Vạn vật hàm-hanh, Vĩnh thế kiết xƣơng, Trƣờng tồn

đợi-đợi, Cửu-kiến trăng-trăng, Nhứt Đức hóa-hoằng, Lƣơng năng

tri-thức, Tâm thiền Đại-Đức, Bá Tái Thông-minh, Sơn, Hà, Hải,

Để, Đồng ảnh nhƣ nhiên, Cực suy tắc thạnh, Mạt vận hƣờn lai.

CHÁNH-ĐẠO:

Đƣơng-kim: Tam-Dƣơng khái thái,

Tận Độ: Quần-sanh thăng thƣợng,

Tống trƣợc: Khí Hỏa tiêu tan,

Vĩnh tồn: Thiên-nhiên chánh Khí.

Tam-Kỳ Phổ-Độ, Tam-Giáo Đồng-Nguyên, Địa-Mẫu kế chơn,

Giáo dân triết học, Tầm bổn Kinh-Thiên, đồng hành tự chuyển, Đắc

minh thăng Cảnh, Thọ mạng thừa Thiên, Hồi đầu phục nhứt, lai đáo

bổn nguyên, khả thọ chơn-truyền, Tiên-Thiên Đại-Đạo, Chứng vị

Tiên-Bang, Tam-Thanh ứng hóa, Lộ tận không hình, Thiên Địa

thấu nhứt, Vạn vật đồng qui, Nhơn hiệp cửu kiếp, Danh xƣng Tam-

Kỳ, Long-hoa hội-điển, ác-đạo toàn vong, Thiện-nhơn lạc cảnh, ân-

thọ Thiên phong, Định an hoàn-toàn, Long-hoa yến hội, Hỷ khánh

Long-Hoa, Đạo-tràng viên mãn, Chƣ Thiên thăng cảnh, Nghiêu-

nhựt, Thuấn-thiên, Hoàng-đồ củng-cố. Bá-tánh lạc-hoan, Đạo hiện

bửu-châu, Thiên-hoàng diện-lạc, Bửu-điện thông-minh, Linh-căn

triều lễ, Khấu bái Từ-Tôn, Tiếp kiến Thần-Tiên, Đoàn-viên hỷ lạc,

Mạt pháp Long-Hoa, Chung hòa kết cuộc, qui nguyên phục nhứt,

Thiên luật y hành, Tam-Thanh hội giá, Địa-Mẫu tọa vân, Chiếu

diệu huy hoàng, Nhơn sanh cọng hƣởng, đáo đầu hƣờn chung, Tứ

ân chung báo, Chơn hạnh Thiên-đàng, Huệ-quang toàn mãn, Hƣơng

phất xạ phi, Ngũ hồ tịnh lãng, Bá thủy an nhiên, Di-Lặc Thế Tôn,

Thân lâm giá hạnh, Bồ-tát kỉnh phò, Phổ quang não phiền, Tam

Giang tông hóa, Thủy khí hòa bình, Dân an quốc khánh, Thanh,

Bạch, Hắc, Hồng, Huỳnh quang ánh lộ: Đồng hội: Nam Phƣơng đắc

Đạo, Thiên Địa Nhơn Hoàng.

Lạc thiện kỳ trung, Tân dân giả dã.

Tam-Hoàng thành lập, hạnh phúc Ngũ-Châu, đồng y nhứt-luật,

Càn-Khôn tƣơng đối tắc sanh, Sanh hóa miên miên, bất tuyệt, vĩnh-

viễn trƣờng lƣu.

oOo

Page 7: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

7

3. NHƠN-VƢƠNG XUẤT THẾ

Minh triết Thiên-cơ, Nhơn-Hoàng xuất Thế, Lộ tận kỳ hình,

Huyền-Quang khai thát, Nhựt-Nguyệt hiệp trung, Động tịnh chuyển

hóa, Tam bá linh nhựt, Thủ túc hoàn-toàn, Bì, mao, khổng, khiếu,

Hƣợt động tự nhiên, Xuất thai, phá bào, Thọ khí Hậu-Thiên, Nhập

thế cuộc hoàn, Tự thử kiến công, Thành, bại do nhơn, Giai tại công-

đức, Siêu thăng ác đọa, Bổn tánh thiêng-liêng. Chúng sanh khả học,

Nghịch chuyển thành Quang, Thuận hành sanh Vật, Lƣỡng lý phân

minh, Vạn-vật vô tình, Chúng sanh hữu ý, Cơ-ngẫu chuyển thành,

Tam-Tài phát khởi, Do tƣợng hữu vật, Tánh Mạng toàn nhiên.

Đại để Tánh Lý biện phân, Phân định lƣỡng đồ, do nhơn thuận

nghịch tự chuyển.

Thiên-cơ sơ nhiên hiệp nhứt

Cơ-ngẫu tƣơng-giao vi Nhị;

1) Trùng động-tịnh chuyển sanh, Thuận giả: hành kỳ Thiên Lý.

2) Tịnh-cơ bất-mãn hóa, Nghịch giả: phục-hƣờn Hƣ-linh.

Sơ thỉ: Do phát động nhi biến.

Tức thị: Thiên sanh, Địa chuyển thành,

Kế Tịnh: Hồng, Hắc phân minh, Thanh, Bạch hóa tƣợng;

Nãi Thị: Huỳnh-trung thông lý, hoàn-toàn, Ngũ-Hành Tiên-Thiên,

vi lệ.

Bát-Quái tùng phân, vạn vật biến-thiên, giai do nhứt Hạo-Nhiên,

tùy động-tịnh cơ chuyển-biến sanh sản. Tổng-ngôn: giai do Âm-

Dƣơng thành Tƣợng giả dã.

Tƣớng giả, Tƣợng giả: Kiết tụ căn-hành, Hấp thọ lƣỡng ngƣơn,

Phụ-Tinh Mẫu-Huyết, giao cảm dục tình, Chúng-sanh thỉ dắc; toàn

cuộc bãi chiến, Dƣơng thí âm thọ, kiết khối thành hình, cƣ trung

khiếu huyệt, lại linh tịnh động, chuyển biến vô vi, thân hình cụ túc,

vật hóa tƣớng tôn, khai thát thai-bào, tam-bá châu-thiên, túc số khí-

tƣợng, tƣợng-tƣớng hiện nguyên.

Nãi thị: Đắc hoàn-toàn hài-tử giả, dã !.

Thủ, Tánh sanh tiên: Kế, Mạng tiếp tế; Ngoại tịnh nội động, Động

tịnh hƣờn sanh, Thập thành ngũ sanh, Thiên-cơ luân chuyển.

1. Lại an Chơn-Linh bảo Thần.

2. Cảm dục Vô-Vi bảo Khí.

3. Do Âm-Dƣơng lƣỡng hiệp thành Tinh.

Tức thị Tam-tài nội-cơ hoàn toàn túc bị, bảo nhuận nhơn thân.

Ban bố thiên-chơn chi thiên-tánh, nhuận ân điển tại Thai-bào, kỳ

trung hấp thọ; Cƣ trung tam-bá linh nhựt; ngoại dƣ: Toàn thể nhơn

hình, diệt do Thiên-Cơ tịnh động, động tịnh chuyển hóa, thiên-chơn

Võ-Trụ, tổng qui tựu, Nhơn-Đạo di thành, phá xuất Thai-Bào, oa-

địa nhứt thinh, qua lạc đề thiên, khứ lai tự động dã !.

Ô hô ! Ngộ hậu-Thiên tiếp xúc, lục trần xâm lai, Tiên-Thiên Ngũ-

Hành kỳ lý, ngoại dƣơng hấp thụ, Hậu-Thiên bão nhuận, tiếp xúc

lục trần trƣợc hỗn, lục căn thỉ đắc, tùng tạp hóa duyên, duyên do

Hậu-Thiên chủ sử, vạn sự thất kỳ lƣỡng-chơn; lƣơng năng, lƣơng tri

ẩn tàng vu mật thâm; thử thị Càn Khôn thất vị. Ta Hồ! Vô-minh

mãn tệ, bất thức bất tri tâm hồn hà xứ tại tai ! Lƣơng-tri ly vị,

lƣơng-năng tùng tạp tá-linh, nhi sanh vọng-Ý, Phá hoại thiên-chơn,

dĩ khổ vi lạc, trƣờng tồn, chí kỷ khổ nạn, oan báo báo oan, khiên-

xiềng dị đoạn, nan giải xích-phƣợc, báo-cực chƣớng thâm, hƣờn

sanh vô-vọng, dĩ chí cực mê, hồn xuất mạng tiêu, thị phàm thân tử

hỉ, thử thị Khảm-Ly tƣơng đối.

Page 8: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

8

TẠO-ĐOAN:

Hình-nhi cƣ tại Thai-Bào

Lại an Thiên-cơ chuyển hóa

Do cơ Âm-Dƣơng động tịnh

Tịnh động luân chuyển sanh thành

Lại ân lƣỡng-huyền diệu-hiệp bán-Dƣơng, nhi lập thành Tánh-

Mạng; Chánh thị: “Nhơn-thân do Thái-Thƣợng lập thành” hỷ !.

oOo

4. NHƠN-THÂN THẾ-HỆ

Thế-hệ không-viên, vô trung xuất hữu, huyền-diệu tạo thành

nhơn-thế cƣ trung “Thai-Bào bảo-khí” Thọ Tiên-Thiên-Khí, túc

dƣỡng ƣ Thai trung: Hấp thọ Tiên-Thiên Khí-chơn bố hóa, nhi hƣợt

động, tinh thần trí thức, kiến văn kỳ sự, tấn hóa hòa nhiên, giai do

tự động, động sanh … Thử thị xuất thế hoàn toàn nhân-thể giả dã.

Thử thị thời-kỳ, anh nhi xuất thế, oa ca kỷ tiếu.

Ngã, Nhứt-Khí giá lâm;

(Thái-Thƣợng Lão Quân)

Hữu ngũ Thần bảo giá, bát hồn hộ Linh-Chơn, Thập-Đô Từ-

Vƣơng nghinh tiếp; Thiên Phật, Vạn Thánh phò trì; Nhơn-Hoàng

khả kỉnh, Quỉ, Mị, Volng, Lƣợng, tiêu vong;

Tịnh-tâm, Văn ngôn giáo chỉ;

Thai nguyên thủ xuất, lại Âm-Dƣơng diệu-hiệp, ngũ-Khí tạo căn,

duyên quả tạo thành Tánh Mạng lân hòa, thị kiết nhơn-thân, do

Âm-Dƣơng tùy cơ động tịnh, giao cảm kiết-hiệp, hóa thành “Linh-

Nguyên Chơn-Chƣởng-Tử”.

Nhục-thể uyển-thân Phàm-Phu, do bán-Âm, bán-Dƣơng, thành

Mạng, đắc thiên-Tánh phú chi; diệt tại Lƣỡng-Nghi, lập thành nhi

nhơn-thân hƣợt động dã, Tồn thức kỳ thể, Ngũ-Hành Hậu-Thiên tạo

mạng; Thử thị Tánh-Mạng tạo đoan, do Âm-Dƣơng tả Phúc vi

chơn; hữu Vệ vi chánh; Cố Viết: “Chánh-Chơn”, Tinh-huyết giao

hòa, căn-cơ hóa thành vi “Nhơn”; bổn-thiện giả dã! Tức thị “Hình

nhi Hạ-Học” Thai-Bào viên mãn, thể-lệ phân minh !.

THI:

Hỗn-độn Càn-Khôn tổng nhứt bao

Âm-Dƣơng tƣơng cảm kiết Thai-Bào

Tùy cơ Động Tịnh, ngũ ngƣơn chuyển

Hóa vật Tiên-Thiên, xuất thế lao

HỰU:

Hƣ-Cực chí linh, Cực cực cao

Linh-lung biến hóa, lập Nam-Tào

Càn-Khôn chủ trị phân muôn vật

Cơ Tịnh bì mao, xuất thế lao.

HỰU:

Thanh-Chơn điểm nhuận, chuyển luân hành

Dƣơng nhập Âm trung xuất hóa thành

Công diệu tạo hƣờn, tùy Động Tịnh

Lai minh tam giái, Nhứt-Linh sanh.

HỰU:

Ngũ khí, ngũ Ngƣơn hóa Ngũ Hành

Đức cao vô dục, chuyển Hình thanh

Hòa chung Thánh-Đạo do năm thức

Sanh sản ngũ quan Tịnh, Động danh.

Page 9: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

9

HỰU:

Thổ Đức tận thâu, tứ Quí hƣờn

Phủ bì quyện nội, tổng trung chơn

Thần phong bát chuyển, không giao lập

Quân ý nhƣ Thiên, hấp Ngũ-Ngƣơn.

HỰU:

HỎA quang Hồng Nhựt chiếu

ĐỨC phổi ảnh Nam Thiên

CHƠN-nhƣ thành Bổn-Giác

QUÂN chủ tịnh tƣ nhiên.

oOo

5. THỂ-LỆ NHÂN-HÌNH (cƣ trung THẬP-NGOẠT theo cơ động-tịnh)

___________________________________

1. TIÊN “VÔ-CỰC” bán nguyệt DƢƠNG, bán nguyệt ÂM; hiệp

(Thai Nhứt-cá-ngoạt).

2. VÔ-CỰC nhứt-động sanh “HOÀNG-CỰC” DƢƠNG,

VÔ-CỰC nhứt-tịnh sanh “HOÀNG-CỰC” ÂM;

Thì là VÔ-CỰC động-tịnh dƣơng-âm (Thai nhị-ngoạt)

3. HOÀNG-CỰC nhứt-động sanh “THÁI-CỰC” DƢƠNG.

HOÀNG-CỰC nhứt-tịnh sanh “THÁI-CỰC” ÂM;

Thì là HOÀNG-CỰC động-tịnh dƣơng-âm (Thai tam-ngoạt).

4. THÁI-CỰC nhứt-động sanh “LÃO-DƢƠNG”

THÁI-CỰC nhứt-tịnh sanh “LÃO-ÂM”,

Thì THÁI-CỰC động-tịnh, dƣơng-âm là (Thai tứ-ngoạt)

5. LÃO-DƢƠNG nhứt-động sanh “THÁI-DƢƠNG”

LÃO-ÂM nhứt-tịnh sanh “THÁI-ÂM”,

Thì lão-dƣơng lão-âm động-tịnh dƣơng-âm (Thai ngũ ngoạt).

6. LÃO-DƢƠNG nhứt-tịnh sanh “THIẾU-DƢƠNG”

LÃO-ÂM nhứt-động sanh “THIẾU-ÂM”

Thì là LÃO-ÂM, LÃO-DƢƠNG tịnh động “Thiếu-âm dƣơng” là

(Thai lục-ngoạt).

7. THÁI-DƢƠNG nhứt-động sanh “CÀN-quái”

THÁI-ÂM nhứt-tịnh sanh “KHÔN-quái”,

Thì THÁI-DƢƠNG THÁI-ÂM động tịnh sanh CÀN-KHÔN

(Thai thất-ngoạt).

8. THÁI-ÂM nhứt-động sanh “ĐOÀI-quái”

THÁI-DƢƠNG nhứt-tịnh sanh “CẤN-quái”

Thì THÁI-ÂM THÁI-DƢƠNG tịnh động biến ĐOÀI-CÂN (Thai

bát-ngoạt).

9. THIẾU-ÂM nhứt-động sanh “LY-quái”

THIẾU-DƢƠNG nhứt-tịnh sanh “KHẢM-quái”

Thì THIẾU-ÂM THIẾU-DƢƠNG động-tịnh biến LY-KHẢM là

(Thai cửu-ngoạt)

10. THIẾU-ÂM nhứt-tịnh sanh “CHẤN-quái”

THIẾU-DƢƠNG nhứt-động sanh “TỐN-quái”

Thì THIẾU-ÂM THIẾU-DƢƠNG tịnh-động biến CHẤN-TỐN

là (Thai thập-ngoạt).

Đó là về Thai-nhi cƣ trung thai-bào thọ thiên-cơ tịnh động động-

tịnh của ÂM-DƢƠNG DƢƠNG-ÂM tráo-trở mà biến sanh từ chỗ

“VÔ” hóa ra “HỮU-TƢỚNG”, mà có ra QUÁI HÀO đó.

Đây là thai-trung bổn VÔ, nhi TỊNH mà biến hữu tƣớng, biến

tƣớng hóa-hình; kiết thành nhân thân cũng do chỗ PHỤ-ÂN MẪU-

ÁI lƣỡng-tƣơng giao hiệp cảm nhi thoại-thông, tùy cơ động-tịnh

của tạo-hóa mà biến sanh, cũng y nhƣ thiên-cơ chuyển biến sanh-

thành vậy. Đó là chỗ của con ngƣời thọ lƣỡng-dục tƣơng-giao,

Page 10: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

10

tƣơng-cảm kiết-thành LINH-NGUYÊN chƣởng-tử; “VÔ” mà thành

“HỮU” đó; mà có nên vóc hình ngƣời nay bất tử; đó mới có tấm

thân TỨ-ĐẠI vậy.

Duyên cớ cho nên con ngƣời mà có ra hình thể tứ chi bá hài, cũng

do cơ-chuyển ÂM-DƢƠNG động-tịnh mà hiệp thành, hóa nhi khí

tƣợng, đấu tinh-huyết, hiệp TAM-TÀI, nhờ bởi KHÍ, hóa TỨ-

TƢỢNG NGŨ-HÀNH, mới có ra THẤT-TÌNH, BÁT-QUÁI; cho

nên BÁT-QUÁI cƣ trung thai-bào là “THÁI-CỰC-ĐỒ” nhờ bởi cơ

động tịnh biến sanh, mới có HỒN, là “TÁNH” hay “LÝ”, mà đặng

động-tác vậy; và XÁC là “MẠNG”, mà TỊNH.

Khi biến động thiên cơ, đủ đầy thân-thể, rồi mới thừa vâng thiên-

địa chí-linh, hành công Tâm Tánh chí ƣ Mạng vậy, hầu đƣợc tấn

hóa cực điểm, thì đặng hồi-thiên, là đã hóa toàn-duyên đó vậy, lập-

công bồi đức; cũng do chỗ một lạnh một ấm, của nhứt-lý âm-dƣơng

mà tạo-thành nhân-thể, nên mảnh tứ-đại hình hài này. Vậy là hân-

hạnh thay! Chỗ một là “VÔ trung hóa HỮU của phép dƣơng thi âm

thọ mà nên hình”, rất diệu-diệu thâm-thâm; về hóa-tạo thiên-cơ chỗ

bán-âm-dƣơng thành nhân-thân, luân-hành độc-nhứt của huyền linh

Tạo-Hóa, thái-cực đồ bao phủ Thiên-Địa mà có Nhân vào trong,

mới ra Tam-Tài. Vậy mới rõ Đạo sanh Thiên, Địa và Nhân. Cho

nên con ngƣời, mà có ra nguyên-nhân rồi: cần phải kính trọng đại-

đức Tạo-Hóa mà công tham Thiên-Địa.

THI-BÀI:

Thuở hỗn-độn: Âm-Dƣơng giao-cảm,

Hiệp tinh-thần, bửu giám hóa chơn,

Biến-sanh, Sanh-lý thành Nhơn

Nƣơng cơ động-tịnh, thơ đơn nảy mầm .1

Ở trong bào, ba trăm có lẻ,

Đủ hình hài, một-trẻ thanh xuân,

NGŨ-HÀNH NGŨ-KHÍ huân-chƣn

Tánh Mạng tƣơng-hiệp, ung-dung điều hòa .2

Nhờ phụ-tinh, dung-hòa mẫu-huyết,

Lƣỡng khí giao kịch-liệt rồi ngƣng

Ngƣng là: cơ động-tịnh chƣng

ÂM-DƢƠNG động-tịnh, giờ thuần xuất thai! .3

Vừa mở mắt, thâm-ai thống-khốc,

Theo HẬU-THIÊN, bảo-bọc trƣợc-xâm,

Làm cho Ngũ-tạng ngấm-ngầm,

Hóa ra tạo-dục, bị trầm từ đây. .4

Do ham muốn: buộc dây danh lợi

Cùng miếng ăn, thời-đợi não nùng,

Chẳng còn nghĩ đến NHƠN trung,

Bỏ THANH theo TRƢỢC, đều hung tấn-hành. .5

Ôi ! thấy khổ, chẳng đành bỏ lảng,

Nên mở-cơ, dạy hản: TAM-HOÀNG.

Cho trò biết dứt dây OAN,

Lập công bồi đức, chuyển quang thƣợng-phù .6

Trọn mặc tình ngao-du tứ hải,

Bốn phƣơng không, lịch-trải xem đời,

Ấy cơ Tạo-Hóa luân-vơi,

TAM-HOÀNG tiếp kế, Đất Trời Ngƣời chung .7

Ngƣời sống đặng, phải sùng Tạo-Hóa,

Có Đất Trời vạn bá công-phu

Cho nên ngƣời phải tạc-thù,

Đền ơn, đáp-nghĩa; muôn thu ngàn trùng .8

Kìa: NHỰT, NGUYỆT muôn thu thăng giáng,

Ban ôn lƣơng, năm tháng luân-hành,

Ngày giờ: TÝ NGỌ chuyển quanh,

Tiếp-độ vạn-vật, sống, thành đời nên ! .9

Quyển Kinh-vàng, lập nên BÁT-QUÁI,

CÀN-KHÔN đề: vạn-tải CẤN-ĐOÀI,

Page 11: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

11

Phân-minh: TỨ-TƢỢNG chẳng sai,

Sanh trong nội-khiếu, y ngoài ngoại-cơ .10

Tu phải rõ: Thiên-thơ nhứt-bổn,

Cũng do trong hỗn-độn biến ra,

Vì chƣng Ly-Khảm ta bà,

Mới ra khổ chí, Tốn là Chấn hƣng,

Đều nhờ Trời-Đất huân-chƣng.

TỔNG-LUẬN: Con ngƣời nhờ thọ khí âm-dƣơng nên hình xuất

chúng, ra thế chào đời; mà đặng làm ngƣời, tuy nhờ tình cảm-xúc,

tƣơng-ứng, tƣơng-hòa của Phụ-ân Mẫu-ái, phàm-phu giao-hiệp mà

nên nhân-thể bảo tồn, cũng là do cơ Tạo-Hóa mà trọn nên con

ngƣời; bèn thừa trọn vƣng lịnh-mạng Trời mà làm đời tấn hóa, mới

ra con ngƣời đặng đó. Vậy là mới có thảo hiền trả nợ vô-vi đáp ân

đức Trời-Cha, Đất-Mẹ đó.

THI:

Minh tƣờng VÔ tƣợng xuất thanh vi,

Vọng niệm CỰC sanh, kiết thể thì,

Do tại: NGƢƠN lai, tùy động tịnh,

Nhân thân THỈ đắc, hiển duyên kỳ.

oOo

6. NHƠN-ĐỐI HÌNH-THIÊN

Bần-Đạo mừng chƣ sĩ-tử! Đại-tịnh, nghe cho rõ về: Nhơn đối

hình-thiên, là Tiểu Thiên-Địa, đối-chiếu Đại Thiên-Địa vậy.

Từ chỗ vô-hình mà sanh ra hữu tƣớng, toàn-thể nhơn hình, hữu

ngũ-tạng, tam-ngƣơn, nhị-khí, nhứt-chơn, bảo-toàn mạng thể vậy:

kỳ trung hữu tánh hƣợt-động.

Coi theo bản đồ Thiên, Nhơn sau đây thì rõ lý thâm diệu của

thiên-cơ động-tịnh biến sanh, sanh biến, cực để rồi tuần-hƣờn, mới

châu-nhi phục thỉ, mà là cơ đáo-đầu phục-nguyên của mạt-pháp đó

vậy.

NHƠN ĐỐI HÌNH-THIÊN

(Cửu chuyển tịnh-động sanh cơ)

Bản A là Trời:

Hƣ-vô chí-tịnh, Vô-cực-Đồ, số 1.

THI:

(Diêu-Trì Kim-Mẫu, Vô-Cực)

Càn-khôn cơ nhứt-chuyển,

Vô-Cực-đồ nhứt quyện,

Vô-sắc thị Diêu-trì,

Niệm-quang Cổ-mẫu biến.

Bản B về Ngƣời:

Nhơn-thân: Vô-niệm thai-bào-Đồ, Số 1.

Nhơn-sanh: Thai-bào tịnh-cực

THI:

Nhơn-thân cơ nhứt-chuyển,

Vô-niệm nguyên-linh hiện,

Huỳnh-sắc thị thai-bào,

Tiên-sanh Phụ Mẫu biến.

A. Động Vô thành Hữu; Thái-Cực-Đồ, Số 2.

THÁI-THƢỢNG ĐẠO-QUÂN

Page 12: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

12

THI:

Càn-khôn cơ nhị-chuyển,

Thái-cực trung nhứt-khí,

Thái-Thƣợng thị pháp-danh,

Huỳnh-quang thành hữu thỉ.

B. Nhị chuyển tịnh-dục giao-cấu Đồ, Số 2.

LINH-NGUYÊN VI-THỈ

THI:

Nhơn-thân cơ nhị-chuyển,

Dục-phụ sanh nhứt-khí,

Khí-huyết tại chi trung,

Tiên sanh Linh, hữu thỉ.

A. Thái-Cực tịnh biến, Hoàng-cực-Đồ, Số 3.

TỊNH SANH HOÀNG-CỰC

THI:

Càn-khôn cơ tam chuyển,

Cực tịnh âm dƣơng biến,

Vô-tƣớng sắc huyền, hồng,

Phù thanh, ngƣng trƣợc, biến.

B. Tam-Chuyển Thai-Bào Tịnh, Số 3.

THAI-BÀO TỊNH HÓA LINH-THẦN

THI:

Nhơn-thân cơ Tam-chuyển,

Tịnh-cực linh-thần hiện,

Giáng-tắc nê-hƣờn cung;

Thanh-thăng, trƣợc hạ, biến.

A. Hoàng-cực động cơ, Âm-Dƣơng thành Hữu-tƣợng-Đồ, Số 4.

ÂM-DƢƠNG THÀNH HỮU-TƢỢNG.

THI:

Càn-khôn cơ tứ sanh,

Hữu tƣợng lƣỡng-nghi thành,

Vô động: huyền-hồng chuyển,

Giáng thăng xích, hắc, huỳnh.

B. Thai-bào động biến Tam-ngƣơn-Đồ, Số 4.

NGŨ-TÁNH PHÁT SANH.

THI:

Nhơn-thân cơ tứ chuyển,

Chơn động, thân tịnh thành,

Ngƣơn-khí qui trung vị,

Hạ thăng hóa trƣợc thanh.

A. Hoàng-Cực âm dƣơng tịnh-cơ, hóa Ngũ-Hành-Đồ, Số 5.

THIÊN, NHƠN, ĐỊA, NHỰT, NGUYỆT.

THI:

Càn-khôn ngũ chuyển sanh,

Hoàng-cực hóa ngũ-hành,

Xích, hắc, bạch,thanh, sắc

Ngũ-quang bổn vô hình.

B. Ngũ-chuyển Ngũ-ngƣơn-Đồ, Số 5.

NGŨ-NGƢƠN VẬN-ĐỘNG

THI:

Nhơn sanh, ngũ chuyển sanh

Chơn tinh bổn nguyên hành,

Tâm thận phế can biến,

Âm-Dƣơng hóa Bạch-Thanh.

A. TRỜI: Lục-Chuyển: Càn-Khôn,

Thất-Chuyển: Đoài-Cấn,

Page 13: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

13

Bát-Chuyển: Ly-Khảm,

Cửu-Chuyển: Chấn-Tốn.

B. NGƢỜI: Lục-Chuyển: Thủy-Hỏa,

Thất-Chuyển: Kim,

Bát-Chuyển: Hỏa.

Cửu-Chuyển: Mộc-Phong.

Đây là nhơn-thai-bào trung, cửu chuyển, đối thiên cơ Thái-Cực

cửu-chuyển, Từ Vô nhi Hữu tƣợng, chí Bát-Quái, xuất thai, hóa

hình nhơn thể.

Duyên cớ đó, cho nên con ngƣời phải mang nặng nợ vô-vi nhi

báo, thọ tứ ân Thiên Địa và Nhơn thân; vậy phải cần lo tu thân

luyện kỷ mới tròn câu đáp đền vậy.

Nay đáo đầu phục thỉ của cuộc tuần hƣờn, ai nhẹ thì hƣờn, đó

nặng thì vong, là lý phân thanh hóa trƣợc tự nhiên thiên lý.

Mà là lành thì thăng, ác là đọa vậy, là lẽ cố nhiên của “Thiên Lý

tuần hƣờn chí ƣ chí cực” đó.

Đây là lý: chuyển-ngũ qui-tam phục-nhứt đó.

Này các trò ôi ! Đời đã cùng tận, chuyển biến vô đình, ,cứ phận y-

hành, đại-tịnh là minh, vô-tịnh là ám. Hễ ngoại-tịnh thì nội động tác

minh; Ngoại-động nội-tịnh âm sanh, thì ngũ-đức hóa thức, mà sanh

trăm điều tai hại và luân hồi vậy.

Tóm lại: Thiên, Địa, Tạo-Hóa sanh-hƣờn, cũng do cơ tịnh-động,

động-tịnh mà sát, sanh, vậy. Hai lẽ phân minh thì rõ; mà là Bát-

Quái trở lại Càn-Khôn, rồi Càn-Khôn qui-nhứt bổn.

NGÂM

Giã trò còn ở nhơn-gian

Thầy về thƣợng-cảnh, bửu quang ánh-lòa

oOo

7. NGŨ-HÀNH BÁT-QUÁI NGŨ-HÀNH-TIÊN-THIÊN, NGŨ-HÀNH HẬU-THIÊN

Hóa phàm tinh

Trời Đất sơ khai, Ngũ-Hành chuyển-biến, trong thai-bào có chứa

hài-nhi, gọi là: hóa Ngũ-Ngƣơn, sanh Ngũ-Hành và sanh Ngũ-

Tạng; Thái-Cực phân khai, Hồng-Mông xuất thế.

THÁI-CỰC MINH KHAI (về hóa nhuận con ngƣời)

a) Nói về Ngũ-Hành chuyển-biến minh khai, Tiên-Thiên.

1) Thiên-Nhứt sanh Thủy; Ở trên sanh tại Tả-Nhãn của

đồng-nhơn; ở dƣới sanh tại Bàng-quang.

2) Địa-Nhị sanh Hỏa: ở trên sanh tại Hữu-Nhãn-giác; ở dƣới

sanh tại Tâm-Linh.

3) Thiên-Tam sanh Giáp-Mộc; tại Tả-Nhãn hắc châu; ở dƣới

sanh tại Đởm.

4) Địa-Tứ sanh Tân-Kim; tại thƣợng sanh Hữu-Nhãn, bạch-

châu; ở dƣới sanh tại Phế.

5) Thiên-Ngũ sanh Mồ-Thổ; tại thƣợng sanh tại Tả-Nhãn-bì,

ở dƣới sanh tại Vị-Bào.

b) NGŨ-HÀNH HẬU-THIÊN chuyển biến,

Page 14: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

14

1) Địa-Lục thành Quí-Thủy; ở trên sanh Hữu-Nhãn, đồng

nhơn; ở dƣới sanh tại Thận-Đƣờng.

2) Thiên-Thất thành Đinh-Hỏa; ở trên sanh tại Nhãn-giác; ở

dƣới sanh tại Tiểu-Tràng.

3) Địa-Bát thành Ất-Mộc, ở trên sanh Hữu Nhãn hắc châu;

ở dƣới sanh tại lƣỡng Can.

4) Thiên-Cửu thành Canh-Kim; ở trên sanh tại Nhãn, bạch

châu; ở dƣới sanh tại Đại-Tràng.

5) Địa-Thập thành Kỷ-Thổ; ở trên sanh Hữu-Nhãn-bì; ở

dƣới sanh tại Tỳ.

Từ 1 đến 5 tuổi, là Tiên-sanh ngũ-hành Tiên-Thiên đó.

Từ 6 đến 10 tuổi, là Địa-thành hậu-sanh Hậu-Thiên đó.

c) Mà NGŨ-HÀNH Tiên-Thiên là:

1) Nhâm-Thủy, Ngƣơn-Tinh 2) Đinh-Hỏa, Ngƣơn-Tánh,

3) Giáp-Mộc, Ngƣơn-Thần 4) Tân-Kim, Ngƣơn-Tình,

5) Mồ-Thổ, Ngƣơn-Khí.

Đó là về đã thọ Ngũ-Khí hóa Ngũ-Ngƣơn, của Tiên-Thiên hƣ-vô

hay là Ngũ-vận.

d) Biến thành Hậu-Thiên ngũ-hành hậu-sanh; là:

1) Quí-Thủy, Trƣợc-Tinh 2) Bính-Hỏa, Thức-Thần

3) Ất-Mộc, Vu-Hồn 4) Canh-Kim, Quỉ-Phách

5) Kỷ-Thổ, Vọng-Ý.

Vậy là trọn về Hậu-Thiên Ngũ-Hành, đã thành vào trong ngũ-tạng

con ngƣời, mà hóa ra Ngũ-Thức, nhì ngũ-tạng; Ngũ-Ngƣơn và Lục-

Phủ; thông lƣu vận-hành toàn châu thân, mà điểm nhuận Bá-Hài,

bổn-thể cùng: Bì, Mao, Khổng, Khiếu đó.

Mà là: trong tam-bá lục-thập-ngũ cốt-tiết, và có “bát-vạn tứ-thiên

bì mao khổng khiếu”, há chẳng phải tại Hà-Đồ chƣng sanh tánh đó

sao,

Gom lại mà nói: “Sanh Thánh, sanh Phàm, cũng đều do nơi đó

vậy”.

Còn con ngƣời mà có Ngũ-dục, Ngũ-Thức cũng do nơi Lạc-Thơ là

“Hậu-Thiên, làm “phàm-tánh, mà là Phụ-Mẫu Tánh-chi, mà có hại.

Cho nên con ngƣời mà chết và khổ, cũng do tại chỗ Lạc-Thơ, là

“phàm-đạo”, lƣu lãng vọng-tình tạp-niệm mà ra vậy. Than ôi ! sƣ

khổ vì nơi dục mà có ra mảnh thân tứ-đại này, bá-hài vạn-cốt chi-

thể con ngƣời, mà có ra, cũng đều do gốc Tiên-Thiên Hà-Đồ mới

biến thành Hậu-Thiên Lạc-Thơ đó; mà là “Nhứt-bổn tán ƣ vạn-thù”.

Lại nhƣ: Lạc-Thơ trung-ƣơng Thổ khứ giả dã; mà khứ giả, tức là

khắc đó vậy.

Mà là tƣơng-khắc Hậu-Thiên vế sự phàm-tình, tƣơng-giao tƣơng-

cảm, mới có sanh nhơn-loại đó.

Trái lại, luyện-kỷ tu-thân, thì nghịch chuyển động-tịnh Thiên-cơ

hƣờn-sanh, là “Phản hƣờn bổn-tánh Tiên-thiên Ngũ-Hành thỉ-sơ đó.

e) MINH LÝ VỀ NGŨ-HÀNH TƢƠNG KHẮC.

1) Trung-ƣơng Thổ khứ, khắc Bắc-Phƣơng Nhâm-Thủy thì

là : Thận kém suy.

2) Bắc-Phƣơng Thủy khứ, khắc Nam-Phƣơng Đinh-Hỏa thì

là: Tâm hao.

Page 15: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

15

3) Nam-Phƣơng Hỏa khứ, khắc Tây-Phƣơng, Tân-Kim thì

là: Phế hƣ.

4) Tây-Phƣơng Kim khứ, khắc Đông-Phƣơng, Ất-Mộc, thì

là: Gan suy.

5) Đông-Phƣơng Mộc khứ, khắc Trung-Ƣơng Kỷ-Thổ, thì

là: Tỳ phải hao.

oOo

8. BÁT-QUÁI TIÊN-THIÊN Đối-chiếu Tiên-Thiên Chánh-Lý.

Tiên-hậu lƣỡng tập. ______________

THI:

PHỤC-tùng Long-Mã ngẫu-cơ tri,

HY tánh tâm-minh ý-định thì,

THỈ chế tƣợng-hào phân tánh-lý;

SÁNG khai ánh-quái chuẩn-thằng qui.

BÁT phƣơng Ngũ-Hƣớng Âm-Dƣơng đối,

QUÁI-số Tam-Tài hiệp Khảm-Ly.

TIÊN-tịch Hƣ-Vô tịnh-động chuyển,

THIÊN-bao địa-tải Khí nhiên-kỳ.

Ngã lâm-đàn, báo-tin có Đức: HUYỀN-THIÊN-THƢỢNG-ĐẾ

ngự lâm chỉ giáo, ĐẠI-THÁNH phục nghinh hầu.

TIẾP-ĐIỂN:

(PHỤC-HY tái lâm đàn-tiền, tịnh-tâm nghe Bài:

PHỤC-HY chế quái-Tổ).

BÀI:

TIÊN-THIÊN đồ quái trình tƣờng,

Huyền-cơ Đại-Đạo miên-trƣờng giáo-dân.

Tam-Tài: lý-số mới phân,

Hào ly chẳng lọt nhƣ cân song-bằng.

(Tịnh tam nghe Cơ hiển-hích)

Hồng-Mông điềm-ứng lành thay,

Phục-Hy Long-Mã phụ rày Âm-Dƣơng,

Vẽ ra: Bát-Quái khôn nhƣờng,

Phát minh Trời-Đất, định đƣờng cửu-qui.

(Bát-Quái chánh-vị là)

Tam-liên CÀN quái, Dƣơng-Nghi,

Bắc KHÔN, lục-đoạn, gọi thì Lão-Âm.

Trung-hƣ LY-Quái, Đông tầm

KHẢM là trung-mãn, Quái nằm phía Tây

Đông-Nam: ĐOÀI, thƣợng-khuyết đây,

Tây-Bắc phúc bồn, CẤN rày khôn-ngăn.

Quái CHẤN, Đông-Bắc, ngƣỡng-vu,

Tây-Nam hạ-đoạn, TỐN phù nhị-dƣơng.

BÁT-QUÁI đối vị:

1. Càn đối Khôn 2. Đoài đối Cấn.

3. Ly đối Khảm 4. Chấn đối Tốn.

BÁT-QUÁI chánh vị:

Nhƣ: Càn, Nam; Khôn, Bắc;

Ly, Đông; Khảm, Tây.

Đó gọi chung là: TỨ CHÁNH VỊ.

Bốn hƣớng phụ là: Chấn, Đông-Bắc,

Page 16: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

16

Đoài, Đông-Nam,

Tốn, Tây-Nam,

Cấn, Tây-Bắc.

Vậy là : Tứ-Ngẫu chi phụ; vì đó “Học nãi khả tầm mới trí tri

THIÊN-ĐỊA-NHƠN” đặng !.

_________________________________

BÁT-QUÁI TIÊN-THIÊN ÂM-DƢƠNG

ĐỘNG TỊNH (Thay đổi quái-vị bất thƣờng)

_______________________

Nhƣ:

1. CÀN chi Tam-Dƣơng; nhi đối KHÔN, chi Tam-Âm;

Danh viết: “Thiên-Địa Định-Vị”.

2. CHẤN chi Nhứt-Dƣơng hạ, trung-thƣợng, Nhị-Âm; nhi đối

TỐN, chi Nhứt-Âm hạ, trung-thƣợng Nhị-Dƣơng;

Danh viết: “Lôi-Phong tƣơng bát”.

3. KHẢM trung Nhứt-Dƣơng, ngoại Nhị-Âm; nhi đối LY chi nội

Nhứt-Âm, ngoại Nhị-Dƣơng;

Danh viết: “Thủy-Hỏa bất tƣơng xạ”.

4. CẤN chi thƣợng Nhứt-Dƣơng, trung hạ Nhị-Âm; nhi đối ĐOÀI

chi thƣợng Nhứt-Âm, trung hạ Nhị-Dƣơng;

Danh viết: “Sơn-Trạch Thông-Khí”.

Đây là Bát-Quái Tiên-Thiên Âm-Dƣơng chứng-triệu thuộc hào-

quái chi quang-tƣợng, thể hình, mà ra tƣơng-khắc và tƣơng sanh

vậy. Chƣng chỗ hào-quái tƣơng đối, mà hễ tƣơng-đối thiệt là:

“Tiên-Hậu Nhị-Thiên”, phất-tri, sanh thành THÁNH-chi-ĐẠO dã !

Tóm lại mà nói: Khi LÃO, là Phục-Hy thỉ sáng chế quái Tiên-

Thiên ra hậu-Thiên hào quái, cho dân-gian dễ biết, mà học tầm

thiên-lý; lấy những dấu: Chẵn Lẻ trong nơi mình con Long-Mã có

phụ đồ-thơ, tại sông Mạnh-Tân; có đủ Âm-Dƣơng Nhị-Khí, mà

định ra hào-quái, do chỗ động-tịnh, Chẵn Lẻ của TỨ-TƢỢNG, mới

phân biệt lẽ phù-trầm hƣ-thiệt, mà chƣng khí-tƣợng chẳng đổi. –

Bắt đầu từ Hồng-Mông Phân-Phán chí hậu, mà Tiên-Thiên biến

thành Hậu-Thiên quái-hào “Khảm-Ly” ! Vì đã hết khí Càn-Khôn

rồi; mà là vua Văn Vƣơng (Châu-Trào) họa-quái-Tổ sấp soạn, sẽ

chỉ ra trƣơng sau vậy.

Ấy là: minh tri dịch-số; thì là về: “Càn-Khôn Thất-Chánh” mới

giao qua “Khảm-Ly” là Thuận-Sanh Nhơn-Vật, đó là về chố Dịch-

Quái Hệ-Từ !.

Khá tịnh-tâm, tịnh-đàn, có Thánh-Đế giá lâm; mau thành tâm

nghinh-tiếp; Lão ban ơn lành, Lão thăng.

oOo

9. PHÂN MINH HẬU-THIÊN CƠ LÝ

HẬU đức kế tiên lý số hòa,

THIÊN thi Địa thọ lập thành gia,

BÁT hồn ngũ đức trung tƣơng biến,

QUÁI-Dịch Càn giao Ly-Khảm gia.

DO thử tuần-hƣờn cơ-ngẫu chuyển,

TRƢỢC trầm vật để lý vô hòa,

NHIỄM thâm lụy thế thanh vi trƣợc,

CHƠN hóa giả thành biến thổ sa.

Page 17: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

17

Hựu:

VĂN nhơn hữu đạo lập căn-ky,

VƢƠNG đạo Hậu-Thiên trở phục thì;

CHÂU chuyển Khảm-Ly hƣờn lý-số;

CHỦ-Ông Tạo-Hóa định huyền-ky,

Hiệp tùng Thiên-Địa hƣờn sanh vật,

Phân thƣợng Dƣơng Âm thuận xuất nhi,

Hậu-Thánh quái-qui phân ác thiện,

Thiên-chơn ái chủng lộ cơ vi.

Bần-Vƣơng mừng chƣ sĩ tử: Rất may thay, đời thiện đức mới đƣợc

gặp gỡ, tao phùng Thiên-Hoàng Địa-Chúa, và hòa-hiệp Nhơn-

Vƣơng của linh-thần Tam-bửu lƣu-lai tồn tại, trọn đủ thứ lớp “Bát-

Quái Tiên Hậu nhị Thiên” mà làm chỗ chuẩn-thằng, định đƣờng

qui-củ, và còn phân biệt lý số Tam-Tài, định vị, đối chiếu chuyển

hƣờn của kiếp trần gian vạn vật và nhơn-luân, đang hồi điên đảo

của cảnh mộng trần, mà mang câu thất-chánh, và bị cơ hậu-thiên

chuyển-biến hết dƣơng tới âm, hết âm tới dƣơng, âm dƣơng tịnh

động của luật tuần hƣờn võ trụ, mà ngƣời trong thai bào xuất thế

nhập cuộc cũng phải tuân theo y vậy; cho nên các sĩ-tử đây là loài

ngƣời, biết tuân theo lý số của dịch-quái biến tƣợng hoán hào rồi,

thì lo tu-kỷ trị-tâm làm y theo, thì đặng Thánh-vị trƣờng tồn chẳng

sai; còn bất tuân sẽ bi lôi cuốn theo ngũ-dục hậu-thiên chủ sử, mà ra

táng-mạng vong-hồn, đó vậy; vì là lục âm toàn-ác vô-đức chi-nhơn,

cho nên thấy Thiên-cơ biến đổi Tạo-đoan, mà không lo tu luyện,

phục nhứt hồi nguyên, y thiệt số Tiên-Thiên cơ ngẫu, để cho Hậu-

Thiên âm-khí thuần toàn, sẽ phải bị cực-nguyên táng-mạng vậy; rồi

cùng kiếp sanh ra, muôn đời ngàn kiếp, mà chẳng báo đáp tứ-ân,

mà ra tấm thân vô vị. Than ôi! Muôn đời khó gặp. Gom lại mà nói

rõ là: Sự lý sanh nhơn …

Con ngƣời từ thƣợng-cổ chí trung, nhờ thọ thanh-khí thuần dƣơng

hấp thụ tánh-lành mà trƣờng-cửu; nhƣng cũng còn thi-ân bồi-đức,

hóa dân, rất nhiều công-phu thí đức cho vạn-vật tối-linh và loài

ngƣời đặng duyên hạnh-hƣởng; rồi lo học hỏi thoàn-tu luyện-kỷ,

cao-siêu, hầu làm nên Tiên-Thánh-Phật, phục hồi y-nhƣ Thƣợng-

Cổ thỉ-sơ, Nhứt-Khí Chơn-Nguyên, mới là bực Thánh-Vị đó.

Than ôi! Trái lại cho loài ngƣời, mãn mê tranh giành danh lợi, ma

bỏ hẳn bổn-tánh chơn-nguyên; hạ ngƣơn hấp thọ giả dung, trƣợc

khí bẩn nhơ, làm cho tứ thể bá-hài suy-đổi, là bị Hậu-Thiên tạp-

hỏa, vọng-tình xâm nhập, đều là toàn âm, thì chẳng khá chết vậy

ru? Chơn-linh đã mất, chết ấy nhƣ sóng dậy ba-đào, đƣa nhồi lƣợn-

sóng vùi-lấp, tấp qua khỏa lại; cho nên mới nói là: lƣu-lãng vào

sanh tử vậy!

Mà: lƣu lãng sanh tử, do tại nghiệp vô-minh, vô âm-chất, mà phải

bất thông-tri kỳ bổn căn-nguyên, chơn-lý số của thế-hệ dịch-từ, bao

hàm vạn-tƣợng, trong chỗ bát tự giác-nguyên, tổng tại nguyên lý

mà ra đến đỗi luân-hồi chuyển kiếp.

Tổng-thống kỳ Bát-tự chơn-nguyên là:

1) Thiên-Thƣợng vạn vật, bất quá là, Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần,

Phong, Vân, Lôi, Võ.

2) Địa hạ vạn-vật, bất quá là: Sơn, Xuyên, Thảo, Mộc, Kim, Thạch,

Hƣờn, Châu.

3) Thế-Thƣợng vạn vật, bất quá là: Danh, Lợi, Ân, Ái, Tửu, Sắc,

Tài, Khí.

4) Nhơn-Thân vạn vật, bất quá là: Hào, Mao, Khổng, Khiếu, Tinh,

Huyết, Nhục, Bì.

Page 18: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

18

Mà các trò không lo tu-kỷ luyện-thân, cho hình-thần cụ-diệu, rồi

phải đành ra cỏ cây, Ôi! Chớ gẫm lại đâu ra vật gì.

Nên nay Lão khuyến tâm chƣ-sĩ, cùng tín-nữ thiện-nam: mau mau

giác-ngộ tu-hành, cho hạp thời-kỳ thiên-chuyển, phục-phản mới

hồi-nguyên, làm cho nên phẩm-vị tiên-chơn, là trúng y-theo lý đạo

đó vậy.

Hãy nghe lời Lão chỉ số về Thiên-Địa thỉ sơ:

THIÊN-ĐỊA THỈ SƠ:

a) Hồi ban đầu, thỉ-sơ, chỉ có Nhứt-Khí Hƣ-Vô. Rồi Nhứt

biến ra Nhị, Nhị sanh ra Tứ. Tứ rồi qui Ngũ; lần lần tới

Bát-Quái biến tiên-thiên. Mà Ngũ-hành Tiên-Thiên là:

Hỏa, Thủy, Mộc, Kim, Thổ, mà là về: Hà-Đồ.

b) Mà cũng là thuộc thiên-can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mồ

thuộc về “Ngũ-Vận”.

c) Đoạn Tiên-Thiên Hà-Đồ, biến làm Hậu-Thiên bát quái

là: Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. Mà Bát-Quái Tiên Thiên

là : Càn-Khôn, Khảm-Ly (Tứ-Chánh) Chấn-Đoài Cấn

Tốn (Tứ-Ngẫu).

d) Rồi Bát-Quái Tiên-Thiên lại còn biến ra “Lạc-Thơ”. Mà

Lạc-Thơ là:

1. Khảm, Ly, Chấn, Đoài (Tứ-Chánh)

2. Khôn, Càn, Tốn, Cấn (Tứ-Ngẫu).

Mà là về Tứ-Dƣơng và Tứ-Âm đó.

Này chƣ sĩ ôi! Các-trò muốn phục-hƣờn về cảnh tiên-thiên hầu

chứng quả bồ-đề tâm, y nhƣ thỉ-sơ chơn-chƣởng, nhập-cảnh Hƣ-vô-

Thiên, siêu-thoát bến luân-hồi, trầm-luân trong cõi uế trƣợc nhơ, thì

các trẻ mau mau hoán-diện hồi-đầu, vạn-tất vi-thiện, cùng hồi-

quang nội-chiếu, sẽ diệt đắc trần-tâm chẳng sai; là sẽ đặng vạn-

duyên đốn-tuyệt; nhờ có thanh-khí hƣờn-nguyên, mà NGŨ-HÀNH

đã đƣợc qui Nhứt vậy! Và cứ định đi: dùng chỗ:

1) Khảm hồi Ly, cho Ly hồi Khảm, đặng cho Ly biến thành Càn,

Chơn-Dƣơng, Tinh-Thần hòa hiệp-nhứt; đủ đầy y nhƣ hồi thỉ-sơ

chỗ sơ-tạo bổn-tánh thiện-chơn cơ chánh-khí rồi; theo buổi đầu là

Tiên-Chơn.

2) Lại cho Ly hồi Khảm, hầu Khảm biến thành Khôn, mà là Chơn

Âm. Thì là dĩ Dƣơng diệt Âm; dĩ Âm bổ-Dƣơng, mới có miêu-căn,

chơn-chƣởng LINH-TỬ phát hiện vậy.

3) Có đặng Âm-Dƣơng hòa hiệp ở trong đạo-tâm rồi, mới là nên

đại-đạo tiên-thiên phục-hƣờn đó, sẽ xuất-nhập linh-quang mà

thăng-phù Hƣ-cảnh giái đó! Ấy là đã đặng Càn-Khôn tƣơng-đối chỗ

khắc sanh vậy! Này các trò ôi! Chẳng có lầm đâu: Tiên-Thiên là

bổn-khí chơn-nhƣ của trời, trƣờng tồn vĩnh viễn. Còn các con

không tu-luyện phục-vô hƣờn-hữu thi bị Khảm-Ly tƣơng đối sẽ

diệt-vong vậy!

d) HÀ-ĐỒ TƢƠNG SANH

1) Trung-ƣơng “THỔ” khứ Đông-Phƣơng, sanh Giáp-Ất Mộc.

2) Đông-Phƣơng “MỘC” khứ Nam-Phƣơng, sanh Bính-Đinh

Hỏa.

3) Nam-Phƣơng “HỎA” khứ Tây-Phƣơng, sanh Canh-Tân

Kim.

4) Tây-Phƣơng “KIM” khứ Bắc-Phƣơng, sanh Nhâm-Quí

Thủy.

5) Bắc-Phƣơng “THỦY” khứ TRUNG-ƢƠNG, sanh Mồ-Kỷ

Thổ.

Page 19: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

19

Rồi cứ luân hành trở lại Trung-Ƣơng Mồ-Kỷ Thổ, Thổ khứ Đông-

Phƣơng sanh Giáp-Ất Mộc … Cứ vậy luân-phiên xây vòng tròn

hoài, thì sanh Chơn-Khí đó, của NGŨ-HÀNH tƣơng sanh. Có phụ

theo bản Hà-Đồ tƣơng-sanh dƣới đây:

e) NGŨ-HÀNH TIÊN-THIÊN HÀ-ĐỒ, tƣơng sanh, biết BÁT-

QUÁI-ĐỒ.

1) Vòng ngoài là HÀ ĐỒ.

2) Vòng trong là BÁT-QUÁI tiên-thiên.

oOo

10. THAI-NHI NHẬP THẾ

Thai-Nhi hốt nhiên bị Ngũ-Hành ngoại-khí Hậu-Thiên-Hỏa kích-

thích, oa-địa nhứt-thinh, thử thị nãi thọ hậu-thiên xâm-nhập, là:

KHẢM-LY điều-đình, tánh-tƣớng mạng-hình, vô-tri vô-giác, lại

Lƣơng-Tri cập Lƣơng-Năng, lƣỡng-tƣơng tự hƣợt-động giả đó; tấn-

hóa tấn-kỳ cực-xứ, lý sở đƣơng nhiên; thử thời: Tạp-hỏa (THỨC-

QUAN) chủ-sử, CHƠN-HỎA ngƣơn-thần (TÁNH-QUAN) thối cƣ

xuất ly ƣ ngoại, là: THẦN-vị-Thanh; cho nên vạn khổ phát sanh.

Phân minh lục-độ âm-dƣơng ngoại-thể tuần-hƣờn, chuyển luân

cực-để. Cực tắc phản-hƣờn-nguyên chí kỳ khổ, bịnh dã, giai do ƣu-

lự tứ-tƣờng, nhi thất kỳ nhơn-thân hỷ!

Ôi, đáo lão bất tri nguyên-bản; do tại CÀN dĩ hóa LY; và KHÔN

biến thành KHẢM đó.

LY giả: NHƠN-TÂM mê-trần luyến-sắc nịch-tình, dĩ đoạn

THIÊN-TÁN phú-chi, tức thị: ĐẠO-TÂM kỳ vong, trực chí táng-

mạng tiêu-hồn; tử-hỷ! bất-tri kỳ xứ, giả tai !

Giải do nịch-ái ƣ thành-sầu hỏa-trạch. Ô-hô ! Táng hỷ kỳ thiên-

chơn hồ!

Nguyên do: LÃO, BỊNH, TỬ, tại do ƣ-tâm, lự-tƣ bất mãn-nguyện,

sở năng phàm-tánh, Sở vô chủ-hữu, hƣờn-sanh tại thế, khiên xiềng

đa khổ. KHỔ giả, Khổ dã! Tự phƣợc khiên-xiềng, chí-tử; bất năng

đoạn-trần giải-thoát oan-khiên chi nghiệp khổ!

Giải-tỏa! Giải-tỏa dã! Chỉ hữu tu-thân.

Chỉ hữu tu-thân, luyện-khí, thọ Âm-Dƣơng hòa-hiệp, kiết-thành

ĐẠO-TÂM; hữu-đắc đạo-tâm, bảo-tồn sanh-khí, khí-lực lực sanh,

sanh-lực bảo-tồn bổn-thể CHƠN-NGƢƠN; hữu sở CHƠN-

NGƢƠN sơ-tánh, hƣờn-hƣ đắc-cảnh, hoàn-toàn viên-mãn, y nhƣ

thai-trung THÁI-CỰC giả dã! Tức thị: “Thọ bán-âm bán-dƣơng lập

thành TÁNH-MẠNG”! Tánh-mạng giả hƣờn nguyên, giai do

THÁI-SẮC hiệp-hòa, nhi thành NHƠN-HOÀNG!

Tức thị: “LINH-NGƢƠN vi THỈ” cƣ-trung THAI-BÀO lúc số

Tam-bá-linh nhựt, hiện kim xuất-thai nhập thế đó. Có ra NHƠN-

HÌNH rồi, nhờ đó mà hƣợt-động cho thế-thái nhơn-tình tấn-hóa,

nhờ ân diệu-hiệp mà nên. Hãy Tịnh-Tâm định tánh mà nghe thi này

thì rõ, nhờ nơi đâu có ngƣời-mình vào đời, lập-công đức, vậy: Khả-

thức! Khả-tri! Khả-tuân!.

THI:

THÁI-Sắc âm-dƣơng tạo-hóa hình,

THƢỢNG nhân thông-lý học tâm kinh,

ĐẠO do nhứt-khí phân song lập,

Page 20: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

20

TỔ triết nhị-nghi chƣởng tánh-linh.

MINH tận dung-hòa: ĐEN, ĐỎ hiệp,

TƢỜNG tri giao-xứ: TRẮNG XANH tình,

SANH do phù-tánh vô trọng-trƣợc,

LÃO, TỬ trầm-trung, nghiệp mãn dinh.

HỰU:

HỎA cầu điểm nhuận vạn-linh sanh,

PHỦ chánh nhơn-căn hấp thụ thành,

THẦN chuyển tuần-hƣờn nhơn đắc-ngộ,

QUAN tâm chủ-định TỊNH ngƣơn hanh.

HỰU:

THỦY sanh động-tịnh xuất hài nhi,

KHÍ hóa NGŨ-NGƢƠN bảo-thế thì,

CHƠN-NHỨT bổn-căn huyền bảo-thủ,

QUÂN-ân giáo-hóa nhập huyền hy.

HỰU:

NGƢƠN lai phân-xuất, biệt HUYỀN, HỒNG,

THỈ dụng, ÂM-DƢƠNG bán nhập trung,

THIÊN thí, ĐỊA bao: nhơn hữu thể:

TÔN chơn vi THÁNH, GIẢ vi PHONG.

BÀI:

LỤC-DƢƠNG quái, chỉ đƣờng, sanh hóa,

LUC-ÂM hòa, tánh tháo hỏa-hầu,

Tầm cho rõ chốn THAI-BÀO

Con-ngƣời nhờ đó, DƢƠNG giao ÂM thành. .1

DƢƠNG, là gốc; từ thanh chí tráng,

Tráng qua rồi, tiêu-táng THẦN-NGƢƠN,

Cho nên: khuyên giữ TÁNH-CHƠN,

Cũng nhƣ: TRĂNG-TỎ do nhơn DƢƠNG toàn. .2

ÂM LỤC-ĐỘ, hoa tàn do nhụy,

Mùi hƣơng tàn, hẳn bị hồi hƣơng,

Dạy cho thế biết tận-tƣờng,

Phải lo bảo-thủ CHƠN-DƢƠNG đủ đầy. .3

DƢƠNG để mất, ƣơn thây lạnh-ngắt,

Uổng kiếp ngƣời, mày-mặt xanh-teo,

LÃO, BỊNH, TỬ, KHỔ đeo theo,

Biết rồi mới rõ; phải gieo kiếp lành. .4

TÂM hỏa ngƣời, do tánh thành ….

Tóm lại mà nói: Con-ngƣời từ thọ-ơn một tuổi, đến 6 tuổi, thanh-

xuân tới 23 tuổi, lần đến tráng niên, 48 tuổi, tới già 61 tuổi; Ô-hô !

LÃO hỷ, thị thỉ chi khiên ! Thì có 12 độ về LỤC-ÂM quái và LỤC-

DƢƠNG quái xây vòng phân làm 2 thời kỳ tấn-hóa; rồi do chỗ hết

tấn-hóa, đến Lão, Bịnh, Tử, rồi Khổ đoạn đeo-mang. Ai đeo ác thì

đọa, đặng lành thì thăng, là lẽ tự-nhiên nhƣ-nhiên, của thiên-lý lƣu-

hành vậy.

BÀI trƣờng-thiên:

ĐẤT lấy TỊNH-ÂM làm đầu,

TRỜI dùng DƢƠNG động, giao cầu hòa chung.

Sanh nhơn, sanh vật chí cùng,

Cũng do động tịnh, ÂM trung DƢƠNG thành.

ĐỘNG bất mãn TỊNH thanh ÂM xuất,

ÂM xuất ra, bởi bứt động-hành,

ÂM-DƢƠNG động-tịnh bao quanh,

Tuần-hƣờn thiên-địa, phân-rành ÂM-DƢƠNG.

ÂM-LỤC-QUÁI, phân tƣờng LỤC-ĐỘ,

QUÁI LỤC-DƢƠNG, sáu chỗ chỉ rành,

Đặng cho: biết TRƢỢC rõ THANH,

Tời kỳ tấn-hóa ngọn-ngành ngƣời tri.

Page 21: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

21

DƢƠNG-LỤC-độ, thời kỳ một-tuổi,

Đến nên năm, cặm-cụi vui-mầng,

PHỤC-QUÁI: thì tại KHÔN chƣng,

Tánh còn hài-tử, huân-chƣng nhờ TRỜI.

Lên Tám-tuổi, thảnh thơi, LÂM-quái,

Nhảy múa chơi cƣời với hát đùa,

Đâu nào: có biết cay-chua,

Sớm, chiều mặc-thích, trửng đùa vô-tâm.

Vừa mƣời tuổi lạc lầm ý biết,

Là quẻ THÁI tập viết tập văn,

Từng mang tiếng nói gọi THẰNG,

Cũng đều vui dạ băn khoăn theo bầy.

Mƣời ba tuổi vừa xây quẻ TRÁNG,

TRÁNG quá khuyết, ra dáng trai hiền,

Đủ đầy có tánh Linh-Thiêng,

Đến khi mƣời sáu hữu duyên tinh-thần.

Biết tu thì bảo lấy thân,

Không tu ắt phải THỨC-THẦN làm tiêu.

Bởi ham danh lợi sớm chiều,

Cho nên đến đỗi tán-tiêu Phách-Hồn.

ÂM SANH LỤC-ĐỘ.

Con ngƣời 16 tuổi tới 24, 28, tới 62 tuổi, là ngày Bịnh-Tử-Lão

Vong. Ô-Hô! Lão hỷ, thị chi khiên.

TIẾP BÀI:

Con-ngƣời bởi bôn-chôn tánh-háo,

Cho nên đành nan bảo chơn-Linh,

Trăm đều: cũng tại dục-Tình,

Nào ai có biết Chơn-Linh tánh trời!

Nên đành để âm vôi tánh-khuyết,

Phải chịu mòn, ruồng-tiết, tuông xƣơng,

Kinh vàng: phân rõ hai đƣờng,

Âm-Dƣơng lƣỡng đoạn, cân-lƣờng mà phăng.

Âm Lục-độ, là lằn Âm khuyết.

Thuận hành theo thời-tiết mà nguy,

Tánh-lành: còn biết kể chi,

Trọn đời hết kiếp, phải ly đạo mầu.

Tới hăm ba, CẤU lâu hóa ĐỘN,

Là nhứt Âm lăn lộn Dƣơng trung,

Ích chi: mà phải vẫy vùng,

Nhị-Âm bƣớc tới, BỈ cung quẻ hèn.

Sao còn hỡi, lấn chen, chen lấn,

Bốn mƣơi rồi, tuổi tấn quẻ QUAN,

Toàn-Âm linh ám mê-mang,

Con ngƣời say tỉnh, lỡ làng khôn đƣơng.

Cũng vì bởi, chơn Dƣơng còn ít,

Do quẻ QUAN, lại xích tứ Âm,

Âm này là bát lạc-lầm,

Năm-bốn tuổi đến, đa thâm bụi-trần.

Ngũ Âm chịu, dần dần gân mỏi,

Đầu tóc râu, ra thói bạc râm,

Vi chƣng chỗ cấm sai lầm,

Mà ra đến đỗi, toàn-Âm cạn rồi.

Sáu-hai tuổi thôi rồi hết cố,

Câu lục-Âm, tới chỗ thân tàn,

Xem đời rồi chạnh lòng than:

Than thân trách phận, đời tàn không hay!

Làm sao đặng sống tày Bành Tổ,

Phải có tu, có chỗ sống đời,

Có đâu phải chịu luân-vơi,

Nhƣ hình trăng khuyết, giữa trời bị mây.

Vừa cám cảnh mẹ Thầy khuyên dạy,

Thì thân tàn thừa thải còn đâu,

Page 22: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

22

Gẫm thân nhƣ quạ đội cầu,

Mòn đầu mỏi gối, uổng câu sanh-thành.

Cuộc đời nhƣ: điển bao quanh,

Xây vòng đến mức, xanh-xanh cũng Trời !.

___________________________

TỔNG-LUẬN (TẠI SAO TIÊN-THIÊN BIẾN LÀM HẬU-THIÊN?)

___________________________

Tại sao Tiên-Thiên biến làm Hậu-Thiên?

Do từ Tiên-Thiên Vô-Cực, khiếu phá, oa-địa nhứt-thinh, mà

Ngƣơn-Thần, Ngƣơn-Khí, Ngƣơn-Tinh xuất vị, hằng tùng theo Vô-

Cực mà ra, bèn mới chia làm ba-ngã (1)

Rồi đã phân ra làm ba rồi, bị thọ lấy duyên-vọng của trần tình Mễ-

Cốc, bèn sanh ra ham muốn, là Vọng; lại bị chỗ thời-kỳ biến động,

Trai thì 16 tuổi, Gái lại 13 tuổi, đƣờng thiên-nhâm động, kinh địa-

quí khai, hàm-linh xuẩn-động, muốn-giao, giao bèn làm chƣởng-

linh Linh-căn tƣợng hết mãnh-lực Tiên-Thiên, thì trƣợc-trần hãm-

nhập, hòa lẫn trần-tình, biến bì, mao, cốt, khiếu nên hình. Từ có

mảnh-hình nhập-Thế, sanh biết bao là tham-vọng, nên lần-lần phải

bị tán-thân, khí-tiêu mà ra già, bịnh và chết, đó là Tiên-Thiên biến

làm Hậu-Thiên quái hào đó! Cho nên mới nói: “Càn lạc nhứt dƣơng

biến làm Khôn Âm” vậy. Chia ra ba ngã tức là:

Tam gia: 1) là: Mộc-Hỏa nhứt-gia;

2) là: Kim-Thủy nhứt-gia;

3) là: Trung-Ƣơng Mồ-Thổ nhứt-gia;

Vì – Bởi: a) Càn thất Trung-Dƣơng, dĩ lạc ƣ Khôn; Khôn mới biến

thành Khảm.

b) Khôn thất Trung-Âm, dĩ đầu tại ƣ Càn, Càn mới biến

thành Ly vậy: ấy đó thiệt là Tiên-Thiên Càn-Khôn thất-vị, nhi biến

thành Hậu-Thiên Khảm-Ly; Nên gọi là: Thủy-Hỏa vị tế đó: cho nên

con ngƣời bị theo đó, mà dụng-sự: bởi Hậu-Thiên trƣợc trần, làm

chủ sự, nên đành thuận hành theo về phàm-đạo; do đó mà ta chẳng

biết quê quán, là đâu: mà đặng nơi đây?

Vậy nhà đạo gọi là: nhơn bất-tri kỳ hƣơng giả vậy ! Ai có thiện-

căn chơn-chƣởng dùng Hậu-Thiên đó, mà phản hƣờn Tiên-Thiên,

thì đặng qui-căn phục mạng !.

Qui-căn phục-mạng, là: Ngƣời có âm-chất đầy đủ, thiện-duyên

tiên-chƣởng, Thánh-trí, hằng-tâm kỉnh-thành Thiên-luật; Thánh,

nhơn thƣờng vẹn-vẻ, thọ-mạng Thiên-Sứ học và tập chỗ thuần lý-

Trí của bổn-nguyên chơn-nhứt, phản hƣờn bổn-nguyên chi chơn-

đạo!

(1) Tức là: chỗ phản-tánh phục-sơ, mà làm kỳ nghịch-thi.

(2) Dùng chỗ Hậu-Thiên Lạc-Thơ, mà vận hành hô-hấp nhi

phản-hƣờn Tiên-Thiên, ắt là: chứng nên đạo-cả chẳng sai !.

__________________

(1) – Phản-hƣờn bổn-nguyên chơn-đạo, là: phản Quí thành Nhâm y

nhƣ Thiên-nhứt sanh Thủy, là chơn-đạo vậy.

(2) – Còn phản-tánh phục-sơ nghịch-thí là : vận nghịch hành theo

Đốc-mạch, hậu-bối, hƣờn-lai tánh-bổn-Thiện, y-nhƣ Hà-Đồ, là khi

ta mới sanh ra Tam Dƣơng khai-thái, mà là: Càn Chơn Dƣơng vậy!

oOo

11. TỔNG-LUẬN: BỔN-NGUYÊN CON-

NGƢỜI

Page 23: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

23

MINH GIẢI: Từ con-ngƣời sơ sanh ở trong Thai-Bào, gọi là:

THIÊN, ĐỊA, NHƠN

______________________________

a) Bổn-nguyên con-ngƣời từ đâu mà ra?

1) Chơn-nhơn Tiên-sanh, bởi tại nơi Thái-Thƣợng vận-

chuyển Ngũ-Hành mà có ra.

2) Còn phàm-nhơn Hậu-sanh, do chỗ thần-ý Phụ-Mẫu giao

cấu, động tịnh mà sanh ra ! Mà Chơn-nhơn bực đã qua rồi. Vậy

chúng-sanh nghe Ta phân về hiện-tại phàm-nhơn.

b) Bởi tại đâu mà sanh ra?

Đốivới cơ bổn-nguyên sanh-hóa Thiên, Địa, thì là “HƢ-VÔ-CHI-

KHÍ”, trƣớc khi Cha-Mẹ vẫn còn chƣa động tình-dục đó.

c) Tại sao lại hóa sanh ra?

Bởi tại mẫu-mạng vọng, tịnh-niệm, mới sanh ra thai-bào (1); Mà

thai-bào tƣợng, nhƣ: một-vòng “VÔ-CỰC” trống không (Huỳnh-

sắc), Bởi phụ-tánh khởi sanh động-ý, Chơn-Khí bèn hóa âm-khí,

hữu nội-sắc tịnh-niệm, đồng-ý giao-hiệp cùng nhau, mới hóa thành

“THÁI-CỰC-NHỨT-KHÍ”, tinh khí huân-chƣn; huyết danh, nó là:

“LINH-QUANG-CHƠN-TÁNH”; bởi tinh-huyết hiệp chuyển, mà

biến ra thành Mạng.

1) Nhờ Nhứt-khí linh quang cực tịnh mới sanh ra Nhị-khí.

Khi chơn-TINH ngộ tịnh, THƢỢNG-NGUYÊN biến thành

NGƢƠN-TINH.

2) Chơn-HUYẾT ngộ tịnh, giáng-bổn mà hóa ra NGƢƠN-

THẦN; gia cƣ CHƠN-TINH là NÊ-HƢỜN-CUNG; còn CHƠN-

THẦN là GIÁNG-TẮC-CUNG.

3) Chơn-KHÍ biến thành NGƢƠN-KHÍ nơi HUỲNH-

ĐÌNH-CUNG cƣ ngụ. Theo tƣợng đồ nó là Lƣỡng-Nghi.

Còn huyền-sắc, hồng-sắc, và huỳnh-sắc tƣợng nó là Thiên viên.

Địa-phƣơng (1); dƣờng nhƣ noãn-bào, hay là noãn-châu, của noãn-

sanh.

Mà Tam-Chơn đã sanh ra bởi “CỰC-TỊNH BẤT-MÃN” mà sanh

ra hữu-động, do bởi động-cực mà làm cho Tam-Chơn biến thành ra

TAM-NGƢƠN (2).

Huỳnh-khí chơn-nguyên động, Chơn-tinh thất vị, Chơn-Thần hƣ-

nguyên thƣợng thăng cho nên:

CHƠN-TINH biến thành NGƢƠN-TINH;

Còn CHƠN-THẦN biến thành NGƢƠN-THẦN,

Mà căn-cƣ NGƢƠN-TINH, là THẬN; căn cƣ NGƢƠN-THẦN là

TÂM; tƣợng thể nó là ÂM-DƢƠNG giao-cấu, cho nên NÊ-HƢỜN-

CUNG biến thành ra TÂM-ĐÀI.

a) HUYỀN-KHÍ, là CHƠN-TINH biến ra XÍCH-KHÍ (Âm-huyết);

b) GIÁNG-TẮC-CUNG biến thành THẬN-TỲ;

c) HỒNG-KHÍ (Âm-huyết) biến ra HẮC-SẮC (Trƣợc-huyết).

Vì vậy Âm-Dƣơng tƣơng khắc, Tinh-Huyết thất-nguyên !.

Còn Huỳnh-sắc cực-động mới sanh ra HỮU-TỊNH; do chỗ TỊNH-

CỰC, cho nên TAM-NGƢƠN mới biến thành NGŨ-NGƢƠN, mà

rồi NGŨ-NGƢƠN là:

1) NGƢƠN-TINH ngộ Tịnh hồi thƣợng giao-hãm

NGƢƠN-THẦN.

2) NGƢƠN-THẦN ngộ tịnh hạ giáng giao-hãm NGƢƠN-

TINH.

NGƢƠN-TINH (Thận) biến làm NGƢƠN-TÁNH (Can).

NGƢƠN-THẦN (Tâm) biến làm NGƢƠN-TÌNH (Phế)

Page 24: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

24

CHƠN-KHÍ (Huỳnh-Đình) biến thành CHƠN-Ý (Tỳ-Thổ)

Gom lại mà nói: Cho nên Hắc hóa Thanh, Xích hóa Bạch.

Ngũ-Ngƣơn do bởi cơ động-tịnh, mà hóa ra Ngũ-Thức và Ngũ-

Trƣợc đó.

(1) Thai-Bào là: Bọc-thai hình nhƣ: noãn-châu ở trong có nhứt

điểm chơn-tinh phụ-mạng cƣ-trung hƣợt-động, hình nhƣ Thái-Cực-

Đồ, thƣợng huyền, hạ hồng, trung huỳnh, có nhứt-khí hạo-nhiên

hƣợt động vậy.

___________________________________

NGŨ-NGƢƠN hóa NGŨ-THỨC là:

a) Ngƣơn-Tinh (Thận), sanh ra Trƣợc-Tinh (Bàng-Quang).

b) Ngƣơn-Thần (Tâm), biến sanh Thức-Thần (Đại-Tràng).

c) Ngƣơn-Tánh (Can), biến sanh vu-hồn (Đởm).

d) Ngƣơn-Tình (Phế), biến sanh Quỉ-Phách (Tiểu-Tràng).

e) Ngƣơn-Khí (Tỳ Thổ), hóa ra Vọng-Ý (Vị) vậy.

Nguyên ngũ-Ngƣơn, là: Chơn-Tánh bổn-sơ, bởi Động-Tịnh mới

sanh Thức-Tánh trƣợc-Mạng; nên phải xuất thế chào đời ! Khi bổn

nguyên còn nằm trong Thai-bào, thì vẫn chẳng ăn mà sống, chẳng

ngủ mà lớn; vì là thuốc Tiên-Thiên sanh-mạng, (là: thực còn trong

nôi).

Thì: 1) Thƣợng cảnh, trên NÊ-HƢỜN-CUNG có môt khí

HUYỀN-QUANG.

2) Hạ-cảnh dƣới GIÁNG-TẮC-CUNG có nhứt-khí HỒNG-

QUANG mà thôi.

3) Trung-cảnh, có Ngũ-Ngƣơn mà sanh mạng, do bởi động-

tịnh mà sanh Ngũ-Thức.

Bởi Ngũ-Thức tịnh-động mới sanh Ngũ-Dục !.

Dục mới sanh Trần; Trần mới sanh ra Nhiễm, Nhiễm mới sanh ra

phiền-não vậy ! Bởi đó cho nên nhơn-mạng phải xuất biến Ngũ-

Thức mà chào đời !.

Tóm lại: Con-ngƣời mà có ra, cũng do cơ động-tịnh, Tình-Ý Phụ-

Mẫu giao-hợp mà có thể. Nhƣng nội-cơ tịnh-động nhờ có ngũ-hành

Tiên-Thiên hóa Ngũ-Ngƣơn, thành-chơn nhuận-sắc mà bảo-dƣỡng

Chơn-Linh mới hoạt-động, và trí-thức kiến-văn đó; thông-minh thế-

hệ, bảo-ngƣơn thủ-nhứt, chuyển-đắc, hồi-nguyên, thế-gian mộng-

hồn-điệp vậy.

Rồi ra ham muốn quá độ, cho nên có Tiên-Thiên biến làm Hậu-

Thiên Ngũ-Thức ! Ngũ-Thức sanh Ngũ-Dục, bị lấy trần-cấu buộc-

ràng ra oan-trái, trái-oan mà có hại; cho nên: trần sanh Nhiễm,

Nhiễm mới sanh phiền-não mà làm mất bổn-tánh thiện-chí, thiện-

chơn mà bổn-nguyên phải bị hao tán, lần lần chịu mất luôn cả xác-

hồn !

Than-ôi! Than-ôi! Cho-ngƣời !

________________________

1- Thiên-viên, Địa phƣơng, là Trời-tròn, Đất-vuông.

2- Tam-Chơn biến Tam-Ngƣơn là:

1) Chơn-Tinh biến Ngƣơn-Tinh.

2) Chơn-Khí biến Ngƣơn-Khí.

3) Chơn-Thần biến Ngƣơn-Thần.

_____________________________________

Page 25: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

25

NHƠN-HÌNH-ĐỒ (Luận) _____________________________________

Đạo hành khá rõ, máy huyền thâm,

Đức hóa thƣợng-thông, bởi kiếm-tầm,

Ƣ-thử gìn-lòng, tƣờng máy-Tạo,

Thâm-canh roi để, thế ca ngâm.

HỰU:

Thời-kỳ phổ-độ, hiệp TAM-TÔNG,

Chí-khí tùng-nƣơng mối ĐẠI-ĐỒNG,

Kềm chắt CHƠN-TÂM, cùng đối-thể,

Bƣơn về cảnh-cũ, chốn HƢ-KHÔNG.

BÀI:

Đời lắm kẻ tƣ-tâm bổn-ngã,

Hãy ra công: xây-quả đắp-nền,

Sẵn THẦY giáng thế kề-bên,

Nƣơng con ĐỒNG-TỬ, lập nên CAO-ĐÀI .1

Chỉ rõ nẻo: tƣơng-lai thế cuộc,

Dạy rành đƣờng, trau-chuốc LUYỆN-TU

Đặng mau: về cảnh tuyệt-mù,

Dứt nơi trần-cấu, Diêm-phù khổ-thân. .2

THẦY thấy khổ, đau lòng tận diệt,

Con coi thƣờng, mài-miệt truy-hoan,

Tiên-nhơn đâu mến dinh-hoàn,

Trời đem ĐẠI-ĐẠO, điển-quang cứu đời. .3

Trên đảnh-thƣợng, có Trời bảo-hộ,

Thiệt Vô-hình, con ngỗ biết đâu,

Thƣợng-phù: Thanh-khí gồm thâu,

Hoàng-ân sanh-dục, suốt bầu Càn-Khôn. .4

Tia hạo-khí, bảo-tồn vạn-loại,

Ngọc-Hƣ-Cung, quảng đại Thiên-tôn,

Cao-Đài: tá-thế nan-ngôn,

CAO, là: Đảnh-Thƣợng, Côn-lôn, là: ĐÀI ! .5

Thƣợng khinh-phù, chia hai, hạ trƣợc,

Cõi trung gian, sau-trƣớc các con,

Hồn “CAO”: muôn kiếp hằng còn,

“ĐÀI” là: Xác-thịt, khó tròn khí rơi. .6

Hình “THÁI-CỰC”, tại nơi đôi mắt,

Tả nhi Dƣơng, bên-mặt là Âm,

Thành hình chữ “THẬP” huyền thâm,

Chấm là : Dƣơng-điểm, ngang Âm hiệp thành. .7

Âm-Dƣơng nghi, lộn quanh xây tréo,

Có bốn tia: gài-tréo xây-vần,

Thành-hình chữ “THẬP” (+) đòn-cân,

Tại nơi khiếu-nội, thông-thần không hƣ. .8

Trên đôi mũi, dƣới từ Dịch hải,

Cùng hai tay, qua lại thông-thƣờng.

Kết nên: tứ-tƣợng âm-dƣơng,

Càn-Khôn, Ly-Khảm, khó lƣờng đạo sanh, .9

Sanh Bát-Quái, biến thành chữ Vạn,

Phân Tứ-Âm, nhƣ cán, cùng chày,

Vô cùng: biến hóa, vần-xây,

Tiên-Thiên, Hậu-Địa, đặt bài vị Cung. .10

Đồng-Nhân, Tánh thung-dung nhị-bát,

Điển Ân-ban, rải-rác Càn-Khôn,

Tu-Di: Thổ-Vị lƣu-tồn,

Tạng-Tỳ nơi-giữa, Dƣơng-môn phi-thƣờng. .11

CAN thuộc MỘC, Đông-phƣơng cƣ-trú,

CHẤN-quái chơn, sở-trụ tứ-sanh,

PHẾ-ĐOÀI: Tây-vị kiết thành,

HẠ-CHÂU-THẾ-GIÁI, luân-hành chơn-nhƣ. .12

Page 26: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

26

TÂM thuộc HỎA, huyền cƣ NAM-THIỆM,

Là bộ-châu, nhứt điểm Hỏa-quang,

THỦY-tiên, THẬN-TẠNG Bắc-phang,

CU-LƢU-CHÂU-GIÁI, bảo-toàn hữu-vô. .13

Bàng-quang vốn Đình-Hồ đại động,

Nơi Ngƣơn-Môn, hệ-thống an-nguy,

Thận-đƣờng, là ải ly kỳ,

Luân-hồi tiêu-diệt, sấu phì do-tha. .14

Bề ngoại-Thận, biết mà điều-dƣỡng,

Động qui-linh, phải vƣớng luân-trầm,

Biết lo: ngừa giữ THẬN TÂM,

Để mà tiêu-xác, nơi hầm qui-linh. .15

Tả thủ: NHỰT, Dƣơng-Tinh thuần-thƣợng,

Ngũ-Chỉ phân, Tứ-Tƣợng Ngũ-Hành,

Giáp, Bính, Mậu, (Thổ), Nhâm, Canh,

Tiên-Thiên nhứt-khí, hiệp-thành Nhựt-Cung. .16

Hữu-thủ vốn, Hồng-Mông tánh NGUYỆT,

Ngũ Hậu-Thiên, bố-liệt tựu-trung,

Ất, Đinh, Kỷ, Quí, Tân, tùng,

Ngũ-Hành, Ngũ-Chỉ, biết dùng mới ngoan. .17

Nơi Túc-Hạ, rõ-ràng Thập-Chỉ,

Thập-Điện-Cung, cảnh thị U-Quang,

Chuyển-luân: đủ-giáp Địa-Đàng,

Hành trình Võ-Trụ, xong hàng Đông Tây.

_______________

(1 và 11) là:

Vật chi hóa ra Mặt Trời?

Là: Linh-Khí-Quang của Ngũ-Hành Tiên-Thiên; mà là: Thƣợng-

Thiên-Can: “Giáp, Bính, Mồ (Thổ), Nhâm, Canh”.

Vật chi hóa ra Mặt-Nguyệt?

Linh-Khí-Quang của Ngũ-Hành Hậu-Thiên tựu-lại, mà hóa nên.

Mà Hạ-Thiên-Can là: “Ất, Đinh, Kỷ, Quí, Tân”.

b) Ở nơi con-ngƣời chỉ về bàn Tay-trái có 5 ngón.

c) Ở dƣới Đất có 10 Cung, là: “Thập-Điện”.

d) Ở nơi Ngƣời bộ dƣới là: “10 ngón-chơn”

oOo

12. CÀN-KHÔN THỈ-ĐIỆN

(TRỜI-ĐẤT MỞ-MANG)

(THIÊN-HOÀNG-KINH) ______________________

Phân phán Âm-Dƣơng, Khai-Thiên tịch-Địa, Thiên-thƣợng: CỬU-

TRÙNG-THIÊN hành vi; Nhựt, Nguyệt chuyển-luân, minh-ám

tƣơng đối-xứ. Lƣỡng-khí hàn-nhiệt huân-chƣng hóa thành Võ-Trụ-

Càn-Khôn, vạn-vật tối-linh đồng cƣ Trung-Nội.

__________________________

BÀN-CỔ-THUẦN-DƢƠNG xuất thế, Sơ-phân Thiên-Địa.

THI:

Hỗn-độn sơ phân, khí-hậu thuần,

Phiêu chi giã-lộc, khán quân thần,

Tam-Hoàng, Ngũ-Đế, tân thiên khứ,

Tân khổ Diêm-Phù: thế-thƣợng nhân !.

__________________

Đây nói về: Hồng-Mông thỉ-lệ và Khai-Thiên tịch-Địa, đến có

vạn-vật và nhơn-loài, và công-phu âm-đức, Thánh, Hiền, Tiên, Phật

Page 27: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

27

ra đời lập công bồi-quả, và làm cho vạn-loại tấn-hóa chứ ƣ cực

điểm quang minh.

___________________

Nói về Hồng-Mông hỗn-độn ban đầu, của Không-Hƣ cảnh-nội và

Khai-Thiên tịch-Địa.

Hồng-Môn hỗn-độn rồi; mới có Trời, Đất; mới có THUẦN-

DƢƠNG-BÀN-CỔ thủ-xuất (căn-cội loài ngƣời) !

Ngài bèn chỉ Trời là Cha, Mẹ là Đất, bá-tánh là CON. Chính Ngài

là ngôi “TÔN-CHỦ SÁNG-LẬP THẾ-GIAN” nầy; mà Ngài cũng

là “THÁI-THƢỢNG-ĐẠO-QUÂN” đó; À các trò! Do Ngài cứu

cánh thiệt-nghiệp nơi cơ động-tịnh biến sanh, bèn hiệp bán-Âm,

bán-Dƣơng mà hóa ra vạn-vật và loài Ngƣời lấy chỗ sắc (Thái) (1)

làm căn-bổn của tối-linh, linh-thọ; nên mới nói Ngài là “THÁI-

THƢỢNG-ĐẠO-QUÂN” thiệt chánh Ngài là chủ của “NHƠN-

ĐẠO” đó! Cho nên có câu: “Nhứt-Âm, nhứt-Dƣơng chi vị Đạo”

vậy.

Vậy mới biết rằng: Một Âm và một Dƣơng hiệp lại làm ra Đạo

cho nên vạn vật hóa sanh cũng do nơi Âm Dƣơng mà ra vậy.

Thì bấy giờ tại núi CÔN-LÔN-SAN cao quá tầm mắt ngƣời, có

một cục đá đã thọ khí Âm-Dƣơng chiếu diệu rất lâu đời mà nên

hình một trứng đá, rất tròn và lớn, không biết đã bao nhiêu lâu kiếp

số vô lƣợng mà thọ thai, dƣờng nhƣ có chửa, mà khối đá ấy chiếu

diệu huy-hoàng, bỗng tự-nhiên nhƣ nhiên do chỗ Âm-Tịnh Bất-

Mãn mà động lại khởi sanh; do động đó mà khối đá ấy bèn nở ra,

bèn có chửa, thâu các tánh linh-thông của Võ-Trụ vào khối đá linh

ấy, ở trong thai có ngƣời. Sự chửa thai ấy, đến mƣời tháng, 16 ngày

đúng (giờ dần) thời mới sản !.

Đá sanh Ngƣời-Trời.

Bỗng nhiên khối đá rúng động và phình lên nứt khai, có tiếng sấm

nổi lên, sau lƣng núi ấy rúng động, bèn sản xuất ra một vị Linh-

Chơn hi-hữu !.

Vừa sanh ra thì học chạy, học nhảy, hớp gió, nuốt sƣơng, nhai cỏ,

uống nƣớc suối, lần lần lớn lên, Linh-Nhơn sanh ra đầu rồng, mình

ngƣời, hình cao trăm thƣớc, đầu lớn nhƣ đấu, hét vang, thì mắt

phình, mà nanh vút lòi ra hai bên, răng lồi quá lớn, đầy mình đều

lông; lấy sức cụng đảnh núi, lấy tay xô Trời, Trời rung rinh; lấy

cẳng động Đất, Đất lung-lơ; đƣa tay xô nƣng Trời, Trời lên cao; gót

nhận xuống Đất, Đất lại lần-lần lung lay chuyển; rồi thấy Đất lần-

lần tịnh lại. Trời vẫn cứ động, mà Trời lại dần-dần cao lên; thì bấy

giờ Trời Đất lần-lần vẫn động, vẫn tịnh tự nhiên mà cũng lần-lần

cách nhau xa-xa. Khi ấy, vị Linh-Chơn ấy, thấy sau chót núi CÔN-

LÔN, lại đụng Nguyệt-Luân-Thiên quá cứng mà khó phá, vì:

a) Thiên-Khí động mà bất-đắc-động

b) Còn Địa-Tánh đức-tịnh, nhi bất-đắc tịnh,

c) Thiên-Địa tƣơng liên, lƣỡng-bất-đắc sở, cho nên nhận

Ngƣời-Linh ấy là: “ĐỨC-BÀN-CỔ-THUẦN-DƢƠNG, XUẤT

THẾ”.

Lúc ấy Đức-Bàn-Cổ thấy vậy, Ngài rất buồn: phải chi có vật chi-

chi, mà làm cho Trời cao-xa, Đất cách xuống nữa, cho núi khỏi

đụng-khích với nhau, mới là toại chí, cho phân-biệt Đất-Trời. Nếu

cứ nhƣ vậy hoài, thì nhơn-vật, làm sao mà sanh ra đƣợc!.

Ngài ƣớc-ao, ao-ƣớc vừa dứt tiếng, bỗng đâu: Thiên-Thanh, Địa-

Ninh, vạn-vật sanh ra đều có đủ cả.

Ngài chạy qua Đông, lại hƣớng Tây, coi có thêm đƣợc một món

nào khác nữa, mà tung Trời lên thêm-cao, nên Đất cho thấp xuống

Page 28: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

28

nữa ! Thì ra tìm hoài mà không vật-kiện chi cả thảy, (Trung gian hƣ

không). Rất mất công tầm hoài nhiều giờ; thật Trời cũng chìu ý

ngƣời muốn; phải, “Thiên tùng nhơn-nguyện” !.

Có một ngày kia: Ngài chạy vƣợt qua hƣớng Tây, bỗng gặp đặng

một vật “Tinh-Tiên-Thiên Chi-Khí”, là: một cái búa và một cái Dùi,

nặng ƣớc một ngàn cân! Đức Bàn-Cổ bèn tay hữu cầm búa, tay tả

cầm dùi; Hoặc cầm búa tạc lên, lấy dùi dộng xuống, ra công mở

mang nhiều giờ. Bỗng nhiên: ngày nọ Trời-Đất dƣờng nhƣ: Thiên-

băng Địa-liệt, là lối Trời Đất mở-khai, có một tiếng sấm nổ vang,

Trời-Đất lại phân ra rất rộng, và lớn thêm, quá rộng nữa !

Thì bấy giờ: vật khinh-thanh, thƣợng-phù làm Trời, mà Động, đã

càng-cao, mà lại vận chuyển; còn trọng-trƣợc, là: Địa, lần trầm sát

xuống, mà Tịnh, mà Trời-Đất đã phân-rành làm hai vậy ! Trời động

và Đất tịnh đó! Lại trên cao ấy, là: TRỜI; dƣới thấp, là ĐẤT; hai mí

càng ngày càng khai, hỗn-mang mở-hoát ra hoài ! Từ đó về sau, hai

khí Âm-Dƣơng, bèn giao cấu mới sanh, có nhơn-sanh, có ra vật.

NGƢỜI ra đầu kế Trời Đất đây mà là vị: THIÊN-HOÀNG thủ-

xuất đó !.

THI:

PHÂN rành nhứt-khí, lập Càn-Khôn,

PHÁN dạy nhơn sanh, khả bảo-tồn,

ÂM độ nặng-trầm, vi điển-mẫu,

DƢƠNG huyền nhẹ bổng, Đức Thiên-Tôn.

BÀN khai Thiên-ảnh, chiếu vô-cực.

CỔ-tịch Địa-ninh, quán ngũ-môn,

THỦ nhứt tạo-thành, Linh-Khí hóa,

XUẤT thần đả phá, thức huỳnh môn.

HỰU:

Huỳnh-hôn mờ-ám, một thân GIÀ,

TỊNH, ĐỘNG ÂM-DƢƠNG, NHỊ chuyển,

VÔ-CỰC phân khai: TA, sắc “THÁI”,

Tạo thành vạn-vật, trƣớc ngƣời-ta.

HỰU:

Chín lớp TRỜI cao: “TÔNG-ĐỘNG-THIÊN”

Nhị-thập-bát-TÚ ở gần miền,

Rồi qua NHỰT-chuyển, thiên-không hiện,

Sáng khắp Thìn-Tinh, chiếu-diệu liêng.

Xây khắp bao-la, tƣơng-đối xứ,

Rồi cùng võ-trụ, ngộ giao-duyên,

Trên mờ, dƣới tỏ, vì gần ĐẤT,

SÓC, HỐI, VỌNG, HUYỀN, “LUÂN-NGUYỆT-TINH”.

HỰU:

SƠN, HẢI, HỒ, ĐẦM, qui bổn căn,

MỘC, KIM, CHÂU, THẠCH hóa rồi thăng,

Tứ-thời, bát-tiết, tùy HÀN-NHIỆT,

Phục-thỉ châu-nhi, đến THỔ bằng.

Sau rồi sẽ có tiếp thêm; Bần-đạo ban ơn-lành chƣ môn-đồ.

NGÂM:

ÂM-dƣơng chia cách dậm-ngàn,

Dƣơng-gian trẻ trú, Thiên-đàng LÃO thăng.

_______

(1). – Thái-Sắc là: dùng sắc Huyền là Thiên mà hiệp với sắc Hồng,

là Địa, đem hiệp-lại hòa nhau mà ra sắc “Thái” vậy. Cho nên Ngài

Page 29: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

29

lấy chỗ có ban-đầu của Nhơn-Loại, mà xƣng danh; là “THÁI-

THƢỢNG”, sanh ra trƣớc-nhứt hơn-hết

______________________________

TIẾP-DIỄN: HÀNH-VI BÀN-CỔ ____________________________

NÓI về bực BÀN-CỔ THUẦN-VƢƠNG, do lấy TRỜI làm CHA,

nhìn ĐẤT làm MẸ, và bá-tánh vạn-dân làm con cái của ngƣời; cho

nên NGÀI, mới tự xƣng “NGÀI” là “THIÊN-TỬ” Con-trời!

DUYÊN cớ đó mới biết căn-do nhơn-hình là : BÁN-ÂM và BÁN-

DƢƠNG mà cũng là tự-thuật sơ-lƣợc về hình-thể, vạn-vật khai-thác

và hóa-dục tạo-thành; có ra QUÂN-THẦN, phụ-tử với chƣ-đợi

vƣơng-đế, kế-vị tƣơng-truyền lƣu-lai thế-thế vinh-xƣơng đó! Của

cảnh đời DIÊM-PHÙ-ĐỀ tan-hiệp, hiệp-tan theo lý tuần-hƣờn

chuyển-vận, hồng-mông võ-trụ THỈ-ĐIỆN CÀN-KHÔN; tƣơng-

ứng, tƣơng-hòa chỗ vị-phán, phân ÂM-DƢƠNG rồi đến kỳ phân-

phán ÂM-DƢƠNG, CÀN-KHÔN ĐỊNH-VỊ, mới có ra NHỰT,

NGUYỆT, TINH; đặng thông chiếu rõ, sáng lạng huy-hoàng, tại

thế-gian này. Đoạn phân-minh NGŨ-THỂ, TAM-TÀI cho con

ngƣời rõ thấu, chỗ ĐẠI-ĐẠO HOẰNG-KHAI, rồi trau-thân đặng

trong-sạch, gom tinh-hoa của TINH, KHÍ, THẦN, làm ra LINH-

QUANG mà phục-hƣờn hƣ-không cảnh-giái, chứng-vị thần-tiên,

khỏi chịu trăm-điều khổ não, nhục-thân nữa!

B. HƢ-KHÔNG LƢỢC-DIỄN.

CÓ câu: “THIÊN-ĐỊA tạo hóa, hình nhƣ KÊ-NOÃN; hay là

“BẦU-TRỜI”, THÁI-CỰC, cũng là đó”.

Tuy là nói “THIÊN-ĐỊA nhƣ KÊ-NOÃN”, mƣợn đó mà thể, vì

KÊ-NOÃN bất-đồng, do bởi KÊ-NOÃN chỉ có nhứt-tùng mà thôi!

Trái lại: mà trời cao lại có đến CHÍN-TRÙNG “CỬU-TRÙNG”

cho nên mới gọi là: “CỬU-TRÙNG-THIÊN” ! Bởi vậy cho nên,

chỗ nói KÊ-NOÃN bất-đồng khác-xa, là đây !.

Đây là phân-tích về CỬU-TRÙNG-THIÊN.

C. PHÂN-TÍCH về CỬU-TRÙNG-THIÊN

Tên hiệu của CỬU-TRÙNG-THIÊN là:

I. ĐỆ-NHỨT-TRÙNG-THIÊN; là “TÔNG-ĐỘNG-THIÊN” vô

tịnh, vô động, hữu-khí vô-hình, mà là: “HẮC-CAN-PHONG”; có

hơi đƣa ngàn dậm, mãnh-lực thật-mạnh phi-thƣờng, có mang ba

lớp :”NHỊ-THẬP-BÁT-TÚ-THIÊN”, (1).

Nên xuống cho đến THỔ, MỘC, HỎA và NHỰT (2)

KIM, THỦY với NGUYỆT (3);

Mà là “NGŨ-ĐẨU-TINH” và NHỊ-KHÍ ÂM-DƢƠNG, cho đên

mấy trùng thiên (TẦNG-TRỜI) kia từ Đông qua Tây; nếu đến đất

một-châu, là qua một độ!

Còn thửa ngoài, thì NHỨT-KHÍ hỗn-độn, làm xung-mục đó vậy!

lại nơi chƣng ngoại-cảnh TÔNG-ĐỘNG-THIÊN là nơi NGUYÊN-

TẾ-THIÊN, mà là: THƢỜNG-THANH-TỊNH-THIÊN, mà là

NGUYÊN-VIỄN VÔ-CỰC đó !.

__________

(1). Nhị-Thập-Bát-Tú-THIÊN là:

a) GIÁC, CAN, ĐÊ, PHÕNG, TÂM, VĨ, CƠ,

b) ĐẨU, NGƢU, NỮ, HƢ, NGUY, THẤT, BÍCH,

c) KHUÊ, LÂU, VỊ, MÃO, TẤT, CHỦY, SÂM,

d) TĨNH, QUỈ, LIỄU, TINH, TRƢƠNG, DỰC, CHẨN.

Page 30: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

30

(2) THỔ-TINH là: DÂN-TINH. MỘC-TINH là ĐÔNG-VƢƠNG-

CÔNG; HỎA-TINH là HỎA-PHỦ-THẦN-QUÂN, mà là NHƢT-

QUANG-TINH, là THÁI-DƢƠNG-TINH-QUÂN đó.

(3) KIM-TINH là: THÁI-BẠCH-TINH; THỦY-TINH là THÌN-

TINH mà là NGUYỆT-MINH-TINH, là THÁI-ÂM-TINH-QUÂN.

_____________

II. NHỊ-THẬP-BÁT-TÚ-THIÊN.

Từ TÔNG-ĐỘNG-THIÊN chi-nội là “NHỊ-TRÙNG-THIÊN”; hay

là KỈNH-TINH-THIÊN, cũng có ba lớp mà là: NHỊ-THẬP-BÁT-

TÚ-THIÊN vậy; ở rất gần bên TÔNG-ĐỘNG-THIÊN, thƣờng xây

trở rất lẹ, rồi cũng từ Đông mà chuyển qua Tây.

Kể ra một-năm chỉnh-sai hết một-phân-khí; thì ra 60 năm, chỉ

hành có một-độ, tới 7,000 năm, mới là đƣợc một CHÂU-THIÊN;

đoạn rồi sụt-lần tới tám-tầng trời kia, cũng đi từ Đông qua Tây vậy;

nhƣng mà theo chỗ về TÔNG-ĐỘNG-THIÊN, xây chuyển, ở dƣới

ngóng lên trên, thì đƣợc biết: thăng Đông nhi miệt Tây vậy.

III. ĐỆ-TAM là: THỔ-TINH-THIÊN; Hay là DIÊN-TINH.

Thật cách TÔNG-ĐỘNG-THIÊN rất xa-xăm đó vậy, mà thửa xây

rất chậm, mà cũng từ Tây qua Đông hành đó.

Lại 28 ngày, sai đi nhứt-độ, thì ra 28 năm, làm một CHÂU-

THIÊN.

IV. ĐÊ-TỨ-TRÙNG-THIÊN là MỘC-TINH-THIÊN tức là TUẾ-

TINH

Cũng lại thì cách TÔNG-ĐỘNG-THIÊN rất xa-xăm biệt-vời. Mà

chuyển xây càng chậm-chạp nữa, lại cứ đi từ Đông mà xây, cứ hai-

ngày thì lại sai thêm một độ, thành ra phải 12 năm, làm một

CHÂU-THIÊN.

V. ĐÊ-NGŨ-TRÙNG-THIÊN, là HÒA-TINH

Hay là nói HOÀNH-HOẶC-TINH. Sanh lại thì cách TÔNG-

ĐỘNG-THIÊN rất xa-xăm biệt vời, mà chuyển xây càng chậm-

chạp nữa; lại cũng đi từ Đông mà xây, cứ 2 ngày, thì lại sai đi một

độ, thành ra 2 năm, mới giáp một CHÂU-THIÊN.

VI. ĐỆ-LỤC-TRÙNG-THIÊN, hay là NHỰT-LUÂN-THIÊN.

Cũng rất xa-xăm cõi TÔNG-ĐỘNG-THIÊN, mà về đi về xây rất

chậm-chạp vậy; cũng đi từ Đông qua Tây vậy. Một ngày sai thêm

một độ thành ra 365 ngày, là 1 năm mới có một CHÂU-THIÊN.

VII. ĐỆ-THẤT-TRÙNG-THIÊN, là THÁI-BẠCH-TINH, hay nói

KIM-TINH-THIÊN.

VIII. ĐỆ-BÁT-TRÙNG-THIÊN, LÀ THÌN-TINH hay là THỦY-

TINH-THIÊN.

Cũng đi từ Đông mà qua Tây vậy. Càng gần, đi càng chậm thêm

nữa. Lại một ngày cũng sai đi hết một độ, thì ra một năm mới gồm

đặng một CHÂU-THIÊN.

IX. ĐỆ-CỬU-TRÙNG-THIÊN, là NGUYỆT-LUÂN-THIÊN.

Và đi và xây dài cách TÔNG-ĐỘNG-THIÊN, rất xa xăm, tít mù,

mà biệt-phƣơng; vì gần với đất, thì sự đi càng ngày lại càng tột chỗ

chậm nữa, do khí có hơi nặng trƣợc đó chút; một ngày xây xa cách

Page 31: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

31

khác là hết 13 độ, thì ra một tháng một CHÂU-THIÊN. Mà lại bề

kinh tâm của NGUYỆT-TINH có phân ra làm lục-đẳng là:

1. Đệ nhứt đẳng, tối đại, ấy là: bề xiên-tâm 356 lý dƣ, rồi

lần lần lại giảm xuống bớt, bớt lần đi của mấy bực kia.

2. Tới chỗ đệ LỤC-ĐẲNG-TINH, tối-thiểu ấy, thì mới đại

xiên-tâm, là 260 dƣ lý.

3. Còn về NHỰT-ĐẠI-TINH, thì bề xiên-tâm 1.750 dƣ lý.

4. Còn lại NGUYỆT-ĐẠI-TINH, xiên-tâm có 600 dƣ lý mà

thôi.

5. Lại với NGŨ-ĐẨU-TINH kia duy có THỔ-TINH và

MỘC-TINH, là lớn hơn hết, bề xiên-tâm đƣợc gần 340 dƣ lý.

Cùng THÁI-BẠCH-TINH cũng đƣợc xiên-tâm 114 dƣ lý, và

TRẤN-THỦY-TINH (THÌN-TINH) xiên tâm có 60 dƣ lý vậy. Còn

mấy TRÙNG-THIÊN kia, đều xa cách hơn chín muôn dậm dƣ đó.

Hễ một TRÙNG-THIÊN cách khoảng một lớp khí; Nhƣng mà

NHỰT-LUÂN-THIÊN (KỈNH-TINH) xây gia bội bằng hai lớp

TRỜI đó.

6. Đây nói về thửa chỗ sai ấy, của NHỰT-LUÂN hay là của

NGUYỆT-LUÂN, là chỗ nói về TÔNG-ĐỘNG-THIÊN từ Đông

qua Tây.

oOo

13. SỰ NHIỆT-HÀN.

Sự Nhiệt-hàn, ấy là do nƣớc-biển nó sôi, và trào-phúng lên vậy. Vì

lấy chỗ khí mặt-nhựt đi qua khỏi đáy biển, thì chỗ vừa qua đó, bị

lấy Nhựt-khí cực thạnh, xâm vào nƣớc, bèn hóa ra sôi và trào đó.

Còn khi mặt-nguyệt thăng lên, lãnh-khí vọng, làm ra hai khí bèn

kích-thích với nhau, làm cho bạo-khí phát sanh mà có ra trào-phúng

lên đó; mà làm ra bọt-bóng nƣớc đó.

Khí trào qua đó là:

a) Chƣng Tinh-Thần nhiệt-khí của mặt-Nhựt.

b) Cùng chƣng Tinh-Thần lãnh-khí của mặt-Nguyệt.

Hễ thƣờng chứa-chất ánh khí quang chừng nào, nhiều thì lại-ứ, ở

trong mà xung ra vậy; cho nên chƣng chỗ Nhựt-Nguyệt tƣơng-đối

đó, mới bèn có chất-chứa một vầng khí lãnh-nhiệt tựu-hợp, mà ra

giả-hàn và giả-khí-nhiệt; đó là không phải thiệt tinh-anh!

Cho nên cũng đồng nhƣ Nhựt-Nguyệt qua trên không-gian

(Trung-Giái) mà có ra nóng và lạnh, vậy; mới thật là khí-tinh-anh

của Nhựt-Nguyệt đó. Hễ Càn-Khôn chứa khí nhiệt chừng nào, thì

lại càng trào-phúng lên trên mặt biển, sông, mà bọt-bong-bóng ra

quá nhiều.

Mà bóng-bọt nƣớc ấy, lại chia ra thứ lơn và nhỏ nữa, là do chỗ

Nhựt-Nguyệt vận-hành, chƣng thể khác nhau; bởi chỗ xa gần.

Hễ gần thì trào bọt bóng lớn, còn xa thì trào bọt bóng nhỏ. Cho

nên đến lối ngày 30 và mùng 1, thì mặt-Nguyệt tuy là mất sự ánh-

sáng, nhƣng mà: thể-phách của mặt-Nguyệt (Thái-Âm), lãnh khí

Page 32: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

32

vẫn còn ở trong nhƣ thƣờng, cho nên còn đầy đủ mảnh-khí lực-

lƣợng.

c) Còn “ĐIỂN”, lại lấy ở trong Tinh-Khí của Khí-Dƣơng

(Chơn-Khí) mà vẫn khác hơn âm-khí của Võ-Thủy; vì có ánh-diệu

thì thành “QUANG”.

d) Và đụng mạnh nổ-lớn là “ĐÌNH”.

e) Còn “LỘ”, ấy là; bèn thiệt chƣng khí Tân-dịch ƣớt-ẩm

của Đất, theo Đất mà lên tán-loạn. Khi có Thiên-Khí giáng hạ, hai

khí gặp nhau, mà ra “LỘ” vậy.

f) Mà “SƢƠNG” lại còn trích lấy bởi trong Lộ-ngƣng, mà

kết thành vậy.

g) Lại “Vụ”, thời theo trong khí thấp-thổ, mà sanh ra vậy.

h) Còn về Nhựt-chiếu các nơi núi, biển, hồ, ao, và các thứ

càn-táo trên mặt-đất đều thƣợng-đằng đến nơi cao hơn; là “Lãnh

Tế” bị lạnh-quá, ngăn mà khí xung chẳng đặng. Bèn bay ngang qua

mà làm ra gió “Phong” Gió lại mang lấy mƣa, cho nên khi, hễ gió

đến-đâu thì mƣa cũng đến đó!.

i) Bằng chƣng Khí-Càn-Táo dƣới Đất thạnh-lên, mà làm ra

gió, cũng bởi chƣng khí Thấp-Nhiệt ở Đất (1). Một lƣợt hay đều

phát lên, thì làm ra “Vận”, mà là không có mƣa; dầu không có mƣa

đi nữa, cũng là mƣa nhỏ, vậy !

j) Hà, là “Váng” mà ra; đó là: Do bởi Nhựt-chiếu vào mây,

mà nên Váng đó.

k) Còn “Móng” đó là “Hồng-Nghê”; mà có ánh-giọi đó là,

do hệ của Võ-Khí; Ánh-Nhựt lộ quang mà sanh ra.

l) Và Sấm, là “Lôi”: mà có ra, đó là chƣng Khí của Âm-

Dƣơng hiệp lại mà đặng kích thích mà ra, còn có tiếng nổ lớn

mãnh-liệt, ầm-ỳ đó; kêu là: “Sấm-Chớp”.

Càng chứa, càng trọng, lần-lần trào lên đến mặt Đất, thế bất đắc

táng, bèn tràn bốn-bên, dĩ chí “Chấn” động.

Có khi ra tiếng, hoặc có lối-nháng ra lửa nữa vậy. Bởi-vì do tại

Đất-Thổ bề gáy dày lắm; mà lại bị hơi-đất không có chỗ sông-suối,

hồ-ao, cho nên mới có lọt tiếng khí-dội, rền-rỉ ầm-ỳ

_____________

Điển: là gi? –Điển là mãnh-lực nháng-sáng ra, rất mau lẹ, ở trong

Tinh, Khí của Âm-Dƣơng mà có ra vậy. Điển vẫn thấy nháng ra,

khi khắc chất nặng hơn, bèn nổ, hay rút vận-khí, thâu năng lực vận-

khí, mà lại vô-chất; đụng đến vật nào, đều cháy cả, và còn bể nữa.

(1)- Thấp-Nhiệt: là: Chỗ ẩm-ƣớt mà có bốc hơi-nóng lên, hơi ấy

kêu là Vụ.

_____________

Sấm nổ mạnh là sao?

Trái lại: Còn Sấm nổ nhiều, đó là do chỗ Đất mỏng mà lại có lắm

nhiều giếng, ao, sông, rạch; duyên cớ đó, cho nên Sấm Đất ít có lọt

tiếng rền ra vậy; do lƣỡng khí của Nhựt-Nguyệt đã bố ban. Cho nên

lấy “Trung-Quốc” ở gần hƣớng Bắc mà chia ra hai lẽ là:

1) Hễ Nhựt hành Bắc-lục thì Ấm.

2) Còn Nhựt hành Nam-Lục thì Hàn vậy.

Còn tính theo thất chính, thì là có 15 chỗ diệu đó vậy; mà rồi 11

chỗ Diệu, lại có chia ra: có Tà-Tinh và Thoại-Tinh.

Nhƣ chỗ có:

a) Tà-Tình là Yêu-Tinh.

b) Thoại-Tinh là Kiết-Tinh.

Đó là dấu khi, Trị, Loạn, Tai, Tƣờng đó. Tuy nhiên khuất lấp,

song có điềm bày cho ngƣời trƣớc thấy; vì “Bổn-Hồ-Địa, Nhi-Ứng-

Hồ-Nhơn” !.

a) Hoặc có một-phƣơng nào, có chƣng khí hoang-dâm xông

lên, chứa lại nơi không-trung; mà làm ra Huê-Bộc, thì đã có điểm

chẳng-lành nơi ấy. Nhƣ là: “S có thảm-trạng đao binh”!.

Page 33: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

33

Nhƣng các sao này, đều có lộ ra dƣới cõi thứ 9; là Trởi Nguyệt

Luân Thiên đó.

b) Thửa Lƣu-Tinh, là Tán-Tinh của Ngũ-Hành (1). Còn

Tốn-Tinh, là : Chƣng Lệ-Khí của Nhựt-Nguyệt và Ngũ-Hành (2).

Gom lại hai thứ này: Chứa-tập lại mà thành Tƣợng, cũng đều ở

dƣới tầng Trời Nguyệt-Luân-Thiên mà có. Nhƣng mà: Tƣợng ấy,

chẳng phải thiệt là “CHƠN-TINH” đó.

c) Nói về: Gió, Mƣa, Mây, Sấm, Chớp, và Sƣơng, Tuyết,

Mù, Tán và Đình.

1) Gió, Mƣa, Mây,

2) Sấm, Chớp, Điển-Quang, Đình.

3) Sƣơng, Tuyết, Mù, Tán.

PHONG-VÕ: Về Phong-Võ thì lấy chỗ của Mặt-Nhựt chiếu vào nơi

sống-sâu, biển-cả, rộng-thinh bao-quát, mênh-mông của Khí Thấp-

Nhiệt thƣợng đằng mà có ra phong-võ đó.

Lối khí Thấp-Nhiệt của sông, biển bốc-lên, mà lên chẳng thấu

đặng, vì bị “Lãnh-Tế” hơi quá-lạnh, ngƣng đó mà kết làm ra

“Mây”. Là do bởi tại chƣng Khí Thấp-Nhiệt ở dƣới đất nó vẫn xung

lên đó (3).

Rồi trái-ngƣợc lại; khi mặt-Nhựt giọi vào mạnh quá, bèn theo gió

rớt xuống Đất mà làm ra “Mƣa”.

d) Lại còn “Tuyết”, Tán; thì chẳng có Mƣa đó, bị lãnh-khí

bát đó. Tuyết là khí lạnh lắm, ở trong Mây-kết-điểm mà thành ra

vậy; thừa đã rớt ra Mây.

e) Mà còn tại trong không-trung, mà kết-tựu lại kêu là

“Tán”. Cho nên Tán cũng nhƣ hình hột-mƣa mà rớt xuống trƣớc

tuyết.

f) Thửa Tuyết đọng cao-dày trên đảnh núi; ấy là: lấy chỗ

chót-núi cao, hay chiêu-tập phong lai-tựu. Vì Tuyết nhẹ-thể, bèn

theo gió-vụt mà bay đến đó vậy.

g) Lại nói qua Mƣa, thì có nhiều thứ Mƣa, khác nhau xa

lắm!.

Mà đại-để chỗ bất-tƣờng-chi-triệu, thì do nơi chƣng khí tai-lệ,

chứa mà thành hình, hoặc nhƣ yêu-lũn, giã-quỉ cũng hay làm ra đó

nữa.

h) Còn về giang-hà-chi-thủy, Nhựt chiếu chẳng-đặng, tràn

khắp mãn-bao đặng; thì thƣờng hay xuất ra nơi Cao-Nguyên.

a) Ấy là lấy trên mặt đất làm Cao-Nguyên.

b) Ở-dƣới mặt đất làm Thâm-Huyệt.

Thửa Nguyệt chẳng ở hƣớng Tây; ấy là lấy chỗ thiên-hình vận

chuyển, đƣa truông nƣớc vào dƣới-huyệt, chỉ có vào mà vẫn không

có ra; Nên mới bèn theo bùn-cát mà trào lên; mà làm ra các thứ

nƣớc, nhƣ: Sông, rạch vậy!

i) Lại về nƣớc ở Ôn-Tuyền (Suối-ấm), lấy chỗ nƣớc ở dƣới

đất; là Dƣơng-Khí mặt-Nhựt trải qua đƣờng Huỳnh-Đạo; nƣớc ấy

bị Nhiệt-Khí dẫn mà làm ra ấm vậy.

_________

1. LƢU-TINH: là Tán-Tinh của Ngũ-Hành.

2. TỐN-TINH là: Lệ-Khí của Nhựt-Nguyệt và Ngũ-Hành.

3. Hơi THẤP-NHIỆT: Sông-Biển bốc lên, bị Lãnh-Tế cản, mà làm

Mây. Vì xông lên chẳng thấu không-Thiên.

_________

j) Và “Sấm-Đất” ấy là chỗ dƣới-đất có lắm nhiều nham-

thạch (đá nam-châm). Khi mặt-Nhựt trải qua dƣới đáy-biển, mà

Nhiệt-Khí rút vào đá, hơi huân-chƣng (Hâm-nấu), trong huyệt-

hang, ngày-ngày đều hâm đó mà ra ấm, đem trào lên thành bọt-

bóng, cũng y-nhƣ ngày mồng Một và Rằm vậy.

k) Tại sao nƣớc biển lại mặn?

Nƣớc-biển mà mặn đó là do chƣng sự càn-diêm của Thái Dƣơng

(Mặt-Nhựt); là nhị-khí càn-thấp, nó huân-chƣng mà ra nƣớc-mặn,

Page 34: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

34

cho nên: chỗ lấy chƣng nƣớc về tháng mùa-hạn; và mặn hơn hết là

mùa Đông! Chƣng nƣớc trên mặt-biển, lại là mặn hơn dƣới đáy

biển nữa.

Sự mặn ấy là do bị lấy khí càn-thấp nó vẫn xâm-nhập vào dƣới đất

mà lạt-bớt đi, là nhờ lấy đất-ƣớt ra tan-rã mà đƣợc bớt, bớt lần-lần

lạt đó. Còn khi qua đến mặt-đất mênh-mông, nó lại xiên-tâm hơn

chín muôn dƣ-lý, mà còn bề-gáy-đất lại dày hơn hai muôn-tám-

ngàn-sáu-trăm-ba-mƣơi-sáu dƣ-lý nữa, là sự xa cách với Nguyệt-

Luân-Thiên.

Lại bề châu vi cách biển hơn: 45.000 dƣ-lý; nơi ấy địa-diện toàn là

thổ, rồi dƣới thổ, là sa-thạch, rồi dƣới sa-thạch, là đá-nổi, dƣới đá-

nổi, mới là Biển.

Thì bây giờ: dƣới chỗ tột biển mênh-mông kia, thinh-thinh rộng-

rộng, là ngoài mặt Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thần, là định thửa thể ở nơi

trong, cũng nhƣ cây mà bọc vàng bao ở ngoài vậy.

Nhân vì trời mà Động, thì thiên-thể quang-minh, mà lại hay thông

thấu ánh quang, cũng nhƣ: Thủy-Tinh và Pha-ly vậy.

Ví bằng trong ngoài mà một thể, thì Tinh kia cũng nhƣ là: “Đá”

vậy sao? Đâu có bóng sáng?

Bởi có ánh giọi, nhƣng mà nhuận trạch hữu quang, cho nên ở dƣới

xem đƣợc lên trên, năng thấu cửu-trùng, dầu cho xa cách bao xa

cũng thấy thấu rõ đƣợc.

Chƣng thửa dƣới chỗ “Nguyệt-Luân-Thiên” mà là nơi “Hỏa-Tế”

(1) Còn dƣới chƣng chỗ Hỏa-Tế, là “Linh-Tế”.

Còn chƣng dƣới chỗ “Linh-Tế” là “Ôn-Tế”, cho-nên đƣợc biết

Ngƣời và Vạn-Vật đều ở trong khí “Ôn-Tế”.

_______

(1) Hỏa-Tế, là giúp hơi ấm áp.

_______

Nếu chẳng phải là Trời, sao trong khí Đất bốn-bên đều động, mà

sự rền-vang đến Trời? Lấy chỗ dƣới đất bốn-bên vang động, cửa

biển đều động cả, nƣớc-biển mênh-mang xao động, thì sánh-lại

nƣớc đã bao Trời, thì nhƣ nƣớc chở-ghe đi trên mặt-biển vậy.

Biến động của Trời-Đất có phân rành: Ngũ-Hành, mà phân ra

Ngũ-Phƣơng là:

1) Chƣng Đất hƣớng Đông trào lên, nƣớc cũng tùy Thiên-

Thăng, thì ghe ở-trên phải chìm (PHÚC).

2) Còn Đất ở hƣớng Tây, thì lại yếu, nƣớc theo Trời mà vào,

ghe đi lại nổi (PHÙ).

3) Chƣng Đất hƣớng Bắc, là Băng-Hải, thì nƣớc-biển

thƣờng đặc lại, thì ghe lại khó đi đó!

4) Đất ở hƣớng Nam, là Nhiệt hải, nƣớc-biển đó nhƣ dầu

sôi, hễ ghe đi vào thì cháy hết liền; vì nóng lắm.

Ấy là chƣng chỗ của Trời về chứng-cớ, chẳng có gần nhau, cho

nên Thiên thăng ƣ Đông mà giáng ƣ Tây; thì nƣớc biển cũng theo

từ Tây-Bắc qua đến Đông-Nam. Duyên cớ đó: mà thửa Địa-Dƣ thì

lấy ở-gần trên Đất phƣơng Bắc, mới gọi rằng: “Á-Tế-Á-Châu”.

Phần Năm Châu là:

1) Á-CHÂU 2) PHI-CHÂU 3) ÚC-CHÂU

4) MỸ-CHÂU 5) TRUNG-CHÂU là (TU-DI-CHÂU) mà vạn quốc

đều cƣ trung đồ vậy.

Gom lại Ngũ-Châu mà nói, thì có Châu-Á-Tế-Á có ngƣời ở nhiều,

thuộc phƣơng Nam, tức là Đông-Nam. Còn có nƣớc gọi la: Hắc-

Hỏa-Lạp-Ni Gia-Châu; là (Afrique du Nord), ít có ngƣời đến đặng.

Lại còn nhiều chỗ quốc độ, sơn, xuyên, cẩm-tú là tốt-đẹp phi-

thƣờng hơn Ngũ-Châu nữa. Đó là về cảnh BỒNG-LAI-NHƢỢC-

Page 35: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

35

THỦY, cảnh tƣợng phi-thƣờng Thần-Tiên vậy. Đây là đại-lƣợc

hình-thể và hàn-vi vận-hành châu-vi thƣợng-hạ và tứ-biên đó. Song

tổng cộng trong số Trời-Đất, chỉ có một-Ngƣơn mà thôi.

HỐI, SÓC, HUYỀN, VỌNG

Theo mặt Nguyệt xây giáp vòng một châu-thiên là: một tháng thì

lại phân ra có: Hối, Sóc, Huyền, Vọng nữa (1)

Bởi mặt Nhựt, mặt Nguyệt thì có lao-chao, ánh-lòe, ấy đó là:

1) Lấy mặt-Nhựt thì sáng lửa,

2) Còn mặt-Nguyệt thì sáng nƣớc đó vậy.

3) Và Nguyệt với Tinh, thì không có sáng, chỉ nhờ mƣợn lấy

tia ánh-quang của mặt-Nhựt giọi vào trong, mà làm ánh sáng.

TẠI SAO MẶT-NGUYỆT ĐƢỢC SÁNG HƠN MẶT-NHỰT?

A. Đó tại mặt-Nguyệt ở nơi CỬU-TRÙNG-THIÊN ( lớp thứ 9); mà

là chỗ gần với loài-Ngƣời vậy! Vì gần Nguyệt-luân-Thiên vậy.

Còn mặt-Nhựt thì ở tại lớp Trời thứ sáu (Đệ-Lục-Trùng-Thiên),

đã xa mà lại ở ngoài, cho nên ngày Hối, ngày Sóc thì hơi mặt-Nhựt

chiếu vào mặt-Nguyệt ở phía trên, cho nên ở phía dƣới mặt Nguyệt

không có ánh sáng soi xuống.

Qua đến ngày Huyền (là ngày mùng 8), thì mặt Nguyệt qua

phƣơng Đông; nên mặt Nhựt soi thấu trong đặng, thì mặt Nhựt

nƣơng theo một bên, mà chiếu soi; lần lần có một lằn ánh quang

sáng soi; ở dƣới trông lên thì thấy dƣờng nhƣ là có thấy: Nhựt-

Nguyệt tƣơng đối; mà là lối mặt Nhựt đƣơng xuất lộ ánh dƣơng-

quang mà soi bề dƣới của mặt Nguyệt đặng tròn sáng vậy; đó là mặt

Nguyệt tạm sự sáng của mặt Nhựt mà soi đó.

1) Còn chỗ nói tƣơng-đối, ấy là: do chƣng mặt Nhựt đi theo

đƣờng Huỳnh Đạo.

2) Lại mặt Nguyệt đi theo bốn mùa của Ngũ-Hành nhƣ:

1. Mùa Xuân, mặt Nguyệt hành nhị-Thanh.

2. Mùa Hạ, hành nhị-Xích.

3. Mùa Thu, hành nhị-Bạch.

4. Mùa Đông, hành nhị-Hắc, theo trong tám phƣơng

gồm lại mà nói: Theo bát Đạo (Tám-Phƣơng) đó; đều là ánh Tà-

Quang của đƣờng Huỳnh-Đạo, giọi-soi trong ngoài vậy.

Tuy tƣơng-đối mà thật là, chẳng thật tƣơng đối (2), vì nhờ bởi

mặt-Nhựt giọi vào bán-biên của mặt-Nguyệt vậy.

__________

(1) Hối, Sóc, Huyền, Vọng là ngày 30, mùng 1, ngày mùng 8 và

ngày Rằm.

(2) Tƣơng-đối mà chẳng tƣơng-đối, là: chỗ ngay nhau, mà bị vừa đi

vùa chiếu cách rất tý-mù.

oOo

14. TỨ-DƢ CỦA TINH-HOA

TRỜI-ĐẤT

1. Nói về Tứ-Dƣ của Trời-Đất.

Tuy là tƣơng đối mà chẳng đặng chánh, dựa theo bên mé mà xây

và chiếu đó thôi.

Page 36: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

36

Nếu nhƣ mặt nguyệt chung-giao đủ dều của Đạo Càn-Khôn, mới

là “Tƣơng-Đối Chính Vị” vậy. Nhƣng mà tƣơng đối chính-vị nhƣ

vậy, thì Đất ở giữa đã bị ánh sáng của mặt nhựt kia che lấp mà là:

mặt “nguyệt bị nuốt” vậy.

1) Ví bằng trong lối Hối là ngày 30 và mùng một (Sóc),

Nhựt-Nguyệt đều xây, mà đồng đi, đều đem lại Ánh-Quang, lại bị

Nguyệt-phách chở che. Mà là: “mặt nhựt đã bị nuốt bít-lấp” vậy.

2) Thửa chỗ giao-xứ gần mặt nhựt, đó là Trời thứ 6 của

Nhựt-Luân-Thiên; ấy là Thiên-Thu mà là La-Hầu đó; mà mặt nhựt

là: Dƣ-Hỏa vậy. Cớ đó mới nói rằng: “Hỏa-Chi-Dƣ” (2)

3) Lại lấy chỗ thƣờng Dƣơng-Đạo ánh kia, nên nói là: “Thổ-

Chi-Dƣ”; bởi vì Bộc-Tinh, sanh nơi Nguyệt mà ra; nhƣ mặt Nhựt đi

chậm hay mau vô chừng ! Chỗ mà Nguyệt đi chậm lắm đó, thì bèn

sanh ra “Bộc”, vì mặt-Nguyệt thuộc Thủy, cho nên Bộc là: thuộc

“Thủy-Chi-Dƣ” vậy.

4) Còn Khí thì sanh nơi Nhuận; cứ hễ 28 năm thì là: có 10

lần NHUẬN mà là: Một-Châu-Thiên của Khí đó, mà Nhuận là

chung dƣ của năm vậy. Cho nên mới nói là TỨ-DƢ.

__________

TỨ-DƢ: gồm lại mà nói: đó là bốn món Dƣ của Trời vậy.

oOo

15. TÍCH-ĐỊA-HOÀNG-KINH PHÂN THIÊN-CAN, ĐỊA-CHI, và NGƢƠN-HỘI ĐỘ-SỐ.

__________________________

Đây nói về Thế-Hệ và Công-Nghiệp khai-thác của Tam-Hoàng và

Ngũ-Đế lƣu-truyền đến nhiều đời, cùng sự lợi-ích giúp đỡ cho

nhơn-sanh, lối mở-mang ban-đầu.

THIÊN-HOÀNG-THỊ:

Chí Tam-HOÀNG truyền giả, thì lần xa Càn-Khôn, vì đã quá

Khảm-Ly rồi. Duyên cớ đó: mà ông KHƢƠNG-TIẾT-THIỆU mới

nói rẳng:

1) Thiên-Khai ƣ TÝ, là: Địa-Lôi-Phục-Quái.

2) Địa-Tịch ƣ SỬU, là: Địa-Trạch-Lâm-Quái

3) Nhơn-sanh ƣ Dần, là: Địa-Thiên-Thái-Quái, rồi tới:

4) “ Lôi-Thiên-Đại-Tráng-Quái.

5) “ Trạch-Thiên-Khuyết-Quái.

6) “ Càn-Vi-Thiên-Quái.

7) “ Thiên-Phong-Cấu-Quái

8) “ Thiên-Sơn-Độn-Quái.

9) “ Thiên-Địa-Bỉ-Quái

10) “ Phong-Địa-Quang-Quái

11) “ Sơn-Địa-Bát-Quái.

12) “ Khôn-Vi-Địa-Quái.

Cứ vậy rồi châu-nhi-phục-thỉ, đủ 12 cung làm một-ngƣơn, mà chỗ

chung-kiết, là tại Cung-Khôn vậy. Cho nên xét rõ ra, thì Bàn-Cổ

thỉ-sanh ra sau Trời-Đất, mà sanh ra tại Dần-Hội. Lần lấy nơi ấy thì:

1) Thiên-Hoàng sanh nơi Dần-Hội.

2) Địa-Hoàng sanh nơi Mẹo-Hội.

3) Nhơn-Hoàng sanh nơi Thìn-Hội.

4) Tới Ngũ-Đế tại nơi Tỵ-Hội.

5) Sấp đến đời Hạ-Võ (Bát-niên) mới vào Ngọ-Hội.

6) Truyền lần đến Mùi-Hội.

7) Rồi Thân-Hội.

Page 37: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

37

8) Kế Dậu-Hội.

9) Tới Tuất-Hội.

10) Nay tới Mạt-Pháp, Thiên-Khai-Huỳnh-Đạo (Vì bị bế đã lâu),

mới cứu-kiếp, Nhơn-sanh phản hồi Thƣợng-Cổ, qui-nguyên phục-

bổn, đó là đã đến nơi Hợi-Hội, là mạt chung-kiết vậy.

Nhắc lại: sau khi Đức Bàn-Cổ-Thuần-Dƣơng qui Thiên-Thƣợng

rồi, thì nhị-khí Âm-Dƣơng giao-cảm dung-kiết, lần-lần mãi-mãi,

mới sanh có Ngƣời nối-nhau mà ra Đời.

A. NÓI VỀ NGƢƠN-HỘI CỦA TẠO-HÓA:

1) Một-Ngƣơn có 216.000 năm, mà Ngƣơn đầu là Tý, kế Sửu, Dần,

Mẹo, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi đó.

2) Một-Ngƣơn thì có 12 hội (1 hội thì có 18000 năm). Một hội lại

thống 30 vận (Mỗi-vận 600 năm), mà 1 vận là 12 thế. (Mỗi thế là

50 năm).

Trƣớc đây, trên một-Ngƣơn của Thiên-Địa vậy. Trong cả Vạn-

Quốc Ngũ-Châu đâu cũng là huê-huê thế-giái cả. Không ngờ đến

Thân-Hội bèn mất thứ-tự, từ-từ mờ-mịt không có ngày đêm, hàn-

nhiệt lộn-xộn, ngũ-cốc chẳng sanh. Qua đến Dần-hội, lại càng tệ

hơn nữa, không còn Quân-Thần, Phụ-Tử, hết văn-chƣơng chữ-

nghĩa phân-minh nữa. Lần đến Tuất-Hội thì gần-tuyệt chủng chỉ có

20 ngƣời mà thôi! Lúa gạo tuyệt giống, dân bèn ăn đất, trai-gái gặp

nhau thì giao-giao rồi bỏ đi. Rồi bèn có chửa, thì là chỉ biết Mẹ, chớ

không biết Cha, đƣờng sá bất thông, lần-lần Nhơn-Vật đều tiêu hết.

3) Đến Hợi-Hội Trời-Đất tối-tối, mờ-mờ; Nhựt-Nguyệt sơn xuyên,

điều lu-câm cả. Bất-giác: Trời-Đất hỗn-mông lại khởi thông đến

Tý-hội, lần-lần có hơi mờ sáng ra, thì Nhựt-Nguyệt lần lần lại đến

quang minh, rồi Trời mở hơi sáng, ánh sáng lần giọi, đó là Phục-

Thỉ rồi châu nhi vậy.

4) Bƣớc đến Sửu-Hội thì có Thủy-Thổ, Sa, Thạch, dần dần phục-

sanh, lần lần lại tựu hợp ngƣng-kiết mà thành ra đất.

Con Ngƣời sanh ra tại Dần hội.

5) Lại đến Dần-hội, tại sau lƣng núi Đại-Man-Sơn, có khối đá kia

thọ Thiên-Địa Chí-Linh-Tú, huân-chƣn ….

oOo

16. SỰ-TÍCH NHƠN-HOÀNG.

_________________________

Nhơn-Hoàng-Thị ra đời lấy Thổ-Đức làm vua mà bình trị Thiên-

Hạ và giáo hóa thiện dân, độ an bá tánh, vạn vật đắc hàm hanh.

Đây nói về sau thời kỳ Địa-Hoàng-Thị đã hoàn toàn thế cuộc rồi;

liễu mạng qui vị Thiên-Cung, chứng thành Thiên-Đế, thì lại có

Nhơn-Hoàng-Thị tiếp theo mà chào Đời (kế Địa hóa dân), lập lại

cho đời càng thêm tấn hóa nữa, đƣợc thuần phong mỹ tục, nhờ có

hai ánh Nhựt-Nguyệt sáng soi, giúp sự ôn lƣơng bảo trợ.

THIÊN-ĐỊA GIAO-CẢM SANH NHƠN

Lối ấy bỗng nhiên Địa-Khí xung-Thiên, Thiên-Địa thọ động sanh,

lƣỡng-tƣơng bèn giao-cảm, xuất sắc tinh-hoa của khoảng Hồng-

Mông, Hồng-Mông vừa phân tán; tiếng-sấm vừa nổ qua, vừa rồi, thì

tại trong khoảng núi này (là núi Hình-Mã-Sơn), có xuất ra đặng

Page 38: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

38

Cửu-Vị nguyên-nhân hài-nhi Vạm-vỡ. (mà lối Thiên-Địa giao thới

sanh Nhơn đó), hình-dung dị thƣờng!

Khi Cửu-vị Nguyên-Nhân bƣớc ra khỏi núi Hình-Mã rồi, bèn để

chơn xuống đất, đi dạo vòng quanh khắp núi, cho đƣợc rõ biết cuộc

Vũ-Trụ, hành-vi chuyển-động, mà có các Ngài ra đời.

Vừa đi vòng quanh Núi, Sông: thì mấy vị Hài-Nhi đều thảy thảy

hóa ra cao lớn, Vậm-vỡ phi thƣờng, nhơn gian hi-hữu; mà đó là đủ

Tam-Tài sanh lộ, cho nên đến ngày THIÊN, ĐỊA, NHƠN vị chi

tánh lý, nguyên-căn TAM-TÀI; mà là “Hữu-hình hữu-tƣợng” đó

vậy. Mà duy-nhứt có: Đức-Nhơn-Hoàng-Thị là trội hơn các Em

Ngài, và đƣợc to-lớn, béo-dung, dị-sắc hơn tám Em của Ngài, lại

còn có lắm sự kỳ-tài, thông-minh xuất-chúng, bạt-tụy siêu-quần,

kinh-Thiên vĩ-Địa, tối-tân phi-thƣờng, độc-nhứt vô-nhị vậy.

A. HÌNH-TƢỢNG NHƠN-HOÀNG.

Tƣớng mạo của Ngài là: Mặt thì trắng, răng lại đen, đôi-mắt tợ sao

băng, tiếng nói nhƣ đồng-thinh, bề cao ba trƣợng, có sức dời núi

phân sông. Lại còn chia ranh, định tâm thiên hạ về: Thƣợng, Hạ,

Trung-lƣu nữa vậy. Ngài chia Trái-Đất Địa-Cầu ra làm 9 ven khu-

vực; Ngài bèn tự-trị một khu, làm nơi Đế-Đô chánh thống (Hoàng-

Thành).

Còn tám Em Ngài mỗi vị cai trị mỗi nơi, một hoành khu-vực, mà

sƣng Vƣơng vị, lấy họ là “CƢ-PHƢƠNG-THỊ” (1).

Thời đợi lối này: cũng còn Mang-Vu vô-định; phong-khí lần-khai,

thổ sanh trực-sản, thời-tiết vừa phân, vạn-vật vi hình, quần sanh

hữu-tƣớng; đồng thọ ơn-lành của Tạo-hóa, tự-nhiên nhƣ nhiên mỹ-

tục thuần-lƣơng phong-điều võ-thuận, an-cƣ lạc-thú; nơi-nơi đều có

lâm-sơn thạch-động khe-suối rền-reo, điểu-thú, phi-cầm thinh hô

thảnh-thót, lạc tại kỳ-trung; có thứ lại hầm-hừ, chấn-khởi, ầm-ỳ,

qua ngày mà đặng khỏi đều sanh sát. Cho nên thánh đức âm-thinh

chấn động, Nhơn-vật đồng cƣ hữu-sở, thú-tình điểu-bạn, hỉ-lạc

tƣơng-nhu, mà vẫn còn trần-truồng, lá-đắp che-thân, da-thú bọc

ngƣời, trăm-đều hủ-lậu, là trống mái, coi nhau dị-hình quái-thể,

cƣời rộ ầm lên, đoạn rồi chia nhau bỏ chạy, đi nhau.

CÓ BA ĐIỀU; LÀ:

1) Kẻ-Trống, lƣờm ngó ngƣời-Mái, mà nói: Sao Mi ở-dƣới lại có lỗ

hũng-khuyết là khuôn-lũng đó chi vậy?

2) Trái lại, ngƣời Cái lại hỏi kẻ Đực rằng: “Anh sao ở-dƣới cần đì,

lại có khúc-thịt-dƣ ra? (là: đột-lồi rất nên quái-dị!)

Hai bên hỏi nhau vậy, rồi bèn cƣời ầm lên, kéo ra bỏ đi tán-tán rời

rã.

____________

(1) Tịnh-Cực-Động-Sanh, do Âm-khí bất-mãn vậy.

B. NAM-NỮ TƢƠNG-PHÂN

3) Có một ngày kia, bỗng nhiên cái dƣ của đứa Đực lại phát dục-

dâm lên (thời kỳ dƣơng-động) vì dƣơng di khắc âm, thành ra

dƣơng-âm tƣơng cảm dục-giao; mà bèn muốn lƣu-luyến ái-tình, là

lẽ cố-nhiên, theo cơ-lý của Âm-Dƣơng tƣơng-phản.

Thì bấy giờ, kẻ Đực bèn nói với ngƣời Cái rằng: “Ta có cái dƣ lấp

thiếu của Ngƣơi, lấy dƣ lấp thiếu, coi ngƣơi tính ra sao?”. Ngƣời

Cái bật cƣời, ửng-đỏ má hồng, vui-vẻ thơ-thới, hàm-tiếu liên-thinh

(trúng-ý dục-tình) !.

“Có lẽ lấy chỗ-dƣ mà lấp, do nơi bất-túc, thì là hữu-ích vậy”.

Page 39: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

39

Nói xong đoạn bèn ôm Ngƣời Cái kia, mà hôn-loạn, giao-dâm

(hay lấp-lỗ). Khi toàn giao mãn-cuộc, ái-ân tình-sƣớng rồi, Nữ bèn

chuyển-động cả tứ-chi, bá-mạch, cửu-khiếu xung-thông, mỹ-ý điều

khai, thì con ngƣời bấy giờ, rất lạc-quan diện –mục, bởi khoái

sƣớng xác-thịt, vô cùng hỉ-khí !.

Con Ngƣời từ đây mới hoan-lạc mỹ-mãn, vui thú sống đời, lấy chỗ

lạc-dâm nhã-tình làm căn cơ nơi đôi bạn vậy. Là nơi thú-hứng

hoàn-toàn giao-cảm đó ! Đó rồi họ bèn hô-truyền ra, lấy sự giao-

cấu tƣơng-cảm, làm nơi dâm-lạc là có hiệu-quả mỹ-tình. Vùa hết

cả-thảy dân-gian, đều noi theo giao-cấu y-nhiên đều vậy. Đƣợc chỗ

khoái-tình, giao-hạp tự-nhiên phát-khởi từ đây..

a) Đoạn mới phân ra cái dƣ là Nam (HÙNG).

b) Và chỗ khuyết là Nữ (THƢ).

Thì bây giờ, mới có: Nam, Nữ phân biệt, bất-đồng-tịch đó. Chẳng

gọi trống-mái nhƣ xƣa nữa vậy.

c) Đây nói về từ khi Nữ chịu cho Nam giao cấu.

Về sau lần lần, bụng đã thọ dƣơng-khí vào lòng, hòa lẫn âm-khí,

bị lấy động-tịnh chi-cơ, bỗng nhiên bụng lại phì-phùng ớn, đó là

noãn-chấu đã có “Ký-Sanh-Trùng” vào trong Thái-Cực-Đồ rồi, mà

Nho gọi là “Dƣơng-thí âm-thọ tại kỳ trung”, tức thị phôi-thai dã !

Do cơ động-tịnh chuyển sanh, trải qua 10 tháng, thai-nhi đủ đầy,

bèn sanh có đƣợc một gái, hai trai (do tại cảm tƣởng trƣớc sau) mà

là: động-tả sanh Nam, tịnh-hữu sanh nữ, Ngƣời hình giống tạc, tƣ-

tƣởng y nhiên.

Thì từ đây con Ngƣời mới sanh ra có con Ngƣời vậy, mà là Nhơn

đắc-sanh Nhơn đó.

Đó là dấu chỉ về Nhơn thọ bán-Âm bán-Dƣơng, hòa huyết mà

đặng thân sanh, mới có cái mảnh thân tứ-đại này. Vậy là hết Càn-

Khôn tƣơng-đối, tới hồi “Khảm-Ly giao-cảm” hóa thành, do chỗ

phàm tình giao-cấu phát sanh đó. Bởi đây là hết lối Trời-Đất giao-

cảm tƣơng-sanh Nhơn mà hóa hình thể nữa; đến “Nhơn hiệp đắc

Nhơn”.

d) Nhơn Nhũ-Bộ Dƣỡng-Dục thành Nhơn.

Từ đây Mẹ mới biết nuôi Con, Cha lo làm mà bảo-trợ, hộ-ủng hài

nhi, kẻo loại dữ vào xâm lăng, thì mới đặng có trọn niềm Phu-Thê,

tình thâm Phụ-Tử vậy. Có Chồng-Vợ, Huynh-Đệ, Cha con, mới

gồm ra thân tộc, họ hàng hòa giao, tƣơng thân, tƣơng ái, tôn sùng

Tổ-Tiên, mới bày ra Luân-Thƣờng, các vi vị Chủ, hữu-độ phân cƣ,

không còn dâm loạn nhƣ xƣa nữa, thì ra lối Ngƣời này:

a) Quân thị minh Quân.

b) Thần giả lƣơng Thần.

c) Dân thị hiền Dân.

Phu-Thê cung-kỉnh, hiếu-tử tình thâm, mới có ra lễ nghi, tôn ti

thƣợng hạ, nên ra vẻ lạc thú hòa-bình, quân-lƣơng hiền-hiếu chi-

đạo. Nhờ ân nặng, bày ra lân lần mãn-dinh, đủ-đều, có luân lý tấn-

thối; xuất tắc cáo, phản: tắc diện; mà ra trật tự; Vẫn không còn là:

thấy nhau cƣời nhau, và bỏ chạy đi, cùng là giao-dâm loạn-thú,

cùng nhau, với nhau, nữa vậy. Mà là luật cấm “vô hôn bất hiệp” đó.

Anh em của Nhơn-Hoàng-Thị có trọn 9 ngƣời, công đồng tiếp trị,

thiên hạ thái-bình, nhơn dân hộ-lạc, lễ-nghĩa tƣơng-thân, thần dân

đồng hành nhứt luật, cả thảy đều tung hô là thời kỳ “Sanh Nhơn đắc

Nhơn đó”. Có đủ đầy đại-lễ thú-giao, luân-thƣờng thế-hệ, kỵ-lạp

Tổ-Tiên, báo ân sanh-dƣỡng, cúng-dƣờng Ma-Ha.

Anh em đồng hƣởng-thọ tuế-Thiên, đều cả thảy đƣợc một trăm-

năm-mƣơi-sáu-ngàn (156.000) tuổi thọ.

Riêng phần NHƠN-HOÀNG ƣớc đặng thọ tuế 17.333 tuổi. Cộng

chung về THIÊN-HOÀNG-THỊ, ĐỊA-HOÀNG-THỊ, đều thọ

Page 40: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

40

hƣởng tuổi xuân của TRỜI-ĐẤT ân-toàn, thâm giao hiệp-tác, thuần

dƣơng đặng ƣớc là 456.000 năm dƣ đó vậy.

THI:

NHƠN vƣơng CỬU-VỊ, MÃ-Hình-San,

HOÀNG dựng NHƠN phong, HÌNH thể Càn.

XUẤT chúng SANH bình, SƠN thủy đối,

THẾ thời TẠI hƣởng, TRUNG khai-hoàn.

_________________________________

TỔNG-LUẬN:

Công đức NHƠN-HOÀNG khai thác nhơn-gian.

Nói NHƠN-HOÀNG-THỊ, và công đức cao cả khai sáng, tịch-địa,

phân nhơn-gian của NGÀI, tại không-gian-xứ, và ân đức bảo tồn

nhơn sanh, và hành vi hạnh hƣởng phƣớc duyên của NGÀI đã tự

lập, và 8 em của NGÀI đồng tâm, chung trí mà trị thế, cho có cuộc

hòa-bình, khai lâm-sơn, khoáng-sản, sáng-lập sơn-hà giang-sơn

cẩm-tú, với tạo-chúng hiệp-quần, lập phƣớc thiện, mà khuyến nhơn,

tài-bồi âm-đức, hầu cho nhơn dân an cƣ lạc-nghiệp.

1) NHƠN-HOÀNG-THI, sanh ra anh em đặng chín vị đồng

sanh ra tại núi “MÃ-HÌNH-SAN” mà ngài là tài cao, đức cả hơn

hết, thông thấu huyền-ky chỗ ẩn-diệu lý nan-lƣơng của thiên-cơ

diệu-lý, hơn 8 em của Ngài. Ngài đặng có trí hóa quảng hƣợt hơn

trăm phần ngƣời. Cho nên Ngài là “Trƣởng-Thủ-Quân” quản thống

tại Trung-Ƣơng khu-Vực.

2) Còn lại về 8 Khu-vực kia, dành riêng cho 8 em Ngài, mối

ngƣời một khu vực, mà cai trị nhơn-quần.

3) Ngài lại còn phân biệt con ngƣời ra có bên Nam-bàn và

Nữ-phái, không còn lẫn lộn lả lơ, gọi là giống đực và giống cái nữa.

Lại có một lần kia, tới thời kỳ thiên-không chuyển-động hòa-

thanh, Thiên-Địa giao-thới, động tịnh khắc sanh, bèn xuất lộ sƣơng-

tuyết xuống-sa, hóa-sanh, sanh-hóa, làm chuyển động Càn-Khôn,

làm cho nhơn loại và thú cầm phải ảnh-hƣởng, theo cơ vận-động,

tịnh-sanh, của lƣỡng-huyền, chi-khí, bán-âm và bán-dƣơng mà

giao-cảm, thành chịu phôi-thai, mà có tƣợng vậy! Mà là bèn có ra

con ngƣời sản xuất đó. Không còn Thiên-Địa sanh-sản nhƣ xƣa, là

trên Trời rớt xuống hay dƣới Đất chun lên nữa vậy.

Đâylà do có Âm-Dƣơng hòa-hảo, tuyết-khí nhểu xuống trung-gian

bởi bán Âm-Dƣơng theo về cơ lý động tịnh, mà biến-sanh, sanh-thọ

vậy, mà có ra nhơn-loại sanh-sản đó.

Đây là về lối nhơn-loại đặng nhờ ơn hóa-sanh, đã thọ điểm linh-

quang mà hƣợt-động, có ra nhơn-hình, mà là cũng Thiên-Nhâm

khai, Địa-Quí động, của nam-nữ lƣỡng-tƣơng khắc-sanh, sanh-khắc

hòa-giao, xuất linh thành tƣợng vậy.

Về khắc-sanh làm cho NAM (Dƣơng) sanh-khí khởi phát, và

NỮ(Âm) hàm linh-xuẩn-động, lƣỡng-tƣơng, bèn mới dục-giao, nhi

tự chí khoái-sƣớng; hậu kỳ giao-cảm thất-nhựt, thì thọ Âm-Dƣơng

câu-kết. KHÔN-NỮ đắc dựng, mà phôi-thai, chí kỳ thập-cá ngoạt

nội, sản thành nhứt-cá hài-tử, xuất-thế nhơn-hình, hoàn-toàn tánh-

mạng giả dã!

Từ đây mới có sính-lễ giao-bôi, hôn-phối đại-lễ thành-song, mà

cƣới gả cùng nhau, và phân-biệt Nam-Nữ bất đồng tịch thực đó,

mới có ra phụ-tử tình-thâm, phu-thê nghĩa-trọng, quân-thần hữu-

biệt, huynh-đệ tắc-cung, đó vậy.

Mà là thời-kỳ đặng “NGŨ-LUÂN-TOÀN-HẢO” ấy vậy.

Page 41: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

41

Sau có năm-vị NGŨ-LONG ra đời, kế-trị cũng đặng mỹ tục thuần-

phong, nhơn-gian lạc-cảnh. Khi qua rồi, mới lần đến TOẠI-NHÂN

và PHỤC-HY.

TẶNG NHƠN-HOÀNG KHAI-THẾ

BÀI:

Trung gian dƣơng xuất khai-thành,

Truyền Nhơn, Thiên, Địa cao thanh TAM-HOÀNG

ĐỊA-HOÀNG qua, sấm vang ánh dậy,

HÌNH-MÃ-SAN, bỗng thấy chín bông (ngƣời)

Lớn hơn: ĐỊA-HOÀNG minh thông,

Mình cao ba-trƣợng, đứng trong đất bằng .1

Lấy Thổ-đức, xƣng rằng “Vƣơng-Vị”,

Thế thiên-hành, cai-trị nhơn-gian,

Mỗi Em: khu vực đàng hoàng,

Riêng ra mới gọi, “Cƣ-Phƣơng-Thị” đoàn. .2

Phần anh Cả, “Nhơn-Hoàng-Thị” đế,

Giúp nhơn-gian, bài lễ giao-ngôn,

Phân ra: Nam, Nữ thành hôn,

Bỏ tiếng Cái, Đực, dứt ngôn cựu lề. .3

Cứ một dạ, chẳng xê lòng một,

Không ghét nhau, chia ruột ra nhau,

Cùng nhau: chung hƣởng một bầu,

Khắp đều gia-tộc, vực khâu an-nhàn .4

Hƣởng một-muôn, Tám-ngàn tuổi lẻ,

Truyền nhiều đời tới đảng Ngũ-Long,

Năm-ngƣời: trị thế một dòng,

Phong-điều võ-thuận, Thiên-công roi truyền. .5

Chẳng hình luật, dân yên, tội giảm,

Gông với cùm, mƣa thoán, mục hƣ,

Vì chƣng: Chúa đứng nhơn-từ,

Chẳng đành dạ phạt, dân-cƣ cho đành. .6

Đây là: cùng cuối Đạo-lành,

Hậu-Thiên (Ngũ-Đế) cơ dành nối sau.

Hiệp Thiên-Can, Địa-Chi vào,

Thành ra Hoa-Giáp, 61 hào giúp giao.

Này con: vận-khí truyền trao,

Châu-niên lƣu-ký, âm-hao để đời.

Lòng ca tụng, đức chiều-mơi,

Âu ca lạc-nghiệp, nhờ Trời bố ban.

THI:

Hết Ngũ-Long truyền, đến Phục-Hy,

Thần-Nông, Huỳnh-Đế, một thời-kỳ,

Bƣớc qua Nghiêu, Thuấn: xƣng NGŨ-ĐẾ,

Thạnh, loạn, lê dân, bởi Khảm-Ly

________________________

NHƠN-HOÀNG TỔNG-LUẬN

Về “Nhơn-Hoàng-Thị” và công đức khai-sáng, và bảo-tồn sanh

mạng.

“NHƠN-HOÀNG-THỊ” .- Ngƣời đời này, hƣởng thọ rất miên-

trƣờng, đặng vinh-hiển, bền-lâu, muôn muôn tuổi thọ.

Vì “Nhơn Vô Ác Cảm Chi Tâm” (Giai xƣng Thánh-Đức chi vị

giả) .- Dứt đời này, mới tới đời Ngũ-Long-Thị kế theo mà ra Đời trị

Page 42: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

42

thế. Tính lại cọng chung cũng rất bền bỉ, lâu dài, hạnh thay! Đại-

Đức Nhơn-Hoàng-Thị và Bát-vị Cƣ-Phƣơng-Thị, đó là: Các Đấng

Đại-Thiêng-Liêng thủ sanh bảo-thế, độ dẫn sơ khai-chi Thƣợng-Cổ,

trong lối Thiên-Địa và Nhơn-Hoàng khai-tịch thế-gian, bảo-toàn chi

vạn-vật đó.

Kế “NHƠN-HOÀNG-THỊ”, có “NGŨ-LONG-THỊ” và 7 vị Đại-

Thánh-Nhơn nối theo ra Đời, giúp thêm công đức, ích-lợi cho dân

gian, và còn Tịnh-Tọa Tu-Kỷ, và làm lý-thuyết TRUNG-DUNG,

trở nên ngƣời Quân-Tử. Coi theo chỗ lợi dân về chữ (A-B-C-D-E-Ê

và G) yên tịnh thỉ rõ cách đời, của chƣ vị ĐẠI-THÁNH-NHƠN ở

Đời Thƣợng-Cổ.

BÀI:

Hết Khảm Ly, Càn-Khôn thay đổi,

Dƣơng hóa Ly, Khảm đổi thành Khôn.

Vì chƣng: Nhơn loại bảo tồn,

Ố-sát, háo sanh, phách hồn chia hai .1

Nên nỗi phải, Tam-Tài hao tán,

Lần hồi ra, mạng tán hồn lìa,

Cũng do: danh lợi kia kìa,

Con Ngƣời giành giựt, tiếng bia tục-phàm. .2

Rán học Đạo, tịnh tu tham

Trần-duyên dứt hết, định-thoàn là Tiên,

Rèn lòng: tâm-chí nhẫn kiên,

Nhờ-ơn thánh trí, dân yên thái-bình !.

Gia vô bế hộ nhơn linh

Địa-kiệt sản-xuất, Thiên-linh cứu Đời.

Đời coi: thạnh-thế thảnh-thơi,

Ca ngâm cổ phúc, nơi nơi thái-hòa.

Dạy Nhơn, Nghĩa, bảo tề-gia,

Tam-Ngƣơn, tứ-Quí, âu-ca an-nhàn,

Trăm hoa, ngàn trái đầy đàng,

Hi-ha, hỉ-tiếu, hoan-hoan lạc thành.

Sống thì lập-Đức gầy danh;

Thác vào Thiên-Tƣớng, Cao-Xanh phong Thần!..

oOo

17. NGŨ-LONG-THỊ (Là: thời-đại đệ nhị kế NHƠN-HOÀNG)

A. NGŨ-LONG-THỊ

Đồng triều, cộng trị Ngũ-Phƣơng, bố liệt sơn nhạc, giá-võ thừa

Ngũ-Long, dĩ trị Thiên-Hạ, hành Vô-Vi-Chi-Hóa (1).

Mãn lớp NGŨ-LONG-THỊ thì lại có CƢ-LINH-THỊ nối theo mà

trị Đời. Vị anh hùng này, cũng là bạt-tụy siêu-quần, thế gian hãn-

hữu, Ngài có tài, nào là:

1) Áp đại-tƣợng, trị đại-quyền, qui Ngũ-Đinh chí sĩ.

2) Khƣu Âm-Dƣơng, phân đổi sơn-xuyên.

3) Ngài đại định mà gom thâu Ngƣơn-Khí vào mình. Ngài

đặng sống nhƣ Trời-Đất. Ngài sanh ra một thời kỳ với Ngƣơn-Thỉ,

tại đất Phân-Di. Ngài thƣờng cƣ Vô-hằng-xứ; nhƣng lập căn-cƣ tại

Thúc-Quận. Hết đời CƢ-LINH-THỊ, tới có nhiều họ nối trị mà khai

Đời!.

Duy có “CÂU-CƢƠNG-THỊ” ra trị, rồi tới Tiêu-Quang-Thị, Trát-

Quang-Thị, Câu-Trần-Thị, Huỳnh-Thần-Thị, Cƣ-Thần-Thị kế theo,

truyền lần tới Đại-Đơn-Thị, Linh-Vƣơng-Thị và Thi-Thƣờng-Thị,

rồi có một vị CỪ-KHÔI dị-nhơn nối theo, mà ra đời nữa là:

Ông “Thái-Nhứt-Thị” đó (Tạo-Hóa tiên-nhơn).

Page 43: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

43

Đến đời Thái-Nhứt-Thị, mới bày ra mà vẽ địa-đồ (2), từ đây vi thỉ.

Ngài lại có tài gom chƣng khí Đại-Hồng-Quang lại, luyện qui về

một; nơi đây thì sử nói Ngài là : Thanh-Khí Thần-Linh, mà lại đặng

trƣờng tồn vĩnh-viễn đó.

Rồi Ngài truyền đạo cho tới đời Huỳnh-Đế và Lão-Tử, bảo đạo trị-

nguyên, trị-thế giáo-dân, thì nhờ có bổn “Thái-Nhứt-Thiên-Thơ”;

ngài là: “Thái-Nhứt-Ngƣơn-Quân”, lƣu lai truyền thế vậy.

Hết LÃO-TỬ tới KHỔNG-TRANG-THỊ;

Kế có Khổng-Trang-Thị và Thần-Dân-Thị, dạy dân mới tập thâu-

thần lại mà sống đời; chỉ Ngài lấy sự thâu-thần làm căn nghiệp cho

Tinh-Khí tƣơng-thông, mà đƣơng-đầu với Võ-Trụ.

Qua hết đời KHỔNG-TRANG-THỊ, thì lại có nhiều vị anh hùng

xuất chúng, nối nhau mà ra trị Đời nhƣ là:

1. Y-ĐỀ-THỊ 2. THỦ-DÂN-THỊ và đời PHONG-THẦN-THỊ,

v.v…

Đời này vẫn còn là lõa-thể nhƣ xƣa cho nên mới có ông THINH-

PHONG-DÂN bày ra lột da các thú cầm đặng dệt áo (nhƣ đệm vậy)

mà che tuyết sƣơng, đấp cật khỏi lạnh, chế ra chầm nón che dầu,

khỏi nắng, khỏi mƣa. Thần dân tuân đó, đều làm theo mà đƣợc che

thân kín đáo khỏi còn lõa thân hình; dân-gian đồng tôn Ngài là: “Y-

BÌ-SÁNG-CHẾ-TIÊN-NHÂN” truyền xuống đƣợc bốn đời là:

1) Thúc-Sơn-Thị 2) Quai-Trát-Thị

3) Hỗn-Độn-Thị 4) Hỏa-Bích-Thị.

Đều ƣa sanh, ố-sát, chỉ tìm ra mà dùng, không hay giành giựt với

nhau. Thiên-Hạ đặng ngƣời hiền đức, rất kính mến, chuộng điều-

đình mà đƣợc thái-bình Thiên-quốc. Trời-Đất xung hòa, bèn nhỏ

thoại-khí trinh tƣờng để mà độ nhân gian; nên đặng hòa bình và

thạnh-trị. Đến đỗi mang-điểu chi sào huyệt khỏi hại, cùng đem lời

hát liếu-lo, giọng thảnh-thót, chào-mừng mà tỏ ra lòng kính-mến,

mãn ƣ cực-xứ.

Cai trị đặng bảy Đời, truyền tới Đông-Hộ-Thị.

Đông-Hộ-Thị tránh tranh-đấu-sát.

Tới đời này, cầm thú thành bầy, hóa ra nhiều-đoàn; tre và cây đều

hóa ra đại-mộc sum-sê, lại sanh dị-hình, dị-tánh đó, truyền lần-lần

tới Hoang-Dâm-Thị, rồi Khai-Thông-Thị và Kiết-Duy-Kỳ-Cƣ rồi

tới Hy-Di-Thị.

Đoạn lần-lần tới Hữu-Sào-Thị, mà ngƣời đấu ngƣời, phải phân cƣ

mỗi chỗ mỗi nơi, nếu chung lộn, thú-cầm xé-ăn, vậy vay!.

B. HỮU-SÀO-THỊ Dạy dân cất nhà làm ổ

Tới Đức Hữu-Sào-Thị đây thì nhơn vật thƣờng tƣơng tranh tƣơng

phản, vì ngƣời ỷ mạnh đàn-áp điểu thú, mà diệt sát thú cầm, ăn

ngon nuốt béo, xem ra quá hung-ác. Ngƣời chẳng còn Đại-Định

thâu ngƣơn-thần và chẳng có chút lòng nhơn với thú-cầm.

Thành thử ra thú cầm bèn cho loài Ngƣời là quân cừu-địch với

chúng nó, hễ thấy thì chụp xé banh ăn, chẳng còn chút tánh gì

tƣơng thân tƣơng ái nữa.

Duyên cớ đó, cho nên Hữu-Sào-Thị bèn bày ra, xẻ cây cất nhà,

tháp ổ mà ở nƣơng cho khỏi nạn thú cầm banh xé vậy; để thế cho

hang-lỗ, chẳng còn chung lộn với thú nhƣ xƣa.

Đói thì ăn rau cỏ, khát thì uống nƣớc suối, bớt ăn thịt thú, một thời

gian khá dài, rồi lần lần nhịn nhục chẳng đặng, trở lại bắt thú, giết

cầm, mà ăn sống sít với nhau, cứ vậy hoài ….

Page 44: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

44

Ngƣời ta mới cho tên là: “Nhự-Mao-Ẩm-Huyết” vì Đời này chƣa

có lửa để dùng nấu nƣớng mà ăn. Truyền đến hai Đời Vua thì tới

Toại-Nhân-Thị là Ông Tổ tìm ra có lửa.

HỮU-SÀO-THỊ (Tích-sử và Bài Ca-tụng).

HỮU-SÀO-THỊ dạy dân làm ổ trên cây và cất nhà mà ở thế cho

hang-huyệt.

Vì thời kỳ ấy, nhơn vật vẫn còn tƣơng-tranh, tƣơng-phản; ngƣời ỷ

có sức mạnh đàn-áp điểu-thú, phi-cầm, đặng ăn-ngon, nuốt-béo.

Xem qua rất quá ƣ hung-hăng ác-độc, chẳng còn Đại-Tịnh thâu

dƣỡng Ngƣơn-Thần; lại chẳng chút lòng nhơn-ái với chủng-loài là

gi! Chỉ trăm đều thi-thố, còn hoang đàng du-đảng lắm; nên thành

thử ra các tẩu-thú phi-cầm, bèn coi loài ngƣời là quân-giặc, cừu-

địch với chúng-nó vậy. Vì còn vô-nhơn-đạo, bị chỗ ở miếng ăn; hễ

thấy nhau thì chụp-xé banh-ăn, không có tình gì tƣơng-thân, tƣơng-

ái nữa.

Duyên cớ đó: cho nên Đức HỮU-SÀO-THỊ bèn bày ra đốn cổ-

thọ, xẻ cây cất gác, làm giàn, lấy tranh lợp nhà, che tổ dƣới đất, trên

cây, nƣơng náu cùng nhau, cho khỏi bị nạn thú-cầm banh-xé, xé-

banh; đặng thế cho hang-lỗ, chẳng còn ăn-chung ở lộn với thú-cầm

nhƣ xƣa!

Ngƣời đói thì tìm ăn rau cỏ, khát uống nƣớc suối-khe đỡ lòng, bớt

ăn thịt thú-cầm, cho ra có lòng đại-độ, khoan-dung, hòa-bình với

chúng-nó, và còn thƣơng yêu chúng-nó lại càng hơn ngày thƣờng,

không còn tranh đấu nữa!

Đƣợc vậy một thời gian quá dài-lâu, mà là đặng nhơn-đức, đức

quán Thiên giả-dã. Rồi lần lần lại xa Đạo-Đức, vì dục-Tâm phóng

khởi, nhịn-nhục chẳng đặng, bèn trở lại tánh cũ nhƣ-thƣờng, bắt

thú, giết cầm mà ăn, lại làm vui-vẻ hát-reo hò-múa (tại thực-nhục-

thể) !.

Cứ ăn-tƣơi nuốt-sống với nhau, cho lòng nhơn dục toại kỳ sở dục

nhƣ cựu-lệ. Cứ vậy làm hoài; ngƣời bèn đặt cho là đời “Nhự-Mao-

Ẩm-Huyết” vậy. Vì đời này vẫn còn chƣa có lửa đề dùng nấu

nƣớng mà ăn.

THI TẶNG HỮU-SÀO-THỊ

BÀI:

HỰU-SÀO-THỊ thƣơng dân ở lỗ

SÀO huyệt-cƣ, không chỗ ẩn nƣơng

THỊ thành: chải nắng dầm sƣơng,

Ngủ-cây nằm đá, náu-nƣơng qua ngày.

Dạy sanh-chúng thƣơng loài cầm-thú,

Dân của Trời, châm-chú yêu-nhau,

Cất đem: nhƣ thể đồng-bào,

Nhà làm trại-gác, trƣớc sau bốn bề.

Chẳng dùng ổ: tạm hề hang-huyệt,

Cùng lấn nhau, buộc-tuyệt hận-tình,

Chung lƣng đâu cật hòa-bình

Lộn-quanh bỏ hẳn, gia đình từ-đây.

Bày lấy tranh, lợp dày trên nóc,

Cột dây tre, lập ốc che mƣa,

Dùng cây gác kèo nhặt-thƣa,

Nên cao cây dựng, bít vùa vách phên.

Ban đêm đồng ngủ trên gát-chỏng,

Sáng chia ra, ngồi-võng đong-đƣa,

Page 45: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

45

Tạm đó: qua bữa nắng-mƣa,

Đói dùng rau cỏ, muối dƣa đỡ-lòng.

Ẩn núp đỡ lối võ-phong,

Cứu dân ấm lạnh, thật lòng hiền-nhơn.

Trăm điều, Ngài dặn tánh chơn,

Tầm phƣơng cứu khổ, keo-sơn lòng-lành.

Phƣớc lành: thấu đến Cao-xanh,

Nhơn dân đều đặng tâm thành kính cung.

Coi ngƣời: ra vẻ thung-dung,

Chơn-Tâm là Phật, chánh-trung vi Thần.

THI-ĐỀ:

“Dân-gian Ca-Tụng”

BÀI:

Đời đƣơng lúc hoang-vu, ngƣời-thú

Vẫn còn mê, biện-chú chƣa thông,

Vì còn: mới phân Hồng-Mông;

Quê-lành tánh-đức, đứng trong cõi trần.

Ƣa thong-thả, chẳng cần nhọc sức,

Mến tánh-lành, uất-ức chẳng cam,

Việc chi: chỉ ít muốn làm;

Một lòng tự ý, tự đam đến mà !

Chẳng ích-kỷ, chẳng xa-hoa,

Thân hình lam-lụ, cho qua tháng ngày,

Thân vẫn còn mang gai che lá,

Thƣờng ngồi trên nổng đá reo hò,

Buồn xem: lằn cánh của cò,

Vui trong bích-thủy, nằm co ngủ-ngày.

Việc chi-chi, mặc ai-ai,

Ngủ hang trốn huyệt, tháng ngày tiêu-diêu.

Những hạnh-phúc: phong điều võ thuận,

Đắc hữu-duyên, đắc dụng ngƣời hiền,

Hằng lòng: cứu độ căn-nguyên,

Cho dân yên ổn vẹn tuyền Thánh-Tâm

Đồng kính nhƣ: Đức Cao-Thâm,

Che mƣa, đỡ nắng, chẳng dầm mƣa-sa.

Ơn này tạc để Mẹ-Cha,

Muôn năm còn tiếng ngâm nga: HỮU-SÀO.

Dân-gian: thảy-thảy ƣớc-ao.

C. TOẠI-NHÂN-THỊ

Xem trên Trời thấy sao và Tinh-Thần Liệt-Tú biết có lửa, mới

dùng nhẹn vùi-lửa, đạp đá nhán sao mà ung lửa, hầu nấu nƣớng đồ

ăn cho khỏi sự tanh thúi.

Toại-Nhân-Thị có bốn vị Hiền-Thần vừa giúp là:

1) Minh-Sơn 2)Tất-Dục

3) Thanh-Bạt 4) Văn-Kheo

Đều giúp công thêm bình-trị, cho Toại-Nhân trị nƣớc, và bình-

quang thiên hạ vậy! Lối này vừa mới tầm ra lửa đƣợc, mà Ngƣời

còn chƣa biết cách thế nấu nƣớng đồ ăn. Ngài bèn dạy cách nấu

nƣớng đồ ăn.

Ngài chế lửa đầu tiên, vì nhờ Ngài xem tƣợng Trời và Tinh-Tú

biết có lửa nơi Trời; nên Ngài để ý nghiên-cứu mà tầm phƣơng lấy

ra lửa và dùng đó. Tuy là có lửa vùi-củi rồi, mà vẫn chƣa có thử-

chữ gì làm bằng tín, đoạn Ngài mới thắt gút cho dễ nhớ: Hễ vòng

lớn là: đại sự, vòng nhỏ là: tiểu sự đó. Ngài dạy dân hễ đứng bóng

là nhóm chợ và đem đồ đổi-chác lẫn nhau, mà ăn-mặc cho qua-

ngày, sống vậy. Thời-đại này: con ngƣời vừa đƣợc có lạc-thú mở-

mang !.

Page 46: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

46

Về đƣờng tấn-thối và thƣơng-mãi với nhau thông-thả, do nhờ

TOẠI-NHÂN dạy bảo, vừa đặng cả-thảy ấm-no; nên chúng dân-

gian đồng tôn Ngài là THOẠI-HOÀNG. Truyền xuống 8 Đời tới

DUNG-THÀNH-THỊ, rồi mạt thế, mới tới đời Phục-Hy-Thị nối

theo mà ra Đời.

TỔNG-LUẬN:

Thì Ngài ra từ: BÀN-CỔ-SƠ-KHAI, phân Thiên, tịch Địa, Nhơn-

loại trùng cƣ tới Tam-Hoàng, truyền tới đây, cũng rất lâu đời, kiếp

số khai-thác, lập-công, dựng-nền, xây-móng, mới tới Phục-Hy-Thị;

đây là dứt cuộc Tam-Hoàng rồi; là đời thuần-tâm-thƣợng-cổ, mới

đến Phục-Hy-Thị, là đầu tiên của Ngũ-Đế vậy.

E. PHỤC-HY-THỊ

Phục-Hy-Thị, là ngƣời xứ Thành-Kỷ, Mẹ Ngài là bà Huê-Tƣ-Thị,

nơi rạch Chữ, về xứ Hiệp-Tây (Trung-Quốc).

Ngày kia, bà Huệ-Tƣ-Thị thong thả dạo cảnh trong núi mà nhàn

du, bỗng thấy có một vì Cừ-Nhơn đi qua, dấu chơn còn-lại rất sâu

và lớn.

Bà Huê-Tƣ-Thị tình cờ bƣớc theo dấu chơn của Linh-Thần, tự

giác-ý, bèn cảm động tâm-thần, mới định-thần, chợt thấy có Hồng-

Quang xâm vào bụng, liền mang thai 16 tháng, Bà sanh vua Phục-

Hy tại xứ Thành-Kỷ (bây giờ là Hiệp-Tây).

Vua Phục-Hy Ngài sanh ra, bề-cao một trƣợng, 6 thƣớc, đầu nhƣ

đầu-beo, mình nhƣ rắn, sanh ra có nhiều đức-lớn, nhơn-dân cảm kỳ

nhân-hậu, bèn tôn Ngài làm vua.

Khi Ngài làm vua lấy Mộc-Đức xƣng vƣơng, lấy gió làm họ, định-

Đô ƣ “Khuyển-Kheo”. Ngài làm vua thƣợng hiệp Thiên-tâm, hạ

hòa Nhơn-vọng.

Có bầy tôi lƣơng-thần và em-gái Ngài là Nữ-Hoa giúp sức mà cai-

trị, thiên hạ phục-tùng.

NGÀI có 4 tôi là:

1. Cộng-công-Thị 2. Bá-Hoàng

3. Châu-Nhƣơng 4. Hào-Anh.

Và chƣ vị lƣơng-tƣớng phụ-tá, chƣ-hầu và bát-man, sơn-cầm tẩu-

thú mến đức, đều đến chầu Ngài đại đức hóa phƣơng.

Tinh-Huê Võ-Trụ xuống nƣớc lâu đời, hóa ra một con quái-vật,

thƣờng làm sóng tại sông Mạnh-Tân, Ngài bèn ngự đến mà xem

con quái vật ấy, có 8 cửa là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly,

Khôn, Đoài, đó là Bát-Quái.

Mỗi quái có 3 hào; Nhơn-Nhị Túc-Tƣơng mà phối-hiệp, rồi toán

ra 64 quái là: 384 hào.

Dạy dân quyết-định hiềm nghi, định chỗ dụ-dự, kiết-hung đắc

đoán; bày ra Thiên-Cơ ẩn-trắc ở trong, của Thiên-cơ bí-diệu nơi

trong đó vậy. Đoạn Ngài bày ra chữ mà dùng; nhƣng mà chƣa đƣợc

hoàn-toàn; sau có Ông Thƣơng-Hiệt bày ra có chữ (mới xong về

sách sử). Ngài trị nƣớc đƣợc 115 năm, rồi Ngài về chầu Ngọc-Đế.

Em gái Ngài là Bà Nữ-Hoa-Thị lên ngôi kế vị, mà trị lân-bang. Bà

có tài luyện Ngũ-Vân-Thạch, bổ thanh-Thiên.

Thời nay, Ông Cộng-Công-Thị bất phục Nữ-Hoa bèn làm phản,

vào núi Bất-Châu-San ở ẩn.

Page 47: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

47

Sau có Ông XI-VƢU, sang đánh Cộng-Công; Cộng-Công thất bại,

định-thần thâu sức, mà đụng đầu vào núi Bất-Châu-San; núi ngã

nhào. Đá gãy đè Ngài, Ngài bèn tan xƣơng rã hình.

NỮ-HOA trị thế hƣởng thọ 130 năm. Rồi có HOÀNG-BÁ-THỊ

nối theo truyền dẫn đến nhiều đời, mới tới vua THẦN-NÔNG-THỊ

ra trị thế.

TỔNG LUẬN:

1) Thời này, là: PHỤC-HY chế Bát-Quái theo dấu-vạch của Long-

Mã tại sông Mạnh-Tân, mà lƣu truyền tới ngày hôm nay.

2) NỮ-HOA-THỊ luyện thạch bổ Thanh-Thiên.

3) CỘNG-CÔNG-THỊ đụng đầu làm ngã núi Bất-Châu-San làm

cho: Thiên-Khuynh Tây-Bắc, Địa-Hãm Đông-Nam đó.

PHỤC-HY-THỊ (Tích Sử)

Phục-Hy-Thị thấy Long-Mã-Phụ-Đồ-Thơ tại sông Mạnh-Hà có

mấy vạch chỉ, theo đƣờng-chẵn lẻ nơi hông; vừa chế tạo ra Bát-

quái-Tiên-Thiên gọi là Hà-Đồ-Tiên-Thiên vậy.

Đến 16 tuổi lảnh DƢƠNG-QUẬN rồi trấn nơi ấy luôn, bèn lấy họ

là ĐẠO-ĐƢỜNG-THỊ vậy.

Ngài, 18 tuổi, làm Thiên-Tử, lấy Mộc-Đức làm Vua, tạo đô nơi

Bình-Dƣơng (An-Âp)

Năm Giáp Thìn, Ngài sửa mùa, làm năm.

Ngài sanh ra trí nhƣ Thần, ý nhƣ Thiên, đầu nhƣ Địa. Ngài dạy

Hy-Thị, Họa-Thị lấy chỗ Nhuần mà chế ra tháng, cho biết tháng sao

là đủ, tháng sao là thiếu.

Trƣớc sân chầu, lại có cây “Minh-Hiệp” Cây ấy xanh:

a) Cứ 15 ngày thì trổ đủ 15 lá.

b) Rồi sau 15 ngày, lại rụng đủ 15 lá. Cứ vậy là tháng đủ.

c) Còn sau 15 ngày, mà rụng hết 14 lá; chỉ còn một lá đó là

tháng thiếu.

Ngài là một bực nhơn-đức lắm! Có Ông PHONG-NHƠN chúc

Thánh-Đức của Ngài, Ngài bèn từ, không dám lãnh lời, vậy mới

nên Đế-Hiền. Và còn lắm chuyện rất Đại-Âm-Chất hơn Ngƣời,

những điều hi-hữu thế-gian.

Rồi truyền lần đến Ông Thuấn-Đế, là Đức, vì không truyền ngôi

thiên-hạ cho con Ngài, là ngƣơi ĐƠN-CHU, vì ĐƠN-CHU vô-đức.

F. THẦN-NÔNG-THỊ

Vua Viêm-Đế là Thần-Nông-Thị, tên là “Thạch-Niên” gốc là con

của Thiếu-Điền. Ngài là con Bà AN-ĐĂNG. Bà nằm thấy rồng

đoanh-cảm động mà sanh Ngài. Ngài sanh ra hình nhƣ rồng; tại núi

“Liệt-Sơn”, trong Thạch-Thất. Bề cao tám thƣớc bảy tấc, dụng

Hỏa-Đức mà làm vua, cai-trị thiên-hạ rất nên thái-bình, Thiên-Quốc

Long-Chầu Hổ-Bái.

Ngài tìm-kiếm ngũ-cốc mà trồng, thế cho cây-cỏ, ăn khỏi đau

bịnh. Thấy thú-cầm rất nhiều mà hằng bị ngƣời sát-hại, sợ hết giống

mà bất nhẫn lƣơng-tâm! Và thấy Ngƣời hằng ăn thịt mà bịnh hoạn,

bèn lấy Bá-thảo uống đỡ, thế cho đồ trị bịnh, dạy dân đẽo rìu, đẽo

búa, trục, cày và cấy năm giống lúa là: Đạo, Lƣơng, Cô, Mạch,

Thử, mà ăn no lòng, bớt ăn thảo-mộc, mà bịnh sanh.

Sau Ngài đi tuần thú, băng tại đất Trƣờng-Sa; Ngài hƣởng thọ

Đại-Đức Chơn-Vƣơng vậy.

Page 48: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

48

Thần-Nông-Thị:

(Tích Sử và Bài Ca Tụng)

Vua Viêm-Đế là: “Thần-Nông-Thị” tên là Thạch-Niên, gốc là con

vua “Thiếu-Điền”.

Ngài là con BÀ AN-ĐĂNG, bởi bà nằm thấy rồng-đoanh; Bà bèn

cảm-Thần sanh ra phát-dựng, mà sanh ra có NGÀI.

NGÀI sanh ra hình nhƣ “RỒNG”, tại núi “Liệt-Sơn” trong Thạch-

Thất, bề cao, hình ngƣời tám-thƣớc bảy-tấc.

NGÀI dùng Hỏa-Đức làm Vua, mà trự-trị Thổ-Dân, chánh-trị

Thiên-hạ, rất nên thái-bình, Thiên-Quốc, có đặng Long-chầu Hổ-

phục, Bá-tánh hàm-hanh. Thú-Cầm triêm-bái vậy.

Thật đời hữu-hạnh thuần-phong thánh-đức!

CÔNG-ĐỨC của NGÀI.

Thấy dân tạp-thực sanh-bịnh, Ngài tìm ra có ngũ-cốc mà trồng thế

cho cây cỏ, và thịt thú cầm hoang-loại; dạy dân đừng ăn thịt sống

mà phải bịnh, và phạm tội với Trời.

Thấy thú cầm rất có nhiều, mà hằng bị con ngƣời sát hại, Ngài nản

tâm, chẳng đành để giết, sợ hết giống của Trời, mà Ngài bất-nhẫn

lƣơng-tâm. Vì thấy con ngƣời ham ăn thú-cầm mà sanh có bịnh

hoạn, bèn lấy bá-thảo nghiên cứu, chế ra chút ít thuốc thang, để thế

đó mà trị bịnh con ngƣời phù thủng.

Lại còn dạy cả dân gian, gieo bừa, cấy, trục, và đúc trui lƣỡi cày,

tập kép cày, bừa và gieo trồng năm giống lúa là: Đạo, Lƣơng, Cô,

Mạch, Thử, mà dùng ăn đỡ lòng; bớt ăn thảo mộc mà sanh ra bịnh

với bị chứng nan-y !.

“Thử-Thị: Đại-Đức chi Nhân-Hoàng” vậy. Sau Ngài đi tuần thú,

băng tại đất nổng, Trƣờng-sa, hƣởng thọ 168 tuổi, làm vua 148

năm: thật là Đại-Đức Chơn-Vƣơng đó.

Nhắc lại công đức Ngài sanh tiền, thiện-đức đối với dân-phu. Khi

thực Ngũ-cốc rồi hoàn-toàn, nhơn-dân lại sanh ra vọng và lâm-

bịnh; nên chi Ngài bèn bày ra phƣơng tịnh-tọa, định-tâm mà diệt-

trừ tạp-bịnh, cho lục-dục tiêu-tan, hết nhiễm lục-trần; mà con ngƣời

đã bị qui phúc sanh-vọng, tƣ-lự, mà ra có nhiều duyên oan-trái, trái-

oan, mới thẳng đến cảnh diệt-vong kỳ mạng vậy.

Tặng công đức Thần-Nông, chế Ngũ-Cốc cho dân ăn khỏi bịnh và

bày cách diệt tận LỤC, THẤT tiêu-vong nữa.

THI-BÀI:

Vua Viêm-Đế, sanh Đời Ngũ-Đế,

Hiệu: Thần-Nông, cải-chế trận-đồ,

Lập ra: Quận, Huyện, Ấp, Đô,

Trại, Dinh, tuần, tiểu, đơn cô bảo-tồn ! .1

Hễ đến tối, huỳnh-hôn tuần-tiểu,

Tới sáng ra: kêu điểm binh-nhung,

Đại-công, Đại-Đức, Đại-Hùng,

Quân, Thần, Phụ, Tử, Tín, Trung vẹn toàn. .2

Lòng từ thiện, thấy: Quân-Dân bịnh,

Đau xót-lòng, đại-tịnh cứu-phƣơng,

Ngày đêm: trí-Ý tƣ-tƣơng,

Tầm ra ngũ-cốc, dạy ƣơng, dạy cày! .3

Năm giống lúa, phân rày thứ tự,

Ba buổi làm, phận sự mỗi ngƣời,

Page 49: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

49

Nấu ăn: từ mỗi gia cƣ,

Thế cho rau cỏ, diệt trừ bịnh ma! .4

Dân nhờ đó, đỏ da thắm thịt,

Lấy ngũ-cốc, bổ-dịch tạng hòa,

Trong mình, mạnh-khỏe, dân-ca,

Tung hô Đại-Đức, Hoàng-Gia, Đại-Từ! .5

Đặng mạnh khoẻ, hầm-hừ sanh vọng,

Làm loạn-luân, công-cọng chẳng tu,

Mới ra: thân-thể suy mù,

Càng thêm bịnh hoạn, ôn-nhu chẳng còn! .6

Thấy dân vậy, lòng son chẳng nỡ,

Mới bày ra, khƣớc mở bịnh căn,

Cùng là: gìn-giữ Đạo hằng,

Cúng Trời, kỉnh Phật, ở ăn từ-hòa. .7

Đừng vọng niệm, tâm-tà mà khổ,

Phải tuân-y, Thƣợng-Cổ, lƣơng hiền,

Hết rồi vận-bỉ đảo-điên,

Phƣớc-lành rƣới nhuận, thiện-duyên hƣởng nhờ.

.8

Phải ít nói, ăn, cho Khí tựu,

Khí hiệp Thần, bông, nụ, mới tƣơi,

Tham-thoàn; nhờ điển Đại-Từ,

Hƣ-Vô tịnh-tọa, chơn-nhƣ phục-hƣờn. .9

Dân nghe đƣợc, thua, hơn, dứt hết,

Chúng đẳng đều, lo dệt cửi-canh,

Chẳng còn: có sự tranh hành,

Một lòng tín-ngƣỡng, mối manh tu-trì. .10

Dân đều: ngũ-đức, tam-qui,

Sống thì làm tƣớng, thác đi Thiên-Thần,

Lòng rèn: báo bổ tứ-ân,

Phong-điều võ-thuận, nhơn dân an-hòa. .11

An-hòa, cổ-phúc hàm-phô,

Nhơn dân lạc-nghiệp, cơ đồ Thuấn-Nghiêu.

THI:

Thần-Nông đại-đức, ít ai bằng,

Ngũ-Đức, tam-qui vẹn Đạo hằng,

Chế ngũ-cốc, điều dân khỏi bịnh,

Lập trận-đồ, bá-tánh bình-an,

Nhơn dân kính-phục nhƣ Trời biển,

Thú điểu bái hô, tợ Chúa hoàng,

Phong võ thuận điều, vô bế hộ,

Mãn dinh hoa mạch, vạn loài nhàn.

THỰC NGŨ-CỐC BẢO-TOÀN

NHƠN-DÂN SANH VỌNG-TÂM VÀ BỊNH.

G. HUỲNH-ĐẾ Là “Hiên-Viên-Thị”.

Vua Hiên-Viên, ngƣời nƣớc Thiên-Điền-Quốc, Mẹ Ngài là: bà

Phù-Bửu, nằm thấy Bắc-Đẩu-Khâu-Tinh rớt điểm vào mình, mà có

chửa mới sanh Ngài là “Hiên-Viên” đó.

Vua Hiên-Viên, cũng họ Công-Tôn-Thị nữa, rồi lớn lên về ở nơi

Cơ-Thủy, mới lấy Cơ làm họ. Ngài sanh ra thần-linh lắm, hay mở-

miệng mà dạy dân, khuyên ngƣời làm lành, lo tu ngũ-đức, tánh

thông-minh hơn ngƣời, dân tôn làm vua tại Đất: “HỮU-ĐÔN”. Nên

Ngài lại lấy Hữu-Đôn mà làm họ vậy.

Dùng Thổ-Đức làm vua, mà vỗ-an thiên-hạ, gọi là vua Huỳnh-Đế.

1. Ngài bày ra trận-pháp, và dạy dân lập binh-đao ngăn ngừa

tặc khấu.

Page 50: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

50

2. Bày ra dinh-trại binh-cƣ, Đô-ấp quân-ở; Thần-dân kính

mến; mà còn chữ-nghĩa chƣa đặng toàn-rành, dân hằng ƣớc

trông đặng có một thứ chữ!.

Thời kỳ này có Ông: Thƣơng-Hiệt, thấy trên lƣng Linh-Qui Phụ-

Đồ tại nơi Lạc-Thủy, Ngài coi đó và ngƣỡng-quan thiên-tƣợng mà

vẽ, chế ra đủ chữ cho dân gian dùng; thật Ngài là Ông-Thánh chế-tự

đó! Trong lúc Ngài chế thành-tự, thì trên Trời mƣa xuống, hột mƣa

rớt đầy-tràn, bằng lúa trắng-tốt, cho dân ăn mạnh-khỏe !

Ấy là: Trời thƣởng công Ngài, là ngƣời chế-tự vậy!

Thời kỳ Huỳnh-Đế có bày ra 4 điều là:

1) Mở rộng Đô-Ấp, bày trận-thế, dạy tập đao-thƣơng.

2) Thƣơng-Hiệt chế-tự cho nhơn-gian dùng, và viết, dạy

văn-chƣơng và liễn-đối.

3) Tạo Cung-Điện và Áo-Xiêm ngũ-sắc, nhƣ áo Tiên trên

Trời!

4) Đúc 3 vạc-đồng, rồi có Huỳnh-Long hạ-giáng, Ngài cỡi

rồng lên mây !

HUỲNH-ĐẾ (HIÊN-VIÊN-THỊ)

(Tích-Sử và Công-Đức)

Đức Huỳnh-Đế phân-châu, chia-quận các nơi và làm cung-điện,

chế áo-quần, làm văn-đối, liễn-chƣơng huy-nga, y nhƣ Thiên-Điện,

vì Ngài có đƣợc một Bà-Tiên ở Tây-Vƣơng-Mẫu xuống giúp.

Khi Ngài làm xong phận-sự minh-quân của Ngài rồi, Ngài bèn

làm theo Vô-Vi-Chi-Đức của Ngài; Ngài bèn thét Đồng trong núi

ra , mà đúc 3 cái đảnh vạt rất to lớn, đoạn Ngài cầu Ngũ-Long

Thiên-Võ. Khi Ngài cầu khẩn thì có Huỳnh-Long hạ-giáng chẩm

râu và trong ba cái vạt-đồng ấy vậy. Đoạn Ngào cỡi rồng mà về

Hƣ-Không. Ngài tọa vị ở-thế đƣợc một trăm mƣời năm (110).

Đình-Thần bèn tôn con Ngài là Ông “CHẤT”, con Bà Tây-Lăng-

Thị, lên thế ngôi.

Từ đây; vua Huỳnh-Đế đã dứt tại thế, chỉ còn Công-Đức lƣu lại

mà thôi.

Ông CHẤT lấy KIM-ĐỨC làm vua, mới xƣng, là họ KIM-LĂNG-

THỊ đó. Truyền lần tới Ông Đế-Dự, là CAO-TÂN-THỊ, là MỘC-

ĐỨC-VƢƠNG; thì tới đời NGHIÊU-ĐẾ vậy. Vua CAO-TÂN trị

bình thiên-hạ, có bốn Hầu-Phi là:

1) KHƢƠNG-NGUYÊN (Hữu-Vi-Thị) sanh ra Ông TẮC.

2) KHÁNH-ĐÔ (Thần-Phong-Thị) sanh ra Ông NGHIÊU.

3) GIẢNG-ĐỊCH (Hữu-Nga-Thị) sanh ra Ông KHẾ.

4) KHƢƠNG-NGHI (Thú-Thê-Thị) sanh Ông CHẤP, thế ngôi

7 năm, hôn quân, vô đạo, bị phế, bèn tôn vua Nghiêu lên

làm vua (Thiên-Tử).

Đến đây là đủ kỷ niệm và ân đức của Tam-Đế, là vua Phục-Hy,

Thần-Nông và Huỳnh-Đế vậy. Còn hai Vua là Nghiêu và Thuấn,

chỉ về sau đây sẽ bày.

H. ĐẾ-NGHIÊU và ĐẾ-THUẤN.

(Nói về NGHIÊU-ĐẾ trị Đời)

Vua NGHIÊU họ ĐÀO-ĐƢỜNG-THỊ; gốc là con của Ông

CHẤP.

Ngài sanh tại Đơn-Lăng, nƣớc Y-Hầu. Năm 16 tuổi, lãnh Trúc-

Quận, rồi Đào-Quận.

Page 51: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

51

Ngài là một vị minh-vƣơng thánh-đức, trị-vì thiên hạ đặng thái-

bình, an cƣ lạc nghiệp, gia vô bế hộ, cổ phúc ca ngâm.

Ngài chọn Ông Thuấn là ngƣời hiền-đức mà truyền ngôi.

Trong dời vua Nghiêu vua Thuấn, thiên-hạ đặng thăng bình, nên

có câu truyền tụng là: “Thuấn nhựt, Nghiêu thiên”, để chỉ ngƣời

đƣợc đều hạnh phúc trong hai thời-đại này.

HIẾU-NHÂN THUẤN-ĐẾ

(Tích-Sử)

Sau chƣng vua Huỳnh-Đế, có Ông CỔ-TẨU cƣới nàng ÁC-

ĐĂNG. Nàng ngó thấy móng-vàng chun vào bụng, bèn có thai mà

sanh ra vua Thuấn.

Vua Thuấn sanh tại xứ Dao-Hƣ, nên Ngài lấy xứ Dao làm Họ.

Thuấn, nhơn mẹ mất sớm, cha Ngài CỔ-TẨU cƣới vợ khác là

nàng Nhân-Thị mới sanh ra Ngƣơi Tƣợng, có tánh kiêu-ngạo, mà

cha lại ƣa-thƣơng nên hằng muốn giết Thuấn cho Tƣợng đặng

quyền trọn hƣởng! Thuấn nhiều lần nhịn chịu cho Tƣợng lấn qua,

cho Cha Mẹ vui lòng; chuyện Ngƣời khó nhịn đặng, nên thời ấy,

Ngƣời đều xƣng Thuấn là Đại-Hiếu.

Lòng Đại-Hiếu đến cảm động lòng Trời, nên khiến muôn chim,

loài Tƣợng, nơi Lịch-Sơn giúp Thuấn về việc canh-điền, cùng là

các nghề đều có ngƣời vừa giúp và thối nhƣợng vì tiếng hiếu-hiền

đồn xa. Có một khi cha Ngài sai Ngài đào-giếng cho sâu, rồi bèn

lấp giếng luôn, cho ngƣời chết ngộp. Ngài tự biết trƣớc, mới đào-lỗ

trổ-ngách khác trƣớc rồi, mà chun ra khỏi thác! Nhƣng vẫn vui lòng

cung-phụng Cha-Mẹ, nên tiếng đồn Ngài hiền và hiếu, lời đồn thấu

tới vua Nghiêu, Vua bèn tìm hiểu mà vấn cuộc trị-an thiên-hạ.

Khi vua Nghiêu gặp Thuấn, tại xứ Phúc-Trạch bèn hỏi rằng: Trẫm

nghe Ngƣơi là đấng trọn hiền; vậy sự trị-nƣớc bình-thiên-hạ ra sao?

Ta xin hỏi, Ngƣơi vui-lòng phụng đáp.

Đoạn Thuấn vâng-dạ, chịu cho vua Nghiêu-Đế vấn nạn.

1. Nghiêu hỏi rằng: Ta muốn trị thiên-hạ, cho hòa-bình thì phải

làm sao?

- Thuấn đáp: Chấp-nhứt vô-thất, hành-vi vô đãi; trung tín vô-

phiền, hiều-hiếu lƣỡng-toàn, nhi thiên-hạ lai phục dã.

2. Nghiêu lại hỏi rằng: Hề sự là gì?

- Thuấn đáp: Sự là Sự-thiên, còn Hề-nhậm là nhậm-Địa.

3. Nghiêu lại hỏi: Còn tín ngƣời là sao?

- Thuấn đáp: Vợ con đều phải thảo-thuận, đủ trọn-đức, đừng

thất-tín với bạn. Kính thờ tam-tinh.

Thuận Đạo thì tốt; phản Đạo thì hung, đó là lẽ ảnh-hƣởng trị

quốc đó.

Vua Nghiêu biết là hiền, bèn nhƣợng Ngôi Vua và gả hai con gái

là: NGA-HOÀNG và NỮ-ANH cho Thuấn-Đế làm vợ nữa, vì con

Ngài là chàng ĐƠN-CHU vô-đức !.

Thuấn làm vua 65 năm, rồi truyền cho vua VÕ là Ngƣời nhơn

hiền, vì vua VÕ có công trị thủy chín năm.

oOo

18. CÁC VUA NỐI-TRUYỀN TỚI ĐỜI PHONG-THẦN

_______________

Page 52: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

52

Lập vị Thần-Tiên; và bài trừ ác-vật

1. Vua VÕ trị thủy rồi xƣng Đế luôn; truyền tới tới vua Kiệt

nhà Hạ, là 16 đời, bị Thành-Thang lấy. Vua này nhờ cầu

Trời, mà có Thiên-Tƣớng xuống trừ Tinh-Quái, mới trị thủy

nổi.

2. Thành-Thang trị đƣợc 19 đời, làm vua Nhà Thƣơng, tới vua

Trụ-Vƣơng là Thọ-Tân, mất nƣớc, bị VÕ-VƢƠNG là CƠ-

PHÁT lấy nƣớc, cải làm nhà Châu. Nhà Châu, vừa mạt, thì

có LÃO-TỬ và KHỔNG-THÁNH ra đời.

LỊCH-ĐẠI-THÀNH-THANG VUA THÀNH-THANG

(Tích-sử và Bài ca-tụng)

Vua Thành-Thang nhà Thƣơng, tên tộc là “QUÍ” lại còn tên riêng

là “THIÊN-ẤT” nữa,

Ngài là dòng-dõi Vua Huỳnh-Đế, truyền lại hậu-duệ. Ban sơn, Đế-

Dự là “Cao-Tân-Thị” có ngƣời vợ thứ ba là nàng DOÃN-DỊCH

không con nối-hậu, mới cầu tự nơi núi CAO-MAI, nhân thấy con

TỬ-YẾN làm rớt trứng, bèn lƣợm mà ăn, sau nàng mang-chửa mà

sanh ra Ông: KHẾ.

Ông KHẾ làm quan TƢ-ĐỒ cho nhà Đƣờng-Ngu, Vua THUẤN

có công, đặng phong về ấp-Thƣợng, truyền lần xuống đặng 11 đời,

đến Ông CHỦ-QUÍ.

Đoạn Ông CHỦ-QUÍ cƣới nàng PHÒ-TANG-THỊ mà sanh ra vua

THÀNH-THANG.

THANG đánh đuổi KIỆT và NAM-SÀO, mới cải nƣớc là:

THƢƠNG mà xƣng là THÀNH-THANG. Ngài làm vua nối truyền

đặng 30 đời Vƣơng, đến THỌ-TÂN (Vua Trụ), hôn-quân vô-Đạo,

phải bị vua CƠ-PHÁT (VÕ-VƢƠNG) hội Chƣ-Hầu tại Mạnh-Tân,

có nhờ Khƣơng-Thƣợng (TỬ-NHA) cầu TAM-GIÁO và Thần-Tiên

xuống trừ Tà-Quái và giả-Tiên, treo bảng Phong-Thần mới dẹp yên

lũ cƣờng-tà, loạn-lạc, thì bá-tánh mới đặng an-cƣ thái-bình thiên-

quốc. Là do nhờ có Linh-Quang Thần, Tiên, chiếu-diệu hộ dân phạt

trừ Tà-Quái tán-vong mới đặng thái-bình thạnh-trị.

Vua VÕ-VƢƠNG CƠ-PHÁT bình trị Nhà Thƣơng rồi, bèn cải

nƣớc lại làm Nhà CHÂU, lập đô tại KIM-LĂNG; phong Cha, CƠ-

XƢƠNG là VĂN-VƢƠNG, Mẹ là Thái-Phi, cùng Chƣ-Hầu có

công phạt TRỤ là ÂN-THỌ, mỗi ngƣời đều đặng hƣởng mỗi nơi,

mà xƣng BÁ (1). Thì là đến đây ÂN-THỌ (Vua-TRỤ) đã mất, Nhà

Thƣơng đã cai trị đặng 600 năm mà qui về Nhà Châu cả thảy, đều

đặng bình-an dân-quốc, hòa-khí niên-phong; nhờ ân võ-lộ đức-hằng

đó, mới có Thần-Tiên giáng thế lập-công, lƣu-truyền cảm-ứng linh-

nghiệm đó.

_________

(1) Phong-kiến Chƣ-Hầu từ đây (là Nhà Châu) đó !.

TÁ-THẾ-LẬP-CÔNG Châu-trào bình-trị

(Thần-Tiên xuất-thế giáo-dân) _______________

Tá thế lập-công, danh-dƣơng, hiển-đạt, bố đức ƣ lê-dân, hoằng-

pháp lợi-sanh, chung đồng hạnh-hƣởng, phúc-duyên cửu-trƣờng,

đạo-khai cứu-thế ƣ mạt-vận, hóa dân thuần-phong mỹ-tục, chƣ đạo

phát khai, đồng cảm ân-thiên, nông, tang chức-nghiệp vậy.

Page 53: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

53

1. Đạo LÃO-TỬ khai Đạo Huỳnh-Lão,

Vận thần-công thâu Hạo-Chơn-Khí vào Thái-Cực-Đồ (Huyền-

Quang-Khiếu) làm Căn-Cơ Thiên-Đạo (Tiên-Đạo) diệt trừ Lục-

Thất tiêu-vong.

2. Đạo PHẬT-ĐÀ. – Thich-Ca-Mu-Ni khai Phật-Giáo, dụng Tứ-

Diệu-Đế và Bát-Chánh làm căn-bổn của Chánh-Đạo (Phật-Đạo)

đoạn-diệt luân-hồi.

3. Đạo KHỔNG-TỬ khai Trung-Dung Thánh-Đạo.

Lấy Xuân-Thu và Ngũ-Kinh làm Trung-Dung-Chơn-Đạo (Thánh-

Đạo) là: Giảng-chấp quyết-Trung, bất-biến bất-ỷ.

Đó là về Tam-Giáo; tiếp có 9 Đạo (CỬU-LƢU) học truyền, đều có

ra đủ, Sám, Kinh: Thơ, Thuyết, Luận, đủ đều, lƣu lai tại thế; dùng

chỗ Nhơn và Đạo mà phổ-tế Nhơn-Sanh.

THI-BÀI:

Xem trong: cổ vãng kim-lai,

Trải bao đời-kiếp, lắm tay Anh Tài.

Đem thân vừa giúp trần-ai,

Cứu-dân độ-thế, bất-oai trị Quyền.

Vua Thành-Thang, hữu-duyên đại kiếp,

Đức sanh dân, liên-tiếp mở đời,

Cho Nhơn-loại, đặng thảnh-thơi,

An-cƣ lạc-nghiệp, ơn Trời đủ no. .1

Trụ bạo ngƣợc, diệt cho tàn Kiệt,

Phóng Nam-Sào, tử biệt hại-dân,

Đem nhau: trở lại, trung-thần,

Cho an bốn-bể lập thân để đời. .2

Dẹp loạn-thần, thảnh-thơi an chúng,

Trừ bạo tàn hộ-ủng vạn-linh,

Cứu-an, sanh-chúng hòa-bình,

Bảo phò Hiền-Đức, Chơn-Linh an-bƣờng. .3

Lập Quốc-hiệu: gọi đời THƢƠNG,

THÀNH-THANG xƣng Đế, Nhơn Vƣơng trị vì,

NGÀI là Cách Vật-Trí-Tri !..

3. Nhà CHÂU truyền đƣợc 17 Đời, (800 năm), bị chia lục-Quốc.

4. Rồi LỤC-QUỐC phân tranh, Tần-Vƣơng thống-nhứt, là đời

Phong-Kiếm-Xuân-Thu, có Thần-Tiên giáng-thế, lập BÌNH-LINH-

ĐẠI-HỘI giải-hòa, do Đức CHƢỞNG-GIÁO-NAM-CỰC làm

Chủ.

5. Mạt-TẦN đến SỞ và HỚN tƣơng tranh; SỞ mất Hớn Cao-Tổ,

nhập Bao-Trung; là Lƣu-Quí trảm xà, làm Vua; lúc khởi nghĩa Tây-

Hớn đó.

6. HỚN truyền 9 Đời, tới Vua Quang-Võ, là về Đông-Hớn.

7. ĐÔNG-HỚN hƣng, truyền 7 Đời, tới tam-phân là: Tam-Quốc:

NGỤY, THỤC, NGÔ tranh HỚN đảnh.

8. NGỤY (Tào-Phi) làm Vua, rồi bị họ TƢ-MÃ đoạt.

9. Tƣ-Mã-Quang, làm Vua, là về ĐÔNG-TẤN, rồi truyền qua

TÂY-TẤN mất, tới giặc dậy tứ-phƣơng tranh-sát, sát sát vô-sanh,

dân vô sở-cứ! Nhà Tùy lập, đời Đƣờng nối;

10. Tới NGŨ-ĐẠI, TÀN-ĐƢỜNG, là Hậu-Châu, Hậu-Đƣờng,

Hậu-Tống, Hậu-Hớn, Hậu-Lƣơng; thì là mất.

Page 54: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

54

11. Tới Tống-Thái-Tổ (Triệu-Khuôn-Dẫn) làm Vua truyền 9 đời,

tới vua Vi-Tông bị Kim-Ngột-Trực, lấy nƣớc; cải là Kim-Quốc; sau

lại bị Minh-Thái-Tổ, là Hồng-Võ lấy lại.

12. Minh-Hồng-Võ làm vua cai trị Nhà NGƢƠN, rồi bị THANH-

trào thâu-phục.

13. Thanh-Thái-Tổ truyền đến đời Tuyên-Thống làm Vua, thì có

TÔN-VĂN lập lại Trung-Nguyên.

14. Trung-Nguyên-Dân-Quốc, Chủ-Nghĩa Tam-Dân, lập thành

1912, thì TÔN-VĂN làm Tổng-Thống, truyền lần LÂM-SUM và

TƢỞNG-GIỚI-THẠCH, đƣơng kim bây giờ.

Trong cuộc Ngũ-Châu Đại-Chiến: ĐỨC, Ý, NGA, ANH và MỸ

có NHỰT-BỔN Quốc-Quân, rất nên cƣờng-thạnh muốn làm Bá-

Chủ Đại-Đồng.

VỀ NƢỚC VIỆT-NAM

1) Còn về nƣớc VIỆT-NAM, thì là:

Vua Hồng-Bàng là: HÙNG-VƢƠNG thứ-Nhứt cai trị 18 Đời, có

Vua Hữu-Đức là LẠC-LONG-QUÂN nối trị!

2) Hết Hồng-Bàng tới nhà ĐINH, kế hết ĐINH tới LÊ, LÝ, TRẦN,

LÊ, v.v…

3) Hết LÊ tới NGUYỄN-trào, vua Thái-Tổ, là GIA-LONG truyền

tới BẢO-ĐẠI đƣơng kim cai-trị tại HUẾ (Thừa-Thiên), tới tháng 3,

ngày 9 thất-thủ !.

Cũng tới năm 1926 (BÍNH-DẦN), thì có TAM-KỲ-PHỔ-ĐỘ,

Đại-Đạo Hoằng-Khai, Huỳnh-Quang Phát-hiện, thọ truyền Đạo-

Mạch vĩnh-xƣơng; Nhị-Nhứt-Tứ, NHỰT chiến, Ôi ! cuộc thế tam-

phân, Nam-Kỳ độc-lập !.

TỔNG-LUẬN:

Thiên-cơ tuần-hƣờn từ xƣa nay, tới mạt-thế đáo-đầu châu-nhi

phục-thỉ; lại có TAM-KỲ-PHỔ-ĐỘ, “Huỳnh-Đạo-Thiên-Khai” cứu

độ nguyên-nhân phục-hồi cựu-vị.

Là gom lại mà nói: Từ hồi Nhơn-Hoàng khai thế Nhơn-luân,

truyền chí mạt-thế, Thiên-Đạo Hoằng-Khai, giáo dân cải-ác tùng-

thiện, phục hồi Thƣợng-Cổ (Châu-Nhi-Phục-Thỉ) Nhơn-loại điêu

tàn; mà là: Hạnh-thay! Thần Dân Nam-Việt !.

Hữu Đại-Đạo Huỳnh-Khai, Phục hồi Thƣợng-Cổ !!.

Đa-tạ! Đa-tạ! Thiên-Địa linh, Phật, Tiên, Thánh, Thần, tá trợ vậy.

oOo

19. ĐẠO-MẠCH PHÁT-NGUYÊN (1926 Bính-Dần)

(Lối Dẫn đầu: Thủ-Vi Luận)

Các vua nối truyền và Đạo-Mạch phát-nguyên, với việc chánh-trị

dân gian; kể từ vua Võ, Thang, vua-Văn, Vua-Võ, (mở nhà Châu

Page 55: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

55

nhị-Vƣơng) đều lấy Đạo-Đức mà trị-dân, bảo-toàn hiệp-định, thành

Quốc; đó là: an-dân bình-trị vậy.

Nhân đặng lòng đạo-đức dẫy-tràn, nên lối đời Châu, mới có sắc

vàng NGỌC-HƢ-CUNG trao cho Ông Tử-Nha-Khƣơng-Thƣợng,

lập Phong-Thần-Bảng đặng ban sắc Thần-Tiên, cho bực chơn tu, vì

ngƣời-tục có công-phu tá-trợ, trong thời-kỳ điếu-dân phạt-tội; ấy là

lối mạt-pháp định-hƣng đó.

Hết cơn hƣng-thạnh, đến khoản suy tồi bạo-ngƣợc, là lối vô nhơn-

đạo, phải loạn; Loạn, là Thần, Tiên giáng thế cứu-dân, hầu phục-hồi

thái-cổ.

Rồi hết Châu đến Tần, Tần phân Lục-Quốc, Sở-Hơn tƣơng-tranh,

truyền sang Ngũ-Đại, Tống, Tần, Đƣờng, Lƣơng, Trần phân-vân lê

thứ.

Đoạn truyền lần tới Minh-Thanh (Trung-Quốc) Cách-mạng phục-

hƣng là năm 1911 (Dân-Quốc Trung-Hoa lập thành) chí Mậu-Tý

đại tuyển Tổng-Thống: TƢỞNG-TRUNG-CHÁNH đƣơng vị chủ-

nhậm.

Đối chiếu Nam-Bang Ái-Quốc Chủ-Tịch là CỔ-NGUYỆT.

ĐỐI-CHIẾU VỚI VIỆT-NAM

Sự đối chiếu nƣớc Việt-Nam từ Hồng-Bàng vi thỉ tới Hùng-

Vƣơng thứ nhứt, chi thứ 18 v.v…

Lần-lần lƣu lại giống-dòng Lạc-Long-Quân ƣớc có hơn 4000 năm

lẻ nữa!

Lần lần truyền đến Nguyễn-Trào (Gia-Long), Cao-Hoàng lập quốc

tới Nguyễn-Chúa-Bảo-Đại (Tôn-Hoàng) là 1926; mới có Sáng-Cơ

lập Đạo CAO-ĐÀI tại đất Nƣớc VIỆT-NAM! Kế có Việt-Nam

C.H.D.C. CỔ-NGUYỆT lập thành Việt-Nam Dân-Quốc.

KỶ-NGUYÊN ĐẠI-ĐẠO-CAO-ĐÀI

(CƠ-BÚT) _________

(CƠ-BÖT phát nguyên trƣớc hết tại CHOLON, nhà Ô. VẠN)

____________

a) CƠ-BÚT tại nhà Ô. NGUYỄN-BÁ-VẠN.

có hiện ra “MỘT KHỐI-MINH-CHÂU” cho Ô. VẠN thấy mà tín-

ngƣỡng, và bày cách cho thuốc, lúc buổi đầu tiên; do đó mà cơ

chuyển Ô. Thƣợng-Trung-Nhựt, đặng sáng mắt ra, rồi Ông lãnh

mạng luôn, mà hành Đạo khai-cơ-phổ-độ tại NAM-KỲ. Sau Ông

TRUNG dời về lập TÒA-THÁNH (Gò-Kén), làng Long-Thành

(Tây-Ninh).

b) Còn ở Hậu-Giang, sơ-thỉ Ngài NGÔ-MINH-CHIÊU, thọ mạng

THẦY, (1) có lộ Thiên-Nhãn và chỉ vẽ cách thờ-phƣợng trƣớc

nhứt, và cách thể hành-đàn khai-cơ, giáng-bút, cùng hành-Đạo;

buổi đầu, độ dần có 12 Nguyên-Nhân Đại-Căn của THẦY; do Cơ-

Bút đàn CÁI-KHẾ (Cần thơ) và lập Chiếu-Minh-Đàn vi thỉ-sáng, là

Cơ-Phổ-Độ.

Kế Ông TRUNG dời về Gò-Kén (Tây-Ninh) tại chùa Thoàn-lâm-

Tự, Chủ-Trì là GIÁC-HẢI, thọ Thiên-Phong Chƣởng-Pháp.

d) Sau dành cho Chƣởng-Pháp Vô-Vi; là LINH-CHÂU-TỬ

(TRẦN-CÔNG-SANH) CHUNG-TÂM-HÒA-PHÁI, có

Page 56: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

56

làm lễ Đại-Thành CAO-ĐÀI-ĐẠI-ĐẠO; TAM-KỲ-PHỔ-

ĐỘ, sơ khai, sáng lập đại-cơ, về VÔ-VI-chi-Đạo.

___________________

LỊCH-SỬ KHAI-ĐẠO.

Buổi đầu: Ngài NGÔ-MINH-CHIÊU độ 12 Nguyên-

Nhơn.

THI:

CHIÊU, KỲ, TRUNG, độ dẫn HOÀI, SANH,

BẢN đạo khai-cơ, QUI, GIẢNG, thành,

HẬU, ĐỨC, TẮC, CƢ, Thiên-Địa cảnh,

HƢỜN, MINH, MÂN Đáo: thủ đài danh.

TÓM-LẠI: Trong khi Ngài Ngô-Minh-Chiêu truyền Đạo lại cho

Ông CƢ, TẮC, và TRUNG, rồi mở Đạo tại Tiền-giang (CHỢ-

LỚN), kế lại dời về lập Tòa-Thánh (Tây-Ninh), đồng tâm tiếp Đạo,

mà có đại cơ-sở, gọi là :”Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ” đó, bành-

trƣớng cơ-sở, độ-dẫn Chúng-Sanh tu-hành.

Đoạn còn chia ra làm ba phần; Tam-Phán Đảnh-Túc nữa, là:

a) Tiền-Giang (Tòa-Thánh Tây-Ninh); Thƣợng-Trung-Nhựt.

b) Hậu-Giang (Tòa-Thánh Giồng-Bƣớm) Trần-Đạo-Quang.

c) Trung-Giang (Tòa-Thánh Trung-Ƣơng) Thái-Ca-Thành.

d) Nơi Trung-Bắc 8 Thánh-Thất.

e) Một Tòa-Thánh Vô-Vi; (Bình-Đông, CHOLON) do Chƣởng-

Pháp (Thƣợng-Sanh-Nhựt) chƣởng-quản; sau hiệp-hòa về Tiên-

Thiên-Đại-Đạo liên Ngũ-Chi;

f) Lại có 12 phái, về Tịnh-Đàn, Tiên-Thiên của Cao-Đài-Cứu-Thế,

và Ngũ-Chi-Đại-Đạo vậy.

g) Có Thất-thập-nhị Tịnh, để truyền ban Chơn-Đạo và thiệt-hành

kiến-trúc, tạo-lập về qui-củ-chuẩn-thằng của Thiên-Cơ Đại-Đạo;

chuyển-lập và truyền-ban về kinh, sám “Hƣ-Vô-Đạo-Nội”, và “Hƣ-

Vô-Đạo-Ngoại” các tự hữu-huyền-linh diệu pháp vậy.

_____________

KỶ-NGUYÊN năm BÍNH-DẦN (1926)

_____________

HỮU-HÌNH-ĐẠO-MẠCH đến VÔ-VI-ĐẠI-ĐẠO

(Thể-Dụng) _____________

TRỜI lấy Nhứt-Khí-Hƣ-Vô là Căn, (Vô-Cực-Đồ)

ĐẤT dụng Ngũ-Hành làm Bổn, (Lƣỡng-Nghi)

NGƢỜI tiếp Bát-Quái gọi Cƣ, (Tam-Tài)

“HƢ-VÔ tự nhiên ĐỊNH-LẬP”,

CAO-ĐÀI-ĐẠI-ĐẠO – ĐẠO-TRÀNG.

(Phổ-Tế Chúng-Sanh Toàn-Linh Cứu-Thế)

A. NHỨT, Hƣ-Vô: Đại-Tòa-Thánh (Tây-Ninh).

Tòa-Thánh (Tây-Ninh) do Ông Thƣợng-Trung-Nhựt. Chủ-trƣởng.

Quyền lãnh GIÁO-TÔNG Chƣởng-Quản “Nội-Ngoại-Thiên-Cơ”,

Có Quí Ông: Cƣ, Tắc, Thơ, Diêu, Trang, Quang, Tƣơng, Thanh và

Bà Lâm-Hƣơng-Thanh (VĨNH-LONG), và các vị Đạo-Tâm. Nam-

Nữ đồng hựu-hộ tá trợ, và Thập-Nhị-Thời-Quân chuyển cơ truyền

giáo mà phổ-tế trợ lực, kiến thiết thành lập BỬU-TÒA. Dụng Bút-

Cơ làm nguyên-tắc lấy điển lực Thiêng-Liêng chuyển hóa khai cơ

sáng tạo tại làng Long-Thành (Tây-Ninh) là năm Bính-Dần, ngày

mùng 10 tháng Giêng, vi thỉ.

Page 57: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

57

B. CHIA RA LÀM 2 NGHI.

1) NHỰT-NGHI là: Minh-Chơn-Lý, Tòa-Thánh Trung-Ƣơng (MỸ

THO); sáng lập năm 1928, do Ông Thái-Ca-Thanh, về động-cơ làm

chủ-trƣởng, Chƣởng-Quản Hữu-Hình-Đài; có quí Ông là: Quang,

Kỳ, Bản, Phùng, Chiếu, Kiên, Lƣợng, Phấn và Nam-Nữ vân vân …

đồng tâm tá-trợ mà lập thành.

2) NGUYỆT-NGHI là: Bạch-Y-Chơn-Lý (BẠC LIÊU) Tòa-Thánh

GIỐNG-BƢỚM (biểu hiệu về chữ VẠN) làm nền, sáng lập năm

1929, do Quí-Đạo-Cao Chủ trƣởng là Ông Trần-Đạo-Quang, Chủ

về Tịnh-Động nhị cơ; có chƣ vị phụ tá, là Phát, Trực, Đài, Tòng,

Ngôi, Đây và chƣ vị hảo tâm Nam-Nữ đều hết lòng phụ-tá, tán-trợ

lập-thành.

C. QUI-TAM-TÀI (Ban-Chỉnh-Đạo) năm 1930.

TAM-TÀI là Ban-Chỉnh-Đạo, sáng lập năm 1930, tại làng An-Hội

(BẾN TRE), do Ông Thƣợng-Tƣơng-Thanh làm Chủ, xƣng:

“GIÁO-TÔNG”, gồm về Động-Tịnh nhị-cơ: Vô-Vi Hữu-Hình-Đài;

có nhiều vị Đạo-Tâm trợ-giúp, Quí Ông: Trò, Cho, Giàu, Kinh,

Đƣợc, Lai, Dự, và nhiều Thiện-Nam tín-Nữ đức tài trợ-giúp.

D. NGŨ-CHI (thuộc NGŨ-HÀNH)

NGŨ-CHI ĐẠI-ĐẠO là:

1. MINH-LÝ-ĐẠI-ĐẠO (TIÊN-THIÊN-MÔN-TRUNG) do quí

Ông: Ngọc, Miết, Thạnh, và chƣ vị nam-nữ hảo-tâm tá-trợ.

2. MINH-THIỆN-ĐẠO; 3-MINH-TÂN-ĐẠO: Do quí Ông: Khá,

Vui, Vị, Mía, An, Hồ, Sanh. (Pháp-Đàn) về TIÊN-THIÊN trợ giúp.

Và các vị nữ đạo-tâm đồng kỉnh lập thành.

4. MINH-ĐƢỜNG-ĐẠI-ĐẠO, 5. MINH-SƢ-ĐẠI-ĐẠO.

E. Rồi lại phân-phối thêm 12 chi nữa (THẬP-NHỊ-CHI-

PHÁI) về CAO-ĐÀI-ĐẠI-ĐẠO cứu-thế.

Là THẬP-NHỊ-THỜI-THẦN vận-chuyển về LINH-CƠ, ban

truyền đến CHUNG-TÂM-HÒA-PHÁI lập THIÊN-KHAI-

HUỲNH-ĐẠO; chuyển hóa về Tịnh-Động, Động-Tịnh thiên-cơ,

sấp thành về “VÔ-VI đạo-ngoại” và “VÔ-VI đạo-nội” pháp-môn

SIÊU-HÌNH-THƢỢNG-HỌC, CAO-ĐÀI-ĐẠI-ĐẠO-HƢ-VÔ, ban

cho: CHUNG-TÂM-HÒA-PHÁI (HUỲNH-QUANG-SẮC), có

THÁNH-TÒA VÔ-VI tại Bình-Đông (CHỢ LỚN) tạo thành năm

1935.

Có lập đại-lễ lạc thành THIÊN-KHAI-HUỲNH-ĐẠO, sắc lịnh

ĐỨC-CHÍ-TÔN và TAM-GIÁO; ngày 15 tháng hai 1940; tại (Bình

Đông) Chợ Lớn VIỆT-NAM; đủ mặt có TAM-GIANG, mặc Đạo-

phục đại-lễ đoan trang, đồng chứng-đàn, lập thành kỷ-niệm:

HUỲNH-ĐẠO-THIÊN-KHAI.

Có thêm 108 tiểu-đàn, truyền-bá chơn-truyền và NGŨ-CHÂU

văn-tự, với tịnh-tu qui-nguyên chánh-pháp, của Đại-Đạo Hƣ-Vô,

thăng-hƣờn hƣ-vô-xứ, có chứa đủ Kinh-Sám về:

1. Triết-Lý-Minh-Cơ, về chơn-truyền tu-kỷ, và Thông-Thiên-Đài

qui-tắc nữa.

2. Lại còn có nhiều ban là: THỂ-ĐẠO, THẾ-ĐẠO. NỮ-CHUNG-

HÒA-PHÁI, và NGŨ-CHI-ĐẠI-ĐẠO; về chữ “MINH” vậy.

Page 58: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

58

Tại Phú-Lâm (CHỢ LỚN) thì ông Nguyễn-Bá-Vạn, đƣợc Thầy

truyền Đạo, sau giao qua cho ông TRUNG; có ông pháp-sƣ Phạm-

Văn-Trực khai cơ. Các Đạo phụ-tá hiệp lực, cũng đồng đem Đạo

bủa tràn ra, về: “Vi-thiện tối-lạc” và qui-nguyên Chơn-Đạo, vừa

tiếp khai-sáng cơ-quan thêm lực-lƣợng của cuộc Đại-Đạo lập-thành

về “TAM-KỲ-PHỔ-ĐỘ, CAO-ĐÀI-PHỤC-NGUYÊN” cứu-thế

độ-tận chúng-sanh, qui-hƣờn phục-nhứt đó.

Thẳng đến Chơn-cơ Huỳnh-Đạo-Thiên-Khai ƣ-Tý; là năm (Bính-

Tý) 1935, lập-thành tại Huỳnh-Quang-Sắc “VÔ-VI THÁNH-TÕA”

Chung-Tâm-Hòa-Phái, Bình-Đông (Cholon) Việt-Nam.

Đã có thƣợng “VÔ-CỰC-ĐỒ” rồi, ngày 20-5-1939, về hinh-tròn

Đạo-mạch sáng-khai, và chung-kết qui-nguyên Đại-Đạo đó.

____________

Biểu Hiệu: CAO-ĐÀI-ĐẠI-ĐẠO.

(VÔ-CỰC: THIÊN-ĐỊA-ĐỒ).

CHUNG-TÂM-HÒA-PHÁI, sáng lập năm Bính-Tý (1935) chữ đề:

“VÔ-VI-THÁNH-TÕA” (HUỲNH-QUANG-SẮC) tại Bình-Đông

Chợ Lớn.

Phái này do Thƣợng-Sanh-Nhựt sáng-lập ra, có mấy vị Đạo-Tâm

là: Nguyên, Kỳ, Huế, Thọ, Trầm, Nhiễu, Ngàn, Nghĩa, Tảo, Quảng,

Lý, Trực, Ngọ, Sơ, Có, và nhiều vị Đạo-Tâm phụ trợ và Nữ-Phái là:

Quách-Thị-Du, hiệp-tác lập-thành với mấy chị là: Tồn, Trình, Lành,

Lầu; lấy Vô-Cực-Đồ làm biểu-hiệu: “CAO-ĐÀI-ĐẠI-ĐẠO, TIÊN-

THIÊN-HƢ-VÔ”.

VÔ-VI-THÁNH-TÒA, (HUỲNH-QUANG-SẮC) về Ô. Thƣợng-

Sanh-Nhựt, Bảo-Pháp-Vô-Vi,kiêm chức: Chƣởng-Quản: “VÔ-

HÌNH-ĐÀI” Tịnh-Động-Cơ, về “Vô-Vi-Đạo-Thể và Vô-Vi-Đạo-

Dụng”.

Có: 1) Tam-Thập-Lục-Thánh, (36 vị).

2) Thất-Thập-Nhị-Tịnh; (Địa-Sát 72 vị)

Dùng NGŨ-CHÂU-KỲ: Huỳnh, Bạch, Hắc, Thanh, Hồng, đó là y

thể-lệ của NHỰT-NGUYỆT-TINH vậy.

Đạo xƣng hiệu là:

“Đại-Đạo-Tam-Kỳ-Phổ-Độ, Độ-Tận-Chúng-Sanh, Hƣờn-Nguyên-

Phản-Bổn, Phục-Đáo-Chơn-Hƣ, Định-An-Thanh-Tịnh, Xuất-

Quang-Thành-Đạo !”.

Lấy “Vô-Cực-Đồ” làm biểu-hiệu Đại-Đạo-Cao-Đài thống nhứt

hƣờn-vô.

Lấy KỶ-NGUYÊN: BÍNH-DẦN (1926)

Là ngày khai Đại-Đạo tại NAM-KỲ tới TRUNG-BẮC.

(Gốc Chợ Lớn Thành-Phố, Khởi-Nguyên)

oOo

20. 12 CHI ĐẠI-ĐẠO CAO-ĐÀI

THẦY chứng nhận chuẩn-phê, tại Hội HUỲNH-QUANG-SẮC

(Chung-Tâm-Hòa-Phái), Bình-Đông. Sắc-lịnh ngày mùng 10, tháng

4, Canh-Thìn (1940)

HUYỀN-KHUNG-CAO-THƢỢNG-ĐẾ, Kim Viết: CAO-ĐÀI

Giáo-Đạo NAM-PHƢƠNG,

Page 59: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

59

THI:

CAO Thƣợng Chí-Tôn, nắm chủ quyền,

ĐÀI, Tiền Trung, Hậu hiệp hoa-liên,

TIÊN-Thiên Đại-Đạo, nguồn căn Bổn,

ÔNG Chủ Càn-Khôn, dạy bí-truyền.

HỰU:

Bí-truyền sáng lập, tại HUỲNH-QUANG,

Hòa-phái-chung-tâm, hiện thế-gian,

Thập-nhị Phái-Chi: phân thứ-tự,

Tỷ nhƣ: vé-lúa trổ BÔNG-VÀNG.

Thầy mừng các con THẤT-THÁNH, THẤT-HIỀN, và các con

nam-nữ, định-tâm an-tịnh mà nghe: Thầy minh rõ về 12 chi-phái,

tiếp hành Tam-giáo và theo NGŨ-CHI: CAO-ĐÀI ĐẠI-ĐẠO;

Tam-Kỳ-Phổ-Độ, đƣợc ban hành chơn Đạo khắp nơi, về Huỳnh-

Đạo-Thiên-Khai, đã rõ nền móng Đạo-vàng, đƣa ngƣời đức-hạnh

thiện-căn, thăng-nơi chí-cực trong thế kỷ mạt-pháp của thứ hai-

mƣơi này.

Các con ôi ! các con rất hân-hạnh thay, mới đƣợc bổ-dụng, đứng

vào 12 chi phái, nguyên-bổn của căn-cơ đạo-mạch, phản-bổn hƣờn-

nguyên này, và lại đƣợc nghe và thấy Thầy đã giải sơ lƣợc về 12

chi phái “Cao-Đài” của Thầy tạo lập tại thế-gian hy-hữu hoàn-cầu;

mà Việt-Nam (Á-Đông) chiếm lấy mộng-vàng, của Thiên-Khai-

Huỳnh-Đạo tại Nam-Bang !

Ớ này chúng con yêu-quí ôi !

12 CHI-PHÁI-ĐẠI-ĐẠO là:

1. Từ-niên Bính-Dần (1926), lấy kỷ-nguyên Cao-Đài-Đại-Đạo mới

mở phôi-thai, lập nền Quốc-Đạo. Trƣớc hết kia: có Ngô-Minh-

Chiêu thọ-sắc mở-khai chơn-truyền Đạo-mạch; sáng-khai nền

Chiếu-Minh tại Cần-Thơ là gốc “Đại-Đạo-Thỉ-Khai”, Phổ-Thông;

nhƣ: Hột-giống lúa mới ngâm.

2. Qua đến TRUNG, bắt đầu sáng-tạo trực-chƣởng: Tam-Kỳ-Phổ-

Độ; thì hột giống vừa mới nứt mộng.

3. Kế liên-tiếp đó “Minh-Chơn-Lý”: con cầm giềng mối là CA, nhƣ

hột-giống mới gieo.

4. Thế mới sang “Minh-Chơn-Đạo”, con chủ-chốt là QUANG;

thành ra hột-giống vừa bứng, sấp đem đi cấy tràn-lan.

5. Bƣớc đến “Bạch-Y-Liên-Đoàn”, con trách nhiệm là GIẢNG; thì

cây lúa vừa đang nở-nảy, tƣơi-tốt; mà lại thiếu nƣớc !

6. Vậy mà: qua đến “Chung-Tâm-Hòa-Phái” con đại trách-nhậm có

nhờ “NGŨ-QUANG” và Hạo-Khí-Trƣờng-Tồn điểm nhuận; đem

bí-truyền chơn-cơ Đại-Đạo bành-trƣớng lớn ra, là “Thƣợng-Sanh-

Nhựt”, thì lúa bắt đầu trổ bông, đều đủ ánh-lòe-vàng; sẽ còn đƣợc

giống nguyên-căn-cội, bủa tràn Đạo-mạch.

Đây về nội-công Chơn-Đạo của VÔ-HÌNH-ĐÀI, động-tịnh thể-

dụng cao-siêu, thì linh-chơn hiệp-hƣờn thống-nhứt; Cơ-Đạo đây:

chỉ dụng Tịnh, bất dụng Động !.

7. Thế ngoại-ứng, nên có “Ban-Chỉnh-Đạo”; con, tóm-lại là –

TƢƠNG, về HỮU-HÌNH-ĐÀI Đạo-Thể , ấy là sửa-soạn cắt, gặt

đem vào bồ.

8. Ý-hƣớng hiệp-hòa, vậy nên ra “Liên-Đoàn-Tổng-Hội” để lo cộ

lúa về nhà vựa bồ ! mà than ôi ! chẳng khấng ! Cƣời ! Cƣời !.

Page 60: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

60

9. Kế Tiên-Thiên vào đây, chánh-mình biết chỗ phải, phải đi sau,

rốt-cuộc, lại bị để chiếm lấy mộng-vàng. Than-ôi! Bổn-ngã! Mà

chƣa tròn nợ-duyên Ôi! Thọ-mạng. Bởi không thiệt-hành chơn-lý.

10. Với Chi-Thế “Tam-Kỳ-Phổ-Độ” lập tại Gò-Công, Thánh-Thất

Đồng-Sơn. Con giềng-mối chủ trƣơng, là: Nghĩa và Hộ. Sáng lập

năm một-ngàn chín-trăm ba-mƣơi-tám, đề ngày 15-2-38.

Chúng nó đƣợc Thầy lựa, tuy ít, mà đã phơi ra lan-tràn khắp đồng

nội vậy; nhƣng còn vị-ngã, tách mình ra Đạo, bƣớc-đàng đầu Quan.

Còn mấy CHI nữa, sau này các con sẽ thấy rõ ?!

Thầy ban ơn-lành các con. (Thăng).

THẤT-THẬP-NHỊ-TỊNH

Thấy chứng-nhận tại Đàn: Phủ-Minh-Đƣờng

(Tân An ngày 1 tháng-giêng 1930).

THI:

VĂN minh cực-điểm, đáo hƣờn-ngu

TUYÊN thể phàm-gian vẫn mịch-mù,

KHỔNG rọi đuốc hồng khêu rạng khắp,

THÁNH truyền Trung-Đạo dạy ngƣời tu.

HỰU:

THÁI Bình-Dƣơng, hội cả năm-châu,

THƢỢNG-cổ đổi xây, cuộc-đáo đầu,

ĐẠO mở Tam-Kỳ, thất-thập-nhị,

QUÂN-ân tận báo, đắc hƣờn châu.

Đây là: Bần-đạo nhắc lại các tên cho đủ Thất-Thập-Nhị-Tịnh, về

giềng mối Cao-Đài Cứu-Thế ngoại cơ và những Lãnh-Tụ, để đại

diện cho nên móng bành-trƣớng, cho thêm Đại-Đạo-Tam-Kỳ, hầu

lƣu-lai Tịnh-Thất, Tịnh-Đàn; các thứ kệ, sám, kinh, cùng đủ thứ

Họa-Đồ của Thiên-Địa-Nhơn-gian !.

Đây là Hữu-Hình-Đạo-Thể, để lại thế-gian, còn Vô-Hình-Đạo-

Dụng, có “Huỳnh-Quang-Sắc” và Ngũ-Quang chỉ dạy về cách

phục-nguyên Thể-Toàn!.

Trong thế-giái Hƣ-Không, rất mỹ-mãn, hoàn-toàn, thật rất nên

hạnh hữu Tam-Kỳ về Chơn-Cơ Đại-Đạo hữu-vô của Đạo-Tràng

phƣớc đức hoàn-toàn đó.

Mừng Thay ! Mừng Thay !

Về Đại-Kỷ-Niệm của nền móng Cao-Đài truyền bá Ngũ-Châu,

Vạn đại kỳ-xƣơng, cho tập ký-sự, kỷ-sử Tam-Hoàng, Tầm ký Tam-

Giáo Qui-Nguyên bửu cảnh, hoàng-huy vậy. Cơ-Quan về thất-thập-

nhị Tịnh đối với các tên Hƣ-Không về Đạo-Thể của Tiên-Thiên tác

dụng, đó là: nội, ngoại căn-cơ.

THI:

NGỌC chiếu minh châu, rạng khắp nơi,

HOÀNG Thiên giáo huấn, rõ cơ Trời,

THƢỢNG quang Tịnh Thất, dìu Nhơn-loại,

ĐẾ Đạo Huỳnh-khai, Đạo tại Trời.

Cứu luân-vơi; Độ đến nơi,

BÀI:

Độ đến nơi, qui-hồi cựu-vị,

Đặng hƣởng nhờ giáo lý Cao-Tiên

Cuộc đời: đốn tuyệt trần-duyên,

Page 61: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

61

Âm-công tài-đức, tham-thiền tịnh-tâm

THI:

Tịnh-tâm mộc-dục, thấu Chơn-Hƣ,

Thủy, hỏa điều-hòa, đắc tánh nhƣ,

Hiệp-nhứt lƣỡng-tu, qui cảnh-nội,

Xuất-quang thăng thƣợng, lạc nhàn cƣ.

BÀI:

Lạc-nhàn-cƣ, tứ thời đại-tịnh,

Khả hồi-quang, Chơn-định Hƣ-Vô,

Thần: thông nhập Thái-Cực-Đồ

Bái chầu: TỪ-PHỤ, Hƣ-Vô thiên-đàng.

THI:

Thiên-đàng, chốn cũ, cảnh Thiên-nhiên,

Vui thú Phật,Tiên, hƣởng diệu-huyền,

Bỏ lối trần ai, trầm nịch khổ

Mới tròn thể dụng, Đạo tiên-thiên.

THẦY mừng các trẻ hữu duyên ! ____________

Chỉ rõ chỗ hành-quyền “Thất-thập-nhị-tịnh” theo đây:

_____________________________________________

1. Ngọc-Điện Huỳnh-Hà 2. Thiên-Thai Thánh-Tịnh

3. Bồng-Lai Thánh-Đức 4. Minh-Đức Thánh-Tịnh

5. Đại-Thanh Thánh-Tịnh 6. Cửu-Cung Ngọc-Điện

7. Tứ-Long-Châu-Tinh 8. Ngọc-Thanh-Quang

9. Nguyệt-Thanh-Quang 10. Thái-Bửu-Quang

11. Ngọc-Minh-Đài 12. Trƣớc-Lý Minh-Đài

13. Nhạn-Sầu-Giang 14. Trần-Đoàn-Tịnh

15. Bạch-Hổ-Tinh 16. Long-Đức Thuyền-Môn

17. Đồng-Quang-Tịnh 18. Long-An Phƣớc-Thiện

19. Phủ-Minh-Đƣờng 20. Long-Hoa-Tự.

21. Bát-Cảnh-Cung 22. Trƣớc-Mai Thánh-Tịnh

23. Tam-Hòa-Linh 24. Ngọc-Chiếu-Long-Quang.

25. Xích-Long Minh-Đức 26. Thanh-Long Bửu-Cảnh

27. Thanh-Cung Bạch-Hổ 28. Thập-Ngũ Đài-Hoa

29. Hà-Long-Điện 30. Huỳnh-Long Cung-Hớn.

31. Ngọc-Linh-Quang 32. An-Thiên Thánh-Tịnh

33. Tam-Kỳ-Hoa 34. Bát-Bửu-Điện

35. Châu-Cung Bát-Bửu 36. Vô-Cực Tây-Tông

37. Bồng-Hải-Đảo 38. Tâm-Lý Mật-Truyền.

39. Linh-Môn-Quang 40. Long-Giang-Tịnh

41. Hoàng-Vân-Điện 42. Minh-Cảnh-Đài

43. Hắc-Long-Môn 44. Huỳnh-Đài-Cảnh

45. Thanh-Huệ-Long 46. Kim-Thành-Long

47. Đài-Ngọc-Hoa 48. Ngọc-Huệ-Quang

49. An-Lạc Huỳnh-My 50. Trung-Thiên-Cảnh

51. Long-Hoàng Thánh-Tịnh 52. Qui-Thiện-Tịnh

53. Bắc-Đẩu-Cung 54. Bạch-Long Cung-Hoàng

55. Ngọc-Sơn-Quang 56. Linh-Môn

57. Cửu-Khúc-Tòa 58. Võ-Ca-Tràng

59. Ngọc-Hƣ-Cung 60. Lục-Viện Đồ-Thơ

61. Hƣ-Vô-Cảnh 62. Diêu-Trì-Cung

63. Cửu-Huê-Đài 64. Ngũ-Đài Võ-Sĩ

65. Thất-Tinh-Đài 66. Tịnh-Quang-Đẩu.

67. Tứ-Long-Châu 68. Đài-Quang-Cảnh

69. Quang-Minh-Đài 70. Ngọc-Nữ-Đài.

71. Dạ-Minh-Đài 72. Cao-Đài-Tự.

Page 62: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

62

Đứng ngoài 72 Thánh-Tịnh, còn biến-thiên ra rất nhiều Tịnh-Đàn,

Tịnh-Thất; cũng y nhƣ Bát-Quái Tiên-Thiên, biến-sanh, sanh-biến,

tới cùng rồi, lấy chỗ CHUNG-HÒA-TÂM-PHÁI, đem chỗ Hậu-

Thiên cuối cùng, mà hƣờn về Tiên-Thiên Hƣ-Vô, mà là nơi Thanh-

Tịnh.

oOo

21. VÔ-VI CHƠN-CƠ PHỔ-HÓA.

Độc-nhứt có Huỳnh-Quang-Sắc (Vô-Vi Thánh-Tòa) CHỢ-LỚN

đem Chơn-Truyền, truyền-bá thẳng đến Hƣ-Vô Chơn-Nhứt đó.

HƢ-VÔ CHƠN-NHỨT, Thiên-Thơ-Đài ở Phƣớc-Hải, Tỉnh (Bà

Rịa) là nơi Tiên-Đàn, và có Phủ-Thờ của Huỳnh-Đức Đế-Quân

(Tân An), tiếp đàn Tiên-Thiên, ngƣng đàn tại Bến-Tranh (Mỹ Tho),

có Thanh-Tịnh-Đàn của Thƣợng-Thọ-Thanh dạy về Bí-Khuyết

Tịnh-Tu.

CHUNG-TÂM-HÒA-PHÁI (Nam-Kỳ)

VÔ-VI Thánh-Tòa (Huỳnh-Quang-Sắc) Bình-Đông (Chợ-Lớn), có

Chƣởng-Quản-Bảo-Pháp, Thƣợng-Sanh-Nhựt và Ngũ-Đẩu-Tinh-

Quân, đem Đạo-Tràng Chơn-Hƣ Huỳnh-Đạo truyền bá sáng lập

Ngũ-Quang, thẳng đến Chơn-Nhứt Hƣ-Vô (Thiên-Thơ-Đài) và hậu

hƣờn lập “NGUYỆT-THANH-CUNG”.

Về Thiên-Địa-Nhơn-Đồ của ĐẠI-ĐẠO-CHƠN-CƠ, Thiên-Khai-

Huỳnh-Đạo, của Hiệp-Thiên-Đài VÔ-VI.

Các tên Thánh-Hiệu của Ngũ-Đẩu-Tinh và Chƣởng-Quản Ngũ-

Đẩu-Tinh sáng-khai Đạo-Huỳnh tại Thế-Gian, trong năm Bính Tý,

trong thời mạt-pháp Tam-Kỳ-Phổ-Độ, thuộc Chung-Tâm-Hòa-Phái,

Huỳnh-Quang-Sắc (Chợ Lớn) tên là:

1. Hỏa-Dƣơng Chơn-Tinh, (Trần-Thanh-Trầm) Đổng-Tử; Bình-

Nhâm (Thủ Dầu Một).

2. Trần-Tinh-Tử; (Nguyễn-Tử-Thức) Đồng-Loan, Tân-Kiên (Chợ

Lớn).

3. Vinh-Tinh-Tử; (Chà) Đồng-Loan, Tân-Nhựt (Chợ-Lớn).

4. Thái-Tinh-Tử; (Thủy-Ngân) Đồng-Tử, Phƣớc-Hải (Bà Rịa)

5. Tuế-Tinh-Tử; (Đặng-Phƣớc-Đức) Đồng-Loan.

a) Thành, Đồng-Tử, Phú-Long, (Thủ Dầu Một)

b) Nối, Đồng-Loan, Thanh-Huệ-Tử (Cần Thơ).

Chƣởng-Quản: Ngũ-Đẩu-Tinh là Thƣợng-Sanh-Nhựt, Chƣởng-

Pháp Vô-Vi; thánh-hiệu :”Linh-Châu Tử-Quân”. Ông trấn thủ: Hƣ-

Vô Chơn-Nhứt; có Ông Nguyễn-Ngọc-Châu, Đạo-hiệu: “Huyền-

Quang Đồng-Tử” ở Phƣớc-Hải (Bà Rịa) tá-trợ về cơ Siêu-Hình

Thƣợng-Học.

Do Ô. Tỵ, Hiển, Phƣớc, Lợi, Chín, Tỷ, Sanh, Tòng, và nhiều vị

Đạo-Tâm tá-trợ, đó là: Vế Thất-Thánh, Thất-Hiền Chƣởng-Quản

ban Tiên-Thiên Đại-Đạo.

Vậy có thi rằng:

Thi:

Cơ-Đạo phân-minh về Nội-Ngoại,

Chủ trƣơng Kinh-Sám, lập Tiên-Thiên,

Muôn năm roi dấu Tam-Kỳ-Đạo,

Nhƣ lúa sản sanh, lý tự nhiên.

Page 63: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

63

LINH-CHÂU-TỬ THỌ-MẠNG

TRUYỀN ĐẠI-ĐẠO HƢ-VÔ

LINH-CHÂU-TỬ là: Ông Thƣợng-Sanh-Nhựt, đến Thiên-Khai-

Huỳnh-Đạo, lƣu-truyền Bí-Khuyết Chơn-Cơ (Đại-Tịnh Hƣ-Vô) và

sáng lập “Thiên-Thơ-Đài” ở Phƣớc-Hải, (tỉnh Bà Rịa) và còn thọ

sắc đặng khai: NGŨ-QUANG-ĐÀN, các nơi là:

1) NGỌC-BỬU-TIÊN-ĐÀN tại Thánh-Thất Nhựt-Tân (Chợ Lớn)

do quí Ông này phụ trợ: Thái-Hinh-Thanh, Phối-Sƣ, chủ-trƣởng;

Tƣơng, Di, Quảng, Túc, Niệm, Tào và Nhan.

LỊCH-SỬ

Các TIÊN-ĐÀN về HƢ-VÔ CAO-ĐÀI

1) Huỳnh-Quang-Sắc (Vô-Vi-Thánh-Tòa), Bình-Đông (Chợ-Lớn).

2) Lâm-Hiệp-Đàn, Chủ-Đàn; Quí Ông: Hộ, An, Ngàn, Trƣớc, và

quí vị Đạo-Tâm Nam-Nữ, Hòn-Một Phƣớc-Hải (Bà Rịa).

3) Kim-Quang-Đàn, Chủ: Thánh-Thất An-Thành (Biên Hòa) là:

Thái-Dự-Thanh, Chủ tịnh-Đàn: Lúa, Giảng, Tam, và quí vị Đạo-

Tâm.

4) Nhƣ-Ý-Linh-Đàn (Lái-Thiêu), Chủ-Đàn là: Ông Thái-Đời-

Thanh, và Thành (Đồng-Tử). Nữ-Phái, là: Bà Một, Lành, Cúc,

Thắng.

5) Ái-Bình-Trung; Chủ-Đàn là: Ông Ái, Khoái và Phƣớc; Nữ-Phái

Đạo-Tâm phụ-trợ, Làng Bình-Trƣớc (Biên Hòa).

________________

HẬU-TIẾP-ĐÀN:

_______________

a) Thanh-Tịnh-Đan, Bến-Tranh (Mỹ Tho), Chủ-Đàn là: Thái-Thọ-

Thanh, và quí Ông: Thơm, Dự, Qui, Phụng, Thuộc, và Nữ-Phái,

Đạo-Tâm tiếp trợ. Khai-cơ ngày rằm, Tháng 8 Nhâm-Tuất (1946);

b) Thanh-Phong-Đàn, Lợi-Bình-Nhơn. (Tân An); Chủ-Đàn là:

Thƣợng-Hi-Thanh và Quí Ông: Chức, Chánh, Thanh, Sĩ, Thái,

Tám, Thơ, Tƣơng và Chƣ vị Nam-Nữ phụ tá. Khai-Đàn ngày rằm

tháng 10, năm Mậu-Tý (1948).

c) Thanh-Liên-Đàn, Chủ-Đàn là: Ông Huệ, Phƣớc, và Sẩm. Bến-

Lức (Tân An).

d) Phủ-Minh-Đàn, Dinh Quan Tiền Trào Quận-Công, Nguyễn-

Huỳnh-Đức, Khánh-Hậu (Tân An); do Ông: Thái-Tân-Thanh, Chủ

Đàn; và có Ông: Thọ, Hy, Chánh, Sĩ, thanh, Huệ, Thơ, Tƣơng và

các vị Đạo-Tâm Nam-Nữ phụ-trợ, về cuộc tân-kiến-tạo Phủ-Thờ

mới, do ông Thái-Thọ-Thanh, đứng ra kiến-tạo lại mới.

e) Nguyệt-Thanh-Cung (Chợ Lớn), Chủ Đàn là: Tô-Thị-Nuôi, Đạo-

Hiệu là: “Bạch-Lan-Tiên”, thánh-sắc; có quí ông: Tính, Sanh, Tức,

Lợi và Tuế-Tinh; có Quí-Vị Ngọc, Thạnh, Miết, Tấn, Thanh hộ đàn

(Lập ngày 3-1-49); Mùa thu, khai-cơ, Thƣợng: Vô-Cực-Đồ, ngày

mùng 3, tháng Giêng KỶ-SỬU, Tý-Thời.

oOo

PHẦN THỨ-NHÌ

_____________

Page 64: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

64

22. TAM-GIÁO CHỨNG KINH

TAM-HOÀNG Đức HỒNG-QUÂN TRƢỞNG LÃO ĐẠO-TỔ

Ân hồng nhuận điển

(Nguyệt-Thanh-Cung)

THI:

TAM-HOÀNG chung-kiết bổn Thiên-Thơ,

KINH-BÁU bố-ban, học kịp-giờ,

XUẤT-SẮC Tinh-Thần trừ nghiệp-chƣớng,

THẾ-ĐỒ giả cuộc, sĩ đừng mơ.

THI:

THÁI-Cực quang khai học đắc thành.

THƢỢNG hòa Thiên-Địa, hiệp nhơn sanh,

ĐẠO tâm An-tịnh, Thần-Quang xuất,

TỔ đức hoàn-toàn, tử hoán sanh.

THI:

NHƢ nhiên lƣu-thủy cọng cao-sơn

LAI giáo nhơn-gian luyện khí-đơn,

THÍCH xứu hàm thinh, vô hữu đắc,

CA thi khả thức, thiện vi chơn.

THI:

KHỔNG môn Tâm-pháp, tại Trung-Dung,

THÁNH đức truyền-chơn, độ sĩ hùng,

THIÊN địa nhơn-hòa, sanh khí-thoại,

SƢ ân tận-triết, lý Huỳnh-trung.

THI:

Thập-bát niên tu, Liễu-Nhứt thành,

Hoàng-minh vô-chủ, luyện nhi-anh,

Toàn-gia lƣỡng-điểm, Quang-minh hiện,

Nhựt-chiếu sanh qui, ảnh khí thanh.

THI:

BÀN-đào hội yến, lạc TÂN bang,

CỔ pháp bế, kim khai PHÁP-thoàn,

THUẦN mạng Âm-Dƣơng, CAO-thƣợng đức,

VƢƠNG-Quan xuất chiếu, ĐÀI Kim-Quang.

ĐẠO-tràng bủa khắp, TRUYỀN cơ-lý,

QUÂN mạng y hành, LẬP kỷ-cang,

THỊ sự xá thân, TÂM tục-lụy,

NGÃ-ân thi bố, KINH Tam-Hoàng.

oOo

23. VÔ-THỈ CHÍ CHUNG-MẠT

________________

LƢỢC-LUẬN: - Từ KHAI-THIÊN, TỊCH-ĐỊA, kế TÝ-HỘI, tới

MẠT-THẾ đƣơng-kim, Tuần-Hƣờn Châu-Nhi-Phục-Thỉ, ĐẠI-

ĐAO hoẳng khai, HUỲNH-QUANG Xuất-hiện, cứu độ nguyên-

nhơn hồi-nguyên phục-bổn, phản-hƣờn, về cách làm Tiên, là của

cuối-cùng HỢI-HỘI. Lƣợc thuật từ Thƣợng-Cổ chí Đƣơng-Kim.

BÀI:

Buổi hiệp thời, chiều mơi tu,

Tham-Thoàn Tịnh-Tọa, hiệp phù rán-tu.

Thiên-khai lập Thiên-Tào phán-đoán,

Page 65: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

65

Chiếu sắc phê, tỏ rạng Hậu-Tiền,

Huỳnh-khai Đại-Đạo Qui-Nguyên,

Cao-Đài Cứu-Thế, Bí-Truyền Huỳnh-Quang. .1

a) VÔ-CỰC VỊ-PHÁN

Đầu tiên có Cực-Hoàng một-khối,

Chƣa phán-phân, mờ-tối Huyền-Huyền.

Xƣng là: VÔ-CỰC đầu-Tiên,

Vần-xây đời kiếp, châu-truyền quá lâu. .2

Hết sức Động, bắt đầu Tịnh lại,

Tịnh lại rồi, bất-mãn, Động lai,

Hồng-Mông: Hỗn-Độn qua rày,

Đến ngày phân-phán, đó ngày phân hai! .3

b) HỒNG-MÔNG ĐỊNH-VỊ

Nhứt-Khí-hạo, vần-xây, chuyển hóa,

Định lại-rồi, Lƣỡng-Cá phân-rành,

Khinh-Phù: Huyền-Sắc Cao-Thanh,

Trọng-trƣợc “Hồng-Sắc”, đã đành Địa-Âm! .4

c) ĐỊNH-PHÂN TAM-TÀI.

Còn đƣờng giữa, kinh-tầm, sắc “Thái”,

Bán Âm-Dƣơng, hiệp lại thành “Quang”,

Trên cao: Dƣơng-Khí là “Càn”.

Dƣới thấp: “Khôn-Trƣợc”, Trung-gian ấy “Huỳnh” .5

Mới thấy rõ: bình minh Tam-Sắc,

Đen, Đỏ, Vàng, níu chặt với nhau,

Tuy là: phân biệt da Màu,

Nhƣng mà một khí, dồi-dào biến sinh! .6

TAM-TÀI: Nhựt-Nguyệt-Tinh, ba ánh,

Chiếu vần-xây, tà chánh rõ ràng,

Tinh-Thần: Nhựt-Nguyệt, Tinh-Quang,

Khắp nơi Trời-Đất, bố-ban Tinh-Thần. .7

Rƣới nhuần-khắp thâm-ân vạn-vật,

Nuôi cho đời chơn-thật vần-xây,

Cùng là: vàng đá cỏ-cây;

Cũng đều giúp đỡ, một thầy Huyền-Khung. .8

d) NGŨ-HÀNH PHÂN-ĐỊNH

Ôi ! đến cảnh, gian-trung, xung-khắc,

Biến: Bạch; Thanh, Ngũ-Sắc, Ngũ-Hành,

Gom: Đen, Đỏ, Vàng, Trắng, Xanh,

Mới có Ngũ-Lão, Ngũ-Hành Tiên-Thiên! .9.

Đến đây phân: Hồng, Huyền hai ánh,

Nhựt-Luân-thiên, Tà-Chánh Đồng-Môn,

Trời-thứ-sáu, chỗ vô Hôn;

Sáng hoài soi-khắp, lƣơng-ôn vô Hàn ! .10

Dƣới Dinh-Hoàn, băng đàng để-hạ

Nguyệt-Luân-Thiên, Hữu-dã, Quang-minh,

Chuyển-luân: giúp cõi hữu-hình;

Tế-Hàn, Thâu-Nhiệt, đinh-ninh giúp Thầy! .11

Khắp muôn-giống, cỏ-cây vạn-vật,

Đều hƣởng-nhờ, chẳng mất linh-Quang,

Cũng đồng: hƣởng-ứng mọi đàng,

Đêm thời Tịnh mát, Sáng hoàn Động khai! .12

Cứ luân-chuyển, vần-xây, động-tịnh,

Qua trung-gian, Ngọ-định, Một-hào,

Bố-ban: 24 khí dồi dào,

Điểm nhuận nhơn-vật, la-bao cõi-trần! .13

Nguyệt thì đi, vừa lần vừa nghỉ,

Hết bốn thời, nhờ khí Nhựt-Quang,

Đêm về: Nhựt-Phách, huy-hoàng,

Mộc-Dục an nghỉ, rọi đàng tối tăm ! .14

Đó là: chỗ, Trung-Âm, Dƣơng hữu,

Nhờ hữu-dƣơng, mới đủ sáng soi,

Có tu: thì khá tìm tòi,

Âm-Dƣơng thấu-triệt, khá coi Nguyệt-hành! .15

Còn Dƣơng-trung, Âm, đành Nhựt-hữu,

Page 66: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

66

Bởi rút thâu, Khí đủ Tam-Âm,

Âm-Dƣơng: hòa-hiệp chẳng làm,

Thiên-Động, Địa-Tịnh, Ân-thâm sanh-hƣờn, .16

Đạo Thiên-Địa, chánh-chơn lƣỡng-khí,

Huyền-Huyền đồng, thời Tý, chuyển Dƣơng,

Điều hòa: Tám-Lƣợng: Cân lƣờng,

Giúp thêm Âm-Khí, độ lƣờng Nửa-Cân. .17

Đoạn mới có, Tà-Thần, Tú-Khí,

Chuyển mây, mƣa, về lý Điển, Thần,

Sấm, Sét, Phong, Võ, Lôi, Vân,

Cùng là: Thích-Lịch, rần rần dội-vang! .18.

e) TAM-HOÀNG KHAI-THẾ

Tiên-Thiên-khí huy-hoàng biến-hóa,

Bàn-Cổ sanh, trứng-đá nứt ra,

Côn-Lôn, đảnh-thƣợng vậy mà,

Một-bọc đựng cả, Mƣời-Ba Vị-Thần ! .19

Đều cả-thảy, thọ-Ân Vô-Cực,

Nhờ Âm-Dƣơnng, lƣỡng-lực Quang-hòa,

Bƣớc ra, dạo-khắp Sơn-Hà,

Thấy bằng, là Đất, bao-la, là Trời. .20

Chạy cùng hết, đến nơi Đông-Bắc,

Tới Tây-Nam, gặp sắt Tiên-Thiên,

Rồng Tinh-ba, Ngũ-Khí truyền,

Búa-vồ, dùi-nhọn, nằm yên Thạch-Bàn. .21

Tay tả-nắm: đàng-hoàng búa-lớn,

Tay hữu-cầm: dùi-nhọn tạc-lên,

Lần-lần: Đất-xuống Trời-lên,

Bỗng-liền Đất-Hạ, Trời lên cao-Trời !. .22

Thấy hai mí, Đất-Trời xa cách,

Mới sáng ra, có lạch Minh-Quang,

Có Ánh-Sáng; khắp bủa-tràn,

Châu-vi giao-khí, có đàng thông-lên. .23

Rất thong-thả, ơn trên nhần-gội,

Ra ban-đầu, “Tý-Hội Thiên-Khai”

Xƣng là: “Bàn-Cổ Tiên-Lai”,

Thuần-Dƣơng thủ-xuất, Tịch-khai lƣỡng-hoàng .24

Mới lấy gốc: Thiên-Quang, lập-vị,

Hiệu: “Thiên-Hoàng”, thống-trị Ngôi-Trời,

Sấp bày: Thiên-Can để đời,

Mƣời Cung “Giáp-Quí”, đổi dời Thiên-Can. .25

Kế tiếp theo: “Địa-Hoàng” xuất-thế,

Ở Đất lên: toàn-thể: 11-ngƣời,

Tại: “Hùng-Nhĩ Long-Môn” cƣ,

Thông-minh hy-hữu, Chơn-nhƣ Tánh-Trời. .26

Thập-nhị-Chi, bày nơi Địa-Hạ,

Tý, Tuất-, Hợi thêm cả Sửu, Dần,

Phân-minh: Địa-Thuần, Thiên-Nhân,

Sắp ra thứ-tự, cõi-trần tƣơng-liên. .27

“Nhơn-Hoàng-Thị”, cũng liền sản-xuất

Mã-Hành-San, Khí-tức tƣơng-hòa,

Thâu Ngũ-Vân, Ánh Ngân-Hà,

Anh-em cửu-cá, đều là đồng minh. .28

Nhơn-Hoàng lớn, tôn mình Anh-Cả,

Do tám em, thong-thả giúp-vua,

Tám khu-vực, trị Tám vua,

Trung-Ƣơng khu-chánh, làm vua xƣng Hoàng. .29

Chƣa phân biệt, Nữ-bang, Nam-tử,

Vẫn còn là: cƣ xử lộn chung,

Đực thấy Cái, quá cƣời hung,

Trần-truồng, lõa-thể, hình dung dị-thƣờng. .30

Ngó rồi hay, đi bƣơn bỏ chạy,

Cƣời-cợt nhau, rồi lại hôn-nhau,

Lấy cái dƣ, lấp thiếu vào,

Đoạn rồi giao-cấu, âm-bao dƣơng-hòa. .31

Page 67: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

67

Từ đây, thấy: ngƣời ta mới có,

Kết thai, mƣời tháng đó mới sanh,

Nhờ Âm-Dƣơng-Khí, đặng-thành,

Con-ngƣời từ đó , Trời sanh, dứt mà. .32

Giữa trung gian, Ngũ-Hà Qui-Nhứt,

Tứ-Bộ-Châu, Ngũ-Thức ban hành,

Ngũ-Châu: chia rõ phân rành,

Tên riêng mỗi chỗ, lập thành Châu-đô .33

Đông-thắng-Châu, lập mô Đông-Độ,

Tây-ngu-Châu, ánh lộ Tây-Phƣơng,

Nam-Thiệm Bộ-Châu, Hỏa-Dƣơng,

Bắc-Cu Lƣ-Châu, bốn đƣờng qui-chung. .34.

Tu-Di-Châu, chánh trung ở-giữa,

Thành ngũ-châu, lập thửa ngũ-phƣơng,

Cũng đồng: Hàn-nhiệt tuyết-sƣơng,

Xây vần Bát-tiết, âm dƣơng điều hòa. .35

Nam-Bộ-Châu, ngƣời ta cƣ-trụ.

Lập thành ra, dẫn-dụ Đạo Trời

Truyền lần: Các Đạo dạy Đời,

Làm lành, lánh dữ, tứ thời tụng tu. .36

Đã có rồi, Xuân, Thu, Đông, Hạ,

Là ngũ-hành, Địa-hạ bố ban,

Giúp vùa, nhuận rƣới dinh-hoàn,

Nuôi Ngƣời cùng Vật, bảo toàn sanh-linh. .37

Nhờ Khí tựu, Chơn-Tinh thế xuất,

Bởi tu qui tánh đức dạy đời,

Làm cho: Đời, Đạo thảnh-thơi,

Mở khai dân-trí, cõi đời càng xinh. .38

Theo Tam-Hoàng, đinh ninh sáng lạng,

Có Ngũ-Long, hạ giáng trị Đời,

Dân cƣ, thong thả thảnh thơi,

Thế-Thiên hành-hóa, giúp Trời trị dân. .39

Cứ nhƣ vậy, dần lân nhiều họ,

Nhiều họ truyền, ân thọ Trời ban,

Dạy dân: giúp ích Nhơn-Hoàng,

Tứ-Dân, Tứ-Thú, lạc an dân hòa.

Ca diêu “Hải-yến, thanh-hà”,

Phong-điều võ-thuận, âu ca thái-bình. .40

Tiêu, Trƣởng xây, Hƣ, Dinh truyền xuống,

Đến Ngũ-Đế, có cuốn Thiên-Thơ,

Ấy là: “Thái-Nhứt Căn-Cơ”,

Tu-Tiên học-Đạo, bây giờ còn roi. .41

f) NGŨ-ĐẾ XUẤT-LINH

Đức Tam-hoàng, sáng soi Thánh-Đế,

Kế Phục-Hy, bài chế Quái-Hào,

Chỉ rành: Bát-Quái thông giao,

Bốn phƣơng, tám hƣớng chung vào Trung-Ƣơng. .42

Đủ đầy Ngũ-Khí trinh-tƣờng,

Định phân Trời-Đất, lục Dƣơng Âm bình.

Mát mẻ thay ! Nhơn-thể hình,

Mặt mày tƣơi tốt, dị thƣờng Thánh-nhân. .43

Tạc khai hỗn-độn, phân Thiên-Địa,

Thiên-Địa phân; tùng thiện đề-năm,

Thiên sanh: vạn-vật, chẳng lầm,

Nhơn-Hoàng Đại-Đức, linh thâm ban đầu !

Xƣng Bàn-Cổ, truyền đời lâu,

Roi truyền vĩnh-thế, Hoàn-Cầu Căn-Chơn. .44

h) TAM-ĐẾ ĐẠI-THIÊN-ÂN;

Thiên-Hoàng, Địa-Hoàng, Nhơn-Hoàng xuất,

HỮU-SÀO, Toại-Nhơn-Thị, tiếp ra,

Lắm công: nghiên-cứu “lửa” mà,

Có “Hữu-Sào-Thị”, cất nhà, dân cƣ.

Hết lòng: một dạ khƣ-khƣ,

Thế cho chung-lộn, đồng cƣ thú cầm. .45

Page 68: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

68

Kế Tam-Hoàng, ai chí tâm?

Có ba Đại-Đế, ân-thâm trị truyền,

Phục-Hy, Huỳnh-Đế, mối giềng,

Thần-Nông cấy lúa, cứu yên dân-lành. .46

Khỏi Tam-Vƣơng, lập thành Ngũ-Đế,

Vua Thiếu-Hạo, cải chế dạy Đời,

Xiêng-Hút, Đế-Dự, noi Trời,

Khuyên dân tu niệm, bớt lời ảo-ngôn.

Sáng, bình-minh, tôi, huỳnh-hôn,

Cho ra đặc-biệt, hàn, ôn phân bình. .47

Lấy lời dạy, sám-kinh lƣu-ký,

Để dân gian mở trí dân Hồn !.

Đƣờng, Ngu, nƣơng theo bảo tồn,

Trung-Dung, Thánh-Đức, quốc-hồn linh-thiêng.

Đó là: Ngũ-Đế, hữu-duyên.

Thƣơng-Hiệt, Chế-chữ, Tiên-Thiên di truyền. .48

Hạ, Thƣơng, Châu, nối truyền lƣỡng Hớn,

Hậu-Hớn còn, lắm chốn tánh-lành.

Ngụy, Tào, xảo trá đua tranh,

Gọi là: Tam-Quốc, lấn ranh: “Tam-Hùng”.

Tôn-Quyền, Ngô, Lƣu-Bị, Trung,

Bắc-Ngụy, Tào-Tháo, xƣng hùng Hứa-Xƣơng ! .49

Thƣơng ôi ! Dân chúng chịu tang thƣơng?

THI:

Tang thƣơng cuộc-thế, đổi rồi xây,

Trăng khuyết quanh-vòng, lại đủ đầy,

Thử để: hỏi tâm tùy-ý muốn,

Hạ, Thƣơng, Châu, Hớn hỡi còn đây?

Chi bằng học Đạo giải khuây !

BÀI:

Qua Lƣỡng-Tấn, có Ngũ-Hồ loạn,

Bởi Vua hôn, Thần-đoạn mối giềng,

Khiến dân: ăn-ở chẳng yên,

Nhƣ dƣa xẻ miếng, riêng riêng từ phần. .50

Lập thành đô, nơi chân Giang-Tả,

Tào-thị-phƣờng: lã-chã châu rơi,

Tống, Tề, Trần, Lƣơng, mỗi nơi,

Bắc-ngụy độc-lập, cơ-thời trùng-hƣng. .51

Đông, Tây-Ngụy, phong-thuần lƣỡng-nghiệp,

Bị, Lƣơng, Tề nhận dịp chiếm ngôi,

Từ đây cam phận làm tôi,

Vì chƣng vô đạo, ôi thôi! Đọa đày !. .52

THI:

Đọa-đày bởi tại ĐẠO không-tu,

Nên nỗi tranh nhau: Lọng với Dù,

Tam-Quốc tranh-hùng, rồi cũng mạt,

Ai là: hƣởng đặng, trọn ngàn thu?

Thấy vầy: Rán công phu!

BÀI:

Tề vì bởi: quyền-ƣu quá lắm,

Nên dứt đời, chịu đắm Châu-Vƣơng,

Châu diệt Tề; rất thảm-thƣơng,

Sau Châu lại bị: Tùy-Đƣờng gồm thâu. .53

Tùy diệt Châu, gổm âu Trần-Quấc,

Mới mở-mang, Cung-Thất xa-hoa,

Lại bị: đại-đức Đƣờng-nhà,

Lý-Nguyên Thỉ-Tổ, thƣ-xa trị vì! .54

Đời Đƣờng mạt, chí-kỳ Ngũ-Quí,

Làm dân-lành: Ngọ, Tý chẳng-an,

Sớm phải khóc, chiều lại than,

Tần, Đƣờng, Châu, Hớn: vẫn càng tƣơng-tranh .55

Tống đoạt Châu, cao-danh: Khuôn-Dẫn,

Thọ mạng-trời, bỉnh-chấn Ngũ-Vƣơng,

Sấp lại: luân-lý cang-thƣờng,

Page 69: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

69

Lập đời thạnh-trị, dân lƣơng thái-bình ! .56

Một thời-gian, cuộc binh: lại loạn,

Nam, Bắc Tống, nhị-độ quá giang,

Sau Kim: thâu tóm một đoàn,

Từ đây Tống mất, Kim-Bang trị vì. .57

Chẳng bao-lâu, Kim qui Ngƣơn thống,

Trừ Kim, Tống, sự sống hết thời,

Ngƣơn xƣng: Thái-Tổ một nơi

Trung-Nguyên thống-nhứt, vua trời chánh ty ! . 58

Ngƣơn trào chẳng từ -bi ái-chúng,

Dụng oai-quyền, hiếp-húng lƣơng-dân,

Xem qua: giống tạc nhƣ: TẦN.

Có ngƣời Hồng-Võ, tranh phần Minh-Quân. .59

Châu-Hồng-Võ mới xƣng Minh-Tổ,

Gom cơ-đồ, một chỗ Kim-Lăng,

Thập-lục truyền, toàn cuộc trăng,

Tang-điền, thƣơng-hải, đổi lằn qua Thanh. .60

Từ Nghiêu-Đế, vô tranh đế vị,

Bởi truyền hiền, luận nghị ít nghe,

Đời hạnh phúc, chẳng khắc-khe,

Truyền dài xuống đến, đông-hè hôm nay. .61

_____________________

Nhờ Đạo-Đức, quá dài ngày tháng,

Độ xuân thu, bốn ngàn tràn-dƣ,

Nƣớc Đại-Nam, “Hồng-Bàng” từ,

Roi truyền qua đến, Lý-thời: Trần, Lê. .62

Có Họ-Đinh anh-nghi, hùng dõng,

Tấc gan-trung, nhứt thống, Tiên-Hoàng,

Một mình: tóm gốc chiêu-an,

Truyền lần thiên hạ, nhiều bang, nhiều dòng. .63

Đến rốt đời, minh-thông Nguyễn-Tánh,

Diệt Trịnh, Lê, thông-chánh mối giềng,

Một lòng: lập-lại tổ tiên,

Gia-Long xƣng đế, mối giềng từ đây! .64

Nam, Bắc, Trung: dựng gầy NAM-ĐỊA,

Thống Tam-Kỳ, đặc bịa giáo dân

Cũng còn lắm bực Trung-Thần,

Nhƣ Ngƣời Huỳnh-Đức, chăn dân hết lòng. .65

Lê-văn-Duyệt, thần phong võ-lƣợc,

Gia-Định thành, Kinh-lƣợc an-bang,

Cùng là: Võ-Tánh nghiêm-trang,

Cũng đều trung nghĩa, bảo an quốc trào. .66

Truyền hai đời, lao-xao dân chúng,

Có Tây-Sơn, Tây-Bắc tuông vào,

Tự-Đức, vua gọi Văn-Hào,

Phú-thi lỗi-lạc, có nào giúp ai. .67

Bày diệt Đạo, chẳng hay thời cuộc,

Đạo Gia-Tô đều tuốt gƣơm-trần,

Chẳng thƣơng dân chúng, chúng-dân,

Nỡ đành giết-Đạo, dần-lân oán hài. .68

Lắm tàn-sát, ai-hoài cày-cuốc

Quan-Văn dầu thông-suốt tuần-hƣờn,

Chẳng hề: giáo-huấn chỗ-chơn,

Đem lòng ác-cảm, giận hờn ngoại bang; .69

Diệt Đạo rồi, diệt lang Hời, Mán,

Để họa gây, ngày tháng dập-dồn,

Hôm nay: nòi giống mất hồn,

Cũng vì tiền quả, Tử-Tôn phải-hoàn. .70

Khiến nên nỗi, không an bá-tánh,

Trị mấy Đời, Quốc-chánh Việt-vong,

Đâu còn: vĩnh-viễn Lạc-Hồng,

Phong trào thuộc-Địa, giống dòng ối thôi ! .71

Ôi thôi ! đó tƣởng ngôi lƣu-thế,

Page 70: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

70

Nào hay đâu, bị kế mị-tà,

Thất-Thuyết, Tri-Phƣơng, Nguyễn, mà,

Tráo Vua, thay Chúa, nhƣ Ma giành mồ. .72

Thảm-khúc đó, Trào-Đô vô kế,

Mặc loạn-Thần kềm chế vua quan,

Cũng đều: thọ nhục, gian-nan,

Nhơn-dân đồ-thán, chẳng an mảy hào. .73

Truyền lần đến dân tao đại hại,

Khổ thêm hoài, dân-dại, dại thêm,

Dân càng chẳng-ngủ trọn đêm,

Mảng lo bom đạn dƣới trên hiểm nghèo. .74

Nghĩ càng, càng nghĩ, càng eo,

Bắc-Hà, Nam-Địa, còn theo đạn rời,

Hỏi đâu còn cuộc thảnh thơi?

Châu rơi tầm-tã, cuộc đời dời xây. .75

Nào đào lỗ đặng chôn thây,

Ngƣời còn chƣa chết, khó khuây lòng-vàng.

Tân trào tự-trị: bất-an,

Đảo-điên lê-thứ, Nhựt sang ánh-hồng. .76

Khiến nên: lắm cuộc long-đong,

Sớm còn, chiều mất, tấc-lòng ngẩn-ngơ,

Ngƣời sầu não, dạ màng-mơ,

Làm cho dân-chúng lờ-mờ tối đen. .77

Nhờ lòng tín-ngƣỡng đã quen,

Tam-Kỳ Đại-Đạo, dân hèn Thầy khuyền.

Dạy rách lý, cách phục nguyên,

Làm lành lánh dữ, Tiên-Thiên Đại-Đồng. .78

Trƣớc hết, về: phổ thông, Luân-Lý,

Sau Đạo vị, truyền lẽ chánh chơn,

Dạy dân: lóng nghe tiếng đờn,

Đờn không dây phím, Cao-sơn thâm trầm. .79

Đủ khoan-nhặt, linh-âm vi-diệu,

Đầy oán-ai nhiều điệu giọng-đờn,

Phân rành: ngõ chánh, đƣờng chơn,

Ca-thi, vịnh-phú, xuyên-sơn hải-đầm ! .80

Nhờ Linh-Điển, Cao-thâm điểm-nhuận,

Bố Linh-Đồng: tự dựng vẽ ra,

Nào là: Vịnh-phú thi-ca,

Điểm truyền bố-liệt, bao la toàn cầu. .81

Nghĩ thật rất, ơn-sâu thâm-thẩm,

Gieo Đạo lành, nhuận thấm cứu dân,

Biết đâu rồi đến phân thân !

Mới bày mở Đạo, rộng ân vớt hồn. .82

Cúi đầu: bá bái CHÍ-TÔN,

Cùng là: Tiên-Thánh, Phật ngôn tuyên-truyền !

Ai là: Linh-Chƣởng hữu-duyên,

Đặng chầu Ngọc-Bệ, thọ miên cửu-trƣờng. .83.

oOo

BÀI TỔNG LUẬN:

24. THIÊN-KHAI ĐẠI-ĐẠO

TẠI NAM-BANG ______________

Giáo-lý vể luật-lệ của “Tam-Kỳ-Phổ-Độ”, từ khai Đạo dĩ-chí

“Long-Hoa-Đại-Hội”, có Đức Di-Lặc Thế-Tôn lâm-phàm chứng

sự,

Phán-đoán Đại-Đồng

Thiện-ác phân-hinh; Thiện-thăng, ác-đọa,

Lƣỡng-lộ phân-bình; Luật-điều tiên-định.

Page 71: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

71

Tiếp-độ thiện-căn công-đức, qui hồi Không-cảnh đắc thọ tuyệt-

luân, hƣởng Thần Tiên phẩm-vị, chí Huỳnh-Quang Sắc-lộ, Thƣợng-

Hoàng ngự-điển: Phật-Tiên-Thánh-Thần Triều bái Thiên-Hoàng giá

lâm ngự trần, bế mạc Đại-Hội-Long-Hoa.

Về phần hữu-hình có các Ngôi và Thánh vị; là:

1) Khai sáng: Sơ-khai Tam-Kỳ-Phổ-Độ; Tòa Thánh (Tây Ninh).

2) Chơn-Lý: Minh-Chơn-Lý; Trung-Ƣơng (Mỹ-Tho).

3) Chỉnh-Đạo: Ban-Chỉnh-Đạo: An-Hội (Bến-Tre)

4) Ngũ-Chi: Minh-Thiện, Minh-Lý, Minh-Đƣờng, Minh-Sƣ và

Minh-Tân.

5) Thập-nhị-Phái, là: Trung, Chiêu, Quang, Ca, Giảng, Sanh,

Tƣơng, Liên-Hòa, Tiên-Thiên, và chi-thế, v.v…

6) Thất-thập-nhị-Tịnh, đều có tên riêng mỗi Tịnh.

7) 108 Tiểu-đàn, và 365 cảnh đạo, tại bá-gia.

8) 3600 Bàn-môn ngoại-đạo, đều phải qui vào Đại-Đạo y-theo

“Nhứt-bổn-tán-vạn-thù”, rồi bây giờ Phục-Nhứt bổn-nguyên; là:

“Vạn-thù qui ƣ nhứt-bổn” vậy !.

Vậy thì bực Đạo-đức, trƣớc hết phải qua cửa Phổ-Độ, (là: Khai-

sáng) rồi lần tới Ngũ-chi, Chơn-lý, Chỉnh-Đạo, Thập-nhị-Phái,

Thất-Thập-nhị-Tịnh, các chƣ Tịnh-Thất, Tịnh-Đàn, đều có đủ Âm-

chất hoàn-toàn, mới thọ đặng chơn-truyền, quán-thông chơn-lý,

triết-lý, sanh-lý-học, Âm-Dƣơng thông, Thiên-Địa học; mới là: Tỏ-

ngộ Thiên-Khai HUỲNH-ĐẠO, đại cuộc LONG-HOA chung !.

Bế-mạc Đạo-tràng, Thánh-Thần hồi Thiên, bình-yên, phục hồi

Thƣợng-Cổ !.

Nhơn dân hiền-đức, mới là: Thuấn-Nhựt, Nghiêu-Thiên, phong-

điều võ-thuận !

Hỏa xuất Thanh-Tân,

Thủy lƣu Sinh-Khiết !.

Tam-tài ánh lộ, Vạn-lý trƣờng-xuân, Thiên-niên kiết triệu, Bế-hộ

gia-vô, Thánh-nhơn tại-thế, giáo-dân cang-thƣờng luân-lý; thuận-

Thiên tâm-ý, hƣờn ƣ Thƣợng-Cổ, Ngũ-Cốc phong-đăng …

Chỉ tồn, còn “Nhứt-khí hạo-nhiên”, bố-ban võ-lộ điểm-nhuận

Nhơn-Hoàng đó.

Đó là: “Thiên-Địa giao-thái”,

“Nhơn-vật an-bình”,

“Huê-Thảo thanh-hƣơng”,

“Lạc thuận kỳ trung hỷ “ !.

Xiết bao là lành !.

oOo

25. THỈ-KHAI ĐẠI-ĐẠO

TAM-KỲ-PHỔ-ĐỘ

________________

(Nguyên nhân khai sáng tại HÀ-TIÊN buổi đầu)

Di truyền Đạo-mạch Sài-Gòn, Chợ-Lớn, đến Tây-Ninh, lập thành

cơ sở Tòa-Thánh, Long-Thành (Tây-Ninh).

“Bản danh Cao-Đài: Tam-Kỳ-Phổ-Độ”; rồi Đức Ngô-minh-Chiêu

thối-cƣ an-tịnh năm 1929.

BÀI:

Nguyệt vừa rạng, nhành dƣơng ánh-lộ,

Sáng trong Trời, hƣng-tộ Đạo-chơn,

Page 72: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

72

Vẻ-vang thay, đức tạo-nhơn,

Khai-minh diệu-hữu, Đạo-chơn sơn-hồ. .1

Tiên sơ-thỉ, Ngô-Minh-Chiêu,

Nguyên-căn xuất-thế, Thiên-kiều thọ-ân.

Ngƣời là: căn cốt pháp-thân,

Xuống trần mở-Đạo, giáo dân điển-thần. .2

Cũng nhƣ ai, ở cõi trần,

Vào khoa thi-hội, các-lân quan-trƣờng !

Nhƣng mà: trí, ý, thiện lƣơng,

Làm xong phận-sự, bƣớc đƣờng Thiên-luân. .3

Vƣng lịnh phán, bƣớc lần chơn tới,

Cái-Khế-Đàn, áo lới phân qua,

Chỉ đƣờng, sáng-lập Đạo-Cha,

Thiên-Nhãn ứng-lộ, thấy lòa sáng-trƣng,

Ánh-lòe đỏ sáng Trời xuân,

Lập làm Cao-Vị CHIÊU tuân phụng thờ. ..4

Cách hành-động, dụng Cơ, Đồng-tử,

Vẽ quây ra, có chữ, điển văn,

Điển-Ký chép lại làm bằng,

Gọi là Thánh-Giáo, đó rằng lời Tiên!

Để câu vạn-vật, nhủ-khuyên,

Thiện-Nam Tín-Nữ cần chuyên Tịnh-Thiền. .5

Chính giữa đàn, quì yên Đạo-hữu,

Lƣỡng Ban đồng, nhờ Chủ-Đàn, tin,

Pháp-Đàn: Quì giữa bạch trình;

Dâng Cơ, hiến Tửu, đinh-ninh mọi bề.

Để Tam không: dạ chớ xê,

Đức-Tin cho vững, chẳng hề đơn-sai. .6

Đặng nhờ Đức Thiên-Oai linh-điển,

Bố Hồng-Ân biểu-diễn truyền-ngôn,

Dạy về: chế-Phách, luyện-Hồn,

Cùng là luân-lý, bảo-tồn dân-sanh.

Dứt Oan-trái, chớ Liệt-Hoanh,

Đức Tài gồm đủ, toàn thanh Thƣợng-đằng. .7

Vệ-sanh chỉ, ở ăn thứ tự,

Dẹp tánh-phàm, tƣ-lự chớ đeo.

Sự cách-trở, phải lựa đèo,

Bƣớc qua cho khỏi quanh-eo mới mầu,

Ngày tháng qua, phải nhặt thâu,

Ít ăn, ít nói, câu-mâu cũng đừng ! .8

Phải Đại-Tịnh, Dƣơng-thuần, Âm-thối,

Y Nguyệt-hành, Sóc, Hối, Vọng, qua,

Cửu-Khiếu: thông-mãn Ngân-Hà,

Tam-Hoa tụ-Đảnh, sáng lòa ánh-quang.

Vậy mới phải Phép-Định-Thoàn,

Tam-Cung Cửu-Khiếu, thông-quan khắp cùng. .9

Đều chung vào Huỳnh-trung thông lý,

Hiệp Âm-Dƣơng: nhờ Ý chẳng xao,

Đủ ba-trăm sáu-lăm hào,

Kết-Thai Thánh-Đức, ở vào Hạ-Quang.

… Khí tụ Ngƣơn-Quan bảo-tồn (1) [thiếu]

Thần lai hiệp-nhứt ôn-ôn chuyển-vần. .10

Chuyển-vận khắp Chơn-Thần lực-lƣợng,

Chạy cùng quanh Hạ, Thƣợng, Trung-Điền,

Xuống Giáng-Tắc-cung mối giềng,

Xiên tâm Vĩ-Lữ, bỗng liền Tích-quan. .11

Rồi lại đến, băng ngang Đạo-Cốc,

Tới Ngọc-chẩm, đến rốt Nê-Hƣờn,

Đó là: Thƣợng-Điền linh-chơn,

Chỗ trụ Thần nghỉ, thọ-ơn Cửu-trùng. .12

Nơi Ấn-đƣờng, thung-dung quang-hiện,

Tới Huyền-ƣng, là: viện dịch-tân,

Đến Huỳnh-Đình-Cung, định thần,

Đoạn lần-xuống nhập, tƣơng-thân, Khí-Thần. .13

Page 73: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

73

Nơi Thái-Cực, ái-ân Thần-Khí,

Mới hòa-duyên, huệ trí xung thiên,

Cứ nhƣ vậy, Thần-châu truyền,

Tam-Điền, cửu-khiếu, tiếp-liên thông-đồng. .14

Còn chờ lịnh, Thiên-công giúp điển,

Đem lên trên, xuất hiện Nê-Hƣờn,

Đặng mà: “Bảo-nhứt thủ-ngƣơn”

Đủ đầy Thần-Khí, linh-chơn ánh-lòa. .15

Vận châu-thiên, tiêu ma diệt quỉ,

Trừ vọng tâm, luyện kỷ hoàn-toàn,

Qua trăm ngày, mới xuất-quang,

Ba-trăm thần đủ, ánh-quang chói-ngời. .16

Ngài huấn giáo, để-lời lƣu-hậu,

Cho nhơn-sanh, rõ thấu tu-chơn,

Khá nghe: cho rõ giọng đờn,

Y theo thứ-lớp, bồn-chồn chẳng xong, .17

Muốn tu-luyện, rán công nhiều-tháng,

Đừng bƣớc đi, lại chán muốn thôi,

Khuyên trong Nam-Nữ rán ngồi,

Hƣ-Vô tịnh-tọa, đắc ngôi Tiên-Tòa.

Một lòng vâng giữ lời Ta,

Đủ đầy phƣớc-huệ, Tam-Hoa đắc thành. .18.

THI:

Đắc thành trọn Đạo trả tứ-ân,

Hơn ở trần-gian, khổ lắm thân,

Sớm tối lợi danh tƣ lự mãi,

Tháng ngày oan nghiệt buộc chơn-Thần

Có giàu qua đặng, vô-thƣờng đến,

Quan-tƣớng thoát vòng, chuyển kiếp nhân,

Chi bằng tu Chơn, y luật định,

Thiện-tâm tác phƣớc, đắc tân-dân.

BÀI:

Đắc Tân-Dân, đổi-phàm hóa Thánh,

Ƣ Chí-thiện, Đạo Chánh Thiên truyền,

Theo thời-kỳ phục bổn-nguyên,

Qui hồi cựu-vị, Cao-Tiên hƣởng-nhờ. .19

THI:

Hƣởng nhờ phƣớc-huệ Đức-Chí-Tôn,

Bỏ xác phàm-phu, nhẹ mảnh hồn,

Về chốn Bồng-Lai, thi, tửu hứng,

Tiêu-diêu tự-toại, thƣợng huyền môn.

BÀI:

Thƣợng huyền-môn, vui vầy Tiên, Thánh,

Hội Bửu-Tòa, lòe ánh quang-minh,

Đặng giờ: ra mắt Thiên-Đình.

Phận làm tròn phận, siêu hình ngao-du.

THI:

Ngao-du tứ hải với năm hồ,

Mặc sức Đạo-Huỳnh, trƣớc trƣớng phô,

Thọ lãnh tƣớc-thiên, chầu Ngọc-bệ,

Thanh-minh pháp-tƣớng, trọn hƣờn vô.

oOo

26. KHUYẾN-THIỆN TỊNH-TU HUYỀN-HUYỀN THƢỢNG-THÁNH CHƠN-

TÔN

(15-2-36)

________

Page 74: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

74

Tƣờng-Vân Đồng-Tử, hỉ ! hỉ! Chƣ-hiền khá đại tịnh nghinh giá,

Thế-Tôn lâm đàn dạy lý, hƣơng đăng bày-bố đàng-hoàng nghe.

Tiểu-Tiên: xin-kiếu.

THI:

CHUẨN cuộc Nhơn-Hoàng lối cuối-cùng,

ĐỀ câu giáo-lý Đạo tâm-trung,

THẾ gian đồng chịu đƣờng ly-tán:

TÔN-tộc cần tu kiết diệt hung.

Bần-Đạo mừng chƣ Môn-Đồ đại tịnh, mà nghe lời triết-học, nghe:

BÀI:

Kiết diệt hung, lo tầm Chơn-Lý,

Đạo hoằng khai, Tý-hội vừa xây,

Các con: vƣng thửa lời Thầy.

Đoạn căn ác-nghiệt, cung mây thăng về.

Phải làm lành, dạ chớ xê,

Một lòng tín ngƣỡng, chớ mê mà lầm. .1

Ngƣời tịnh dứt, căn dâm mau đoạn,

Kẻ dục-tình, luyện mạng tuyệt-luân,

Trở về: cảnh cũ muôn xuân,

Vô hàn, vô tháo, phong-thuần lạc-bang,

Chốn Thiên-Đàng cảnh ở an,

Muôn năm thọ hƣởng đại thoàn pháp thân .2

Lánh cảnh đời, ái-ân, tu-tịnh,

Bỏ lầu-son, nhục-nhịn, ẩn tu

Thoát qua cái cảnh Ngục-Tù,

Xxxxx Thiên-đạo, thiên thu an nhàn.

Đừng mê sắc, bị dở dang,

Tan-Hồn, lìa-phách, hết phang phục-hƣờn ! .3

THẦY chỉ rõ: Hạ-Ngƣơn mãn cuộc.

Trò hiểu rành, dụng bƣớc LINH-CHƠN.

Quang-Tâm, Tín-Đức, thiện nhơn,

Mới ra khỏi lƣới, Tam-chơn thoát quyền,

Mến cảnh lợi, xuống Cửu-Tuyền,

Làm sao phục lại Bổn-Nguyên Tánh lành? .4

Phải ở lành: CAO-XANH điểm-hóa,

Răn lòng tà, TRỜI xóa lỗi-lầm,

Cứ Tu: thì biết, thậm-thâm,

Huyền-huyền diệu-diệu, diệt-âm, Dƣơng-hƣờn.

Định-Thần nấu thuốc LINH-ĐƠN,

Ngƣng-Thần, Khí-tựu, bổn-chơn nhẹ nhàng! .5

Lịnh TAM-HOÀNG bố ban vạn-loại,

Báo Tứ-Ân, lời dạy Thiện-nhơn,

Tu-hành Linh-Địa đắc-hƣờn,

Thiên-Địa, Nhơn-Hiệp, Nhứt-Chơn chỉ rành,

Nội, Ngoại Đạo-Vô-Vi hành,

Hữu-Vi tạm mƣợn, đặng lành, dứt đi ! .6

Bỏ Hữu-Tƣớng: Vô-Vi Vô-Tƣớng,

Tâm trống-không, đừng tƣởng vào đâu,

Ý Đại-định, chớ cơ-cầu;

Ngày đêm trƣờng-tịnh, mới thâu TAM-TÀI !

Kinh TAM-HOÀNG bố-ban bài,

Để cho Nhơn-loại, theo rày đƣờng-tu ! .7

Cho Ngƣời rõ ôn-nhu Tâm-Tánh,

Lánh cạnh-tranh, ẩn-ánh quang-thành,

Đủ đầy: đức-hạnh nêu danh,

Phong tặng tông-tích, mƣời-lành bia ra.

Rán công: đại-tịnh trừ Ma,

Thất-Thập-Nhị-Tịnh; đổi ra Nhị-Huyền ! .8

Thất-Thập-Nhị Công-Huyền, biến-hóa,

Nhứt-Khí-sanh, nhƣ cá hóa Rồng.

Phƣớc nhờ: Đại-Đức TIÊN-ÔNG,

Hoàn-toàn viên-mãn, cửa Không thăng về.

Rán trì-tụng chớ si mê.

Page 75: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

75

Có THẦY dẫn-dắt, Thiên-đê thƣợng từng ! .9

NGÂM:

Thƣợng-từng: lên ở cung-trên,

Phục hồi LINH-CHƢỞNG, tuổi tên vô cùng !

THI:

Bƣớc đến mây xanh, hƣởng cảnh nhàn,

Vô-thinh vô-xứu, đoạn vô-đoan,

Muôn-năm: thoại-ứng, năm quang-hiện,

Lạc-thiện kỳ-trung đạo-đức an.

BÀI:

Đạo-Đức an, do ngƣời chánh-tín,

Bất ƣu-tƣ, chơn-chính bỏ qua,

Làm sao: đặng gặp CHA-GIÀ,

Cứu-Hồn khỏi diệt, Ta-Bà cảnh-Tiên,

Lời than: Chơn-Chánh nhƣ nhiên,

Hát kêu ai-oán, ngửa nghiêng, thay hồi ! .10

THI:

Thay hồi đổi cũ, mới CAO-TÂN,

Tân-Pháp luyện-tu, đắc xuất-Thần,

Thần-hiệp khí-qui, du THÁI-CỰC,

Cực-cùng một kiếp, hƣởng tân-dân.

NGÂM:

Dân Tân-Dân, Ngƣơn-Thần thong-thả,

Gọi chí-Thiện, Đạo-Cả tròn xong,

Chẳng còn: nƣơng-níu trần-hồng,

KIM-TIÊN ĐẠI-GIÁC, thoát vòng trần ai.

Vậy mới là: học CAO-ĐÀI.

TAM-KỲ-PHỔ-ĐỘ, sống hoài triệu năm ! .11

Xin ai chớ lạc lầm mà khổ,

Có Tiên-tri, một chỗ chữ đề.

Để cho: ngƣời tỉnh bớt mê,

Rõ câu Tiên-đoán, Thiên-hề đã cho !

Tu Tịnh-Dƣỡng, phải rán lo,

Hồi-Quang Nội-Chiếu, đặng cho Dƣơng-Thuần..12

Mừng Thƣợng-Ngƣơn, ĐẠO đắc xuân,

Ngàn-hồng muôn-tía, Dƣơng-Thuần, Thiên-Thanh !.

oOo

27. VÔ-VI THÁNH TÒA HUỲNH-QUANG-SẮC-CHUNG-TÂM-HÒA-

PHÁI

(BÌNH-ĐÔNG) _____________

Lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Hoằng-Hóa, Cứu-Độ Chúng-sanh, chi

Huỳnh-Quang-Sắc, ƣ “CHUNG-TÂM-HÒA-PHÁI” Bính-Tý niên

(1935) lập thành CHƠN-ĐẠO. Đại-Lễ khánh thành tam-nhựt;

Huỳnh-Đạo Thiên-Khai, tại Bình-Đông (CHỢ-LỚN) Nam-Kỳ

(VIỆT-NAM), Là ngày 24, tháng 3, năm Thìn (1940) lập thành

VÔ-VI Thánh-Tòa, lƣu truyền vạn tải, triều triều, thế thế, thái đại

Vĩnh-Xƣơng.

Đó là 10 năm sáng tạo, 8 năm khai Đạo-Huỳnh ƣ Bính-Tý, là đủ:

18 năm, kết-cuộc Đại-Đạo, mới có bài TỔNG-LUẬN, chung kết

Page 76: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

76

của Đạo-Tràng, hoằng hóa ra chào Đời, cho Nhơn-Sanh thấy rõ cơ

TRỜI tiên-tri về cơ tận-diệt vậy.

Bài: Thƣợng lá-phƣớng (1935).

Thiên-Khai HUỲNH-QUANG-SẮC.

CAO-ĐÀI thành-lập tại NAM-BANG

CHUNG-TÂM-HÒA-PHÁI

Bính-Tý niên, nhị-ngoạt, nhị-thập-tứ-nhựt, Khải-Giáo,

SANH lành làm Kỷ-niệm: “Chung-Tâm-Hòa-Phái”.

BÀI:

Nay đệ-tử: Nữ-Nam thành nguyện,

Cầu Ngọc-Hoàng, rọi điển hộ-an,

Chúng-con: Huỳnh-Sắc, Tiên-Đàn,

Đồng vƣng Sắc-Chỉ, Phụ-Hoàng hành vi. .1

Cầu: Đức-Mẹ, Diêu-Trì, ban phƣớc,

Độ con-thơ, kết-cuộc Lạc-thành,

Truyền-ban: rải khắp nhơn-sanh,

Ân-Hồng cho thế, đắc thành hội-khai. .2

Cầu Thái-Bạch, hằng ngày rọi điển,

Hộ các con, ngoại-viện, nội-an,

Cầu xin: Di-Lặc Tây-phang,

Quan-Âm Bồ-Tát, hộ nhàn con-thơ. !.! .3

Nay kết-cuộc, dựng-cờ Đại-Đạo,

Cầu Phật-Tiên, Tam-giáo chứng-minh,

An-thành: Thánh-Thất hòa bình,

Chúng-con lễ mọn, xin trình lễ dƣng. .4

Tửu phàm-thế, tam-từng, cung-hiến,

Hộ các-con, lộ tiếng trò-Tiên,

Cầu xin: hộ cả Tam-miền,

Chung-tâm hiệp-trí, dựng-yên Đạo-thành !! .5

Cầu khắp-cả, chúng sanh tỉnh-thức,

Cầu các-con, giữ-luật Đại-Đồng,

Chúng-con: một-dạ lo xong,

Giờ-lành con-nguyện, trọn lòng Hội-Khai. .6

Chung-nhau giữ: “Cao-Đài-Đại-Đạo”,

Nhơn-nhơn phàm, thấu đáo mầu-vi,

Cầu-xin: thành-lập Tam-Kỳ,

Đạo-Trời vận-chuyển, Ngũ-Chi hiệp-thành !!! .7

THI:

Hiệp-thành Thánh-Đạo, bản Vô-Vi.

Thất-Ức dƣ-niên, hiển Đại-Kỳ,

Lƣu-tích Huỳnh-Quang, Thiên-Cổ-sử,

Tam-Hoàng thông-thấu lý nguyên-qui.

HỰU:

Nguyên-qui nhứt-bổn, thống Tam-Kỳ,

Thất-thập-Tịnh-nhì hiệp ngũ-chi,

Ngũ-đức hƣờn-qui thập-nhị Phái,

Huỳnh-Quang-sắc hiệu, lập thành ky (cơ).

Cao-Đài-Đại-Đạo, hiển viên-kỳ !!

_________________

Thi cho Tiên-tri Cao-Đài-Đại-Đạo “Huỳnh-Quang-Sắc”

(chung-kết Tam-Kỳ)

_________________

THI:

Mê-si khó-thoát ngục trần-lung,

Nhứt-thế Quan-Âm, nhứt-thế phùng,

Bát đức trì-trung, nhân-đức-ẩn,

Huyền Châu bửu-lập, tánh châu-dung.

Thâu-viên: Phổ-Độ, Tam-Kỳ hội,

Tá-hiệu: Cao-Đài, tự Thƣợng-Khung.

Page 77: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

77

Thống-nhứt hồi: Tam-Thiên-Lục-Giáo,

Tróc lai bá-vạn, nạp Đồ-trung !.

BÀI:

Nạp đồ-trung, qui hƣờn vạn-pháp,

Định Âm-Dƣơng, máy ráp Thiên-Cơ,

Phép thâu: Thiên-Điển một-giờ,

Muôn vàn Tạo-Hóa, nhập cơ Thỉ-Đồ.

Y Vô-Cực: huyền-vô đại-định,

Định bất-mãn, Chơn-Tịnh, Động-khai,

Mới biến: Thái-Cực ra-rày,

Huyền-Hồng Lƣỡng-Khí, Cao-Đài là danh,

Huỳnh-Quang-Sắc lập thành Đại-Đạo,

Ấy là: Thầy Hóa-tạo đó mà,

Ngày nay: kiếp-số đã qua,

Hƣờn-Nguyên chơn-bổn, vốn là chơn-không.

Thế gian là cảnh thử-lòng,

Cho ngƣời tấn-hóa, trần-hồng lập công.

Lập âm-đức ở Đại-Đồng …

…. Cũng vì sự thuyết Đại-Đồng;

Học không rõ lý, tu-vòng, tu quanh !

Nên đến nỗi, em-anh chia-cách,

Mới ra thân nhiều lạch, lắm đƣờng,

Bảo-tố lớn, phải nạn-ƣơng,

Phận dè: cam-phận, tai-ƣơng đủ-điều !

Dƣờng tợ gà chít-chiu, lạc Mẹ,

Nhạn lạc bầy, lẻ-tẻ bay-xa,

Từ đây: xa cách Cha-Già,

Vùa hƣơng, ai-kỉnh, bát-trà ai dƣng?

THI:

Ai-dƣng bửu-bối đến Cha-Già?

Trọn đạo tôi con, dạ xót-xa,

Kinh-Ngọc, Cha chờ, con hội-ngộ,

Cung-Diêu, Mẹ đợi, đặng Chung-hòa.

Một-lòng son-sắt, đêm ngày tịnh,

Bốn-buổi công-phu, giờ tháng qua,

Linh-Bửu Hƣờn-Sanh, Quang hiện-chiếu,

Thông-minh chầu-chực Mẹ-Cha già.

NGÂM:

Cha Già: dựa bệ trông con,

Tu-hành đắc-Đạo, Bảng son tên-đề.

Mau-chơn con-trẻ hồi-quê,

Mẹ vui, Cha đẹp, dựa-kề Cung-son !

Con ôi ! biển-cạn non-mòn !.

(VÔ-VI-THÁNH-TÒA – BÌNH-ĐÔNG)

Ngày 25-3-41

__________________

Những câu liễn-đối tại: Vô-Vi Thánh-Tòa (Bình-Đông)

(Liễn Thầy giáng cơ cho)

1. Ngọc-Bửu Thiên-Cơ, Tam-Giáo Bổn-Nguyên, Qui Nhứt-Mạch.

2. Hoàng-Đồ Nhãn-Tạng, Ngũ-Chi Tƣơng-Hiệp, Thống Tham-

Thanh.

LIỄN – (A)

1. Chung-Thỉ Hòa-Quang, Sanh Tú-Khí.

2. Tâm-Nguyên Hiệp-Đạo, Đức Tân-Dân.

LIỄN – (B)

Page 78: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

78

1. Vô-Vi Thánh-Đức, Thăng Thiên Cảnh,

2. Bửu-Tọa Thần-Quang, Chiếu Trung Hòa.

LIỄN – (C)

1. Ngọc-Sắc Vĩnh-Khai, Nhơn Tín Ngƣỡng.

2. Chơn-Đàn Tế-Thế, Đạo Thông Truyền.

LIỄN – (D)

1. Cao Nhƣ Bắc-Khuyết, Huyền-Huyền Bát-Nhứt,

Thần-Quang Phổ-Chiếu, Minh-Chơn-Đạo.

1. Đài tại Nam-Phƣơng, thâm-thâm thất-nhị;

Sơn-hà đại-địa, tổng qui-tâm.

LIỄN – (E)

Hai Câu-Đối trƣớc cửa Song-Môn của “Vô-Vi Thánh-Tòa”

“Huỳnh-Quang-Sắc” tại Bình-Đông (Chợ Lớn).

Câu số 1: Càn-Ngƣơn khai thắng-hội

Đạo-đức lập linh-tâm.

Câu số 2: Khôn-thủy nguyên lai-bổn,

Đạo hành lực vãng sanh.

CÂU LIỄN tại Bàn-Thờ HỘ-PHÁP: (G).

1. Huỳnh-Đình trung-Cảnh, Càn-Đạo Thanh-tâm tịnh nhập.

2. Quang-huy ngoại-Cực, Khôn-Nữ Hƣơng-ý Nhi-Lai.

oOo

28. TỊNH-TRÀNG

Bố-cuộc sáng-lập y danh-liệt của Thiên-Cung Bửu-Cảnh Động-

Sơn, trong Càn-Khôn Thế-Giái.

a) THẤT-THẬP NHỊ-TỊNH

Bài:

Cơ chia-rẽ, Tịnh-Đàn, chuyển-hóa,

Đem cơ-mầu, truyền-bá Vạn-Linh.

Đó là: Đạo-nội hữu-hình,

Lập làm âm-đức, hữu-tình quảng-tâm.

Biết Đại-Đạo, chỗ thậm-thâm,

Vi-diệu yếu-lý, ngàn năm hƣởng nhàn. .1

Khai tại thế, Nhơn-Hoàng, lập-vị,

Đủ các ngôi, chánh thị Tịnh-tràng,

Mỗi Tịnh: tên chữ, đàng-hoàng,

Có ngƣời Sƣ-trƣởng dẫn đàng bƣớc tu,

Theo Đại-Đạo, thẳng dậm-cù,

Lần-lần biết hiểu Thiên-thù đối-nhơn .2

Dạy đủ lý, Chánh-chơn vi-thiện,

Dắt con-ngƣời minh-biện lý-chơn,

Hiểu trong-đục, rõ nguồn cơn,

Trời là: Không-Khí, Tánh-Chơn vô-trần.

Vi huyền-diệu, Đức thậm-thâm,

Bố-ban nhơn-đức, chế châm vạn-loài. .3

Các Thánh-Tịnh, ban-bày liệt-cảnh,

Đó là: tên, chỗ chánh Điện-Cung,

Cùng là: Động-Phủ Đạo-trung,

Cho đời rõ thấu thung-dung diệu-huyền.

Đạo-Nội-Ngoại, rõ căn-nguyên.

Cho ngƣời tùng-học, chẳng xiên chẳng lầm .4

Cùng bày rõ: thinh-âm sắc-tƣớng,

Mƣợn hữu-vi, bành-trƣớng Vô-vi,

Hoằng khai: Thiên-Địa y kỳ,

Chỉ Trời vạch Đất, Ngƣời thì làm công.

Công-phu đủ, đạo-đức thông,

Page 79: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

79

Hoàn-toàn phận-sự, Tiên-Ông rƣớc về. .5

Cho đời đặng, giác-mê cảnh-tỉnh,

Hiểu đặng thông, tôn-kính Đạo-trƣờng,

Canh-cải lẽ-phải, tai-ƣơng,

Mình làm mình chịu, tƣ-lƣơng ích gì !

Thất-thập-nhị Tịnh, là đƣờng đi,

Cứ ngay thẳng tới, Trƣờng-thi Cao-Đài. .6

Đủ tài-đức, ai ai cũng ứng,

Ứng trƣờng-thi, triệu-chứng Đạo-gia,

Ai là: Tâm-đức Di-Đà !

Bảng nêu chỉ rõ: vào khoa ngao-đầu !.

Cùng ngƣời tài-đức cao-sâu,

Thiên-Tiên chánh-nhứt, Thầy thâu tên hiền ! .7

Công đức đủ, Cao-Tiên môn đệ,

Đắc bực hiền, luật-lệ Tam-qui,

Giữ-tròn: Ngũ-giái qui-y,

Tăng-Pháp-Phật, đƣợc thì vẻ vang !

Đăng tên chấm đứng bảng vàng,

Muôn-ngàn năm hƣởng, Thiên-Đàng cảnh Tiên! .8

Vậy là: bực hữu-duyên căn-cố,

Mới thật ngƣời, chẳng hổ sanh-nhơn,

Trừ chỗ vọng, đắc Tiên-chơn,

Hội-thi rõ mặt, thọ ơn Thiên-Hoàng !

Rực rỡ ánh lội ngũ-quang,

Tiên-Thiên Đại-Đạo, vẻ-vang Tam-Kỳ ! .9

Noi đƣờng chánh, qui-y Tam-Bửu,

Đắc thành-công, tự chủ mỗi nơi,

Kính Tiên-Phật, giữ luật Trời,

Thì là toại-hƣởng, đời-đời thanh-cao!

Chẳng tuân-lịnh, chịu dạt-dào,

Theo điều báo-ứng, Thiên-Tào xử-phân! .10

Vậy mới thấy đòn cân cơ-đạo,

Ấy mới là: khí hạo linh-huyền,

Trừ ác-cảm, tránh vô-duyên,

Trầm luân phải chịu, tâm-điền bất thông.

Cam lòng số phận long-đong,

Chờ ngày phán-đoán, đại-đồng định phân. .11

THI:

Định phan Thất-thập-nhị Tịnh, là:

Công đức đủ đầy, vịnh, phú, ca.

Chiết-bổ Đạo-tràng: qui chúng-đẳng,

Tội trừng Tục-Khổ, hội ta-bà.

Thăng lên Vô-Cực, Thần thanh khiết,

Thọ hƣởng hữu duyên, Thánh bửu-tòa.

Tiên-Pháp thông-linh, quang hỗn-tục,

Ban truyền Cửu-Phẩm, nhập Long-Hoa.

BÀI:

Nhập Long-Hoa, rõ là Tịnh-luyện,

Do tham-thoàn, hiển-hiện điển-quang,

Nhờ: Thất-thập-Nhị Đạo-tràng,

Tịnh-an tâm tánh, lánh đàng trƣợc-nhơ.

Học thông thấu triệt lý cơ,

Hoàn-toàn đức hạnh, đoạt cờ Tiên-Thiên! .12

b) MỘT TRĂM LẺ TÁM TIỂU-ĐÀN.

Đạo: Thủ-trì, bá liên linh-bát,

Diệt tội chƣ đẳng-ác, Hà-sa,

Đâu đâu: cũng phải chung hào,

Cọng-ƣu hiệp-tác, lập tòa Đạo-Chơn. .13

Thƣơng lẻ-loi, còn ơn võ-lộ,

Chuyển duyên-cơ điều-độ thiện-nhơn.

Dứt tà-tâm, bỏ giận-hờn,

Page 80: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

80

Lâm-sơn cùng-cốc, Tiếng-đờn nhặt-khoan,

Giọng rỉ-rả, xự-hò-xang,

Cũng đều nghe thấy Thiên-Hoàng dạy phân. .14

Phân nhân-nghĩa, Tứ-Ân trọn đủ,

Ngũ-thƣờng-đức, Tam-ngũ qui-gia,

Thắng tài, Thắng-đức ấy là:

Hoàn-toàn Âm-chất, thì Cha ban-truyền.

Vậy mới là: học Đạo-Tiên,

Hữu-duyên đắc ngộ, Tiên-Thiên thọ hành. .15

Chí công mài, nên danh rạng tiếng,

Để phô trƣơng, cân viễn thắng bia,

Đời là: cảnh-khổ kia-kìa,

Cùng chung học-Đạo, trở về Ngọc-Kinh.

Một-dạ giữ trọn hữu-tình,

Âm-Dƣơng hòa-hiệp, xuất linh quang ngời. .16

Thầy nêu bảng, thảnh thơi muôn thuở,

Bạn đâu còn lỡ-dở phận tu,

Tháng ngày: bất kỉnh Xuân-Thu,

Tham-thoàn đại-tịnh, ngao du cảnh nhàn.

Tam-Thi, Tứ-Tƣớng đặng an,

Trí-tri cách-vật, đạo-tràng Cao-Tân. .17

Rèn lòng trọn “Tân-Dân, Minh-Đức”,

“Chỉ-ƣ-Chí-Thiện”, Dứt cuộc-trần,

Vạn-duyên đốn-tuyệt ái-ân,

Ngũ-khí qui-nhứt, Pháp-thân nhẹ-nhàng.

Ấy là: bƣớc đến Tiên-bang,

Cũng đồng hƣởng-ứng Phụ-Hoàng triêm-ân! .18.

c) TAM-THIÊN-LỤC-BÁ BÀN-MÔN.

Chƣa gặp Đạo, phân-vân bất-nhứt,

Vì còn mê, chƣa thức tánh-si,

Tháng ngày: vui-sƣớng nhục-bì.

Biết đâu gốc-ngọn, Qui-y Đạo-Mầu.

Mặc-tình: để biển hóa dâu,

Dâu còn, biển-lặn, nào đâu có sờn ! .19

Cứ nhƣ vậy, phụ-ơn Tạo-Hóa,

Chẳng thƣơng loài chim cá mắc-lờ,

Miễn-mình no, mặc Thiên-Cơ,

Không lòng thố-tử, u-ơ cõi đời !.

Lo bịa đặt, mặc đầy vơi,

Không lo cứu vớt hạp-bơi dân-lành. .20

Mảng danh-lợi, đấu tranh, tranh đấu,

Bởi tánh-mê, chẳng thấu cơ-huyền,

Nay ngày: “Phục-nhứt bổn-nguyên”.

Tuần-hƣờn-phục-thỉ: Nhơn, Thiên thông-truyền.

Chẳng học Tiên, mà xƣng Tiên,

Thƣơng thay ngoại-giáo, làm điên hại đời! .21

Tuy định vậy, lẽ Trời bao nỡ !

Cũng đem về, chung ở cõi Tiên,

Những ngƣời căn cốt thiện-duyên

Làm đoan hƣởng phƣớc, ân-Thiên thâu về. .22

Còn lắm kẻ tánh mê phải chịu,

Chịu đọa đày dăn-díu phàm-tâm,

Vì hại chúng, chịu lạc-lầm,

Mất đƣờng tu-tịnh Cao-thâm rải truyền !

Tùy theo bực, ở cảnh Tiên,

Cây nào quả-ấy, ân-thiên định tiền. .23

Còn lại: chê Cao-Tiên giả Đạo,

Lắm nhạo-cƣời, ngƣời tạo bày ra,

Chẳng hiểu thấu chữ y-a;

Buông lời dám nói: Di-Đà vô-linh !

Nào dè: thiện-ác buộc mình,

Rối mình chẳng gỡ, nhè mình buộc vô. 24

Bày đủ chuyện, đơn cô Thánh-Phật,

Page 81: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

81

Dụng phàm-tâm, nhiều bực đại-căn,

Nào là: Phật-Tổ giáng thăng,

Trên không chuyển xuống, ân-hoằng thế-gian.

Nào là: bùa chú ngải-oan,

Làm mê dân chúng, bít đàng tu-thân ! .25

Còn gạt-gẫm: Đại-Ân giáng thế,

Tới đây rồi: Hoàng-Đế xuất cung,

Bày đều: dân-chúng vẫy vùng,

Cứu dân, phục-Quốc, Nam Trung phục-hồi !

Thầy dạy vậy, quá hỡi ôi !

Mơ-màng dân-chúng, nhƣ mồi câu cua ! .26

Đứa bịa-đặt, đua hùa thêm hại,

Gạt dân-đen, đem lại bạc-vàng,

Để dành: tính chuyện vô-đoan,

Làm cho trăm-họ muôn-vàn nhọc-lao. ! !.

Rồi đây: sẽ thấy Nam-Tầo

Y-theo luật-định, có nào thoát đâu? .27

Nay đáo đầu: bể-dâu chẳng thảm !

Cùng một-máu, chẳng cảm-hoài nhau !

Nỡ đem: nỗi chết đút vào !

Đứa lo giựt của, làm-giàu cho mau !

Đặng danh-lớn tiếng phú-hào,

Đủ đều sát-hại, có nào cứu ai? .28

Nay đã tới: Cao-Đài hiện-Thế,

Là giờ cùng: Thiên-Đế lâm phàm,

Đừng-đừng: chia rẽ Tứ, Tam,

Rán lo tu tịnh, công-tham đất Trời.

Để lời: khuyên với ai ôi !.

Mau-mau dứt-bỏ, Đạo-Trời lo tu ! !. .29

Long-Hoa-hội, hiền nhu đặng phƣớc,

Thi khoa-tràng, Thiên-Tƣớc ân-ban,

Nhiều phƣớc đức, đứng bảng-vàng,

Có công tịnh-luyện, Đạo-tràng làm gƣơng.

Ngƣời cứu-thế, dám đởm-đƣơng,

Lãnh-tụ lo đạo, đem đƣờng đạo-khai. .30

Bực hƣớng-Đạo, chiều mai tiến-dẫn,

Khuyên dân-lành cầu khẩn Thần-Tiên,

Ăn chay: lánh dữ làm hiền,

Tứ-thời cúng vái, cần chuyên giúp đời.

Giờ đó, đặng chỗ thảnh-thơi,

Thiên-Thần phƣớc-thiện, Ân-Trời trao-phong? .31

Ngƣời dốt-nát, một-lòng biết Đạo,

Kẻ u-ơ, mà thạo cuộc-đời,

Biết rằng: Đại-Đạo của Trời.

“Tam-Kỳ-Phổ-Độ” dạy thời dân tu.

Lòng cung kính, dạ cần cù,

Công-trình công-quả, thiên-thu: Thành-Hoàng ! .32

Thiên-vạn Thần, chiếu-vàng Thầy điểm,

Khắp năm-châu, thâu-liễm ngƣời-tu,

Dầu Đạo nào cũng Xuân-Thu,

Hƣơng trà, quí-tế, tạc thù kẻ-chơn.

Đủ ban-bố đức triêm-ơn,

Đền-công đáp-quả; keo sơn con-nhờ. .33

Còn những đứa phụng-thờ tôn-bái,

Kính Tinh-Quân, thầm-vái khẩn cầu,

Cho thiên-hạ biết Đạo-mầu,

Nhơn ơn võ-lộ, đáo-đầu phƣớc-ban.

Đây là: ngày trọn Đạo-vàng.

Di-Lặc-Tôn-Phật, Thế-gian ngự Trần. .34

Vạn Tiên-Phật, Thánh-Thần chầu lễ,

Tam-giái Tiên, trƣớc bệ bái quì,

Đầu đa-tạ kỉnh, qui-y,

“Thi-vô-giá-hội”, NAM-KỲ mƣa chan!

Ánh-chiếu lòa, sáng Đạo-tràng,

Page 82: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

82

Hào-quang muôn-đạo, bủa lan ửng “TRỜI” .35

Trên chín-từng, Động-khơi ánh-chiếu,

Lộ hào-quang, chiếu-diệu Ngũ-Quang,

Sáng lòa: ánh chói Ngũ-Phang,

Ấy là: “Thiên-Đế-Thánh-Hoàng” ngự lai !

Muôn triệu Thánh, bái kim-giai,

Ngàn Tiên, Thần, Phật: Cao-Đài, tung-hô ! ! .36

Đều chầu-chực, trƣơng phô chiếu sáng,

Đứng Cung-Thần, huệ mãn hƣơng tua,

Ngó nhƣ gấm, có ánh-thùa,

Huy-hoàng chớp-nháng, muôn-tua bủa-tràn.

Nay mới thấy rõ Đạo-vàng,

Cứu-dân khỏi đọa, Nhơn-Hoàng hƣởng ân ! .37

Thầy ban-nhuận, Tân-dân Minh-đức,

Ấn-Tiên phong, đã dứt tục-phàm,

Mừng thay ! Đại-Đạo phƣơng Nam,

Ngƣời-tu đặng thấy Lôi-Âm giáng trần !

Chiếu-diệu dẫy-tràn Pháp-Thân,

Cao-Đài Phổ-Độ, cõi trần hữu-duyên ! ! .38

Chạnh-lòng, nhơn vật chẳng hiền,

Tử-hình thọ-khổ, thi liền nát tƣơng !

Đƣơng bình-tịnh, hóa chiến-trƣờng,

Thây nằm lềnh-ngểnh, dƣới mƣơng trên-lề. .39

Thấy vầy, Thầy bắt thảm thê,

Đó là răn-phạt, ủ-ê cho ngƣời !

Vì chƣng: chẳng phục Thiên-Sƣ,

Việc-lành chẳng khấng, Thiện-Từ cũng không. .40

Trọn-vẹn: ác-cảm đầy lòng,

Đến đây phải chịu rã lòng, banh-thây !

Mà là: báo-ứng oan-dây,

Ác-khí xung-thấu cung-mây Từng-Trời .41

Khiến nên: vạn-vật tơi-bời,

Khách-trần phải chịu, chơi-vơi biển-trần.

Thƣơng nhơn-loại rã tấm-thân.

Ngày-nào phục-lại, đƣợc phần hình dung? .42

THI:

Hình dung tan rã, bởi tranh hơn,

Chẳng chịu tu chơn, bỏ giận-hờn,

Nỗi mạng sống dƣ trƣờng khổ cảnh,

Ngày nay cam chịu mất linh-chơn !.

BÀI:

Mất linh-chơn, còn chi tái tạo?

Biệt căn-cơ, khí hạo đâu còn?

Ngày đêm: tinh hết qui-tròn,

Bổn-nguyên hết tiếp thiên-chơn hƣởng nhờ ! .43

THI:

Hƣởng nhờ Tam-bửu của ân ban,

Rán luyện ngày đêm, chiếu-diệu hoàng,

Tứ-đức tròn câu, thăng lạc cảnh,

Cờ-Tiên, rƣợu-Thánh, toại Cung-Hàn.

BÀI:

Cung-Hàn, hội-diện bạn-Tiên,

Đoàn-viên bằn-hữu, Non Tiên trùng-phùng.

Chi đừng phế-Đạo, trung-đồ đó,

Ắt phải lâm nguy, gió hỏa đƣa,

Nhắc cùng: Thƣợng, Hạ, Trung-thừa,

Tháng-tƣ, mƣời-bốn, nhƣ dƣa nát rồi ! .44

Giáp-thân (1944) khổ, ai-ôi ! khá-biết,

Canh-ngũ ngày, chi-xiết nỗi-niềm,

Sống-thời: nhƣ chích mũi kim

Ngẩn-ngơ phách-quế, nổi chìm nào hay ! .45

Page 83: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

83

Chƣ Môn-Đệ, Cao-Đài, phải rõ

Lời kỷ-niệm, chỉ rõ thông-tƣờng,

Rán mà: từ-thiện thiên-lƣơng,

Lạc-Hồng có thuở: Đông-Dƣơng hồi đầu!. .46

Khắp Năm-Châu, toàn-cầu lửa dậy,

Đều thấy xem, bình trị khó an,

Than ôi ! cho khách dinh-hoàn,

Sớm còn chiều mất, lỡ-làng nạn tai !. .47.

Dân chinh-chiến, ai-hoài tử trận,

Chúng vô-cô, đều tận, vì bom,

Liên-thing: tiếng nổ dập-dồn,

Khổ cho nhơn-loại, bôn-chôn đáo-đầu. .48

Dân Nam thảy cấm-đầu hang-ngách,

Chịu ở-hầm, sa-thạch, bao lâu,

Cùng Châu Mỹ, khắp cõi Âu,

Phải đều lãnh chịu, ngày thâu đêm dồn. .49

Sáng, chiều, trƣa, huỳnh-hôn kinh-cụ,

Già, trẻ, trung, vô-bịnh mà đau,

Dòm xem: đều thấy máu đào,

Về họa bôm-đạn, lửa-tàu, lửa-bay !. .50

Mình còn bộng, chơn tay đều đứt,

Có ngƣời thì lìa đứt đầu ra,

Có tên: cẳng lại bay xa,

Đó là đại-nạn, tới đà hôm nay ! .51

Đến khắp nơi, tới rày NAM-ĐỊA,

Cấp Vũng-Tàu, ráp phía Hà-Thành,

Đó là: cơ khí tạc-oanh,

Vốn đồ ác-độc, giết sanh-linh Trời.

Sài-Thành địa, ối-thôi rồi !

Biết-bao thây rã, khúc-nôi lụy dầm. .52

Vì ham-mê, sắc tƣớng lầm,

Ngày nay mới rõ, tƣợc-nầm đời hung !.

Chỉ còn Đạo-Mạch, thung dung,

Tháng, ngày, bốn buổi, Đạo-trung tịnh hoài. .53

Nhờ trên có: Thiên-oai che-chở,

Ơn Thánh-Thần dậy đỡ hiền-lƣơng,

Dầu cho: xa-cách dậm trƣờng,

Cũng đều bảo hội, tai ƣơng nạn nầy.

Trƣớc có dạy, lời Đức Thầy,

Long-Vân qua khỏi, tới rày Long-Chơn. .54

Long-Chơn rồi, nguồn cơn thấy rõ,

Tiếp Long-Hoa, bày tỏ đủ điều,

Ấy ngày, thây xác phêu-phêu,

Động Trời, long Đất, ngao-nghêu tiếng rầm.

Tiếng súng vang, nổ bùm-bầm,

Làm cho xao-xác, lụy dầm kinh-chông ! .55

Gió vụt-vụt, Liêu-đông bay đến,

Trời mờ-mờ, mây nện, mù-trăng,

Đó là: phi-cơ bay lằn,

Đem bôm đạn-lửa, bao giăng không Trời.

Bỏ khắp nơi, khổ cho đời,

Liu-chiu, lít-chít, đổi dời: tịnh-yên. .56

Ngƣời lăm trúng, mạng huỳnh-tuyền,

Hồn linh tản-lạc, qua miền giái-ba,

Ôi ! vô-cớ chịu làm ma,

Vì chƣng vô-Đạo, thát mà trận trung !.

Thấy vầy: Thầy, bắt thảm vùng,

Môn-đồ cần rán, cuối-cùng rồi đây ! .57

Chi-chi: cũng một hội-nầy,

Nên hƣ đƣợc biết, có Thầy có Tiên,

Khuyên-nhau: ăn-ở tâm-thiền,

Đƣợc ngày phán-đoán, mối giềng Cao-Ban !. .58.

oOo

Page 84: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

84

29. PHÁN-ĐOÁN-ĐẠI-ĐỒNG (THIỆN-ÁC)

Hƣ-Vô quang-điển ngự-an,

Chƣ-Phật, Thần, Thánh, hào-quang chói lòa

Di-Đà, Thế-Chí, Thích-Ca,

Đều đến chầu-lễ: Hoàng-Gia-Thái-Hoàng. .59

Đâu đó: đều hãy lớp-lang,

Phủ Phục lễ-tất, Thiên-Nhân thập-hàng.

Quì dƣới trƣớng, lễ Ngọc-Hoàng.

Có Ông Ngọc-Phật, hào-quang cúi đầu ! .60

Tôi vƣng sắc-vàng, đến chầu,

Khi tôi hạ-giái, phép mầu phải sao?

Đê đầu: bá-bái, Trời Cao

Nhờ trên lƣợng Thánh, âm-hao phận nầy .61

Đến trần-thế, con nhờ Thầy,

Thƣởng-thiện, phạt-ác, đông tây lẽ nào?

Ngọc-Hoàng: phán dạy tiêu-dao,

Y theo Ngọc-Sắc, đã trao trƣớc rồi ! .62

Ngƣơi đến đó, tùy thứ ngôi,

Lành thì cửu-phẩm, đƣợc ngồi tòa-sen !

Hƣởng nhờ quang-điển xung chen,

Trăm hòa hƣơng-vị, ánh-sen thơm-nồng. .63

Cây đều: trổ trái đơm bông,

Bồn mùa nhƣ một, thu đông trổ hoài !

Trẻ sanh ra, biết đi rày,

Nhỏ mà nói đủ, lời ngay thiện-từ. .64

Muôn-điều: hạnh-phƣớc, hữu dƣ,

Dành cho Đại-Đức, Đại-Từ ở-yên !.

Là giờ, quang-điển nhiên-nhiên,

Ấy Long-Hoa-Hội, để-riêng ngƣời lành. .65.

PHẠT-ÁC VÔ-LƢƠNG

Còn đám kẻ dữ, chúng-sanh,

Luân-lý bại-hoại, bất thành nhơn-luân,

Phải đem hình-điển, răn trừng,

Cho nhơn-sanh biết, oan-ƣng hội này. .66

Vì chƣng: chẳng thuận lời Thầy,

Tam-Kỳ cứu-vớt, đó đây nghịch-hoài,

Chẳng chịu tu, cứ mặc-ai,

Trăm đều ác-nghiệt, tháng ngày làm thêm .67

Chẳng ham nghe, lời dạy quên,

Mặc-tình đấu-sức, tuổi-tên với Đời,

Bất-tuân truyền, thửa lịnh Trời,

Lo phƣơng cứu-cấp, mọi-nơi khổ hình. .68

Chê lời Thánh, ghét sám kinh,

Nói rằng bịa đặt, bất minh Thánh-Hiền.

Cứ làm dữ, dạ cần-chuyên,

Không-lòng sám-hối, cựu-niên lỗi lầm. .69

Chẳng rõ thấu, tội âm-thầm,

Duyên nào quả-ấy, chế-châm đặng nào?

Phạt xong: sanh-chúng hùng-hào,

Hết gầy hung-ác, ỷ giàu hại dân ! .70

THƢỞNG-THIỆN

Còn toàn những bực Thiên-Ân

Thờ Trời, kỉnh Phật, Thánh Thần bái cung,

Y-bày: hiền đức cõi Trung,

Nhơn-gian cƣ trụ, thung-dung tháng ngày .71

Page 85: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

85

Chỉ tồn: con-thảo, tôi-ngay,

Vợ-hiền, Chúa-Thánh, Cao-Đài ân-thâm.

Vạn-gia, bá-tánh ca-ngâm,

Thuần-phong, mỹ-tục, ân-thâm đất-Trời. .72

Di-Lặc-Phật, đến ra đời,

Hào-quang muôn đạo, ánh-ngời bủa-giăng.

Rõ-ràng: nhựt-nguyệt giáng-thăng,

Phân-minh định-vị, khoan-hoằng bố-ân. .73

Đó là: phần thƣởng sanh-dân,

Thiện-nhơn thoát khỏi số phần hồi-luân !

Ngƣời tu-niệm đặng tuyệt-luân.

Thọ phong thiên-tƣớc, Dƣơng-thuần thăng-thiên .74

Còn bố-đức, dạ cần-chuyên,

Hƣởng nhờ phú-quí, trần-duyên quan-quyền,

Bực tu-luyện, có căn-nguyên,

Hƣờn-hƣ đắc-cảnh, bổn-nguyên phục-hồi. .75

Đó ngày “ĐẠI-PHONG-THẦN” rồi,

Thần, Tiên, Phật, Thánh: tự ngôi rõ-ràng,

Ánh ngũ-sắc, giữa không gian,

Chiếu-diệu ánh-hiện, huy-hoàng lành thay ! .76

Đây-là: “Thành-Lạc Cao-Đài”,

Đạo-truyền thất-ức, lâu-dài, dài-lâu !

Chƣ Phật-Tiên, điển-quang thâu,

Thần-Tiên cung-động, ca-âu phục-hƣờn. .77

Là ngày: Trời đất thƣởng ân,

Càn-Khôn tƣơng đối, Hải, Sơn, Lâm Hà.

Cúi đầu: bá bái Thích-Ca,

Lạy Phật Giáo-Chủ: Di-Đà đức-cao ! .78

Cùng là: Ngƣơn-Thỉ, Thiên-Tào,

Ngũ-Lão Bắc-Đẩu, Thiên-cao che dùm,

Cứu ngƣời-thiện đặng thung-dung,

Ngàn-năm thệ-hải, vô cùng đức châm !. .79

Muốn qua khỏi chốn khổ lâm,

Một lòng chánh-đạo, ngàn năm tạc đền ! !.

THI:

Tạc đền nhờ phƣớc ánh trời xuân,

Che chở nhơn-gian mỹ tục thuần,

Thất-ức: đạo truyền, lâu vạn-tải,

Long-cung, tứ-hải đức Tân-Dân.

HỰU

Tân-Dân tu-tịnh, mới là hơn,

Đạo-Đức đủ-đầy, thọ khí-Chơn,

Thép trắng lửa-than, vàng gặp nƣớc,

Hai-đàng đừng chết, thọ thiên-ân.

BÀI:

Thiên-ân Minh-Đức ra Đời,

Chỉ-ƣ chí-thiện, lòng Trời, Đất vui. .80

Thấy cuộc biến, ngậm-ngùi Ngọc-Phật,

Y-lịnh truyền, hoàn-tất vừa xong,

Thấy Ngƣời dữ, rất đau lòng,

Muôn đều thảm-đạm, não-nồng xót thƣơng ! .81

Hƣờn-hƣ: chốn Thiên-Đƣờng phục-lịnh,

Con y-hành, lời định nơi trong,

Trên nhờ: Đại-Đức ân-hồng,

Cùng Di-Lặc-Phật, Đại-Nhân chứng đàn. .82

Thƣởng răn đủ, nhơn-gian bình-định,

Phạt với trừng, vạn-vật đã xong,

Ngày-nay: nhứt-đức Đại-Đồng,

Ngƣời-lành hiền-hiếu, nối dòng Chơn-Nhơn. .83

Sống thong thả, thi-ân bố-đức,

Thác-vi-thần, vạn-ức nguyên-nhân,

Page 86: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

86

Đủ đều: thọ-hƣởng muôn-phần,

Hoàng-ân võ-lộ, Tân-Dân thông-thƣờng ! .84

Từ đây, Nhơn-Loại thuần-Dƣơng,

Cỏ- cây hoa-thảo tƣơng-đƣơng thạnh đời.

Chẳng còn: lặn-hụp chơi-vơi,

Ngƣời Tiên, nƣớc-Phật, Đất, Trời, Ngƣời thông !.

Bình-định, Lục-Long chầu Trời,

Ngũ-Khí, tam-bửu ánh-ngời Tam-giang. .85.

30. TỔNG-QUI THIÊN CƠ (QUI-NHỨT)

Tam-thiên-lục-bá Bàn-Môn Đạo,

Trăm phép-mầu, gọi thạo hơn Đời,

Lấy sức mình, gọi hơn Trời,

Thắng-Thiên hành sự, lấy lời khôn ngoan.

Bày lắm cuộc, hại nhơn-gian,

Chẳng tuân luật-nƣớc, lệ-làng bỏ qua. .86

Xƣng mình là: Di-Đà, Chánh-Phật,

Gọi Đức-Cao, chín nấc thang cao,

Coi chẳng có, các Thiên-Tào,

Cùng là Cai-quản cõi nào, nào đâu?

Vào rừng: luyện thuốc cao-sâu,

Di-sơn bố-trận, Đạo-mầu dài lâu. .87

Tánh mê-muội, ngờ đâu Thiên-chuyển,

Cuộc tuần-hƣờn, hiển-hiện khác hơn,

Những điều: đó gọi là Chơn,

Nay đà ra giả, lắm cơn thảm sầu.

Thủy-Hỏa-Phong, nạn đáo-đầu,

Tan thây rã thịt, đâu-đâu tràn đầy. .88

Gọi vô-Địa, không Thầy, không Phật,

Không Thánh, Thần, vạn-vật là hơn,

Muôn đều: chẳng có chút nhơn,

Việc gì cũng-ác, Chánh-Chơn Đạo nào?

Ngày hôm nay, phải lọt vào,

Long-Hoa răn phạt, Trời cao công-bình. .89

Ba-ngàn-sáu hữu-hình thâu lại,

Nhứt-bá-bát, đem lại bảy-hai,

Y-theo luật-lệ, trình bày,

Ba-mƣơi-sau đó, bảy-hai rút về ! .90

Vì kẻ dại, u-mê quá đỗi,

Chẳng làm lành, cải hối tiền-khiên,

Tự mình, cao-đức tự chuyên,

Y nhƣ tầm nhộng, có yên đâu nào? .91

Chê dâu chẳng khác nào loài-nhộng,

Dâu bỏ ra, ngậm-họng chẳng ăn,

Đƣa qua; phải chịu lăng-quằng,

Nhộng dâu kén đặng, chằn-lằn tơ ra ! .92

Có công-tu, làm ma quá-ức,

Uổng kiếp-sanh, ham chức với quyền,

Làm cho: mất thửa Nhƣ-nhiên,

Nên nay cam-chịu thiện-duyên mất rồi. .93

Còn hóa nhộng, ôi-thôi, hết nói !

Chỉ biết-ăn, biết-trói buộc ngƣời,

Lòng nào: để chút Chơn-Nhƣ,

Đáo đầu phải chịu ác-dƣ lăm đền !. .94

Ai tu niệm, chớ quên đức-cả,

Mà tán thân, lã-chã rã-rời,

Tƣởng rằng: Thiên-Đạo trò-chơi,

Chẳng cần tụng-niệm, cõi Trời cũng lên! .95

Có tu-niệm, tuổi-tên mới có,

Có giúp đời, công-khó với đời,

Page 87: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

87

Mới là: thọ-hƣởng tánh-Trời,

Ngày nay nhờ-Đức, đặng thời thoát qua. .96

Qua một tuông, ấy là sàng-lƣợt,

Hột nào còn, mới đƣợc còn đây,

Nhờ vì: Tài-Đức đủ-đầy,

Bảy-mƣơi-hai-Đạo, Có Thầy đỡ lên. .97

Hóa ba-sáu, ơn-trên chế giảm,

Đề vào hàng, tình-cảm, Đạo-Cao,

Thân-hình ít bị dạt-dào,

Chun vào mƣời-tám Thiên-Tào điểm công ! .98

Đó theo lƣợt xây-vòng thiên-chuyển,

Đặng lọc-lừa kẻ thiện linh-căn,

Hầu nhờ: Trời-bố, khoan-hoẳng,

Thuần-Dƣơng viên-mãn, phi-thăng Thiên-Đàng. .99

Nay đã đến: qui-hoàn cửu-cửu,

Thời cuộc chung, bá chủ tiêu-tan,

Thâu hƣờn: độc-nhứt Chơn-Hoàng,

An dân lập-quốc, nhơn-gian thái-bình. .100

Mƣời tám-hào, khinh-khinh thâu nhập,

Đem tóm về, cửu-diện, Bát-môn,

Nhờ-ơn Thái-Thƣợng: bảo-Hồn,

Muôn-năm độ-dẫn, ôn-tồn nhơn-sanh. .101

Thập-bát-quan, là hành ly-khảm,

Chỗ tử-hình, bản chạm hữu-hình,

Để cho: háo-lộc, đồ vinh,

Công-danh phú quí, vô-hình bất tu! .102

Vào trận-nội, đa-ƣu, đa-lự,

Đứng không-gian, bất dự Tam-Kỳ,

Nên nay: thọ-khổn đa nguy,

Phải cam đày-đọa, xiết chi nỗi sầu. .103

Ngƣời ở thế, bị-câu, bị-móc,

Kẻ ham-danh chạy dọc, đâm-ngang,

Đâu nào: có rõ hành-tàng,

Vì vô-minh-nghiệp lấp đàng thiện-chơn. .104

Bởi mến tiếng nhặt-khoan lƣu-thủy,

Mê mộng-tràng, tiêu-hủy công trình,

Mây-giăng, che-phủ khinh-khinh,

Tuần-hƣờn thâu-lại vô-hình bát-môn. .105

Hậu-Thiên-Quái, bảo-tồn nên nỗi,

Toàn âm-căn, bít lối đƣờng về,

Do ngƣời: vô-giác, tự mê,

Có đâu rõ thấu: Thiên hề Bát-cung ! .106

Bát-Tiên-Cung, tiên-lung biến hóa,

Bởi Càn-Khôn, tam-bá vô-hình,

Biến sinh nên mất vẻ minh,

Phải đem luyện lại, hữu-hình bỏ ra. .107

Để nơi lò, chung-hòa nấu-luyện,

Diệt tận-âm, mới chuyển bát-hồn,

Trau-giồi, bạch-nhựt, huỳnh-hôn,

Thâu hồi cửu-nhị, Dƣơng-môn phục-hƣờn. .108

Đem y lại, tứ-môn, tứ-tƣợng,

Đủ bốn-màu: xanh, trắng, đỏ, vàng.

Sáng-lòa, ánh-giọi Tam-Quang,

Tam-tài, Khí-tựu, là đàng Chánh-Chơn. .109

Dành cho bực huyền-môn tu tịnh,

Đắc Tam-Hoa, Đạo định thăng-Thiên,

Là ngày: đã đắc Chơn-Truyền,

Bƣớc qua nhũ-bộ, đến miền Thƣợng-Cung. .110

Lối cƣ-ngụ, Huỳnh-Trung thông lý,

Khí hiệp hòa, Thần-Khí giao-thông,

Ấy là: Ly-Khảm biến trong,

Lƣỡng-nghi chiếu-diệu, sáng trong, trong ngoài .111

Đó là hiệp, đủ hai ánh-sáng,

Cũng nhƣ hồi, phân-phán thuở-xƣa,

Page 88: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

88

Tứ-thời, luân chuyển sớm trƣa,

Bảo-an lê-thứ, rƣớc đƣa khí hòa ! .112

Còn nhờ phải ơn Cha võ-lộ

Với Mẹ Già điều-độ mới xong,

Âm-Dƣơng, lƣỡng Khí huyền-hồng,

Phục-thăng Thƣợng-Đảnh, Cao-thông linh huyền .113

Điển hiển-hiện, bình-yên cƣ trụ,

Đủ tháng ngày, vô-hữu hiệp chung,

Có tu: mới ngộ Huyền-Khung,

Có tu mới rõ: Đạo-Trung, Đạo ngoài !. .114

Ngoài hữu-hình, ai nào rõ thấu,

Nơi vô hình, ẩn giấu biến-thiên,

Ngƣời thì nhờ có Tam-Điền,

Đặng thông cửu-khiếu, “Trung-chiên” định thần .115

Vận chuyển vậy, là ân lừa-lọc,

Cuộc biến-thiên, đá Ngọc phân-minh,

Đều về: thuộc cảnh vô hình

Tạm nơi hữu-tƣợng đinh ninh cơ thời. .116

Cơ vận-chuyển tơi-bời rời rã,

Lý biến xây, sa ngã khách trần,

Thấy vầy: mới rõ tấm-thân,

Có gì là quí, cẩm-vân khác nào? .117

Bề ngoại Đạo, đặt vào Nhơn-Loại,

Trong nội-cơ, Đại-Đạo tạo thành,

Ba trăm vòng, lọc khí thanh,

Hƣờn-Hƣ cảnh Thƣợng, Cao-Xanh thăng đằng .118

Nên phải chịu thanh thăng, trƣợc giáng,

Đổi Khảm-Ly cải hoán Càn-Khôn,

Càn-Khôn, tƣơng đối bảo-tồn,

Khinh phù thuần túy, Huyền-Môn ban đầu .119

Bề ngoại Đạo, biển dâu cũng thế,

Cuộc đổi đời, luật lệ nhƣ nhiên,

Có tu: thì đặng vẹn-tuyền,

Dứt dây oan-trái, Cung-Thiên phục-hƣờn. .120

Lƣỡng-nghi hiệp, qui chơn Nhứt-Khí,

Thƣợng Nê-Hƣờn, thần trí định-cung,

Chờ-ngày, phá-khiếu Thƣợng-Khung

Thần thăng Chí-Cực, Không-trung vân đằng .121

Đến đây đặng, Thiên-thăng, Địa-giáng,

An phận-nhàn, Khí-quán, Thần-thông,

Chẳng còn não-trí cực lòng,

Bạn cùng vân-hạc, thong-dong tháng ngày. .122

Y-luật định, đâu sai, Thiên-chuyển,

Cuộc tuần-hƣờn, hóa biến, phục-nguyên,

Cho Ngƣời rõ thấu cơ-nguyên,

Nhờ tu đắc-quả Thiên-Tiên diệu mầu. .123

Vô-Vi ngoại, hƣờn thâu cửu chuyển,

Hữu hình nội, tân tiến định ngôi,

Cho nên phải chịu bóp nhồi,

Muốn mà hiệp nhứt, Ôi thôi, khổ-nàn ! .124

Đó vậy là: “Linh-Quang-Qui-Nhứt”,

Y-nhƣ hồi “Vô-cực-Thỉ-Sơ”,

Đại-định: lặng-lẽ nhƣ tờ,

Gió, mƣa, sấm, sét, giờ-giờ lặng-trang ! .125

Nhờ bởi có Thiên-Hoàng định-vị,

Nên thứ ngôi, loạn-trị, tịnh-an,

Cõi Trời, dƣới Đất, Trung-gian,

Thảy đều bình-tĩnh, Linh-Quang sáng ngời. .126

Cuộc luân chuyển, chơi-vơi, an định,

Đã qui hƣờn, hết cảnh chơi-vơi,

Giờ này: Tiên-Phật thảnh-thơi,

Thánh, Thần, Nhơn, Vật an-nơi, nơi hòa. .127

Đó là: Qui-Nhứt-Gia, huyền lãng,

Ánh Ngân-hà, sáng lạng Càn-Khôn,

Page 89: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

89

Thanh không, mà có bảo-tồn,

Đạo-truyền, lục-vạn, lƣơng-ôn, ức dài. .128

Phân minh: Thiên-Địa tam-tài,

Ngũ-Hành Qui-Nhứt, Cao-Đài-Hƣ-Vô.

Từ đây: dứt cuộc diễn-phô,

Thiên-Địa Đại-Định, Hƣờn-Vô tịnh-hành ! .129

Trời-trong, đất-tỏ thanh-thanh,

Hỏa-phong thoại-khí, tinh-anh đại-thiền,

Đây là: Đại-Đạo Tiên-Thiên !

Lƣu lại thất-ức diên-niên chánh-truyền ! .130

Cuộc xây chuyển, do Thiên sắc-lịnh,

Trong Tứ-Động, Tứ-Tịnh, tuần hƣờn,

Xây-vần: rất chánh rất-chơn,

Bố-ban huệ-nhuận, lộ ơn Cao-Dày ! .131

Tuần-hƣờn: nay đã đến ngày,

Châu-nhi-phục-thỉ, Thiên-oai qui hƣờn.

Qui-hƣờn, viên-mãn chánh chơn,

Hạo-nhiên nhứt-khí, hải, sơn, phục-hƣờn. .132

Phục-hƣờn: “Vô-Cực-Tịnh-Chơn”

Tịnh-Chơn-Vô-Cực, lâm, sơn, hải, hà,

Đê đầu: bá-bái Cha Già,

Phục-nhứt viên-mãn, ngâm ca Đạo-Trời !

oOo

PHẦN THỨ BA

(Về tâm-pháp) _____________

PHƢƠNG-PHÁP ĐỊNH-TÂM (Của Đức LÝ-GIÁO-TÔNG dạy)

Thanh-Tịnh-Đàn, ngày 5-7-48 Tý thời.

BÀI:

HIỆP-THIÊN: Các-trẻ, nầy Con,

ĐỊNH-TÂM con rán, vuông-tròn nghe Con.

Cơn rắc-rối, rán bòn công-quả,

THẦY vui-lòng: giáng-hạ dạy Con,

Các-con: HỒN, XÁC cho còn:

THẦY đâu nỡ-dạ, bỏ con cho đành. .1

PHÉP-ĐỊNH-TÂM, phải rành mới đặng,

ĐỊNH, cho rành: mới-lặng, mới-yên,

Sự nào: cũng có mối giềng,

Nắm cho trúng-mối, mở truyền mới ra. .2

Nắm trúng-mối, giữ mà phải xét,

Bỏ Cái-Ngƣời, giữ-nét phân-minh,

Cái-Ngƣời, cũng chẳng khá khinh,

Lòng con, phải biết, mà nhìn cho ngay. .3

Phép ĐỊNH-TÂM, khó tày bớ trẻ,

Cho vững lòng theo-lẽ thì xong,

Con xem: võ-trụ giáp-vòng,

Cũng đồng một-chất Hóa-Công tạo-thành. .4

Page 90: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

90

Trên võ-trụ, rán rành, bớ-trẻ,

Xem mọi nơi, mới xé đặng Màn,

Xé cho trúng-mối mới-an,

Lòng con bền vững, gọn-gàng lắm con. .5

Con phải xét vuông-tròn cho trúng,

ĐỊNH cho xong, phải dụng thời-gian,

Thời-gian: dẫn bƣớc đầu-đàng,

Phải tìm cho đặng mới an con đƣờng. .6

Trên thời-gian, nhằm phƣơng, nhằm hƣớng,

Con ráng phăng, chớ dợn, chớ-xao,

Tiêu rồi, con phải một-màu,

Tuy rằng: CÓ đó; CÓ nào với Con? .7

Thƣơng các-trẻ, chẳng mòn Thánh-Ý,

THẦY cạn-phân, dạy kỹ cho Con,

Ngày giờ: thấm-thoát đâu còn,

Là còn cho XÁC; nào HỒN có đâu? .8

Ớ các-trẻ, bƣớc đầu rán bƣớc,

Dầu gió-dông, rán lƣớt cho qua,

Qua sao cho kịp bƣớc đò,

Thì con mới chắc, là trò: LÝ-CHƠN. .9

Con thử nghĩ: thiệt hơn cho kỹ,

Mỗi thời-gian, tiêu-hủy cho mau,

Tiêu xong, một dạ, một màu,

Giữ gìn: ngôi cả, đừng xao, chớ ghình. .10

Giữ ngôi cả: phải nhìn đó trẻ,

Nhìn nơi con, bỏ lẹ mị-ly,

Cái Ngƣời có với thời kỳ

Cái Ngƣời đâu phải yêu-vì con, CHA. .11

Bỏ cái Ngƣời; nó là: chẳng có,

Mà con đừng vội bỏ nó đi,

Cân sao cho đúng mực ghi,

Mới mong bỏ đặng mị-ly nơi lòng. .12

Đem võ-trụ vào trong Ngôi-Cả,

Thì có nào là gã thời-gian?

Nầy con: Thầy chỉ gọn-gàng.

Con mau nhứt ý, một đàng nƣơng theo. .13

Hành đƣợc Đạo trong veo nhƣ suối,

Đâu có còn giong ruỗi khó gìn,

Trẻ con một dạ cứ nhìn,

Nhìn nơi lòng trẻ, đâu chinh bƣớc đƣờng? .14

Ớ các trẻ, ráng bƣơng, rán bƣớc,

Bƣớc theo thầy: khỏi nƣớc đến chơn,

Xác hồn: nhƣ thể nhịp đờn,

Thì còn bền vững, keo sơn hoài-hoài. .15

Phép Định vững, có ngày ứng-chứng,

Mới chắc rằng: bền vững nghe con.

Con cần: nơi trẻ chẳng mòn,

Xác kia phới phới, chẳng còn nhƣ xƣa. .16

Định nhƣ vầy, Thầy vừa lắm trẻ,

Mặc những ai bắt-bẻ lời Thầy,

Con xem: kìa gió, kìa mây,

Gió, mây theo đuổi có giây nào rời? .17

Con thử nghĩ: một nơi, một lẽ,

Kìa vừng-hồng, nào kẻ để tay,

Sớm Đông, chiều lại qua Tây:

Một ngày có mấy, con rày nói nghe? .18

Con phải rán dặt-dè từ bƣớc,

Thầy chỉ cho, xong bƣớc theo Thầy,

Cái Ngƣời, cái Vóc hằng ngày,

Vóc Ngƣời nơi kẻ; bỏ rày nơi CHA. .19

Phép định học, THẦY đà phân nói,

Dẫn cho an từ mối từ manh,

Thƣơng con, THẦY phải chỉ rành,

Con tua tìm mối, ngọn-ngành cho ra. .20

Page 91: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

91

Ôi, Cái Ngƣời, với Ta, không có,

Con nào lầm, thì khó gỡ tay,

HIỆP-THIÊN hành-pháp, nghe THẦY,

Phân-minh cạn-chỉ, con rày chẳng nghe! .21

Với cái-Ngƣời, con-dè, con-dặt,

Với Tinh-Thần, bịa-đặt thì không,

Sao con: chẳng xét nơi lòng,

Thử-coi có đặng sanh-phòng cùng không? .22

Mau giải phá cái-lòng phàm-tục,

Thì còn mong cúc-dục của Thầy,

Ớ con ! con nghĩ lời nầy:

Tu-Tâm, luyện-tánh, hay rầy các-con? .23

GIẢI NGHĨA: MẤY CHỮ TRONG THI-BÀI:

“ĐỊNH-TÂM”

____________

1) Định-tâm là gì?

Để tống hết vọng-tình, tạp-trƣợc Dân-Hỏa: cho tuyệt hết hơi-phàm

vào Thân-Tứ-Đại đi; nghĩa là: Bỏ Cái-Ta, phát-hiện tạp-dục ra

ngoài vậy!

Là phá ngục-nhốt ngƣời.

2) Định, cái-tâm nào?

Định mảnh-tâm con Ngƣời, tức là: định mảnh-tâm của Thiên-tâm

lại; Là Tâm “Thiên-phú-chi-tánh-sơ-sanh” đó ! Là: không-tâm vô-

trần, chớ không định mảnh-tâm của cái-Ngƣời, (là: Khối-nhục-

Đoàn) đâu; vì Tâm-ngƣời, là “Nhơn-Tâm” duy-nguy lắm ! Biết

đặng vậy, “Vào định-tâm bỏ hẳn việc tƣ-tƣởng riêng, cho ra cái-

Ngƣời, chỗ sở-dục đi !.

Lo: Vô-Nhơn, Vô-Ngã, Vô-Tà, Vô-Tƣ, v.v.. !

3) Định-Tâm phải làm cách nào?

A. Định-yên ngoại thất-tình mới phát động, hầu thâu chỗ phóng-

tâm lại, nghe!

B. Là mảnh-tâm, tƣ-lự vởn-vơ, cứ để tâm vào sự suy-nghĩ: xét-nét

lý-đạo, cùng xét mình sám-hối, chỗ tội-lỗi; đừng cho tâm-phàm

động xâm ! Làm sao Thiên-Tâm động mới tốt.

C. Sự phiền-não, tạp-trƣợc nặng-nề trong-lòng, và quên lửng đi sự

đời, tạp-hỏa mới ngƣng: và phải biết có Trời-Đất một chút, xằng-

xịu chớ để vào lòng ! Mà có hay nhớ nhƣ vậy, là cái quả phải trả

lại, nghe ! Lại cũng có khi: hay là sự Thử-Thách, coi mình có đủ

đức-tin chăng?

D. Sự thối-chí ngã-lòng, do Phách làm giục-thúc, cần phải phân biệt

chỗ này. Phải nhớ câu tục-diêu: “Đào sông chuyển núi, nhờ bền

công phu” đó nghe con !.

E. Dứt các cảnh lãng-xao trƣớc mắt !

Nhớ câu đồng-ngôn, là:

“Tảo trừ Tam-Tâm, mới an tứ-tƣớng” nghe (2). Trọn tánh quên

mình, phải đạt câu “Đừng chia rẽ: Ta và Ngƣời” !

Bỏ cái Bản-Ngã, gom tánh chơn-linh về.

Bản-Ngã là: Tánh riêng tƣ, là mảnh-tâm tục-phàm. Tên-tuổi phàm

này.

Vì, tƣ-tƣởng, là: ảo-mộng: Đạo mới là sự chánh-chơn, vô-vọng,

thật-hành …

Sự hành-vi chơn-chánh, mà là, chỗ Tinh-vi đầu-định sự diệu-hữu

sống-linh, nên mới gọi Đạo là sự sống của Đời. Có sống chơn-thật,

là nhờ Đạo tấn-triển mới mong sống vô-để-đạo vậy ! Phải bỏ hẳn ý-

tƣ đi: nhớ rằng: Võ-trụ và vạn-vật, với mình là Một.

Page 92: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

92

Nếu để ý-tƣ, tức là chia mình với vạn-vật, thì làm đứt dây tƣơng-

sanh, tƣơng-ái, là chỗ cảm-ứng của mình với Võ-trụ. Đó tại điển

chẳng-lành, mà không đặng thông-giao điều-hòa với điển-lực của

Võ-trụ ! !.

Nhớ câu “Ý-Tƣ, là: Quỉ-lự; phải trừ: Có thi-bài: Trọn quên mình,

dứt mối chia rẽ: Ta, Ngƣời:

“Con xem Võ-trụ hƣ-không

Cũng đồng một-chất, Hóa-Công tạo-thành !”.

Bỏ lòng lơ-lảng, tƣ-lự nơi mình, rằng: mình không đủ sức giữ-tâm

cho vững-vàng !.

Nhớ để trọn đức-tin nơi Ngôi-Trời Độc-Nhứt, tin nơi cái đó, đủ

sức-sáng của mình đƣợc giác-ngộ. Tại mình không phân-biệt rằng:

có lơ-lãng tƣ-lự, là cái Phàm-Tâm; Nó sợ, là sợ có xa mình mà thôi,

chớ nào phải mình lo mình chẳng định đặng đâu !

Chẳng chuyện gì phải, mà Ngƣời làm, mà không đƣợc ! Vì Trời

nào có phụ kẻ hối-quá tìm đƣờng trở-về với Trời bao-giờ? Vì Trời

đã ban cho Ngƣời Ngôi-Độc-Nhứt sẵn-rồi, để dắt Ngƣời lo Sự-

Hiệp-Nhứt với Trời.

Bỏ cái sự nóng-nảy, cho mau đƣợc thành chỗ chí-thiện của mình

muốn! Phải nhờ sự kiên-tâm trì-chí, một-bƣớc cho một-bƣớc vững-

vàng. Phải biết: chớ nên dục-tốc, nóng-nảy, làm cho bại-hoại tinh-

thần, chớ chẳng phải Đạo: đừng sự dần-dà, biếng-nhác; phải biết

hối-thúc mình hoài, mà phải chẩm-rải cho mau tấn-phát.

Phải nhìn Ngôi-Độc-Nhứt, bằng Nhãn-Lực ! Đừng để Nhãn-Lực

đứt-đoạn, vì cái ý xen vào !.

Hiệp cái Nhãn-Lực, Nhĩ-Lực mà đem cái Thần vào trong Tâm; Vì

Tâm mà phóng-túng, là tại con-mắt nó trống, lỗ-tai nó nghe vậy !

Tâm, hết phóng-túng nơi-mắt, nơi-tai, là khi mình không còn nhớ

sự gì đã-thấy; hay là không còn nghe tiếng-gì khua động ở ngoài;

nhƣng nó chƣa trọn, vì nó còn ở trong cái xác thịt, nên xác mới biết

sƣ cảm-xúc của nó ! Chừng mình quên cả cái-mối cảm của xác thịt,

thì cái-thân mới trọn gồm thâu làm một Ngôi-Thần.

Cũng vì ý ấy, mà bên Phật đã dạy định-tâm, ngồi Kiết-Dà, cho đến

chừng tê cả mình, không còn biết tới cái xác là gì nữa, mới là: túc-

tịnh cho; vì Tinh-Thần đã thoát-khỏi chốn Thời-gian và Không-gian

ô-tạp rồi.

Giữ tâm thanh-tịnh, đừng mơ việc-ngoài, đặng lòng cho trong: cái-

xác hay vọng-động, thối-chí, thay-đổi luôn-luôn, nhƣ: con-khỉ vậy !

Nhƣng mà cái vọng-động ấy, là dây thiết-tỏa với cái “Ngƣời”

không phát-hiện đƣợc.

Nên giữ êm-lặng, thì lần-lần mở những sợi-dây ấy ra. Sự mở này:

phải cho tự-nhiên, chớ lấy sức ngƣời mà mở, thì đã không đặng, lại

còn thêm sức cho nó cột chặt thêm vào cái xác nữa, mà thôi !.

Giữ Tâm thanh-tịnh, thì nhờ bỏ tiếng quến-rú, thầm-thì, rỉ-rầm, cà-

rà, khít-khao của Thất-Tình. Nhớ “Thiên-hà-ngôn-tai ! thử-lòng”,

nhƣ lúc bình-minh của Trời-Đất không một tiếng khua-động. Nhƣ

vậy mới gọi là: “Chí-Thành”.

Vong-Ngã đừng tƣởng rằng: tôi-định, tôi-xét, tôi biết. Đem chữ

Tôi vào, thì sao gọi là định? Là xét? Là biết thật? Vì có Tôi, vào

đây, thì định-kia, xét-đó, biết-ấy: phải bị Tôi mà tán ra hƣ-hoại, thì

Page 93: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

93

nào là thật-định, thiệt-xét, chánh cái-biết của cái “Đó” đâu? Vì có

câu: “Thiên-chơn-thanh-tịnh”, vì thiên-chơn, là :”Phật, Trời, trong-

tâm” thì định đặng rồi, nào phải nhờ sức ngƣời, mà làm cho Ngôi-

Trời định đặng?

Vì nhƣ: Có ngƣời hỏi Khổng-Thánh câu này :”Ngài hiểu biết rộng

lắm phải không?” – Ngài trả lời: “Tôi nào có biết chi; Chỉ Trời mới

biết mà thôi”!.

Không còn một mảy-may nào của sức mình để cầm giữ Ngôi-

Thần, vậy mới gọi là “VÔ-VI”!

Ngôi-Thần luân-chuyển hoạt-bát, nhƣ bốn-mùa lƣu-chuyển, cứ

vần-xây nhƣ chim-bay, cá-lội, chẳng có ai đút tay vào đó đặng.

oOo

32. ĐẠI-TỊNH HƢ-VÔ (TAM-THOÀN LUYỆN-KỶ)

________________________

Muốn vào tịnh-tọa theo tâm-pháp, của Thoàn-Môn, cho có điều-

chứng, chỗ Chánh-Đạo chơn-tu, luyện-khí định-thần. Trƣớc hết:

đoạn-tuyệt trần-duyên, bảo-thủ chƣng tánh-lý của Ngũ-tƣớng cho

hoàn-toàn, sát Ngũ-Ma; bất tƣơng-quan Xã-Hội, cần phải thiệt-

thành theo chỗ Bát-tự-Giác-Nguyên (1); đoạn-tuyệt dâm-thân, làm

cho dâm-thân hết bộc-khởi; thì mới dám vào tu Đại-Thừa, sẽ đoạn

đƣợc dâm-căn !.

Phải ngồi thoàn cho thƣờng, thì đƣợc ngoại-tịnh, nội-động, ở trong

mới có Chơn-cơ phát-hiện; thì sẽ đƣợc Thanh-Khí hƣờn-lai. Phải

trƣờng-trai giái-sát luôn, cho cảm động lòng-Trời, thì Chơn-cơ sẽ

phát hiện, chớ không gì là lạ.

Phải Hành, Trụ, Tọa, Ngọa, định-thần luôn-luôn, mặc-mặc vô

ngôn, Hồi-Quang Nội-Chiếu, và tâm điền (2). Tổng-Ngôn, bất tri

Thiên-Địa thế-sự nhƣ-hà, hà tại giả dã … Nhi hậu đắc-kiến Thiên-

Khí thƣợng phù, tạp hỏa hạ giáng, đó là chỗ nói:

“CHIẾT-KHẢM-ĐIỀN-LY” (3)

“LUYỆN-HỒN-CHẾ-PHÁCH” (4).

Mà là phép của Tiên gia, đạo-pháp siêu quần vậy. Các phép đã

minh chỉ rõ, phải thủ cho tròn vẹn, sau mới nên nhập tịnh an-thần,

thì muôn đều không thất một đó. Phải ở Đời phƣớc-huệ cho song-

toàn, âm-chất đƣợc tƣơng-phò, mới cảm đến Hƣ-Không, Thƣợng-

Giái, Thần-Tiên sẽ chỉ dạy, cách làm Thần-Tiên chẳng khó gì!

ĐỆ-NHỨT-THOÀN:

_________________

Vạn-duyên đốn-tuyệt, tâm-mục tƣơng-y, hô-hấp hữu-độ, bất-vọng

ngoại-trần; thì là: nơi trung có hữu-động xuất hiện huyền-linh-điển

chiếu vậy. Sự động mà nói đây, tức là động kiến Thiên-tâm, hoán-

trƣợc, hoàn-thanh, thâu ngoại Chơn-Âm, hƣờn vào trong, diệt Giả-

Dƣơng ở trong, hóa thành ra Chơn-Dƣơng.

Đoạn Giả-Âm nhờ linh-điển chuyển-vận bèn hóa thành Chơn-Âm

nơi tâm, mới vận-chuyển thuần toàn cho lục-âm, lục-dƣơng điều,

mới là nên chơn Đạo vậy. “Mồ-Kỷ Nhị-Thổ, kết thành minh-châu”

mới là trọn câu tịnh-thoàn.

Page 94: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

94

MỚI VÀO NGỒI TỊNH

____________________

Mới vào ngồi tịnh, ngồi thân-hình cho đoan-trang, nghiêm thân

chi tƣớng, hình nhƣ khô-mộc, bất động bất diêu, nhơn ngã nhƣ

nhứt, vạn sự giai-vong. Vậy là phƣơng pháp vô-thƣợng của Tiên-

gia-Bí-truyền là đó.

A. Khi vào ngồi-tịnh phải hít vô 3 hít, mật-niệm: Nam-Mô-

Cao;

B: Thở ra cũng mật-niệm: Đài-Tiên-Ông.

Cho đủ ba lần nhƣ vậy, rồi thôi, làm thinh tịnh-định, đừng tƣởng

chi-chi nữa, cũng đừng hô-hấp nữa, và cũng đừng để ý vào đâu đâu,

để tự nhiên, nhƣ nhiên mà tịnh, để cho trong tâm, tâm-tự-chuyển,

tâm-tức, tức-tâm, tức-tự-tâm-sanh, tâm-tức-tự-sanh; mỗi ngày theo

Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, 4 lần, mà phanh-luyện; cứ nhƣ vậy mà tịnh

hành, chẳng nên ngoại-vọng, thì Tâm-Phàm phải tuyệt, mới có

Thiên-Tâm lai-phục, vì dục-vọng đã bặt-dứt, nên mới hỉ-hiện tâm

vô-vọng ra; nhờ có Chơn-Khí trở về bổ-nhuận, nên lâu ngày mặt-

mày hình-thể nở-nang và vui-vẻ, lại trong lòng khoái-sƣớng, lạ-

thƣờng, bởi chẳng còn tƣ-tƣởng xấu-xa xâm-nhiễm nữa.

ĐỆ-NHỊ-THOÀN.

_______________

Tịnh tọa nhƣ vậy cho đƣợc hoàn-toàn; tịnh tọa nhƣ vậy cho đặng

ba tháng dƣ ngày, thì bổn-thể Chơn-Ngƣơn định-an, hữu linh điển

hội-trợ, điều hòa khí-huyết, chỗ ở cho ra tƣơng-hòa. Tạp-hỏa tán-

tiêu, cho nên dâm-thân, dâm-tâm hết bộc-khởi nữa, thì Chánh-

Pháp-Nhãn-Tạng đặng nên, chẳng sai. Vì có nhị-âm tấn, thì giả-hỏa

phải lui.

VÀO-TU: Phải lựa ngày Đông-Chí, có Nhứt-Dƣơng-sanh sơ-động

(trƣớc Đông-Chí mƣời ngày, thì lo vào Đại-Tịnh), Đó là: Hiệp theo

thời tiết, cách nhập tịnh của đấng Tiên-Gia.

Khi vào tịnh, phải bế-môn tịnh-khẩu, chẳng cần tƣơng-quan với

xã-hội nữa. Gom-lại mà nói: Bất-tri nhơn-sự, Thiên-Địa giai vong,

thì trăm-đều y nhƣ ý nguyện; cứ một-lòng đại-tịnh hƣ-vô, thì hoàn-

toàn đại-cơ thoàn-định vậy ! Trong lối này: Chơn-Âm và Chơn-

Dƣơng nhờ ngoại-tịnh mà nội phát-động, nên hai khí đã về hòa-

hiệp, tại Huyền-Quang-Khiếu (Hạ-Điền), hay Thái-Cực-Đồ, mà hóa

trƣợc cho ra Thanh; lại còn phát-sanh thêm điển-lực, hóa Khí, mà

phụ-trợ cho Thần-Quang. Thần-Quang đặng mãnh-lực sáng-tỏ và

sung-túc, là nhờ có mãnh-lực xung-đƣợm, là bởi nhiều-ngày trọn-

tịnh Hƣ-Vô.

Tóm lại mà nói: Đi, Đứng, Nằm, Ngồi đều phải tịnh-thoàn luôn-

luôn ! Nhờ tịnh nhiều ngày mà nội-cơ sanh-điển dồi-dào, xung-lên

diệt trừ hỏa-tánh, hóa-chơn thăng-thƣợng Nê-Hƣờn-Cung, tựu nơi

đó mà ra minh-trí, (là cốt Minh-Châu). Hễ đặng có minh-trí rồi, là

tánh-cao-thƣợng, nên là về tƣ-tƣởng cao-siêu, đã diệt trừ Hạ-trí

đó !.

ĐỆ-TAM-THOÀN.

________________

Đến đây: Nhờ phƣơng định, thƣờng-tịnh mà đƣợc Thần-Khí giao-

thông, điều-hòa dinh-vệ, cho Nhâm, Đốc, lƣỡng-mạch thông-giao,

phản hậu thông-tiền, thần mới qui vào trung-ƣơng (Hạ-Điền), Thái-

Cực-Đồ, là nơi: Mồ-Kỷ-Thổ ! Nhờ tịnh mà lƣỡng giả tăng-tiến, chỉ

còn lƣỡng-khí chơn Âm-Dƣơng tƣơng-hòa, thần-khí tƣơng-liên,

cho có ra sanh-lực. Nhờ sanh-lực đủ quyền diệt-trừ, làm cho:

A. Giả-Hỏa biến ra Chơn-Hỏa.

Page 95: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

95

B. Giả-Thủy biến ra Chơn-Thủy.

Chơn-Thủy-Hỏa đồng cân, mới điều dinh-vệ thống-động, động

Thần-Khí Tƣơng-Liên, Tƣơng-Ứng đó vậy; mà là chỗ nói: “Chiết

Khảm, Điền Ly” đó.

Nhờ ta đƣợc “Chiết Khảm, Điền Ly” lâu ngày, mà Thần-Khí tựu

thành Linh-Điển Thần-Quang, bèn tựu-hiệp, cƣ-trung Thái-Cực-

Đồ, hầu chờ ngày thăng-thƣợng Nê-Cung.

C. Khi, Thần-Khí chủ trƣơng trong Thái-Cực-Đồ, có hỏa

điển-lực rồi, bèn rút giả-hỏa cƣ nội Tâm-vị (Tim) xuống, biến

Chơn-Hỏa, đem vào khoảng giữa-thận. Khi lƣỡng-khí cƣ tại lƣỡng-

thận trung-gian rồi, Linh-Điển bèn tống Chơn-Thủy lên Tâm-Vị,

kéo Chơn-Hỏa vào nội thận; thì là Thủy-Hỏa đƣợc điều hòa, thì có

linh-chơn điển, là “Thủy-Hỏa Ký-Tế” vậy.

Có Linh-Điển rồi, rất dồi-dào, mà thể-chế giả-thần cƣ ngụ.

Ngƣơn-Thần hƣờn-cƣ mới an-tịnh đƣợc. Là nói: Nhà cũ không tâm,

nó nhờ Tịnh lâu-lâu mới an-tịnh đƣợc. Vì tánh nóng của tạp-hỏa

tháo-thứ, chủ-sử hƣ-hại cho ta, làm chủ-sự bấy-lâu, để nội-tâm

loạn, hết biết sanh tử là gì, cứ lấy khó làm vui, là toại-chí.

Nay đã tán-tiêu, nên hết làm hại ta nữa. Cho nên bây giờ nhơn-tâm

biến thành Thiên-Tâm rồi, là ta đã có thâu-thập Linh-Quang-Điển

cƣ tại Kỳ-Trung đó vậy. Rồi Linh-Điển lại vận-dụng làm nội-công,

mà điều-hòa lƣỡng-chơn cho thành Chơn-Điển nữa. Khí hóa Điển,

điển hóa Khí, ta thƣờng tịnh và rút thần-công, Chơn-khí mới thăng-

thƣợng Huỳnh-Đình, mà bổ-dƣỡng Ngƣơn-Thần. Tuy là Khí, khi

vận-dụng chuyển-luân ở ngoài, mà khi vào trong Cung-Trung

(Thái-Cực-Đồ) lại hóa ra Chơn-Thần mới cho Ta là kỳ tài.

ĐỆ-TỨ-THOÀN.

______________

Đến đây đã vừa đƣợc 73 ngày rồi, trong mình Thần-Khí sung-dinh

điều-hòa kinh-huyệt, hô-hấp hữu-độ, cho nên thân-thể đƣợc tƣơi-

nhuận cả thân con Ngƣời. Lƣỡng-Khí đều vào trong Huyền-Quang-

Khiếu rồi, cho nên Linh-Điển thƣờng hoạt-động, cho Thần-Khí

chuyển-luân, giao thông Tam-Quan Cửu-Khiếu, lấy sanh-lực

Thiên-nhiên mà bồi bổ Chơn-Ngƣơn, cho nên con Ngƣời trở lại

đồng-trinh.

Vì nay đặng: Thủy-thăng Huỳnh-Đình-Cung,

Và nay đặng: Hỏa-giáng Giáng-Tắc-Cung.

Y nhƣ hồi 16 tuổi xuân-xanh; đó là phép dạy “Chiết-Khảm-Điền-

Lý” dó.

1. Mà “Chiết-Khảm-Điền-Ly” là đem lửa ở Cung-Ly (Tâm) xuống

Thận-Thủy.

2. Lấy nƣớc ở Thận-Thủy đun lên, cho nó trở về nhà cũ nó, là:

Cung-Ly;

Cho Thủy-Hỏa đồng-cung; nhờ lấy Điển-lực của hƣ-vô chuyển

vận nó điều-hòa. Khi nó điều-hòa, nhờ Linh-Điển trong Thân làm

chuyển nó; manh-động theo lƣỡng-mạch mà vào Huyền-Quang-

Khiếu (Thái-Cực-Đồ).

Khi Linh-Điển ở tại Huyền-Quang-Khiếu, thì nó qui tựu Tinh-

Huyết mà hóa ra Ngƣơn-Thần. Ngƣơn-Thần đƣợc đầy-đủ, thì lại có

sanh-Khí bắt từ dƣới rún trào lên họng (Huyền-Ƣng), hơi ngọt ngọt;

lối, ấy, nên chậm chậm mà nuốt vào Thái-Cực-Đồ, lâu càng hay;

nếu nuốt mạnh, thì nó chun vào Tỳ-Lƣ (Khí-Hải), càng vô-ích, thì

hóa ra trƣợc-tinh. Trƣợc sanh vọng-tinh, xuất ngoại, là sa Địa-Ngục

đó. Ngƣơn-Thần nhờ tịnh-an mà càng ngày, càng sanh thêm năng

lực, chuyển-vận cho Ngƣơn-Thần thêm Điển dồi-dào, mà Linh-

Điển bèn nhán sáng ra, là: có Linh-Quang-Hiện.

Page 96: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

96

Từ Hạ-Điền là Huyền-Quang, mà thông lên tới Ấn-Đƣờng

(Ngƣơn-Môn) hiện xuất ra ngoài. Cho nên lối này, mới có Huỳnh-

Quang nhị-hiện, tới tam-hiện. Vì gần đủ 300 Châu-Thiên, cho nên

mới có hiện-xuất vậy. Mà đây là cảnh phải thôi-lửa (Chỗ nói: Chỉ-

Hỏa-Hầu là đây). Lối này là nghỉ-Vận, thôi dùng Thần-Công nữa,

cứ Đại-Tịnh Hƣ-Vô mà chờ cho có Huỳnh-Quang Tái-Hiện, sẽ vận

qua phép “Tiểu-Châu-Thiên”.

Tại sao biết trong mình có đủ 300 Châu-Thiên? Hễ có đủ 300

Châu-Thiên y nhƣ Nhựt-Nguyệt luân-hành theo vòng Trời-Đất (có

độ số Châu-Thiên luân hành), thì lại có phát ra 4 cảnh cho ta đƣợc

biết , là: đã đủ 300 Châu-Thiên rồi, là có phát cảnh:

1. Tại rún xung quanh nóng hổi, dƣờng nhƣ có bánh xe lăn (Tiển-

nhiệt-thang).

2. Sau, có gió thổi ùn-ùn (nhƣ tiếng Chim cu kêu),

3. Tại giữa Chơn-mày (Ấn-Đƣờng) có hiện ra Điển-Quang nhán-

sáng và chớp. Đó là dấu ta đã kết điển-thai vậy (Thai-Tiên); là nhờ

khởi tịnh Nhứt-thoàn, Nhị-thoàn mà lần qua Tam-Thoàn, từ 75

ngày tới 100 ngày; là: phép Bá-Nhựt Trúc-Cơ.

Nếu đƣợc có Huỳnh-Quang Nhị-Hiện rồi, thì phải mau mau đình

lửa, nghỉ 7 ngày, để không-không Hƣ-Tịnh là tốt; mà chờ Huỳnh-

Quang tái Nhị-Hiện rõ-ràng, sẽ vận-hành qua Tiểu-Châu-Thiên.

Mà vận Tiểu-Châu-Thiên, là bắt đầu từ qua 100 ngày rồi, tới 10

tháng mà Ôn-Dƣỡng Thánh-Thai đó vậy; tức là: Ôn-Dƣỡng hỏa-

phù là đây.

VẬN-TIỂU-CHÂU-THIÊN

Từ đây, nhờ tịnh Hƣ-Vô thƣờng-thƣờng và hồi-quang-nội-chiếu

đã có ấn-chứng, Thần-quang nhán-sáng ra, thì là bổn thể Chơn-

Ngƣơn đƣợc cƣờng-tráng và tƣơi-nhuận; trong khoảng từ bƣớc qua

10 tháng rồi.

Thẳng đến cảnh 3 Năm, là ta có đặng Tam-thông rồi, cứ tịnh Hƣ-

Vô và hồi-quang cho thƣờng, thì lục-trần đã bặt, lục-căn còn đâu

mà loạn chơn-tánh của ta.

Hễ có động-cơ phát-hiện, ta vẫn cứ vận Đại-Châu-Thiên, rút

Thần-công mà nuôi Ngƣơn-Thần. Thần mạnh thì Ta đƣợc tiêu-diêu

tinh-thần. Cứ vận Tiểu-Châu-Thiên, có chỉ trong Bí-Khuyết; vì đây

là nơi: Khẩu-Khẩu tƣơng-truyền, khó mà tả văn-thơ.

ĐỆ-NGŨ-THOÀN.

(ĐẠI-CHÂU-THIÊN)

__________________

Đây là qua một Năm, đến chín Năm. Cứ có hiện ra, là rút thần-

công và Đại-Tịnh Hƣ-Vô hoài-hoài, là tốt. Vì đã đặng siêu phàm,

hơn Ngƣời-thƣờng, và tròn-vẹn Ngũ-Thông; là cảnh đặng xuất nhập

Thần-Quang đó vậy. Ban đầu xuất gần, sau lại càng xa; Chừng

đặng Thần-Quang ra vào trong bổn-thể, xác-phàm đặng dễ-dàng; đó

là: đã nên Tiên-vị; mà là: chứng vị Đại-Giác-Kim-Tiên, Thần-thông

quảng-đại; cũng là truyền-khẩu, bất khả truyền thơ vậy.

TỔNG-LUẬN:

Đại-Châu-Thiên phải vận hai-lần; ĐẠI, là: Đại-Châu-Thiên đó.

CHUNG KẾT SƠ-LƢỢC “TỊNH-HƢ-VÔ” VỀ

PHÉP LUYỆN: VẬN-NGƢƠN-THẦN,

Page 97: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

97

TỊNH-AN THÁNH-THỂ

(ĐỒNG-TỬ: Linh-Châu-Tử, CHẤP-BÚT.)

Ngày 13-2-41 tại Chơn-Nhứt-Động (Bà Rịa).

______________________________

THẬP-NHỊ-THỜI ĐỊNH-THOÀN

____________

Của HUỆ-LINH-TIÊN-NƢƠNG giáng tại:

NHƢ-Ý-LINH-ĐÀN

(Lái-Thiêu – THỦ DẦU MỘT)

____________

1. Tý-Thời: Đại-công-Phu: - Ngồi kiết-dà Tam-Mụi;

Khởi Phong-Hỏa cho đều. Ấy mới thiệt là ngƣời-tu.

2. Sửu-Thời: - Nghỉ khỏe giấc; Nghiêng mình theo tâm-pháp.

Thần-Khí trở về hang. Trí nom không tƣởng quấy.

3. Dần-Thời:- Định-nam-châm; Đôi-mắt nhắm mơ-màng;

Huệ hiện có bửu-quang; Tiến bƣớc lần-lên đàng.

4. Mẹo-Thời:- Đại-Công-Phu, Soi-Hồn hiệp Thần-Khí;

Hỏa-Phong khởi đều đều; Cam-lộ lần ngọt-ngọt;

5. Thìn-Thời:- Nghỉ khỏe thân. – Đƣợc tự do thong thả.

Giữ thân đừng tán-cả; Viên-ý Mã-tâm-Can.

6. Tỵ-Thời: Tiểu-công-Phu; Đôi-mắt phải định-Nam;

Hai Tai nghe hơi-thở; Răng khít lƣỡi cong lên.

7. Ngọ-Thời: nên Đại-Định, Thần thâu giữ bình-tĩnh.

Khảm-Ly hòa Trung-Khiếu, Chiết-Ly tận minh-bình.

8. Mùi-Thời: Khám nằm thoàn; Vật-thực dụng hoàn-toàn,

Mờ-mờ, đôi-mắt-nhắm, Tâm giữ tịnh lặng-trang.

9. Thân-Thời: Tiểu-công-Phu; Đi, đứng, nằm, ngồi, đƣợc,

Mắt giữ định-nam-châm; Tâm trí gìn thanh-tịnh.

10. Dậu-Thời: Đại-công-Phu. Tinh, Khí, Thần qui tựu.

Hơi-thở giữ đều-đều, giữ xong ba-pháp-bửu.

11. Tuất-Thời: Tua an-giấc, Khƣớc-bịnh rõ tâm trung.

Hồn-Phách phải cho đồng; Bịnh-hoạn đều tiêu-tán.

12. Hợi-Thời: An giấc-điệp; Ngũ-Khí sẽ triều-Ngƣơn;

Khảm-Ly hiệp hòa-một; Toàn-thân đặng nhẹ-nhàng.

oOo

33. TỨ-DIỆU-ĐỀ - BÁT-CHÁNH-ĐẠO

THI:

THÍCH đạo diệu-đề, tứ chú minh,

CA ngâm bát-chánh, trọn-nhơn tình,

NHƢ nhiên thông-lý, thành chơn-quả,

LAI chứng TAM-HOÀNG, vạ-cổ Kinh.

Page 98: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

98

BÀI:

Than-Ôi !

Nhơn-sanh xuất-thế, đa thâm-khổ,

Khả chuyển Thần-quang, nhứt tánh-xuân,

Chớ cho tạp-hỏa chói-lừng,

Noi-đƣờng Bát-chánh, muôn-xuân hƣởng-nhờ. .1

Tứ-Diệu-Đề, phải-thờ, phải-trọng,

Bát-chánh, minh, đƣợc phóng hào-quang,

Xét-suy: cảnh-khổ, mọi-đàng,

Do nơi duyên-nghiệp, tiền-oan đó à !.

Muốn cho ra khỏi Thiên-la,

Luân-Hồi mau dẹp, Thích-Ca giải-bày,

Nam-Mô, thoát-khổ, lành-thay,

Mƣời điều sanh-khổ, Bốn-loài tránh xa ! .3

Nhƣ-vầy, mới thoát Ái-Hà,

Dứt-Tâm ái-dục, điều hòa Đạo-Tâm.

Cứ Đại-Tịnh, đắc Đạo-Thâm,

Nhứt-Bá-Linh-Bát, tri-Tâm khỏi nàn !. .4

Dứt rồi, đâu có liên-can,

Luân-Hồi trở lại, Dây-oan buộc trì?

Bần-Đạo chào chƣ Môn-Đồ Nam-Nữ bình-tâm, nghe dạy:

CAO-ĐÀI-ĐẠi-ĐẠO trƣờng thi,

Siêu-Hình-Thƣợng-Học Huyền-Ky lƣu-truyền. .5

Mừng nay Tam-Giáo hữu-duyên,

Qui-nguyên-Phục-nhứt, y tiền Đạo-khai.

Thất-Ức-niên, sẽ lƣu-lại,

Huỳnh-Quang-Sắc hiện, CAO-ĐÀI-TIÊN-THIÊN .6

TA xƣa cũng phải Đại-Thiền,

Các trò rán-định, Chơn-nguyên đắc-thành ..

BIẾN-TƢỢNG-KHỔ, TRONG CẢNH ĐẦU-SANH CỦA

CON NGƢỜI, VÀ CÁCH DẸP MÁY LUÂN-HỒI,

HẦU ĐẶNG VỀ THƢỢNG-HỘI.

BIẾN-TƢỢNG-KHỔ:

1. Khi mới lọt-lòng, bắt đầu vào phôi-thai mẹ: 7 ngày đầu, vẫn là

một chất nhớt mỏng-manh, chất ấy giống-nhƣ “Giọt-Dầu-Mè” lƣợt

thật trong, tinh-anh, mà rất-ít !

2. Qua 7 ngày thứ hai, đã biến đổi ra màu hồng-dợt, giống in nhƣ

nƣớc rửa thịt vậy.

3. Bƣớc qua 7 ngày thứ ba, chất nhơn-nhớt ấy lại biến thành cục

thịt.

4. 7 ngày thứ tƣ, cục-thịt tròn ấy hƣờn lại, hay giống nhƣ trứng gà

non, còn trong bụng Gà-Mẹ.

5. Kịp đến 7 ngày thứ năm, cục-thịt tròn ấy lại chia ra 5 nhánh; đó

là hình-tƣợng cái đầu và hai tay, hai chơn. Khi có đặng hình-rồi,

tóc, lông, da, móng, mới lần-lần có sanh ra …

Duyên sanh của tiền-duyên trực chƣởng mà phải lụy lấy xác-hồn !

DUYÊN-SANH KHỔ

Sự sanh ra, là nguồn gốc của các sự khổ; hễ có sanh là có khổ.

Bắt đầu sanh ra, Chơn-linh ở-trong phôi-thai (là Thái-Cực-Đồ)

hằng chịu thống-khổ, trong bụng Mẹ, không chi sánh đƣợc; nào

ngồi trên đồ ăn chƣa tiêu-hóa, tiêu-hóa sẽ thành phẩn; còn đầu thì

đội đồ-ăn, của Mẹ mới vừa ăn vào, ngồi thì chồm-hổm, hai-tay ép

Page 99: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

99

sát vào đầu gối; hai bàn-tay ôm đỡ lấy cằm; lƣng thì day ngoài

bụng-Mẹ, mặt úp vào xƣơng-sống Mẹ, lại còn bị nhao của Mẹ bao

rút thai-bào, làm không chỗ nào ngay-tay duỗi-chơn ra đƣợc thong-

thả; khác nào là con-khỉ rút co, gặp cơn mƣa-to gió-cả, ngồi cú-rũ

trong bộng cây, tay-chơn co rút, mình thể rét-rừng. Cái Phôi-thai

vẫn chịu thống khổ trong cõi-lòng mẹ, khác nào tù ở chốn Âm-ty

mờ mệt tối-thâm, mang dẫy-đầy nhớt-nhao, nhơ-bẩn tanh-hôi, rất

đáng gớm-nhờm vậy ! Lại còn bị cháy-lửa của mẹ, hằng làm cho

cái phôi-thai phải cam nóng-hực luôn-luôn; ví nhƣ cục thịt đã nấu

trong nồi vậy !.

Ôi ! biết-bao nhiêu nỗi-khổ rất nặng đè !.

Rất thảm-khổ cho bƣớc đƣờng của chúng-sanh, trải qua và sẽ

bƣớc qua, của cảnh-đời giả-tạm !.

Ấy mà tất cả chúng-sanh đều phải chịu số-phận, nhiều-ít, là do:

Tiền-Kiên-Trực-chƣởng nhƣ nhau. Đó là bƣớc khổ đầu-tiên vừa

tƣợng-trƣng biến-tƣợng nên-hình ! Hình nhơn-loại mà đã chịu các

sự của khổ-sanh quá-ƣ thậm-khổ !.

KINH-KHỦNG-KHỔ:

Khi Mẹ hoặc khi vấp-té, đứng-lên, ngồi-xuống, day-trở thân-mình,

chúng-sanh còn trong Phôi-Bào, phải chịu lạc-xao, mệt-nhọc, sợ-

hãi khôn-cùng. Đó là: Khổ thứ-Nhì, về Kinh-khủng-khổ !.

HOÀNH-SANH-KHỔ.

Bào-Thai-không thuận, lại nằm ngang-hông Mẹ, làm cho đến khi

sanh, khó-sanh ra đƣợc. Chúng-sanh ở trong-thai chịu rất khổ. Đó

là: Khổ thứ-Ba về nơi Hoành-Sanh-Khổ.

NẠN-SANH-KHỔ.

Kịp đến ngày sanh, thì do nghiệp-duyên lỗi-vậy, lớn cái Bào-Thai,

day đầu trở xuống, chổng cẳng dựng lên, trồi ngƣợc ra sản-môn, ví

nhƣ ngƣời bị rớt xuống bể-sâu, giựt mình sáng-sốt, lúc vừa chun

khỏi sản-môn, bị kẹp ép khó chịu khôn-cùng, nhƣ con voi to chun

qua lỗ đã hẹp. Đó là: Khổ thứ Tƣ vậy.

HÀN-THỐNG-KHỔ.

Khi sanh khỏi lòng mẹ, hài nhi toàn thân mặt-mũi, đầy nhao-nhớt,

máu-mủ, da-non lạnh-lẽo, rất đau nhƣ kim-chích.

Mới nhờ Bà Mụ rửa chau, săn-sóc cho ra các hài-thể tinh-anh, coi

mới ra hình hài-tử. Đó là: Khổ thứ Năm, trong các sự khổ-sanh.

THỌ-NGHIỆP-KHỔ.

Hài-Nhi đã sản ra, càng lớn lên, nếu tiền kiếp gây nhiều nghiệp

dữ, nay đến hồi phải trả, cho các quả chẳng lành ấy, mới khiên nên

làm điều tội lỗi !.

Có khi phải phạm nhằm Quốc-Luật, cùng cùm-xích trói-trăn, tội

đến nơi tử-hình. Có khi tự mình tự-tử lấy mình. Đó là: Khổ-thứ-Sáu

vậy.

QUẢ-BÁO-KHỔ.

Khi trƣởng-thành, đến lối phải bị trả quả tiền-khiên, do mình gây-

nhân, từ kiếp trƣớc, cho nên phải bị kẻ khác đâm, chém, bắn, và

làm hại mình, vân-vân ! Khổ này là Quả-Báo-Khổ …

Page 100: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

100

Chúng-sanh mà phải đạo vào cõi Địa-Ngục thiêu-thây, cũng vì

lòng dục ham muốn ! ..

SÚC-SANH-NHẬP

Chúng-sanh đành vào cảnh giái Ngạ-Quỉ, hằng ngày phải chịu đói-

khát, nóng-lạnh, đa-đoan do cũng tại quá ác mà ra duyên-Sanh dẫn-

dắt cho chúng-sanh, sanh vào cảnh-giái ác-độc ấy.

Khổ này là khổ thứ-mƣời về khổ Sanh, của nghiệp-duyên trực-

chƣởng, quá ác mà ra. Cho nên phải gánh chịu; hết duyên-Sanh, rồi

Lão, Bịnh, Tử; thì trông ra biết bao là cảnh khổ nàn vậy ! Cũng là

mờ-mờ mịch lƣớt tới tối-mê, nào ai có rõ?

Duy có bực tự-giác, có Lƣơng-năng, mới thấy tỏ-rõ, do là: bốn-

khổ này trƣớc đã.

BỐN-KHỔ, là: TỨ-DIỆU-ĐỀ.

1. Khổ-Diệu-Đề; (Khổ về danh-sắc) Khổ của huyễn-cảnh.

2. Tập-Diệu-Đề; (Khổ đâu nhóm-lại, mà có ái-dục).

3. Diệt-Diệu-Đề; (Khổ phải biết-cách diệt-trừ).

4. Đạo-Diệu-Đề; (Trừ diệt-khổ, theo đƣờng Chánh).

Rồi đoạn bƣớc noi theo “BÁT-CHÁNH-ĐẠO”, thông thấu rõ-rệt

hành-tàng mà hành-y theo chỗ uyên-thâm u-ẩn; thì là biết cách dẹp

Lục-Dục, Thất-Tình. Tuyệt-căn chỗ bắt-dục ham-muốn, thì còn đâu

là ráp-máy luân-hồi, mà bị chun vào các-cảnh khổ-sanh của Lục-

Đạo-Luân-Hồi tối-mê kia, ràng-buộc đeo-mang cho tất cả chúng-

sanh, vì ham danh-sắc, ái-dục mà thọ khốn khổ đó !.

Nói về: BÁT-CHÁNH-ĐẠO

1. Chánh-Kiến.

2. Chánh-Ngữ.

3. Chánh-Tƣ-Duy.

4. Chánh-Tinh-Tấn.

5. Chánh-Định.

6. Chánh-Tín.

7. Chánh-Niệm.

8. Chánh-Nghiệp.

Này các Tì-Kheo và Chƣ Môn-Đồ Nam-Nữ ôi ! Những sự thống-

khổ của duyên-nghiệp Nhơn-sanh, sanh-khổ mà NHƢ-LAI đã giải-

bày đây, vẫn do mảnh-lực duyên-nghiệp níu-trì cho cả chúng-sanh

phải gánh chịu nhiều-sự khổ-não, không ngƣng-nghỉ; nó vẫn đeo-

đuổi, làm cho Chúng-sanh điêu-đứng khổ-cùng trong vòng tục-lụy

Diêm-Phù, mà phải chịu đầu-sanh luôn-luôn; làm quên-hết bổn-căn

chơn-tánh của-báu các trò !.

Những sự khổ-ấy, than ôi ! Rất thƣơng cho Chƣ Môn-Đồ chƣa

chịu dẹp đi cái-máy Luân-Hồi, cứ để chịu đi đầu-sanh mà đành

vong nguyên-thỉ chi căn-bổn !.

Tất cả Chúng-sanh, vì mê-luyến mộng-trần, mà đã đành vùi lấp

Linh-Chơn vào nơi nhơ-nhớp; lấy khổ làm vui, cứ nhớ chỗ Thai-

Bào, mà bỏ qua đƣờng Chánh-Nhiệm, lạc-cảnh xƣa kia của Anh-

Hồn.

Ôi ! thật biệt-kiếp lần về khổ, Bần-Tăng rất thậm thảm thay, cho

các trò đó ! Khổ dƣờng-ấy mà có mấy ai hồi hƣớng, nắm-mối tầm-

phăng, đoạn-căn khổ-sanh mà về. Than ôi ! Cứ cảnh mộng-trần là

đẹp, là xinh !! Ái-hà còn cổn-cổn dập-dồn lƣớt-qua ! Nếu các trò đã

chịu khổ, đặng mảnh thân Ngƣời rồi, không lo tu-thân luyện-kỷ, noi

đƣờng Bát-Chánh-Đạo mà tu-thân, hầu trở về cựu-vị, trả ơn Tứ-

Khổ, thì thƣợng mới báo Tứ-trùng-ân, rồi hạ mới tế Tam-Đồ-Chi-

Page 101: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

101

Khổ ! Còn chẳng tránh cảnh-khổ-nạn, thì rất uổng cho thân Tứ-Đại

vậy !

Để cứ tùy-theo tâm-dục trong biển-trần, a-hành ác-nghiệp, lại còn

lạc-lối và Bốn-đƣờng-khổ; này lại khổ hơn bội-phần !.

BỐN-ĐƢỜNG-KHỔ, là:

1. Noãn-Sanh, (Sanh vào trƣớc tƣợng trong trứng: sau mới nở ra

con).

2. Thấp-Sanh, (Sanh nơi ẩm-ƣớt),

3. Thai-Sanh, (Sanh và Thai-Bào của Mẹ),

4. Hóa-Sanh, (Sanh vào loại Côn-Trùng).

Gom lại mà nói: tất cả Chúng-Sanh chịu vào trong Bốn-loài này,

đều phải chịu chi-phối khổ-sát của loài ấy: là duyên khởi đầu-sanh !

Nếu đƣợc tấn-hóa, có chút-ít rồi, mới lần qua các loại to-lớn nữa.

Cứ ở trong Tam-Giái, sanh-diệt, diệt-sanh khắp cả các-loài, thì

ngày nào mới tỉnh-giấc Nam-Kha chi mộng-huyễn ?

Ôi! Tại sao đọa quá, quá vậy ?

A. Do sự ham-mến danh-sắc mà ra đến-đỗi !.

B. Tại còn mong vào cảnh-trí, dục-giái, mà ra đến-đỗi !.

C. Ƣớc-mơ ở cõi Vô-dục-giái mà ra đến-đỗi !.

Cứ ham muốn theo ba-cảnh-trí vậy hoài, là tâm Ta còn dục-

vọng !.

Vẫn chƣa đành dẹp máy-Luân-Hồi, làm sao phản-hƣờn về nơi Hƣ-

Không-cảnh-giái, là chốn Niết-Bàn đặng?

Chúng-Sanh ôi ! dầu Chúng-Sanh, thử vào Thai-Sanh, hoặc có

lục-căn đầy-đủ đi nữa; cùng thuộc loài Thấp-Sanh, Noãn-Sanh,

Hóa-Sanh, chẳng-hạn; đều còn phải chịu các-sự-khổ xác-hồn, đồng

sanh nhƣ nhau, không sao tƣởng-tƣợng đƣợc. Nhƣng vào loài Thai-

Sanh, có chịu đều thống-khổ hơn ba-loài vậy !

Vì nhơn-sanh hữu tánh-linh tri-giác, kiến-văn hơn các loài, thì

càng chịu thống-khổ chỗ thành-bại và báo-ứng oan-gia vậy!

Muốn đoạn Luân-Hồi, cần phải đoạn dứt lục-căn:

1. Tâm Quá-Khứ, Tam-Thế là: 12 Nghiệp.

2. Tâm Hiện-Tại: 12 Nghiệp.

3. Tâm Vị-Lai: 12 Nghiệp.

4. Tâm Vị-Lai, Lục-Trần, Tam-Thế, là: 36 Nghiệp về sắc-giái.

5. Tâm Hiện-Tại, Lục-Căn thì thông lục-trần: 16 Nghiệp, phải đều

cho bặt-dứt, về chỗ Vô-Sắc-Giái; cọng cả thảy là 108 duyên nghiệp,

do tâm tự-tạo. Mau dứt hết sự ham-muốn rồi đi, là cách dẹp Luân-

Hồi, còn chi nữa mà nói là “Luân-Hồi”?

Muốn trả xong nơi thế, phải chịu nạn Thủy, Hỏa, Phong. Ngắm

lại, loài Thai-Sanh: Từ lúc mới sanh, cứ tùy duyên-nghiệp mà đã

chịu 10 đều khổ-thống về khổ-sanh đã nói trên đó; cứ lăn qua lộn-

lại biết bao nhiêu lần ! Mà Than ôi ! cứ vẫn mê-muội làm thân ký-

sanh-trùng hoài không thôi !.

Bần-Đạo rất thảm cho Chúng-Sanh, sanh diệt do đó, duyên-nghiệp

đó, mà Bần-Đạo phải cạn chỉ tỏ-bàn, về lối đƣờng về cảnh-giái Hƣ-

Vô vậy !.

Ƣớc trông các-Trò còn nhớ, Tánh-Linh hỡi còn ! Ta ban Cam-Lộ

hƣờn-nguyên, phục-hồi !

NGÂM:

Giả trò ở lại Diêm-Phù,

Page 102: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

102

Thầy về Bửu-Quốc, rán tu con à.

Thầy nay: Đạo-Hiệu “THÍCH-CA”

Hết lời khuyên trẻ: ái-hà đừng nƣơng.

TỨ-KHỔ, trò chớ vấn-vƣơng.

DIỆU-ĐỀ phân rõ, tầm-đƣờng Đạo-Chơn.

Thảm-trò: lụy đổ nguồn cơn,

Phải lo cho vẹn Tứ-Ơn, thì về.

CỰC-LẠC, là cảnh, là quê …

Thăng.

_______

Nam-mô: Hƣ-Vô Bồ-Tát, Ma-ha-tát.

Nam-mô: Tam-Thế-Phật Đại-Bồ-Tát-Ma-ha-tát.

Nam-Mô: A-Di-Đà-Phật, vô-lƣợng, vô-biên, Thọ-Phật !

Chú: Án-na-Mồ, Dà-ni-lô-tả-nẳng, ma-ha mẫu-nại-ra, ma-hạ mẫu-

nại-ra, mô nỉ-bát-nạp-mô;

Nhập phạ-lã, phạ-lã: Mạc-da dã-hông !!!.

oOo

34. BÀI-DẠY TU-TỊNH VỀ NỮ-PHÁI

THI:

Vô cực sắc khai ngã tại tiền,

Thậm thâm vi diệu chủ căn duyên,

Âm dƣơng tự chuyển sanh Thiên-tƣợng,

Trọng-trƣợc, Pháp-Luân chuyển bổn-nguyên.

HỰU

Đại nhơn tánh-mạng bổn-nguyên hƣờn,

Hƣờn diệu song tu Đại-Đạo đơn,

Đơn hóa do hành, sanh hóa hóa,

Hóa qui tự Pháp, Pháp qui hƣờn.

THƢỢNG-TÔN mừng các con lƣỡng phái. Vậy các con khá đại

tịnh kiến giá, có DIÊU-CUNG lâm đàn, khuyên tu về nữ-phái.

THƢỢNG-TÔN ban điển lành cho các con hƣởng hứng.

THƢỢNG-TÔN thăng.

THI

DIÊU-động khai môn hóa tại Thiên,

TRÌ lai giáo huấn điểm Tam-Thiên,

KIM-quang nữ-liệt tri Tông-tổ,

MẪU chuyển tắc-cung đức Miếu huyền.

Mẹ mừng các con nam phái, nữ phái. Các con khá mật niệm đại

tịnh hầu nghe Mẹ ban-hành giáo-lý đây: Này các con nữ phái yêu-

quí của Mẹ ôi, đời là cát bụi, xác thịt trƣợc nhơ; các con phận liễu

yếu đào thơ, phài làm sao cho ra so sánh cùng các bạn trai, hầu tầm

nẻo siêu sanh, mà phản bổn về nơi Diêu-Động. Đã mấy ngàn năm

lẫn lộn chuyển kiếp, vì các con mê đắm nào bã lợi mùi danh phú

quí vinh hoa vật chất, lôi cuốn làm cho các con phải sa ngã và hố

thẩm hang sâu, mà các con chừng ngó ngoái lại, nhìn bảng Thiên-

bang căn xƣa vị cũ, mà tầm cho rõ thấu bảo mạng tồn thần, hầu Mẹ

con tái hiệp. Vậy các con nghe:

BÀI:

Các con phải lãnh truyền Mẫu mạng,

Thừa thiên-nguyên mà phản Diêu-cung,

Làm sao đáng mặt nữ-hùng,

Thiên-đài trổi gót, trùng phùng chị em. .1

Công thứ nhất, xét xem thời tiết,

Page 103: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

103

Giữ không-tâm mà diệt phàm-tâm,

Làm sao sánh với trăng-rằm,

Bụi nhơ tan rã êm đầm mát thân. .2

Đặng vậy mới phong-trần tránh khỏi,

Kềm chơn-tâm học-hỏi chơn-truyền,

Lóng nghe cho rõ huyền-huyền,

Nhứt công luyện kỷ đôi miền trấp-môn. .3

Huỳnh-đình tụng, vong tồn trối mặc,

Diệt trần-tâm, thủ đắc chơn-tâm,

Dục tu chánh-đại hoằng thâm,

Lục-căn, cửu-khiếu, rán tầm đừng lơi. .4

Thêm nhứt mạch thảnh-thơi vô-vệ,

Hữu khởi-hƣng tâm để hạ-huyền,

Mới sanh quí-lộ miên-miên,

Tồi thân mãi mãi, chơn-truyền mới xa ! .5

Các con muốn dung hòa đạo thể,

Thì khá tua nƣơng bệ giáo truyền,

Thanh-tâm hỏa-dục gát yên,

Tiêu-dao đạo-mạch, Cung-Tiên dựa kề. .6

Ở trần thế bụi nê chớ đắm,

Tợ phù-du sớm sắm chiều tàn,

Quây-quần tâm mãi nào an,

Rồi ra uổng kiếp lạc đàng Mẹ con. .7

Kìa con xem một hòn sa-mạc,

Lê-thê chìa ngơ-ngác hồn linh,

Mặc tình thế sự nhục vinh,

Cỏ khâu một đám ngoảnh nhìn có chi? .8

Chi cho bằng huyền-vi tập học,

Học cho thông, thông gốc cội nguồn,

Đạo Trời thanh tịnh qua truông,

Dắt-dìu em chị khỏi luồng sóng chung. .9

Đạo phải luyện trung-dung hạo-khí,

Dụng thiên-nhiên chủ-quỉ phàm-tâm,

Ép-thần chớ khá chờm xâm,

Lóng nghe cho rõ tiếng cầm tri-âm. .10

Đạo là do nơi tâm mới có,

Ngoài thân-tâm, là rọ mị-tà,

Phải lo sợ lũ cọp-già,

Rặp-rình sau trƣớc hằng-hà kế mƣu. .11

Bằng yếu vía thì đâu khỏi hắn?

Khuyên các trò cố-gắng nhớ hoài,

Động tâm quí-lộ xung khai,

Làm sao chƣởng đặng thánh-thai mà hòng! .12

Phận liễu-yếu cánh-bồng mày-hạc,

Vì cảnh đời tƣơng đạt đua tranh,

Cho nên phải chịu cam đành,

Xa quê vị cũ, nỡ đành lờ-lu ! .13

Nay gặp kỳ Cao-nhu Bắc-Khuyết,

Giáng thế-gian chỉ tiết độ hào,

Cho trò rõ lý tiêu-dao,

Nữ nhi luyện-huyết đoạn-hào tuyệt căn. .14

Lƣỡng trấp-ni song-bằng khởi-thủ,

Tại nhã-môn phải trú trung-huỳnh,

Đổi nhâm ra quí tồn-sinh,

Định thần diệt phách, Đạo đơn siêu hình. .15

Chất đất cát giữ gìn ngập bể,

Gom báu châu, lớn bé vừng hồng,

Chi chi: cũng ở nơi lòng,

Lo bồi âm-chất, chớ hòng thị-phi !. .16

Qui nhứt tâm, kết vi vạn-thiện,

Gìn không-tâm, chớ biến phàm-tâm,

Đạo là pháp nhiệm thậm-thâm,

Ngƣng-thần, tụ-huyết, thế-tầm lộ-chơn. .17

Duy-nhứt trọng: Linh-sơn nhứt tự,

Page 104: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

104

Luyện không-tâm, tƣ-lự diệt lần,

Bổn thân nhứt mạch phong trần,

Đoạn đƣờng chớ để dựa gần Ma-Vƣơng! .18

Thâu gậy-sắt, lấp đƣờng Linh-Tử,

Dƣng bể-đô, tƣ-tứ phong-ba,

Gió êm, lẳng lặng Huỳnh-Hà,

Qui hồi bạch-thủy, Điển-Xa chơn-truyền. .19

Rồi cũng cậy: Thiên-Huyền Bát-Bửu,

Hiệp Thần-minh, diệu-hữu Cao-Tiên,

Bền tâm gìn giữ đơn-điền,

Khắc-thời xem-sóc, mới yên Lục-Trần. .20

Vừng thanh-khí, Hoàng-ân bủa khắp,

Ngƣời khôn ngoan, thì hấp-thụ vào,

Sống hoài, chẳng chết, không đau,

Vàng-y khó sánh, Ngọc-bào cũng khinh. .21

Qui chơn-nhứt: quân-bình chi-khí,

Đổi quái trung: phản Bỉ vị Càn,

Về ngôi bái-yết Mẫu-Hoàng,

Vui mừng em-chị, thanh-nhàn muôn năm ! .22

Hành Đại-Đạo, tinh-thần ung-đúc,

Bƣớc hành-trình đôi bực tùy hành,

Lo bồi nơi chỗ tƣơng-sanh,

Lọc thanh, biện trƣợc, đắc thành Bửu-Quang. .23

Hậu-Thiên-tức qui an khí-tức,

Tiếp-Tiên-Thiên, chơn-tức nối giao,

Lƣỡng-huyền chơn-tức dồi-dào,

Thần-an, khí tựu, sơ hào ba trăm. .24

Đó là tịnh, diệt âm hóa khí,

Phép Hƣ-Vô, Ngọ Tý tƣơng-hòa,

Con ôi, khá thửa lời Già,

Đủ đầy hạo-khí, điển đa đắc thành, .25

Thƣơng con dại, Mẹ đành đau-khổ,

Bởi con mê, cải chỗ Mẹ truyền,

Con rằng: phép “khó” .. Thành Tiên !

Lời Già cạn nhắc, con hiền “ráng” nghe! .26

Con ôi tu phải dặt dè,

Chớ cho động tác, Mẹ e thất truyền.

Con ôi, con muốn thành Tiên,

Khá nghe Mẹ chỉ Chơn-Truyền đây con ! .27

Con ôi, con khá sắc son,

Mấy lời Mẹ dạy, bòn-hòn ruột gan !.

Khuyên con hòa-hiệp chung thoàn,

Lo tầm diệu-lý Đạo-vàng CHIẾU-THANH.

Vậy các con nữ-phái rán tầm triết lý của Mẹ ban truyền, hầu khởi

thủ phanh-luyện cho có chuẩn-thằng theo cơ siêu-việt tối-thƣợng

của Mẹ ban đây, mà lo trở về ngôi-xƣa vị-cũ cùng các bạn Tiên.

Nới Diêu-điện, Mẹ ngày đêm trông con nhƣ trẻ đã lạc đàng, chẳng

hiểu tầm phƣơng giải thoát, thì Mẹ hỏi các con biết bao chừ mới

khỏi kiếp sanh-lai tử-khứ đó a các con?

Mẹ thăng.

(Muốn tu phải tìm ngƣời cắt nghĩa cho rõ, chỉ chỗ thật hành, rồi làm

y theo, lâu ngày có ấn chứng).

oOo

35. BÁ NHỰT TRÚC-CƠ VÀ HÀM-

DƢỠNG.

______________ (Nguyệt-Thanh-Cung)

Page 105: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

105

(Tý-Thời, đêm 22, tháng 6, năm Kỷ-Sửu (1949))

THI:

Thủy hỏa cọng hiệp đắc trƣờng tồn,

Doãn khẩu tƣơng giao ý-vị ngôn,

Thổ phúc liên hoa vô dụng tận,

Thả hành thị sự kiến Huy-tôn.

Chiết tự: HỒNG-QUÂN ĐẠO-TỔ.

Đại-Tôn chào các trò đệ-tử lƣỡng phái. Đại-Tôn hoan hỉ; các tử-đệ

tọa thoàn, nghe Đại-Tôn dạy đây (về Bá-nhựt trúc-cơ và hàm-

dƣỡng)

THI:

ĐẠO-đời hai lẽ khác nhau xa,

CAO-Đại Chí-Tôn dụng chữ hòa.

ĐÀI huệ quang-minh thông Vũ-Trụ,

CHUYỂN xây Cơ-Pháp tránh trần-sa.

THẦN an định-tịnh thăng Thiên-cảnh,

TIÊN diệu linh-tâm hội Phật-Đà,

PHỤC thỉ hồi-đầu, vô tƣớng-pháp,

HƢỜN qui bát-nhứt hóa Liên-Hoa.

HỰU

Hồi-quang nội-chiếu, thấy huyền-thâm,

Thâm-diệu, diệu-thâm chẳng lạc lầm.

Tâm-tức tƣơng hòa, tâm hóa tức,

Tức-tâm, tâm-tức định NAM-CHÂM.

HỰU:

Bƣớc đầu: Tịnh-Tọa lắm gay-go,

Rán chí giồi trau, đáng phận trò,

Nhiều bữa, nhiều ngày, xem thấy lạ;

Tịnh đừng: Tịnh giả, ý còn lo.

Động-tâm khó nỗi thâu dƣơng-khí,

Tƣ-tƣởng xịu-xằng, phải phát Ho,

Ho rồi, Dƣơng xuất, Âm vào phế,

Khó nỗi thành Đơn, gắng chí mò !.

HỰU:

Thực mễ vô-căn, hóa khí đằng,

Dụng chi phàm-mễ, gọi là ăn?

Ăn hoài chẳng chết, nên là bổ,

Chánh-Khí Tiên-Thiên, tạng-phủ bằng.

THI-BÀI:

Tạng-phủ bằng, tỳ-teo mới dễ,

Tịnh tinh-thần, cải chế phách tan,

Đó là tính tịnh Thiên ban,

Trò ôi: Khá rõ, Khí hoàn Đạo-Tâm. .1

Có Đạo-Tâm, mới tầm Hạo-Khí,

Mất Đạo-Tâm, chánh-kỷ khó nhiều,

Nhơn-tâm: rất khó tán tiêu,

Vì chƣng vọng-Ý, tại nhiều mễ-căn !. .2

Về Mộc-Dục: áp Âm, Dƣơng tựu,

Là tồn-vô, diệu-hữu huân-chƣng,

Trúc-Cơ: Bá-Nhựt Dƣơng thuần,

Linh-căn Đại-Tịnh, Khí-Thần hƣ-vô! .3

Dụng Hậu-Thiên, hấp-hô Võ-Hỏa,

Thâu liễm vào Đạo-cả Chơn-Ngƣơn,

Bao-la: thân-nội cƣ hƣờn,

Thánh-thai tự kết, Chơn-Nhơn tâm thành !. .4

Có Chơn-Nhơn chứa sanh Diên-Hống,

Khí đủ đầy Dƣơng thống bảo-tồn,

Page 106: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

106

Tài-bồi xác thịt, thân ôn,

Nhẹ nhàng thân-thể, vong-tồn do tha. .5

Vô vọng-niệm, đó là chánh-nghĩa,

Khí Thần hầu, diệu-hữu dụng thâu,

Hƣ-Vô tịnh, dứt thúc câu,

Bá-Nhựt, Thái-Cực Linh-Châu đủ đầy. .6

Đãi Thái-Cực tự xây độ-số,

Tam-Bá Châu-Thiên độ hỏa-hầu,

Thánh-Thai qui tựu Linh-Châu,

Hiện tƣờng ấn chứng, Đạo-mầu khí mô. .7

Đây là phép: tồn-vô thủ hữu,

Mới kết thành: diệu hữu Thánh-Thai,

Khí-Thần tƣơng hựu hiệp-hoài,

Tƣơng-quan, tƣơng ứng, giồi mài Ý-chơn. .8

Chơn-Ý định điều ơn giả-ý,

Vọng-tình đều phải hủy diệt căn,

Đại-định, Chơn-Ý phi đằng,

Lấy ai chủ-sử, bảo hằng trợ tâm? .9

Thì hơ-hỏng, cờ cầm thoàn định,

Uổng công-phanh, chƣa chính định-tâm,

Học theo: Hành-Giả huyền-thâm,

Ngộ-Không ắt gặp Chơn-Tâm Đạo-huyền. .10

Về thập-ngoạt, tam-niên nhũ bộ,

Hàm-dƣỡng-thai, đổi-số trập-tàng,

Chơn-thần, huyền pháp bảo-an;

Khí-thai đã kết, còn sang Chơn-Thần. .11

Dụng Võ-Hỏa, huân-chƣng Mộc-Dục,

Cho Thần xung ấm-áp thêm xinh,

Lực-lƣợng: sanh điển Đạo-Huỳnh,

Thần-Quang mãnh-lực, lộ hình lạ thay ! .12

Thêm ánh-sáng, là hoài diệu-hữu,

Là Ngũ-sanh, Mồ-Thổ hiệp thành,

Kỷ-Thổ: nhị-ngũ tá danh,

Đao-Khuê hiệp-nhứt, Thập-Thành phối giao. .13

Về dụng-thể, ngoài hào gom-góp,

Là Vô-Vi, thanh-pháp biểu-dƣơng,

Đem vào Chủ-sử dẫn đƣờng,

Siêu-hình Thƣợng-Học, tinh tƣờng lớp-lang. .14

Mà thanh-tịnh, tầm phang khẩu-khuyết,

Khỏi sai lầm, mài-miệt công-phu.

Chơn-Ngôn: chỉ rõ Trò tu,

Vạn-duyên đốn-tuyệt, tạc thù nội-công! .15

Đây là: dụng huyền-công bí-khuyết,

Rõ can-chi, thời-tiết, độ-hào,

Ấn chứng biến hóa ra sao,

Hành trụ, tọa, ngọa, phòng vào đơn-sai .16

Nếu đơn-sai phải hoài uổng phí,

Tâm-động sanh, là hủy Đạo-Chơn,

Pháp, tài, lữ, địa: trọng ơn.

Toàn bằng nội-ngoại, lƣỡng tƣơng hộ phò. .17

Khi đắc pháp: thì trò ấn chứng,

Huỳnh-Quang xuất, lộ ứng điển-thâm,

Ân-đƣờng xung thấu Đạo-Tâm,

Mùi-cung chiếu-diệu, là mầm luyện-phanh! .18

Thƣợng-Tôn tiếp: Nhựt-sanh, Nguyệt-chuyển,

Sơ Tam, là Hào-cửu khắc sanh,

Sơ-cửu, tại Tý, thập, thành,

Can-Long, thập-nhứt-ngoạt, sanh; khởi hành. .19

Tại Huyền-công, Đạo danh: “Bá-Nhựt

Trúc-Cơ”, hành, dƣỡng-dục linh-căn.

Khởi sự: tập-quán chuẩn-thằng,

HƢ-VÔ-Đại-Định, liễm hằng khí-ngƣơn. .20

Vận nội-công, Chơn-Nhơn sẽ đắc,

Tại Hà-Đồ, qui-tắc sanh Dƣơng

Page 107: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

107

Vi-sơ: pháy pháy, hiện tƣờng,

Âm-cực bất-mãn, sanh-dƣơng dẫn đƣờng! .21

Bắt đầu khởi: Nhứt-Dƣơng Sơ-động,

Do âm-tịnh, mới phóng Dƣơng-sanh,

Nho-Gia: “Phƣơng-Thảo-Quí” hành,

Lạc-thơ: “Phục-Đoạn”; Cao-danh: “Hà-Đồ”, .22

Địa-lôi-phục, phục tô linh-chƣởng,

Đoạn lục-âm, động biến tối cao,

Nhứt-Dƣơng sơ-sanh: độ hào,

Bát-cung cửu-nhị, Sửu đào: Kiến-Long. .23

Thể qui dƣợc-hồ: công “huyền-võ”,

Đem thuốc vào lò: rọ “huyền-quang”,

Vận-khí, cƣ-trụ an-nhàn,

Luyện-đơn nấu thuốc, lập đàng Khí-Thai. .24

Tại Hà-Đồ, Thủy-khai sanh Mộc,

Thận hóa Can, lừa-lọc Đạo-Tâm,

Thủy khắc Hỏa, Thận khắc Tâm,

Tịch-dƣơng, thập-ngũ, cửu-tam, Tỵ thời. .25

Càn hãm Khôn, chiều mơi, tấn bộ,

Là Tam-Dƣơng vi-số Thƣợng-Huyền,

Đó là đúng lƣợng Hống-Diên,

Tam-thiên độ-số Châu-thiên Cực-đồ. .26

Xuất Bạch-Quang, hữu-vô diệu dụng,

Sang Huỳnh-Hà, cho trúng Côn-Lôn,

Hậu-bối, Đốc-Mạch điều ôn,

Huỳnh-Đình phục-thực, nuốt Đơn Trùng lầu. .27

Tại Hà-Đồ, lý mầu sanh dƣỡng,

Thổ sanh Kim, trƣng-tƣợng tiên-cơ,

Mộc khắc Thổ, tại Lạc-Thơ,

Ngọ ngoạt, thập-bát, cửu-tƣ, Hạ-Huyền. .28

Nơi Huyền-công, Đào viên phanh luyện,

Tại Hà-Đồ, Hỏa biến Thổ sanh,

Tâm thông Dƣơng, Tý qui hành,

Lạc-Thơ Kim khắc Mộc danh Phế-Đoài. .29

Phế diệt Can, Cao-Đài Tân-Pháp,

Nhị-thập-tam, cửu-bát, Phi-Long,

Âm trung Dƣơng, tại Huyền-Công,

Hà-Đồ biến thƣớc, Kiến-Long tại Điền. .30

Thổ sanh Kim, Tỳ yên bổ Phế,

Thổ khắc Thổ, cải chế Lạc-Thơ,

Tỳ khắc Vị, Đoạn hồi Sơ,

Tam-thập, Thƣợng-Cửu, là nhờ Can-Long. .31

Thập-ngoạt, Hợi, Chủ-Ông là đó,

Tý tuyết-mãn, tại Ngọ Huyền-Công,

Khôn tùy Càn, tiên thủ không,

Dƣơng sanh Âm cực, Huyền Công mà hành. .32

Tinh hóa Khí, mà phanh thể luyện,

Khí hóa Thần, mà chuyển CAO-MINH,

Thủy sanh Kim, Thận hóa Tinh,

Lạc-Thơ chuyển biến, Hỏa-Tình khắc Kim. .33

Thận khắc Tâm, âm-tinh tận tuyệt,

Dƣơng Hàn hãm, âm-huyết tán tiêu,

Tƣơng sanh, tƣơng khắc qui điều,

Nội-Công Đại-Đạo, phục-triều Linh-Nguyên .34

Đây Y-Bát Chơn-Truyền thoàn-huệ,

Là Thủy-Hỏa ký-tế Cao ban,

Kim-Mộc hiệp nhứt: huy-hoàng,

Thủy mà khắc Hỏa, rọi đàng phanh-tu. .35

Đó là PHẬT-TÔN dạy về bá-nhựt trúc-cơ, thập-ngoạt

hoài-thai và tam-niên nhũ-bộ, khá rán lập-tâm mà kiếm

hiểu.

Page 108: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

108

THI:

Trƣờng-sanh trò hiểu sẽ gần Thiên,

Tịnh-tọa hằng ngày gặp Thánh-Tiên,

Đốt lửa xông trầm lò ấm áp,

Đem về nấu thuốc giữa đơn-điền.

Bao nhiêu tục-lụy đều tiêu-tán,

Chẳng chuộng phong-trần của nghiệp-duyên.

Lập-đảnh cho xong ngồi quán-tƣởng,

An-lƣ sung sƣớng nếm mùi-thiền.

HỰU:

Mùi-thiền tâm-niệm tốn nhiều công,

Lƣng-thẳng, đầu nghiêng, lòng hỡi lòng.

Nhắm mắt soi vào nơi yển-nguyệt,

Vần-lân hô-hấp trợ tàn-đồng.

Lƣỡi hơi cong ngƣợc ngăn cam-lộ

Đặt diện cho ngay ấn ở trong.

Chạy đến hai kiều: thƣợng hạ thƣớc,

Đem về chỗ cũ khà nằm không.

HỰU:

Nằm không xuân, hạ đến đông, thu,

Chơn bƣớc tay khua lƣớt hóa cù.

Phải định, phải rành, hồn mới thoát,

Phải siêng, phải học, phải công-phu.

Phải nghe lời dạy, đừng gieo đảng,

Yểu-tử thác oan, hết dựa mù.

Bí-khuyết ban-truyền, đời khá-chuộng,

Chơn-ngôn diệu-lý, rán tầm tu.

oOo

36. HỒNG-DANH ĐIỂM-NHUẬN (Nguyệt-Thanh-Cung: đêm 14, tháng 7 năm Kỷ-Sửu

1949)

THI:

HỒNG-quang chiếu-diệu cảnh thu minh,

QUÂN-đạo côn-khai lý Đạo-huỳnh,

ĐẠO-chánh danh lƣu truyền Thánh-Sử,

TỔ-tông ân-huệ thƣợng siêu-hình.

Thƣợng-Tôn chào mừng các-trò lƣỡng-phái ! Thƣợng-Tôn miễn-

lễ, các trò lƣỡng-phái khá đại-tịnh, hầu nghe Thƣợng-Tôn phân

đây:

Giờ rày, là ngày Thất ngoạt (hậu), Thập-tứ-nhựt, ví cũng nhƣ Bát-

ngoạt (Trung-Thu), lấy lý chữ “NGUYỆT-THANH-CUNG” mà

khai-sáng quyển “TAM-HOÀNG-KINH” tích sử!. Vậy thì phán-sự

các-trò phải làm cho chóng, cho kịp ngày ân-tống trong Tam-Nhựt

nghe !.

Nay Thƣợng-Tôn giao phận-sự cho SANH, VĨNH, TẤN, ĐẮC,

THANH, khá hòa huynh-đệ, mà lập lại cho chóng thành, cho

Thƣợng-Tôn sẽ dƣợt lại nghe! SANH, trò lấy thứ-tự “HIỆP-

THIÊN-ĐÀI-VÔ-VI” mà đề tựa theo pháp-danh, cùng các-trò có

phận-sự đã quá nhọc, với “TAM-HOÀNG-KINH” tích-sử, khá đem

vào, danh pháp Đạo-hiệu cho có trật-tự.

a) Cùng trò vẽ tựa-bìa, cho có mỹ-thuật trang-hoàn nghe !.

b) Lấy hai câu liễn cùng bài “Vô-Cực Chí-Tôn” để đem vào

bìa kinh.

Page 109: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

109

Vậy nghe Thƣợng-Tôn điểm danh phận sự đây:

BÀI: (Hồng-danh: kỷ niệm TAM-HOÀNG-KINH)

ĐẠI-NAM-QUỐC, Tiểu-Bang hữu-hạnh,

Đạo-tam-Kỳ, Bảng-Thánh danh bia,

Hoàng-ân: Phổ-Độ ánh tia,

Hóa-nhơn cứu-vật, trở về Hƣ-Không. .1

Chung-tâm kết một lòng tịnh-niệm,

SANH, hòa-bình, đốn tiệm chơn-tu,

Lƣu lai hậu thế hiền nhu,

Sử-Đạo tạc-để ngàn-thu Cao-Đài ! .2

Tam-cảnh-thông, Tam-Tài qui nhứt,

Hoàng lịnh phê, đại-đức lãnh truyền,

Tại Đê-ngạn SANH hữu-duyên,

Nguyệt-minh chiếu-diệu, VĨNH yên tu-hành. .3

Thanh-huệ tử, đức danh HY hữu,

Cung-điện-tân, NUÔI, chủ, BẠCH-LAN,

Điểm công, CHỨC tạo TAM-HOÀNG,

Danh TƢƠNG kinh nội, TẤN thoàn hình-siêu .4

Chƣ-Thiên dạy: Sớm chiều TÂM-TỨC,

SĨ cần trao, LỊNH TỨC, tuân-làm,

Công-phu, công-quả Ngũ-Tam,

Phu-hòa, phụ-trọng, hiểu am Đạo-Huỳnh. .5

Chung LỢI-Ích, THỌ kinh thần-hóa,

THANH, ĐẮC, THƠ, NGỌ giả NGHĨA hoan,

Bố-ban, ân đức TAM-HOÀNG,

Đạo-gia: NGỌC-SỬ, Khôn-Càn đối cung .6

SANH; lãnh-lịnh, “Thanh-Long-Bửu-Tịnh”

Đến “KỲ-SƠN”, thừa lịnh, khai kinh,

TAM-HOÀNG-KINH đẹp hữu-hình,

Đến nơi Vô-Cực, tánh linh phi-đằng. .7

Đến Núi-Bà, cảnh bằng Thanh-khiết,

Vừa khai-đàn gặp tiết xuân sang,

Trở về: “Nhƣ-ý-Linh-Đàn”,

Sang qua đủ chỗ, kế hoàn “Nguyệt-Thanh”. .8

Lại Định-Tƣờng: Bến-tranh, Thanh-Tịnh,

Qua Phủ-Thờ tiếp lịnh Thanh-Phong,

Thanh-Liên: HUỆ cũng hết lòng,

Thanh-Quang đề liễn chƣa xong Bửu-Đàn. .9

Cơ phổ-hóa, gian nan nhiều nỗi,

Nhƣng các trò: cũng trổi giọng đờn,

Đều ban: Tâm-lý thiên-chơn,

Phanh-tu-thể-luyện, Chơn-Nhơn chứng-thành. .10

Nhờ điển huệ Tam-Thanh chứng-giám,

Cùng Phật-Tiên bảo đảm hành-trình,

Nay đây: mới trọn HOÀNG-KINH,

Lƣu-lai thất-ức; Nhựt-minh, Nguyệt-lòa. .11

Đồng kỉnh-chúc: thinh ca Đại-Đạo,

Ứng hồ-Thiên: Con-thảo, Cha-hiền,

Một lòng: tu-tịnh Tiên-Thiên,

TAM-HOÀNG kinh-nội, Chơn-Truyền dạy trong. .12

Biết khắp cả: trong vòng Trời-Đất,

Cùng thân-Ngƣời, cao-chất ngất-cao,

Thẳng-bằng, đại-địa, thủy-trào,

Cùng là vạn-vật, điển-vào bố-ban. .13

Phong, Lôi, Võ, Hải, San, Hà, Tĩnh,

Nhựt, Nguyệt, Tinh, Thoại-tú, Tinh-tà,

Hƣờn-nguyên, thống-nhứt chỉ ra,

Luân-hành vận-chuyển bao-la khí-thuần. .14

Muôn năm mới ân-hồng lƣu-sử,

Tiếng Cao-Đài, Châu-Tử thừa-hành,

Chấm-công: Đạo-Đức Thanh-Sanh,

Page 110: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

110

Chung tâm hòa-phái, kết thành luật-tu. .15

Để lời nhắn: hiền-nhu quân-tử,

Bảy-hai-Cung, đủ chữ danh đề,

Ngũ-Minh, Đạo-Giáo hội-tề,

Cũng do là: Tịnh, trở về HƢ-VÔ. .16

TAM-HOÀNG Kinh báu trƣơng phô,

HUỲNH-QUANG-SẮC, hiệu: “HƢ-VÔ-CAO-ĐÀI”.

__________________________________________

HỒNG-DANH

Quí-Vị Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi thừa sắc-lịnh tạo thành TAM-

HOÀNG-KINH.

Khai đàn tại Ngũ-Phụng-Kỳ-Sơn ngày Rằm tháng Giêng năm

Canh Thìn (1941), dĩ chí các Thánh-Tịnh và Đàn-tƣ, hoàn-toàn tại

Nguyệt-Thanh-Cung (Chợ-Lớn), và lập thành THIÊN-KINH, là

ngày Rằm tháng-tám năm Kỷ-Sửu (1949), Tý thời Trung Thu.

Danh-phẩm quí-vị, thứ-tự nhƣ là:

a) Quí-Vị Hiệp-Thiên-Đài tiếp điển, điển ký và hộ đàn:

- Chƣởng-Pháp-Vô-Vi, đạo-hiệu: “Linh-Châu-Tử”, Chung-Tâm-

Hòa-Phái, Pháp-Đàn, Tiên-Đàn Đại-Đồng.

- Thanh-Huệ-Tử, (M. Đức) Đồng-Loan, Chợ-Lớn.

- Tuế-Tinh-Tử, (M. Thành), Nhƣ-Ý-Linh-Đàn, Lái-Thiêu.

- Hỏa-Dƣơng-Chơn-Tinh. (M. Trầm), Bình-Nhậm.

- Thanh-Huê, (M. Noi) Đồng-Loan, Thanh-Long-Đàn.

- Bạch-Vân (M. Diên) Đồng-Tử, Thanh-Long-Đàn, Rạch-Kiến.

- Bạch-Vân (M. Tƣơng), Đồng-Loan, Phủ-Minh-Đƣờng (Tân An).

Điển-Ký: Thiên-Hà-Tinh; và M. Phổ (Rạch-Kiến); M.Lịnh (Biên-

Hòa); M. Thọ, Phủ-Thờ (Tân-An).

Họ-Đạo: M. Huỳnh-Đình (Gia-Định).

b) Quí-Vị Thiên-Tinh hiệp tác lập-thành THIÊN-KINH:

- Thiên-Đức-Tinh, Liên-Hòa-Đàn, Sài-Gòn.

- Thiên-Phù-Tinh, Nam-Thành Thánh-Thất Sài-Gòn.

- Thiên-Huyền-Tinh, Chiếu-Thanh-Quang, Sài-Gòn.

- Thiên-Hớn-Tinh, Chung-Tâm-Hòa-Phái, Bình-Đông, Chợ-Lớn,

- Thiên-La-Tinh, Ngọc-Minh-Đài Vĩnh-Hội, Sài-Gòn.

- Thiên-Phò-Tinh, Thanh-Phong-Đàn, Tân-An.

- Thiên-Bảo-Tinh, Thanh-Phong-Đàn, Tân-An.

- Thiên-Mạng, Văn-Khúc-Tinh, Thanh-Tịnh-Đàn, Bến-Tranh.

- Thiên-Lộc-Tinh, Lƣ-Bồng Đạo-Đức, Chợ-Lớn.

- Thƣợng-minh-Tinh, Oai-Linh-Đàn, Chợ-Lớn.

- Huỳnh-Long-Tinh, Phủ-Minh-Đƣờng, Tân-An.

- Bạch-Lan-Tiên, Nguyệt-Thanh-Cung, Chợ-Lớn.

Đồng hiệp tác, có: 12 vị Thiên-Tinh và Ban Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi,

tạo-thành “TAM-HOÀNG-KINH”, Chung-Kiết, về Đại-Đạo Hƣ-

Vô, Tiên-Thiên Siêu-Hình Thƣợng-Học.

THI:

CAO-Đài chung kết tại TAM-HOÀNG,

ĐẠI-Đức ân-phê điển Đạo-tràng.

CHÍ diệu, chí chơn, sanh Hóa-Tạo,

TÔN truyền, tôn sử, hữu Huỳnh-Quang.

TAM-Giáo chỉ-nam thông Võ-Trụ,

HOÀNG-phê luật định lý Khôn-Càn.

KINH-thiên thống nhứt qui-nguyên lập,

THIÊN, Địa, Nhơn tu thƣợng cảnh nhàn.

Page 111: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

111

Lƣ-Bồng Đạo-Đức

Ngày 18, tháng 7, Năm Kỷ-Sửu (1949).

CHUNG

oOo

MỤC-LỤC: I. Phần thứ nhứt

Thứ-Tự Trang

1. Tiên-Thiên Thánh-Luận

2. Thánh-Tựa phân-minh.

3. Nhơn-Vƣơng xuất thế.

4. Nhơn-Thân thế-hệ.

5. Thế-hệ Nhơn-hình.

6. Nhơn đối Hình-Thiên.

7. Ngũ-Hành Bát-Quái.

8. Bát-Quái Tiên-Thiên.

9. Bát-Quái Hậu-Thiên.

10. Thai-nhi nhập-thế.

11. Tổng-luận Bổn-Nguyên con-ngƣời.

12. Hƣ-Không lƣợc-điển.

13. Sự Hàn-Nhiệt, Thoại-Tú, Tà-Tinh

14. Thiên-Hoàng Tích-Sử.

15. Địa-Hoàng Tích-Sử.

16. Nhơn-Hoàng Tích-Sử.

17. Ngũ-Long-Thị chí Nghiêu-Thuấn.

18. Phong-Thần-đại chí đƣơng kim.

19. Đạo-Mạch Phát-nguyên.

20. 12 chi Đại-Đạo Cao Đài.

21. Vô-Vi Chơn-Cơ Phổ-Hóa.

II. Phần thứ nhì.

22. Tam-Giáo chứng kinh Tam-Hoàng.

23. Vô-Thỉ chí Chung-Mạt.

24. Tổng-luận Thiên-khai Đại-Đạo tại Nam-Bang.

25. Thỉ-Khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

26. Khuyến thiện Tịnh-tu.

27. Vô-Vi Thánh-Tòa.

28. Tịnh-Tràng, Tam-Thiên lục-bá Bàn-môn.

Page 112: CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO - tamduyen.com · Nhờ lấy Ân-hồng phóng điển quang cứu thế độ hồn, phóng quang ban truyền linh điển nhuận,

CAO-ĐÀI TAM-HOÀNG-THIÊN-KINH ĐẠI-ĐẠO

112

29. Phán-đoán Đại-Đồng.

30. Tổng qui Thiên Cơ.