1 Tiểu luận: Cái NGỘ trong Thiền Phật giáo Đây chỉ là bài tiểu luận của một thiền sinh sơ cơ, mới học Thiền được 4 năm. Tuy nhiên, nói 4 năm là nói cho có, thật ra thời gian thật sự dụng công chỉ trong 3 mùa Hạ nhập thất, mỗi mùa 3 tháng, dụng công theo giờ giấc qui định của thiền môn. Thành ra bài này chỉ là vài nhận định đơn sơ, tương đối, chớ không có tính cách sưu khảo. Nói về Thiền đã là khó, từ trước đến nay, Thiền là một cái gì bí hiểm, xa vời ngoài tầm hiểu biết suy luận của một người bình thường. Hôm nay tôi lại cả gan nói về cái NGỘ trong Thiền, là một chủ đề bí hiểm trong cái bí hiểm của Thiền. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng tất cả mọi sự vật, hiện tượng trước mắt ta đều phơi bày dưới ánh nắng mặt trời, nhưng mỗi người nhìn thấy hiện tượng thế gian theo mỗi cách khác nhau. Có người vẫn còn thấy tối tăm mờ mịt, có người thấy rõ ràng, có người thấy theo định kiến, có người thấy như thật, người lại thấy qua giáo điều. Ở đây, là cái thấy của một thiền sinh sơ cơ. Hôm nay, tôi thử vén một chút bức màn huyền bí âm u của Thiền. Thật ra, thiền rất đơn giản trong sáng, đơn giản đến độ không ngờ. Nếu ta thấy nó bí hiểm là do ta khoác cho nó cái màn bí hiểm. Tôi đọc đâu đó không nhớ rõ, câu hỏi Phật có nói mật ngữ hay không ? Câu trả lời là nếu hiểu rồi thì Phật không có mật ngữ, nếu chưa hiểu thì có mật ngữ. Và cái mật ngữ thứ nhất là Thiền thì tôi xin bỏ qua vì nó không phải là chủ đề của bài này. Thuật ngữ THIỀN, chúng ta đã học rồi trong bài học đầu tiên của lớp 1, cho nên hôm nay tôi không nhắc lại. Về mật ngữ NGỘ, khi chúng ta hiểu rõ đàng sau thuật ngữ NGỘ là cái gì, ta sẽ không còn thấy nó mơ hồ và bí hiểm nữa. Trước nhất ta cần hiểu rõ ý nghĩa của thuật ngữ NGỘ trong thiền. NGỘ: Pāli: Sacchikaraṇa Skt: Sakshitkāraṇa Anh: realization, enlightenment; Nhật: satori. Đó là sự nhận ra được một điều gì mới lạ, tức khắc, rõ ràng, chính xác, thông suốt. Nói rõ hơn, đây là Tánh giác kiến giải cái Không Biết hay cái chưa biết. Trong tiến trình kiến giải này không có mặt tự ngã, tức là không có sự hoạt động của ý thức, trí năng hay suy nghĩ. Tức là khi ấy, chỉ có sự thầm nhận biết qua ánh sáng lóe lên của trí tuệ tâm linh mà không có sự diễn tả của ngôn ngữ, dù chỉ là lời nói thầm trong não. Tuy tánh giác là cái biết bẩm sinh của mỗi người, nhưng vì thường xuyên chúng ta đã huân tập cái biết của ý thức, của suy nghĩ và của trí năng, nên luôn luôn ta sống trong suy nghĩ tính toán, phân biệt so sánh, đối đãi hai bên, ta thích biện luận, tranh luận, từ đó mới sanh ra đủ thứ ưa ghét, vui buồn, đủ thứ xung đột nội tâm, làm cho tâm ta không còn là một cõi tĩnh lặng, bình an, nhẹ nhàng, trong sáng
18
Embed
Cái NGỘ trong Thiền Phật giáo · PDF file1 Tiểu luận: Cái NGỘ trong Thiền Phật giáo Đây chỉ là bài tiểu luận của một...
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
Tiểu luận:
Cái NGỘ
trong Thiền Phật giáo
Đây chỉ là bài tiểu luận của một thiền sinh sơ cơ, mới học Thiền được 4 năm. Tuy nhiên, nói 4 năm là
nói cho có, thật ra thời gian thật sự dụng công chỉ trong 3 mùa Hạ nhập thất, mỗi mùa 3 tháng, dụng
công theo giờ giấc qui định của thiền môn. Thành ra bài này chỉ là vài nhận định đơn sơ, tương đối,
chớ không có tính cách sưu khảo.
Nói về Thiền đã là khó, từ trước đến nay, Thiền là một cái gì bí hiểm, xa vời ngoài tầm hiểu biết suy
luận của một người bình thường. Hôm nay tôi lại cả gan nói về cái NGỘ trong Thiền, là một chủ đề
bí hiểm trong cái bí hiểm của Thiền. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng tất cả mọi sự vật, hiện tượng trước mắt
ta đều phơi bày dưới ánh nắng mặt trời, nhưng mỗi người nhìn thấy hiện tượng thế gian theo mỗi
cách khác nhau. Có người vẫn còn thấy tối tăm mờ mịt, có người thấy rõ ràng, có người thấy theo
định kiến, có người thấy như thật, người lại thấy qua giáo điều. Ở đây, là cái thấy của một thiền sinh
sơ cơ. Hôm nay, tôi thử vén một chút bức màn huyền bí âm u của Thiền. Thật ra, thiền rất đơn giản
trong sáng, đơn giản đến độ không ngờ. Nếu ta thấy nó bí hiểm là do ta khoác cho nó cái màn bí
hiểm. Tôi đọc đâu đó không nhớ rõ, câu hỏi Phật có nói mật ngữ hay không ? Câu trả lời là nếu hiểu
rồi thì Phật không có mật ngữ, nếu chưa hiểu thì có mật ngữ.
Và cái mật ngữ thứ nhất là Thiền thì tôi xin bỏ qua vì nó không phải là chủ đề của bài này. Thuật ngữ
THIỀN, chúng ta đã học rồi trong bài học đầu tiên của lớp 1, cho nên hôm nay tôi không nhắc lại.
Về mật ngữ NGỘ, khi chúng ta hiểu rõ đàng sau thuật ngữ NGỘ là cái gì, ta sẽ không còn thấy nó mơ
hồ và bí hiểm nữa.
Trước nhất ta cần hiểu rõ ý nghĩa của thuật ngữ NGỘ trong thiền.
NGỘ: Pāli: Sacchikaraṇa Skt: Sakshitkāraṇa Anh: realization, enlightenment; Nhật: satori. Đó là sự
nhận ra được một điều gì mới lạ, tức khắc, rõ ràng, chính xác, thông suốt. Nói rõ hơn, đây là Tánh
giác kiến giải cái Không Biết hay cái chưa biết. Trong tiến trình kiến giải này không có mặt tự ngã,
tức là không có sự hoạt động của ý thức, trí năng hay suy nghĩ. Tức là khi ấy, chỉ có sự thầm nhận
biết qua ánh sáng lóe lên của trí tuệ tâm linh mà không có sự diễn tả của ngôn ngữ, dù chỉ là lời nói
thầm trong não.
Tuy tánh giác là cái biết bẩm sinh của mỗi người, nhưng vì thường xuyên chúng ta đã huân tập cái
biết của ý thức, của suy nghĩ và của trí năng, nên luôn luôn ta sống trong suy nghĩ tính toán, phân biệt
so sánh, đối đãi hai bên, ta thích biện luận, tranh luận, từ đó mới sanh ra đủ thứ ưa ghét, vui buồn, đủ
thứ xung đột nội tâm, làm cho tâm ta không còn là một cõi tĩnh lặng, bình an, nhẹ nhàng, trong sáng
2
nữa mà trở thành một bãi chiến trường, của những bất hài hòa, của những xung đột nội tâm, của đau
khổ ưu phiền.
Trong trạng thái tâm như vậy, làm sao chúng ta có thể nhìn thấy những vấn đề bình thường của cuộc
sống mình một cách hợp tình hợp lý được, làm sao ta có thể giải quyết thỏa đáng những tranh chấp
nội tâm và những tranh chấp với hoàn cảnh môi trường bên ngoài ? Đó là ta mới nói đến tri kiến thế
gian thôi. Còn nói gì đến trí tuệ tâm linh, nó chỉ là một viên ngọc quý còn nằm im ẩn sâu bên trong
tảng đá, có cũng như không.
Như ta đã biết, Ngộ là do Tánh Giác đóng vai trò. Trong phạm vi bài này, tôi không khai thác kỹ đặc
tính, chức năng và tác dụng của Tánh Giác, cũng như những phương thức dụng công để đạt Tánh
Giác. Đây là những chủ đề của lớp 1, chúng ta đều đã nắm được rồi. Tôi chỉ lướt qua những khi cần
nói đến trong chủ đề NGỘ mà thôi.
Tánh Giác là cái Biết không lời, rõ ràng, không gián đoạn. Nói không gián đoạn là nói trên mặt thể
tánh của nó, còn thực tế thì quả thật “Khó, khó, khó, ba tạ dầu mè trên cây vuốt.” Ai đã từng ngày
đêm công phu mới thấm thía câu nói này của ông Bàng Long Uẩn. Leo lên cây có thoa ba tạ dầu mè,
trèo lên tuột xuống, có lẽ còn dễ hơn là “dứt tầm, dứt tứ.”
Chức năng của tánh giác là kiến giải tất cả những dữ kiện truyền đến nó, nói nôm na ra là nó cho ta
cái nhận biết rõ ràng về những dữ kiện đó mà trong não không có lời kèm theo, tức là trong khi tánh
giác có mặt thì tâm hành và ngôn hành vắng mặt. Khi ý thức, trí năng, ý căn kiến giải các dữ kiện thì
tánh giác ẩn mặt, không đưa ra kiến giải được. Bởi vì trong não ta, hay nói theo truyền thống, trong
tâm ta, luôn luôn có một cái biết. Tôi nói một cái biết, có nghĩa là trong một lúc, ta không thể có hai
cái biết. Biết ở đây tôi muốn nói là Niệm (P: sati; Skt: smṛti). Biết hay Niệm, xuất phát từ hai nguồn:
1. Từ vọng tâm, hay từ ý căn, ý thức, trí năng, ví dụ: ý nghĩ, tư tưởng (thought), sự hồi tưởng
(remembrance), sự nhớ (memory), sự ngẫm nghĩ (reflection), sự suy nghĩ (thinking), sự chú ý
(attention), sự chú tâm (mindfulness), sự chăm chú (attentiveness), sự cảnh giác (alertness), sự
tự ý thức (self-consciousness).
2. Từ chân tâm, tức tánh giác, ví dụ: tính sáng suốt của tâm (lucidity of mind), sự nhận biết
(awareness), sự tự biết (self-awareness).
Thí dụ khi nói “Một niệm không sanh, đạt niết bàn”, ta có thể giải hai cách: nói đến niệm từ vọng
tâm thì câu này có nghĩa: khi tâm không có một vọng tưởng nào khởi lên thì đó là trạng thái Niết
Bàn; hoặc là nói đến niệm từ tánh giác, hay niệm vô sanh, thì chính đó là trạng thái Niết Bàn..
Khi nói “Niệm chân như,” hay “Chánh niệm tỉnh giác,” là nói đến niệm Biết không lời của tánh giác.
Hễ niệm thứ nhứt chấm dứt thì niệm thứ hai mới khởi lên. Không bao giờ có hai niệm cùng một lúc.
Trên đây tôi vừa lướt qua về đặc điểm của tánh giác. Bây giờ tôi có thể đi lần vào Ngộ.
NGỘ là chức năng thứ hai của Tánh Giác. Theo các nhà não học và tâm lý học hiện đại thì trong bộ
não của con người có một cơ chế đặc biệt nằm ở phía sau bán cầu não trái thuộc võ não, có chức năng
3
Kiến Giải Tổng Quát, họ đặt tên là General Interpretative Area, đồng thời nó cũng là Vùng Giác Tri
Tâm Linh (Spiritual Knowledge Area) hay Vùng Ngộ (Gnostic Area). Tức là dù khoa học của con
người có những khả năng hạn chế của tri kiến thế gian, nhưng khoa học cũng đã nhìn thấy được
“tâm” con người bằng những thực nghiệm và kỹ thuật thực tiễn. Họ chỉ mới nhìn thấy chớ chưa biết
dụng công để đạt được trí tuệ tâm linh.
Như vậy Ngộ là sự kiến giải của tánh giác bật ra, tức khắc, rõ ràng, chính xác. Sự kiến giải này là để
giải đáp cho những nghi vấn chất chứa trong ký ức, mà trí năng và suy nghĩ không thể giải đáp được,
và bị bế tắc. Nói nôm na ra, khi cánh cửa của ý thức , suy nghĩ và trí năng đóng lại, lập tức cánh cửa
của tánh giác tự động mở ra.
Do đó điều kiện đầu tiên của tiến trình ngộ là phải có nghi vấn hay nghi tình chất chứa trong tâm.
Đây là hướng đi chính của Thiền Tông, hầu hết các vị Tổ Thiền Tông đều đề cao sự NGỘ hay KIẾN
TÁNH, và các vị thường tạo nghi vấn, nghi tình cho đệ tử.
Tôi đưa ra vài thí dụ về cách tạo khối nghi cho đệ tử như sau.
Thiền sư Bá Trượng: Sư làm thị giả cho Mã Tổ, mỗi khi thí chủ cúng dường trai phạn Mã Tổ, Sư vừa
mở nắp đậy đồ ăn thì Mã Tổ liền lấy một miếng bánh thị chúng rằng:
- Là cái gì ?
Mỗi mỗi như thế trải qua ba năm.
Nếu ngay đó, nhận ra được cái mới lạ, đó là ngộ, tùy theo nội dung nhận ra, là cái ngộ nhỏ hay sâu
sắc. Còn nếu không nhận ra điều gì thì sẽ phải ôm khối nghi trong tâm.
Thiền sư Lâm Tế:
Có thượng tọa Định đến tham vấn, hỏi:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp ?
Sư xuống thiền sàng, nắm chặt Định rồi cho một bạt tay, liền xô ra.
Định đứng chưng hửng.
Vị tăng bên cạnh nói:
- Thượng tọa Định sao không lễ bái ?
Định vừa lễ bái, hoát nhiên đại ngộ.
Vậy ông thượng tọa Định này ngộ cái gì ?
Cái thời cơ ngàn vàng là giây phút “chưng hửng” của ông. Tức là khi ấy, ông dừng bặt suy nghĩ, ý
thức và biện luận. Cái gì đột nhiên hiển lộ ra trong tâm ông ? Trong câu chuyện kể là ông đại ngộ, và
cái khối nghi từ lâu ôm ấp là “đại ý của Phật pháp,” tức là cốt lõi của Phật dạy cái gì. Tôi nghĩ rằng
ông đã nhận ra được chân tánh, hay thực tướng của hiện tượng thế gian là KHÔNG, đồng thời khi ấy
ông cũng đã nhận ra cái biết rỗng không, không lời, trong sáng của tánh giác.
Giả sử khi ấy, ông không ngộ, thì ông sẽ ôm khối nghi to lớn hơn nữa, rồi đợi thời cơ nào đó, bế tắc
suy tư nghĩ tưởng, ông cũng sẽ ngộ.
4
Trong khi giáo hóa, các vị Tổ thường tạo ra nhiều thời cơ ngàn vàng cho đệ tử, mà ít người nhận ra.
Tôi chỉ ghi ra vài thí dụ.
Thiền sư Lâm Tế, thấy tăng đến, đưa hai tay ra, tăng không nói gì, sư hỏi:
- Lãnh hội chăng ?
Vị tăng đáp:
- Không lãnh hội.
Sư nói:
- Sức mạnh mở không ra, cho ngươi hai điếu tiền.
Nếu ngay khi ngài Lâm Tế đưa hai tay ra, vị Tăng Thấy Như Thật, dừng suy nghĩ, sẽ nhận ra lúc đó
là Cái Biết Không Lời của Tánh giác.
Ngài Lâm Tế khi còn ở trong thiền hội của Hoàng Bá. Một hôm, ngài Mộc Châu, một vị thiền sư đã
kiến tánh triệt để, là Thủ tọa Thiền Hội, gặp Lâm Tế hỏi:
- Thượng tọa ở đây được bao lâu ?
Sư đáp:
- Ba năm.
Mộc Châu nói:
- Từng đi tham hỏi Hòa Thượng chưa ?
Sư đáp:
- Chưa từng tham hỏi vì chẳng biết hỏi cái gì ?
Mộc Châu nói:
- Sao không đi hỏi Hòa Thượng Thiền Chủ, thế nào là đại ý đích xác Phật pháp ?
Sư liền đi hỏi, chưa dứt lời thì bị Hoàng Bá đánh. Sư trở về gặp Mộc Châu, Châu hỏi việc hỏi pháp
thế nào ?
Sư nói:
- Tôi hỏi chưa dứt lời liền bị Hòa Thượng đánh và đuổi ra, tôi không hiểu gì hết.
Châu nói:
- Đi hỏi lần nữa đi !
Sư lại đi hỏi nữa, vẫn bị Hoàng Bá đánh đập như trước. Cứ như thế ba lần hỏi, bị ba lần đánh.
Sư bạch với Mộc Châu:
- Nhờ lòng từ bi khuyên bảo của Thầy dạy, tôi đến tham hỏi Phật pháp với Hòa Thượng, ba lần hỏi,
ba lần bị đánh, tôi tự nghĩ, vì chướng duyên ngăn ngại, nên không lãnh hội được ý chỉ thâm sâu.
Nay xin từ giả ra đi.
Lâm Tế ở dưới trướng của Thiền sư Hoàng Bá đã ba năm rồi mà chưa tham hỏi lần nào vì “chẳng biết
hỏi cái gì.” Trong tâm không có nghi vấn gì nên tánh giác không có dữ kiện để kiến giải. Nếu tâm
đơn giản như thế, thì chỉ có tiệm tu và tiệm ngộ. Không thể có đốn ngộ, mà phải qua những tiến trình
Định, để đưa tới ngộ và trí tuệ tâm linh từ từ phát triển theo mức độ Định cạn hay sâu. Ở đây, ngài
Mộc Châu là bậc đã thấy đạo, ngài tìm cách thúc đẩy cho “trái cây mau chín.” Tuy nhiên, ba lần hỏi
ba lần bị đánh. Nếu ngay đó, dừng bặt suy nghĩ, là nhận ra liền câu trả lời rồi. Đàng này, lại cứ suy
nghĩ coi mình có lỗi hay không có lỗi mà bị đánh, làm sao tự ngã không nhảy ra bênh vực ta đâu có
lỗi gì sao bị đánh, rồi lại thấy chắc là ta có lỗi gì đó mới bị Thầy đánh. Vậy là nói thầm và đối thoại
5
thầm lặng dây dưa ngày đêm liên miên. Tức là trí năng biện luận, ý thức phân biệt và tự ngã đang làm
chủ tâm. Tánh giác làm sao có mặt được. Tuy vậy, tất cả nghi vấn đó ôm ấp trong tâm đã trở thành
một khối.
Về sau, nhờ Ngài Đại Ngu mà được khai thông.
Sư đến gặp Đại Ngu. Ngu Thiền sư hỏi;
- Từ đâu đến ?
Sư thưa:
- Từ nơi Hoàng Bá đến.
- Hoàng Bá có lời gì dạy bảo ?
- Con ba lần hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị đánh; chẳng biết con có lỗi hay không có lỗi ?
- Hoàng Bá có lòng từ bi thắm thiết như thế đối với ngươi, mà ngươi còn đến đây hỏi có lỗi hay
không lỗi.
Ngay câu nói ấy, Sư hoát nhiên đại ngộ, rồi thưa:
- Phật pháp của Hoàng Bá vốn chẳng có nhiều.
Vậy trường hợp này là ngộ cái gì ? ngộ cái trạng thái dừng bặt suy nghĩ, phân biệt phải trái, cái trạng
thái tâm rỗng không và tĩnh lặng, ngộ cái Biết Không Lời thuần tịnh của tánh giác.
Tôi xin ghi ra thêm một câu chuyện ngài Qui Sơn dạy một người thông minh lanh lợi làm sao dừng
bặt trí năng để cho tánh giác hiển lộ.
Đó là ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn. Một hôm, Qui Sơn bảo:
- Ta nghe ngươi ở chỗ Tiên sư Bá Trượng, hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, đó là ngươi thông
minh lanh lợi, ý hiểu thức tưởng là cội gốc sanh tử. Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sanh
xem ?
Sư bị một câu hỏi này mờ mịt không đáp được. Trở về liêu, Sư soạn hết sách vở đã học qua, tìm một
câu đáp trọn không thể có. Sư than: “Bánh vẽ chẳng no bụng đói.” Đến cầu xin Qui Sơn nói phá, Qui
Sơn bảo:
- Nếu ta nói cho ngươi, về sau ngươi sẽ chửi ta; ta nói là việc của ta đâu can hệ gì đến ngươi ?
Sư bèn đem những sách vở đã thu thập được đồng thời đốt hết. Sư nói: “ Đời này chẳng học Phật
pháp nữa, chỉ làm Tăng thường, làm việc cơm cháo, khỏi nhọc tâm thần.” Sư khóc từ giả Qui Sơn ra
đi.
Nếu ngay câu hỏi tréo ngoe đó mà dừng bặt suy nghĩ, tức thì nhận ra câu trả lời. Tuy nhiên , ngài
Hương Nghiêm Trí Nhàn cũng đã ôm một mối nghi, và ông đã nhận ra rằng tất cả kinh sách, tất cả
những điều học hỏi trước đây, không phải là kho báu của mình, không giúp ích được gì nên mới đem
đốt hết. Cái đốt này là một hành động thô, ngài Qui Sơn đã có chỉ rõ trong câu nói trước “ý hiểu thức
tưởng là cội gốc sanh tử,” mà ngài Hương Nghiêm chưa nhận ra.
6
Ngài Hương Nghiêm từ giả Qui Sơn ra đi. Thẳng đến Nam Dương, chỗ di tích Quốc Sư Huệ Trung,
Sư trụ tại đây. Một hôm, nhơn cuốc cỏ trên núi, lượm hòn gạch ném trúng cây tre vang tiếng. Sư chợt
tỉnh ngộ, phá lên cười. Sư trở về tắm gội thắp hương, nhắm hướng Qui Sơn đảnh lễ, ca tụng rằng:
“Hòa Thượng từ bi ơn như cha mẹ, khi trước nếu vì con nói rồi thì làm gì có ngày nay.” Sư làm bài
tụng:
Nhất kích vong sở tri
Cánh bất giả tu trì
Động dung dương cổ lộ
Bất đọa thiểu (tiểu) nhiên ki (cơ).
Xứ xứ vô túng tích
Thinh sắc ngoại oai nghi
Chư nhơn đạt đạo giả
Hàm ngôn thượng thượng ki (cơ).
Dịch:
Một tiếng quên sở tri
Chẳng cần phải tu trì
Đổi sắc bày đường xưa
Chẳng rơi cơ lặng yên
Nơi nơi không dấu vết
Oai nghi ngoài sắc thinh
Những người bậc đạt đạo
Đều gọi thượng thượng cơ.
Đến đây ta nhận ra thêm một điều kiện nữa để ngộ. Đó là Tánh giác phải bị kích thích mới bật ra
được lời kiến giải bất ngờ của nó. Ta đã biết khu vực Kiến Giải Tổng Quát (tức là nơi mà Tánh Giác
nương gá vào đó) nằm ở phía sau bán cầu não trái thuộc võ não, là nơi tập hợp của ba cơ chế: thấy,
nghe và xúc chạm. Khi một trong ba tánh này bị kích thích, Tánh Giác sẽ bật ra. Tôi xin mượn ánh
sáng khoa học để trình bày rõ hơn điểm này.
Tôi trình bày trường hợp ngài Hương Nghiêm ngộ qua tánh nghe. Ngài đã có một khối nghi chưa giải
ra được, đó là “Khi cha mẹ chưa sanh ra, ta là ai ?” Khối nghi này quá to lớn nặng nề làm cho ngài từ
một người thông minh lanh lợi hỏi đâu đáp đó, trở thành một kẻ bất đắc chí, chán đời, buông trôi hết
tất cả quyết tâm, nỗ lực, hi vọng, hoài bảo. Trong khi an trú tại mộ của Quốc Sư Huệ Trung, ngài
Hương Nghiêm an tâm sống, không mong cầu, không tinh tấn, không nỗ lực, không suy nghĩ, không
biện luận, tức là trong giây phút tâm vọng động dừng bặt, tiếng hòn gạch chạm vào bụi tre vang lên.
Những xung lực điện tử, hay những làn sóng âm thanh truyền vào tai, đến cơ cấu mạng lưới trong
cuống não, truyền qua Đồi thị (Thalamus), khuếch tán qua tánh nghe (chỗ khu vực Kiến Giải Tổng
quát). Lúc đó, ý thức, ý căn, trí năng đã dừng, không hoạt động, nên những xung lực điện tử được giữ
lại ở đó. Lập tức tánh giác bị kích thích, làm việc và tung ra kiến giải. Lời kiến giải này là giải đáp
cho khối nghi mà trí năng không giải đáp được. Nếu trí năng có cho ra lời giải đáp thì đó chỉ là những
kinh nghiệm cũ rích, lượm lặt từ sách vở, từ người khác mà thôi; nếu nó không có kinh nghiệm,
7
không được học hỏi, thì nó sẽ không có dữ kiện để giải đáp. Còn tánh giác thì trái lại, không cần kinh
nghiệm, nó vẫn tự kiến giải. Do đó mới nói nó là kho báu của riêng mình.
Thêm một ví dụ nhỏ về ngộ qua tánh nghe.
Thiền sư Trừng Viễn:
Ở Vân Môn, Sư làm thị giả 18 năm. Vân Môn mỗi khi tiếp Sư đều gọi:
- Thị giả Viễn !
Sư ứng đáp:
- Dạ !
Vân Môn bảo:
- Ấy là gì ?
Như thế đến 18 năm, Sư mới ngộ. Vân Môn nói:
- Nay ta mới không gọi ngươi.
Một hôm, Sư từ giả Vân Môn đi nơi khác. Vân Môn bảo:
- Quang trùm vạn tượng, một câu nói làm sao ?
Sư suy nghĩ. Vân Môn buộc phải ở lại ba năm nữa.
Chiêu thức gọi tên để đánh thức tánh nghe của đệ tử là một chiêu thức phổ biến của các thiền sư.
Ngài Trừng Viễn phải mất 18 năm mới nhận ra được tánh nghe của mình. Tuy nhiên chưa biết rõ đầu
mối để dụng công làm cho tánh giác có mặt vững chắc nên vẫn còn suy nghĩ khi đối đáp với ngài Vân
Môn, tức còn sử dụng ý thức , suy nghĩ... nên phải ở lại trau dồi thêm ba năm nữa.
Sau đây tôi xin đưa ra một thí dụ về ngộ qua tánh xúc chạm.
Thiền sư Bá Trượng:
Một hôm Sư theo hầu Mã Tổ, có một bầy vịt trời bay qua, Tổ hỏi:
- Là gì vậy ?
Sư đáp:
- Vịt trời.
Tổ hỏi:
- Đi đâu rồi ?
Sư đáp:
- Bay qua rồi.
Tổ bèn quay lại nhéo mũi Sư một cái, Sư đau la thất thanh. Tổ nói:
- Sao nói bay qua rồi ?
Sư ngay đó tỉnh ngộ, rồi liền trở về phòng thị giả khóc to thảm thiết...
Trường hợp này, ngộ mà không cần có khối nghi trước, Ngài Bá Trượng nhận ra được cái Biết
thường hằng của mình ngay khi đau điếng, dừng tất cả tâm rồi thì tánh Biết hiển lộ ra.
Tôi xin ví dụ thêm một trường hợp ngộ qua tánh xúc chạm.
8
Thiền Sư Vân Môn (Văn Yển):
Trước Sư đến Mục Châu tham vấn Trần Tôn Túc. Vừa thấy Sư đến, Tôn Túc liền đóng cửa. Sư gõ
cửa. Tôn Túc hỏi: Ai ? Sư thưa: Con. Tôn Túc hỏi: Làm gì ? Sư thưa: Việc mình chưa sáng, xin thầy
chỉ dạy. Tôn Túc mở cửa, trông thấy Sư liền đóng cửa lại. Như thế, liên tiếp đến ba ngày. Ngày thứ