Các chính sách và chương trình dân số tại Nhật Bản Không giống như những quốc gia Đông Á khác, Chính phủ Nhật Bản không bảo trợ cho chương trình KHHGĐ trong suốt quá trình quá độ dân số, trừ một khoảng thời gian rất ngắn. Theo kết quả điều tra khảo sát định kỳ của Ban Dân số Liên Hiệp Quốc về những chính sách và chương trình dân số được ban hành chính thức, hành động cụ thể duy nhất của Chính phủ Nhật Bản trong việc tác động đến các xu thế dân số là nỗ lực điều chỉnh phân bố dân cư theo vùng tại Nhật Bản (Ban Dân số Liên Hiệp Quốc, 1995). Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu suy luận rằng Chính phủ không quan tâm đến các vấn đề dân số hay không hoạch định chính sách dân số. Cũng như các quốc gia khác, những đặc trưng dân số của Nhật Bản có quan hệ mật thiết với phát triển kinh tế, và Chính phủ đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển này. Vậy thì tại sao Chính phủ lại không bảo trợ cho chương trình KHHGĐ? Tại sao mức sinh lại giảm tại Nhật Bản trong khi thiếu một chương trình như vậy? Những biến động dân số đã tác động đến phát triển kinh tế như thế nào và Chính phủ
25
Embed
Các chính sách và chương trình dân số tại Nhật Bản
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Các chính sách và chương trình dân số tại Nhật Bản
Không giống như những quốc gia Đông Á khác, Chính phủ Nhật Bản
không bảo trợ cho chương trình KHHGĐ trong suốt quá trình quá độ dân
số, trừ một khoảng thời gian rất ngắn.
Theo kết quả điều tra khảo sát định kỳ của Ban Dân số Liên Hiệp Quốc về
những chính sách và chương trình dân số được ban hành chính thức, hành động
cụ thể duy nhất của Chính phủ Nhật Bản trong việc tác động đến các xu thế dân
số là nỗ lực điều chỉnh phân bố dân cư theo vùng tại Nhật Bản (Ban Dân số Liên
Hiệp Quốc, 1995). Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu suy luận rằng Chính phủ không
quan tâm đến các vấn đề dân số hay không hoạch định chính sách dân số.
Cũng như các quốc gia khác, những đặc trưng dân số của Nhật Bản có quan hệ
mật thiết với phát triển kinh tế, và Chính phủ đóng một vai trò rất quan trọng
trong quá trình phát triển này. Vậy thì tại sao Chính phủ lại không bảo trợ cho
chương trình KHHGĐ? Tại sao mức sinh lại giảm tại Nhật Bản trong khi thiếu
một chương trình như vậy? Những biến động dân số đã tác động đến phát triển
kinh tế như thế nào và Chính phủ có vai trò gì trong việc định hướng các xu thế
dân số để đáp ứng các nhu cầu kinh tế?
Chương này tập trung kiểm điểm từng bước phát triển của các chính sách dân số
Nhật Bản và các mối quan hệ tương tác giữa những chính sách này với phát
triển kinh tế trong thời kỳ hiện đại hoá, đặc biệt là sau Đại chiến Thế giới thứ II.
Để xác định rõ, tác giả định nghĩa chính sách dân số là chính sách do Chính phủ
tuyên bố nhằm chủ yếu tác động đến quy mô, cơ cấu dân số và phân bố dân cư,
và chương trình dân số là những biện pháp hành chính và pháp luật được Chính
phủ ban hành nhằm đạt được những mục tiêu chính sách đó.
Các chính sách dân số thường trực tiếp tác động đến mức sinh vì mức sinh ảnh
hưởng mạnh mẽ đến tăng trưởng và cơ cấu dân số. Nói đúng ra, những chính
sách nhằm cải thiện các điều kiện sức khoẻ của dân cư không được coi là chính
sách dân số vì các mục tiêu y tế được xác định mà không tính đến những hệ quả
dân số.
Tuy nhiên, các biện pháp y tế cũng gây nên những ảnh hưởng về mặt dân số (Y.
Okazaki 1997, 9-10), và vì thế mà tác giả sẽ đề cập đến vần đề này trong nghiên
cứu của mình. Các chính sách có định hướng tác động đến di cư nội địa và quốc
tế là những chính sách dân số vì tác động trực tiếp đến phân bố dân cư, mặc dù
các mục tiêu trước mắt của những chính sách này chủ yếu nhằm phục vụ các
mục đích kinh tế và xã hội chứ không phải vì mục đích dân số.
Do vậy, nghiên cứu dưới đây được chia thành hai phần: các chính sách về tăng
trưởng dân số và chính sách phân bố dân cư.
Chính sách dân số Nhật Bản trong thời kỳ hiện đại (từ giữa thế kỷ XIX) được
thực hiện trong 4 giai đoạn liên tiếp, tương ứng với 4 xu thế dân số riêng biệt.
Đó là (1) thời kỳ trước khi kết thúc Đại chiến Thế giới thứ II; (2) Thời kỳ bùng
nổ dân số sau chiến tranh và tiếp theo là mức sinh giảm mạnh trong bối cảnh
điều kiện kinh tế khó khăn; (3) Thời kỳ mức sinh thấp ổn định cùng với tăng
trưởng kinh tế nhanh; và (4) Thời kỳ hiện nay, mức sinh không đủ thay thế và
tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Thời kỳ trước khi kết thúc Đại chiến Thế giới thứ II
Sau hai thế kỷ cách ly mình với phần còn lại của thế giới, năm 1859, Nhật Bản
mở cửa ba trong số các cảng biển của mình cho năm quốc gia: Hoa Kỳ, Nga,
Anh Quốc, Hà Lan và Pháp. Sự tiếp cận với những thế lực bên ngoài rõ ràng đã
tạo nên một cuộc tái cơ cấu toàn diện xã hội, đánh dấu bằng một cuộc cách
mạng chính trị gọi là Phục hưng Meiji vào năm 1868.
Dưới sự lãnh đạo của Chính phủ mới, Nhật Bản bắt đầu xây dựng một quốc gia
hiện đại và mạnh về quân sự nhằm bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lấn tiềm tàng và
ách thuộc địa từ các thế lực phương Tây. Tác giả không có ý định thảo luận về
lịch sử của công cuộc hiện đại hoá và công nghiệp hoá của Nhật Bản, mà chỉ
đơn thuần ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể và liên tục của dân số trong suốt thời
kỳ này. Các số liệu khảo sát dân số do Nhà nước phong kiến Ado thực hiện từ
thế kỷ XIX cho thấy dân số Nhật Bản hầu như trì trệ trong suốt thế kỷ XVIII và
nửa đầu thế kỷ XIX.
Năm 1872, Chính phủ Nhật Bản mới tiến hành cuộc tổng điều tra dân số và hộ
gia đình trên quy mô toàn quốc, tổng dân số thường trú là 34,8 triệu người. Từ
đó đến Đại chiến Thế giới thứ II, dân số Nhật Bản tăng lên hơn hai lần, đạt quy
mô 71,9 triệu người vào năm 1940.
Sự tăng trưởng dân số này là do mức chết giảm và mức sinh tăng. Tuy nhiên,
theo số liệu thống kê chính thức, từ năm 1873 đến 1920 tỷ suất sinh thô và tỷ
suất chết thô đều tăng: tỷ suất sinh thô tăng từ 23,1%o lên 36,2%o và tỷ suất
chết thô tăng từ 18,9 %o lên 25,4%o.
Những xu hướng tăng này, đặc biệt là tỷ suất chết thô phần nào phản ánh sự cải
thiện của hệ thống theo dõi báo cáo (Y. Okazaki 1987, 20-24). Nhưng thậm chí
sau khi điều chỉnh số sinh và số chết chưa được báo cáo thống kê trước đó, mức
sinh dường như vẫn tiếp tục tăng trong những năm đầu của thế kỷ XX. Kết quả
là tỷ lệ tăng dân số hàng năm tăng mạnh từ 0,43 % năm 1873 lên 1,08% vào
năm 1920 khi cuộc Tổng điều tra dân số hiện đại đầu tiên được thực hiện.
Bất chấp những khó khăn do gia tăng nhanh dân số tạo ra, Chính quyền Meiji
vẫn muốn có nhiều dân để củng cố sức mạnh quân đội và kinh tế. Nhằm duy trì
mức sinh cao, Chính phủ đã ban hành những quy định pháp lý cấm nạo phá thai
và ngăn chặn tục lệ giết trẻ sơ sinh, một thực tế xảy ra phổ biến trong thời kỳ
Edo. Ngoài ra, Chính phủ cũng cấm các hoạt động sản xuất và phân phối thuốc
và dụng cụ tránh thai trong nỗ lực ngăn chặn kiểm soát sinh con.
Năm 1903, lần đầu tiên vấn đề kiểm soát sinh được thảo luận rộng rãi trong một
cuốn sách mang tên Cải thiện Xã hội (Shakai Kaizo Ron), nhưng không thu hút
được nhiều sự quan tâm của công chúng. Tuy nhiên, sau chuyến thăm Nhật Bản
đầu tiên của Maragret Sanger vào năm 1922, vấn đề kiểm soát sinh đã trở thành
đề tài được tranh luận rộng khắp.
Lúc đó một số tổ chức – trong đó có Tổ chức Nghiên cứu Kiểm soát sinh Nhật
Bản (Nihon Sanjisengen Kenkyukai), do Isoo Abe và Keikichi thành lập, và Văn
phòng Tư vấn Kiểm soát sinh (Sanji Sêign Sodanjo) do Umashima thành lập –
bắt đầu tích cực ủng hộ vần đề kiểm soát sinh (A. Okazaki 1957, 38-39).
Năm 1927, khi Tổng cục Thống kê báo cáo rằng hàng năm dân số tăng trưởng
đã vượt qua ngưỡng 1 triệu người, Chính phủ đã thành lập Hội đồng Điều tra
các Vấn đề Dân số và Lương thực (Jinko Mondai Chosakai).
Hội đồng nhận định rằng với dân số có quy mô lớn hơn là một biểu hiện đáng
khích lệ của quốc gia thịnh vượng và Hội đồng chỉ luận bàn những biện pháp
tăng sản xuất lương thực để theo kịp tốc độ tăng trưởng dân số (A. Okazaki
1957, 31)
Viện các vấn đề Dân số, nay là Viện Nghiên cứu Quốc gia về An sinh Xã hội và
Dân số, được thành lập năm 1939 dưới sự bảo trợ của Bộ Y tế và Phúc lợi với
mục đích tương tự. Năm 1941, Chính phủ quyết định tăng cường nỗ lực gia tăng
dân số và soạn thảo Hướng dẫn Hoạch định Chính sách Dân số (Jinko Seisaku
Kakuritsu Yoko), bao gồm các biện pháp như ưu tiên khám chữa bệnh cho bà mẹ
mang thai và phụ nữ nuôi con nhỏ, trợ cấp nuôi dưỡng trẻ em, và các lợi ích liên
quan đến thuế cho các gia đình đông con (A. Okazaki 1957, 32,39 Takeuchi
1996, 123; Y. Okazaki 1997, 91-93).
Những nỗ lực của Chính phủ nhằm khuyến khích quy mô gia đình lớn hơn, đặc
biệt trong Đại chiến thế giới thứ II, chỉ thành công phần nào và thực tế không
ngăn cản được sự suy giảm mức sinh kéo dài, bắt đầu vào khoảng năm 1920
(Oobuchi và Morioka 1981 189-94).
Tỷ suất sinh thô giảm từ 36,2 %o năm 1920 xuống còn 29,4%o vào năm 1940.
Sau đó, dường như đáp lại các biện pháp khuyến sinh của Chính phủ, tỷ suất
sinh thô tăng nhẹ lên khoảng 30%o trong những năm 1940 - 1943, sau đó lại
giảm xuống dưới mức 30%o khi chiến tranh đi đến đoạn kết vào năm 1945.
Trong những năm 1944-46, không có bất cứ một số liệu chính thức nào về số trẻ
em sinh ra.
Với điểm xuất phát vào giữa thế kỷ XIX, dân số tăng trưởng tương đối chậm,
trong vòng sáu thập niên từ 1870 đến cuối những năm 1920 dân số tăng tự nhiên
bắt đầu lấy đà tăng dần và đạt đỉnh điểm vào những năm cuối của thập niên 20
với tỷ lệ gia tăng hàng năm khoảng 1,5%.
Sau đó, tỷ lệ gia tăng dân số bắt đầu chậm lại, giảm dưới mức 1% vào cuối thập
niên 30. Rõ ràng trong thời kỳ này, chính sách khuyến sinh của Chính phủ
không thành công trong việc ngăn cản mong muốn của các cặp vợ chồng Nhật
Bản đối với gia đình quy mô nhỏ. Mong muốn này hình thành một phần do đô
thị hoá và khu vực kinh tế hiện đại ngày một phát triển.
Trong những năm từ 1920 - 1940, tỷ lệ lực lượng lao động trong các ngành nông
nghiệp và công nghiệp chủ chốt đã giảm từ 54% xuống còn 25%, và tỷ lệ dân số
sống tại các khu vực thành thị đã tăng từ 18% lên đến 38% (Japan BOS 1975,
Bảng 3. 32).
Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng hệ thống giáo dục phổ thông bắt buộc của Nhật Bản
bắt đầu có hiệu lực theo quy định của Luật Hệ thống Giáo dục (Gaku Sei) vào
năm 1872, đã phát triển thành một hệ thống giáo dục bắt buộc 6 năm vào năm
1907.
Trong những năm 1920, khi tăng trưởng dân số bắt đầu chậm lại, nạn mù chữ
trong dân số lớn tuổi hầu như đã được xoá bỏ trừ một số bộ phận người già.
Không còn nghi ngờ gì, phổ cập giáo dục toàn dân có quan hệ mật thiết với hành
vi sinh sản hiện đại trở nên phổ biến, đóng góp cho xu thế gia đình ít con.
Chính vì thế, giai đoạn thứ hai của quá độ dân số tại Nhật Bản, trong giai đoạn
này mức sinh giảm xuống mức thay thế, bắt đầu từ những năm 1920 và mất xấp
xỉ 30 năm để hoàn thành. Nhìn lại quá khứ, dường như tỷ lệ gia tăng dân số bất
thường chỉ xảy ra trong Đại chiến thế giới thứ II và ngay sau khi chiến tranh kết
thúc.
Đó chỉ là bất ổn tạm thời, chứ không phải là một sự đảo ngược của quá trình
chuyển đổi mức sinh bền vững.
Bùng nổ dân số sau chiến tranh và giai đoạn 1945 - 1955
Khi Đ i chi n Th gi i th II ch m d t, m t Nh t B n th t b i ph i đ iạ ế ế ớ ứ ấ ứ ộ ậ ả ấ ạ ả ố
m t v i n n kinh t ki t qu , trong m t lãnh th nh và quá đông dân.ặ ớ ề ế ệ ệ ộ ổ ỏ
H u h t các nhà máy và máy móc c a Nh t B n đã b phá h y trong nh ngầ ế ủ ậ ả ị ủ ữ
cu c t n công c a l c l ng đ ng minh; nh ng tài s n còn l i đ c sộ ấ ủ ự ượ ồ ữ ả ạ ượ ử
d ng nh nh ng đ n bù thi t h i chi n tranh c a Nh t B n.ụ ư ữ ề ệ ạ ế ủ ậ ả
Hàng tri u c u chi n binh và ng i dân b t đ u t n c ngoài tr v Nh tệ ự ế ườ ắ ầ ừ ướ ở ề ậ
B n. Ch trong năm 1946 và 1947, s ng i Nh t B n h i h ng đ c cả ỉ ố ườ ậ ả ồ ươ ượ ướ
tính vào kho ng 4,5 tri u ng i. Nh ng ng i h i h ng, ch y u là namả ệ ườ ữ ườ ồ ươ ủ ế
gi i, đ c đoàn t v i v ho c l y v . Bùng n k t hôn d n đ n bùng nớ ượ ụ ớ ợ ặ ấ ợ ổ ế ẫ ế ổ
s tr em chào đ i di n ra liên t c trong m t s năm. ố ẻ ờ ễ ụ ộ ố
Năm 1951, t l sinh tăng tr l i m c tr c chi n tranh. Trong su t th iỷ ệ ở ạ ở ứ ướ ế ố ờ
kỳ bùng n dân s này, t su t sinh thô đ t 34,4%o vào năm 1947 và duyổ ố ỷ ấ ạ
trì trên 30%o trong m t s năm. V a tăng s ng i h i h ng v a bùng nộ ố ừ ố ườ ồ ươ ừ ổ
dân s t o nên m t làn sóng gia tăng dân s , đ t m c tăng tr ng 5% vàoố ạ ộ ố ạ ứ ưở
năm 1946 và sau đó b t đ u suy gi m – 3,1% vào năm 1947 và 2,4% nămắ ầ ả
1948, và 2,2% vào năm 1949.
T c đ tăng tr ng dân s Nh t B n là ch a có ti n l và làm ng c nhiênố ộ ưở ố ậ ả ư ề ệ ạ
nhi u ng i, bao g m c nh ng chính tr gia và các nhà kinh t h c có uyề ườ ồ ả ữ ị ế ọ
tín. Đ t nhiên, quá t i dân s đ c nhìn nh n nh m t m i đe do và r tộ ả ố ượ ậ ư ộ ố ạ ấ
nhi u ng i đã lên ti ng c nh báo (A. Okazaki 1957, 171-74).ề ườ ế ả
Th i kỳ này cũng ch ng ki n nh ng c i thi n v y t công do nh ng ho tờ ứ ế ữ ả ệ ề ế ữ ạ
đ ng c a các trung tâm y t công c a Nh t B n và nh ng ti n b v thu cộ ủ ế ủ ậ ả ữ ế ộ ề ố
men.
T su t ch t thô gi m t 14,6%o năm 1947 xu ng còn 7,8%o trong nămỷ ấ ế ả ừ ố
1955. M c ch t gi m t o đi u ki n cho gia tăng nhanh dân s . T nămứ ế ả ạ ề ệ ố ừ
1945 - 1951, l c l ng đ ng minh đóng quân và cai qu n Nh t B n; quy nự ượ ồ ả ậ ả ề
l c và các giá tr tinh th n đã có nh h ng m nh mẽ đ n ng i dân Nh tự ị ầ ả ưở ạ ế ườ ậ
B n, khi n qu c gia này chuy n t ch đ quân ch sang ch đ dân ch .ả ế ố ể ừ ế ộ ủ ế ộ ủ
Năm 1949, T ng t l nh liên quân m i hai chuyên gia dân s ng i Mỹ làổ ư ệ ờ ố ườ
Warren S. Thompson và Pascal K. Whelpton đ n Nh t B n. C hai chuyênế ậ ả ả
gia này đ u c nh báo Nh t B n v hi m ho gia tăng nhanh dân s , ng hề ả ậ ả ề ể ạ ố ủ ộ
vi c áp d ng các bi n pháp tránh thai đ ki m soát dân s .ệ ụ ệ ể ể ố
Khi nh ng ý ki n c a h đ c đăng trên các báo t i Nh t B n, h đã ph iữ ế ủ ọ ượ ạ ậ ả ọ ả
đ i m t v i nh ng phe đ i l p, nh ng ng i đ i di n cho Nhà th Thiênố ặ ớ ữ ố ậ ữ ườ ạ ệ ờ
chúa giáo, bao g m c các giáo sỹ c a khu v c Tokyo Yokohama và Câu l cồ ả ủ ự ạ
b Ph n Thiên chúa giáo Liên quân t i Tokyo.ộ ụ ữ ạ
Đ i m t v i nh ng ph n đ i này, T ng t l nh Liên quân thông báo r ngố ặ ớ ữ ả ố ổ ư ệ ằ
quan đi m c a Warren S. Thompson và Pascal K. Whelpton là nh ng ý ki nể ủ ữ ế
c a chuyên gia và r ng Liên quân trung l p trong v n đ ki m soát sinh.ủ ằ ậ ấ ề ể
V n đ ki m soát sinh là do ng i dân Nh t B n t quy t đ nh.ấ ề ể ườ ậ ả ự ế ị
Tuy nhiên, quan đi m c a hai chuyên gia dân s n c ngoài d ng nhể ủ ố ướ ườ ư
cũng tác đ ng đ n nhi u ng i dân Nh t B n. Trong vòng vài năm ti pộ ế ề ườ ậ ả ế
theo, ít nh t 16 t ch c và nhóm đ c thành l p đ ng h ki m soát sinh.ấ ổ ứ ượ ậ ể ủ ộ ể
T l s d ng các bi n pháp tránh thai b t đ u tăng m nh (Matsumuraỷ ệ ử ụ ệ ắ ầ ạ
1977, 167-78).
Chính ph Nh t B n, v n dĩ đã không ng h cu c v n đ ng ki m soát dânủ ậ ả ố ủ ộ ộ ậ ộ ể
s , v n gi quan đi m r ng vi c s d ng các bi n pháp tránh thai là quy nố ẫ ữ ể ằ ệ ử ụ ệ ề
t n quy t c a m i ng i dân. Nh ng vào năm 1947, Chính ph đã thay đ iự ế ủ ỗ ườ ư ủ ổ
Lu t D c (Yakuji Ho) cho phép các công ty t nhân s n xu t và phân ph iậ ượ ư ả ấ ố
các lo i ph ng ti n tránh thai.ạ ươ ệ
Tháng 5/1949, Chính ph cũng thành l p H i đ ng các V n đ Dân sủ ậ ộ ồ ấ ề ố
(Jinko Mondai Shingikai) và H i đ ng này trình lên ngh quy t đ u tiên vộ ồ ị ế ầ ề
chính sách dân s c b n vào tháng 11 năm 1949. Trong các đ xu t c aố ơ ả ề ấ ủ
mình, H i đ ng đ ngh c ng c ho t đ ng c a các trung tâm y t công vàộ ồ ề ị ủ ố ạ ộ ủ ế
các văn phòng t v n hôn nhân, cũng nh phân ph i mi n phí ph ng ti nư ấ ư ố ễ ươ ệ
tránh thai và thu c tránh thai.ố
Năm 1954, H i đ ng trình lên B Y t và Phúc l i m t ngh quy t ng hộ ồ ộ ế ợ ộ ị ế ủ ộ
vi c ki m soát quy mô dân s qu c gia, và vào năm 1955 H i đ ng ng hệ ể ố ố ộ ồ ủ ộ
vi c gi m gia tăng dân s t i m c đ t n c có th t túc đ c (Mainichiệ ả ố ớ ứ ấ ướ ể ự ượ
Shimbun Sha 1992, 345-46).
Tháng 10/1951, N i các Nh t B n quy t đ nh thúc đ y ki m soát sinh, vàộ ậ ả ế ị ẩ ể
vào tháng 6/1952, B Y t và Phúc l i thông qua H ng d n khuy n khíchộ ế ợ ướ ẫ ế
ki m soát sinh. Trong nh ng năm ti p theo, Vi n các V n đ Dân s vàể ữ ế ệ ấ ề ố
Vi n Y t Công Qu c gia tr c thu c B Y t (Koshu Eisei In) b t đ u thúcệ ế ố ự ộ ộ ế ắ ầ
đ y ki m soát sinh t i các “qu n thí đi m mô hình”. ẩ ể ạ ậ ể
Theo ghi nh n c a báo chí trong năm 1955, B Y t và Phúc l i ti n hànhậ ủ ộ ế ợ ế
m r ng các ho t đ ng khuy n khích ki m soát sinh, đ m b o h trở ộ ạ ộ ế ể ả ả ỗ ợ
kho n l n t ngân sách trung ng và các chính quy n đ a ph ng choả ớ ừ ươ ề ị ươ
m c đích này.ụ
Tuy nhiên, s tham gia c a Chính ph trong các ho t đ ng ki m soát sinhự ủ ủ ạ ộ ể
không kéo dài quá lâu do các t ch c t nhân và b n thân các c p v ch ngổ ứ ư ả ặ ợ ồ
đã gánh vác trách nhi m KHHGĐ (Minami 1972, 67-70). Năm 1952, Sangerệ
thăm l i Nh t B n và ng h m nh mẽ vi c t o đi u ki n đ các bi nạ ậ ả ủ ộ ạ ệ ạ ề ệ ể ệ
pháp ki m soát sinh s n có cho t t c nh ng ai mu n th c hi n KHHGĐ.ể ẵ ấ ả ữ ố ự ệ
Chuy n thăm c a bà giúp t o nên m t s h tr nh t đ nh trong nh ngế ủ ạ ộ ự ỗ ợ ấ ị ữ
chuy n bi n v ki m soát sinh c a Nh t B n. Các t báo đăng qu ng cáoể ế ề ể ủ ậ ả ờ ả
v các lo i ph ng ti n tránh thai h u nh ra hàng ngày, và nhi u các lo iề ạ ươ ệ ầ ư ề ạ
sách, t r i đ c xu t b n, mô t quá trình tái sinh s n ng i và các kỹờ ơ ượ ấ ả ả ả ở ườ
thu t tránh thai c th .ậ ụ ể
Theo k t qu kh o sát c a C c Qu n lý D c (B Y t và Phúc l i), vi cế ả ả ủ ụ ả ượ ộ ế ợ ệ
cung c p các s n ph m tránh thai nh viên u ng tránh thai, viên đ t, kem,ấ ả ẩ ư ố ặ
bao cao su, vòng tránh thai, băng v sinh và các s n ph m v sinh gia tăngệ ả ẩ ệ
r t nhanh, v i t ng giá tr đ t kho ng 400 tri u Yên vào năm 1953 (A.ấ ớ ổ ị ạ ả ệ
Okazaki 1952, 184-88).
Theo k t qu kh o sát c a Vi n các V n đ Dân s , v i c n s t ki m soátế ả ả ủ ệ ấ ề ố ớ ơ ố ể
sinh lan r ng, t l các c p v ch ng thành th trong đ tu i sinh đ sộ ỷ ệ ặ ợ ồ ị ộ ổ ẻ ử
d ng các bi n pháp tránh thai tăng t 25% lên 28% ch trong vòng ba nămụ ệ ừ ỉ
(1950 - 1952), và t l này các c p v ch ng nông thôn th m chí còn caoỷ ệ ở ặ ợ ồ ậ
h n, t 12 đ n 18% trong cùng th i kỳ.ơ ừ ế ờ
S ph bi n các bi n pháp tránh thai ng i Nh t không ng ng gia tăng.ự ổ ế ệ ở ườ ậ ừ
Theo các kh o sát đ nh kỳ do Báo Mainichi th c hi n năm 1950, t l phả ị ự ệ ỷ ệ ụ
n Nh t B n đang s d ng ho c đã s d ng các bi n pháp tránh thai tăngữ ậ ả ử ụ ặ ử ụ ệ
t 29% trong năm 1950 lên 52% năm 1955, và lên đ n 68% vào năm 1961ừ ế
(Mainichi Shinbun Sha 1992, 54).
Bi n pháp tránh thai ph bi n nh t là bao cao su, đ t t l h n 50% sệ ổ ế ấ ạ ỷ ệ ơ ố
ng i s d ng k t năm 1952 và th m chí đ t m c 80% vào năm 1980.ườ ử ụ ể ừ ậ ạ ứ
Bi n pháp ph bi n th hai trong su t th p niên 50 và 60 là bi n pháp tínhệ ổ ế ứ ố ậ ệ
chu kỳ kinh nguy t, kho ng 30-40% ng i ch p nh n th c hi n KHHGĐ sệ ả ườ ấ ậ ự ệ ử
d ng bi n pháp này.ụ ệ
Tuy nhiên, t l th t b i cũng khá cao và r t nhi u ng i trong s h ph iỷ ệ ấ ạ ấ ề ườ ố ọ ả
tìm ki m gi i pháp n o phá thai. N o phá thai đ c coi là h p pháp t iế ả ạ ạ ượ ợ ạ
Nh t B n t năm 1948 (Mainichi Shinbun Sha 1992, 54).ậ ả ừ
Vào năm 1917, các chính tr gia và các h c gi Nh t B n bày t s quan tâmị ọ ả ậ ả ỏ ự
v s di truy n các b nh th n kinh. Vào năm 1938, B Y t và Phúc l iề ự ề ệ ầ ộ ế ợ
thành l p U ban u sinh đ x lý các v n đ u sinh. Hai năm sau, Chínhậ ỷ Ư ể ử ấ ề ư
ph ban hành Lu t u sinh Qu c gia (Kokumin Yusei-ho), cho phép các bácủ ậ Ư ố
sĩ th c hi n tri t s n “ u sinh” theo nguy n v ng c a b nh nhân. Tuyự ệ ệ ả ư ệ ọ ủ ệ
nhiên, s ca ph u thu t là không nhi u, ch a bao gi v t quá m c 200 caố ẫ ậ ề ư ờ ượ ứ
m t năm trong su t th i kỳ.ộ ố ờ
Quy đ nh này không nh m m c đích tác đ ng đ n tăng tr ng dân s vàị ằ ụ ộ ế ưở ố
cũng không liên quan đ n chính sách dân s (A. Okazaki 1957, 195-99).ế ố
Tháng 7/1948, Lu t B o v u sinh đ c thông qua thay th Lu t u sinhậ ả ệ Ư ượ ế ậ Ư
Qu c gia cũ. Lu t m i có hai đ c tr ng c b n: Cho phép ch đ nh tri t s nố ậ ớ ặ ư ơ ả ỉ ị ệ ả
nh m m c đích u sinh v i nh ng đi u ki n c th , và cho phép n o pháằ ụ ư ớ ữ ề ệ ụ ể ạ
thai vì m c đích u sinh cũng nh b o v cu c s ng và s c kho c a ng iụ ư ư ả ệ ộ ố ứ ẻ ủ ườ
m .ẹ
Theo lu t m i (hi n nay v n còn hi u l c), n u ng i m có ti n s b nhậ ớ ệ ẫ ệ ự ế ườ ẹ ề ử ệ
lý, ho c ng i m mang thai do b hãm hi p, ho c n u có v n đ v s cặ ườ ẹ ị ế ặ ế ấ ề ề ứ
kho hay kinh t khó khăn, thì nh ng y u t này đ c coi là nguy c gâyẻ ế ữ ế ố ượ ơ
h i cho cu c s ng và s c kho c a ng i m . Nói khác đi, trong đi u ki nạ ộ ố ứ ẻ ủ ườ ẹ ề ệ
đó ph n mang thai có th th c hi n n o phá thai h p pháp vì n u không,ụ ữ ể ự ệ ạ ợ ế
vi c mang thai sẽ đe do s c kh e và tình tr ng kinh t c a ng i m .ệ ạ ứ ỏ ạ ế ủ ườ ẹ
Nh ng quy đ nh m này cho phép các bác sĩ th c hi n các ca phá thai b tữ ị ở ự ệ ấ
c khi nào s n ph yêu c u, b t k lý do (A. Okazaki 1957, 199-203). R tứ ả ụ ầ ấ ể ấ
khó có th coi quy đ nh này đ c thông qua ch đ n thu n v i m c đích uể ị ượ ỉ ơ ầ ớ ụ ư
sinh; nó tr nên m t bi n pháp pháp lý h u hi u nh m xoá b nh ng caở ộ ệ ữ ệ ằ ỏ ữ
mang thai ngoài ý mu n. Nh v y, nó nhanh chóng ki m soát đ c vi c giaố ư ậ ể ượ ệ
tăng nhanh dân s .ố
Sau khi ban hành Lu t này, s ca n o phá thai đ c báo cáo tăng tậ ố ạ ượ ừ
102.000 vào năm 1949 lên đ n 1.170.000 vào năm 1955. Và còn r t nhi uế ấ ề
ca không đ c báo cáo. Năm 1955, t l n o phá thai đ c báo cáo so v iượ ỷ ệ ạ ượ ớ
s ca sinh là 68% (IIP 1996, 66).ố
Do nh ng th t b i ph bi n trong vi c s d ng các bi n pháp tránh thaiữ ấ ạ ổ ế ệ ử ụ ệ
trong nh ng năm đ u, r t nhi u ph n th c hi n n o phá thai nh gi iữ ầ ấ ề ụ ữ ự ệ ạ ư ả
pháp đ n gi n ch m d t mang thai ngoài ý mu n. M t vài c p v ch ngơ ả ấ ứ ố ộ ặ ợ ồ
th m chí còn không bu n s d ng các bi n pháp tránh thai, thay vào đóậ ồ ử ụ ệ
d a vào n o phá thai đ h n ch quy mô gia đình.ự ạ ể ạ ế
Nh ng con s l n v n o phá thai, k c đ c báo cáo và không đ c báoữ ố ớ ề ạ ể ả ượ ượ
cáo cho th y r ng bi n pháp ki m soát sinh này là nguyên nhân chính làmấ ằ ệ ể
suy gi m nhanh m c sinh t i Nh t B n vào đ u th p niên 50.ả ứ ạ ậ ả ầ ậBáo cáo Kinh tế thường niên năm 1956 của Chính phủ (Keizai Hakusho) thông
báo rằng thời kỳ tái thiết sau chiến tranh đã kết thúc khi thu nhập đầu người đã
đạt mức trước chiến tranh vào năm 1955. Trong suốt hai thập niên sau thông báo
này, Nhật Bản trải qua một thời kỳ tăng trưởng kinh tế đáng ghi nhận.
Tổng thu nhập bình quân đầu người đạt mức như tại nhiều quốc gia châu Âu.
Sản lượng công nghiệp tăng nhanh chóng, và một cuộc chuyển đổi khổng lồ lực
lượng lao động nông nghiệp sang công nghiệp đã xảy ra nhằm đáp ứng các nhu
cầu lao động công nghiệp. Những thay đổi này đã tạo nên một dịch chuyển dân
số lớn từ nông thôn đến các khu vực thành thị.
Trong những năm này, nhu cầu lao động cho mở rộng các ngành công nghiệp
sản xuất là rất lớn và đã được đáp ứng nhờ dân số trong độ tuổi sinh đẻ tăng
nhanh (đó là đoàn hệ sinh ra từ trước chiến tranh và do tăng bù sau chiến tranh
với những mức sinh khá cao).
Tỷ lệ tăng hàng năm ở nhóm dân số trong độ tuổi sinh đẻ (15 - 49) là khoảng 2%
trong những năm 50 và duy trì trên 1% trong những năm 60. Do mức sinh đã
giảm ổn định, khoảng cách giữa tỷ lệ tăng trưởng dân số (người tiêu thụ) và dân
số ở độ tuổi sinh đẻ (người sản xuất) đã được nới rộng đáng kể. Điều này tạo
nên cái gọi là dư lợi dân số hay còn gọi là cơ cấu dân số vàng khi số người lao
động tăng nhanh hơn rất nhiều so với số người tiêu thụ.
Đặc trưng của thời kỳ này là mức sinh ổn định. Trong giai đoạn 1955 - 1975, tỷ
suất sinh thuần (số con gái trung bình của một phụ nữ sinh ra đủ thay thế họ)
được duy trì ở mức sinh thay thế (từ 0,9 đến 1,06; chỉ số sai lệch không đáng
kể).
Mức sinh giảm mạnh trong năm 1966 là một ngoại lệ, khi tỷ suất sinh thuần
giảm xuống mức 0,73. Đó là năm Hinoeuma, năm Ngựa bạch theo lịch âm của
Trung Quốc. Theo mê tín truyền thống của Trung Quốc, con gái sinh vào năm
này sẽ sát chồng. Rất nhiều các cặp vợ chồng Nhật Bản tránh sinh con vào năm
này nhằm ngăn chặn những khó khăn về cưới xin trong tương lai cho con gái.
Trong suốt thời kỳ mức sinh ổn định này, các biện pháp tránh thai được thực
hiện rộng rãi hơn. Theo kết quả khảo sát của Mainichi Shinbun, tỷ lệ phụ nữ có
chồng dưới 50 tuổi đang sử dụng các biện pháp tránh thai tăng từ 33,6% lên
60,5% trong giai đoạn 1955-75.
Nếu cộng thêm cả những người đã từng một lần sử dụng các biện pháp tránh
thai, tỷ lệ này tăng từ 52,5% lên đến 81,5% (Mainichi Shinbun Sha 1992, 4). Kết
quả là Chính phủ dừng việc coi KHHGĐ như một vấn đề chính sách dân số và
bắt đầu chuyển ngân sách đầu tư cho chương trình KHHGĐ sang cho y tế và
phúc lợi xã hội của người dân. Năm 1959, Bộ Y tế và Phúc lợi chuyển các
nhiệm vụ liên quan đến KHHGĐ cho Vụ Bảo vệ Bà Mẹ và Trẻ em.
Ban đầu lượng lao động di cư từ nông thôn đến thành thị và lượng dân số trẻ của
thời kỳ bùng nổ dân số sau chiến tranh đáp ứng được các nhu cầu lao động công
nghiệp. Nhưng đến cuối thời kỳ này bắt đầu xuất hiện hiện tượng thiếu lao động
trong các ngành công nghiệp xây dựng và sản xuất quy mô nhỏ, nơi mà công
việc thường được coi là vất vả và nguy hiểm. Các nhà kinh tế học đã cảnh báo
về khả năng thiếu lao động (Oobuchi 1992, 135-51) và rất nhiều lãnh đạo kinh tế
yêu cầu Chính phủ thông qua chính sách khuyến sinh và cấp thị thực cho các
công nhân nước ngoài không có tay nghề.
Trước Hội nghị Dân số Thế giới lần đầu tiên được tổ chức tại Bucharest năm
1977, các vấn đề dân số Nhật Bản được các chuyên gia dân số thảo luận tại Hội
đồng các Vấn đề Dân số. Hội đồng đã nhận thấy sự gia tăng dân số toàn cầu và
kiến nghị Nhật Bản thông qua chính sách nhằm ổn định dân số trong tương lai
(Matsumura 1977, 176). Đề xuất này, cùng với tác động của suy giảm kinh tế
trong nửa cuối những năm 70 đã khởi nguồn cho những tranh cãi về khuyến sinh
của Nhật Bản.
Thời kỳ tiếp tục giảm mức sinh, từ 1975 đến nay
Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa 1973 - 1980, kinh tế Nhật Bản không còn tăng
trưởng nhanh, bất chấp những đổi mới trong công nghiệp và những nỗ lực
không mệt mỏi của công nhân. Mức tăng GDP hàng năm giảm hơn 1,5 lần so
với trước khủng hoảng.
Bỗng nhiên, tình hình trở nên khó khăn cho lớp trẻ trong việc vay tiền để lo đám
cưới và các nhu cầu về nhà ở. Cùng thời gian này, sự tham gia của nữ giới tại
các trường đại học và cao đẳng gia tăng, đạt 32% vào năm 1975 và tiếp tục tăng
những năm sau đó.
Lượng học sinh nữ tại các trường trung học phổ thông vượt trội so với học sinh
nam vào năm 1989 và đạt 48% vào năm 1995. Xu hướng này gắn với xu hướng
lực lượng lao động nữ ngày càng tăng. Theo kết quả tổng điều tra dân số năm
1955, 74% phụ nữ ở nhóm tuổi 20-24 và hơn 50% độ tuổi 20-60 tham gia lực
lượng lao động (IPP 1966, 133,144).
Có lẽ tất cả những nhân tố này đã tạo nên xu hướng lập gia đình muộn và tiếp
theo là giảm mức sinh. Tỷ lệ phụ nữ chưa từng lập gia đình ở nhóm tuổi 25- 29
tăng từ 21% năm 1975 lên 49% vào năm 1995. Mặc dù quy mô gia đình mong
muốn của các cặp vợ chồng không thay đổi ở mức hai con, tỷ lệ gia tăng người
độc thân tiếp tục làm đình trệ mức sinh.
Không giống như các nước phương Tây, chung sống với nhau khi chưa cưới
không phải là hiện tượng phổ biến ở Nhật Bản và phụ nữ độc thân sinh con cũng
rất hiếm. Số ca sinh con ngoài giá thú vào năm 1994 là dưới 15.000, hay 1,2%
trên tổng số ca sinh (IPP 1996,65). Kết quả là tổng tỷ suất sinh, trước năm 1974
duy trì ở mức trên 2,0 đã giảm xuống dưới mức 2,0 vào năm 1975 và vẫn tiếp
tục giảm, đạt 1,76 vào năm 1985 và 1,43 vào năm 1996.
Mức sinh rất thấp này gây sự quan tâm đặc biệt từ phía các quan chức Chính
phủ và công chúng. Những quan ngại chủ yếu tập trung vào vấn đề dân số già và
tác động của nó đến những chi tiêu phúc lợi công cộng trong tương lai.
Hơn nữa, đáng lẽ phải quan tâm nhiều hơn đến khả năng thiếu lao động ngay từ
khi tổng tỷ suất sinh của Nhật Bản chưa giảm xuống dưới mức sinh thay thế; suy
thoái kinh tế khởi phát vào năm 1991 đã khiến cho mức sinh tiếp tục giảm
xuống dưới mức thay thế, tạo nên một làn sóng dịch chuyển các ngành công
nghiệp Nhật Bản sang các nước đang phát triển.
Như tác giả được biết, khi đó chỉ có duy nhất một tờ báo thúc giục Chính phủ
quan tâm nhiều hơn đến mức sinh như một phương cách giải quyết vấn đề dân
số già. Chính phủ đã quyết định không can thiệp đến cuộc sống riêng của người
dân và chính sách dân số tiếp tục là chính sách tự do.
Chỉ trong những chính sách xã hội để cải thiện điều kiện cho phụ nữ và các gia
đình, Chính phủ mới bắt đầu áp dụng các biện pháp khuyến sinh như nghỉ đẻ,
xây dựng nhà trẻ, tăng trợ cấp cho trẻ em và tạo điều kiện cho phụ nữ quay trở
lại nơi làm việc sau khi sinh con (Y.Okazak 1997, 131-36).
Giáo sư Shunichi InoueTrường Cao đẳng Khoa học và Nhân văn (Đại học Nihon, Tokyo)