HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHAN VĂN HIẾU KINH TÕ TËP THÓ TRONG X¢Y DùNG N¤NG TH¤N MíI ë TØNH QU¶NG NG·I LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHAN VĂN HIẾU
KINH TÕ TËP THÓ TRONG X¢Y DùNG N¤NG TH¤N MíI ë TØNH QU¶NG NG·I
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHAN VĂN HIẾU
KINH TÕ TËP THÓ TRONG X¢Y DùNG N¤NG TH¤N MíI ë TØNH QU¶NG NG·I
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 62 31 01 02
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN VĂN HẬU
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định./.
Tác giả
Phan Văn Hiếu
Phan Văn Hiếu
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 6
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến kinh tế tập thể
trong phát triển nông thôn 6
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước có liên quan đến kinh tế tập thể
trong xây dựng nông thôn mới 16
1.3. Kết luận rút ra từ những công trình liên quan đến đề tài luận án và
vấn đề tiếp tục nghiên cứu 23
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TẬP THỂ TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 29
2.1. Bản chất, hình thức, nguyên tắc và xu hướng của kinh tế tập thể,
quan hệ giữa phát triển kinh tế tập thể với xây dựng nông thôn mới 29
2.2. Nội dung phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới,
tiêu chí đánh giá và điều kiện bảo đảm thực hiện 49
2.3. Kinh nghiệm trong nước và nước ngoài về phát triển kinh tế tập thể
trong xây dựng nông thôn mới 66
Chương 3. THỰC TRẠNG KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI GIAI ĐOẠN 2011-2015 76
3.1. Thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh
Quảng Ngãi liên quan đến kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới 76
3.2. Tình hình triển khai, vận dụng chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn
mới của tỉnh Quảng Ngãi 80
3.3. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông
thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015 91
Chương 4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
TỈNH QUẢNG NGÃI 112
4.1. Mục tiêu, quan điểm và phương hướng phát triển kinh tế tập thể
trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 112
4.2. Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông
thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn tới 127
KẾT LUẬN 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 150
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
AFTA : ASEAN Free Trade Area, tiếng Việt: Khu vực
thương mại tự do ASEAN
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
FTA : Free Trade Agreement, tiếng Việt: Hiệp định
thương mại tự do
GDP : Gross Domestic Product, tiếng Việt: Tổng sản phẩm
trong nước
GRDP : Gross Regional Domestic Product, tiếng Việt: Tổng
sản phẩm trên địa bàn
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
ICA : International Cooperative Allien, tiếng Việt: Liên
minh hợp tác xã quốc tế
KH&CN : Khoa học và công nghệ
KTTT : Kinh tế tập thể
NN : Nông nghiệp
NT : Nông thôn
NTM : Nông thôn mới
THT : Tổ hợp tác
TPP : Trans-Pacific Strategic Economic Partnership
Agreement, tiếng Việt: Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương
UBMTTQVN : Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam
UBND : Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 3.1: Số lượng cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực nông thôn tỉnh Quảng
Ngãi giai đoạn 2011 - 2015 91
Bảng 3.2: Số thành viên trong các cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực nông
thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015 94
Bảng 3.3: Số lao động làm việc trong các cơ sở kinh tế tập thể ở khu
vực nông thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015 94
Bảng 3.4: Vốn của các cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực nông thôn tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015 95
Bảng 3.5: Chỉ tiêu tài chính của các cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực
nông thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015 96
Bảng 3.6: Hiệu quả kinh doanh của các hợp tác xã ở nông thôn tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015 107
Bảng 4.1: Hướng phát triển kinh tế tập thể ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn
2016-2020 124
DANH MỤC CÁC HÌNH TRONG LUẬN ÁN
Trang
Hình 3.1: Cơ cấu hợp tác xã theo ngành ở khu vực nông thôn tỉnh
Quảng Ngãi năm 2015 92
Hình 3.2: Quy mô tập trung vốn đầu tư trong các hình thức kinh tế tập
thể ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015 96
Hình 3.3: Mô hình chuỗi giá trị sản xuất lúa giống tại hợp tác xã dịch
vụ nông nghiêp, nông thôn Tịnh Trà 98
Hình 3.4: Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của các hợp tác xã ở nông thôn
tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015 106
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Kinh tế tập thể (KTTT) là một hình thức tổ chức kinh tế phổ biến ở hầu
hết các nước trên thế giới từ khoảng 200 năm gần đây. Phát triển hình thức
kinh tế này đã trở thành phong trào quốc tế sâu rộng, liên kết trong Liên minh
hợp tác xã (HTX) quốc tế (ICA). Nó không chỉ có ý nghĩa quan trọng về kinh
tế mà còn có ý nghĩa to lớn về chính trị và xã hội đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia.
Ở Việt Nam, kể từ khi Bác Hồ viết thư kêu gọi điền chủ nông dân tham
gia HTX (11/4/1946) đến nay, KTTT đã có lịch sử phát triển 70 năm. Phát
triển KTTT là chủ trương lớn, nhất quán và xuyên suốt của Đảng ta từ trước
tới nay. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quyết sách để
thúc đẩy phát triển KTTT. Trong công cuộc đổi mới đất nước, KTTT được
xác định là một thành phần kinh tế có vai trò quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân, không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn có đóng góp
quan trọng trong phát triển văn hoá, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “KTTT không ngừng được
củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với KTTT ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [26, tr. 73-74].
Bằng nhiều nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng và toàn dân, đến nay KTTT
đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tính đến hết tháng 6/2016, cả nước đã có
trên 20.000 HTX, 150.000 THT, gần 50 liên hiệp HTX, 1.148 quỹ tín dụng
nhân dân và 43 quỹ hỗ trợ và phát triển HTX, đã đóng vai trò không nhỏ đối
với nền kinh tế quốc dân [16]. Nhiều HTX, liên hiệp HTX mới được thành
lập, hoạt động đa dạng về ngành nghề, lĩnh vực, số THT tiếp tục tăng. Nhiều
HTX được củng cố, đổi mới về tổ chức và hoạt động, trong đó xuất hiện một
số điển hình tiên tiến, hỗ trợ tốt hơn kinh tế hộ xã viên, tạo việc làm và thu
2
nhập thường xuyên cho người lao động. Liên kết giữa các HTX với nhau và
với các tổ chức kinh tế khác [35].
Tuy nhiên, KTTT ở nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém kéo
dài, năng lực nội tại hạn chế, số HTX sản xuất kinh doanh có hiệu quả còn ít,
lợi ích đem lại cho thành viên chưa nhiều. Tốc độ tăng trưởng của KTTT chậm,
thiếu ổn định. KTTT chiếm tỷ trọng thấp trong tổng sản phẩm xã hội, tỷ lệ
đóng góp vào GDP của cả nước có chiều hướng giảm dần. Sức cạnh tranh của
không ít HTX còn yếu. Nhiều cơ sở KTTT vẫn chưa sẵn sàng ứng phó trong
bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới. Nhiều HTX
chưa tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật, còn có những biểu hiện hình
thức, xa rời bản chất, các nguyên tắc và giá trị HTX. Thiếu sự liên kết, hợp tác
của các HTX trong sản xuất tạo chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa chủ lực quy
mô lớn. KTTT phát triển thiếu bền vững… Tình trạng này diễn ra ở khắp các
tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước. Tại tỉnh Quảng Ngãi, tính đến hết năm
2015 đã có 6.704 đơn vị KTTT, tăng 5,4 lần so với năm 2011, trong đó có 204
HTX đã đi vào hoạt động tạo ra 401 tỷ đồng doanh thu, gần 10 tỷ đồng lợi
nhuận. Nhưng sự phát triển chưa được như mong muốn, quy mô HTX còn nhỏ,
vốn góp của xã viên giảm, mức độ liên kết còn sơ khai, hiệu quả thấp, tính bền
vững trong phát triển KTTT còn phải quan tâm nhiều.
Yêu cầu đặt ra hiện nay là phải tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả
KTTT để nó làm tốt vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nói chung, xây dựng nông thôn mới (NTM) nói riêng, cần có những
nghiên cứu khoa học làm rõ cơ sở lý luận của phát triển KTTT, phân tích và
đánh giá đúng thực trạng KTTT nước ta hiện nay, đề xuất giải pháp nhằm
thúc đẩy phát triển đúng hướng, có hiệu quả. Để góp phần vào giải quyết yêu
cầu trên, bằng thực tế hoạt động của bản thân trong tổ chức phát triển KTTT
trên địa bàn một tỉnh, tác giả lựa chọn đề tài: “Kinh tế tập thể trong xây
dựng nông thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi” để nghiên cứu làm luận án Tiến sĩ
chuyên ngành Kinh tế chính trị tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015, làm rõ những kết quả đạt được, những hạn
chế, yếu kém và nguyên nhân, để đề xuất quan điểm, phương hướng và giải
pháp thúc đẩy phát triển KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi trong
giai đoạn tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa và làm rõ điểm mới cơ sở lý luận về KTTT trong xây
dựng NTM trước yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Tìm hiểu và nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về phát triển KTTT
trong xây dựng NTM trên thế giới và trong nước làm tài liệu để tỉnh Quảng
Ngãi có thể tham khảo.
- Phân tích và đánh giá thực trạng KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh
Quảng Ngãi từ năm 2011 đến nay, làm rõ những thành tựu, hạn chế, yếu kém
và nguyên nhân của thực trạng này.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát
triển KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn đến năm 2020
và tầm nhìn đến năm 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là KTTT bao gồm các THT,
HTX, liên hiệp HTX trong các ngành, lĩnh vực nông nghiệp (NN), công
nghiệp, dịch vụ và các quỹ tín dụng nhân dân với tính chất là một quan hệ
kinh tế, một hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh ở khu vực NT gắn với
4
Chương trình xây dựng NTM dưới góc độ kinh tế chính trị học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu KTTT trong xây dựng NTM bao
gồm các hình thức THT, HTX, liên hiệp HTX hoạt động trong các ngành, lĩnh
vực kinh tế ở nông thôn, chủ yếu tiếp cận về mặt quan hệ kinh tế, hình thức tổ
chức kinh tế và có quan tâm đến quan hệ cộng đồng trong KTTT.
- Về không gian: Nghiên cứu KTTT trước yêu cầu xây dựng NTM trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Phạm vi nghiên cứu kinh nghiệm được xác định ở
các tỉnh trong và ngoài nước mà tỉnh Quảng Ngãi có nhiều điểm tương đồng
mang tính thiết thực.
- Về thời gian: Việc phân tích, đánh giá thực trạng KTTT được xác
định từ sau khi Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 26NQ/TW ngày
05/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
NN, nông dân và NT, trong đó có nhiệm vụ xây dựng NTM, tức là từ năm
2011 đến nay. Các đề xuất về phương hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển
sẽ đặt trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Tác giả luận án dựa trên cơ sở và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong chủ nghĩa Mác - Lênin để
xem xét nguồn gốc, bản chất của KTTT, vai trò và xu hướng phát triển của nó
trong xây dựng NTM trước yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Các nghiên cứu về đường lối, chính sách và thực tiễn phát triển KTTT
trong xây dựng NTM ở Việt Nam còn dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam và chính
5
sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là từ khi ban hành và thực thi Chương
trình xây dựng NTM.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với chuyên
ngành kinh tế chính trị như phương pháp trừu tượng hóa, phương pháp phân
tích, tổng hợp, phương pháp lôgic kết hợp với lịch sử… Đồng thời, có sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu như điều tra xã hội học, khảo sát thực
tiễn, phương pháp thu thập xử lý thông tin trên các tài liệu tin cậy đã công bố,
phương pháp thống kê, mô hình hóa và phương pháp so sánh trong quá trình
nghiên cứu, phương pháp chuyên gia.
Ngoài ra, trong luận án, tác giả còn sử dụng có chọn lọc một số kết quả
của các công trình đã được công bố có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của
Luận án.
5. Những đóng góp về khoa học và giá trị của luận án
- Hệ thống hóa, bổ sung và phát triển cơ sở lý luận về KTTT trong xây
dựng NTM ở Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị.
- Chọn lọc một số bài học kinh nghiệm về phát triển KTTT trong xây
dựng NTM của một số tỉnh trong và ngoài nước để tỉnh Quảng Ngãi có thể
tham khảo.
- Làm rõ thực trạng KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn 2011-2015, đánh giá các kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực
trạng đó.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát
triển KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016- 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
1.1.1. Những nghiên cứu lý luận về kinh tế tập thể trong phát triển
nông thôn
- Cơ sở ra đời và phát triển của KTTT
Khởi xướng cho tư tưởng này là những công bố trong “Social system -
the Constitution, the law and the charter of a community” (1826) và “A look at
the social” (1824) của Robert Owen. Ông cho rằng, liên minh và hợp tác trong
sản xuất kinh doanh rõ ràng là tăng sức mạnh của cá nhân một nghìn lần và giải
thích tại sao các nguyên tắc hợp tác không nên cung cấp cho những người đàn
ông quyền lực và lợi thế nhiều hơn trong việc xây dựng, bảo quản, phân phối
và hưởng thụ sự giàu có? [135]. Trong “Report to the County of Lanark…”
(1820), Robert Owen chỉ ra vai trò của các HTX (ông gọi là Palanse) trong phát
triển kinh tế và để người lao động thoát khỏi sự bất công và cùng cực do sự bóc
lột của các nhà tư bản. Trong hình thức đó, các thành viên của HTX sẽ có sự
bình đẳng về quyền lợi và tài sản cũng như trao đổi hàng hóa với nhau. Mỗi
người sẽ chỉ trả tiền cho các tài sản mà họ thực tế sử dụng, mà không phải chi
một khoản nghĩa vụ tài chính nào khác [136]. Ông đã trực tiếp thành lập HTX
ở London - HTX của những người lao động trong lĩnh vực lưu thông - vào năm
1821. Đây là hình thức KTTT đầu tiên của nhân loại.
Trong giai đoạn này, ở Pháp cũng có những nghiên cứu của Saintsimon,
Fourier và các nhà nghiên cứu khác như Considerant, Godin, Buchez,
P.J.Benamin, Lamenmais, Cabert, J.Gay, T.Dezamy, Blanc… về KTTT, trong
đó các tác giả đều chứng minh rằng sự ra đời và phát triển của KTTT là cần
7
thiết để tăng sức mạnh của các thành viên khi tham gia và tạo ra cộng đồng
kinh tế phát triển xã hội.
Tác giả Brett Fairbairn trong: “History of Ecological Perspective: Gaia theory and the problems of cooperatives in Turn-of-the-Century Germany”,
thông qua nghiên cứu lịch sử đã cho thấy những nỗ lực về kinh tế và chính trị
trong lý thuyết và các vấn đề về quá trình hình thành và phát triển các HTX
trong NT ở nước Đức trước năm 1914 dưới góc nhìn sinh thái [114].
“Theory and History of Cooperatives” trong cuốn: “Bibliography of Cooperatives and Cooperative Development” do PhD, IIRA director and
professor Christopher D. Merrett, tổng thuật về lý thuyết và Lịch sử của HTX.
Có các chuyên đề: “Reviving the cooperative movement. World Marxist Review” của Abalkin, Leonid (31 June1988) viết về làm sống lại phong trào
HTX, nhìn lại chủ nghĩa Mác thế giới; “History and theories of cooperatives. In International encyclopedia of civil society” của Altman, Morris (2005) về
lịch sử và lý thuyết của HTX trong bách khoa toàn thư Quốc tế của xã hội dân
sự; “The cooperative organization: Economic, organisational and policy issues” của Bernardi, Andrea (2007) viết về các tổ chức hợp tác xã, vấn đề
kinh tế, tổ chức và chính sách; “A study of the organizational characteristics of successful cooperatives” của Carr, Amelia, Amanie Kariyawasam, and
Maureen Casil (2008) trình bày nghiên cứu về các đặc điểm tổ chức thành
công một HTX trong phát triển NT [122].
Dr. Hannes Gebhard trong cuốn: “Co-Operation in Finland” (1916) đã
mô tả tóm tắt và hệ thống hóa những phong trào HTX trong khu vực NT của
Phần Lan đầu thế kỷ XX và cho thấy sức lan tỏa của phong trào này đến các
quần đảo của Anh, nhất là ở Ireland, ở Italia và một số nước khác. Tác giả đã
có những khảo sát bằng con số thống kê về sự phát triển của phong trào hợp
tác hóa. Đây là nghiên cứu có thể cung cấp kinh nghiệm về phát triển KTTT
trong phát triển NT không chỉ đối với Phần Lan mà còn đối với một số nước
Châu Âu khác [120].
8
Cuốn: “A Century of the Philippine Cooperative Movement” của Jorge
V. Sibal (2000) phân tích đánh giá lịch sử một thế kỷ của phong trào hợp tác
xã trong phát triển NT ở Philippines, HTX được xác định là một trong những
trụ cột chính của phong trào xã hội dân sự để phát huy các nỗ lực phát triển
của xã hội. Sự ra đời và phát triển của các HTX là cần thiết cho sự phát triển
kinh tế, xã hội. Tác giả nghiên cứu về lịch sử của phong trào HTX ở
Philippines với 3 giai đoạn: 1895-1941, 1941 -1986 và giai đoạn 1986-2000
để chỉ ra những phát triển của hình thức kinh tế này [126].
“Chapter 2: Co-operation and co-operative movement - a theoretical
frame work” (2011) nhóm nghiên cứu tại Đại học SG (Braxin), một chương
giới thiệu khung lý thuyết về HTX và phong trào HTX, trong đó chỉ ra ý
nghĩa của phong trào, phạm vi hợp tác, mục tiêu của hợp tác, đặc điểm của
một doanh nghiệp HTX, nguyên tắc hợp tác, lợi ích của hợp tác và các phong
trào HTX ở khu vực NT trên thế giới [128].
- Vai trò của KTTT trong phát triển NT
Xuất phát từ nhận thức, HTX là một doanh nghiệp thuộc sở hữu chung
tham gia vào việc sản xuất hoặc phân phối hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ,
hoạt động của các thành viên của mình vì lợi ích chung của họ, thường được
tổ chức bởi người tiêu dùng hoặc người nông dân (Dictionary.com), nhiều
công trình nghiên cứu đã hướng vào phân tích ảnh hưởng của HTX đến phát
triển cộng đồng, đến môi trường sinh thái ở NT, quan hệ giữa HTX với toàn
cầu hóa và tự do hóa thương mại, HTX với người dân thiểu số, với phong trào
xã hội, với phát triển; việc tham gia của người nông dân vào HTX; HTX với
nghiên cứu và phát triển công nghệ, vai trò của HTX đối với sự phát triển của
phụ nữ và HTX và vấn đề dân chủ ở NT [122].
Ahmad Bello Dogarawa trong bài: “The Role of Cooperative Societies
in Economic Development” (2010) xem xét vai trò của các hiệp hội hợp tác
trong phát triển kinh tế NT. Tác giả đã điều tra khảo sát để mô tả những cách
9
thức mà các HTX có thể làm đại lý cho sự phát triển cộng đồng bền vững và
cho thấy trong hơn 160 năm qua, các HTX đã phát huy vai trò quan trọng
trong việc hỗ trợ tạo việc làm, thu nhập và ổn định kinh tế cho người dân,
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Trong quá trình phát triển, các HTX
phải liên tục đạt được hai mục tiêu liên quan: tăng cường khả năng phát triển
và nâng cao khả năng phục vụ các thành viên. HTX vẫn là một doanh nghiệp
hiệu quả kinh tế, sáng tạo và cạnh tranh [111].
Suren Movsisyan, trong cuốn: “The Role of Cooperatives in the
Development of Agriculture in Armenia” (2013), nghiên cứu chứng minh vai
trò tiềm năng của HTX đối với phát triển NN ở Armenia. Tuy nhiên, từ khi
chuyển đổi nền kinh tế, do sự kháng cự tâm lý của nông dân cá thể, những
người không biết gì với những lợi thế được tổ chức trong các HTX và các hạn
chế trong chính sách pháp luật về kinh tế và hỗ trợ của nhà nước, nên thực tế
hoạt động của các HTX đã không được thành công lớn. Tác giả đề xuất các
kiến nghị phát triển HTX của nước này dựa trên các nghiên cứu kinh nghiệm
phát triển HTX trong NT ở các nước châu Âu và châu Á, Liên minh quốc tế
HTX (ICA), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), ICARE, và được dựa trên các
hướng dẫn và khuyến cáo của LHQ [138].
Wayne D.Rasmussen trong cuốn: “Farmers cooperation, and USDA a
history of agricultural cooperative service” (1991) nghiên cứu về lịch sử các
HTX dịch vụ NN ở Mỹ trong 65 năm kể từ khi thông qua Luật HTX tiếp thị
năm 1926. Tác giả cho thấy hình thức HTX là một phần quan trọng trong chính
sách của quốc gia để hỗ trợ các nhà sản xuất NN đối phó với các vấn đề phải
đối mặt trên thị trường. Đây là hình thức tổ chức kinh doanh chính trong nhiều
cộng đồng NT ở nước Mỹ và là tổ chức kinh tế nhằm nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân NT. Từ đó đặt ra vấn đề là làm thế nào để nâng cao vai trò
ngày càng quan trọng của những nông dân độc lập khi họ phải đối mặt với một
thị trường đặc trưng bởi hội nhập quốc tế nhiều hơn? [140].
10
Bên cạnh đó còn có khá nhiều công trình đã công bố bàn về vai trò của
các HTX trong phát triển NT trên các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường,
tiêu biểu là cuốn: “The role of agricultural cooperatives in enhancing the
efficiency of production” của Avetisyan, T. (2012), tại Đại học NN quốc gia
Armenia nghiên cứu về vai trò của HTX NN trong nâng cao hiệu quả sản xuất ở
Armenia. Cuốn “The role of co-operatives in community economic development”
của Ryan Gibson (2005), đánh giá vai trò của HTX trong phát triển kinh tế cộng
đồng NT ở miền Bắc và Manitoba, Canada [137]; “The role of cooperatives in
achieving the sustainable development goals - the economic dimension” của Tổ
chức lao động quốc tế (ILO) (2014) nghiên cứu về vai trò của HTX trong thực
hiện các mục tiêu phát triển bền vững, chiều kích kinh tế trong NT ở Nairobi,
Kenya [124]; "The Role of Cooperative Organizations in Rural Community
Development in Nigeria: Prospects and Challenges" của Muhammad Shehu
Hussain (2014)… nghiên cứu về vai trò của Tổ chức HTX trong phát triển cộng
đồng NT ở Nigeria, triển vọng và thách thức, đề xuất giải pháp để cải thiện các
hoạt động của HTX tổ chức tại Nigeria theo hướng cần phải giáo dục cho các
thành viên của tổ chức hợp tác kết quả tối ưu, cần có sự giám sát thích hợp bởi
chính phủ, tổ chức các chương trình xóa mù chữ cho các thành viên ở cơ sở
[131]; “The nature of cooperatives: Roles in economizing transaction cost is a
new dimension for understanding value of co-ops” của Ling, K. Charles (2012),
phân tích về bản chất của HTX và vai trò của nó trong tiết kiệm chi phí giao dịch
coi đây là chiều hướng mới cho sự hiểu biết giá trị của HTX v.v...
- Nguyên tắc và hình thức tổ chức của KTTT trong NT
Về nguyên tắc tổ chức của KTTT trong NT, có cuốn: “Bàn về chế độ
hợp tác” của V.I.Lênin viết vào tháng 1/1923, trong đó đánh giá quan điểm về
HTX của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng và đề xuất phương hướng tổ
chức, quản lý HTX trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga đầu
thế kỷ XX với hình thức nông trang tập thể [52].
11
Nghiên cứu của Đại học SG ở Braxin trong “Chapter 2: Co-operation
and co-operative movement - a theoretical frame work” bàn về HTX và
phong trào HTX - một khuôn khổ lý thuyết, trong đó cho thấy năm 1964 Ủy
ban Liên minh HTX quốc tế (International Cooperative Alliance - ICA) đã
đưa ra những các nguyên tắc cần được coi trọng trong phát triển các hợp tác
xã của tất cả các loại và trong mọi xã hội và hệ thống kinh tế, bao gồm: (i) Tự
nguyện và tự do thành viên; (ii) Quản lý dân chủ; (iii) Thu lãi theo trách
nhiệm hữu hạn về vốn; (iv) Phân phối thặng dư cho các thành viên theo tỷ lệ
giao dịch của họ; (v) Hợp tác giáo dục; và (vi) Hợp tác giữa các HTX. Các
nguyên tắc này đều quan trọng và phải được coi trọng như nhau [128].
Akira Kurimoto trong cuốn: “Agricultural Cooperatives in Japan: An
Institutional Approach” (2004), tiếp cận từ góc độ thể chế để giải thích sự tiến
hóa rất khác nhau giữa các HTX NN ở Nhật Bản. Quá trình phát triển HTX NN
ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ XIX đã chịu ảnh hưởng có tính quyết định bởi sự
tương tác giữa. Đây là giai đoạn chuyển đổi từ chế độ bảo hộ sang mở cửa cạnh
tranh, đặt ra những thách thức đối với HTX. Chính sách của nhà nước có tác
động điều chỉnh hoạt động của HTX trong môi trường mới để phát huy lợi thế
của hình thức tổ chức kinh tế này [110].
Ngoài ra, còn có những nghiên cứu về nguyên tắc phát triển HTX, như
“Co-operative Identity, values & principles” của International Co-operative
Alliance (Quốc tế Hợp tác xã Alliance - 2013); “Legal Reforms Needed for
the Effective Development of Cooperatives in Armenia” của Vardanyan, N.
(2011) nghiên cứu về sự cần thiết phải cải cách pháp luật cho phát triển hiệu
quả của HTX tại Armenia; “Determinants of producers’ participation in
agricultural cooperatives: Evidence from Northern China” của Zheng, Shi,
Zhigang Wang, and Titus Awokuse (2012) về yếu tố quyết định sự tham gia
của nhà sản xuất trong các HTX NN - bằng chứng từ miền Bắc Trung Quốc,
triển vọng kinh tế ứng dụng và chính sách v.v…
12
Về hình thức tổ chức của KTTT trong NT, có các nghiên cứu về các lĩnh
vực HTX như: HTX sản xuất và kinh doanh, HTX chăm sóc và trông trẻ,
HTX giáo dục, tài chính, tín dụng, và Liên hiệp tín dụng, thực phẩm và HTX
NN, HTX quản lý rủi ro bảo hiểm, các HTX tiện ích công cộng (điện, khí đốt,
điện thoại), du lịch, nghệ thuật và HTX thủ công mỹ nghệ. Nghiên cứu các
loại hình HTX, có HTX người tiêu dùng và bán lẻ, HTX tiếp thị, HTX sản
xuất dựa trên sở hữu công cộng ở các nước xã hội chủ nghĩa, HTX sản xuất ở
các nước phát triển, HTX sản xuất ở các nước đang phát triển, HTX của
người lao động v.v… [122]. Bài “Problems and prospects of the cooperative
movement in India under the globalization regime” (2006) của Miss
Banishree Das và các cộng sự nghiên cứu về triển vọng của các HTX ở Ấn
Độ trong quá trình toàn cầu hóa; nó có khả năng và tiềm năng để trung hòa
tác dụng phụ đang nổi lên trong quá trình này [130].
Có những nghiên cứu về cơ cấu quản lý HTX, như: “The Structure of a
Cooperative Organization” (2012) của Gerald Hanks (California) quan tâm
phân tích cấu trúc của một tổ chức HTX nói chung. Khác với doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty có một cơ cấu lãnh đạo phân
cấp, HTX có một cấu trúc dân chủ nhiều hơn. Các thành viên của HTX có thể
biểu quyết về nhiệm vụ, phương pháp kinh doanh của mình và thậm chí cả
cấu trúc hình thức của nó. Có hai loại: cấu trúc HTX tập trung và cấu trúc
HTX công ty con [119]. Giới thiệu của Tạp chí Trường Luật (Ấn Độ) Digital
Repository: “Part II. Legal Aspects of Cooperative Organizational Structure,”
(Spring 1952) các khía cạnh pháp lý của cơ cấu tổ chức HTX [133]. “German
Rural Cooperatives” của PD Dr. Michael Prinz (2014) nghiên cứu về cơ cấu
tổ chức của HTX NT ở Đức. Nó không chỉ là HTX sản xuất của những người
nông dân, mà còn có những HTX tín dụng, HTX cung cấp của người tiêu
dùng, HTX tiếp thị… Những hình thức này có vai trò quan trọng trong phát
triển NT [129].
13
1.1.2. Nghiên cứu kinh nghiệm, quản trị, tổ chức, pháp lý và giải
quyết các mối quan hệ liên quan đến kinh tế tập thể trong nông thôn
- Nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển KTTT
Daman Prakash trong cuốn: “Development of Agricultural Cooperatives -
Relevance of Japanese Experiences to Developing Countries” (2003), giới thiệu
về kinh nghiệm phát triển HTX NN ở Nhật Bản để các nước đang phát triển
tham khảo. Trong đó, giới thiệu những sáng kiến và cải cách cơ cấu để có thể
chống lại các tác động tiêu cực của cạnh tranh toàn cầu, điều kiện cần thiết cho
sự thành công của HTX NN, rút ra nhiều bài học kinh nghiệm trong thực tiễn
tích lũy lâu dài của phong trào hợp tác hóa NN ở Nhật Bản [116].
Cuốn: “The Agricultural Cooperatives and Farming Reform in Japan”
của Yamashita, Kazuhito (2009), nghiên cứu về ảnh ảnh hưởng chính trị và
vai trò của cộng đồng NT đối với quá trình phát triển HTX NN ở Nhật Bản.
Đó là những quyết định chính phủ thiết lập giá gạo cao thông qua các hệ
thống kiểm soát thực phẩm chủ yếu. Sự nổi lên của các Hiệp hội HTX NN
của Nhật Bản (JA) dưới sự hỗ trợ của chính phủ đối với việc kiểm soát phân
phối và giá cả của các thực phẩm chủ yếu như gạo, lúa mì, lúa mạch khi bán
ra thị trường nước này [142].
Nghiên cứu của FAO (2012), “Enabling rural cooperatives and
producer organizations to thrive as sustainable business enterprises” về HTX
NT, xác định rằng đây là tổ chức sản xuất đóng vai trò rất quan trọng trong
công cuộc xóa đói giảm nghèo, trong việc thúc đẩy sự hòa hợp xã hội và trong
các thành tựu phát triển kinh tế công bằng hơn. Các nghiên cứu tập trung vào
môi trường kinh doanh, khuôn khổ pháp lý, giới thiệu về hệ thống thông tin,
chính sách, có sự tham gia tư vấn, phát triển chương trình nâng cao năng lực
và thông tin, chuẩn mực văn hóa và quy tắc tập quán. Từ đó, đề xuất giải pháp
nhằm tăng cường năng lực của các HTX NT và tổ chức sản xuất, cũng như
khuyến khích các chính phủ phải thiết lập các chính sách thuận lợi, khuôn khổ
14
pháp lý và quá trình tham gia để thúc đẩy tăng trưởng và tính bền vững của
các HTX ở NT [134].
Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển HTX ở
NT, như: “Agricultural cooperatives and rural livelihoods: Evidence from
Ethiopia” của Getnet, Kindie, and Tsegaye Anullo (2012) viết về HTX NN và
đời sống NT: Bằng chứng từ Ethiopia; “Capital formation in new
cooperatives in China: Policy and practice” của Zhao, Li. (2011) về mô hình
vốn trong HTX mới ở Trung Quốc: Chính sách và thực hành; “Historical
development of agricultural cooperatives in Japan” của Yoshitada Nakaoka -
Giám đốc Viện phát triển HTX NN châu Á - Nhật Bản (IDACA) Tokyo
(1998), giới thiệu về lịch sử phát triển HTX NN Nhật Bản; “Global Strategy
for Development Cooperation 2013-2015” (2012) của Trung tâm Hợp tác
Thụy Điển (SCC) nghiên cứu về chiến lược toàn cầu về hợp tác phát triển cho
giai đoạn 2013-2015 từ những bài học kinh nghiệm rút ra trong phát triển
HTX ở các nước Mỹ Latinh, Đông và Nam châu Phi, và ở Châu Á; “Factors
for successful development of farmer cooperatives in Northwest China” của
Garnevska, Elena, Guozhong Liu, and Nicola Shadbolt (2011) viết về các yếu
tố để phát triển thành công của HTX nông dân ở Tây Bắc Trung Quốc, trình
bày tại các Hiệp hội thực phẩm quốc tế và quản lý kinh doanh NN, Frankfurt,
Đức; “Difficulties for the development of agricultural cooperatives in Russia:
The case for the Kurgan Region” của Golovina, Svetlana, and Jerker Nilsson
(2009) nghiên cứu về những khó khăn cho sự phát triển của HTX NN ở Nga:
Các trường hợp cho khu vực Kurgan v.v…
- Nghiên cứu về quản trị, tổ chức, pháp lý và các khía cạnh chính trị
liên quan đến kinh tế tập thể trong phát triển nông thôn
Azer Efendiev, Pavel Sorokin trong bài: "Rural Social Organization
and Farmer Cooperatives Development in Russia and other Emerging
Economies: Comparative Analysis" (2013), nghiên cứu về tổ chức xã hội NT
15
và phát triển HTX nông dân ở Nga và các nền kinh tế mới nổi khác: Phân tích
so sánh. Trong đó xác định phát triển HTX nông dân là một hướng quan trọng
của sự phát triển kinh tế NT ở các nước đang phát triển thu hút sự chú ý của
các học giả quốc tế. Nga là mối quan tâm đặc biệt trong vấn đề này bởi vì nó
chiếm phần lớn nhất đất NN trên thế giới mà chưa được đưa vào sản xuất.
Mặc dù hỗ trợ tài chính đáng kể từ chính phủ, việc phát triển HTX nông dân ở
Nga phải đối mặt với nhiều khó khăn. Để hiểu rõ hơn các quan điểm phát
triển HTX nông dân thành công ở Nga, các tác giả tiến hành phân tích thực
nghiệm và so sánh các nền kinh tế mới nổi Ấn Độ, Việt Nam, Trung Quốc và
các nền kinh tế mới nổi khác về khía cạnh ảnh hưởng của tổ chức xã hội NT
đến phát triển HTX nông dân. Từ đó nêu phát hiện: (i) Đặc điểm của tổ chức
xã hội địa phương có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của HTX nông dân; (ii)
Yếu tố truyền thống của tổ chức xã hội NT có thể ảnh hưởng đến sự phát triển
HTX nông dân cả tích cực và tiêu cực; và (iii) Trong điều kiện hiện nay của
sự phát triển tổ chức HTX nông dân có thể cần sự trợ giúp mạnh mẽ và quyết
liệt của chính phủ [112]. Việt Nam có thể tham khảo kết quả nghiên cứu này
trong giải quyết vấn đề KTTT hiện nay.
Bên cạnh đó, còn có khá nhiều công trình nghiên cứu về quản trị, tổ
chức, pháp lý và các khía cạnh chính trị liên quan đến KTTT trong phát triển
NT đã công bố trên diễn đàn quốc tế, như: “Interdependencies, measurement
problems, and efficient governance structure: Cooperatives versus publicly
listed firms” của Feng, Li, and George Hendrikse tại Viện nghiên cứu Quản lý
Erasmus (2011), về vấn đề đo lường, và cơ cấu quản trị hiệu quả: Các HTX so
với các công ty niêm yết công khai; “Enabling policy environments for co-
operative development: A comparative experience” của Adeler, Monica Juarez,
Đại học Saskatchewan (2009) về một số kinh nghiệm so sánh về môi trường
chính sách thuận lợi cho phát triển HTX: “The relationship between members’
trust and participation in the governance of cooperatives: The role of
16
organizational commitment” của Barraud-Didiera và các cộng sự (2012) về
mối quan hệ giữa niềm tin của các thành viên và tham gia vào việc quản trị của
HTX, vai trò của tổ chức cam kết; “Agricultural cooperatives an imperative for
the development of social economy? Lessons from rural Albania” của Guri,
Gert (2008) viết về HTX NN là một nhu cầu cho sự phát triển của nền kinh tế
xã hội? Bài học từ NT Albania, Tài liệu trình bày tại Hội nghị nghiên cứu ICA:
"Vai trò của HTX duy trì phát triển và bồi dưỡng trách nhiệm xã hội", Riva del
Garda, Trento, Italy; “Risk management techniques for agricultural
cooperatives: An empirical evaluation” của Manfredo, Mark R., Timothy
Richards, and Scott McDermott (2003) nghiên cứu một đánh giá thực nghiệm về
kỹ thuật quản lý rủi ro cho các HTX NN; “Enhancing co-operative movement to
achieve Malaysia’s development goals” của Othman, Azmah, and Fatimah Kari
(2008) về tăng cường HTX để đạt được mục tiêu phát triển của Malaysia. Tài
liệu trình bày tại Hội nghị nghiên cứu ICA: "Vai trò của HTX duy trì phát triển
và bồi dưỡng trách nhiệm xã hội", Riva del Garda, Trento, Italy v.v…
Còn có một số nghiên cứu về giới liên quan đến KTTT ở NT, như:
“Women’s participation in agricultural cooperatives in Ethiopia” của Woldu
Assefa, Thomas, and Fanaye Tadesse (2012) về phụ nữ trong các HTX NN ở
Ethiopia; “Evaluating credit governance forms: A study of development
banks and cooperatives in meeting the credit needs of rural women” của
Prasad, Bela (1996) nhằm đánh giá các hình thức quản lý tín dụng quan hệ
giữa các ngân hàng phát triển và HTX trong việc đáp ứng nhu cầu tín dụng
của phụ nữ NT… 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.2.1. Những nghiên cứu về lý luận liên quan đến kinh tế tập thể
Trước hết là tác phẩm “Đường kách mệnh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(1927), nêu quan niệm về HTX, lịch sử ra đời và phát triển, mục đích, loại
17
hình HTX (HTX tiền bạc, HTX mua, HTX bán, HTX sinh sản), tổ chức của
các loại HTX, đến cách thức tổ chức HTX, với ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, và
rất ngắn gọn. Tác giả đã phân biệt HTX với Hội buôn…, vai trò của HTX
trong phát triển kinh tế - xã hội, đề xuất nguyên tắc và các hình thức tổ chức
HTX ở Việt Nam trên cơ sở đúc kết từ kinh nghiệm HTX của thế giới điển
hình là Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật [78].
PGS, TS Hoàng Kim Giao trong đề tài: “Kinh tế hợp tác, một số vấn đề
lý luận và thực tiễn”, phân tích một số vấn đề lý luận về kinh tế hợp tác, các
loại hình kinh tế hợp tác, vai trò của nhà nước đối với khu vực kinh tế hợp tác
và nêu kiến nghị phát triển phong trào hợp tác hóa ở nước ta theo mô hình
HTX kiểu mới [31].
PGS, TS Nguyễn Văn Bích, trong đề tài: Đề tài nhánh KHXH 03-03,
“Lý luận, chính sách và giải pháp đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác" (2000),
dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để hệ thống hóa cơ sở lý luận về kinh
tế hợp tác và HTX, tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế hợp tác và HTX ở Việt
Nam tập trung vào giai đoạn từ khi đổi mới đến năm 1999, kiến nghị các quan
điểm, định hướng, giải pháp, chính sách và dự kiến xu thế tiếp tục đổi mới, phát
triển có hiệu quả kinh tế hợp tác và HTX ở Việt Nam trong những năm trước
mắt và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước [4].
“Cơ sở khoa học và thực tiễn cho định hướng chiến lược phát triển hợp
tác xã đến năm 2020”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Vụ Hợp tác xã, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chủ trì (10/2005); Cục HTX và phát triển NN hợp tác với tổ chức
JICA của Nhật Bản (2007 - 2008), Điều tra về tình hình HTX nông nghiệp
năm 2004 và công bố “Dự án tăng cường chức năng HTX NN, phân tích hoạt
động tiêu thụ sản phẩm của HTX NN điển hình”, Hà Nội.
Cuốn: “Tư tưởng hợp tác xã: kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt
Nam” (2012), tham khảo luật HTX của một số quốc gia, nghiên cứu kinh
nghiệm hoạt động của các HTX trên thế giới để bổ sung, hoàn thiện khung
18
khổ pháp luật Việt Nam về HTX, tìm kiếm phương thức hoạt động hiệu quả
cho hệ thống HTX Việt Nam [5].
1.2.2. Các nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể
PGS, TS Hoàng Kim Giao (1997), Hợp tác xã ở Israel, trong tài liệu
phục vụ nghiên cứu đề tài Kinh tế hợp tác, một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
do Viện Kinh tế hợp tác thuộc Liên minh HTX Việt Nam chủ trì. Giới thiệu
khái quát phong trào HTX với lịch sử phát triển gần 100 năm ở một quốc gia
có ý thức cộng đồng rất cao của những người Do thái.
PGS, TS Hoàng Kim Giao (1997), Hợp tác xã ở Thái Lan, trong tài liệu
phục vụ nghiên cứu đề tài Kinh tế hợp tác, một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
do Viện Kinh tế hợp tác thuộc Liên minh HTX Việt Nam chủ trì. Giới thiệu
quá trình phát triển của các loại hình HTX ở Thái Lan từ khi thành lập tổ chức
đầu tiên (năm 1916) đến nay, bao gồm HTX NN, HTX định cư đất đai, HTX
tiêu dùng, HTX tín dụng và tiết kiệm…
PGS. TS. Hoàng Kim Giao (1997), Hợp tác xã ở Indonexia, trong tài
liệu phục vụ nghiên cứu đề tài Kinh tế hợp tác, một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, do Viện Kinh tế hợp tác thuộc Liên minh HTX Việt Nam chủ trì. Phân
tích các chính sách của chính phủ nước này về phát triển HTX từ năm 1958
đến những năm gần đây, chỉ ra vai trò của Chính phủ trong quản lý phát triển
hình thức tổ chức này ở Indonexia.
Cuốn “Bản chất hợp tác xã - kinh nghiệm thế giới và khả năng vận
dụng ở Việt Nam” của Vụ HTX, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ấn hành năm 2007,
bàn về những nhận thức về kinh tế tập thể mà chủ yếu về HTX, giới thiệu một
số kết quả nghiên cứu, viết về HTX từ trước tới nay của các tác giả trong và
ngoài nước, chỉ rõ những nhận thức về bản chất, nguyên tắc và hình thức tổ
chức HTX mà Việt Nam có thể vận dụng.
TS. Nguyễn Minh Tú (2010), Mô hình tổ chức Hợp tác xã kiểu mới,
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. Cuốn sách khái lược quá trình ra đời,
19
hình thành và phát triển của HTX trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng; bản chất, nguyên tắc và giá trị của HTX. Từ đó khẳng định, củng cố và
phát triển HTX là một xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới hiện nay
và mai sau.
1.2.3. Các nghiên cứu liên quan đến thực tiễn tổ chức và phát triển
kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới
Bùi Văn Trịnh, trong: “Điều tra hiện trạng và đề xuất một số giải pháp
chủ yếu nhằm củng cố và phát triển nhân rộng các tổ chức hợp tác xã phù hợp
với nguyện vọng của các thành viên cộng đồng tỉnh Hậu Giang” hướng phân
tích đánh giá những yếu kém của KTTT, dự báo nhu cầu của từng cộng đồng
dân cư trong KTTT ở tỉnh Hậu Giang; đề xuất các giải pháp chính sách thúc
đẩy phát triển KTTT trên địa bàn. Trong đó, đã quan tâm phân tích quan điểm
của Đảng về KTTT, đặc trưng của HTX NN kiểu mới, nguyện vọng của từng
cộng đồng cư dân NN và NT trong phát triển KTTT ở tỉnh Hậu Giang... [89].
PGS.TS Nguyễn Trọng Hoài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả HTX gắn
liền với xóa đói giảm nghèo tại Bến Tre” (2011), hướng vào khảo sát lý thuyết
và kinh nghiệm phát triển HTX trên thế giới, ở Việt Nam, Đồng Bằng Sông
Cửu Long và hệ thống HTX tỉnh Bến Tre, hình thành khung phân tích các
nhân tố quyết định sự tham gia của cộng đồng vào HTX, các nhân tố ảnh
hưởng đến việc phát triển bền vững hệ thống HTX. Trong đó, tập trung
nghiên cứu 4 mục tiêu: tình hình hoạt động của HTX trên địa bàn tỉnh Bến
Tre giai đoạn 2001-2010, các tác động của việc hình thành và hoạt động HTX
đối với kinh tế-xã hội và giảm nghèo, nhu cầu và nguyện vọng hợp tác của
các thành viên trong cộng đồng HTX, và đề xuất giải pháp nhằm củng cố và
phát triển mô hình HTX gắn liền với giải quyết vấn đề giảm nghèo trên địa
bàn tỉnh Bến Tre [36].
TS Đặng Ngọc Lợi: “Rào cản trong phát triển các HTX ở Việt Nam”
(2010), dựa vào nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn về quá trình vận
20
động và phát triển của các hình thức hợp tác, các mô hình HTX ở Việt Nam,
kinh nghiệm của một số quốc gia, để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động
của mô hình này giai đoạn trước Đổi mới đến năm 2009, rút ra những kết quả
đạt được, những hạn chế và nguyên nhân, tìm kiếm những rào cản làm cản trở
quá trình phát triển của HTX, đề xuất các giải pháp nhằm tháo gỡ các rào cản,
thúc đẩy phát triển các HTX ở Việt Nam trong thời gian tiếp theo [51].
Nghiên cứu của nhóm tác giả thuộc Vụ NN và Phát triển NT và Ban
Kinh tế Trung ương trong đề tài: "Chiến lược phát triển HTX giai đoạn 2006-
2020" đã quan tâm đến kinh nghiệm phát triển các HTX ở một số nước như
Canada, Mỹ, Hàn Quốc, Đức, Thụy Điển...; phân tích, đánh giá thực trạng các
mô hình HTX (NN, thương mại dịch vụ, vận tải...) với nhiều mô hình nhỏ như
HTX thương mại dịch vụ tổng hợp (Duy Sơn, Quảng Nam), HTX tiêu dùng
(ĐH Kinh tế quốc dân), Liên hiệp HTX thương mại (Hà Nội, Cần Thơ, TP Hồ
Chí Minh), HTX mua bán (Cần Thơ), HTX vận tải Nội Bài (Hà Nội), HTX
quản lý kinh doanh chợ (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai...) và cũng nêu
một số mô hình HTX dịch vụ như dịch vụ điện năng, dịch vụ y tế, dịch vụ môi
trường, dịch vụ suất ăn công nghiệp...; tổng kết kinh nghiệm trong nước và
quốc tế, đề xuất định hướng, quan điểm và giải pháp phát triển mô hình HTX
Việt Nam đến năm 2020.
Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã trong cuốn “Đổi mới tổ chức và
quản lý các Hợp tác xã trong NN và NT” nhằm phân tích thực trạng quản lý
các HTX NN ở Việt Nam kể từ khi thành lập và kiến nghị giải pháp đổi mới
phương thức quản lý này đáp ứng yêu cầu phát triển mô hình HTX theo Luật
HTX ban hành năm 1996 [75].
Cuốn “Kinh tế hợp tác trong NN nước ta hiện nay” (2003) do TS Phạm
Thị Cần (chủ biên), nghiên cứu những lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp tác,
sự cần thiết phải lựa chọn các hình thức kinh tế hợp tác phù hợp với đặc điểm,
điều kiện NN nước ta và đề xuất những giải pháp cần thiết để phát triển các
21
hình thức kinh tế hợp tác trong NN vì mục tiêu phát triển kinh tế hàng hóa,
thực hiện CNH, HĐH NN, NT [12].
Chu Thị Hảo, “THT trong NN NT Việt Nam hiện tại và tương lai” (2006)
nghiên cứu về nhu cầu hợp tác là một xu thế tất yếu khách quan của kinh tế hộ
ở NT trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; phân tích quá trình phát
triển hình thức THT trong NN nước ta giai đoạn 1958 - 2005, đánh giá và đề
xuất hướng phát triển các hình thức THT trong NN, NT Việt Nam [33].
TS. Chu Tiến Quang trong cuốn “Kinh tế hộ gia đình ở NT Việt Nam”
(2009) đã bàn về đặc điểm và xu hướng vận động của kinh tế hộ ở NT Việt
Nam trong thời gian tới phải hợp tác để tồn tại và phát triển. Lưu Đức Khải
trong cuốn “Kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” (2014), xác định vai trò của KTTT, HTX là phải tạo cơ hội
và phương thức phát triển kinh tế cho những người lao động đơn lẻ,
những chủ doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình, tập hợp lại với nhau để tạo ra
sức mạnh mới, nhằm khắc phục khó khăn, tránh rủi ro trước những thế lực
thị trường. Với tư cách là một thể chế kinh tế đặc biệt, HTX không những
có thể phát huy lợi thế và tiềm năng của mình trong nền kinh tế thị trường
mà còn góp phần khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị trường [41].
PGS. TS Lê Quốc Lý trong cuốn “CNH, HĐH NN, NT” (2012), có bàn đến
vấn đề cơ giới hóa trên đồng ruộng và khâu chế biến nông sản… và vai trò
của HTX NN như thế nào?
Phạm Thắng với bài: "Phát triển KTTT, bảo đảm nền kinh tế phát
triển bền vững”, nhằm xác định sự phục hồi của KTTT ở nước ta và xuất
hiện những mô hình HTX kiểu mới hoạt động hiệu quả, nâng cao thu nhập
của các thành viên. Để phát huy tốt hơn nữa tiềm năng của hình thức kinh
tế này, trong thời gian tới cần có những giải pháp hữu hiệu [79].
PGS.TS Vũ Văn Phúc trong cuốn: “Xây dựng NTM - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” (2012), phân tích một số nội dung xây dụng NTM, khẳng
22
định vai trò chủ thể của người nông dân, nêu các hình thức sản xuất tồn tại
trong NT (kinh tế hộ, kinh tế trang trại, THT, HTX và doanh nghiệp tư nhân)
đề xuất hướng phải sớm đạt được tiêu chí số 13 (có THT hoặc HTX hoạt động
hiệu quả). Bùi Văn Huyền với cuốn: “Hợp tác xã-Nhìn từ góc độ thực tiễn ở
Đồng Nai” (2011) phân tích một số lý luận về HTX để đánh giá thực trạng và
đề xuất giải pháp phát triển HTX ở Đồng Nai trong những năm tới. TS. Đặng
Kim Sơn cũng có những nghiên cứu về “Tái cơ cấu nền NN Việt Nam theo
hướng giá trị gia tăng cao” (2012), trong đó liên quan đến vấn đề HTX.
Ngoài các công trình khoa học đã công bố như trên, còn có các bài viết
về kinh nghiệm, mô hình phát triển KTTT, tình hình và giải pháp phát triển
KTTT, sự liên kết “các nhà” cho phát triển KTTT, vai trò của nhà nước đối với
việc định hướng và phát triển thành phần kinh tế này trên một số sách, tạp chí
trong nước. Chẳng hạn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Vụ HTX (2009), Hiện trạng
HTX ở nước ta: phân tích một số kết quả điều tra năm 2008; Liên Minh HTX
Việt Nam, Trung tâm hỗ trợ phát triển HTX, doanh nghiệp nhỏ và vừa Khu vực
miền Trung Tây nguyên, Đề tài Khoa học (2011), Tái cấu trúc HTX trong quá
trình hội nhập - Cơ sở lý luận và thực tiễn…
Có nhiều bài viết theo chủ để liên quan đến KTTT trong xây dựng
NTM, như: Chu Tiến Quang, Lê Xuân Quỳnh (2005): "Tiếp tục đổi mới và
phát triển kinh tế hợp tác và HTX Việt Nam", đề cập những điểm cơ bản
trong đổi mới về tư duy, nội dung và phương thức hoạt động của các HTX,
với ý nghĩa vừa là bộ phận nòng cốt, vừa thể hiện một cách đầy đủ nhất
những tố chất của KTTT [68]; GS,TS. Nguyễn Thiện Nhân: "HTX kiểu mới:
Giải pháp đột phá phát triển NN Việt Nam" (2015), khẳng định quy luật phát
triển của kinh tế hợp tác là không phủ định, không thay thế kinh tế hộ mà
làm cho kinh tế hộ có sức cạnh tranh tốt hơn và thu nhập cao hơn trong điều
kiện cạnh tranh toàn cầu. Nêu nhận thức bản chất và vai trò của KTTT và
HTX qua thực tiễn quốc tế, bản chất và vai trò tất yếu của kinh tế hợp tác
23
qua các điển hình HTX thành công của Việt Nam; khẳng định HTX kiểu
mới là giải pháp đột phá phát triển NN, NT Việt Nam hiện nay [64]. TS.
Phạm Việt Dũng, “Phát triển hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm
2012” (2016) [19]; Phạm Quang Minh: "Mô hình kinh tế hợp tác đầu tiên ở
Việt Nam có từ bao giờ?" (2015)...
Trong khoảng 3 năm gần đây, đã xuất hiện các công trình nghiên cứu
và bài viết về phát triển mô hình KTTT trên một địa bàn cấp tỉnh, cấp huyện
hoặc một HTX. Một số bài có hướng nghiên cứu gắn phát triển KTTT với xây
dựng NTM, tiêu biểu như: “Phát triển KTTT trong NN trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai đến năm 2020” (2014) của Nguyễn Minh Ảnh; “Khẳng định vai trò HTX
trong xây dựng NTM" của UBND thành phố Hà Nội (2013); “Vai trò quan trọng trong hỗ trợ KTTT trong phát triển” của Sở Công Thương tỉnh Yên Bái
(2016); "Phát triển KTTT, bảo đảm nền kinh tế phát triển bền vững" (2015)
của Phạm Thắng đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử; “Kế hoạch phát triển
KTTT giai đoạn 2016-2020” của UBND huyện Bình Sơn” (2015); bài "KTTT tiếp tục phát triển" của Nguyễn Khâm và bài “Phát huy vai trò KTTT trong
xây dựng NT mới” của Hồng Hà đăng trên báo Quảng Ngãi năm 2015 v.v... 1.3. KẾT LUẬN RÚT RA TỪ NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN VÀ VẤN ĐỀ TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn đã giải quyết Các công trình và bài viết đã công bố ở trong và ngoài nước nêu trên đã
giải quyết được nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển
KTTT trong xây dựng NTM. Đó là:
Đã luận giải những nội dung cơ bản của cơ sở ra đời và phát triển của
KTTT, khẳng định liên minh và hợp tác trong sản xuất kinh doanh rõ ràng
làm tăng sức mạnh của cá nhân lên bội lần. Sự phát triển hình thức hợp tác là
cần thiết để tạo ra cộng đồng kinh tế, phát triển xã hội.
Một số công trình đã tiếp cận từ lịch sử ra đời và phát triển HTX, thông
qua các bằng chứng thống kê cho thấy, đây một hình thức được phát triển
24
rộng khắp trong khu vực NT ở các nước và là hiện tượng rất phổ biến. Lúc
đầu hình thức này được diễn ra ở các nước tư bản phát triển nhằm chống lại
sự chèn ép của các nhà tư bản, nhưng ngày nay đã phát triển ở khắp các nước
kể cả nước đang phát triển và nước phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra các giai đoạn phát triển HTX từ khi hình thành
đến nay. Chỉ ra được một số ý nghĩa của phong trào hợp tác hóa, phạm vi hợp
tác, mục tiêu của hợp tác, đặc điểm của một doanh nghiệp HTX.
Đã có nhiều phân tích để chỉ ra vai trò của KTTT trong phát triển NT.
Khẳng định HTX là một doanh nghiệp thuộc sở hữu chung tham gia vào việc
sản xuất hoặc phân phối hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ, hoạt động của các
thành viên của mình vì lợi ích chung, nó thường được tổ chức bởi người tiêu
dùng hoặc người nông dân. Có những nghiên cứu phân tích tính ảnh hưởng của
HTX đến sự phát triển bền vững cộng đồng, đến môi trường sinh thái ở NT,
xác định mối quan hệ giữa HTX với toàn cầu hóa và tự do thương mại, HTX
với người dân thiểu số, với phong trào xã hội và với phát triển phụ nữ ở NT. Sự
phát triển của HTX sẽ làm tăng cường khả năng phát triển và nâng cao khả
năng phục vụ các thành viên tham gia. Sự phát triển của hình thức HTX là một
phần quan trọng trong chính sách của quốc gia để hỗ trợ các nhà sản xuất NN
đối phó với các vấn đề mà người sản xuất cá thể phải đối mặt trên thị trường.
Một số công trình bàn về vai trò của các HTX trong phát triển NT trên các
khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường.
Một số công trình đã quan tâm làm rõ những nguyên tắc và hình thức tổ
chức của KTTT trong NT. Những nguyên tắc về HTX được đề xuất từ nhiều
công trình là: tự nguyện và tự do của các thành viên, quản lý dân chủ, thu lãi
theo trách nhiệm hữu hạn về vốn, phân phối công bằng cho các thành viên
theo mức độ giao dịch của mỗi người. Các nguyên tắc này đều phải được coi
trọng như nhau. Có nghiên cứu còn quan tâm đến chính sách nhà nước và các
tổ chức công nghiệp đối với sự phát triển của các HTX. Có những nghiên cứu
xác định hình thức tổ chức liên quan đến KTTT trong NT, chỉ ra hình thức
25
trong các lĩnh vực HTX như: HTX sản xuất và kinh doanh, HTX chăm sóc và
trông trẻ, HTX giáo dục, tài chính, tín dụng, và Liên hiệp tín dụng, thực phẩm
và HTX NN, HTX quản lý rủi ro bảo hiểm, các HTX tiện ích công cộng, du
lịch, nghệ thuật và HTX thủ công mỹ nghệ; các loại hình HTX như: HTX
người tiêu dùng và bán lẻ, HTX tiếp thị, HTX sản xuất dựa trên sở hữu công
cộng ở các nước xã hội chủ nghĩa, HTX sản xuất ở các nước phát triển…
Chủ đề về kinh nghiệm phát triển HTX ở NT luôn được bàn luận từ các
nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế nhất là của Ủy ban Liên minh HTX
quốc tế (ICA) và Tổ chức nông lương thế giới (FAO) và khá nhiều nghiên cứu
công bố trong nước, đã rút ra từ các bằng chứng những kinh nghiệm về quản
trị, tổ chức, pháp lý, chính sách của chính phủ liên quan đến KTTT trong NT
để các nước tham khảo. Cũng đã có nghiên cứu quan tâm đến mối quan hệ ảnh
hưởng lẫn nhau giữa tổ chức xã hội NT và phát triển HTX nông dân; về mối
quan hệ giữa niềm tin của các thành viên với ban quản trị HTX; về quan hệ
giữa HTX với việc duy trì, phát triển trách nhiệm xã hội.
Ở trong nước, việc nghiên cứu KTTT trong mối liên hệ với xây dựng
NTM tuy mới thực hiện trong mấy năm gần đây, nhưng trong công cuộc đổi
mới của đất nước cũng đã có nhiều công trình bàn về HTX kiểu mới, khẳng
định đây là mô hình có nhiều ưu điểm hơn so với các HTX trước kia đã từng
được phát triển ở Việt Nam. Những nghiên cứu về lý luận đã thống nhất quan
điểm sự cần thiết phát triển KTTT và HTX trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường, coi KTTT là một bộ phận cấu thành nền kinh tế nhiều
thành phần có vai trò quan trọng cần được thúc đẩy phát triển. Khẳng định
HTX kiểu mới là giải pháp đột phá phát triển NN, NT Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Nhiều nghiên cứu thực tiễn phát triển KTTT và HTX ở NT trên bình
diện quốc gia và có nghiên cứu ở cấp tỉnh, cấp huyện tiếp cận từ lý luận
chung để phân tích, đánh giá thực trạng trong một giai đoạn phát triển xác
26
định trên các khía cạnh khác nhau như nguyên tắc, hình thức tổ chức, khung
khổ pháp lý, cơ chế quản lý, từ đó kiến nghị phương hướng và giải pháp chính
sách tiếp tục củng cố và thúc đẩy phát triển. Có một số nghiên cứu đã đề cập
đến tái cấu trúc hình thức KTTT, vai trò của các liên kết kinh tế trong NN,
NT trong đó có chủ thể là các HTX theo hướng phát triển bền vững.
Riêng ở tỉnh Quảng Ngãi, trong thời gian gần đây cũng đã có một số
công trình, bài viết nghiên cứu liên quan KTTT trong xây dựng NTM. Có một
số bài viết quan tâm ở khía cạnh lý luận, một số bài đi vào phân tích, đánh giá
thực tiễn, tìm giải pháp thúc đẩy phát triển. Tuy nhiên, những công bố cũng
mới chỉ ở dạng các bài viết đăng trên một số báo.
1.3.2. Những khoảng trống trong các công trình hiện có về kinh tế
tập thể trong xây dựng nông thôn mới và nhiệm vụ của đề tài luận án
Những công trình, bài viết trên đã được tiếp cận dưới các góc độ của
các chuyên ngành khoa học khác nhau, chủ yếu là của khoa học quản lý, kinh
tế phát triển, kinh tế NN. Nội dung của các công trình đã công bố vẫn còn
"khoảng trống" trong một số vấn đề về KTTT trong xây dựng NTM tiếp cận
dưới góc độ kinh tế chính trị học, cụ thể là:
Thứ nhất, việc phát triển KTTT ở nước ta đã bước vào giai đoạn mới
của đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Đã xuất hiện
không ít vấn đề mới, như xác định tiêu thức để nước ta trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Con đường phát triển của KTTT dù ở NT
hay ở thành thị của nước ta phải được xác định lại theo hướng phát triển này.
Thêm vào đó, nước ta đang hội nhập mạnh mẽ vào các quan hệ kinh tế quốc
tế mà nổi bật là tham gia ngày càng nhiều vào các Hiệp định thương mại tự do
(FTA) song phương và đa phương, điển hình là Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP) v.v... Cùng với sự tham gia đó, mức độ cạnh tranh
của nước ta về sản phẩm, doanh nghiệp và cạnh tranh quốc gia sẽ càng gay
27
gắt, quyết liệt hơn. Trong bối cảnh đó, KTTT ở NT Việt Nam không thể đứng
ngoài cuộc, điều này khiến cho những nhận thức và định hướng chính sách về
phát triển KTTT trước đây không còn phù hợp.
Thứ hai, kể từ Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X
của Đảng (năm 2008), NN, nông dân và NT mước ta bước vào giai đoạn phát
triển mới, trong đó nổi lên là Chương trình xây dựng NTM. Việc phát triển
kinh tế và việc tổ chức các hình thức kinh tế ở NT không chỉ nhằm vào đẩy
mạnh CNH, HĐH NN, NT mà còn hướng vào các mục tiêu rất thiết thực để
xây dựng NTM. Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm phát triển KTTT
trước đây tuy đã được nhiều tác giả quan tâm, công bố, nhưng chỉ giới hạn
trong tư duy cũ, thay thế hình thức KTTT kiểu cũ bằng những hình thức KTTT
kiểu mới trong giai đoạn đầu chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, mà chưa chú trọng
tới yêu cầu phát triển KTTT gắn với xây dựng NTM. Nếu vấn đề mới này
không được nghiên cứu có tính hệ thống thì không thể có cơ sở cho những
quyết sách có tính thiết thực để phát triển đúng hướng hình thức KTTT của cả
nước nói chung, của mỗi tỉnh nói riêng.
Thứ ba, KTTT ở tỉnh Quảng Ngãi về cơ bản đã chuyển đổi các sang
hoạt động theo Luật HTX năm 2003, việc xây dựng KTTT của tỉnh đã có sự
chuyển biến nhất định cả về quy mô, số lượng, chất lượng và hoạt động, đã
đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế, xã
hội, văn hóa ở NT. Bên cạnh chủ trương xây dựng NTM của Đảng, năm 2012,
Quốc hội đã ban hành mới Luật HTX (Luật số 23/2012/QH13), những chuyển
đổi mô hình KTTT trước đây không còn phù hợp. Trong bối cảnh đó, việc
nghiên cứu lý luận để tìm cơ sở cho chính sách và giải pháp phát triển KTTT
trên địa bàn tỉnh cũng mới chỉ dừng ở những bài viết trên báo; không ít HTX
lúng túng trong tổ chức hoạt động. Những vấn đề nêu trên hiện đang là
“khoảng trống”, cần phải được tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ.
28
Đề góp phần vào lấp đầy "khoảng trống" này và thúc đẩy phát triển
mạnh mẽ KTTT trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu xây dựng
NTM, tác giả luận án sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Hệ thống hóa và chỉ ra điểm mới trong nhận thức lý luận về phát triển
KTTT trong xây dựng NTM ở Việt Nam nói chung, một tỉnh trong nước nói
riêng tiếp cận dưới góc độ Kinh tế chính trị học.
- Tìm hiểu thực tiễn nước ngoài và các tỉnh trong nước để rút ra bài học
kinh nghiệm về phát triển KTTT trong xây dựng NTM để tỉnh Quảng Ngãi
tham khảo, học hỏi.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra những thuận lợi và khó khăn của
tỉnh Quảng Ngãi hiện nay trong phát triển KTTT gắn với xây dựng NTM, xác
định phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển KTTT trong xây
dựng NTM trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
29
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1. BẢN CHẤT, HÌNH THỨC, NGUYÊN TẮC VÀ XU HƯỚNG CỦA KINH
TẾ TẬP THỂ, QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1.1. Bản chất và hình thức của kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới
- Sự ra đời và phát triển của KTTT Để nghiên cứu bản chất của KTTT trong xây dựng NTM, trước hết cần
xem xét quá trình ra đời và phát triển của nó. Về lịch sử, KTTT mà nòng cốt của nó là HTX được hình thành đầu tiên ở Châu Âu từ cuối thế kỷ XVIII gắn với cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tại Anh, nơi diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp sớm nhất, các cơ sở dệt tư nhân nhỏ lẻ đứng trước thực tế không thể cạnh tranh được với các nhà máy dệt công nghiệp tư bản qui mô lớn mới được hình thành, có nguy cơ bị phá sản. Để nâng cao sức cạnh tranh trước các doanh nghiệp tư bản, theo tinh thần tự cứu lấy mình, ngày 24/10/1844, 28 người thợ dệt ở Rochdale đã thành lập Liên minh những người tiên phong công bằng Rochdale. Đây được xem là mô hình HTX mua bán đầu tiên trên thế giới thông qua việc mua với số lượng lớn để mua rẻ hơn. Còn tại Đức, năm 1847, Hermann Schulze - Delitzsch (1808-1883) đã thúc đẩy sự hình thành các HTX cung cấp nguyên vật liệu đầu vào với giá rẻ cho các thợ mộc và thợ đóng giày đang có nguy cơ phá sản, nhờ đó mà nâng cao được khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp đồ gỗ và da giày, thoát khỏi nguy cơ bị phá sản. Đến năm 1850, ông khởi xướng việc thành lập các HTX tín dụng đầu tiên, được gọi là “Hiệp hội tiên tiến”. Ông cũng đã soạn thảo một đạo luật HTX mà năm 1867 đã trở thành Luật HTX của Liên bang Bắc Đức (cách đây gần 150 năm) và năm 1889 trở thành bộ luật HTX của toàn nước Đức.
30
Theo quá trình phát triển, phong trào HTX ngày càng mở rộng và trở
thành phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Đến đầu thế kỷ XXI, KTTT đã có
mặt ở 180 nước và vùng lãnh thổ với nhiều hình thức HTX trong các lĩnh vực
khác nhau như HTX NN, HTX dịch vụ, HTX mua bán, HTX tín dụng, HTX
nhà ở, HTX y tế, HTX trường học, HTX năng lượng, HTX chăm sóc người
già,... Hình thức KTTT đã thu hút hơn 800 triệu xã viên, tạo việc làm cho
khoảng 3 tỷ người (dân số thế giới là 7 tỷ người). Riêng ở Châu Âu có gần 290
ngàn HTX với 140 triệu xã viên, trong đó có 30 ngàn HTX NN và hàng chục
ngàn HTX, THT ở các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau hoạt động ở NT [64].
Thực tiễn hơn 200 năm qua cho thấy tổ chức HTX tồn tại khắp nơi trên
thế giới, cung cấp các dịch vụ thiết yếu mà nếu không sẽ không thể đạt được.
Đây là một hình thức KTTT phổ biến, hoạt động trên nhiều lĩnh vực đời sống
xã hội và hiện diện ở mọi nền kinh tế không phân biệt trình độ phát triển. Mục
đích hoạt động của KTTT là tập trung nguồn lực để phát triển trong quan hệ
giao dịch với các tổ chức bên ngoài vì lợi ích chung của những người tham gia.
Sự ra đời của KTTT là tất yếu khách quan, do lực lượng sản xuất và kinh
tế thị trường đã đạt tới một trình độ phát triển nhất định. Trong quá trình hoạt
động của mình, những người sản xuất cá thể và các hộ gia đình sẽ không thể
cạnh tranh được các công ty lớn để tồn tại và phát triển nếu họ không liên kết,
hỗ trợ và phối hợp với nhau. Những liên kết, hỗ trợ, phối hợp trong sản xuất
giữa họ không chỉ diễn ra theo chiều dọc, mà còn ở cả chiều ngang, tức là họ có
thể liên kết để “khép kín” việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho nhau, nương
tựa vào nhau nhằm phát triển quan hệ giao dịch, chống lại sự chèn ép, bóc lột
của các đối thủ bên ngoài và của các công ty lớn. KTTT chính là kết quả tất
yếu của sự phản ứng của những người sản xuất, kinh doanh cá thể, các hộ gia
đình với sức ép của các công ty lớn trong nền kinh tế thị trường để duy trì hoạt
động và làm tăng thu nhập của các thành viên tham gia.
KTTT không chỉ ra đời và hoạt động ở các ngành công nghiệp và các
ngành dịch vụ, mà nó còn trở nên phổ biến trong các lĩnh vực của ngành NN;
31
không chỉ xuất hiện ở khu vực thành thị, mà đã trở nên phổ biển trong khu vực
NT của nhiều nước. Tại các địa bàn NT, sự phát triển của KTTT luôn đi liền và
gắn với phát triển khu vực NT. Ở Việt Nam hiện nay, việc phát triển KTTT
được lựa chọn gắn kết với chương trình xây dựng NTM.
- Các hình thức của KTTT ở nông thôn
Căn cứ vào tính chất, mức độ gắn kết của quan hệ hợp tác, lĩnh vực
hoạt động, mục đích của các chủ thể tham gia và trình độ pháp lý trong cơ chế
điều hành quan hệ giữa các thành viên tham gia và từ thực tiễn, có thể phân
chia KTTT ở NT thành các hình thức sau đây:
+ THT: Đây là hình thức đầu tiên, thấp nhất của KTTT ở NT. Về bản
chất, nó là sự kết hợp của các cá nhân, đơn vị sản xuất, kinh doanh để tạo ra
sức mạnh lớn hơn - sức mạnh của tập thể, để thực hiện những công việc mà
từng cá nhân, đơn vị riêng lẻ khó hoặc không thể thực hiện được mà nếu có
thực hiện được thì cũng kém hiệu quả so với việc họ hợp tác với nhau. Theo
C. Mác, hình thức lao động, trong đó có nhiều người làm việc theo kế hoạch
bên cạnh nhau và cùng với nhau trong quá trình sản xuất, hay trong những quá
trình khác nhau gắn liền với nhau thì gọi là hợp tác; trong tất cả các trường hợp
ấy, lao động của từng người riêng rẽ không thể nào đạt tới kết quả lao động
chung hoặc chỉ đạt tới sau một thời gian rất lâu, hoặc với qui mô rất nhỏ. Ở
đây, vấn đề không chỉ là nâng cao sức sản xuất cá nhân bằng sự hiệp tác, mà
còn tạo ra sức sản xuất tự nó đã là một sức tập thể rồi [57, tr 473].
Sự ra đời của THT xuất phát từ nhu cầu thực tế và là hình thức tất yếu
nảy sinh trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của con người. Theo
C. Mác, người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo
một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn
sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ nhất định với nhau và quan
hệ của họ với giới hạn tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn
khổ và những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó [59, tr 552].
32
Mặt khác, khi loài người sống thành cộng đồng, có tổ chức thì nhu cầu
hợp tác đã diễn ra. Đó là sự hợp tác phối hợp hoạt động với nhau trong lao
động sản xuất, trong chinh phục tự nhiên và tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Khái niệm hợp tác được dùng phổ biến cho nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội. Còn kinh tế hợp tác là phạm trù hẹp hơn, chỉ phạm vi hợp tác
trong lĩnh vực kinh tế, là sự tự nguyện phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ nhau giữa các
chủ thể kinh tế. C.Mác viết: “… sức sản xuất đặc biệt của ngày lao động kết
hợp là sức sản xuất xã hội của lao động. Sức sản xuất đó nảy sinh từ chính
ngay sự hợp tác” [57, tr 478].
So với sản xuất cá thể, hình thức hợp tác có những ưu thế, đó là tiết
kiệm được tư liệu sản xuất, kích thích thi đua nên nâng cao năng suất lao
động, mở rộng hoặc thu hẹp không gian khi cần thiết… Chính vì vậy, sự phát
triển của các hình thức, tính chất thích hợp của hợp tác có tác dụng thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển. Cùng với tiến trình phát triển của xã hội, phân công
lao động xã hội và chuyên môn hoá ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn
chiều sâu thì nhu cầu về hợp tác lao động ngày càng tăng, mối quan hệ hợp
tác ngày càng chặt chẽ và mở rộng. Đây là sự vận động tất yếu của sự phát
triển sản xuất xã hội và là xu hướng phát triển các hình thức xã hội hóa sản
xuất mà không ai hay bất kỳ một lực lượng nào có thể cưỡng lại được.
Ở nước ta, tổ/nhóm hợp tác hình thành trên cơ sở tự nguyện của các
chủ thể kinh tế độc lập, có hình thức và mục đích hoạt động kinh doanh giống
nhau, nhằm cộng tác, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm vì mục tiêu lợi nhuận của mỗi thành
viên có thể thu được cao hơn so với nếu không hợp tác. THT hoạt động theo
qui chế được các thành viên thảo luận dân chủ và xây dựng thành văn bản
(Hợp đồng hợp tác). Các tổ/ nhóm hợp tác có nội dung, nguyên tắc hoạt động
gần giống HTX nhưng khác ở chỗ THT hoạt động không có điều lệ, không có
tư cách pháp nhân.
33
+ Hợp tác xã, Liên hiệp HTX và doanh nghiệp HTX
Theo Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA), HTX là một tổ chức kinh
doanh thuộc sở hữu và điều hành bởi một nhóm các cá nhân vì lợi ích lẫn
nhau của họ, là "một hiệp hội tự trị của những người đoàn kết tự nguyện để
đáp ứng nhu cầu chung của kinh tế, xã hội và văn hóa và nguyện vọng thông
qua các doanh nghiệp đồng sở hữu và kiểm soát dân chủ ". Nó có thể còn
được quan niệm là một doanh nghiệp thuộc sở hữu và kiểm soát do các người
sử dụng dịch vụ của mình hoặc những người làm việc ở đó.
Theo Luật HTX năm 2012 của Việt Nam, “HTX là tổ chức KTTT,
đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành
lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo
việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý HTX”. Quỹ tín dụng
nhân dân cũng thuộc hình thức HTX, vì nó được tổ chức và hoạt động theo
Luật HTX năm 2012 và được gọi là HTX tín dụng.
“Liên hiệp HTX là tổ chức KTTT, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân,
do ít nhất 04 HTX tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của HTX thành
viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản
lý liên hiệp HTX”.
Khi HTX, liên hiệp HTX phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình
thành các doanh nghiệp của HTX, liên hiệp HTX; doanh nghiệp của HTX,
liên hiệp HTX hoạt động theo Luật doanh nghiệp [73].
- Bản chất của KTTT trong xây dựng NTM
Việc nhận diện bản chất của KTTT trong xây dựng NTM được tiếp cận
từ bản chất của HTX nói chung và đặc điểm của nó trong tiến trình xây dựng
NTM. Theo ICA, HTX là một tổ chức tự chủ của người tự nguyện liên kết với
nhau để đáp ứng những nguyện vọng và nhu cầu chung về kinh tế, xã hội, văn
34
hoá của họ, hoạt động thông qua một số tổ chức sở hữu chung, được quản lý
và kiểm soát dân chủ bởi các thành viên. Về giá trị, HTX được dựa trên các
giá trị của tự giúp mình, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng, công
bằng và đoàn kết. Trong truyền thống của người sáng lập, thành viên hợp tác
tin tưởng vào các giá trị đạo đức của sự trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã
hội và quan tâm chăm sóc cho những người khác [121].
HTX là công cụ hữu hiệu để người dân, đặc biệt là người thiếu vốn,
thiếu năng lực sản xuất, những nhóm yếu thế trong xã hội liên kết, hỗ trợ lẫn
nhau phát huy các nguồn lực, nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm phát triển
kinh tế. HTX cũng là một công cụ để xóa đói, giảm nghèo và thúc đẩy kinh
doanh, thực hiện các nhu cầu văn hoá, xã hội và phát triển cộng đồng [125].
Mặc dù, HTX tập trung vào việc phục vụ và đáp ứng các nhu cầu của
thành viên nhưng nó cũng gắn kết và hợp tác trên qui mô toàn cầu. HTX chia sẻ
những giá trị và nguyên tắc đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Bởi tính
dân chủ và sự kết hợp riêng có giữa các mục tiêu kinh tế- xã hội, HTX đóng
vai trò quan trọng trong việc làm cho toàn cầu hoá trở nên bình đẳng hơn - đó
là điều mà HTX đã và đang làm cho các thế hệ tiếp theo [37, tr 501].
Ở nước ta, quan niệm về bản chất KTTT được xác định tại Luật HTX do
Quốc hội khóa IX đã ban hành năm 1996, được sửa đổi năm 2003: “HTX là
tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi
chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra
theo quy định của luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên
tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản
xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước; HTX hoạt động như một loại hình doanh
nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài
chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác theo quy
định của pháp luật” [72]. Luật HTX năm 2012 tiếp tục khẳng định nhận thức
trên về bản chất của HTX.
35
Phạm trù KTTT không đồng nhất với phạm trù HTX. Theo Văn kiện
của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (năm 2002): “KTTT với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là HTX, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thành viên KTTT bao gồm các thể nhân và pháp nhân, cả người ít vốn và nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ”.
“KTTT lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của thành viên, góp phần xoá đói, giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng” [23].
Tiếp tục quan niệm trên, Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng năm 2006 yêu cầu: “Phát triển mạnh các loại hình KTTT với những hình thức hợp tác đa dạng, tự nguyện, đáp ứng nhu cầu của các thành viên, phù hợp với trình độ phát triển của các ngành, nghề, trên các địa bàn”, và “Đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong KTTT (có sở hữu pháp nhân, thể nhân). Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong HTX và hình thức liên kết HTX” [24, tr 235-236].
Như vậy, KTTT là một quan hệ kinh tế, một hình thức tổ chức trong đó người lao động, hộ gia đình, pháp nhân hình thành các mối liên kết, tương trợ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, tạo của cải đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Về bản chất, KTTT dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, được hình thành và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện góp vốn, góp sức để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất, kinh doanh và đời sống của những người, tổ chức tham gia. HTX là bộ phận “nòng cốt” của KTTT. Nó có nghĩa là những nguyên tắc thành lập và hoạt động của các HTX cũng là nguyên tắc thành lập và hoạt động của KTTT.
36
Quá trình phát triển KTTT ở NT nước ta hiện nay được gắn với
Chương trình xây dựng NTM. Bản chất của KTTT trong xây dựng NTM
chính là hình thức tổ chức kinh tế mang tính xã hội hóa. Nó không chỉ là sự
phối hợp giữa các thành viên trong hoạt động sản xuất, kinh doanh mà còn
hướng đến một ý tưởng dân chủ kinh tế, một quan hệ xã hội bình đẳng, quan
tâm đến nhau, gắn bó và hỗ nhau và hướng đến tính nhân văn trong phát triển.
KTTT là nội dung cần được đẩy mạnh phát triển trong xây dựng NTM. Nó là
một hình thức để tạo cơ sở kinh tế cho xây dựng NTM của cả nước nói chung,
mỗi địa phương nói riêng. Do vậy, việc nhìn nhận, đánh giá hiệu quả KTTT
phải trên cơ sở quan điểm toàn diện, cả kinh tế, chính trị, xã hội, cả hiệu quả
của tập thể và của các thành viên trong xây dựng NTM.
2.1.2. Các nguyên tắc và xu hướng phát triển kinh tế tập thể
2.1.2.1. Nguyên tắc hình thành và phát triển của kinh tế tập thể Kể từ khi HTX đầu tiên được ra đời trên thế giới đến nay, đã có nhiều bộ
nguyên tắc làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của một HTX. Nội dung
chung nhất được ICA đề ra hiện nay bao gồm 9 nguyên tắc: (1) Tự giúp đỡ lẫn
nhau; (2) Tự chịu trách nhiệm; (3) Tự quản lý; (4) Mỗi xã viên có quyền biểu
quyết như nhau; (5) Bản chất kép (xã viên vừa là chủ sở hữu HTX vừa là khách
hàng mua (sử dụng) dịch vụ của HTX); (6) Thị trường kép (thị trường bên
ngoài là thị trường tiêu thụ hàng hóa của chính các xã viên HTX, còn thị trường
bên trong là thị trường dịch vụ do HTX cung cấp cho xã viên. Tức là sản phẩm
của HTX chính là các dịch vụ mà HTX cung ứng cho xã viên chứ không phải
là các sản phẩm do bản thân các xã viên tạo ra và sẽ bán ra thị trường xã hội.
Vì các xã viên vẫn tiếp tục sản xuất, kinh doanh nên họ không đem tư liệu sản
xuất, đất đai, nhà xưởng, vốn liếng của mình góp vào HTX để hình thành tài
sản chung. Họ chỉ góp vốn để HTX có thể hoạt động và cung cấp dịch vụ lo
đầu vào và tiêu thụ đầu ra cho họ. Các HTX luôn có vai trò quan trọng trong
việc tiêu thụ sản phẩm của các xã viên); (7) Sở hữu kép và hoạch toán kép (các
xã viên sở hữu tài sản của mình để sản xuất, kinh doanh, đồng thời sở hữu một
37
phần trong tài sản, lợi nhuận của HTX. Với tư cách là một doanh nghiệp, HTX
cung ứng các dịch vụ cho xã viên có thu tiền để trang trải chi phí, duy trì hoạt
động, không để lỗ. Do đó phải hạch toán hoạt động của HTX. Còn mỗi xã viên
do có tài sản riêng và sản xuất, kinh doanh riêng nên phải hạch toán hoạt động
sản xuất, kinh doanh của mình, tự chịu trách nhiệm về lời, lỗ của mình. Do đó,
khi đánh giá hiệu quả hoạt động của HTX không phải chủ yếu là đánh giá xem
HTX đó thu được lợi nhuận là bao nhiêu mà phải đánh giá thu nhập từng hộ xã
viên có được nhờ sử dụng các dịch vụ do HTX cung ứng là bao nhiêu, so với
thu nhập của các hộ không tham gia HTX thì thế nào; (8) Giám sát kép (định
kỳ Liên minh HTX cấp trên tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động của các
HTX và bản thân từng HTX cũng tự kiểm tra, giám sát hoạt động của mình
thông qua hoạt động của Ban Kiểm soát). (9) Có trách nhiệm với xã hội (có
thể tham khảo chi tiết ở "Co-operative identity, values & principles" - Bản sắc
HTX, các giá trị và nguyên tắc, của ICA).
Ở Việt Nam, theo Luật HTX năm 2003 thì việc tổ chức và hoạt động
HTX theo 4 nguyên tắc: tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ,
tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng [72]. Tại
Luật HTX hiện hành (năm 2012), việc tổ chức và hoạt động HTX theo 7 nguyên tắc: (1) Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập,
ra khỏi HTX. HTX tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi liên hiệp HTX; (2)
HTX, liên hiệp HTX kết nạp rộng rãi thành viên, HTX thành viên; (3) Thành
viên, HTX thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ
thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của HTX,
liên hiệp HTX; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt
động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung
khác theo quy định của điều lệ; (4) HTX, liên hiệp HTX tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật; (5) Thành viên, HTX thành viên
và HTX, liên hiệp HTX có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch
vụ và theo quy định của điều lệ. Thu nhập của HTX, liên hiệp HTX được
38
phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên,
HTX thành viên hoặc theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với
HTX tạo việc làm.(6) HTX, liên hiệp HTX quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng cho thành viên, HTX thành viên, cán bộ quản lý, người lao động trong
HTX, liên hiệp HTX và thông tin về bản chất, lợi ích của HTX, liên hiệp
HTX. (7) HTX, liên hiệp HTX chăm lo phát triển bền vững cộng đồng thành
viên, HTX thành viên và HTX với nhau nhằm phát triển phong trào HTX trên
quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế [73].
2.1.2.2. Xu hướng phát triển kinh tế tập thể trong nông thôn Việc nghiên cứu xác định xu hướng phát triển của KTTT trong NT có ý
nghĩa giúp tìm giải pháp có lợi cho sự phát triển của hình thức tổ chức này,
qua đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và môi trường của cộng
đồng tại khu vực NT. Nhìn tổng quát, bước sang thế kỷ XXI, do tác động của
nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị và xã hội, xu hướng phát triển của KTTT
trên thế giới và trong nước có nhiều biến đổi. Cụ thể là:
+ Trên thế giới: Theo nghiên cứu của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), bước sang thế kỷ
XXI, các HTX trên thế giới sẽ phát triển theo xu hướng sau:
Một là, cùng với việc chuyển đổi mô hình kinh tế ở các nước xã hội
chủ nghĩa, mô hình HTX kiểu cũ đã từng tồn tại và hoạt động dựa trên những
quyết định chủ quan, duy ý chí, không tuân thủ nguyên tắc tự nguyện và có sự
bao cấp của chính phủ bị phá sản; hình thức HTX dân chủ mới có xu hướng
ngày càng phát triển.
Hai là, ở các nước công nghiệp phát triển, những thay đổi về nhân khẩu
học, tỷ lệ sinh đang giảm và tuổi thọ đang tăng đều đặn làm suy giảm khả
năng cung cấp bảo hiểm xã hội cho một số ngày càng tăng của người cao tuổi.
Xu hướng này cũng bắt đầu tăng lên ở các nước đang phát triển, làm hình
thành và phát triển các HTX chuyên ngành gắn với xu hướng đa dạng hóa
dịch vụ. Từ những năm 1980 lại đây, các loại mới của HTX xuất hiện để
39
chăm sóc người già, để cung cấp các dịch vụ cơ bản, như chăm sóc y tế, nhà
ở, mai táng và dịch vụ hỗ trợ xã hội khác.
Cùng với xu hướng này, để giải quyết tình trạng của các nhóm dễ bị tổn
thương, chẳng hạn như thanh niên thất nghiệp, làm phát triển việc thành lập hoặc
tham gia HTX công nhân, HTX dịch vụ dựa vào cộng đồng. Đó là kiến tạo sự tái
sinh các HTX của công nhân tại nhiều quốc gia châu Âu và sự ra đời hàng loạt
các HTX ở khu vực NT nhằm tạo việc làm, xây dựng kết cấu hạ tầng NT, phát
triển và bảo vệ rừng, cải tạo đất và bảo vệ môi trường… để ngăn chặn di cư
hàng loạt ra các khu vực đô thị ở các nước đang phát triển.
Ba là, sự thay đổi xã hội với sự gia tăng các gia đình hạt nhân có một
hoặc hai con, sự gia tăng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo dẫn
đến sự cô lập, cách ly và bạo lực. Điều này làm xuất hiện xu hướng thành lập
và phát triển các HTX dịch vụ như giáo dục, tín dụng độc lập, tự chủ để có
thể có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển nguồn nhân lực bằng
cách giúp các thành viên của họ tăng cường giáo dục và kỹ năng chuyên
nghiệp. Xu hướng này có thể giúp làm giảm bớt những tác động tiêu cực ảnh
hưởng đến các nhóm yếu thế trong xã hội.
Bốn là, sự thay đổi sâu rộng về kinh tế, nhất là sự biến đổi nhanh chóng
của khoa học, công nghệ với xu hướng toàn cầu hóa nhanh chóng đã và đang
dẫn đến nhiều thay đổi trong việc làm của phần lớn lực lượng lao động của
một quốc gia. Trong tất cả các nước, đang có sự chênh lệch ngày càng lớn về
mức sống giữa người giàu và người nghèo. Sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp và
thiếu việc làm, cùng với khả năng sử dụng lao động ngày càng hạn chế của
các doanh nghiệp, sự di chuyển việc làm sang các nước có chi phí lao động
thấp hơn, càng làm tăng số người thất nghiệp, gây ra tình trạng bất ổn xã hội
ngày càng nghiêm trọng. Chính vì thế, các nhà chính trị và các nhà kinh tế
phải tìm đến giải pháp cho một phân phối công bằng hơn trong công việc và
sự giàu có. Phát triển hình thức HTX là phù hợp ở tất cả các cấp địa phương,
vùng, quốc gia và quốc tế. Trong đó, Nhà nước có ảnh hưởng mạnh đến sự
40
phát triển của HTX chủ yếu bằng cách cung cấp những điều kiện khung phù
hợp cho sự phát triển xã hội, kinh tế và chính trị, bảo đảm tôn trọng luật pháp
và sự sẵn có của một mạng lưới an sinh xã hội. Nhiều hình thức HTX được
thành lập từ trước như: HTX NN và tiếp thị xã hội, HTX tín dụng, HTX của
người tiêu dùng, HTX bán lẻ, HTX nhà ở... có xu hướng phát triển thành quy
mô lớn, chuyên nghiệp và có năng lực tài chính có thể cạnh tranh với các
công ty thương mại khác. Ngày càng có nhiều HTX quy mô lớn gần giống
như các công ty, cung cấp dịch vụ không chỉ cho các thành viên của họ, mà
còn cho các khách hàng bên ngoài, làm giảm quyền lợi và nghĩa vụ của các
thành viên ở mức tối thiểu. Kết quả lâu dài của xu hướng này là HTX bị mất
cơ sở thành viên của họ và có xu hướng biến thành các doanh nghiệp đầu tư
trong nước. Tuy có nhiều hình thức hợp tác khác nhau, nhưng về cơ bản có
hai hình thức theo xu hướng này là: Hợp tác kinh tế-xã hội và hợp tác kinh
doanh. Cả hai đều có tiềm năng và đều hướng vào phát triển bền vững.
Đặc biệt, hình thức hợp tác kinh doanh diễn ra giữa người kinh doanh
(doanh nhân) và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) ngày càng phổ biến ở
khu vực NT. Trong đó, các doanh nghiệp nhỏ (bao gồm cả cá nhân hay trang
trại gia đình) liên kết với nhau, giúp vượt qua cạnh tranh, duy trì lợi nhuận và
duy trì sự độc lập của họ. Sự thành công của SMEs thường xuyên phụ thuộc
vào khả năng của hợp tác với các hộ nông dân và các trang trại. Xu hướng
này được nảy sinh nhằm phản ứng để thích nghi với sự cạnh tranh ngày càng
dữ dội trên thị trường toàn cầu, để phát triển thị trường nội địa và xuất khẩu,
tạo sức mạnh trước những thách thức của đối thủ cạnh tranh đa quốc gia. Sự
hợp tác đã và đang đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực sản xuất NN và ở các
vùng NT. Sự hợp tác trở nên tất yếu trong sản xuất các sản phẩm nông- công
nghiệp và cũng quan trọng trong việc tạo ra và/ hoặc duy trì việc làm địa
phương, mà nếu không có thì không thể tồn tại.
Năm là, sự biến đổi về môi trường với tình trạng cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm nước, đất và không khí đã đạt đến mức không thể được bỏ qua. Biến
41
đổi khí hậu dẫn đến hạn hán, cháy rừng và lũ lụt gây thiệt hại ngày càng nặng
và buộc người dân và chính phủ phải xem xét lại lối sống và thái độ của họ
đối với việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiều giải pháp
đã và đang được đưa ra để kiểm soát và phòng ngừa ô nhiễm, xử lý và tái chế
chất thải, sử dụng các nguồn thay thế, tái tạo năng lượng và phát triển các
công nghệ thích hợp, cùng với các biện pháp làm cho các doanh nghiệp phải
trả cho những thiệt hại về môi trường mà chúng gây ra, nhưng vấn đề này vẫn
còn xa và cũng mới chỉ chủ yếu là trong các chương trình nghị sự. Ứng phó
với tình trạng này, trong hơn 20 năm gần đây, đã nổi lên xu hướng phát triển
loại hình HTX bảo vệ môi trường. Những người đại diện HTX NN xác định
vai trò của mình như là một trong thúc đẩy phát triển NT bền vững và đảm
bảo an ninh lương thực. Các HTX NN được đổi mới và phát triển theo hướng
đi tiên phong trong phong trào thực phẩm hữu cơ và tự nhiên. Những người
đại diện HTX tiêu dùng, chủ trương một chính sách "ba r" (reduce, reuse,
recycle) tức là giảm rác thải, tái sử dụng, tái chế để đạt được mô hình tiêu thụ
bền vững [123].
Điểm đặc biệt trong xu hướng này là có sự gia tăng phát triển các HTX
ở NT. Nó không chỉ gia tăng trong lĩnh vực sản xuất NN mà còn phát triển ở
nhiều ngành nghề, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ trên địa bàn NT. Các HTX
tồn tại, hoạt động và phát triển bên cạnh các doanh nghiệp trong NT.
+ Xu hướng phát triển KTTT ở trong nước:
Ở Việt Nam, dưới tác động của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng,
cùng với chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường, mô hình KTTT kiểu cũ dần tan rã, giải thể, không còn hoạt động. Thay
vào đó là xu hướng phát triển KTTT kiểu mới mà phổ biến là loại hình HTX dịch
vụ phục vụ xã viên. Phần lớn HTX NN hiện nay là HTX dịch vụ NN, chuyển
sang chức năng phục vụ kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Đó là sự phát triển của các
quỹ tín dụng nhân dân, trong đó xã viên là người góp vốn vào quỹ đồng thời là
khách hàng vay vốn từ quỹ. Tính đến cuối năm 2008, tổng số HTX dịch vụ xã
42
viên loại này chiếm tới trên 50% tổng số HTX. Tính đến hết tháng 6/2016, cả
nước đã có trên 20.000 HTX. Bên cạnh các lĩnh vực truyền thống, nhiều mô
hình HTX trong các ngành, nghề mới xuất hiện, như HTX vệ sinh môi trường,
HTX nước sạch, HTX điện, HTX quản lý kinh doanh chợ... Cũng xuất hiện các
mô hình HTX gắn với đáp ứng nhu cầu đời sống, kinh tế của các giới, các tầng
lớp, các nhóm đối tượng khác nhau, như HTX của phụ nữ, của thanh niên, của
những người tàn tật, của cựu chiến binh, do nhà chùa, nhà thờ... Từ kinh nghiệm
quốc tế, một số mô hình mới cũng đang được Liên minh HTX Việt Nam nghiên
cứu triển khai ở một số nơi, như HTX trường học, HTX nhà ở, HTX y tế...
Tuy nhiên, các loại hình tổ chức HTX dịch vụ phục vụ xã viên mới chỉ
là xu thế, tuy chưa bền vững, nhưng là đúng hướng phù hợp với nhu cầu và
lợi ích thực sự của xã viên, nhất là nông dân, đồng thời vận động theo xu
hướng phát triển KTTT trên thế giới. Để thúc đẩy xu hướng này, tất yếu phải
mở rộng sự hiểu biết và kích thích nhu cầu của người dân, đồng thời phải có
sự hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước [91].
2.1.3. Xây dựng nông thôn mới, quan hệ giữa phát triển kinh tế tập thể với xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
2.1.3.1. Xây dựng nông thôn mới Xây dựng NTM là một chủ trương lớn của Việt Nam, nó được khởi
xướng trong công cuộc Đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo và tổ chức thực hiện. Nghị quyết số 26-NQ/TW được Hội nghị lần thứ 7
Ban chấp hành Trung ương khóa X của Đảng ban hành vào tháng 8/2008 xác
định mục tiêu của xây dựng NTM là không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của dân cư NT, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh
hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản
xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị,
đóng vai trò làm chủ NTM.
Xây dựng nền NN phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững,
sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
43
tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và
lâu dài.
Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh
tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn NN với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội NT ổn định, giàu bản sắc văn
hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ
thống chính trị ở NT dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường.
Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân -
trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự
nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa [25].
Theo đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP về
Chương trình hành động của Chính phủ với mục tiêu xây dựng nền NN phát
triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất
lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao [13]. Quyết định số 491/QĐ-TTg
ban hành Bộ tiêu chí quốc gia NTM với 19 tiêu chí làm căn cứ chỉ đạo thí
điểm xây dựng mô hình NTM trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, để kiểm
tra, đánh giá công nhận xã, huyện, tỉnh đạt NTM. 19 tiêu chí phản ánh toàn
diện, cụ thể của 5 nội dung chủ yếu, gồm: quy hoạch, hạ tầng kinh tế - xã hội,
kinh tế và tổ chức sản xuất, văn hóa - xã hội - môi trường, hệ thống chính trị.
Bộ tiêu chí này sẽ được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của
đất nước và từng thời kỳ. Để thực hiện Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP, Thủ
tướng chính phủ ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg Phê duyệt Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020. Trên cơ sở
mục tiêu tổng thể, Chính phủ xác định: (i) Đến năm 2015, có 20% số xã đạt
tiêu chuẩn NTM và (ii) Đến năm 2020 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn NTM
(theo Bộ tiêu chí quốc gia về NTM).
Chương trình bao gồm 11 nội dung:
- Quy hoạch xây dựng NTM;
44
- Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội NT;
- Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập của người
dân NT;
- Giảm nghèo và an sinh xã hội, trong đó tập trung vào Chương trình
giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao;
- Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở NT
bao gồm phát triển kinh tế hộ, trang trại, HTX; phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở NT; xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các
loại hình kinh tế ở NT. Phát triển KTTT được xác định là một nội dung trong
xây dựng NTM.
- Phát triển giáo dục - đào tạo ở NT;
- Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân NT;
- Xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông NT;
- Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường NT.
- Nâng cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị -
xã hội trên địa bàn NT;
- Giữ vững an ninh, trật tự xã hội NT [14].
Chính phủ còn phân công cụ thể việc thực hiện các nội dung trên cho các
bộ ngành, cơ quan chức năng quản lý, hướng dẫn, xây dựng đề án và tổ chức
thực hiện. Về thực chất, các nội dung xây dựng NTM đã được xác định chính
là những giải pháp hướng đến phát triển hài hòa về kinh tế, xã hội và môi
trường, tức là các giải pháp hướng đến một sự phát triển bền vững ở khu vực
NT nước ta trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Các tiêu chí xây dựng NTM
chính là các tiêu thức đo lường mức độ đạt được của quá trình thực hiện mục
tiêu phát triển bền vững đó. Tất nhiên, phát triển bền vững là một quá trình có
tính dài hạn, các tiêu chí xây dựng NTM chỉ là mốc dùng để đánh giá một giai
đoạn ngắn. Vì thế, nội dung cụ thể của các tiêu chí xây dựng NTM cũng sẽ
điều chỉnh khi có sự phát triển cao hơn trong tương lai.
45
Xây dựng NTM là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện
nay ở nước ta. Nó không đơn thuần là một quyết định chính trị, mà còn là một
phần tất yếu của xu hướng phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn CNH,
HĐH đất nước và hoàn toàn phù hợp với lợi ích, nguyện vọng của người dân.
Bởi vì, NT Việt Nam là khu vực rộng lớn và đông dân nhất, đa dạng về thành
phần tộc người, về văn hóa, là nơi bảo tồn, lưu giữ các phong tục, tập quán của
cộng đồng, là nơi sản xuất quan trọng, làm ra các sản phẩm cần thiết cho cuộc
sống con người. Trong xu thế phát triển hiện nay, không thể có một nước công
nghiệp nếu NN, NT còn lạc hậu và đời sống nông dân còn khó khăn.
2.1.3.2. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế tập thể và xây dựng nông
thôn mới
Tuy ở nước ta những năm gần đây, vấn đề phát triển KTTT rất được coi
trọng và đã có nhiều đề xuất giải pháp về phát triển thành phần kinh tế này,
nhưng phát triển KTTT là gì, nội hàm của nó bao gồm những yếu tố nào thì
đến nay vẫn chưa được làm rõ. Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn trên thế giới
và trong nước, có thể hiểu phát triển KTTT là quá trình làm tăng tiến cả về số
lượng và chất lượng hình thức kinh tế này trên cơ sở nhận thức các quy luật
khách quan nhằm đạt được những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước lựa chọn.
Do nằm trong quá trình chung của nền kinh tế, việc phát triển KTTT
trước hết phải thể hiện ở tăng trưởng kinh tế, đó là sự gia tăng về quy mô kinh
tế mà thước đo phổ biến của nó là mức tăng trưởng về giá trị sản phẩm cuối
cùng tính bằng tiền của hình thức kinh tế này theo thời gian. Đi liền với nó là
những biến đổi về cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng dựa nhiều hơn vào
KH&CN, việc sản xuất theo hướng ngày càng coi trọng hơn năng suất, chất
lượng, hiệu quả, tức là chuyển dịch cơ cấu của mỗi cơ sở sản xuất kinh doanh
cũng như của KTTT phải theo hướng ngày càng coi trọng hơn phát triển chiều
sâu, giảm việc sản xuất dựa vào các yếu tố phát triển chiều rộng (như thâm
dụng tài nguyên, gia tăng số lượng lao động và thâm dụng vốn). Kết quả cuối
46
cùng của phát triển KTTT phải là mức sống và chất lượng cuộc sống con người
trong hình thức kinh tế này ngày càng được nâng lên, cùng với các hình thức
kinh tế khác góp phần nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống xã hội.
Do cơ sở kinh tế và xã hội của sự ra đời của nó, KTTT thể hiện sự phản
ứng của những người sản xuất, kinh doanh nhỏ trước sự chèn ép của các công
ty lớn trong nền kinh tế thị trường. Quá trình phát triển KTTT tất yếu phải
làm cho việc sản xuất, kinh doanh của cộng đồng người tham gia vào hình thức kinh tế này tốt hơn so với nếu họ làm ăn cá thể; đồng thời những tổ chức
KTTT phải là những “đối tác” có thể “đối trọng” với các công ty lớn trong
cạnh tranh để phát triển. Sự phát triển của KTTT không phải chỉ nhằm vào lấy
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của nhà đầu tư như các công ty tư nhân và nhất
là các công ty lớn làm tối thượng, mà sự phát triển của nó còn rất coi trọng
mục tiêu xã hội vì lợi ích chung của cộng đồng những người tham gia. Bởi
vậy, phát triển KTTT không chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế mà còn là
quá trình thúc đẩy phát triển xã hội, vì mục tiêu xã hội.
Như trên đã cho thấy, sự phát triển của KTTT đã và đang diễn ra trên
thế giới theo xu hướng hình thành các loại hình HTX NN đổi mới và phát
triển theo hướng đi tiên phong trong phong trào thực phẩm sạch thân thiện với
tự nhiên, HTX ở khu vực NT nhằm tạo việc làm, xây dựng kết cấu hạ tầng,
phát triển và bảo vệ rừng, cải tạo đất và bảo vệ môi trường, HTX chăm sóc
người già, HTX cung cấp các dịch vụ cơ bản, như chăm sóc y tế, nhà ở, mai
táng và dịch vụ hỗ trợ xã hội khác v.v... Tuy mục tiêu trực tiếp của quá trình
phát triển KTTT vẫn là lợi nhuận, nhưng con đường đi đến mục tiêu đó lại
đáp ứng những đòi hỏi của xã hội trong vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái,
bảo đảm an sinh xã hội, nhất là thúc đẩy phát triển NT theo hướng bền vững.
Như vậy, phát triển KTTT là phát triển quan hệ hợp tác giữa các thành
viên để nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh tế, vừa phát triển yếu tố cạnh
tranh trên thị trường vừa giảm sự khắc nghiệt và cạnh tranh không cần thiết
giữa các thành viên; vừa phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
47
thành viên và vừa tạo ra sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Phát triển KTTT có mục tiêu rõ ràng, nó không chỉ hướng vào phát triển kinh tế, mà còn nhằm
phát triển xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, tức là hướng đến phát triển bền vững, nhất là phát triển bền vững ở khu vực NT.
Đối chiếu những mục tiêu và nội dung của phát triển KTTT với mục
tiêu và nội dung của xây dựng NTM đã nêu ở 2.1.3.1 cho thấy đây là hai quá
trình khác nhau, nhưng có mối quan hệ với nhau:
- Điểm khác nhau giữa phát triển KTTT với xây dựng NTM
Nếu phát triển KTTT là phát triển một hình thức tổ chức kinh tế - xã
hội, nó có thể có mặt ở cả NT và thành thị, thì xây dựng NTM là việc làm chỉ
diễn ra ở khu vực NT. Mục tiêu trực tiếp của KTTT là bảo đảm mức lợi
nhuận của những người tham gia thu được cao hơn so với khi họ còn là kinh
tế tư nhân, cá thể; còn mục tiêu trực tiếp của xây dựng NTM nhằm phát triển
NN, NT bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân NT.
Phương tiện để đạt mục tiêu của KTTT là cung ứng hàng hóa và dịch vụ có
tính cạnh tranh trên thị trường; còn của xây dựng NTM là các nguồn lực
không chỉ của người dân NT mà còn của toàn xã hội và của Nhà nước. Chủ
thể phát triển KTTT là những người và tổ chức tự nguyện góp vốn, góp sức
liên kết với nhau trong một đơn vị kinh tế; còn chủ thể trong xây dựng NTM
không chỉ giới hạn ở những người tham gia KTTT, mà còn có cả những người
hoạt động trong các hình thức tổ chức kinh tế khác như cá thể, doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp nhà nước... Tức là, lực lượng tham gia xây dựng NTM
là toàn xã hội, là tất cả các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân thuộc các
thành phần kinh tế trong đó có KTTT.
- Mối quan hệ giữa phát triển KTTT với xây dựng NTM
Tuy có sự khác nhau, nhưng phát triển KTTT và xây dựng NTM có điểm chung: cả hai cùng một hướng đích là phát triển bền vững. Ở đây, KTTT có mục tiêu tự thân là đi đến một sự phát triển bền vững vì lợi ích của những người tham gia; còn mục tiêu của xây dựng NTM lại do quyết sách của Nhà
48
nước và cam kết mạnh mẽ của người dân NT. Trong chính sách của Đảng và Nhà nước ta, việc phát triển KTTT cũng không nằm ngoài nội dung xây dựng NTM. Với mục tiêu chung nêu trên, việc phát triển KTTT chính là quá trình tạo ra một hình thức tổ chức kinh tế làm cơ sở thúc đẩy xây dựng NTM.
Trong khu vực NT nước ta hiện nay có nhiều quan hệ kinh tế với nhiều
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh khác nhau mà chủ yếu là kinh tế cá
thể, tiểu chủ, kinh tế tư nhân, KTTT... Do đều là chủ thể thị trường, nên mục
tiêu hoạt động của các hình thức kinh tế này đều tìm kiếm hiệu quả kinh
doanh, đều nhằm mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, do đặc điểm của nó, KTTT
có nhiều ưu việt và có tính hơn hẳn so với hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ và
kinh tế tư nhân ở sức sản xuất và tính xã hội của nó, nên trong quá trình phát
triển nó có nhiều khả năng thực hiện mục tiêu xã hội hơn. Thực tế hiện nay ở
nhiều nước cho thấy, tính kinh tế trong KTTT là cần thiết, nhưng việc tìm đến
sự giúp đỡ, chia sẻ lẫn nhau giữa các thành viên tham gia là không kém phần
quan trọng. Thêm vào đó, hoạt động của hình thức KTTT đã và đang hướng
đến một môi trường sản xuất và môi trường sống tốt đẹp hơn. Đã không ít
HTX là lực lượng tiên phong trong phong trào thực phẩm hữu cơ và tự nhiên;
không ít HTX trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ra đời và phát huy tác dụng
[123]. Quá trình phát triển của KTTT như phân tích trên cho thấy tự nó đi đến
sự phát triển kinh tế và xã hội ở khu vực NT. Tuy đều có vai trò quan trọng
trong phát triển NT, nhưng không thể phủ định được tính hơn hẳn của KTTT
so với kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ đối với mục tiêu phát triển này.
Nếu mục tiêu xã hội của KTTT là tự thân, thì mục tiêu xây dựng NTM
phải thông qua việc hoạch định và các giải pháp cụ thể của các nhà quản lý.
Nhưng trên thực tế, không thể đạt được các tiêu chí xây dựng NTM một cách
bền vững nếu ở đó KTTT được phát triển mạnh mẽ và đúng hướng. Sự tồn tại
những quan hệ kinh tế mà ở đó có sự thống trị của kinh tế tư nhân, cá thể và
tiểu chủ thì việc đạt được những mục tiêu xây dựng NTM sẽ khó khăn hơn.
Việc gắn kết phát triển KTTT với xây dựng NTM về thực chất là một giải pháp
49
phát triển trong đó có sự phát huy tính tích cực tự thân của KTTT với tính năng
động chủ quan của con người trong hoạch định và thực thi chính sách xây dựng
NTM. Sự gắn kết này chính là sự bổ sung cho nhau. KTTT được phát triển
mạnh mẽ và đúng hướng sẽ tạo ra nguồn lực vật chất và các điều kiện cần thiết
khác cho xây dựng NTM. Đến lượt nó, những thành tựu của xây dựng NTM lại
tạo ra nhu cầu và điều kiện tốt hơn cho phát triển các hình thức KTTT. Quan hệ
giữa phát triển KTTT và xây dựng NTM là một quan hệ nội sinh chứ không
phải là quan hệ dựa trên mong muốn chủ quan duy ý chí và cũng không phải
quan hệ ngoại sinh với sự chi phối từ một phía KTTT hay từ phía xây dựng
NTM. Gắn kết phát triển KTTT với xây dựng NTM trong từng bước đi là giải
pháp có hiệu quả cho một sự phát triển bền vững ở khu vực NT. Đây chính là
một nhận thức mới về con đường phát triển hiện đại.
Chủ trương của Đảng: "Tiếp tục phát triển KTTT trong các ngành, lĩnh
vực, địa bàn, trong đó trọng tâm là ở khu vực NN, NT. Phát triển KTTT trong
NN, NT phải trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ
trợ đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát triển; gắn với tiến trình CNH, HĐH
NN và xây dựng NTM; không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao năng
suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”[23]. 2.2. NỘI DUNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
2.2.1. Nội dung phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới Dựa trên nhận thức về bản chất, hình thức, mục tiêu và xu hướng phát
triển của KTTT và dựa vào mục tiêu, giải pháp xây dựng NTM của Đảng và
Nhà nước, việc phát triển KTTT trong xây dựng NTM ở nước ta có các nội
dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, phát triển KTTT đa dạng về hình thức và đa sở hữu trong khu vực NT
Khắc phục quan điểm lạc hậu, chủ quan duy ý chí trong giai đoạn trước
đây, nội dung phát triển KTTT trong tư duy mới đòi hỏi phải áp dụng nhiều
50
hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là HTX, dựa trên sở hữu của các
thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ
sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh
tế, không giới hạn trong các ngành, lĩnh vực kinh tế [23]. Tại khu vực NT, nội
dung phát triển các hình thức hợp tác phải được gắn chặt với việc triển khai
thực hiện các nội dung xây dựng NTM. Việc gắn kết giữa phát triển KTTT
với xây dựng NTM không chỉ là yêu cầu, mà trước hết là định hướng, là căn
cứ huy động các nguồn lực để đổi mới và phát triển.
- Phát triển đa dạng hình thức sở hữu trong mỗi đơn vị KTTT
Hình thức quan hệ sở hữu trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh của một
cơ sở thuộc KTTT có thể là đa dạng, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở
hữu tập thể. Sở hữu của KTTT là sở hữu đan xen. KTTT không tập thể hóa
mọi tư liệu sản xuất của các thành viên như nhận thức trước đây, mà nó tôn
trọng sở hữu của mỗi thành viên. Sở hữu tập thể bao gồm các loại quỹ không
chia, các tài sản hình thành do quá trình tích luỹ của đơn vị KTTT tạo nên và
tài sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng làm tài sản không chia.
Đa dạng về sở hữu trong KTTT với các thành viên là các thể nhân và
pháp nhân, mọi người cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng các
nguyên tắc phổ biến đã mặc nhiên thừa nhận là tự nguyện, bình đẳng, cùng có
lợi và quản lý dân chủ. Cán bộ công chức cũng có thể tham gia góp vốn trong
các đơn vị KTTT để trở thành xã viên. Đa dạng về sở hữu trong KTTT cũng
không có sự phân biệt đơn vị KTTT đó là HTX hay THT, liên hiệp HTX ở
khu vực NT.
Với những nội dung trên, KTTT trong xây dựng NTM ở nước ta hiện
nay hoàn toàn khác KTTT kiểu cũ được xây dựng trong thời kỳ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, bao cấp trước đây. Nó không phải đơn thuần chỉ một
hình thức là sở hữu tập thể, không phải là tập thể hóa toàn bộ tư liệu sản xuất
mà không thừa nhận vai trò sở hữu của các thành viên, của kinh tế hộ như giai
đoạn trước đổi mới.
51
- Phát huy vai trò của Hội đồng quản trị và chức năng quản lý điều
hành của Giám đốc mỗi đơn vị KTTT
Trong nội dung này, việc tổ chức, quản lý đơn vị KTTT (THT, HTX,
Liên hiệp HTX) về cơ bản vẫn theo nguyên tắc dân chủ, tập trung. Có sự phân
biệt rõ chức năng quản lý của Hội đồng quản trị và chức năng điều hành của
Giám đốc. Thành viên Hội đồng quản trị nhất thiết phải là xã viên của đơn vị
KTTT, do đại hội xã viên hoặc đại hội đại biểu xã viên bầu. Giám đốc đơn vị
KTTT có thể là xã viên hoặc người ngoài đơn vị do Hội đồng quản trị thuê,
hoạt động như một giám đốc điều hành. Giám đốc có quyền quyết định hoạt
động sản xuất, dịch vụ của đơn vị KTTT và chịu trách nhiệm về quyết định
của mình. Đây là điểm quan trọng tạo điều kiện để đơn vị KTTT có thể có đội
ngũ cán bộ quản lý điều hành chuyên nghiệp, nhờ đó có thể nâng cao được
hiệu quả quản lý của đơn vị KTTT trong tất cả các hoạt động sản xuất, kinh
doanh của mình.
Với nội dung này, quản lý trong đơn vị KTTT hiện nay cũng khác với
KTTT kiểu cũ. Việc tổ chức, quản lý sản xuất, dịch vụ không còn theo kiểu
“tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” như trước. Trong đơn vị KTTT hiện
nay, vai trò của người Giám đốc được đề cao.
- Phát triển đa dạng về phân phối trong mỗi đơn vị KTTT
Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị KTTT không phải
chỉ do yếu tố người lao động tạo ra, mà là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố
sản xuất, cả của nguồn vốn đóng góp của xã viên, tài sản của tập thể, nguồn
tài nguyên sử dụng cho hoạt động của đơn vị KTTT, công nghệ đưa vào sử
dụng và cả năng lực kết hợp các yếu tố sản xuất của người quản lý (nói chung
là các yếu tố đầu vào của sản xuất, kinh doanh). Do vậy, không phải áp dụng
duy nhất hình thức phân phối theo lao động trong đơn vị KTTT, mà tất yếu
phải phát triển đa dạng về phân phối kết quả sản xuất, kinh doanh (đầu ra)
theo mức đóng góp của mỗi thành viên tạo nên hoạt động của đơn vị KTTT.
52
Theo hướng trên, phân phối trong đơn vị KTTT là đa dạng, bao gồm
phân phối theo mức đóng góp về lao động của xã viên (gọi tắt là phân phối
theo lao động), phân phối theo vốn góp và phân phối theo các đóng góp khác
tạo nên kết quả của đơn vị KTTT. Đa dạng về phân phối là nguyên tắc và
chính sách được áp dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta thể hiện trực tiếp ở các đơn vị KTTT. Nguyên tắc phân phối
theo lao động cũng khác so với giai đoạn trước đổi mới. Nếu trước đây, xã
viên có đóng góp về lao động cho HTX thì được phân phối (có thể là phân
phối theo sản phẩm hoặc phân phối dưới hình thái tiền); thì nay, ngoài đóng
góp về lao động, mức thu nhập (bằng tiền) của người lao động cao hay thấp
còn phụ thuộc vào kết quả/ hiệu quả sản xuất, kinh doanh của đơn vị KTTT
đó theo nguyên tắc lời ăn, lỗ chịu.
Đa dạng về phân phối, nhưng đều lấy chung một nguồn là kết quả sản
xuất, kinh doanh của đơn vị KTTT, nên một cơ chế phân phối hợp lý, kết hợp
hài hòa các lợi ích của các thành viên tham gia sẽ là động lực cho phát triển
và nâng cao hiệu quả hoạt động của KTTT.
- Đa dạng về hình thức KTTT trong các ngành nghề ở khu vực NT
Nội dung này được thể hiện ở việc phát triển nhiều hình thức hợp tác
theo xác định của Đảng bao gồm các HTX, các THT kiểu mới và các mô hình
KTTT khác, trong đó nòng cốt là HTX [26, tr 208-209]. Đồng thời, phát triển
các hình thức này ở tất cả các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế theo nguyên tắc
đây là một tổ chức kinh tế, hoạt động lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm
lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của
các thành viên; phải rất linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng
ngành, từ làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các thành viên, đến mở mang ngành nghề, vươn lên sản xuất kinh
doanh tổng hợp.
Với trọng tâm phát triển KTTT là ở khu vực NT, thì bên cạnh hình thức
THT và HTX kiểu mới trong NN, việc phát triển các hình thức hợp tác, HTX
53
trong tiểu thủ công nghiệp và trong dịch vụ là cần thiết. Trong tổ chức hoạt
động của KTTT, cũng không nhất thiết phải theo ngành nghề để sản xuất ra
sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng như trong thời kỳ tập trung, bao
cấp trước đây, mà có thể diễn ra ở một khâu của quá trình sản xuất để cung
cấp sản phẩm trung gian cho phát triển NN, công nghiệp, dịch vụ, hoặc để
tiêu thụ sản phẩm đầu ra của các ngành kinh tế này. Phát triển hình thức THT
và HTX dịch vụ đầu vào, đầu ra trong NT đang là một xu hướng và dự báo
ngày càng có nhiều triển vọng. Vì nó phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Chỗ nào, lĩnh vực nào kinh tế hộ, kinh tế trang trại của người
nông dân không đảm đương được hoặc thực hiện không có hiệu quả cao trong
khi KTTT có khả năng làm tốt hơn, thì tất yếu phát triển KTTT.
Việc tìm ra được những lĩnh vực, ngành nghề để phát triển các hình
thức KTTT đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM trước hết bắt nguồn từ nhu cầu
của người dân, nhưng việc nghiên cứu, lựa chọn của các nhà khoa học và
việc hoạch định và hỗ trợ phát triển của nhà nước các cấp có vai trò rất quan
trọng. Nội dung phát triển đa dạng KTTT nếu có sự lồng ghép, gắn kết với
xây dựng NTM thì quá trình phát triển sẽ được đẩy nhanh hơn, sẽ phát huy
tốt hơn tính kinh tế và xã hội của hình thức kinh tế này; đồng thời các mục
tiêu xây dựng NTM sẽ được thực hiện trên cơ sở kinh tế vững chắc hơn. Đối
với nước ta, chủ động, tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ phát triển các hình
thức KTTT ở khu vực NT theo hướng gắn với các mục tiêu kinh tế, xã hội,
mà trong những năm tới xây dựng NTM, càng trở nên cần thiết hơn, vì là
nước đi sau, nước phát triển muộn, nên có thể học hỏi kinh nghiệm các nước
đi trước để có giải pháp cải tiến những bước nhanh hơn.
Thứ hai, phát triển KTTT nhiều quy mô, trình độ, liên kết KTTT với các chủ kinh tế bên ngoài
Từ thực tiễn và kinh nghiệm phát triển các hình thức KTTT, có thể dự
báo rằng cùng với đà phát triển nền kinh tế thị trường, của CNH, HĐH và hội
54
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mức độ cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt
hơn, nhu cầu phát triển KTTT sẽ ngày càng trở nên bức xúc và cấp thiết đối
với những hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thúc đẩy phát
triển các hình thức KTTT là một nội dung quan trọng, vì nó sẽ tạo ra sức sản
xuất mới - một điều kiện kinh tế tuyệt đối cần thiết cho xây dựng NTM.
Thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta thời gian qua còn cho thấy,
những thành tựu về phát triển NN, NT là có sự đóng góp rất lớn của kinh tế
hộ, của các THT và các HTX. Nhưng trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế
sản xuất hàng hóa, của CNH, HĐH và hội nhập mạnh mẽ vào các quan hệ
kinh tế quốc tế nhất là xu hướng tự do hóa thương mại như hiện nay, nếu
không mở rộng quy mô và nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh của các tổ
chức kinh tế trong NT, nếu chỉ dừng ở trình độ như hiện nay thì kinh tế NT
Việt Nam không thể vượt qua thách thức để phát triển. Thực tế NN Việt Nam
cho đến nay vẫn chưa thoát ra khỏi điệp khúc “được mùa, rớt giá”, “được giá,
mất mùa”, sản xuất NN của người nông dân chạy theo “phong trào” (làm gì
có lãi thì đổ xô vào), kêu gọi nhà nước bao tiêu sản phẩm. Hoạt động của các
hình thức kinh tế hiện có còn nhiều yếu kém và chưa xuất hiện nhiều hình
thức tổ chức kinh doanh mới đáp ứng yêu cầu phát triển trong xu thế hội nhập
quốc tế, sức ép cạnh tranh về hàng nông sản đối với Việt Nam ngày càng lớn.
Tình trạng hàng hóa xuất khẩu giá thấp, bấp bênh vì sản phẩm từ các hộ nông
dân và các HTX không có thương hiệu, không đồng đều chất lượng, chủng
loại, không có truy xuất nguồn gốc và không có chứng nhận chất lượng theo
tiêu chuẩn được nước nhập khẩu thừa nhận là phổ biến. Trong khi đó, do sản
xuất NN kém hiệu quả, thu nhập và mức sống của nông dân và xã viên thấp,
khiến họ khó yên tâm đầu tư phát triển sản xuất và áp dụng KH&CN. Tình
trạng nông dân bỏ ruộng, không gieo cấy đã xảy ra ở nhiều địa phương từ
nhiều năm nay ở các mức độ khác nhau: bỏ hoang hóa cả năm, bỏ dài ít, và bỏ
rồi gieo cấy lại khá phổ biến. Báo chí đã liên tục đưa tin. Theo Cục Trồng trọt
(Bộ NN và Phát triển NT), qua đánh giá tình hình bỏ ruộng của các địa
55
phương “điểm” như: Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Bình, cho biết cách đây vài
năm diện tích nông dân bỏ ruộng của ba tỉnh hơn 2.000 ha, trong đó, trên
1.730 ha đất bỏ ruộng và hơn 280 ha đất trả ruộng. Dân bỏ ruộng để đi kiếm
việc làm khác, ra thành thị và tìm công việc ở nước ngoài ngày càng gia tăng
trong mấy năm gần đây. Tại tỉnh Nghệ An, nơi mà người nông dân không
quản ngại “một nắng, hai sương” trên đồng ruộng để có thu hoạch, nhưng tính
đến cuối tháng 12/2015, có tới gần 1.500 ha đất NN bị bỏ hoang, với khoảng
15.000 lao động ly hương tìm việc làm trong và ngoài nước [65]. Tình trạng
này nếu không được giải quyết thì tất có nhiều hệ lụy, tác động tiêu cực đến
KTTT và xây dựng NTM, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển bền vững ở NT.
Con đường cơ bản để khắc phục tình trạng này, không thể nào khác
ngoài việc nâng cao trình độ, năng lực của các cơ sở sản xuất NN, phải dự báo
được nhu cầu ở thị trường địa phương, quốc gia và quốc tế để chủ động sản
xuất, ổn định mức cung. Phải làm chủ việc bán hàng cùng loại sản phẩm qui
mô lớn, với giá tiêu thụ ổn định, có thương hiệu, truy xuất nguồn gốc và
chứng nhận đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Với yêu cầu này,
việc mở rộng quy mô các HTX, tăng cường liên kết các HTX, liên kết HTX
với doanh nghiệp, với hộ nông dân là cần thiết. Đây phải là một nội dung
quan trọng trong phát triển KTTT trong xây dựng NTM ở nước ta. Tư duy cũ
tự thỏa mãn với phát triển kinh tế hộ và thiếu quan tâm đổi mới mô hình
KTTT đến nay là không còn phù hợp.
Thực tế ở những nơi có các nhà máy chế biến nông sản, nếu HTX, hộ
nông dân và nhà máy tiến hành hợp tác, thì việc hợp đồng cung ứng nông sản
cho doanh nghiệp và tiếp nhận sự hỗ trợ, giúp đỡ của doanh nghiệp về vốn và
kỹ thuật cho HTX và kinh tế hộ sẽ tốt hơn, sẽ tránh được những cạnh tranh
không cần thiết giữa các cơ sở sản xuất NN, tránh được những hành vi làm
giá, ép giá của tư thương. Phát triển KTTT nhiều quy mô, trình độ, liên kết
giữa các HTX thành liên hiệp HTX và liên kết giữa HTX với các chủ kinh tế
bên ngoài (doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh) không chỉ tạo ra điều
56
kiện thu hút các nguồn lực mà còn là điều kiện để phát huy các nguồn lực đã
thu hút theo hướng sử dụng hợp lý có hiệu quả hơn. Đây chính là cơ sở để
phát triển NN và kinh tế NT trong xây dựng NTM.
Thứ ba, gắn kết hài hòa giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội và
môi trường sinh thái trong phát triển KTTT ở NT
Mục tiêu chính và động lực của sự hình thành và phát triển KTTT là
kinh tế mà trực tiếp là lợi nhuận phải cao hơn so với khi các thành viên còn
làm ăn cá thể hay hoạt động kinh tế riêng rẽ. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu
này, việc loại bỏ những cạnh tranh không cần thiết, việc san sẻ lợi ích kinh tế
giữa các thành viên trở nên cần thiết. Tính chất xã hội trong KTTT tất phải
được coi trọng. Trong điều kiện ngày nay, để đối phó với tình trạng chất
lượng cuộc sống xuống thấp, nhất là ở NT, do sự phát triển của KH&CN
không được kiểm soát chặt chẽ và những tác động không mong muốn của
kinh tế thị trường, ở trong nước và trên thế giới đã ngày càng phát triển các
HTX trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh
thái. Tuy mục tiêu chính của các HTX vẫn là kinh tế, nhưng nó có ưu điểm
nổi bật là tập trung việc kiểm soát bảo vệ môi trường mà các hộ kinh tế và các
doanh nghiệp không thể làm được. Ngay trong các HTX hoạt động trong các
lĩnh vực không trực tiếp bảo vệ tài nguyên và môi trường, do tính xã hội của
nó, ý thức về bảo vệ môi trường sinh thái cũng vẫn dễ được coi trọng hơn.
Bởi vậy, trong nội dung phát triển KTTT gắn với xây dựng NTM phải rất coi
trọng gắn kết ba mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, coi đây không chỉ là
đáp ứng yêu cầu bức xúc của xây dựng NTM mà còn là tiêu chi để phát triển
KTTT trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với nội dung này, ngoài sự ra đời và phát triển tự nhiên các THT và
các HTX về môi trường, việc chủ động hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi về cơ
chế chính sách từ phía Nhà nước để không chỉ phát triển các đơn vị KTTT
trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực môi trường, mà còn để gắn kết việc bảo vệ
57
môi trường với phát triển kinh tế và xã hội trong tất cả các THT, HTX và liên
hiệp HTX là cần thiết. Đây được coi là một nội dung phát triển có hiệu quả
thiết thực trong xây dựng NTM.
2.2.2. Tiêu chí đánh giá phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng
nông thôn mới
Theo kinh nghiệm các nước khi xem xét mức độ thành công của phong
trào HTX và xem xét Bộ tiêu chí về NTM do Thủ tướng Chính phủ ban hành
năm 2009, có thể đánh giá mức độ phát triển KTTT trong xây dựng NTM dựa
vào các tiêu chí chủ yếu sau đây:
- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng của KTTT trong kinh tế NT. Nó
được đo bằng giá trị sản lượng của năm sau so với của năm trước.
Công thức:
Trong đó, gt là tốc độ tăng trưởng của năm tính toán tính theo %,
Yt là tổng giá trị sản lượng của KTTT tại năm t, Yt-1 là tổng giá trị sản
lượng của KTTT của năm liền kề trước năm t.
Nếu trong cùng một thời gian, tốc độ tăng trưởng sản lượng của KTTT
cao hơn so với của các hình thức kinh tế khác thì KTTT có sức phát triển
nhanh hơn.
- Mức đóng góp giá trị sản lượng của hình thức KTTT trong tổng giá trị
sản lượng ở NT tính theo %. Công thức:
Nếu mức đóng góp của KTTT tăng lên theo thời gian thì vai trò của nó
được tăng lên, phản ánh chiều hướng phát triển tích cực. Ngược lại, nếu mức
đóng góp của KTTT mà giảm xuống thì cũng có nghĩa là KTTT không được
phát triển tích cực.
58
- Mức gia tăng của tổng số đơn vị KTTT ở NT theo thời gian (có thể đo
lường bằng số tuyệt đối và số tương đối). Chỉ tiêu này càng gia tăng thì hình thức KTTT càng phát triển và càng phát huy vai trò đối với phát triển chung của kinh tế - xã hội NT.
- Mức gia tăng của tổng số Liên hiệp HTX ở NT theo thời gian. Chỉ tiêu này phản ánh sự tăng tiến của xu hướng phát triển KTTT (cách tính tương tự như chỉ tiêu kề trên).
- Mức gia tăng của tổng số HTX ở NT theo thời gian. Cách tính tương tự như chỉ tiêu kề trên. Nếu có sự gia tăng thì đó là kết quả thành công của phong trào hợp tác hóa ở khu vực NT.
- Mức gia tăng của tổng số THT ở NT theo thời gian. Cách tính tương tự như chỉ tiêu kề trên.
- Tỷ lệ thay đổi cơ cấu các ngành nghề trong hình thức KTTT phù hợp với xu hướng phát triển và yêu cầu xây dựng NTM ở mức nào. Nếu các ngành nghề trong KTTT tạo ra được mức thu nhập của cư dân NT ngày càng tăng lên thì đó là chuyển dịch tích cực và phù hợp.
- Mức thay đổi của tổng số xã viên theo thời gian, trong đó có mức thay đổi của xã viên mới. Chỉ tiêu này có thể đo lường bằng số tuyệt đối và số tương đối. Nêu cả hai con số này tăng thì đó lá KTTT có sự phát triển.
- Mức thay đổi của tổng số lao động làm việc thường xuyên trong các hình thức KTTT (HTX, THT, Liên hiệp HTX...), trong đó xác định thay đổi của lao động thuê ngoài, lao động là xã viên. Chỉ tiêu này đo lường biến động về việc làm trong các hình thức KTTT và sự biến động của nó cho thấy KTTT phát triển theo chiều hướng nào.
- Mức thay đổi thu nhập bình quân của một xã viên (của cả hình thức KTTT, của từng hình thức tổ chức kể cả của các THT) theo thời gian. Thu nhập càng tăng thì KTTT càng phát triển.
- Mức thay đổi thu nhập bình quân của một lao động làm việc thường xuyên trong HTX, liên hiệp HTX... theo thời gian. Cũng có ý nghĩa như tiêu chí thu nhập của xã viên.
59
- Mức thay đổi thu nhập bình quân của một lao động là xã viên HTX,
liên hiệp HTX... theo thời gian. Cũng có ý nghĩa tương tự như trên.
- Mức thay đổi lợi nhuận bình quân của KTTT, của từng hình thức
KTTT theo thời gian:
Trong đó, gt là mức tăng trưởng lợi nhuận bình quân của hình thức
KTTT tại năm t; πt là mức lợi nhuận của hình thức KTTT tại năm t; và πt-1 là
mức lợi nhuận của khu vực KTTT tại năm liền kề trước năm t.
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của hình thức KTTT nói chung và nếu
đo lường theo mỗi hình thức KTTT hoặc từng đơn vị của mỗi hình thức này
thì đó là hiệu quả của mỗi hình thức hoặc mỗi đơn vị.
- Mức thay đổi giá trị xuất khẩu trực tiếp của hình thức KTTT theo thời
gian. Nếu chỉ số này tăng lên thì đó là KTTT có sự phát triển.
Ngoài ra, còn có thể sử dụng một số tiêu chí để đánh giá sự phát triển
của KTTT như: tỷ lệ cán bộ quản lý HTX đạt trình độ trung cấp; tỷ lệ cán bộ
quản lý HTX đạt trình độ đại học, trên đại học; có thể còn đánh giá định tính
như mức độ hài lòng, sự phấn khởi của xã viên và người dân NT, tình làng
nghĩa xóm có tốt hơn hay không, v.v...
Tùy theo phạm vi đánh giá sự phát triển của hình thức KTTT mà xác
định số lượng của các tiêu chí trên. Mức độ tăng lên của các chỉ số phản ánh
các tiêu chí sẽ cho thấy mức độ phát triển của KTTT. Các tiêu chí không chỉ
dùng để đánh giá quá trình phát triển của KTTT theo thời gian, mà còn dùng
để so sánh mức độ phát triển KTTT giữa các địa bàn NT, các tỉnh, các huyện
trong cùng một thời gian. Đây cũng là những căn cứ quan trọng để các nhà
hoạch định chính sách và tổ chức thực tiễn định hướng và tìm giải pháp thúc
đẩy phát triển KTTT nói chung, ở khu vực NT nói riêng nhằm đạt được mục
tiêu mong muốn.
60
2.2.3. Điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế tập thể trong xây
dựng nông thôn mới
Bên cạnh những điều kiện khách quan như trình độ phát triển của phân
công lao động xã hội, của lực lượng sản xuất và kinh tế thị trường, để thúc
đẩy phát triển các hình thức KTTT trong xây dựng NTM ở nước ta, cần có
các điều kiện chủ yếu sau đây:
Một là, trình độ nhận thức của người dân và các cấp chính quyền về
vai trò của KTTT trong xây dựng NTM phải được nâng cao
Sự ra đời và phát triển KTTT là khách quan. Song, việc nhận thức xu
hướng phát triển của nó để chủ động tham gia và lựa chọn hình thức tổ chức
thích hợp là rất cần thiết. Về lý thuyết, nhận thức là quá trình phản ánh biện
chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực,
năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn, nhờ đó con người tư duy và không
ngừng tiến đến gần khách thể. Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ thông tin
toàn cầu và liên kết mạng Internet như hiện nay, việc nhận thức một thực thể
khách quan có thể nhanh hơn nhiều thông qua con đường truyền dẫn tư
tưởng từ người này sang người khác. Mỗi người không nhất thiết phải trực
tiếp trải qua hoạt động thực tiễn hoặc phải trả giá cho hoạt động của mình
mới nhận thức được hiện thực khách quan. Con đường giới thiệu, tuyên
truyền để người dân, các cấp chính quyền và các tổ chức nhận thức đúng vai
trò và xu hướng phát triển của KTTT trong xây dựng NTM là một điều kiện
rất cần thiết để thúc đẩy quá trình phát triển này. Trong phát triển lý thuyết
của mình, J.M.Keynes (1936) có những đánh giá rất cao vai trò của nhận
thức, tư tưởng. Theo ông, “Sớm hay muộn, chính là những tư tưởng, chứ
không phải những lợi ích pháp định, mới là điều nguy hại đối với điều kiện
tốt hay xấu” [42, tr 438].
Điều này có thể hiểu, nếu người dân với tư cách là các thể nhân hoặc
pháp nhân có nhận thức đúng về vai trò và lợi ích của KTTT là tốt hơn so với
61
nếu họ cứ tiến hành làm ăn cá thể, sản xuất nhỏ lẻ thì nhất định họ sẽ tìm đến
hình thức KTTT thiết thực để tham gia. Ngược lại, nếu chưa nhận thức được
những lợi ích này thì tất sẽ không tham gia vào KTTT. Tương tự như vậy, các
cấp chính quyền và các tổ chức không nhận thức thấu đáo bản chất, nguyên
tắc và các hình thức của KTTT thì cũng không thể đưa ra được những chính
sách và phương thức hỗ trợ cho hình thức kinh tế này phát triển đúng hướng,
thiết thực và có hiệu quả. Trình độ nhận thức về KTTT của các chủ thể càng
cao thì việc lựa chọn phát triển các hình thức KTTT càng chính xác và việc
tìm kiếm giải pháp phát triển KTTT với xây dựng NTM sẽ càng được gắn kết
chặt chẽ hơn.
Việc tăng cường tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước đối với KTTT và việc giới thiệu các mô hình làm ăn có
hiệu quả trong nhân dân cũng là tạo ra điều kiện tốt hơn cho phát triển các
hình thức KTTT trong NT.
Hai là, các giá trị và nguyên tắc cơ bản của KTTT phải được tuân thủ
Các giá trị và nguyên tắc cơ bản của KTTT được ICA khái quát trong
“Bản sắc HTX, các giá trị và nguyên tắc”, còn ở Việt Nam thì được thể hiện ở
7 nguyên tắc tổ chức và hoạt động HTX ghi trong Luật HTX năm 2012 (đã
trình bày tại tiết 2.1.2.1 của Luận án).
Thực tiễn xây dựng và phát triển KTTT trên thế giới và ở Việt Nam
cho thấy, nếu những giá trị và nguyên tắc cơ bản của KTTT được tuân thủ thì
sẽ có điều kiện tốt hơn để phát triển hình thức kinh tế này. Ngược lại, mọi vi
phạm những nguyên tắc trên đều cản trở sự phát triển KTTT và không thể
định hướng phát triển KTTT gắn với xây dựng NTM theo mong muốn. Chẳng
hạn, nếu bỏ qua hoặc không tôn trọng nguyên tắc các thành viên cùng có lợi
thì cũng có nghĩa là làm mất động lực của những người tham gia, do vậy sẽ
dẫn đến kết quả hoặc họ không muốn vào làm ăn tập thể, hoặc nếu đã vào rồi
thì chỉ hoạt động “cầm chừng” và sự tồn tại KTTT chỉ là hình thức.
62
Ba là, môi trường thể chế và tâm lý xã hội cho KTTT phát triển phải
thuận tiện Môi trường kinh tế là tập hợp tất cả các yếu tố, lực lượng, thể chế... bao
quanh có ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động và kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh của tổ chức. Từ kinh nghiệm phong trào hợp tác hóa của các nước
trên thế giới cho thấy chính sách, pháp luật và các văn bản dưới luật do nhà
nước ban hành là những yếu tố thuộc về môi trường thể chế rất quan trọng có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý xã hội cũng như đến mức độ hình thành và
phát triển KTTT.
Trong môi trường đó, mỗi yếu tố có một vai trò nhất định trong việc tác
động vào các tổ chức KTTT và giữa chúng có quan hệ tương tác với nhau để
cùng tác động đến tổ chức. Chẳng hạn, chính sách đất đai có thể thúc đẩy
hoặc cản trở việc tập trung ruộng đất trong NN, nếu chính sách đó “cởi mở”
có tác động thúc đẩy tập trung ruộng đất, thúc đẩy việc “dồn điền, đổi thửa”
thì quá trình hình thành KTTT sẽ được thúc đẩy nhanh hơn. Một hình thức cụ
thể của KTTT nếu được nhà nước hỗ trợ bằng chính sách đất đai thì tất sẽ
nhanh chóng phát triển. Chính sách tài chính, tín dụng sẽ tác động trong việc
tạo nguồn lực về vốn đầu vào cho phát triển sản xuất kinh doanh của KTTT.
Nếu nhà nước áp dụng chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất NN thì thu
nhập khả dụng của người làm NN tăng lên, họ sẽ có cơ hội đầu tư nhiều hơn
vào phát triển sản xuất NN và ngược lại. Nếu chính phủ có chính sách khuyến
khích góp vốn bằng tiền, bằng tài sản, bằng giá trị quyền sử dụng đất... của
các thành viên để tăng thêm vốn kinh doanh cho KTTT thì quy mô sản xuất
của đơn vị kinh tế này sẽ tăng lên, và có nhiều cơ hội đầu tư máy móc, thiết bị
hơn, do đó năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của đơn vị sẽ
tăng lên nhanh hơn. Chính sách KH&CN, giáo dục và đào tạo, chính sách thị
trường... đều có những tác động nhất định đến phát triển KTTT.
Việc hoạch định hệ thống chính sách, pháp luật cần thiết là một trong
những điều kiện hết sức quan trọng ảnh hưởng đến mức độ phát triển của
63
KTTT. Hệ thống chính sách, pháp luật cho KTTT càng hoàn thiện, thì hướng
phát triển, mục tiêu phát triển của hình thức kinh tế này sẽ càng đúng đắn hơn.
Bốn là, phải có sự hỗ trợ cần thiết của Nhà nước và các tổ chức đối
với KTTT
Hỗ trợ phát triển là những tác động từ bên ngoài vào hoạt động của một
tổ chức làm cho nó có thêm nhiều điều kiện hơn để có thể thực hiện mục tiêu
nhanh hơn. Tuy sự hỗ trợ phát triển không phải là yếu tố nội sinh quyết định
sự phát triển của tổ chức, nhưng nó là tiền đề quan trọng, có thể tạo “cú
huých” để phá vỡ sự trì trệ, thúc đẩy phát triển KTTT và xây dựng NTM. Có
hai loại hỗ trợ phát triển đối với KTTT là hỗ trợ phát triển của nhà nước và hỗ
trợ của các tổ chức kinh tế, xã hội.
- Hỗ trợ phát triển của nhà nước đối với KTTT
Sự hỗ trợ thường nhằm vào việc lập dự án phát triển, lựa chọn sản
phẩm để sản xuất, kinh doanh của đơn vị KTTT, hỗ trợ về tài chính và vốn
đầu tư, hỗ trợ về thông tin thị trường, hỗ trợ ứng dụng tiến bộ KH&CN vào
sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hỗ trợ đào
tạo cán bộ quản lý THT, HTX và đào tạo nghề cho xã viên, người lao động...
trong các đơn vị KTTT.
Mỗi sự hỗ trợ này đều có một tác động đến phát triển KTTT ở các khía
cạnh khác nhau. Chẳng hạn, do sản xuất NN truyền thống thường có mức sinh
lời thấp, chi phí cao, nhiều rủi ro khách quan (thiên tai, dịch bệnh, khả năng trả
nợ của khách hàng thấp...), nên luồng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn thương mại
không đổ vào nhiều. Nếu việc hỗ trợ tín dụng của nhà nước cho hình thức này
được cải thiện sẽ là điều kiện làm gia tăng nguồn vốn đầu tư - yếu tố đầu vào hết
sức quan trọng làm cho các dự án phát triển có điều kiện trở thành hiện thực,
do đó làm tăng đầu tư cho máy móc, công nghệ, làm cho năng lực sản xuất
kinh doanh của các đơn vị thuộc hình thức kinh tế này tăng lên, có năng suất và
hiệu quả cao hơn. Chính sách hỗ trợ tín dụng của Nhà nước trong việc bảo đảm
64
đầu ra cho các sản phẩm của HTX trong việc mua vào và tích trữ các sản phẩm
chính vụ như ngũ cốc, bắp, đậu nành, dưa hấu... nhằm bình ổn giá cả nông sản
sẽ có tác dụng bảo vệ lợi ích của HTX và của xã viên, tạo điều kiện tốt hơn cho
hoạt động kinh tế của HTX được ổn định. Những hỗ trợ KTTT trong việc
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường tài chính NT dưới
dạng thích hợp, như mở chi nhánh hay lập các liên doanh ngân hàng, cung cấp
dịch vụ tài chính cho hộ nông dân và các HTX tại NT cũng sẽ tạo ra nhiều điều
kiện về nguồn vốn cho KTTT phát triển. Sự hỗ trợ đầu tư công nghệ, HĐH
NN, nghiên cứu các loại giống mới, hỗ trợ chương trình biến đổi gen, đầu tư hệ
thống tưới tiêu, cải tạo đất sẽ tạo ra điều kiện tốt hơn để các đơn vị KTTT gia
tăng sản lượng và nâng cao chất lượng nông sản, sức cạnh tranh trên thị trường
của các đơn vị này sẽ tăng lên, v.v...
Thực tế ở nhiều nước cho thấy, mức độ hài hòa trong kết hợp các hỗ trợ
sẽ tạo ra “xung lực” của phát triển. Những hỗ trợ của Nhà nước có tác động
rất quan trọng trong việc lựa chọn hình thức KTTT, lựa chọn sản phẩm có lợi
thế để cung ra thị trường, để duy trì và phát triển KTTT. Song, sự hỗ trợ đó
phải trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc về tự do hóa thương mại khi một nước
đã cam kết tham gia trong các tổ chức kinh tế quốc tế và sự hỗ trợ đó đủ để
kích thích tính tích cực, sáng tạo của người quản lý và các thành viên trong
đơn vị KTTT, chứ không phải “bao cấp” như trong mô hình KTTT kiểu cũ ở
Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
- Hỗ trợ của các tổ chức trong phát triển KTTT
Bên cạnh nhà nước, sự hỗ trợ của các tổ chức kinh tế, xã hội có tác
động quan trọng đến sự phát triển của KTTT. Theo kinh nghiệm của các
nước, những tổ chức như các hiệp hội (Liên minh HTX, Hiệp hội doanh
nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề NT, Liên hiệp các tổ chức KH&CN...) , các
trung tâm tư vấn hỗ trợ phát triển (Trung tâm xác tiến đầu tư; Trung tâm
thông tin, Trung tâm hỗ trợ HTX, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa...), các câu
65
lạc bộ kinh doanh, các tổ chức hỗ trợ địa phương, tổ chức phi chính phủ... có
vai trò nhất định đối với quá trình phát triển các hình thức KTTT. Sự hoạt
động và mức độ thiết thực trong hoạt động của các tổ chức này đối với KTTT
sẽ tạo thêm cơ hội để các đơn vị KTTT lựa chọn định hướng phát triển, định
hướng ngành nghề, tìm kiếm công nghệ, thị trường, bạn hàng, tìm kiếm liên
kết tạo sức mạnh hoạt động và cạnh tranh.
Chẳng hạn, trong hoạt động sản xuất NN của các đơn vị KTTT nếu
nhận được sự hỗ trợ tích cực của Liên hiệp các tổ chức KH&CN trong việc lai
tạo giống mới có năng suất, chất lượng cao hơn, trong việc áp dụng phương
pháp canh tác tiến bộ như NN nhà kính, tưới nước nhỏ giọt, tưới nước phun
mưa... (ví dụ như ở Israel) thì không những sẽ tiết kiệm được chi phí đầu vào
mà còn nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm đầu ra, do đó đơn vị có
sức cạnh tranh mạnh hơn, sẽ chiếm lĩnh được thị trường và thu đươc nhiều lợi
nhuận hơn, mức thu nhập cao hơn, từ đó kích thích động lực phát triển KTTT.
Năm là, mức độ và kết quả của việc xây dựng NTM
Sự phát triển của KTTT tạo cơ sở, điều kiện kinh tế cho việc xây dựng
NTM. Đến lượt nó, việc xây dựng NTM lại tác động trở lại KTTT. Nếu tiến
trình xây dựng NTM được thúc đẩy mạnh mẽ, có nhiều thành quả, thì nó sẽ
thúc đẩy phát triển KTTT nhanh hơn, bền vững hơn. Ngược lại, sự trì trệ
trong xây dựng NTM nhất định sẽ làm giảm sự phát triển của KTTT. Chẳng
hạn, chương trình xây dựng NTM đòi hỏi phải phát triển hạ tầng kinh tế - xã
hội ở NT theo các tiêu chí NTM do Chính phủ quy định là phải hoàn thiện
đường giao thông đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã và hệ thống giao thông trên
địa bàn xã, hoàn thiện hệ thống các công trình đảm bảo cung cấp điện phục vụ
sinh hoạt và sản xuất, và hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ nhu cầu
về hoạt động văn hóa thể thao trên địa bàn xã. Mức độ hoàn thiện của các kết
cấu hạ tầng này như thế nào lại tác động đến tiến trình phát triển các hình thức
KTTT ở NT. Tương tự như vậy, mức độ hoàn thành các nhiệm vụ xây dựng
66
NTM được quy định như: đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất
có hiệu quả, phát triển giáo dục và đào tạo ở NT, phát triển y tế, chăm sóc sức
khỏe cư dân NT... đều có những tác động khác nhau đến việc tạo ra điều kiện
cho phát triển KTTT. 2.3. KINH NGHIỆM TRONG NƯỚC VÀ NƯỚC NGOÀI VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.3.1. Kinh nghiệm của Ấn Độ
Ấn Độ là một nền kinh tế NN với 72% dân số ở NT. Rất nhiều loại dịch
vụ của người dân NT cần đến sự giúp đỡ bởi HTX. Những HTX đầu tiên của
Ấn Độ được ra đời vào năm 1904. Kể từ đó, phong trào HTX đã đạt được tiến
bộ đáng kể, đã mở rộng trên cả nước và hiện nay ước tính có 230 triệu thành
viên. Hệ thống HTX tín dụng của Ấn Độ có mạng lưới lớn nhất thế giới và
HTX đã chiếm thị phần nhiều hơn so với các ngân hàng thương mại trong lĩnh
vực NN của Ấn Độ. Các HTX không chỉ cung cấp yếu tố đầu vào có tính
chiến lược cho người làm NN, mà còn đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của họ ở
mức giá ưu đãi. Hoạt động tiếp thị của HTX giúp nông dân có được mức giá
có lợi và việc hợp tác các đơn vị chế biến góp phần làm tăng giá trị các sản
phẩm thô v.v.. Ngoài ra, các HTX còn mở rộng hoạt động hỗ trợ nông dân
vượt qua những biến động về hàng nông sản như: xây dựng kho lạnh, làm
đường giao thông NT, cung cấp hạ tầng thủy lợi, điện, giao thông và y tế. Ấn
Độ Hội nông dân phân bón hợp tác xã (IFFCO) đã bảo đảm sản xuất và phân
phối hơn 35% thị trường phân bón ở Ấn Độ. Khu vực HTX chiếm hơn 58%
thị phần đường, 60% thị phần tiếp thị và phân phối bông, 55% sản phẩm dệt
tay, 50% thị trường chế biến và phân phối các loại dầu ăn ở Ấn Độ. Hình thức
HTX đã đảm nhiệm phần chủ yếu chăn nuôi bò sữa, thu mua, vận chuyển, tạo
ra một chuỗi các nhà máy chế biến sữa và đã trở thành nhà sản xuất sữa lớn
nhất thế giới trong những năm 1970. Tại Ấn Độ, đã hình thành các HTX trong
lĩnh vực bảo hiểm; một số HTX trong lĩnh vực này của nông dân Ấn Độ còn
67
hợp tác với công ty nước ngoài thành lập công ty liên doanh để tiến hành kinh
doanh bảo hiểm nói chung ở Ấn Độ. Phong trào HTX đã có bước tiến toàn
diện, đóng vai trò đa chức năng, đóng góp đặc biệt đáng kể cho sự tiến bộ NN
và phát triển NT của Ấn Độ.
Cấu trúc các HTX ở Ấn Độ bao gồm các hình thức tổ chức khác nhau. Ở dưới cùng của cấu trúc này là các hiệp hội (societies) với nhiều loại hình dịch vụ, trong đó chiếm khoảng 80% là dịch vụ có liên quan đến NN. Hầu hết các hội chính này, khoảng 60% hoạt động trong lĩnh vực tín dụng. Tức là phần lớn của các hiệp hội có liên quan đến NN và tín dụng. Các hội thực hiện các chức năng khác nhau như tín dụng, thủy lợi, tiếp thị, vận tải v.v.. và được chia thành hai nhóm (i) hiệp hội tín dụng và (ii) hiệp hội phi tín dụng. Mỗi nhóm lại được chia thêm thành các nhóm nhỏ hơn: (a) hiệp hội NN và (b) hiệp hội phi NN (hai nhóm này đều phát triển ở các vùng NT). Ngân hàng trung ương và ngân hàng HTX nhà nước là tổ chức giám sát và hỗ trợ tài chính cho các hội tín dụng HTX. Hoạt động của các ngân hàng này giống như một liên kết giữa các hội HTX và thị trường tiền tệ. Chúng có chức năng trung gian trong việc chuyển các quỹ của hội dư thừa cho hội nghèo. Ở phía trên của các HTX tín dụng là ngân hàng HTX nhà nước, ở cấp nhà nước, được gọi là ngân hàng đỉnh (apex bank). Nó điều khiển và cung cấp tài chính cho hoạt động của các ngân hàng trung ương, chỉ đạo phong trào HTX trong tiểu bang. Nguồn tài chính của nó từ vốn cổ phần, tiền gửi công, các khoản cho vay từ nhà nước và ngân hàng Dự trữ Ấn Độ. Các Liên minh HTX quốc gia Ấn Độ là tổ chức cao nhất thúc đẩy phong trào HTX trong nước. Tất cả ba hình thức tổ chức trên có liên quan với tín dụng ngắn hạn và trung hạn của người dân. Các khoản vay dài hạn do các ngân hàng phát triển đất đai đảm nhiệm. Trong cấu trúc này, có các loại HTX: HTX tín dụng NN, HTX tín dụng phi NN, HTX tiếp thị NN, HTX nông hội và HTX dịch vụ xã hội.
Phong trào HTX có ý nghĩa lớn đối với một nước đông dân như Ấn Độ, bởi vì: (i) Đây là một tổ chức cho người nghèo, học vấn thấp; (ii) Đây là một tổ
68
chức giúp đỡ và chia sẻ lẫn nhau; (iii) Nó làm mềm xung đột xã hội và làm giảm sự phân chia giai cấp xã hội; (iv) Nó làm giảm các tệ nạn quan liêu và cực đoan của các phe phái chính trị; (v) Nó vượt qua những hạn chế của phát triển NN; và (vi) Nó tạo ra môi trường thuận lợi cho các ngành công nghiệp nhỏ.
Phong trào HTX ở Ấn Độ đã đạt được tiến bộ to lớn. Thị phần của HTX trong nền kinh tế Ấn Độ năm 2006: 100% các công việc thuần NT; 46.15% tín dụng NN; 36,2% nhu cầu phân bón (6.049.000 tấn); 27,6% sản xuất phân bón (3,293 MT - N & P) và chất dinh dưỡng đất; 59.0% sản xuất đường (10.400 triệu tấn); 31,8% tiêu thụ hạt mì (4,50 triệu tấn); sản xuất và cung cấp thức ăn gia súc: 50%; cửa hàng bán lẻ theo giá hợp lý (NT + đô thị): 22%; chiểm 7,4% tổng sản lượng thị trường sữa; 50% thị phần dầu ăn có nhãn hiệu trên thị trường; HTX chiếm 9,5% số cọc sợi (3.518.000) và 55% số khung dệt tay, 21% ngư dân; 65% cao su chế biến và tiếp thị; tạo việc làm thường xuyên và tự chủ cho gần 15,5 triệu người…
Mặc dù tăng trưởng khá nhanh, nhưng phong trào HTX ở Ấn Độ vẫn không phải là rất ấn tượng. Những trì trệ hiện nay là do sự can thiệp của Chính phủ còn nặng về hành chính, tính độc lập và tự chủ của HTX chưa thật sự được coi trọng. Năng lực của bộ máy quản lý yếu kém: tuy Luật HTX quy định tối thiểu có 11 nông dân là cần thiết để tạo thành một HTX, nhưng hiện nay có nơi số thành viên một HTX lên tới 15.000 - 25.000 nông dân, trong khi đó góp vốn của các thành viên vào HTX không giới hạn quy mô cổ phần, nên việc bầu cử vào các chức danh quản lý chịu sự chi phối của cổ đông có nhiều tiền trong HTX, làm cho lợi ích của người ít vốn bị thiệt hại. Nhiều người dân thiếu nhận thức, không có thông tin đầy đủ về các mục tiêu của phong trào HTX, trong khi tệ quan liêu của cán bộ ở cấp dưới hoành hành; thiếu công khai trong bầu cử ban quản trị…Đây là những rào cản việc truyền bá các thông tin chính xác về phong trào HTX. Bên cạnh đó, các HTX còn thiếu nhân sự được đào tạo và còn hạn chế về bảo hiểm [130].
Hiện nay, phong trào HTX ở Ấn Độ đang trong quá trình cải cách. Mục
tiêu cải cách nhằm duy trì các giá trị và nguyên tắc của HTX, tăng cường tính
69
chuyên nghiệp trong quản trị, phát triển nguồn nhân lực, hướng các HTX vào
phát triển sản xuất các dịch vụ công ở khu vực NT, sản xuất và phân phối ở
các lĩnh vực hiệu quả nhất. Ấn Độ ngày càng nhận thức rằng hệ thống HTX
có năng lực và tiềm năng để trung hòa tác động bất lợi phát sinh từ quá trình
toàn cầu hóa và tự do hóa, và tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy việc làm và xóa đói giảm nghèo.
Các HTX ở Ấn Độ đang phát triển theo xu hướng: Phạm vi của các hợp
tác xã được mở rộng và đa dạng hóa, đa mục đích; đa số các hiệp hội HTX
chuyển sang cơ sở trách nhiệm hữu hạn; quy mô của hiệp hội HTX được mở
rộng trên cơ sở nguyên tắc khoa học. HTX là hình thức được đánh giá có
tiềm năng to lớn để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trong lĩnh vực mà cả nhà
nước và tư nhân đã thất bại. Phát triển HTX là chiến lược để tăng trưởng kinh
tế mạnh mẽ ở Ấn Độ hiện nay [113]
2.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông
thôn mới của một số tỉnh trong nước - Kinh nghiệm phát triển HTX chăn nuôi của thành phố Hà Nội Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 9 HTX chăn nuôi hoạt động
hiệu quả, điển hình là HTX chăn nuôi và dịch vụ Cổ Đông (thị xã Sơn Tây);
HTX chăn nuôi - dịch vụ tổng hợp Hoà Mỹ (xã Vạn Thái, huyện Ứng Hòa);
HTX chăn nuôi Hồng Quang với 24 xã viên, HTX chăn nuôi Mỹ Hà (Mỹ Đức)
có 24 hộ với tổng đàn lợn 9.125 con...
HTX chăn nuôi và dịch vụ Cổ Đông là một trong những HTX ra đời
sớm và phát triển mạnh nhất trên địa bàn Hà Nội. Tính đến tháng 4/2015,
HTX có 350 xã viên với trên 550 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô
công nghiệp và hàng trăm trang trại chăn nuôi bán công nghiệp, quy mô nhỏ
và vừa; tổng đàn lợn của HTX khoảng 175.000 con/lứa, đàn gà từ 950.000 -
1.000.000 con/lứa, cho lợi nhuận trên 80 tỷ đồng mỗi năm.
HTX chăn nuôi - dịch vụ tổng hợp Hoà Mỹ có 33 xã viên với tổng đàn
lợn 35.225 con, nuôi tập trung ở 2 xã Vạn Thái và Sơn Công . Đây là một trong
70
những điển hình tiên tiến trong phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi
được các cấp Hội ghi nhận và đánh giá cao trong việc ứng dụng khoa học, công
nghệ hiện đại vào chăn nuôi. HTX được UBND thành phố Hà Nội cấp Bằng
khen đã có thành tích trong công tác chống hàng giả, bảo vệ “thương hiệu
Thăng Long” năm 2014 và Giám đốc HTX, ông Nguyễn Văn Thanh, được
Thành phố tặng danh hiệu “Công dân Thủ đô ưu tú”.
Các HTX trên đã phối hợp với các cơ quan chuyên môn từ Trung ương
đến địa phương, các doanh nghiệp để triển khai các hoạt động chuyên môn
như tập huấn kỹ thuật, xử lý môi trường, phòng dịch, tiêu thụ sản phẩm chăn
nuôi; đưa xã viên thăm quan học tập mô hình điển hình tiên tiến để tiếp thu kỹ
thuật chăn nuôi tiên tiến.
Thành phố Hà Nội đã xây dựng 4 vùng chăn nuôi lợn tại các huyện Ứng
Hòa, Thạch Thất, Thanh Oai và Sơn Tây với tổng đàn hơn 200.000 con và 13
xã chăn nuôi lợn trọng điểm ở thị xã Sơn Tây và ở các huyện Thạch Thất,
Quốc Oai, Thanh Oai, Ứng Hòa, Mỹ Ðức và Gia Lâm. Phát triển 6 vùng chăn
nuôi gà tập trung với quy mô lớn ngoài khu dân cư tại các huyện Ba Vì,
Chương Mỹ, Ðông Anh, Sơn Tây, Quốc Oai, Sóc Sơn với gần 3 triệu con và 2
vùng chăn nuôi vịt quy mô lớn tại các huyện Phú Xuyên, Ứng Hòa. Trung tâm
phát triển chăn nuôi Hà Nội đã phối hợp, tư vấn cho các HTX quan hệ với các
doanh nghiệp, các địa phương có thế mạnh về chăn nuôi gia súc, gia cầm tổ
chức ký kết, hợp tác bao tiêu sản phẩm. Các doanh nghiệp này còn đầu tư phát
triển vùng nguyên liệu. Đã tư vấn, phối hợp với các Sàn giao dịch rau quả và
thực phẩm an toàn Hà Nội đưa một số sản phẩm chăn nuôi của 7 đơn vị như
trang trại Bảo Châu, Công ty cổ phần thực phẩm sạch 3F, trang trại 729 Ba Vì,
Công ty cổ phần Giang Sơn-Bắc Giang, Công ty cổ phần Tiên Viên, Công ty
cổ phần tư vấn dịch vụ và thương mại nông sản thực phẩm NT, Công ty cổ
phần ứng dụng phát triển công nghệ sinh học tiêu thụ qua các điểm phân phối
của Sàn giao dịch. Đã mở 78 điểm phân phối sản phẩm tại các cơ quan, khu
dân cư, bước đầu ổn định và được người tiêu dùng đánh giá cao.
71
Trong cơn bão thực phẩm "bẩn" đang “hoành hành”, nhu cầu được sử
dụng thực phẩm an toàn ngày càng cấp thiết đối với người tiêu dùng, HTX
chăn nuôi và dịch vụ Cổ Đông đã tập trung vào sản xuất, kinh doanh theo
chuỗi liên kết giữa 50 trang trại lợn và 40 trang trại gà theo mô hình khép kín
từ cung cấp thức ăn đến thu mua sản phẩm trên tinh thần hợp tác và chia sẻ
lợi nhuận của người chăn nuôi và các chủ trang trại. Các trang trại tham gia
vào mô hình này đều hài lòng và đánh giá đây là mô hình phù hợp, có đủ cơ
sở điều kiện để duy trì lâu dài và hiệu quả.
Hiện mô hình sản xuất chăn nuôi của Thành phố đang chuyển động
theo xu hướng phát triển chuỗi khép kín từ chuồng trại tới cửa hàng và bếp ăn
đảm bảo cung cấp thịt, trứng, sữa chất lượng và an toàn cho người tiêu dùng.
Trong đó, vai trò của HTX càng trở nên quan trọng, nhất là tập hợp, liên kết
nông dân cùng sản xuất theo chuỗi giá trị từ khâu sản xuất đến các khâu chế
biến, tiêu thụ sản phẩm, tạo sự gắn bó bền vững giữa các xã viên và mang lại
lợi nhuận cho HTX. Đây là hướng đi có thể cung cấp kinh nghiệm cho phát
triển KTTT ở các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Tuy nhiên, thành phố Hà Nội chưa xây dựng được các mô hình trình diễn
công nghệ cao tại cơ sở; việc sản xuất để tạo ra giống bò, lợn đảm bảo an toàn
dịch bệnh, vệ sinh môi trường còn bất cập; liên kết tiêu thụ sản phẩm chưa
nhiều. Các HTX trong chăn nuôi vẫn gặp rất nhiều khó khăn về đất đai làm trang
trại, khu chế biến, giết mổ, kho bãi chưa được quy hoạch, thiếu hệ thống xử lý
chất thải chăn nuôi. Phần lớn mặt bằng sản xuất do xã viên tự đi thuê với giá cao,
thời hạn ngắn, không đảm bảo để đầu tư lớn. Giá thức ăn chăn nuôi tăng liên tục,
trong khi giá thực phẩn sạch liên tục bị sức ép do chưa kiểm soát hữu hiệu thực
phẩm giá rẻ không an toàn trên thị trường; cống tác tuyên truyền quáng cáo giới
thiệu sản phẩm sạch và hình ảnh chăn nuôi Hà Nội còn yếu. Để phát triển bền
vững KTTT vùng NT, chính quyền và người dân Hà Nội vẫn đang còn nhiều
việc cần phải làm [1].
72
- Kinh nghiệm của tỉnh Sóc Trăng
Đến cuối năm 2015, tỉnh Sóc Trăng có 120 HTX, 1 liên hiệp HTX với
tổng vốn điều lệ là 77,3 tỷ đồng, tổng nguồn vốn của HTX là 909,9 tỷ đồng và
2.583 THT hầu hết là hoạt động trong NT. Để phát triển KTTT gắn với xây
dựng NTM, kể từ khi Nhà nước ban hành Luật HTX năm 2012, tỉnh Sóc
Trăng đã coi trọng công tác tuyên truyền, tập huấn Luật HTX và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực cho HTX. Bên cạnh việc tuân thủ nghiêm ngặt quy
trình thành lập mới và tổ chức sản xuất của KTTT theo luật, xây dựng và duy
trì Điều lệ, phương án sản xuất kinh doanh, vốn góp đúng theo yêu cầu, tỉnh
còn chú ý phổ biến để nhân rộng các điển hình tiên tiến.
HTX NN Evergrowth ở ấp Chắc Tưng, xã Tài Văn, huyện Trần Đề là
một điển hình tiên tiến được lựa chọn để nhân rộng trong tỉnh. HTX được
thành lập vào tháng 3/2004, thông qua Dự án nâng cao đời sống NT tỉnh Sóc
Trăng do SOCODEVI (một tổ chức phi lợi nhuận Canada) tài trợ. Nguồn vốn
của HTX được công bố khi thành lập là 151 triệu đồng với 171 xã viên, ngành
nghề kinh doanh đa dạng, bao gồm: dịch vụ thu mua và chế biến sữa tươi
nguyên liệu; dịch vụ mua bán thuốc thú y và thức ăn gia súc; dịch vụ khuyến
nông, hỗ trợ kỹ thuật thú y, điều trị bệnh, phối giống nhân tạo; dịch vụ cung
ứng giống và mua bán thịt bò, chăn nuôi bò sữa; dịch vụ cung ứng con giống
và vật tư NN; dịch vụ thu mua, sản xuất và chế biến nông sản. Evergrowth hoạt
động theo mô hình HTX của Canada. Tổ chức bộ máy của HTX vừa là hội
thành viên, vừa là doanh nghiệp. Để thành lập HTX, các hộ nông dân được tập
huấn rất kỹ về kỹ thuật chăn nuôi bò sữa, biện pháp phòng trị bệnh, kỹ thuật
trồng cỏ; tập huấn về tính chất và mục đích của HTX để người dân hiểu rõ
quyền lợi, nghĩa vụ... Ban quản trị, Ban kiểm soát được xã viên bầu. Giám đốc
và nhân viên được Ban quản trị thuê mướn… Evergrowth chính thức hoạt động
vào tháng 12/2004 với các tài sản được tài trợ, gồm trụ sở làm việc, văn phòng,
phòng kỹ thuật, phòng kiểm nghiệm, nhà kho, điểm thu mua, hội trường, phòng
làm lạnh sữa... , tổng tài sản trị giá hơn 4 tỷ đồng.
73
Hơn 10 năm qua, tuy có những thăng trầm, nhưng HTX Evergrowth vẫn
trụ vững, là niềm tin của nhiều hộ xã viên. HTX hiện có hơn 1.500 xã viên,
tổng đàn bò sữa là 3.875 con, trong đó có trên 1.800 con đang cho sữa với sản
lượng bình quân trên 16 tấn/ngày. Từ chỗ chỉ có điểm thu mua ở tại trụ sở, nay
HTX đã phát triển định hướng các điểm mua tại Trần Ðề, Mỹ Xuyên, Thạnh
Trị, Mỹ Tú, Châu Thành. Điểm thu mua tại trụ sở và ở xã Thuận Hưng, huyện
Mỹ Tú đã có kho lạnh với tổng công suất trên 16 tấn. HTX đang lắp đặt thêm
hệ thống làm lạnh mới, công suất thiết kế 12 tấn, kinh phí trên 2,5 tỉ đồng trích
từ nguồn vốn tích lũy của HTX đáp ứng nhu cầu đi lên của HTX. Để chăn nuôi
bò sữa mang lại hiệu quả cao hơn, HTX đã hợp tác tốt với Công ty TNHH một
thành viên PROCONCO, Công ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam cung cấp
vật tư bằng với giá của đại lý cấp I. HTX ứng trước vốn và trừ dần vào tiền bán
sữa của xã viên, hoàn toàn không phát sinh lãi... Theo Giám đốc HTX
Evergrowth, “Nếu được chăm sóc tốt, đúng kỹ thuật, một con bò có thể cho thu
nhập tương đương với 1ha trồng lúa/năm” [87].
Để phát triển KTTT trong xây dựng NTM, tỉnh Sóc Trăng còn thực hiện
chính sách hỗ trợ, ưu đãi, như chính sách tài chính, tín dụng nhằm tạo điều kiện
cho HTX, THT tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, Quỹ hỗ trợ phát triển HTX
tỉnh, nguồn vốn từ các Chương trình, dự án đầu tư các trang thiết bị phục vụ
sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản. Thực hiện lồng ghép, kết hợp các
Chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở
NT nhằm thu hút các nguồn lực phát triển các hình thức tổ chức kinh tế hợp
tác, liên kết. Tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính và cơ sở vật chất của các nhà tài
trợ và các tổ chức tài chính quốc tế, các nguồn tài chính hợp pháp khác, đặc
biệt là từ nguồn của các doanh nghiệp đầu tư vào NN, NT. Ban hành chính
sách hỗ trợ KH&CN mới. Hàng năm, ngân sách tỉnh bố trí nguồn kinh phí cần
thiết để hỗ trợ cho KTTT trong việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới
phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu. Hỗ
trợ xúc tiến thương mại như tổ chức các chuyến đi thực tế tham quan các mô
74
hình KTTT trong và ngoài tỉnh để học tập kinh nghiệm làm ăn có hiệu quả. Hỗ
trợ và tạo điều kiện cho các đơn vị KTTT tham gia hội chợ, triển lãm, tìm kiếm
thị trường, quảng bá sản phẩm.
Ngoài ra, tỉnh Sóc Trăng còn thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư mua
máy móc, thiết bị phục vụ phát triển sản xuất, thực hiện cơ giới hóa sản xuất,
hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong NN; xây dựng và phát triển các mô hình liên
kết bền vững trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện và đảm bảo hài hòa lợi ích chính
đáng của các thành viên tham gia trong mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu
thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn, chú trọng vai trò chủ đạo của các doanh
nghiệp tham gia vào mô hình liên kết, đảm bảo chuỗi giá trị từ sản xuất đến
tiêu thụ nông sản. Qua đó, giúp các đơn vị KTTT sản xuất kinh doanh theo
hướng thị trường, tăng năng xuất, đầu ra ổn định và giúp doanh nghiệp có vùng
nguyên liệu ổn định [83].
2.3.3. Một số bài học rút ra cho tỉnh Quảng Ngãi
Từ kinh nghiệm của Ấn Độ và một số tỉnh trong nước, có thể rút ra bài
học cho phát triển KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi trên những
khía cạnh như sau:
Một là, con đường và xu thế phát triển KTTT là tất yếu. Cùng với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và kinh tế thị trường hội nhập, tất yếu
phải đa dạng hóa hình thức và lĩnh vực sản xuất kinh doanh của HTX, trong
đó hình thức HTX dịch vụ tài chính, tín dụng có vai trò quan trọng; phải phát
triển các HTX kinh doanh đa mục đích; phải mở rộng việc hình thành liên
hiệp các HTX của nông dân và liên kết giữa HTX ở NT với các doanh nghiệp,
các tổ chức để tăng sức mạnh tham gia cạnh tranh.
Hai là, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của KTTT đã
được Liên minh các HTX thế giới khẳng định và đã được quy định trong Luật
HTX của Việt Nam năm 2012; phải coi đây là điều kiện bắt buộc để phát triển
các hình thức KTTT.
75
Ba là, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng, tạo
môi trường và hỗ trợ KTTT phát triển. Việc can thiệp của Nhà nước phải trên
cơ sở coi trọng quyền tự chủ của HTX và coi trọng vai trò tự điều tiết của cơ
chế thị trường.
Bốn là, để phát triển KTTT, cần thường xuyên coi trọng việc bảo đảm
kết hợp lợi ích chung của tập thể và lợi ích của các thành viên tham gia. Đồng
thời, nâng cao trình độ nhận thức về sự cần thiết của phát triển KTTT trong
xây dựng NTM, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho các thành viên và
năng lực của nhà quản trị HTX, THT là một điều kiện hết sức quan trọng để
thúc đẩy hình thành và phát triển KTTT, cần được các cấp chính quyền và các
tổ chức hỗ trợ coi trọng.
76
Chương 3
THỰC TRẠNG KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
3.1. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ,
XÃ HỘI CỦA TỈNH QUẢNG NGÃI LIÊN QUAN ĐẾN KINH TẾ TẬP THỂ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
3.1.1. Những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của
tỉnh Quảng Ngãi liên quan đến phát triển kinh tế tập thể
- Thuận lợi về điều kiện tự nhiên
Quảng Ngãi là một tỉnh nằm trong khu vực duyên hải miền Trung,
chiều dài khoảng 100 km (theo hướng Bắc Nam), chiều rộng 50 km (theo
hướng Đông Tây), nằm trên quốc lộ 1A, phía Bắc cách Hà Nội 883 km, phía
Nam cách thành phố Hồ Chí Minh 838 km; quốc lộ 24 A nối tỉnh Quảng Ngãi
với vùng Tây Nguyên, Lào và Đông Bắc Thái Lan và có đường sắt đi qua.
Tỉnh Quảng Ngãi có điều kiện thuận lợi trong giao lưu văn hóa và phát triển
kinh tế hàng hóa, đặc biệt trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Diện tích tự
nhiên 5135 km2, dân số năm 2015 là 1,24 triệu người [17]; phía bắc giáp tỉnh
Quảng Nam, phía tây giáp tỉnh Kom Tum, phía nam giáp tỉnh Bình Định, phía
đông giáp Biển Đông với bờ biển dài 144 km.
Quảng Ngãi có hai vùng địa hình phân biệt rõ rệt: Vùng trung du miền
núi và vùng đồng bằng chạy dài sát ven biển với bốn con sông lớn (sông Trà
Bồng, sông Trà Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu) đều chảy ra biển Đông. Vùng
trung du miền núi chiếm 3/4 diện tích tự nhiên, chủ yếu là các dân tộc thiểu số
sinh sống, địa hình hiểm trở, núi non trùng điệp nối liền với dãy Trường Sơn.
Đồng bằng Quảng Ngãi nhỏ hẹp chiếm 1/4 đất tự nhiên nhưng số dân khá đông
với 1,01 triệu người, chiếm 81,7% tổng dân số trong tỉnh [17], được chia thành
hai tuyến kinh tế NN rõ rệt: (i) Tuyến kinh tế vùng đồng bằng chủ yếu sản xuất
lương thực (lúa, sắn, ngô), cây công nghiệp (mía, rau màu, lạc, vừng…), cây ăn
77
quả (chuối, chôm chôm, sầu riêng, bưởi da xanh,…), chăn nuôi gia súc, gia
cầm (lợn, bò, gà, vịt). Cách thức tổ chức sản xuất của tuyến này rất thuận lợi
cho việc hình thành tổ/nhóm hợp tác và HTX NN kiểu mới trong thời gian tới;
(ii) Tuyến kinh tế ven biển thuộc các xã ven biển có tiềm năng và lợi thế về
nuôi trồng, khai thác, đánh bắt và dịch vụ hậu cần nghề cá. Vì vậy, thời gian
qua vùng này liên tiếp ra đời nhiều tổ ngư dân đoàn kết và HTX khai thác và
đánh bắt xa bờ.
Tỉnh Quảng Ngãi có khí hậu nhiệt đới gió mùa và có thế mạnh cả 3 vùng
(trung du, miền núi và đồng bằng ven biển), tạo nền NN phong phú về chủng
loại sản phẩm. Mùa nắng kéo dài từ tháng 1 đến tháng 9, số giờ nắng trong năm
cao từ 1.981 đến 2.289,9 giờ, nhiệt độ trung bình từ 25,7 đến 26,7 độ C, làm
cho cây trồng và vật nuôi sinh trưởng và phát triển tốt. Mùa mưa kéo dài từ
tháng 9 đến tháng 12, lượng mưa tương đối nhiều (2.260 mm/năm) và hàm
lượng đạm trong nước mưa khá cao góp phần tăng lượng đạm cho cây trồng.
Biển Quảng Ngãi có thềm lục địa tương đối hẹp, vùng biển ven bờ nằm
bên vùng nước sâu của trũng biển Đông, có nhiều loại hải sản như : Cá Ngừ,
cá Thu, Mực, Tôm, Cua…với sản lưọng hàng năm khai thác được từ 104 -
151 ngàn tấn hải sản [28].
Tổng diện tích đất canh tác ở tỉnh Quảng Ngãi là 376,5 ngàn ha. Đất
vùng đồi núi có khả năng phát triển lâm nghiệp chiếm 73,4% và đất NN
chiếm 19,4% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh [17].
- Thuận lợi về điều kiện kinh tế và xã hội
Tỉnh Quảng Ngãi có 13 huyện và 1 thành phố. Trong đó, có 6 huyện
đồng bằng (Đức Phổ, Mộ Đức, Nghĩa Hành,Tư Nghĩa, Sơn Tịnh và Bình Sơn)
và 6 huyện miền núi (Ba Tơ, Trà Bồng, Sơn Hà, Sơn Tây, Tây Trà và Minh
Long) và 1 huyện đảo Lý Sơn.
Mức tăng GRDP giai đoạn 2008-2015 bình quân 7,2%/năm. Năm 2015,
tỷ trọng công nghiệp chiếm 62%, dịch vụ chiếm 24%, NN chiếm 14% trong
78
GRDP; tỷ lệ lao động NN chiếm 47%, công nghiệp 28%, dịch vụ 25% tổng
lực lượng lao động trong tỉnh; chất lượng, năng lực cạnh tranh và hội nhập
quốc tế của tỉnh Quảng Ngãi được nâng lên; chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)
và môi trường đầu tư đã có những cải thiện [28].
Hàng năm, tỉnh giải quyết việc làm cho khoảng 36.500 lao động; hộ
nghèo giảm từ 75.034 hộ năm 2010 còn 26.538 hộ năm 2015, trung bình giảm
3,23%/năm [28].
Khu vưc NT tỉnh Quảng Ngãi là nơi đang tập trung một số lượng lớn
lực lượng lao động. Theo kết quả điều tra, đến ngày 01/07/2014 toàn tỉnh có
741,1 ngàn lao động từ 17 tuổi trở lên đang làm việc, trong đó khu vực NT
633,1 ngàn người, chiếm 59,8% số dân NT; khu vực thành thị có 108 ngàn lao
động, chiếm 58,1% số dân thành thị [17, tr 31].
Đào tạo nghề cho lao động NT đã được quan tâm đầu tư và đạt nhiều
kết quả tích cực, tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 30,5% năm 2011 đến nay đã
tăng lên 45,0%, tỷ lệ lao động có việc làm sau đào tạo nghề đạt từ 80-90%,
giải quyết việc làm hàng năm cho khoảng 30 ngàn lao động, nâng tỷ lệ sử
dụng thời gian lao động ở khu vực NT, giảm tỷ trọng lao động NN đến năm
2015 còn 47% tổng số lao động xã hội [103].
Sản xuất NN của tỉnh liên tục tăng, giá trị sản xuất ngành nông, lâm,
thủy sản năm 2015 đạt 3.365 tỷ đồng tăng 615,5 tỷ đồng so với năm 2010, tăng
bình quân 4,1%/năm; trong đó NN tăng 2%, lâm nghiệp tăng 13,5%, thủy sản
tăng 6,4% đã đem lại thu nhập ngày càng cao cho người nông dân [28].
Quản lý, bảo vệ rừng được chú trọng; tổng diện tích rừng tăng, năm
2015 đạt 280 ngàn ha; trong đó rừng trồng 168 ngàn ha; rừng sản xuất trồng
mới tăng bình quân 6.477 ha/năm, nâng độ che phủ rừng lên 5% [28].
Ngành thủy sản tiếp tục tiếp tục phát triển; hạ tầng nghề cá được quan
tâm đầu tư, đã xây dựng 3 khu neo đậu tránh bảo, 3 công trình hạ tầng nuôi
trồng thủy sản; đến nay trên địa bàn tỉnh có 10 nhà máy chế biến thủy sản, 24
79
cơ sở đóng, sửa chữa tàu thuyền. Toàn tỉnh có 5480 chiếc tàu, công suất bình
quân 170 CV/chiếc, tăng 85 CV/chiếc so với năm 2010[28].
3.1.2. Những khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của
tỉnh Quảng Ngãi liên quan đến phát triển kinh tế tập thể
- Khó khăn về điều kiện tự nhiên
Sự đa dạng về địa hình là một bất lợi trong sản xuất NN hàng hóa lớn
bởi tính phân tán, qui mô nhỏ, chia cắt nên hình thành các vùng sản xuất
nguyên liệu tập trung là khó khăn do chi phí lớn.
Quảng Ngãi là một trong những tỉnh chịu tác động lớn của biến đổi khí
hậu, thường xuyên bị bảo lũ và hạn hán hoành hành làm mất mùa và dịch
bệnh đối với cây trồng vật nuôi. Là tỉnh thường bị lụt, bão gây thiệt hại rất
nặng cho sản xuất và đời sống [76].
Các huyện miền núi Quảng Ngãi địa hình bị chia cắt mạnh, cản trở đến
việc phát triển kết cấu hạ tầng và nhất là giao thông vận tải, việc giao thương
bị hạn chế, khó khăn trong việc khai thác tài nguyên, chưa hấp dẫn đầu tư
hoặc đầu tư kém hiệu quả, hạn chế tái cơ cấu ngành NN.
Mật độ dân số cao ở đồng bằng, địa hình không bằng phẳng, đất phân
tán, nhỏ lẻ, manh mún là những hạn chế trong việc hình thành các vùng sản
xuất hàng hóa chuyên canh, công nghệ cao để sản xuất và phát triển KTTT.
- Khó khăn về điều kiện kinh tế, xã hội
Vùng trung du miền núi Quảng Ngãi rất thuận lợi cho việc trồng rừng
và chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò), nhưng do trình độ của bà con còn hạn chế
và đa số họ là dân tộc thiểu số nên bất lợi cho phát triển KTTT..
Tuy có mức tăng trưởng GRDP khá cao như trên, nhưng quy mô kinh
tế của tỉnh Quảng Ngãi còn nhỏ bé. Năm 2015, tổng vốn đầu tư toàn xã hội
chỉ đạt 40,6%, thấp hơn so với các tỉnh xung quanh [28].
Việc thực hiện tái cơ cấu ngành NN chậm; công tác “Dồn điền, đổi
thửa”, “xây dựng cánh đồng mẫu lớn” gặp nhiều khó khăn. Ứng dụng công
80
nghệ cao trong trồng trọt chưa phát triển, chăn nuôi quy mô nhỏ; chưa tạo
được hệ thống liên kết giữa sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm,
thủy sản; Giảm nghèo chưa thật sự bền vững, hộ tái nghèo ở miền núi còn khá
cao; chính sách giảm nghèo có mặt hạn chế là tạo sự ỷ lại, nhiều người dân
không muốn thoát nghèo. Đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn [28].
Thu hút đầu tư giảm, đặc biệt trong lĩnh vực NN các doanh nghiệp chưa
thực sự đầu tư bởi chính sách đầu tư chưa thật sự thông thoáng. Tư duy sản
xuất hàng hóa của bà con nông dân còn nhiều hạn chế, bất cập. Tư tưởng bảo
thủ, trì trệ của một bộ phận nông dân là trở lực lớn ngăn cản người nông dân
bước vào kinh tế thị trường hội nhập.
Nguồn lực đầu tư cho KH&CN còn ít; cơ sở vật chất, thiết bị còn nhiều
thiếu thốn. Nhận thức của cộng đồng, đặc biệt là người nông dân về phát triển
KTTT còn nhiều hạn chế và phần đông nông dân trên địa bàn tỉnh vẫn còn
tâm lý e ngại do phong trào hợp tác hóa kiểu cũ để lại. 3.2. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI, VẬN DỤNG CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA TỈNH QUẢNG NGÃI
3.2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển
kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới Phát triển KTTT là một nội dung trong đường lối, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước.
Trước khi thực hiện Chương trình xây dựng NTM vào năm 2008, Đảng và
Nhà nước đã ban hành các chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển
KTTT ở Việt Nam. Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, về tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT đã yêu cầu phải thống nhất nhận thức
về quan điểm phát triển KTTT. KTTT với nhiều hình thức hợp tác đa dạng,
mà nòng cốt là HTX, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể,
81
liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy
mô, lĩnh vực và địa bàn; phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ
tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Thành viên KTTT bao gồm các thể nhân và pháp nhân, cả người ít vốn và
nhiều vốn, cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ. Khẳng định, KTTT lấy lợi
ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể,
đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của thành viên, góp phần xoá đói, giảm
nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng.
Trọng tâm phát triển KTTT là ở khu vực NN, NT. Phát triển KTTT
phải bảo đảm quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh
tế hộ, trang trại phát triển, gắn với tiến trình CNH, HĐH NN và xây dựng
NTM; không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao năng suất, hiệu quả và
sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước thực hiện
các chính sách hỗ trợ KTTT trong quá trình xây dựng và phát triển. Các hỗ
trợ tập trung vào chính sách miễn thuế sử dụng đất NN trong hạn điền, hỗ trợ
đầu vào, đầu ra cho sản xuất NN, hỗ trợ về KH&CN cho sản xuất thông qua
hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công.
Khuyến khích xây dựng các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản, công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề... ở NT...
Xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận tiện cho KTTT phát
triển, như: phải sửa đổi, bổ sung Luật HTX; sửa đổi, bổ sung một số cơ chế,
chính sách như chính sách cán bộ và nguồn nhân lực, chính sách đất đai, chính
sách tài chính, tín dụng, chính sách hỗ trợ về KH&CN, chính sách hỗ trợ tiếp
thị và mở rộng thị trường, chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng [23].
Ngày 26/11/2003, Quốc hội ban hành Luật HTX thay thế Luật HTX đã
ban hành năm 1996, xác định rõ: HTX là tổ chức KTTT do các cá nhân, hộ gia
đình, pháp nhân (xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp
82
sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng
giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Luật quy định quyền và nghĩa vụ của HTX, thành lập và đăng ký kinh
doanh, tổ chức và quản lý HTX, phát triển Liên hiệp và Liên minh HTX [72].
Để thúc đẩy xây dựng NTM, ngày 5/8/2008, Hội nghị lần thứ bảy Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW
về NN, nông dân, NT (viết tắt là Nghị quyết 26). Trong đó, xác định NN,
nông dân, NT có vị trí chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội
bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Các vấn đề phát triển NN, nông dân, NT phải đồng bộ, gắn với quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước và phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực,
để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao
động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội
nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong NN, NT. Xây
dựng NTM là Chương trình trọng tâm của Nghị quyết 26.
Để xây dựng NTM, một trong những nhiệm vụ và giải pháp trọng yếu
được xác định trong Nghị quyết 26 là: “Tiếp tục đổi mới, phát triển HTX,
THT phù hợp với nguyên tắc tổ chức của HTX và cơ chế thị trường; hỗ trợ
KTTT về đào tạo cán bộ quản lý, lao động; tiếp cận các nguồn vốn, trợ giúp
kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường, xúc tiến thương
mại và các dự án phát triển NT; HTX phải làm tốt các dịch vụ đầu vào, chế
biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân”. Phải “có chính sách khuyến khích
phát triển các mối liên kết giữa hộ nông dân với các doanh nghiệp, HTX, tổ
chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và thị trường tiêu thụ sản phẩm để hỗ
trợ kinh tế hộ phát triển theo hướng gia trại, trang trại có quy mô phù hợp,
83
sản xuất hàng hoá lớn” [25]. Như vậy, phát triển KTTT là một giải pháp quan trọng trong xây dựng NTM ở nước ta.
Thực hiện Nghị quyết 26, ngày 28/10/2008, Chính phủ ban hành Nghị
quyết số 24/2008/NQ-CP về Chương trình hành động, xác định NTM ở nước
ta được xây dựng theo 5 nội dung: (1) Làng, xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng
hiện đại; (2) Sản xuất phải phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa;
(3) Đời sống vật chất và tinh thần của nông dân, NT ngày càng nâng cao; (4)
Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn; và (5) Xã hội NT an ninh tốt, quản lý
dân chủ. Ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 491/QĐ-
TTg về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM với 19 tiêu chí trong 5
nhóm nội dung: quy hoạch, hạ tầng kinh tế - xã hội, kinh tế và tổ chức sản
xuất, văn hóa, xã hội, môi trường và nhóm hệ thống chính trị.
Ngày 4/6/2010, Chính phủ đã ban hành Quyết định 800 QĐ-TTg về
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020, trong
đó nêu rõ đến năm 2020 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn NTM theo Bộ tiêu chí
quốc gia. Đề xuất 11 nội dung lớn trong đó có đổi mới và phát triển các hình
thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở NT nhằm thực hiện yêu cầu tiêu chí số 13
của Bộ tiêu chí quốc gia NTM. Đến 2015, cả nước có 65% số xã đạt chuẩn và
đến 2020 có 75% số xã đạt chuẩn NTM. Việc phát triển kinh tế HTX được đặt
trong mối quan hệ với phát triển kinh tế hộ, trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở NT. Phải xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các loại
hình kinh tế ở NT. Đề xuất 7 nhóm giải pháp xây dưng NTM bao gồm: thực
hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng về xây dựng NTM, cơ chế huy động vốn,
nguyên tắc cơ chế hỗ trợ, cơ chế đầu tư, đào tạo cán bộ chuyên trách, hợp tác
quốc tế và điều hành, quản lý chương trình xây dựng NTM. Với Quyết định
này, việc phát triển KTTT được xác định là một trong những nội dung xây dựng NTM và là một trong những yêu cầu của tiêu chí quốc gia NTM.
Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành có liên
quan đã ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể. Ngày 13/4/2011, Bộ NN và Phát
84
triển NT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính đã ra Thông tư liên tịch số
26/2011/TTLT hướng dẫn một số nội dung thực hiện Quyết định số 800/QĐ-
TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn
2010-2020. Trong đó, thành lập hệ thống quản lý, thực hiện Chương trình
bằng việc lập Ban chỉ đạo Chương trình xây dựng NTM từ cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, đến cấp huyên và cấp xã. Cấp thôn thành lập Ban
phát triển NT. HTX là một đối tượng được Nhà nước hỗ trợ để xây dựng và
phổ biến nhân rộng mô hình sản xuất mới và ngành nghề NT (hỗ trợ giống
cây trồng, vật nuôi, thủy sản, phân bón, thức ăn, thuốc phòng trừ dịch bệnh,
máy móc thiết bị, công cụ sản xuất, vật tư khác). Thông tư đề ra dự án phát
triển KTTT bao gồm HTX, THT (tập trung vào các HTX, THT trong NN); dự
án nâng cao năng lực tổ chức, quản lý, hoạt động của các hình thức KTTT và
tăng cường hiệu quả các liên kết kinh tế với kinh tế hộ, các doanh nghiệp và
với các thành phần kinh tế khác trong NT. Hỗ trợ thành lập mới HTX, THT
và hỗ trợ sáng lập viên HTX chuẩn bị thành lập. Mức hỗ trợ được quy định
theo Thông tư 66/2006/TT-BTC và Thông tư 97/2010/TT-BTC của Bộ Tài
chính và các văn bản có liên quan. Tiếp đến là ngày 28/10/2011, Bộ Xây
dựng, Bô NN và phát triển NT và Bộ Tài nguyên và Môi trường ra Thông tư
liên tịch số 13/2011-TTLT-BXD-BNNPTNT-BTNMT về việc quy định việc
lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng xã NT mới để hướng dẫn việc
thực hiện Chương trình mục tiêu quan trọng này của quốc gia.
Ngày 21/2/2013, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
X sau khi nghe báo cáo kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT, đã nêu kết luận:
“Phát triển KTTT là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, đồng thời là sự
nghiệp hết sức khó khăn đòi hỏi phải kiên trì, xuất phát từ nhu cầu thực tế,
phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng vùng, miền, địa
phương, tránh hình thức, gò ép hoặc buông lỏng. Phải tuân thủ đầy đủ các quy
định của Luật HTX năm 2012 và các luật khác có liên quan, bảo đảm HTX là
85
tổ chức KTTT, đồng sở hữu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, do các thành viên tự
nguyện thành lập nhằm tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tạo việc làm, đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên, trên cơ sở
bình đẳng, dân chủ và cùng có lợi” [27, tr 2].
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã từng bước hoàn thiện
văn bản pháp luật như: Luật HTX năm 2003, Luật HTX sửa đổi năm 2012;
Nghị định số 193/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/11/2013 Quy định chi
tiết một số điều của Luật HTX; Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư ngày 26/5/2014, Hướng dẫn về đăng ký HTX và chế độ báo
cáo tình hình hoạt động của HTX; Quyết định số 2261/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 15/12/2014, Phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển
HTX giai đoạn 2015 - 2020; Chỉ thị số 19/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 24/7/2015 Về việc đẩy mạnh triển khai thi hành Luật HTX...
Nhìn chung, Đảng và Nhà nước đã khẳng định quan hệ giữa KTTT và
các thành phần kinh tế khác là bình đẳng và đều có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; phát triển KTTT là
cần thiết để không chỉ thúc đẩy mức tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế
mà còn đóng góp nâng cao hiệu quả kinh tế thành viên THT, HTX, góp phần
tạo việc làm cho người lao động, xóa đói giảm nghèo một cách bền vững. Xây
dựng NTM là một Chương trình quốc gia được khởi động từ năm 2008. Phát
triển KTTT trong xây dựng NTM không chỉ là giải pháp quan trọng mà còn là
một trong những nội dung và yêu cầu của tiêu chí quốc gia về NTM.
3.2.2. Thực tiễn triển khai và vận dụng chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước để phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi
- Về quan điểm, cơ chế và chính sách Cũng như các tỉnh, thành phố trong cả nước, việc tổ chức thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KTTT trong xây
dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi gắn liền với điều kiện thực tế của tỉnh.
86
Trước năm 2008, tức là trước khi triển khai thực hiện Chương trình xây
dựng NTM, thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 28/3/2002 của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT, Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã ban hành Chương trình hành động số 05/CTr-TU ngày 21/6/2002 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT. UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quyết định số 54/QĐ-UBND ngày 15/11/2007 về việc Phê duyệt Kế hoạch phát triển HTX NN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2007-2010 và định hướng đến năm 2015 xác định, mục tiêu đến năm 2015 đưa toàn bộ hợp tác xã đã chuyển đổi và thành lập mới hoạt động đúng luật, có hiệu quả, không còn HTX yếu kém. Các HTX không chuyển đổi theo Luật HTX phải giải thể hoặc chuyển thể hoạt động dưới hình thức khác phù hợp với điều kiện từng nơi. Phát triển KTTT đa dạng với nhiều loại hình hợp tác kể cả ở các huyện miền núi, mở rộng kinh doanh ngành nghề (trừ những ngành luật pháp cấm) không bó hẹp về phạm vi hoạt động, địa giới hành chính nhằm thu hút nhiều lao động tham gia làm ra nhiều sản phẩm hàng hoá đủ sức cạnh tranh, phù hợp với thị trường và chiếm tỷ trọng đáng kể trong GRDP của tỉnh, nâng cao thu nhập cho xã viên. Xác định phương hướng giải quyết tình trạng tồn đọng các HTX kiểu cũ chưa hoặc không thể chuyển đổi và các giải pháp cụ thể như phân loại HTX, xây dựng mô hình thí điểm, tăng cường các biện pháp quản lý, nâng cao năng lực cho HTX, nâng cao chất lượng cán bộ HTX, tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với KTTT trong NT; thực hiện đồng bộ các chính sách theo Nghị định số 88/2005/NĐ/CP của Chính phủ, gồm chính sách đất đai, chính sách hỗ trợ tài chính, tín dụng, KH&CN và khuyến khích phát triển KTTT [93].
Kể từ sau Nghị quyết 26 (năm 2008), tỉnh ủy và UBND tỉnh Quảng Ngãi đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai chủ trương, đường lối chính sách ở cấp Trung ương về phát triển KTTT trong xây dựng NTM. Đó là Chương trình hành động số 29/CTr-TU ngày 19/11/2008 của Tỉnh ủy Quảng Ngãi về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X về NN, nông dân, NT. Ngày 10/12/2009, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành
87
Nghị quyết số 18/2009/NQ-HĐND về phát triển NN, nông dân, NT giai đoạn 2010-2020. Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVIII (tháng 9/2010) ra Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010-2015, trong đó chủ trương: “Phát triển NN toàn diện theo hướng CNH, HĐH gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân và xây dựng NTM, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian đến”. Phát triển các thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Tạo lập môi trường, điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế phát triển. “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả KTTT; phát triển mạnh các loại hình kinh tế hợp tác, nhất là HTX sản xuất kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Phấn đấu đến năm 2015 có 55% HTX đạt loại khá trở lên và hạ tỷ lệ HTX yếu kém xuống dưới 10%” [21].
Ngày 13/10/2011, tỉnh ủy Quảng Ngãi khóa XVIII ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TU về phát triển NN, xây dựng NTM tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020. Trong đó, yêu cầu: “Tiếp tục thực hiện các chính sách của Trung ương về đổi mới, khuyến khích, hỗ trợ phát triển HTX, THT trong NN, NT. Chú trọng việc củng cố, tổ chức lại các HTX hiện có đồng thời với hình thành HTX mới; tạo điều kiện để HTX tham gia các dự án phát triển NT… Phấn đấu đến năm 2015 có trên 50%, năm 2020 có 70% số HTX đạt khá, giỏi”.
Để chủ trương của Tỉnh ủy đi vào cuộc sống, ngày 27/10/2011, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 27/NQ-HĐND thông qua Đề án Phát triển NN và xây dựng NTM tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020. Tiếp đến là Quyết định số 238/QĐ-UBND ngày 25/11/2011 của UBND tỉnh phê duyệt Đề án Phát triển NN và xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015, định hướng 2020 và ngày 19/4/2012 ban hành Kế hoạch số 1167/KH-UBND của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020. Ngày 20/4/2012 UBND tỉnh ban hành Quyết định số 58/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển HTX dịch vụ và khai thác hải sản xa bờ giai đoạn 2011-2015. Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành
88
Nghị quyết số 26/2013/NQ-HĐND ngày 10/12/2013 về việc thông qua Đề án củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức HTX đến năm 2015, định hướng đến năm 2020...
Các Nghị quyết, Quyết định, Chương trình, Đề án ban hành trong giai
đoạn này nhằm bảo đảm phát huy vai trò của mọi lực lượng triển khai các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Trung ương. Các văn bản đã hướng
vào việc nâng cao nhận thức, quan điểm về phát triển KTTT trong xây dựng
NTM; đề xuất và thực hiện chính sách hỗ trợ, ưu đãi để phát triển HTX trong
các nội dung gồm hợp nhất, sáp nhập, thành lập mới HTX, chính sách bồi
dưỡng, đào tạo nhân lực, chính sách đất đai, chính sách thuế, xây dựng Quỹ
hỗ trợ phát triển HTX và chính sách tín dụng, hỗ trợ thương mại và đổi mới
công nghệ, đầu tư kết cấu hạ tầng NT.
- Về tổ chức thực hiện Để tổ chức phát triển KTTT trong xây dựng NTM trên địa bàn, UBND
tỉnh Quảng Ngãi và các cấp có liên quan đã ban hành các kế hoach, đề án cụ thể, như Đề án củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2015, định hướng đến năm 2020; Đề án Phát triển NN và xây dựng NTM tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015; và Kế hoạch xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020… Quyết định số 04/2014/QĐ-UBND của UBND tỉnh ngày 13/01/2014 Về việc phê duyệt Đề củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Xác định mục tiêu phát triển KTTT mà nòng cốt là HTX với tốc độ tăng trưởng hợp lý và bền vững, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội; tập trung củng cố HTX hiện có, đến 2015 hạ tỷ lệ HTX yếu kém xuống dưới 10% và đến năm 2020 về cơ bản không còn HTX yếu kém. Phát triển mới các loại hình HTX trên các lĩnh vực, trong đó chú ý lĩnh vực môi trường, chợ, dịch vụ, khai thác hải sản xa bờ, chuyên canh. Phát triển HTX trên các địa bàn, nhất là tại khu kinh tế,
89
vùng lân cận các khu công nghiệp, vùng trung du, miền núi nhằm giải quyết việc làm, tăng thu nhập.
Trong Đề án Phát triển NN và xây dựng NTM tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015 ban hành theo Quyết định số 238/QĐ-UBND ngày 25/11/2011 xác định: Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý; văn hóa - xã hội tiến bộ, dân chủ được phát huy, môi trường sinh thái được bảo vệ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; hệ thống chính trị được củng cố vững chắc. Kế hoạch xây dựng NTM tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020 ban hành ngày 19/4/2012 tiếp tục khẳng định các mục tiêu đã xác định trong Quyết định số 238 và cụ thể mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 có 33 xã (20% số xã) và 01 huyện đạt tiêu chí quốc gia về NTM; đến năm 2020 có 89 xã (54% số xã) và 3 huyện đạt tiêu chí quốc gia về NTM.
Theo các Đề án, Kế hoạch được ban hành thì các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển KTTT trong xây dựng NTM được xác định từ nhận thức, đến các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển, chính sách cán bộ, đào tạo và thu hút nhân lực, hỗ trợ tài chính, tín dụng, đầu tư, hỗ trợ về KH&CN v.v...
Trong quá trình thực hiện các Kế hoạch và Đề án phát triển KTTT và xây dựng NTM, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã triển khai thí điểm một số mô hình để nhân rộng ra các địa phương, như Dự án KH&CN hỗ trợ và phát triển làng nghề sản xuất nấm ở xã Đức Nhuận (huyện Mộ Đức), mô hình HTX dịch vụ NN, NT Tịnh Trà (huyện Sơn Tịnh), mô hình ứng dụng tiến bộ KH&CN nâng cao hiệu quả sản xuất lúa trên đất dồn điền đổi thửa tại HTX NN Bình Dương (huyện Bình Sơn), mô hình HTX đánh bắt hải sản xa bờ và dịch vụ hậu cần nghề cá theo Đề án xây dựng và phát triển 10 HTX tại các xã vùng cửa biển, nơi tập trung nhiều tàu thuyền đánh bắt thủy sản của địa phương giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 20/4/2012 v.v...
Để chỉ đạo phát triển KTTT trong xây dựng NTM trên địa bàn, UBND
90
tỉnh đã phân cấp cho các sở, ban, ngành thực hiện. Sở Kế hoạch và Đầu tư có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan và Liên minh HTX tỉnh để xây dựng kế hoạch phát triển KTTT; chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính tham mưu cho UBND tỉnh về kinh phí đào tạo, thành lập và củng cố HTX, kinh phí đầu tư để thực hiện theo yêu cầu nhiệm vụ; hướng dẫn, đôn đốc việc thực hiện kế hoạch phát triển KTTT, tổng hợp và báo cáo UBND tỉnh. Sở Tài chính có nhiệm vụ trên cơ sở dự toán kinh phí hỗ trợ Đề án và căn cứ khả năng cân đối ngân sách, để tổng hợp, phân bổ dự toán ngân sách theo quy định; hướng dẫn các HTX thực hiện. Sở Nội vụ có nhiệm vụ tham mưu cho UBND tỉnh về công tác, chính sách cán bộ HTX, củng cố và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước đối với KTTT ở các cấp. Sở KH&CN tham mưu cho UBND tỉnh các dự án ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và quản lý vào hoạt động của HTX. Các sở quản lý chuyên ngành có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp UBND các huyện, thành phố và đơn vị liên quan củng cố các HTX hiện có, vận động thành lập mới HTX theo ngành; thông qua các chương trình, mục tiêu do sở, ngành quản lý, hỗ trợ và tạo điều kiện cho HTX thuộc ngành mình phát triển. Trường Chính trị tỉnh chủ trì việc thực hiện chương trình bồi dưỡng kiến thức về KTTT cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị ở cơ sở và cán bộ chủ chốt của HTX.
Liên minh HTX tỉnh có nhiệm vụ phối hợp với các sở, ngành, địa phương liên quan tổ chức tuyên truyền sâu rộng các nội dung của Đề án. Tổng hợp kế hoạch triển khai Đề án hàng năm, lập dự toán kinh phí hỗ trợ thực hiện Đề án gửi UBND tỉnh và các sở ngành liên quan quyết định; thành lập và tổ chức vận hành Quỹ hỗ trợ phát triển KTTT; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX, thực hiện các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng đi học; hỗ trợ các hoạt động cho HTX và liên kết kinh tế.
Các UBND huyện, thành phố thành lập Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển HTX; chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển KTTT ở từng địa phương thuộc cấp được quản lý và phối hợp với các sở, ngành có HTX chuyên ngành, Liên minh HTX tỉnh để hỗ trợ HTX phát triển; chỉ đạo UBND xã, phường, thị trấn và tạo điều kiện HTX tham gia các chương trình đầu tư;
91
chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển của HTX gắn với Chương trình xây dựng NTM.
3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI GIAI ĐOẠN 2011-2015
3.3.1. Những kết quả đạt được - Số lượng cơ sở KTTT ở NT đã tăng lên theo hướng đa dạng về hình
thức và lĩnh vực hoạt động Bằng các chủ trương, chính sách và giải pháp thiết thực của các cấp ủy
và chính quyền tỉnh Quảng Ngãi, trong giai đoạn 2011-2015, số đơn vị KTTT ở khu vực NT đã có những chuyển biến đáng kể. Nếu năm 2011, toàn tỉnh có 1.248 đơn vị KTTT thì đến năm 2015 có 6.704 đơn vị, tăng 5,4 lần so với năm 2011. Mức tăng trưởng chủ yếu là hình thức THT từ 1.037 đơn vị năm 2011 lên 6.500 đơn vị vào năm 2015, tức là tăng gần 6,3 lần trong 5 năm vì đây là hình thức KTTT phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở địa phương (bảng 3.1).
Bảng 3.1: Số lượng cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực nông thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015
Đơn vị tính: cơ sở Năm
CSKTTT 2011 2012 2013 2014 2015
2015/2011 (lần)
THT 1.037 2.972 4.968 5.530 6.500 6,3
QTDND 12 12 12 12 12 1,0
HTX 199 196 194 192 192 0,96
LH HTX 0 0 0 0 0 0,0
Tổng cộng 1.248 3.180 5.174 5.735 6.704 5,4
Nguồn: Tổng hợp từ [38; 39; 49; 94; 95; 96; 97; 98; 99; 100; 104; 107].
Năm 2015, trong số 245 HTX của tỉnh Quảng Ngãi thì có 204 HTX
hoạt động trong NT (chiếm 83,3% tổng số HTX trong toàn tỉnh). Trong 204
HTX hiện đang ở NT, có 62 HTX đã được cấp giấy phép kinh doanh, tổ chức
hoạt động theo Luật HTX năm 2012. Từ năm 2011 đến nay, số lượng HTX
92
biến động tăng giảm hàng năm do quá trình hợp nhất, sáp nhập, giải thể và
thành lập mới. Cụ thể, giai đoạn 2011-2015 hợp nhất 25 HTX quy mô thôn,
liên thôn thành 10 HTX NN quy mô xã, 26 HTX giải thể và 15 HTX thành
lập mới (chuyên ngành) với 450 xã viên được chuyển sang hoạt động theo
Luật HTX năm 2012.
KTTT ở khu vực NT được thành lập, hoạt động đa dạng về ngành nghề,
lĩnh vực kinh tế, cả trong NN, công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt, số cơ sở
KTTT trong lĩnh vực kinh tế biển được phát triển mạnh. Tính đến cuối năm
2015, tại khu vực NT tỉnh Quảng Ngãi có 204 HTX (trong đó có 12 Quỹ tín
dụng nhân dân). Xét cơ cấu thì trong số các HTX này, có 188 HTX hoạt động
trong NN, chiếm 92,2%; 4 HTX thủ công nghiệp chiếm 10,2% và 12 HTX
dịch vụ chiếm 5,9% tổng số HTX ở NT (hình 3.1).
Hình 3.1: Cơ cấu HTX theo ngành ở khu vực nông thôn
tỉnh Quảng Ngãi năm 2015 [104]
Hầu hết các HTX đang hoạt động ở ngành NN đã tiến hành kinh doanh
đa lĩnh vực, trong đó chủ yếu là các dịch vụ NN như thủy lợi, làm đất, dịch vụ
vật tư, phân bón, thú ý, giống cây trồng, vật nuôi, cung ứng vật tư NN, tiêu
thụ sản phẩm, chế biến, tín dụng nội bộ, thương mại, khuyến nông.
Nếu xem xét sự có mặt của từng ngành trong các HTX ở NT tỉnh
Quảng Ngãi năm 2015, thì có các con số: 92% số HTX làm dịch vụ thủy lợi;
70% số HTX làm dịch vụ khuyến nông; 70% số HTX làm dịch vụ thú y; 41%
93
số HTX làm dịch vụ bảo vệ thực vật; 40% số HTX làm dịch vụ giống vật
nuôi, cây trồng; 27% HTX làm dịch vụ tín dụng nội bộ; 14% số HTX làm
dịch vụ phân bón; 11% số HTX dịch vụ làm đất và 4% HTX làm dịch vụ tiêu
thụ sản phẩm [104].
Trong giai đoạn này, số lượng Quỹ tín dụng nhân dân vẫn là 12 cơ sở,
nhưng đã mở rộng địa bàn hoạt động từ 12 xã năm 2011 lên 22 xã năm 2015
[49]. Đã có 4 HTX NN mở rộng hoạt động sang lĩnh vực môi trường và 10
HTX mở sang quản lý - kinh doanh chợ NT. Hình thức KTTT trong NT của
tỉnh đang phát triển theo hướng phát huy vai trò đối với phát triển kinh tế, xã
hội trong xây dựng NTM.
Đến năm 2015, toàn tỉnh có 6.500 THT ở NT, chiếm 96,4% số cơ sở
KTTT. Trong đó, có 56,4% số THT hoạt động trong các lĩnh vực của ngành
dịch vụ như: Tổ tiết kiệm và vay vốn, Tổ ngư dân đoàn kết, THT nuôi nhông,
THT chăn nuôi gà, THT chăn nuôi lợn, THT sản xuất chổi đót, THT trồng
nấm, THT trồng rừng, câu lạc bộ chăn nuôi bò, THT nấu ăn,… Đặc biệt,
trong lĩnh vực ngư nghiệp, năm 2015 toàn tỉnh đã có 8 HTX dịch vụ hậu cần
nghề cá và đánh bắt hải sản xa bờ theo Đề án 58 của tỉnh, 300 tổ đoàn kết
khai thác trên biển và đã có 1 THT phát triển thành HTX dịch vụ và khai thác
hải sản xa bờ Lý Sơn Hoàng Sa, huyện Lý Sơn. KTTT ở tỉnh Quảng Ngãi 5
năm qua không chỉ phát triển đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM mà còn hoạt
động gắn với bảo vệ chủ quyền vùng biển quốc gia trước những diễn biến
phức tạp của tình hình hiện nay. Đây là kết quả rất đáng ghi nhận.
- KTTT đã thu hút nhiều thành viên, tạo việc làm cho nhiều lao động ở khu vực NT
Đến cuối năm 2015, KTTT ở NT đã thu hút 436.283 thành viên, tăng
63,3% so với năm 2011 (46,3% thuộc các THT và 53,7%, thuộc các HTX).
Mức tăng trưởng số thành viên THT trong giai đoạn 2011-2015 là 427,9% và
trong các Quỹ tín dụng nhân dân là 16,9% (bảng 3.2).
94
Bảng 3.2: Số thành viên trong các cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực
nông thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015 Đơn vị: người
Năm Số TV
2011
2012
2013
2014
2015
2015/2011
(lần) THT 35.293 95.107 177.674 180.945 202.195 5,73
QTDND 14.189 14.742 15.345 15.937 16.589 1,17
HTX 217.657 217.051 217.201 217.557 217.499 0,99
Tổng cộng 267.139 326.900 410.220 414.439 436.283 1,63 Nguồn: Tổng hợp từ [38; 39; 49; 94; 95; 96; 97; 98; 99; 100; 107].
Cùng với sự gia tăng số thành viên KTTT, trong giai đoạn 2011-2015,
số lao động làm việc thường xuyên trong các HTX và THT đã có chiều hướng
tăng lên, năm 2015 cao gấp hơn 1,8 lần so với năm 2011 (bảng 3.3).
Bảng 3.3: Số lao động làm việc trong các cơ sở kinh tế tập thể
ở khu vực nông thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015 Đơn vị: người lao động
Năm Chỉ tiêu
2011 2012 2013 2014 2015 2015/2011
(lần) Tổng số lao động 2.728 2.537 3.646 4.550 5.015 1,83
Số lao đông là thành viên 2.728 2.537 3.646 4.543 5.003 1,83
Lao động thuê ngoài 0 0 0 7 12 -
Nguồn: Tổng hợp và tính toán của tác giả từ [39; 49; 104].
Hầu hết số lao động làm việc thường xuyên trong KTTT là thành viên
trong hình thức kinh tế này. Trong KTTT tỉnh Quảng Ngãi, vẫn tồn tại phổ
biến hiện tượng người sở hữu đồng thời là người lao động. KTTT vẫn mang
đặc trưng là một hình thức tổ chức kinh tế mà người lao động liên kết với
nhau để giải quyết có hiệu quả hơn các vấn đề sản xuất, kinh doanh và đời
95
sống. Nhờ sự gia tăng này mà một bộ phận đáng kể lao động NT có việc làm
và thu nhập.
- KTTT được phát triển đã tạo ra điều kiện để tập trung và khả năng
làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn
Tuy đến năm 2015, tổng nguồn vốn được tập trung trong KTTT mới
đạt gần 753 tỷ đồng so với tổng nguồn vốn đầu tư toàn tỉnh chỉ bằng 1,3%,
nhưng đây là kết quả rất ấn tượng. So với năm 2011, nguồn vốn tập trung
trong các đơn vị KTTT ở NT tỉnh Quảng Ngãi đã tăng 1,8 lần, từ gần 420,7 tỷ
đồng năm 2011 tăng lên gần 753 tỷ đồng năm 2015. Trong đó, sức tăng của
vốn đầu tư vào THT mạnh nhất, đạt mức cao gấp 6,1 lần trong giai đoạn này,
tiếp đến là mức tăng đầu tư vào Quỹ tín dụng nhân dân gấp 2,4 lần; mức tăng
vốn đầu tư tại các HTX tuy thấp hơn, nhưng vẫn đạt mức cao gấp 1,5 lần
(bảng 3.4).
Bảng 3.4: Vốn của các cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực nông thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015
Đơn vị: tỷ đồng Năm
Chỉ tiêu 2011 2012 2013 2014 2015
2015/2011
(lần)
Tổng nguồn vốn 420,66 471,30 516,97 650,64 752,98 1,8
THT 8,54 15,92 23,36 43,43 52,10 6,1
Quỹ tín dụng nhân dân 107,99 135,50 156,95 202,68 259,28 2,4
HTX 304,13 319,88 336,66 404,53 441,60 1,5
Nguồn: Tổng hợp từ [38; 39; 49; 94; 95; 96; 97; 98; 99; 100; 107].
Sự tăng trưởng mức tập trung vốn là điều kiện để các đơn vị KTTT đổi
mới kỹ thuật, công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, tạo khả năng làm tăng
hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư. Có thể quan sát bằng phương pháp so
sánh ở hình 3.2 về quy mô tập trung vốn đầu tư trong các hình thức KTTT ở
tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn này.
96
Hình 3.2: Quy mô tập trung vốn đầu tư trong các hình thức KTTT ở tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015 (theo bảng 3.4) Trong giai đoạn 2011-2015, toàn tỉnh đã tổ chức được 17 lớp tập huấn
tay nghề và công tác quản trị cho 991 lượt cán bộ tham gia học tập với tổng
kinh phí hỗ trợ gần 1,7 tỷ đồng (trong đó kinh phí ngoài ngân sách là 237 triệu
đồng). Theo sự gia tăng của quy mô vốn đầu tư cùng với việc nâng cao năng
lực của công tác quản trị, khả năng hiệu quả hoạt động của các cơ sở KTTT
được tăng lên.
Bảng 3.5: Chỉ tiêu tài chính của các cơ sở kinh tế tập thể ở khu vực nông thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015
Đơn vị tính: tỷ đồng Chỉ tiêu
Năm
THT HTX Quỹ tín dụng
nhân dân Tổng cộng
Doanh thu
Lợi nhuận
Doanh thu
Lợi nhuận
Doanh thu
Lợi nhuận
Doanh thu
Lợi nhuận
2011 - - 89,55 4,78 138,17 0,86 227,72 5,64
2012 - - 94,08 5,29 154,29 1,17 248,37 6,46
2013 - - 97 5,63 190,13 1,83 287,13 7,46
2014 - - 108,08 6,56 226,48 1,95 334,56 8,51
2015 - - 115,2 6,91 285,85 2,33 401,1 9,24
2015/2011 - - 1,29 1,44 2,06 2,7 1,77 1,63
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ [38; 39; 49; 94; 95; 96; 97; 98; 99; 100; 107]
97
Bảng 3.5 cho thấy, trong giai đoạn 2011-2015, tổng doanh thu và lợi
nhuận của các cơ sở KTTT ở NT được tăng lên. Năm 2015 so với năm
2011, tổng doanh thu của các cơ sở KTTT tăng 1,77 lần và tổng lợi nhuận
1,63 lần. Trong đó, hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân có hiệu quả
hơn so với các HTX cả về mức doanh thu và lợi nhuận.
- Bước đầu hình thành quan hệ liên kết kinh tế trong NT
Tuy đến nay, trên địa bàn NT tỉnh Quảng Ngãi vẫn chưa xuất hiện Liên
hiệp, nhưng thời gian gần đây một số HTX đã tự liên kết với nhau và liên kết
giữa HTX với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Liên kết
hoạt động đã diễn ra trong cơ giới hóa sản xuất NN (làm đất và gặt đập), hỗ
trợ nhau trong sản xuất và tiêu thụ lúa giống, liên kết trong việc mua vật tư,
phân bón của các công ty lớn để về bán cho xã viên.
Một số HTX đã ký hợp đồng liên kết với các doanh nghiệp nhằm bao
tiêu nông sản cho kinh tế hộ thành viên như HTX dịch vụ NN, NT Tịnh
Trà, HTX sản xuất và kinh doanh nấm Đức Nhuận, HTX dịch vụ NN Bình
Dương, HTX chuyên canh mía Phổ Nhơn…[47]. Một số HTX còn liên kết
với doanh nghiệp trong việc xây dựng một số mô hình sản xuất để chuyển
giao cho kinh tế hộ thành viên như mô hình sản xuất lúa hữu cơ, mô hình
sản xuất cà gai leo, sản xuất ớt, sản xuất bí đỏ Nhật Bản. Điều này được
minh họa bằng mô hình hỗ trợ xã viên sản xuất lúa giống tại HTX dịch vụ
NN, NT Tịnh Trà thuộc huyện Sơn Tịnh.
Mô hình hỗ trợ xã viên sản xuất lúa giống ở HTX Tịnh Trà đã trở thành
chuỗi giá trị khá hoàn chỉnh với nhiều tác nhân tham gia như: Nhà nước hỗ trợ
thông qua các hoạt động của dự án; nhà khoa học hiện diện ở các khâu giống,
quy trình kỹ thuật, tập huấn…; ngân hàng cho HTX vay vốn; nhà nông tổ chức
sản xuất theo quy trình; HTX đảm nhiệm các hoạt động: làm đất, cung cấp các
yếu tố đầu vào, thu gom, vận chuyển, chế biến, đóng bao và bán trực tiếp cho
người nông dân và làm gia công cho 04 doanh nghiệp trong, ngoài tỉnh [108].
98
Hình 3.3: Mô hình chuỗi giá trị sản xuất lúa giống tại HTX dịch vụ
nông nghiệp, nông thôn Tịnh Trà
Với những kết quả trên, có thể nói KTTT ở NT tỉnh Quảng Ngãi là một
hình thức tổ chức có hiệu quả, tham gia tích cực vào thực hiện tiêu chí số 13
trong Chương trình xây dựng NTM của Chính phủ [Phụ lục 1].
- KTTT được phát triển đã đóng góp quan trọng vào thực hiện các
tiêu chí xây dựng NTM
Trước hết. KTTT đóng góp vào các tiêu chí kinh tế và tổ chức sản xuất
ở nông thôn.
KTTT đã trở thành “bà đỡ” cho kinh tế hộ phát triển, nhiều HTX đã
góp phần không nhỏ trong giải quyết việc làm, tăng thu nhập, xoá đói giảm
nghèo cho nhân dân địa phương. Đóng góp về thu nhập của các cơ sở KTTT
cao hơn so với kinh tế cá thể, tiểu chủ. Đến cuối năm 2015, doanh thu bình
quân của HTX đạt 1,2 tỷ đồng, tăng 60% so với năm 2011; mức lãi bình quân
của 1 HTX là 75,6 triệu đồng, tăng 65% so với năm 2010; tỷ suất lãi trên vốn
đạt 6,4%; thu nhập bình quân của người lao động làm việc thường xuyên
trong HTX đạt 18 triệu đồng/người/năm, tăng 89% so với năm 2011. Mức thu
99
nhập bình quân/lao động năm 2015 đã cao hơn so với mức thu nhập bình
quân của lao động ngành NN cùng thời gian là 16,7% [104]. Nhờ tăng thu
nhập, KTTT góp phần làm giảm số hộ nghèo ở NT. Số lao động làm việc
thường xuyên trong KTTT năm 2015 là 5.018 người, tăng 18,0% so với năm
2011, đã góp phần làm tăng tỷ lệ lao động trong độ tuổi có việc làm tại NT.
Về tiêu chí văn hóa trong giai đoạn 2011- 2015, thông qua phát triển
KTTT mà khu vực NT có thêm 1.225 cán bộ quản lý được đi học trong đó, có
762 người đã đạt trình độ sơ cấp và trung cấp và 100 người đạt trình độ đại học
và cao đẳng. Nhiều lao động NT được theo học ở các ngành nghề khác nhau.
Hầu hết các cơ sở KTTT đểu tham gia tích cực vào hoạt động xã hội như xây
dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, ủng hộ quỹ vì người
nghèo, quỹ khuyến học, xây dựng công trình công cộng...
Sự phát triển của KTTT ở tỉnh Quảng Ngãi đã góp phần quan trọng vào
thực hiện tiêu chí về môi trường sinh thái. Đặc biệt, toàn tỉnh đã có thêm 4
HTX làm dịch vụ về vệ sinh môi trường với số lao động thường xuyên là 227
người. Việc phát triển các HTX và THT dịch vụ phân bón, thuốc bảo vệ thực
vật và dịch vụ thức ăn chăn nuôi và các HTX NN hữu cơ, NN sinh thái... mà
vệ sinh an toàn thực phẩm đã được coi trọng hơn. Điều này không chỉ góp
phần bảo vệ môi trường sinh thái mà còn hướng đến một nền NN sạch và an
toàn hơn cho người sử dụng.
Thứ hai, KTTT góp phần quan trọng vào tiêu chí xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Trong số 204 HTX và 6.500 THT ở NT, có không ít những cơ sở tham
gia hoạt động dịch vụ xây dựng, dịch vụ điện lực vùng dự án năng lượng NT
(REII), dịch vụ chuyển giao tiến bộ KH&CN vào NN, NT. Chẳng hạn, HTX
NN Ðại An Ðông, ở xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành đã trở thành lực
lượng chủ yếu để tập trung huy động vốn trong dân cho phát triển sản xuất và
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng theo những tiêu chí xây dựng NTM mà người
100
dân đã chọn, bảo đảm phát huy được hiệu quả thiết thực cho cộng đồng xã
hội. HTX dịch vụ NN Bình Dương (huyện Bình Sơn) là đơn vị chủ công
trong việc đắp 2 con đập và 1 bờ kè quanh xã để chống mặn, đã cứu 335 ha
đất bỏ hoang của xã do nhiễm mặn thành vùng đất tươi tốt; đã hướng người
dân chuyển đổi cây trồng phù hợp, nên “đã biến đất hoang thành cánh đồng
vàng”. Đã có không ít HTX và THT trở thành lực lượng đi đầu trong phong
trào làm đường giao thông NT, đóng góp xây dựng trường học, xây dựng nhà
văn hóa và xây dựng chợ NT. Có 10 HTX mở rộng hoạt động vào quản lý
chợ, đưa hàng Việt về chợ NT và 1 HTX tham gia hội chợ quảng bá thương
hiệu sản phẩm, có 4 HTX xây dựng và phát triển mô hình sản xuất gạch
không nung và 2 HTX sản xuất nấm các loại. Các cơ sở KTTT này đã và đang
là những địa chỉ tin cậy để phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở NT,
góp phần tích cực vào xây dựng NTM.
Thứ ba, KTTT còn tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành tiêu chí quy
hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
Do đặc điểm KTTT là hình thức tổ chức kinh tế dựa trên đa dạng hóa
nguồn vốn và xã hội hóa sản xuất, nên sự phát triển của KTTT là điều kiện
thuận lợi cho việc xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở
NT. So với kinh tế tư nhân và cá thể, thì KTTT có nhiều ưu điểm hơn về lĩnh
vực này, bởi vì phần lớn các THT, HTX đã từng tiếp cận và làm quen với hoạt
động sản xuất, kinh doanh theo kế hoạch. KTTT tạo điều kiện tốt hơn để xã
viên tiếp cận với quy hoạch và kế hoạch Chương trình xây dựng NTM.
Nhờ phát triển KTTT ở NT mà nhiều vấn đề kinh tế - xã hội liên quan
đến tiêu chí xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi đã được giải quyết. Trong điều
kiện sản xuất phải đổi mặt với nhiều khó khăn thách thức về giá cả, thiên tai,
dịch bệnh như mấy năm gần đây, các cơ sở KTTT ở NT đã thể hiện được vai
trò, vị trí của mình. Đây là lực lượng tiên phong trong khắc phục khó khăn, duy
trì, tổ chức tốt các dịch vụ hỗ trợ, đầu tư phát triển, đưa tiến bộ KH&CN vào
101
sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở NT, đem lại nhiều lợi ích cho xã hội,
cộng đồng và góp phần tích cực vào xây dựng NTM được xã hội ghi nhận.
Hoạt động tham gia vào giao thông vận tải của một số HTX đã đáp ứng được
một phần đi lại của nhân dân, tạo thuận lợi giao lưu vận chuyển hàng hóa, giải
quyết việc làm cho người lao động, hỗ trợ thành viên, đóng góp vào ngân sách
tỉnh và phát triển kinh tế NT. Hoạt động của các đơn vị KTTT trong lĩnh vực
công nghiệp đã góp phần tích cực vào chuyển giao tiến bộ KH&CN về NT, hỗ
trợ phát triển kinh tế hộ. Hoạt động có hiệu quả của các Quỹ tín dụng nhân dân
cho khoảng 8.000 lượt người vay vốn hàng năm (trong đó cho vay sản xuất NN
chiếm 90%) đã góp phần hỗ trợ tích cực nguồn vốn đầu tư cho các cơ sở sản
xuất, dịch vụ, làm tăng hiệu quả nguồn vốn tuy mới chỉ là ít ỏi ở NT.
Đến nay, tại tỉnh Quảng Ngãi, đã xuất hiện một số HTX điển hình trong
xây dựng NTM, như: HTX NN Bình Dương, HTX NN Nghĩa Kỳ Đông, HTX
dịch vụ hậu cần nghề cá xã Bình Chánh, HTX dịch vụ điện Bình Thạnh...
Theo kết quả đánh giá, phân loại của Liên minh HTX tỉnh Quảng Ngãi, có
26,6% số HTX đạt khá giỏi, 45,8% số HTX đạt trung bình, còn lại 27,6% số
HTX yếu kém [70]. Những thành quả phát triển KTTT từ năm 2011 đến nay
đã góp phần quan trọng làm “thay da đổi thịt” bộ mặt NT. KTTT đã trở thành
lực lượng tiên phong đồng hành cùng Chương trình xây dựng NTM được phát
động từ năm 2011 đến nay. Tính đến hết tháng 6/2016, toàn tỉnh đã có 11 xã
được công nhận đạt đủ các tiêu chí NTM, 17 xã đạt từ 15-18 tiêu chí, 52 xã
đạt từ 10-14 tiêu chí, 50 xã đạt từ 5-9 tiêu chí, 34 xã đạt từ 0-4 tiêu chí NTM.
Trong kết quả này, có phần đóng góp quan trọng của phong trào KTTT ở khu
vực NT của tỉnh Quảng Ngãi [88].
Dưới đây là ví dụ về vai trò của KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh
Quảng Ngãi. Đó là HTX dịch vụ NN Bình Dương (huyện Bình Sơn), một
trong những đơn vị dẫn đầu về phát triển KTTT ở tỉnh Quảng Ngãi. HTX
được thành lập từ năm 1978, khi đầu chỉ đơn thuần là hoạt động sản xuất NN.
102
Trong quá trình phát triển, HTX luôn đi đầu trong việc vận động nông dân
dồn điền đổi thửa, cải tạo đồng ruộng, vận động nông dân chuyển đổi cơ cấu
giống lúa theo hướng chất lượng cao, thực hiện chuyên canh và đa dạng hóa
dịch vụ NN. Từ các dịch vụ thủy lợi, vật tư NN, HTX đã mở rộng sang các
lĩnh vực dịch vụ tín dụng nội bộ, dịch vụ nước sinh hoạt NT, dịch vụ khai
thác trồng rừng ven sông, sản xuất giống và tiêu thụ sản phẩm. HTX đã gắn
kết được “4 nhà” cùng tham gia, góp phần thay đổi tư duy và phương thức
làm ăn của người dân, từng bước đẩy lùi khó khăn, mang lại những chuyển
biến mới. Nhờ tính năng động và đa dạng hóa lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
doanh thu của HTX không ngừng tăng lên theo thời gian: Năm 2009 doanh
thu mới đạt trên 4,2 tỷ đồng, đến năm 2011 đạt 10,28 tỷ đồng (tăng gấp 2,4
lần); theo đó, thu nhập bình quân đầu người trong HTX đạt 18,36 triệu
đồng/năm, tăng gấp 2 lần so với năm 2009; từ đầu năm 2016 đến nay riêng
giá trị thu nhập từ các loại cây rau màu ở Bình Dương đã tăng gấp 9 lần so
với trồng lúa với tổng giá trị gần 49 tỷ đồng [109].
HTX không ngừng đổi mới và nâng cao phương thức hoạt động kinh
doanh, cung cấp nguồn nước tưới đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất NN của
người dân trong xã. Để phục vụ sản xuất, hàng năm HTX đầu tư từ 1,2 - 1,4
tỷ đồng mua phân bón, thuốc bảo vệ thực vật về bán chịu cho nông dân. Đã
có 95% số hộ nông dân đến HTX mua vật tư về sản xuất, nhờ đó mà tiết kiệm
được chi phí đầu vào và ngăn chặn việc đầu cơ tăng giá gây bất ổn thị trường,
góp phần vào xoá đói giảm nghèo tại địa phương.
Hàng năm, HTX đã trích khoảng 1 tỷ đồng cho các hộ xã viên vay với
lãi suất thấp, tạo điều kiện cho họ mua sắm trâu bò, máy móc phục vụ sản
xuất. Từ dịch vụ sản xuất giống và tiêu thụ sản phẩm, HTX đã bố trí khoảng
10 ha đất loại tốt có điều kiện thuận lợi, ổn định lâu dài và ký hợp đồng cùng
83 hộ dân chuyên sản xuất lúa giống và bao tiêu sản phẩm. Hàng năm, HTX
thu mua từ 45-60 tấn lúa giống bán cho các công ty và cung ứng giống cho xã
103
viên, doanh thu từ dịch vụ này đạt từ 250-270 triệu đồng/năm. Để tiêu thụ số
thóc dư thừa trong xã viên, hàng năm HTX mua từ 200-250 tấn lúa nhằm tiêu
thụ ra thị trường và bán lại cho xã viên có nhu cầu. Tổng doanh thu từ dịch vụ
tiêu thụ nông sản đạt từ 600-700 triệu đồng/năm. Ngoài việc tạo điều kiện cho
các xã viên sản xuất NN có hiệu quả, HTX còn quản lý, vận hành khai thác
công trình nước sạch NT do tổ chức UNICEF tài trợ xây dựng trên địa bàn xã.
Hiện có 1.868 hộ được sử dụng nước sạch, chiếm 86% số hộ trong toàn xã.
Doanh thu dịch vụ này là 220 triệu đồng/năm. HTX còn quản lý, khai thác
hiệu quả 35,7 ha đất bồi ven sông để trồng cây phi lao chống xâm nhập mặn
và xói lở. HTX quản lý tốt rừng nguyên sinh và có khai thác phục vụ các công
trình trên địa bàn xã, thu nhập hàng năm từ 80-100 triệu đồng. Hàng năm,
HTX và các hộ xã viên đầu tư khoảng 200 - 250 triệu đồng để đắp đập bổi
ngăn sông Trà Bồng, củng cố hệ thống kênh mương để lấy nước phục vụ dân
sinh và tưới cho đồng ruộng.
Trong công tác khuyến nông, HTX NN Bình Dương thường xuyên kết
hợp với ngành NN huyện, tỉnh tổ chức tập huấn, trình diễn mô hình trồng trọt,
chăn nuôi, thuỷ sản nhằm giúp nông dân tiếp cận khoa học, kỹ thuật, phát triển
kinh tế gia đình. HTX còn chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí công tác dồn điền đổi thửa
tại địa phương, hiện đã thực hiên được 113,8 ha (chiếm 30,7%) diện tích sản
xuất lúa, góp phần tiết kiệm chi chi phí, tăng năng suất cây trồng, đem lại lợi
ích thiết thực cho nông dân.
Bằng nguồn vốn của mình, hàng năm HTX đã cấp hỗ trợ cho các cụ già
trên 70 tuổi với kinh phí 120.000 đồng/người/năm, HTX còn quan tâm đến
đời sống các gia đình chính sách, xã viên cao tuổi, trẻ em ở địa phương. Mỗi
năm HTX hỗ trợ 100 triệu đồng cho các hoạt động an sinh xã hội [70]. Trong
Bộ tiêu chí NTM hiện nay, thì tiêu chí khó khăn nhất là tăng thu nhập cho
người dân NT. Nhờ đa dạng hóa sản xuất và coi trọng đầu tư KH&CN vào
NN để tăng thu nhập mà xã Bình Dương đã sớm hoàn thành mục tiêu NTM
104
vào năm 2015. Sự trưởng thành của HTX dịch vụ NN Bình Dương đã góp
phần to lớn để xã Bình Dương trờ thành điểm sáng trong việc thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM của tỉnh Quảng Ngãi.
3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
3.3.2.1. Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả nêu trên, trong giai đoạn 2011-2015, thực
trạng phát triển KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi vẫn đang
đứng trước không ít hạn chế, thách thức. Đó là:
- Tuy sở hữu và hình thức KTTT đã được đa dạng, nhưng vẫn chưa
phát triển được như mong muốn.
Trong 5 năm qua, một số tiêu chí về phát triển KTTT trong xây dựng
NTM vẫn chưa đạt được. Đó là, sở hữu và hình thức KTTT ở NT tỉnh Quảng
Ngãi mới được phát triển theo chiều hướng gia tăng số cơ sở THT, trong khi
số cơ sở thuộc hình thức HTX hầu như chững lại, thậm chí còn giảm xuống.
Năm 2015, số HTX ở NT đã giảm 3,5% so với năm 2011 (bảng 3.1). Hình
thức Liên hiệp HTX và Liên minh các HTX tuy trên địa bàn tỉnh đã có một số
HTX thực hiện liên kết phát triển theo hướng này, nhưng trên thực tế vẫn
chưa được khởi động để trở thành một cơ sở độc lập trong KTTT. Hình thức
liên doanh, liên kết, hợp tác giữa HTX với tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài để thực hiện mục tiêu hoạt động của HTX còn ở giai đoạn sơ khai.
- Quy mô của các đơn vị KTTT còn nhỏ, vốn góp của xã viên giảm, mức
độ liên kết còn sơ khai.
Trong mỗi đơn vị KTTT nguồn vốn đã có sự đan xen giữa sở hữu là
các thành viên và sở hữu tập thể, vốn từ các cơ sở liên doanh và hỗ trợ đầu
tư của Nhà nước. Nhưng vẫn thiếu vắng sự tham gia đầu tư của các nhà đầu
tư tiềm năng như các pháp nhân và các chủ doanh nghiệp và công chức Nhà
nước. Điều này cho thấy nguồn vốn tập trung cho phát triển KTTT còn bị
giới hạn trong một số chủ thể nhất định, việc thu hút vốn xã hội của các cơ
105
sở KTTT chưa mạnh, quy mô nguồn vốn KTTT chưa nhiều. Năm 2015, tổng
lượng vốn đầu tư của tất cả các cơ sở KTTT ở NT tỉnh Quảng Ngãi mới có
752,9 tỷ đồng, chỉ chiếm một tỷ trọng rất “khiêm tốn” bằng 1,3% tổng lượng
vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh trong năm này và chỉ bằng 11,6% tổng
nguồn vốn đầu tư ở khu vực NT. Trong KTTT, những đơn vị có lượng vốn
lớn nhất là các HTX. Tuy nhiên, nếu tính riêng tổng số vốn của 192 HTX
hiện có (không kể 12 Quỹ tín dụng), thì đến năm 2015 cũng mới chỉ 381,7 tỷ
đồng, bình quân gần 2,0 tỷ đồng/HTX, mức tăng trưởng bình quân trong giai
đoạn 2011-2015 là 5,3%/năm (bảng 3.4). Quy mô vốn và mức tăng trưởng
như vậy là chậm.
Nếu xét về cơ cấu nguồn vốn trong các HTX, thì tỷ trọng vốn góp của xã
viên trong tổng lượng vốn của các HTX đang có chiều hướng giảm xuống rõ
rệt, năm 2011 đạt mức 53,0%, nhưng đến năm 2015 giảm chỉ còn 18,4%. Vốn
góp của xã viên là vốn điều lệ được chuyển từ HTX kiểu cũ sang trên danh
nghĩa, nhưng thực tế đã bị xã viên chiếm dụng. Trong khi đó, vốn hỗ trợ đầu tư
của Nhà nước lại từ 13,7% tăng lên 48,4% (nguồn này chủ yếu là hỗ trợ xây
dựng kênh mương nội đồng, hồ chứa nước, chợ NT). Nguồn vốn tích lũy từ nội
bộ HTX tuy đã có chiều hướng tăng lên, nhưng tỷ trọng trong tổng nguồn vốn
HTX thì chững lại trong khoảng 29-30% (hình 3.4).
Trên thực tế, không ít trụ sở làm việc của HTX đã bị xuống cấp, bàn
ghế xiêu vẹo nhưng không có tiền sửa chữa, nâng cấp để bảo đảm làm việc
bình thường của hội đồng quản trị và nhân viên. Hạn chế này đã và đang là
một trở lực cho việc mở rộng đầu tư phát triển chiều sâu làm tăng năng lực
sản xuất và sức cạnh tranh của sản phẩm, của KTTT trên thị trường. Do
năng lực nội tại của các cơ sở KTTT yếu, nên khó có khả năng đổi mới kỹ
thuật, công nghệ để mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế. Việc thực
hiện tiêu chí 13 trong xây dựng NTM của không ít HTX và THT vẫn còn
nhiều khó khăn.
106
Hình 3.4: Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của các HTX
ở nông thôn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 - 2015
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ [38; 39; 49; 94; 95; 96; 97; 98; 99; 100; 107].
- Số lượng thành viên trong các cơ sở KTTT tuy có tăng, nhưng chưa
thực chất.
Trong giai đoạn 2011-2015, số lượng thành viên tham gia KTTT ở NT
đã tăng lên 1,63 lần, tuy họ có vào HTX và THT để làm ăn tập thể, nhưng
không ít xã viên còn thờ ơ với hoạt động của đơn vị KTTT mà họ tham gia.
Khảo sát, điều tra thực tế của tác giả cho thấy, có hơn 70% số xã viên được
hỏi đã trả lời không quan tâm đến sự tồn tại của HTX NN trên địa bàn. Tại
những HTX yếu kém thì mức độ thờ ơ của xã viên còn cao hơn. Tại 62 HTX
NN vừa chuyển đổi từ mô hình kiểu cũ sang mô hình kiểu mới hoạt động theo
Luật HTX 2012, phần đông xã viên vẫn thiếu niềm tin vào sự phục hồi và
phát triển HTX trong thời gian tới. Những xã viên của các HTX kiểu cũ tuy
vẫn tham gia vào HTX kiểu mới, nhưng không thật sự xuất phát từ tự nguyện
hay từ động cơ đóng góp để phát triển HTX lâu dài. Không ít người chưa thiết
tha với KTTT. Họ cho rằng vào HTX vì do có sự vận động, tuyên truyền của
cán bộ địa phương, vì hy vọng sẽ được hưởng lợi từ sự hỗ trợ của Nhà nước
cho HTX... Việc gia nhập KTTT như vậy là không thực chất, do đó KTTT
còn nhiều vấn đề phải quan tâm.
107
- Hiệu quả kinh doanh của nhiều đơn vị KTTT còn thấp.
Trong giai đoạn 2011-2015, tuy tổng nguồn vốn của các cơ sở KTTT
đã tăng lên gấp 1,8 lần, nhưng doanh thu lại tăng ở mức thấp hơn. Những con
số đã thống kê được tại các HTX NT tỉnh Quảng Ngãi cho thấy, trong giai
đoạn này, vốn đầu tư tăng 66,4% lần, doanh thu tăng 76,1%, còn lợi nhuận
tăng 63,8%, tức là mức tăng của lợi nhuận thấp hơn so với mức tăng của vốn
đầu tư và mức tăng doanh thu. Điều này cũng có nghĩa là hiệu quả hoạt động
của các HTX bị giảm sút. Bảng 3.6 là tổng hợp từ kết quả hoạt động của các
HTX NT tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015. Nó cho thấy tỷ suất lợi nhuận
trên vốn của các HTX trong tất cả các năm thuộc giai đoạn này chỉ nằm trong
khoảng 1,3 - 1,5%/năm, còn tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cũng chỉ khoảng
2,3-2,6%/năm, tức là thấp hơn nhiều so với mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm
hàng năm trong cùng thời gian (ví dụ, mức trung bình của lãi suất tiền gửi tiết
kiện năm 2011 là 14,0%, của năm 2015 là 6,5%).
Bảng 3.6: Hiệu quả kinh doanh của các HTX ở nông thôn
tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2015
Năm Chỉ tiêu 2011 2012 2013 2014 2015
Vốn đầu tư (triệu đồng) 421.120 455.380 493.610 607.210 700.880
Doanh thu (triệu đồng) 227.720 248.370 287.130 334.560 401.100
Lợi nhuận (triệu đồng) 5.640 6.460 7460 8.510 9.240
Tỷ suất lợi nhuận/vốn (%)) 1,33 1,42 1,51 1,40 1,32
Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu (%) 2,48 2,60 2,60 2,54 2,30 Nguồn: Tổng hợp từ bảng 3.4 và bảng 3.5.
Đành rằng, sự tồn tại và phát triển của KTTT không chỉ đơn thuần là
mục tiêu lợi nhuận, mà nó còn có mục tiêu xã hội, vì cần thiết có sự giúp đỡ
lẫn nhau trong cộng đồng ở NT, nhưng hiệu quả kinh doanh thấp của các đơn
vị KTTT sẽ tác động tiêu cực đến bản thân quá trình phát triển hình thức kinh
108
tế này, làm giảm động lực của các thành viên tham gia và tác động hạn chế
đến thực hiện tiêu chí 13 và các tiêu chí khác trong Chương trình xây dựng
NTM ở tỉnh Quảng Ngãi.
3.2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
- Nguyên nhân bên trong:
Trước hết, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trên địa bàn NT
tỉnh Quảng Ngãi (cũng như cả nước) còn thấp, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn
nghèo, sản xuất quy mô nhỏ vẫn là phổ biến, kinh tế hàng hóa chưa phát triển.
Người dân NT vẫn chưa ra khỏi tình trạng sản xuất tự cấp, tự túc; sức ép của
cạnh tranh giữa các chủ thể thị trường chưa cao, chưa tạo ra động lực thiết
thân để người lao động phải liên kết và hợp tác với nhau trong hoạt động kinh
tế để cùng tồn tại và phát triển. Cần để ý rằng, hình thức KTTT đã từng ra đời
và phát triển ở nhiều nước trên thế giới từ cách đây 200 năm do cạnh tranh và
sức ép của các công ty lớn đối với người sản xuất, kinh doanh nhỏ, cá thể,
khiến họ phải hợp tác với nhau để vượt qua khó khăn. Đó là kết quả tự nhiên
của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và kinh tế thị trường. Nhưng ở
nước ta, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, phân công lao động xã hội chưa
phát triển, kinh tế thị trường còn sơ khai. Đây là nguyên nhân chủ yếu nhất,
làm cho những cố gắng của các cấp, các ngành trong nhiều năm qua để phát
triển KTTT nhưng thực tế vẫn không được như mong đợi.
Thứ hai, trình độ hiểu biết về KTTT của nhiều người dân NT còn rất
hạn chế, vẫn chưa ra khỏi tâm lý mặc cảm với mô hình KTTT kiểu cũ mà
chưa thấy được tính hơn hẳn của hình thức kinh tế này so với kinh tế cá thể,
tiểu chủ. Chưa thấy được vai trò của việc tập trung vốn và các nguồn lực sản
xuất khác cho việc mở rộng khả năng sản xuất để đưa lại lợi ích không chỉ
của xã hội mà còn của chính mình. Hơn thế nữa, nhiều người dân NT còn rất
mơ hồ về hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại, chưa thấy được
tác động cạnh tranh và mặt trái của quá trình này, nên vẫn “bình thản” với
109
hoạt động sản xuất nhỏ lẻ khi tác động đó chưa trực tiếp diễn ra với bản thân
người dân NT. Thiếu hiểu biết và hạn chế tầm nhìn nên mặc dù khi có cơ may
về thu nhập với khoản tiền lớn, nhưng người dân NT thường vẫn không
chuyển thành vốn để đầu tư mà lại tìm đến gửi quỹ tiết kiệm (thậm chí chơi
hụi) hoặc làm nhà to, tiêu dùng các sản phẩm đắt tiền tuy vẫn biết rằng những
thứ đó chưa phải là cấp thiết nhất. Sự lựa chọn đó không thể gọi là tối ưu,
không thể có hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, năng lực của bộ máy quản trị cơ sở KTTT còn thấp kém, chưa
đủ tạo ra “sức bật” của đơn vị kinh tế và chưa đủ sức thuyết phục để người
dân thật sự tham gia. Bên cạnh trình độ chuyên môn kỹ thuật của cán bộ trong
hầu hết các đơn vị KTTT còn thấp kém, là sự yếu kém trong năng lực quản lý,
điều hành của bộ máy quản lý KTTT. Tuy trong kết quả của báo cáo cho thấy
giai đoạn 2011- 2015 toàn tỉnh có đến gần 1.000 lượt cán bộ trong các cơ sở
KTTT tham gia theo học ở các lớp tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ,
nhưng chất lượng thực tế của đội ngũ này còn nhiều vấn đề phải quan tâm.
Qua khảo sát của tác giả về trình độ học vấn ở 181 HTX với kết quả thật bất
ngờ là có tới 17 chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm giám đốc HTX mới ở trình
độ tiểu học (chiếm 9,4%), 93 giám đốc HTX ở trình độ trung học cơ sở
(chiếm 51,4%), 71 giám đốc ở trình độ trung học phổ thông (chiếm 39,2%).
Nếu tính toàn bộ số thành viên hội đồng quản trị trong các HTX có trình độ
trung học cơ sở trở xuống thì lên đến 342 người, chiếm 60,8%. Thiếu từ kiến
thức bậc phổ thông, nên phần đông cán bộ quản trị KTTT không thông hiểu
chính xác, đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước từ Trung
ương xuống cấp tỉnh về phát triển KTTT, về xây dựng NTM và cũng không
thật sự biết tổ chức, quản lý cơ sở KTTT mà bản thân họ được giao trọng
trách. Yếu tố tâm lực trong một bộ phận không nhỏ cán bộ quản trị đơn vị
cũng là vấn đề phải quan tâm. Tình trạng lợi dụng quản lý HTX để mưu lợi
bản thân hoặc tham ô tài sản tập thể còn nhức nhối, gây tâm lý lo ngại, thiếu
lòng tin của xã viên vẫn chưa được khắc phục (Phụ lục 2, 3 và 4).
110
Điều đáng nói là tuy khá đông con em của người dân NT đã theo học
và đỗ đạt ở các cơ sở giáo dục trình độ cao như đại học, cao đẳng trong và
ngoài nước, nhưng vẫn mang tư tưởng “thoát ly” khỏi NT. Hiện rất ít người
có trình độ cao ở tỉnh Quảng Ngãi trở về NT tham gia vào các hoạt động kinh
tế trong đó vào quản trị tại các cơ sở KTTT. Có thể họ vẫn chưa tìm thấy
động lực khi trở về quê hương để cống hiến cho phát triển kinh tế, xã hội
cũng như cho phát triển hình thức KTTT. Trong khi đó, ở Israel hiện nay,
người giỏi nhất lại muốn trở về lập nghiệp ở NT và muốn tìm nguồn giàu có
từ NN. Đây là một nghịch lý.
- Nguyên nhân bên ngoài:
Thứ nhất, môi trường kinh tế của cả nước nói chung, tỉnh Quảng Ngãi
nói riêng có những bất lợi. Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-
2009 đến nay, kinh tế trên thế giới vẫn chưa được phục hồi. Trong giai đoạn
2011-2015, tăng trưởng kinh tế trong nước bị suy giảm, cầu tiêu dùng khó
khăn, giá nông sản giảm tương đối so với giá các sản phẩm chế biến. Giá thóc
và giá rau màu thấp trong khi chi phí đầu vào như vật tư phân bón, dịch vụ bảo
vệ thực vật, công chăm sóc ngày càng tăng cao… Sản xuất NN kém hiệu quả
đã ảnh hưởng xấu đến thu nhập của người dân NT. Tình trạng nông dân bỏ
ruộng, không gieo cấy đã xảy ra ở nhiều địa phương từ nhiều năm nay với mức
độ khác nhau. Thêm vào đó, rủi ro tăng, gây bất ổn trong sản xuất. NN, NT
không những phải đối mặt với an ninh sinh học bởi những biến đổi của nhiều
chủng virus mới gây nguy cơ phát sinh các đợt dịch cho gia súc, gia cầm, mà
còn rủi ro về biến động giá cả thị trường bất lợi cho người sản xuất.
Không những thế, suy giảm kinh tế còn kéo theo suy giảm đầu tư,
không ít doanh nghiệp phải đối mặt với những thách thức của sự tồn tại, nên
đã suy giảm khả năng liên kết với nông dân trong sản xuất, chế biến và tiêu
thụ hàng nông sản, giảm khả năng liên kết giữa doanh nghiệp với HTX. Môi
trường kinh tế ở NT bất thuận lợi cũng là một tác nhân khiến cho các hình
thức đầu tư kể cả đầu tư vào KTTT bị suy giảm.
111
Thứ hai, môi trường luật pháp và chính sách chưa thật sự được khai
thông để phát triển KTTT. Tuy Luật HTX đã ban hành năm 2012 tạo hành
lang pháp lý cho chuyển đổi HTX kiểu cũ sang xây dựng và phát triển HTX
kiểu mới, nhưng thiếu sự đồng bộ về chính sách, một số nội dung chưa được
hướng dẫn cụ thể. Chính sách hỗ trợ phát triển KTTT tuy đã ban hành, nhưng
tổ chức triển khai chậm, nên đa phần các HTX chỉ được hưởng mức hỗ trợ
thấp hoặc chưa được hưởng lợi tự những chính sách của Nhà nước. Trong khi
đó, việc kiểm tra, đôn đốc công tác tổ chức lại HTX trên địa bàn chưa được
chú trọng đúng mức, vẫn nặng về hình thức.
Thêm vào đó, việc triển khai thực hiện chính sách của Nhà nước về
phát triển KTTT gắn với các tiêu chí xây dựng NTM của một số cấp ủy Đảng,
chính quyền, cán bộ, đảng viên các cấp từ tỉnh xuống xã còn chưa có sự thống
nhất, thiếu nhất quán, còn lúng túng. Việc đánh giá KTTT thiếu toàn diện, chỉ
thấy những hạn chế, yếu kém và hiệu quả kinh tế thuần túy để so sánh với các
hình thức tổ chức kinh tế khác mà không xét đến vai trò hỗ trợ thiết thực cho
phát triển KTTT. Sự lãnh đạo của của các cấp ủy Đảng, quản lý của Nhà nước
của chính quyển địa phương đối với KTTT còn hạn chế, có nơi buông lỏng
lãnh đạo, thiếu giải pháp thiết thực, một số nơi chính quyền lại can thiệp quá
sâu vào hoạt động của tổ chức KTTT như điều động, luân chuyển cán bộ
HTX, tạo sự xáo trộn trong tổ chức sản xuất, kinh doanh của đơn vị KTTT.
Ngoài ra, những bất ổn về tranh chấp trên biển Đông bởi các yêu sách
phi lý của nước ngoài cũng là một nguyên nhân khiến cho người dân giảm sút
nhu cầu tập trung vốn và các nguồn lực dưới hình thức KTTT để mở mang
việc khai thác hải sản xa bờ.
112
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở TỈNH QUẢNG NGÃI
4.1. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
4.1.1. Bối cảnh, mục tiêu và nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới của tỉnh Quảng Ngãi
- Bối cảnh xây dựng NTM Xây dựng NTM là một Chương trình quan trọng của nước ta nhằm phát
triển kinh tế - xã hội ở NT. Chương trình được khởi động từ năm 2010 với Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đến nay, Chương trình đã thực hiện được 5 năm, đã tạo ra đột phá lớn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, phát triển NN được gắn với phát triển công nghiệp và dịch vụ; phát triển NT gắn với phát triển đô thị theo quy hoạch, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân NT.
Tính đến ngày 25/8/2016, cả nước có 2.134 xã đạt 19 tiêu chí NTM, trong đó có 2.025 xã chính thức được công nhận xã NTM, chiếm 22,7% tổng số xã trên cả nước. Hiện cả nước còn 300 xã mới chỉ đạt dưới 5 tiêu chí NTM, giảm 26 xã so với đầu năm nay. Ở cấp huyện, đã có 24 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng Chính phủ công nhận huyện NTM [11].
Tại tỉnh Quảng Ngãi, việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM cũng đã đạt được thành tựu quan trọng, với 11 xã đạt 19 tiêu chí, 16 xã đạt từ 15 - 18 tiêu chí, 50 xã đạt từ 10 - 14 tiêu chí, 52 xã đạt từ 5 - 9 tiêu chí, 35 xã đạt từ 0 - 4 tiêu chí [71].
Dự báo trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, việc phát triển KTTT trong xây dựng NTM sẽ có những cơ hội và thách thức như sau:
113
- Cơ hội: Những thành quả về phát triển KTTT trong xây dựng NTM
những năm qua đã khẳng định tính đúng đắn trong chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về vấn đề này và được toàn xã hội, nhất là người sống ở
khu vực NT hưởng ứng tích cực. Năng lực hoạt động của các HTX ngày càng
tăng lên. Ngày càng có thêm nhiều tổ chức KTTT ra đời và đi vào hoạt động
ở khu vực NT. Hình thức KTTT trong NT của tỉnh đã và đang phát triển theo
hướng phát huy vai trò của nó đối với phát triển kinh tế, xã hội trong xây
dựng NTM, tạo đà cho những năm tiếp theo.
- Thách thức: hiện tại KTTT ở tỉnh Quảng Ngãi vẫn chưa phát triển bền
vững, quy mô của các đơn vị KTTT còn nhỏ, vốn góp của xã viên giảm, mức
độ liên kết còn sơ khai; số thành viên trong các cơ sở KTTT tuy có tăng,
nhưng chưa thực chất; hiệu quả kinh doanh của nhiều đơn vị KTTT còn thấp.
Bên cạnh đó, việc xây dựng NTM nặng về đầu tư kết cấu hạ tầng, nợ đọng xây
dựng cơ bản nhiều; nhiều địa bàn NT vẫn chưa có được hệ thống liên kết giữa
sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông phẩm; tình trạng ô nhiễm môi trường có chiều
hướng gia tăng mà không thể sớm khắc phục.
Trong bối cảnh mới của cách mạng khoa học, công nghệ và hội nhập
kinh tế quốc tế, việc tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức để thúc đẩy phát triển
KTTT trong xây dựng NTM đã trở nên cấp thiết hơn. Cần xác định rõ mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp để thúc đẩy phát triển hình thức kinh tế này trên các
địa bàn NT tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn mới.
- Mục tiêu xây dựng NTM
+ Mục tiêu chung của cả nước:
Ngày 16/8/2016, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1600/QĐ-TTg
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2016-2020. Mục tiêu
tổng quát của Chương trình là xây dựng NTM để nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu
kinh tế và các hình thức sản xuất hợp lý, gắn phát triển NN với công nghiệp,
114
dịch vụ; gắn phát triển NT với đô thị; xã hội NT dân chủ, bình đẳng, ổn định,
giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và
an ninh, trật tự được giữ vững. Mục tiêu cụ thể được xác định như sau: Phấn
đấu đến năm 2020 cả nước có khoảng 50% xã đạt chuẩn NTM, số xã còn lại
đảm bảo đạt 5 tiêu chí trở lên; mỗi tỉnh có ít nhất 1 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn
NTM; góp phần cải thiện đáng kể đời sống vật chất và timinh thần cho người
dân trên địa bàn NT. Đối với các tỉnh duyên hải miền Trung, đến năm 2020 có
60% số xã đạt chuẩn NTM, 16,5% số xã đạt 15 tiêu chí và không có xã dưới 5
tiêu chí NTM. Cơ bản hoàn thành các công trình thiết yếu đáp ứng yêu cầu phát
triển sản xuất và đời sống của cư dân NT. Nâng cao chất lượng cuộc sống của
cư dân NT; tạo nhiều mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân;
đến năm 2020, thu nhập tăng ít nhất gấp 1,8 lần so với năm 2015. Với mục tiêu
trên, trong giai đoạn 2016-2020 số xã đạt chuẩn NTM sẽ nhiều gấp 2,2 lần so
với giai đoạn 2010-2015; số huyện đạt chuẩn NTM sẽ tăng lên gấp 2,5 lần và
không còn xã đạt dưới 5 tiêu chí NTM.
+ Mục tiêu của tỉnh Quảng Ngãi:
Là tỉnh duyên hải miền Trung, bên cạnh mục tiêu được Trung ương
giao, mục tiêu xây dựng NTM tỉnh Quảng Ngãi còn được cụ thể tại Hội nghị
Tỉnh ủy lần thứ 3 khóa XIX ngày 26/4/2016: Phấn đấu trong giai đoạn 2016 -
2020 toàn tỉnh có 2 huyện và 55 xã đạt chuẩn NTM; không còn xã dưới 5 tiêu
chí; mỗi huyện miền núi có tối thiểu 1 xã đạt chuẩn NTM. Tức là đến năm
2020 sẽ có số xã đạt chuẩn NTM nhiều gấp 5,5 lần so với đến năm 2015; có 2
huyện đầu tiên đạt chuẩn NTM và các huyện miền núi đều có ít nhất 1 xã đạt
chuẩn NTM [82].
So với chỉ tiêu phấn đấu chung của cả nước, thì các chỉ tiêu tăng trưởng
về xây dựng NTM của tỉnh Quảng Ngãi đều cao hơn. Điều này đồng nghĩa
với nhiệm vụ nặng nề hơn và giải pháp đưa ra phải quyết liệt hơn so với giai
đoạn 2010-2015.
115
- Các nội dung thành phần của Chương trình xây dựng NT mới ở
tỉnh Quảng Ngãi
Để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn
2016-2020 và thực hiện Kết luận số 30-KL/TU ngày 26/4/2016 của Hội nghị
Tỉnh ủy lần thứ 3 khóa XIX về phát triển NN, xây dựng NTM giai đoạn 2016-
2020, dựa trên điều kiện thực tế của tỉnh Quảng Ngãi, thì các nội dung cần đạt
được trong xây dựng NTM trên địa bàn đến năm 2020 được thể hiện trên
những nét chủ yếu sau đây:
+ Về quy hoạch xây dựng NTM:
Phải đạt yêu cầu tiêu chí số 1 về quy hoạch và thực hiện quy hoạch trong
Bộ tiêu chí quốc gia NTM, đến năm 2018 có 100% số xã đạt chuẩn tiêu chí số
1 về quy hoạch và thực hiện quy hoạch. Nội dung, đáp ứng tiêu chí của Quyết
định số 558/QĐ-TTg ngày 5/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí NTM
quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng
NTM. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch sản xuất trong đề án quy
hoạch xã NTM gắn với tái cơ cấu NN cấp huyện, cấp vùng và cấp tỉnh; bảo
đảm chất lượng phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng và tập quán sinh hoạt của từng vùng, miền. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung
quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội- môi trường NT, đồ án quy hoạch
xã NTM đảm bảo hài hòa giữa phát triển NT với phát triển đô thị; phát triển
các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có trên địa bàn xã.
+ Về phát triển ha tầng kinh tế - xã hội:
Đến năm 2020, phải đạt yêu cầu tiêu chí số 2-9 trong Bộ tiêu chí quốc
gia NTM. Hoàn thiện hệ thống giao thông trên địa bàn thôn, xã với ít nhất
55% số xã đạt tiêu chuẩn tiêu chí số 2 về giao thông, có 77% số xã đạt tiêu
chuẩn tiêu chí số 3 về thủy lợi, 100% số xã đạt tiêu chuẩn tiêu chí số 4 về
điện, 80% số xã đạt tiêu chuẩn tiêu chí số 5 về cơ sở vật chất trường học, 70%
số xã đạt tiêu chuẩn tiêu chí số 7 về hạ tầng thương mại NT...
116
+ Về nâng cao hiệu quả kinh tế ở NT:
Phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành NN, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế NT, nâng cao thu nhập cho người dân. Đạt tiêu chí số 10 về thu nhập,
tiêu chí số 12 về tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên; tiêu chí số 13 về tổ
chức sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX thông qua tăng cường tổ
chức, điều hành, hoạt động, kinh doanh cho các HTX, THT. Đến năm 2020,
có 85% số xã đạt tiêu chí số 13 về hình thức tổ chức sản xuất ở NT là có THT
hoặc HTX hoạt động hiệu quả. Để thực hiện tiêu chí, phải triển khai có hiệu
quả đề án tái cơ cấu ngành NN theo hướng liên kết chuỗi giá trị để nâng cao
giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương
trình KH&CN phục vụ xây dựng NTM (Quyết định số 27/QĐ-TTg ngày
5/1/2012 của Thủ tướng Chính phủ) giai đoạn 2016-2020; tăng cường công
tác khuyến nông; đẩy mạnh ứng dụng KH&CN, nhất là công nghệ vào sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Tiếp tục thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị sản
xuất với tiêu thụ sản phẩm; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn NT,
trong đó chú trọng công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp thu hút
nhiều lao động. Tiếp tục đổi mới tổ chức sản xuất NN, thực hiện Quyết định
số 2261/QD-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015-2020. Phát triển ngành
nghề NT. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động NT.
+ Giảm nghèo và an sinh xã hội:
Đến năm 2020 có 60% số xã đạt tiêu chí số 11 về hộ nghèo, giảm hộ
nghèo bình quân từ 1-1,5%/năm theo tiêu chuẩn quốc gia giai đoạn 2016-
2020. Phát triển giáo dục ở NT. Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của
người dân NT...
Xây dựng NTM thực chất là thực hiện các nội dung cụ thể để CNH,
HĐH NN, NT. Việc phát triển các hình thức KTTT trong NT là một nội dung
quan trọng không chỉ đơn thuần nhằm phát triển kinh tế, mà còn góp phần
117
thực hiện các tiêu chí NTM được Chính phủ xác định trong tiêu chí NTM giai
đoạn 2016-2020. Để thực hiện các nội dung thành phần nêu trên và thực hiện
Kết luận số 30-KL/TU của tỉnh Ủy Quảng Ngãi, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã
chỉ đạo các sở, ban, ngành tỉnh, UBND các huyện, thành phố và các cơ quan,
đơn vị có liên quan tổ chức quán triệt, tuyên truyền phổ biến và xây dựng kế
hoạch thực hiện và HĐND tỉnh có quy định mức hỗ trợ từ ngân sách Nhà
nước để thực hiện một số nội dung xây dựng NTM trên địa bàn và khen
thưởng công trình phúc lợi cho huyện, xã đạt chuẩn NTM giai đoạn 2016-
2020 theo Quyết định số 13/2016/NQ-HĐND ngày 15/7/2016 [40].
4.1.2. Quan điểm phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông
thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
Trên cơ sở nhận thức lý luận, thực tiễn và quán triệt đường lối, chính
sách phát triển KTTT trong giai đoạn mới của Đảng và Nhà nước, trong giai
đoạn tới, việc phát triển KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi cần
tuân thủ quan điểm như sau:
Thứ nhất, phát triển KTTT trong xây dựng NTM phải được đặt trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, tự do hóa thương mại và phải có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Nằm trong bối cảnh chung của cả nước, trình độ phát triển kinh tế tỉnh
Quảng Ngãi không đồng đều nên tất yếu tồn tại nhiều hình thức sở hữu với
nhiều thành phần kinh tế. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta xác định các thành phần
kinh tế đều có vai trò quan trọng và bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, việc phát triển
KTTT phải trên cơ sở phát huy vai trò và ưu thế của hình thức kinh tế này.
Phải từng bước phát triển các hình thức KTTT (THT, HTX và Liên hiệp
HTX) thích hợp với ngành, lĩnh vực sản xuất ở khu vực NT trên quan điểm
118
tạo ra điều kiện để phát huy có hiệu quả nhất nguồn lực sản xuất hiện có.
Đồng thời, phát triển KTTT phải được đặt trong bối cảnh cạnh tranh với các
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác cả trong tiếp cận các nguồn lực đầu
vào cũng như cạnh tranh tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Phát triển KTTT trên quan
điểm thúc đẩy hình thành các liên kết trên nhiều cấp độ giữa các đơn vị KTTT
với nhau và với các tổ chức và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh tạo sức mạnh kinh
tế trong nước, tận dụng cơ hội và học hỏi kinh nghiệm phát triển.
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực
và thế giới, cam kết tự do hóa thương mại của Việt Nam, KTTT đứng trước
nhiều thời cơ và thách thức mới. Để có thể tận dụng được thời cơ, đẩy lùi
thách thức để đứng vững và phát triển triển, các đơn vị KTTT phải được
chuẩn bị về nhiều mặt, từ lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mô hình tổ chức, đội
ngũ cán bộ, năng lực về tài chính đến các mối liên kết kinh tế...
Trước yêu cầu xây dựng NTM, phải coi phát triển KTTT là việc tạo lập
ra các đơn vị kinh tế nhưng mang những giá trị xã hội và nhân văn. Nó không
phải đơn thuần vì mục tiêu kinh tế, mà còn là các đơn vị có tác động hỗ trợ
kinh tế hộ phát triển. Bởi vậy, Nhà nước cần có những chính sách phù hợp
nhằm khuyến thích và thúc đẩy phát triển. Việc Nhà nước hỗ trợ phát triển
KTTT là cần thiết, song không phải là hỗ trợ tràn lan như trong mô hình
KTTT kiểu cũ trước đây, mà phải có sự lựa chọn thích hợp. Do trình độ phát
triển và các nguồn lực của NN, NT tỉnh Quảng Ngãi còn rất nhiều khó khăn,
nên đây là một địa chỉ cần được nhận sự hỗ trợ thích đáng của Nhà nước. Sự
hỗ trợ này không mang tính bao cấp và cũng không mang tính bảo hộ, mà chỉ
với tính cách là "bà đỡ", với điều kiện và thời hạn nhất định nhằm vừa tạo đà
cho KTTT tự phát triển, vừa tạo điều kiện thực hiện các tiêu chí xây dựng
NTM. Sự hỗ trợ của Nhà nước phải thích hợp không tạo sự ỷ lại hay tạo chỗ
"trú ẩn" cho những người lười lao động hoặc núp bóng dưới danh nghĩa
119
KTTT để trục lợi, không làm tổn hại đến môi trường kinh doanh nói chung.
Ngoài ra, sự hỗ trợ của Nhà nước cũng phải đảm bảo không vi phạm các cam
kết quốc tế song phương và đa phương.
Thứ hai, coi trọng phát triển kinh tế hộ làm cơ sở thúc đẩy phát triển
KTTT ở NT
Kinh tế hộ là một bộ phận sản xuất quan trọng ở NT. Tại khu vực NT
tỉnh Quảng Ngãi, kinh tế hộ có mặt ở nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đa
dạng, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và kinh doanh
ngành nghề phụ. Phát triển kinh tế hộ, đa dạng hóa ngành nghề, giải quyết việc
làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động NT là một nội dung của Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020. Cần xác định
quan điểm kinh tế hộ là nền tảng của KTTT. Sự ra đời và phát triển của KTTT
phải quay lại hỗ trợ kinh tế hộ phát triển. Kinh tế hộ và KTTT không loại trừ
hay triệt tiêu nhau mà là tiền đề, điều kiện của nhau. KTTT là hình thức tổ chức
trong đó các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên) có nhu cầu,
lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để
phát huy sức mạnh tập thể của từng thành viên tham gia nhằm giải quyết có
hiệu quả hơn các vấn đề sản xuất, kinh doanh và đời sống, góp phần phát triển
kinh tế, xã hội, xây dựng NTM. KTTT bổ sung những điểm yếu của kinh tế hộ
về quy mô vốn, khả năng giải quyết những vấn đề chung...
Trong thời gian qua, một trong những nguyên nhân chưa phát triển
mạnh KTTT ở khu vực NT tỉnh Quảng Ngãi là do kinh tế hộ còn manh mún,
nhỏ bé, sản xuất hàng hoá chưa phát triển. Trong điều kiện đó, các hộ kinh tế
chưa có nhu cầu hợp tác để trở thành KTTT. Bởi vậy, để phát triển KTTT,
cần coi trọng thúc đẩy phát triển kinh tế hộ, chuyển mạnh việc sản xuất của
các hộ sang kinh tế thị trường, tạo môi trường cạnh tranh cho các hộ kinh tế ở
NT. Nhà nước phải luôn cam kết tôn trọng và bảo đảm lợi ích của kinh tế hộ,
kinh tế cá thể trong quá trình phát triển. Khuyến khích các hình thức liên kết,
120
hợp tác giữa kinh tế hộ với KTTT trên cơ sở của nguyên tắc tự nguyện và
cùng có lợi giữa các bên tham gia. Thông qua những quan hệ liên kết và hợp
tác này, hộ gia đình có thể tìm thấy con đường phát triển tốt hơn, bền vững
hơn trước sức ép cạnh tranh thị trường, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế và tự do hóa thương mại.
Thứ ba, hiệu quả kinh tế phải là tiêu chí quan trọng trong phát triển
KTTT ở NT
Mặc dù có các quan niệm khác nhau về tiêu chí đánh giá kết quả hoạt
động của KTTT, nhưng với tư cách là một pháp nhân, một tổ chức kinh tế
hoạt động trong nền kinh tế thị trường, các đơn vị KTTT dù là HTX hay Liên
hiệp HTX thì trước hết phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong
phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của mình theo quy
định của pháp luật. Những đơn vị KTTT hoạt động không hiệu quả sẽ không
có điều kiện để tồn tại và phát triển, đồng thời cũng không thể hỗ trợ tốt cho
các thành viên trong việc thực hiện các mục tiêu mà họ đặt ra khi thành lập và
không thể có các tác động tích cực tới cộng đồng. Đạt hiệu quả kinh tế tuy
không phải là mục tiêu duy nhất trong phát triển KTTT, nhưng nó là tiêu chí
cần được đảm bảo. Tiêu chí 13 trong Bộ tiêu chí quốc gia về NTM yêu cầu
phải có THT hoặc HTX hoạt động có hiệu quả. Một xã hay một huyện không
thể được công nhận đạt tiêu chuẩn NTM khi hoạt động kinh tế của THT hoặc
HTX không có hiệu quả. Thêm vào đó, hiệu quả còn là vấn đề về chính trị, xã
hội, tâm lý, niềm tin, là tiền đề của mọi sự phát triển. Hoạt động có hiệu quả
thì các THT và HTX mới có điều kiện để hỗ trợ các xã viên của mình.
Thứ tư, kiên quyết chuyển đổi các HTX kiểu cũ và phát triển các HTX
mới theo Luật HTX 2012 trên địa bàn NT
Hiện tại, cả số lượng, tỷ trọng và những đóng góp của KTTT so với các
thành phần kinh tế khác ở khu vực NT tỉnh Quảng Ngãi còn quá nhỏ bé trong
khi sự tham gia của xã viên mới chỉ mang tính hình thức, thiếu thực chất, vẫn
121
chưa ra khỏi tư tưởng bao cấp, ỷ lại trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Cơ
sở vật chất kỹ thuật, nguồn vốn của không ít HTX, nhất là các HTX nông
nghiệp chưa được chuyển đổi theo mô hình HTX kiểu mới, nên vẫn ở tình
trạng lãng phí. Vì vậy, trên quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về
KTTT, để phát huy hiệu quả các nguồn lực hiện có và mở rộng thu hút các
nguồn lực vào phát triển KTTT, cần thống nhất quan điểm kiên quyết chuyển
đổi các HTX kiểu cũ, khắc phục những yếu kém hiện tại của các HTX này và
phát triển các HTX mới theo Luật HTX năm 2012 trên địa bàn NT. Tại tỉnh
Quảng Ngãi, vấn đề này đang được đánh giá là chưa có sự thống nhất, thiếu
nhất quán trong một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên; việc đánh giá
KTTT chưa toàn diện, chỉ thấy những hạn chế, yếu kém và hiệu quả hoạt
động kinh tế thuần túy của HTX, để so với các đơn vị kinh tế khác mà buông
lỏng lãnh đạo, thiếu giải pháp phát triển, không xét đến vai trò hỗ trợ KTTT ở
một số địa bàn NT trong tỉnh [104].
Cần nhận thức rằng, về cơ bản các HTX phải chủ động vươn lên, khẳng định vị trí, vai trò, phát huy nội lực của chính mình để phấn đấu, vượt khó khăn, thử thách, tập trung nguồn lực để củng cố, phát triển theo quy định của pháp luật, nhưng trong thời kỳ chuyển đổi và bước đầu thành lập mới, KTTT còn nhiều khó khăn thì sự hỗ trợ của Nhà nước là rất cần thiết. Việc hỗ trợ của Nhà nước phải nhằm vào củng cố các HTX hiện có cả về tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động, giải thể những HTX hoạt động quá yếu kém, tồn tại hình thức, đồng thời mở rộng phát triển KTTT với nhiều hình thức, quy mô, trình độ khác nhau trong các ngành, các lĩnh vực ở địa bàn NT trên cơ sở nhu cầu thực tế của người dân, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển KTTT trong ngành NN gắn với xây dựng NTM.
Quan điểm phát triển KTTT trong NN trong xây dựng NTM là: - Gắn phát triển KTTT với đẩy mạnh CNH, HĐH NN, NT. Việc phát
triển các HTX NN như một yếu tố, một điều kiện để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ mà CNH, HĐH NN, NT đặt ra. Cần lựa chọn mô hình KTTT phù hợp
122
với điều kiện thực tế về lao động, đất đai, khí hậu của địa phương; phải xác định nội dung, bước đi cụ thể gắn chặt với các mục tiêu quốc gia xây dựng NTM.
- Phát triển nền NN ở trình độ cao là tiền đề hình thành các đơn vị
KTTT. Lịch sử phát triển KTTT trên thế giới cho thấy, khi nền NN trình độ
thấp thì nhu cầu hợp tác cũng chỉ ở trình độ giản đơn như đổi công, vần công.
Nhưng khi nền NN phát triển ở trình độ cao thì nhu cầu hợp tác sẽ mạnh hơn,
sẽ diễn ra ở nhiều khâu trong chu trình sản xuất. Việc phát triển kết cấu hạ
tầng ở NT để thực hiện tiêu chí NTM cũng có tác động tích cực thúc đẩy phát
triển KTTT ở NT.
- Phát triển KTTT trong NN phải trên cơ sở sự phù hợp. Khi trình độ
phát triển kinh tế NN chưa cao thì có thể lựa chọn một vài khâu chính mà
những khâu này các đơn vị KTTT sẽ làm tốt hơn kinh tế hộ, kinh tế cá thể,
tiểu chủ. Trên cơ sở những khâu chính, cùng với sự phát triển lực lượng sản
xuất ở NT, hình thức KTTT từng bước mở rộng lĩnh vực hoạt động. Tuy vậy,
việc lựa chọn đó phải được tiến hành trên cơ sở phân tích, đánh giá những
điều kiện thực tế và khả năng hiện có của THT, HTX về vốn, về tổ chức bộ
máy, cán bộ..., trong đó cán bộ là khâu đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng quyết
định đến hiệu quả hoạt động của KTTT.
- Trong điều kiện NT tỉnh Quảng Ngãi hiện nay, việc phát triển các
HTX có thể tập trung làm tốt các dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ hoạt động
sản xuất kinh doanh của các thành viên, từng bước mở rộng ngành nghề, sản
xuất kinh doanh tổng hợp. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa các
HTX và giữa HTX với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Khi
các HTX phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp
HTX hoặc liên hiệp HTX.
Thứ năm, phát triển KTTT phải đảm bảo tính vững chắc, hướng đến
những kết quả thiết thực gắn với các tiêu chí NTM
Trên quan điểm phát triển KTTT phải được đặt trong tổng thể phát triển
123
kinh tế, xã hội mỗi vùng, mỗi khu vực và mỗi địa phương, trong giai đoạn đến
năm 2020 và tầm nhìn xa hơn phải được gắn với thực hiện các tiêu chí quốc gia
NTM trên địa bàn. Ở những nơi chưa hội tụ đủ những điều kiện cần thiết thì
không nên phát triển mô hình này một cách gượng ép, duy ý chí hoặc vì thành tích
hay chỉ tiêu. Cần hành động dựa trên cơ sở nhận thức rõ KTTT vừa là sản phẩm,
vừa là tác nhân thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường, xây dựng NTM, sự tồn tại và
phát triển của KTTT là cần thiết để phát triển kinh tế, xã hội ở khu vực NT.
Thực tế quá trình phát triển KTTT ở tỉnh Quảng Ngãi cũng như cả
nước thời gian qua cho thấy, nếu chỉ duy ý chí, nếu chỉ áp đặt theo mệnh lệnh,
theo phong trào... thì tất yếu sẽ dẫn đến không thành công. Phát triển các hình
thức KTTT là cần thiết trong nền kinh tế thị trường. Đây là một quá trình lâu
dài, trong đó trình độ phát triển các quan hệ kinh tế thị trường là tiền đề và cơ
sở để phát triển KTTT với các hình thức tương ứng. Do vậy, để thúc đẩy sự
hình thành và phát triển các hình thức KTTT, phải thúc đẩy phát triển kinh tế
kinh tế thị trường trong các ngành và lĩnh vực. Bên cạnh đó, các hình thức
KTTT phải được xây dựng trên quan điểm chủ động, thiết thực, vì sự phát
triển của sản xuất, nắm bắt nhu cầu hợp tác kinh tế của người dân, từ thấp đến
cao, đa dạng về nội dung và hình thức, nhiều cấp độ theo phương châm trình
độ phát triển kinh tế thị trường ở từng địa bàn cụ thể tới đâu thì mô hình tổ
chức KTTT tương ứng tới đó, coi phát triển các hình thức KTTT là một nội
dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội ở NT cũng như
trong Chương trình xây dựng NTM.
Bên cạnh đó, cũng không đặt chỉ tiêu phát triển số lượng HTX mà phải
coi trọng chất lượng, không nóng vội, gò ép, khiên cưỡng trong phát triển
KTTT. Phải trên quan điểm Nhà nước tạo môi trường về thể chế, kinh tế, tâm
lý - xã hội... thuận lợi và hỗ trợ để các hình thức KTTT tự thân phát triển dưới
các hình thức thích hợp (có thể hợp tác ở một khâu, hay hợp tác nhiều khâu;
có hợp tác vừa góp vốn vừa góp sức, hoặc chỉ góp vốn; có hợp tác sản xuất
124
tập trung, hoặc hợp tác chỉ làm dịch vụ cho sản xuất của xã viên; có hợp tác
với sự tham gia của các thể nhân, có hợp tác với sự tham gia của cả thể nhân
và pháp nhân; có hợp tác trên phạm vi địa bàn hẹp hoặc không giới hạn địa
bàn hoạt động; hợp tác với các quy mô to, nhỏ khác nhau tùy điều kiện ở từng
địa bàn cụ thể và giai đoạn phát triển cụ thể). Việc lựa chọn quy mô và mô
hình KTTT phải trên cơ sở tôn trọng quyết định của các thành viên tham gia
tổ chức KTTT đó, Nhà nước không áp đặt.
Cần nhận thức rằng, phát triển KTTT là một tất yếu khách quan, là chủ
trương lớn, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước, do đó cần có sự vào cuộc của cả
hệ thống chính trị và sự đồng thuận tham gia của người dân, cần tránh sự áp đặt,
duy ý chí, mặt khác cũng tránh buông lỏng lãnh đạo của Đảng và quản lý của
chính quyền các cấp. Vừa tập trung vào những khâu đột phá để tạo tăng trưởng
nhanh cho tỉnh đồng thời vừa chú trọng việc an sinh xã hội, phát triển bền vững.
Phát triển HTX nhằm phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu của kinh tế hộ
trong nền sản xuất hàng hóa, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng
NTM. Gắn phát triển KTTT với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ trương của Đảng: kinh tế nhà nước cùng
với KTTT ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
4.1.3. Phương hướng phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2020
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM giai đoạn 2016-2020 và thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ tỉnh về nội dung KTTT, phấn đấu đến năm 2020 có 75% HTX đạt loại khá trở lên và cơ bản không còn HTX yếu kém, việc phát triển KTTT trên địa bàn NT tỉnh Quảng Ngãi cần thực hiện theo phương hướng chủ yếu như sau:
- Về chỉ tiêu, phát huy những thành quả đã đạt được, phấn đấu thực hiện thành công các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về KTTT. Phấn đầu đến năm 2020 quy mô KTTT ở khu vực NT tỉnh Quảng Ngãi đạt được một số mục tiêu cụ thể như sau:
125
Bảng 4.1: Hướng phát triển kinh tế tập thể ở tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn 2016-2020 [104]
TT Chỉ tiêu Đơn vị
tính 2016 2017 2018 2019 2020
Mục tiêu 2016-2020
1 Tổng số HTX HTX 205 206 207 208 210 2 Số HTX thành lập mới HTX 4 4 5 5 5 23 3 Số HTX giải thể HTX 4 4 4 3 2 17
4 Số HTX chuyển đổi theo Luật HTX 2012
HTX 205 206 207 208 210
5 Tổng số thành viên HTX 1000 người
350 360 370 380 390
6 Tổng số lao động thường xuyên trong HTX
Người 2350 2370 2420 2450 2480
7 Lãi bình quân 1 HTX Tr.đồng/
năm 75,6 78,9 81,0 85,0 90,0
+ Toàn tỉnh có 210 HTX, trong đó thành lập mới 23 HTX, giải thể 17
HTX; số lượng HTX thành lập mới bình quân 4-5 HTX/năm
+ 100% HTX được tổ chức hoạt động theo Luật HTX 2012.
+ Có 65% HTX đạt loại khá, giỏi trở lên; dưới 10% HTX yếu kém.
+ Có 80% số HTX hoạt động hiệu quả theo tiêu chí số 13 của Bộ tiêu
chí Quốc gia về NTM.
+ Tốc độ tăng trưởng khu vực KTTT bình quân hàng năm đạt trên 6%.
+ Thu nhập bình quân của người lao động làm việc thường xuyên trong
HTX 23 triệu đồng/năm, tăng gấp 2,5 lần so với năm 2015.
+ Doanh thu bình quân của HTX 1.4 tỷ đồng/năm tăng gấp 2,3 lần so
với năm 2015.
+ Tỷ lệ cán bộ đạt trình độ sơ cấp, trung cấp 75%; tỷ lệ cán bộ đạt trình
độ cao đẳng, đại học 15% và không còn cán bộ chưa qua đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ (con số hiện này là 58,0%) [104].
126
- Tiếp tục đưa KTTT, nòng cốt là HTX thực sự là thành phần kinh tế
quan trọng, góp phần cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của kinh tế quốc dân, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở
NT và đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Thực hiện có
hiệu quả Đề án củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các
HTX, THT trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi định hướng đến năm 2020. Phát
triển KTTT gắn liền với tái cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH
NN, NT đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM. KTTT phải vươn lên là những đơn vị
kinh tế đi đầu trong thực hiện Chương trình xây dựng NTM của tỉnh.
- Phát triển KTTT nhằm hỗ trợ kinh tế hộ thành viên phát triển, tăng giá
trị sản xuất hàng hóa, dịch vụ. Tập trung tổ chức lại hoạt động của các HTX và
THT theo quy trình, quy định của Luật HTX 2012. Đối với các HTX đã được
tổ chức lại, cần rà soát lại ngành nghề kinh doanh, điều chỉnh, bổ sung ngành
nghề thật phù hợp với khả năng HTX và nhu cầu thị trường. Hạn chế thấp nhất
HTX không hoạt động hoặc hoạt động không đúng quy định kéo dài. Đối với
các HTX NN quy mô thôn và liên thôn, cần tổ chức hợp nhất theo chủ trương
của tỉnh và tổ chức hoạt động theo đúng bản chất, nguyên tắc của HTX NN
kiểu mới. Đối với các HTX NN qui mô xã và chuyên ngành chưa tổ chức lại
theo Luật HTX 2012, cần có phương án tổ chức giải quyết dứt điểm, nếu HTX
nào không tổ chức lại được và các HTX đã ngừng hoạt động thì cương quyết
giải thể theo pháp luật. Chuyển đổi, khuyến khích thành lập mới HTX, liên
hiệp HTX trên các lĩnh vực môi trường, chợ, dịch vụ, khai thác hải sản xa bờ,
lâm nghiệp, chuyên canh; phát triển các HTX trên địa bàn, nhất là phát triển
các HTX tại các khu kinh tế, vùng lân cận khu công nghiệp của tỉnh; phát triển
các HTX vùng trung du, miền núi theo kế hoạch phát triển KTTT 5 năm 2016-
2020 của UBND tỉnh tại Báo cáo số 133/BC-UBND ngày 1/7/2015.
- Đổi mới thiết bị, công nghệ sản xuất của KTTT và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh,
127
tham gia chuỗi giá trị và thương hiệu nông sản, giữ vững thị trường nội địa và
hội nhập quốc tế có hiệu quả. Trên cơ sở đó, nâng cao hiệu quả hoạt động của
HTX, liên hiệp HTX, THT, tăng quy mô việc làm, nâng cao hiệu quả đóng
góp của KTTT vào tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo một cách bền
vững; nâng cao vai trò, vị trí của KTTT trong nền kinh tế, góp phần phát triển
kết cấu hạ tầng, nâng cao dân trí, phát huy dân chủ, ổn định chính trị - xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội nhằm thực hiện các tiêu chí quốc gia về NTM. 4.2. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI GIAI ĐOẠN TỚI
4.2.1. Giải pháp nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế tập thể
trong xây dựng nông thôn mới
Nhận thức là sự hiểu biết của con người đối với hiện thực khách quan, là
quá trình kiến tạo tri thức trong đầu óc con người về hiện thực khách quan. Bản
chất nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo
thế giới khách quan vào óc người trên cơ sở thực tiễn. Do bản chất của quá
trình nhận thức là mang tính tích cực, chủ động, sáng tạo, nên hoạt động nhân
thức bao giờ cũng có mục đích, thậm chí còn phản ánh sự vượt trước thông qua
hoạt động thực tiễn. Điều này được thể hiện rõ nhất trong nhận thức lý luận.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, nhận thức lý luận có vai trò đặc biệt, nó là
“kim chỉ Nam” cho hoạt động thực tiễn của con người.
Việc phát triển KTTT trong xây dựng NTM ở nước ta là một chủ
trương, đường lối của Đảng, đã và đang được Nhà nước tiến hành triển khai
thực hiện là hoàn toàn đúng đắn. Nó không chỉ phù hợp với xu hướng phát
triển tất yếu lịch sử, mà còn là yêu cầu để định hướng xã hội chủ nghĩa nền
kinh tế thị trường mà nước ta đã lựa chọn. Tính ưu việt của KTTT so với kinh
tế cá thể trên thực tiễn đã được nhiều quốc gia, nhất là các nước có nền kinh
tế phát triển khẳng định. Quyết định của Đảng và Nhà nước về phát triển
KTTT trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam là một quyết tâm chính
128
trị, nó phản ánh kết quả của tư duy lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường
đầy đủ, hiện đại đã được các nhà khoa học phát hiện và đã được thực tiễn
kiểm định từ những năm cuối thế kỷ XVIII ở các nước đi trước và đã diễn ra
ở Việt Nam từ những năm 1960 lại đây. Những giá trị đích thực được tạo ra
bởi quá trình phát triển KTTT là bằng chứng về sự sáng tạo của con người
trong tổ chức kinh tế.
Tuy nhiên, do nhiều nhân tố mà nhận thức, tư duy về phát triển KTTT
nói chung, trong xây dựng NTM nói riêng của không ít cán bộ và người dân
nước ta còn rất hạn chế, không được đẩy đủ, chưa ra khỏi tâm lý mặc cảm với
mô hình KTTT kiểu cũ trong quá trình phát triển mô hình KTTT kiểu mới...
Trong thời gian tới, việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, sự cần
thiết và nội dung phát triển KTTT cho cán bộ và người dân phải được đặt lên
hàng đầu. Phải làm cho họ hiểu rõ và đúng quan điểm, đường lối, chủ trương
của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển KTTT trong xây dựng NTM
để có sự hưởng ứng tích cực và để tìm tòi các giải pháp, tạo động lực phát triển.
Nội dung của giải pháp này là:
- Nâng cao nhận thức của người dân trong toàn xã hội nói chung, trong
NT nói riêng và cán bộ các cấp, các ngành về vị trí và tầm quan trọng của KTTT
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như trong NT. Phải
nhận thức được rằng KTTT không phải là hình thức kinh tế được xây dựng bởi ý
muốn chủ quan duy ý chí của bất kỳ một cá nhân hay một tổ chức nào. Mà đây
là một xu thế phát triển tất yếu. Xu thế này đã và đang ngày càng mở rộng, trở
thành phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. KTTT không chỉ là kết quả tất yếu bởi
sự phản ứng của những người sản xuất, kinh doanh cá thể, các hộ gia đình với
sức ép của các công ty lớn trong nền kinh tế thị trường để duy trì hoạt động và
làm tăng thu nhập của các thành viên tham gia, mà còn là cơ chế để tập trung các
nguồn lực, trước hết là vốn để giải quyết được những đầu tư lớn hơn so với kinh
tế cá thể làm tăng hiệu quả hoạt động của các thành viên tham gia. Phải làm cho
129
đông đảo người dân nhận thức được rằng, sự tồn tại và phát triển KTTT không
chỉ đơn thuần vì mục tiêu kinh tế, mà nó còn là một hình thức tổ chức xã hội
mang tính dân chủ, trong đó các thành viên đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ, quan tâm
tới nhau, gắn bó với nhau trong mối quan hệ “tình làng, nghĩa xóm”, hướng đến
tính nhân văn - một tiêu thức cần có trong xây dựng NTM ở nước ta không chỉ
trong giai đoạn hiện nay mà còn cả về phát triển lâu dài.
- Phải nâng cao nhận thức của người dân và cán bộ ở NT về vai trò của
KTTT trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là những năm gần đây nước ta liên
tục tham gia đàm phán nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối
tác đa phương, khu vực và song phương. Trong bối cảnh này, các ngành kinh
tế ở NT sẽ có nhiều cơ hội để phát huy lợi thế, tranh thủ nguồn lực để mở
rộng giới hạn khả năng sản xuất tăng thêm thu nhập. Nhưng, nó cũng tạo ra
những thách thức và áp lực cạnh tranh gay gắt không chỉ đối với sản phẩm mà
còn đối với các chủ thể kinh tế trong nước và cả nền kinh tế quốc gia trước sự
hiện diện của các sản phẩm và chủ thể nước ngoài. Một trong những giải pháp
phổ biến hiện nay để vượt qua những thách thức, áp lực này, để vươn lên là sự
liên kết giữa các chủ kinh tế trong nước tạo ra sức mạnh kinh tế dân tộc.
KTTT tất yếu phải là một giải pháp được lựa chọn. Nếu các chủ thể không
tham gia hình thức kinh tế này mà chỉ làm ăn riêng lẻ thì rất khó có thể đứng
vững và phát triển trong cạnh tranh. Cũng cần làm cho người dân nông thôn
nhận thức rằng, bên cạnh sự cần thiết phải hợp tác giữa các cá thể với nhau
trong KTTT, mà cần thiết phải tính đến hợp tác, liên kết giữa các đơn vị
KTTT, giữa đơn vị KTTT với các doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế. Đây
là con đường làm tăng sức mạnh của mỗi thành viên để vươn lên trong hội
nhập quốc tế và tự do hóa thương mại.
- Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về xây dựng mô hình HTX, liên hiệp
HTX kiểu mới trong NT. Đây là hai mô hình được Đảng và Nhà nước quan
tâm phát triển và đã được ghi trong Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 24/7/2015 của
130
Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh triển khai thi hành Luật HTX [85].
Các cơ quan chức năng của Nhà nước có nhiệm vụ tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến, hướng dẫn và thực hiện các văn bản pháp luật về HTX, liên
hiệp HTX, chỉ đạo xây dựng mô hình thí điểm và nhân rộng các mô hình
HTX, liên hiệp HTX hoạt động có hiệu quả ở khu vực NT. Trên cơ sở các tài
liệu và nội dung tuyên truyền, tập huấn của Trung ương, các ngành chức năng
của tỉnh Quảng Ngãi cần đầu tư công sức để vận dụng vào địa phương thuộc
phạm vi của mình, lựa chọn thí điểm để nhân rộng mô hình HTX NN kiểu
mới trên địa bàn NT; phổ biến, xây dựng và nhân rộng các mô hình HTX, liên
hiệp HTX hoạt động có hiệu quả. Phải sử dụng các phương tiện thông tin đại
chúng, trước hết là đài truyền hình, đài phát thanh các cấp tỉnh, huyện và đài
truyền thanh xã để phổ biến, tuyên truyền về Luật HTX và những yêu cấu xây
dựng NTM với nhiều hình thức. Xây dựng Chương trình phát sóng trên đài
phát thanh truyền hình tỉnh: hàng tháng có ít nhất 01 lần phát sóng trên đài
truyền hình để phổ biến Luật và các chính sách liên quan đến phát triển KTTT
gắn với xây dựng NTM. Ở các đài cơ sở, hàng tháng phải có từ 1 - 2 buổi phát
thanh tuyên truyền về Luật HTX năm 2012 và các chủ trương, chính sách mới
của Đảng và Nhà nước về phát triển KTTT trong xây dựng NTM.
- Nghiên cứu để xây dựng và thực thi Chương trình bồi dưỡng kiến
thức và kỹ năng phát triển KTTT trong xây dựng NTM cho cán bộ các cấp,
ngành của tỉnh và đặc biệt là cán bộ xã/phường/thị trấn, cán bộ HTX, THT.
Thành lập và đưa vào hoạt động các tổ báo cáo viên có trình độ, năng lực và
tâm huyết với phong trào KTTT và xây dựng NTM. Đưa chương trình bồi
dưỡng kiến thức KTTT vào tất cả các địa bàn NT để cán bộ có được những
nhận thức đúng đắn để họ có thể phổ biến sâu rộng trong nhân dân.
- Liên minh HTX cần nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan hữu quan
và các tổ chức đoàn thể ở NT áp dụng linh hoạt các hình thức tuyên truyền,
phổ biến đường lối, chính sách và pháp luật phát triển KTTT của Đảng và
131
Nhà nước; phổ biến mô hình KTTT làm ăn có hiệu quả ở NT. Có thể tổ chức
các hình thức hội nghị, hội thảo, tọa đàm tuyên truyền, tổ chức cuộc thi tìm
hiểu đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về KTTT, về Luật HTX và
các tiêu chí quốc gia về NTM. Cần thiết xây dựng những phóng sự, phim dài
tập, mở các chuyên mục về phát triển KTTT trên các phương tiện thông tin,
truyền thanh. Tổng kết, nhân rộng điển hình tiên tiến, phát động phong trào
thi đua trong các HTX; tổ chức triển khai có hiệu quả công tác giáo dục pháp
luật đối với cán bộ quản lý, thành viên HTX, THT... Phải đặt công tác tuyên
truyền nâng cao nhận thức của người dân và cán bộ về phát triển KTTT có sự
chỉ đạo, quản lý của chính quyền các cấp từ tỉnh xuống xã. Hàng năm, cần tổ
chức cho đại diện cán bộ HTX, thành viên tiêu biểu và đại diện lãnh đạo các
cấp Đảng, chính quyền và các tổ chức ở NT đi tham quan thực tế các mô hình
điển hình tiên tiến ở các địa phương khác kể cả ở các HTX tiên tiến trên thế
giới để học tập, rút kinh nghiệm. Đây là kênh tuyên truyền mang tính trực
quan và có hiệu quả cao nhất.
- Lồng ghép nội dung về KTTT vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ làm công tác đảng, chính quyền, các đoàn thể nhất là cán bộ chủ chốt ở
xã, phường, thị trấn.
Việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức và vận động về KTTT phải
được làm thường xuyên, sâu rộng đến tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức
kinh tế, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những cơ quan, đơn
vị, cán bộ, đảng viên có trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển
khai các chủ trương, chính sách về phát triển KTTT, các cán bộ, xã viên và
người lao động trong các THT, HTX. Công tác này cũng cần nhận được sự
quan tâm, tham gia của tất cả các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc, các ngành, đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng. Bộ máy thực hiện
và kinh phí hoạt động cũng là một trong những yếu tố đảm bảo cho công tác
tuyên truyền, vận động đạt hiệu quả. Trong tuyên truyền, cần làm rõ “Nhận
132
thức về vị trí, vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển KTTT” và
phải làm rõ: “Chính sách của Đảng và nhà nước về phát triẻn KTTT...về mô
hình HTX kiểu mới” mà Nghị quyết 13-NQ/TW, Kết luận số 56-KL/TW ngày
21/2/2013 của Bộ Chính trị và Công văn số 1647-CV/TU ngày 28/3/2013 của
tỉnh ủy Quảng Ngãi đã yêu cầu.
4.2.2. Giải pháp tạo điều kiện, tiền đề kinh tế - xã hội cần thiết cho
phát triển kinh tế tập thể ở nông thôn
Về nguyên lý, KTTT là một quan hệ, một hình thức kinh tế chỉ được
hình thành và phát triển khi lực lượng sản xuất và kinh tế thị trường đã đạt tới
trình độ phát triển nhất định. Kinh nghiệm ở nhiều nước cũng như ở nước ta
đã cho thấy nơi nào có sự phát triển mạnh mẽ sức sản xuất xã hội và của các
quan hệ thị trường thì nơi đó nhu cầu làm ăn tập thể của người dân tăng lên và
mức độ hợp tác trong hoạt động kinh tế bền vững hơn. Bởi vậy, chúng ta
không thể thúc đẩy phát triển KTTT một cách tùy tiện, chủ quan duy ý chí
bằng mọi giá, mà nhất thiết phải tuân theo quy luật khách quan, phải dựa vào
trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và kinh tế thị trường. Phải coi
đây là giải pháp có tính cơ bản, lâu dài không chỉ ở NT mà cả ở các thành thị
trong toàn tỉnh và trong cả nước.
Những giải pháp cần thiết là:
- Thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất xã hội thông qua con đường
đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Mục tiêu của giải pháp này là tạo ra sức sản xuất mới thúc đẩy phân
công lao động xã hội không chỉ ở NT mà cả ở thành thị làm điều kiện tiền đề
cho phát triển KTTT. Nội dung của giải pháp là tập trung các nguồn lực để
đổi mới và nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ của các ngành, lĩnh vực
kinh tế đi liền với thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và
hiệu quả. Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này, cần phải tính đến đặc điểm
của nước phát triển muộn về công nghiệp để khai thác triệt để “lợi thế của
133
nước đi sau”. Trong vấn đề này, P.A.Samuelson - nhà kinh tế học nổi tiếng ở
Mỹ, có nêu chỉ dẫn rất quan trọng: “Các nước đang phát triển có một lợi thế
tiềm tàng. Họ có thể hy vọng có lợi qua việc dựa vào kỹ năng, kỹ thuật của
những nước tiến tiến hơn; họ không cần phải tìm ra Newton chưa đẻ để phát
hiện ra quy luật trọng trường; họ có thể đọc về quy luật đó ở bất cứ cuốn sách
vật lý nào; họ không cần phải trải qua những giai đoạn quanh co, chậm chạp
của cách mạng công nghiệp, họ có thể tìm thấy trong bất cứ cuốn liệt kê máy
móc nào những điều thần kỳ mà các nhà phát minh lớn xưa kia không hề mơ
tưởng” [66, tr. 586]. Bằng con đường này, chúng ta có thể rút ngắn đáng kể
thời gian để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Bên cạnh đó, cần có giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên phạm vi toàn tỉnh, cả ở thành thị và NT. Cần nhận thức rằng,
mỗi sự phát triển của các ngành kinh tế ở thành thị đều kéo theo và thúc đẩy
phát triển các ngành kinh tế ở NT. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải theo
hướng hợp lý, hiện đại và có hiệu quả, phải phát huy được điều kiện và lợi thế
mỗi vùng, mỗi địa phương trong tỉnh trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định.
Trong điều kiện hiện nay, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế NT ở tỉnh Quảng
Ngãi không thể không tính đến yêu cầu tái cơ cấu kinh tế theo hướng chuyển
mạnh sang phát triển chiều sâu, coi trọng chất lượng, hiệu quả và phát triển
bền vững; đồng thời phải tính đến tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất trong
tỉnh, trong nước, khu vực và toàn cầu đáp ứng yêu cầu tham gia có hiệu quả
trong các cam kết thương mại tự do của Việt Nam.
Trong khu vực NT, việc nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất còn
được thể hiện ở sư phát triển của các yếu tố cấu thành nó, trong đó phát triển
“điện, đường, trường, trạm” hay kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong các
chương trình mục tiêu xây dựng NTM cũng có vai trò rất quan trọng để thúc
đẩy phát triển KTTT.
Một trong những yêu cầu cấp thiết nhất để thúc đẩy phát triển lực lượng
134
sản xuất, đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Quảng Ngãi hiện nay là phát triển
nguồn nhân lực nhất là nhân lực chất lượng cao và phát triển KH&CN, tạo
yếu tố nội sinh để phát triển.
- Thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước
Mục tiêu của giải pháp nhằm phát triển các quan hệ kinh tế dựa trên
nguyên tắc thị trường. Thông qua đó mà phát huy tính tự chủ, tính năng động
sáng tạo của các đơn vị kinh tế trong tìm kiếm lợi thế sản xuất kinh doanh để
tồn tại và phát triển, thúc đẩy cạnh tranh. Trên cơ sở đó mà các hộ kinh tế, các
chủ cá thể và các tác nhân kinh tế khác phải tìm đến con đường liên kết, hợp
tác với nhau làm ra đời và phát triển các hình thức KTTT.
Đối với tỉnh Quảng Ngãi cũng như cả nước hiện nay, thì nội dung của
giải pháp là thực hiện nhất quán, lâu dài phát triển kinh tế nhiều thành phần
trên quan điểm các thành phần kinh tế tuân theo pháp luật đều có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển
đồng bộ các loại thị trường, kể cả các thị trường yếu tố sản xuất và thị trường
hàng hóa, dịch vụ, tạo quan hệ giao lưu thông thoáng giữa các khu vực NT,
giữa NT và thành thị, giữa trong và ngoài tỉnh, trong nước và quốc tế, bảo
đảm tiện lợi cho các chủ kinh tế. Bảo vệ cạnh tranh lành mạnh, kiên quyết
chống và loại trừ các hình thức độc quyền, chống sản xuất hàng giả, gian lận
thương mại... bảo đảm cho các chủ kinh tế thực sự được công bằng trong hoạt
động kinh tế của mình. Yêu cầu cấp thiết hiện nay trong thực hiện giải pháp
này là môi trường kinh tế và pháp lý phải đồng bộ, thuận lợi và minh bạch.
- Thúc đẩy quan hệ hợp tác, học hỏi kinh nghiệm bên ngoài
Giải pháp này không chỉ nhằm thu hút thêm nguồn lực về vốn, công nghệ
sản xuất từ ngoài tỉnh, ngoài nước cho phát triển KTTT, mà còn nhằm tìm kiếm
lợi thế của các đơn vị KTTT tỉnh Quảng Ngãi tham gia vào tạo thương hiệu sản
phẩm, phát triển thị trường và tham gia chuỗi giá trị sản xuất quốc tế, thúc đẩy
tăng trưởng kinh, tăng thu nhập. Ở nước ta hiện nay đã xuất hiện các hình thức
135
hợp tác, liên kết giữa THT, HTX ở NT trong nước với các doanh nghiệp, nhà
đầu tư nước ngoài để phát triển sản phẩm, phát triển thương hiệu và đã rất thành
công. Ví dụ, Hiệp hội sản xuất và kinh doanh bánh đa nem làng Chều, xã
Nguyên Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam với 52 hội viên đại diện cho trên 700
hộ, đã đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại nhằm nâng cao năng suất, chất lượng
với công suất trên 70 tấn bánh đa nem/ngày, dán nhãn hiệu tập thể tên bao bì sản
phẩm của làng, được bảo hộ để tránh tình trạng làm giả, làm nhái. Sản phẩm
bánh đa nem làng Chều đã được nhà đầu tư nước ngoài bao tiêu và hiện đang có
mặt ở các thị trường lớn như Mỹ, Châu Âu, Australian... [43].
Đã có nhiều sản phẩm của THT, HTX được tôn vinh có thương hiệu
mang tầm quốc gia như: Gạo nếp cái hoa vàng Phì Điền của HTX lúa nếp hoa
vàng Phì Điền và Mỳ chũ Xuân Trường của HTX sản xuất và tiêu thụ Mỳ chũ
Xuân Trường (Bắc Giang), Bưởi da xanh của THT sản xuất Bưởi da xanh
Thành Phước (Bến Tre), Quả Thanh Long ruột đỏ của HTX Dịch vụ Thanh
long hữu cơ Phú Hội (Bình Thuận), Lợn nạc siêu sạch của HTX chăn nuôi
Dịch vụ Tổng hợp Hòa Mỹ (Hà Nội),... Trong giai đoạn tới, tỉnh Quảng Ngãi
cần tham quan, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm của những đơn vị KTTT này
để thúc đẩy phát triển sức sản xuất của các THT và HTX trên địa bàn.
4.2.3. Giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý phát triển kinh tế tập thể trong xây dựng nông thôn mới
Quản lý phát triển KTTT là việc Nhà nước sử dụng chức năng của
mình để tạo môi trường thể chế và điều chỉnh các hoạt động của các đơn vị
KTTT theo mục tiêu đã lựa chọn. Trước yêu cầu phát triển KTTT trong xây
dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn tới, việc hoàn thiện quản lý của Nhà
nước là rất cần thiết để bảo đảm quá trình phát triển đúng hướng, tránh lãng
phí và có hiệu quả. Nội dung của giải pháp là:
- Hoàn thiện công tác dự báo và quy hoạch phát triển KTTT ở NT.
Tổ chức điều tra khảo sát và rà soát định hướng phát triển của tất cả các
136
cơ sở KTTT trên phạm vi toàn tỉnh để hướng đến xây dựng Đề án dành riêng
cho THT, HTX, liên hiệp HTX ở khu vực NT gắn với xây dựng NTM từ cấp
tỉnh đến cấp huyện. Đây là việc làm rất cần thiết để có căn cứ tập trung giải
pháp và nguồn lực phát triển. Nội dung của Đề án phải giải quyết được nhiều
vấn đề thực tiễn đang đặt ra trong phát triển KTTT và đặc biệt phải giải quyết
dứt điểm các vấn đề tồn tại của những đơn vị/ cơ sở KTTT trong quá trình
chuyển đổi từ mô hình cũ sang mô hình mới, hoạt động theo Luật HTX 2012.
Phải gắn nội dung và tiến trình thực hiện Đề án với Chương trình xây dựng
NTM và với quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn phát
triển mô hình KTTT kiểu mới theo Luật HTX 2012.
Đến nay, việc phát triển KTTT đã được điểu chỉnh theo quy định mới
trong Luật HTX năm 2012 và đã có một số quy định về chế độ kiểm toán, kế
toán HTX, liên hiệp HTX, về tăng vốn điều lệ cho Quỹ hỗ trợ phát triển HTX
để thực hiện bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất đối với HTX, liên hiệp
HTX... từ Trung ương và đã bước đầu triển khai thực hiện ở các địa phương.
Tuy nhiên, khung pháp lý và hệ thống chính sách hỗ trợ phát triển KTTT
chưa phù hợp và thiếu tính đồng bộ và nhận thức của các ban, ngành về
KTTT còn yếu kém, chính sách hỗ trợ chưa coi trọng.
Trong giai đoạn tới, các cấp ban, ngành của tỉnh và huyện có liên quan
cần rà soát để điều chỉnh, bổ sung các quy định hiện hành liên quan đến tổ
chức và hoạt động của KTTT cho phù hợp với các văn bản quy phạm pháp
luật mới của Nhà nước đồng thời chú ý sự phù hợp với điều kiện thực tế của
địa phương; tiến hành phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn rộng rãi để cán bộ
và người dân hiểu và thực hiện.
Nghiên cứu để đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển các mô hình
HTX, THT kiểu mới hoạt động gắn với các chuỗi giá trị nông sản an toàn và
có chất lượng cao, mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản giữa doanh
137
nghiệp với nông dân thông qua HTX, THT và xây dựng cánh đồng lớn, đặc
biệt ở các địa phương, vùng, miền NN hàng hóa phát triển để tiến tới ban
hành chính sách thúc đẩy phát triển...
- Nâng cao vai trò của của Liên minh HTX tỉnh trong phát triển KTTT
Thời gian qua, Liên minh HTX tỉnh Quảng Ngãi đã có nhiều đổi mới
về tổ chức và hoạt động đã thể hiện rõ vai trò là tổ chức kinh tế - xã hội, có
chức năng đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các THT, HTX và
thành viên; tuyên truyền, vận động phát triển KTTT; hỗ trợ tư vấn, cung cấp
dịch vụ cho THT, HTX và thành viên; tham gia xây dựng chính sách, pháp
luật có liên quan đến KTTT; đại diện cho các đơn vị KTTT trong quan hệ
phối hợp hoạt động, vận động, hướng dẫn các hộ kinh tế cá thể, tiểu chủ, các
cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ và vừa, các cá nhân phát triển KTTT trên
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ, góp phần
thúc đẩy phát triển KTTT.
Tuy nhiên, hoạt động của Liên minh HTX tỉnh vẫn bộc lộ những khó
khăn, hạn chế cần được khắc phục. Hoạt động hỗ trợ, tư vấn, dịch vụ chưa
đáp ứng được đòi hỏi bức xúc hiện nay của KTTT nói chung và ở NT nói
riêng, nhất là hỗ trợ về vốn, thông tin thị trường, tổ chức tiêu thụ sản phẩm,
KH&CN, các dịch vụ tư vấn pháp lý, kế toán kiểm toán...
Để thúc đẩy phát triển KTTT trong xây dựng NTM của tỉnh giai đoạn
tới đạt mục tiêu đề ra, cần củng cố và nâng cao vai trò của Liên minh HTX
tỉnh bằng những giải pháp:
Tập trung củng cố tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Liên
minh HTX tỉnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới lề lối làm việc
phù hợp với yêu cầu, tính chất của tổ chức Liên minh HTX giai đoạn mới.
Trên cơ sở đó, nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn và hỗ trợ HTX và các
thành viên, đảm bảo năng lực để làm tròn vai trò của tổ chức đại diện và bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các HTX và các tổ chức thành viên.
138
Nâng cao năng lực và tính chủ động làm tốt công tác tham mưu cho
Tỉnh ủy, UBND tỉnh trong lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và thực hiện Nghị
quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước và của tỉnh để nâng cao nhận thức
của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, đồng thời tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, phát huy vai trò của các tổ
chức, đoàn thể nhân dân về củng cố, vận động phát triển KTTT gắn với xây
dựng NTM trên địa bàn tỉnh.
Tranh thủ tối đa các nguồn lực từ Trung ương, địa phương và các tổ
chức tài trợ trong và ngoài nước để hỗ trợ ngày càng nhiều cho các thành
viên; tăng cường sự gắn kết, liên hệ chặt chẽ với các HTX, doanh nghiệp
thành viên; đẩy mạnh công tác thông tin hai chiều giữa Liên minh HTX tỉnh
với các thành viên. Phát huy vai trò tổ chức dịch vụ công để nhằm đẩy mạnh
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý cho HTX và dạy nghề cho xã
viên; cung cấp thông tin thị trường và các hoạt động hỗ trợ tiếp thị cho các
HTX và các thành viên; tư vấn pháp luật và các dịch vụ hỗ trợ khác (tín dụng,
tư vấn KH&CN, thị trường…).
- Hoàn thiện công tác tổ chức
Để thực hiện nội dung này, các cấp chính quyền phải giao nhiệm vụ cụ
thể về hành chính công cho các cơ quan, ban ngành có liên quan đến KTTT từ
tỉnh xuống huyện, xã. Thực tế thời gian qua, các sở, ngành liên quan, UBND
các huyện tuy có cán bộ theo dõi KTTT, nhưng phần nhiều là kiêm nhiệm,
nên việc tham mưu trong công tác quản lý Nhà nước về KTTT chưa kịp thời,
chưa quan tâm lồng ghép các Chương trình, mục tiêu nhất là khi đã có
Chương trình xây dựng NTM với củng cố và phát triển KTTT. Để khắc phục
tình trạng này, trong giai đoạn tới, cần bố trí cán bộ chuyên trách thật sự có
năng lực chuyên môn, kỹ thuật và năng lực quản lý về KTTT để làm tốt chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các THT, HTX, liên hiệp HTX ở
NT. Phải tăng cường trách nhiệm chính trị của các cấp ủy đảng, chính quyền,
139
cán bộ trong chỉ đạo, tổ chức công tác phát triển KTTT trong xây dựng NTM.
Thực tế cho thấy, địa phương nào, cấp ủy Đảng, chính quyền thường xuyên
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, làm tốt công tác tổ chức bố trí cán bộ, hỗ trợ cho
KTTT, thì nơi đó phong trào KTTT phát triển bền vững hơn.
4.2.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị kinh tế tập
thể ở nông thôn
Hiệu quả hoạt động của đơn vị KTTT là chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá
năng lực nội sinh của hình thức kinh tế này, đồng thời nó cũng là một tiêu
thức để xác định có nên phát triển đơn vị KTTT đó hay không. Thực tế đã
chứng minh, một đơn vị KTTT hoạt động càng có hiệu quả thì càng có điều
kiện đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Giải pháp tổng thể cần được quan tâm ở tỉnh Quảng Ngãi hiện nay là
tập trung thực hiện Quyết định số 04/2014/QĐ-UBND ngày 13/01/2014 của
UBND tỉnh về phê duyệt Đề án củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt
động của các tổ chức HTX định hướng đến năm 2020 và các giải pháp được
đề xuất trong Báo cáo số 13/BC-UBND ngày 01/7/2015 của UBND tỉnh về
tình hình phát triển KTTT giai đoạn 2011-2015 và kế hoạch phát triển KTTT
5 năm 2016-2020 vận dụng vào phát triển KTTT ở khu vực NT.
Trong giai đoạn tới, cần:
- Tuân thủ và bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của KTTT
đã được ban hành trong Luật HTX năm 2012 (Các nguyên tắc này đã được
nêu ở 2.1.2.1) trong toàn bộ quá trình phát triển [64].
- Củng cố các HTX hiện có trên cơ sở Luật HTX năm 2012. Xác định
lại tư cách thành viên trong HTX, xoá bỏ tình trạng xã viên HTX kiểu cũ khi
chuyển đổi đương nhiên là xã viên HTX mới hoặc con trong gia đình tách hộ
cũng đương nhiên là xã viên HTX kiểu mới. Thành viên phải thực hiện đầy
đủ các nghĩa vụ và quyền lợi theo quy định điều lệ HTX. Tập trung giải quyết
những tồn tại kéo dài của HTX như đất đai, nợ tồn đọng. Kiên quyết thu hồi
140
các khoản nợ của HTX kể cả những khoản xã viên đã nợ HTX từ trước khi
chuyển đổi. Có phương án giải quyết dứt điểm các khoản nợ tồn đọng kéo dài
và nợ khó đòi. Kiên quyết giải thể những HTX không thể củng cố được. Hợp
nhất, sáp nhập các HTX nông nghiệp với quy mô phù hợp.
- Tạo thuận lợi để thành lập mới HTX ở một số lĩnh vực, như quỹ tín
dụng nhân dân ở nơi chưa có hoặc thiếu nhưng có nhu cầu trên nguyên tắc
bảo đảm an toàn, hiệu quả; thành lập mới các HTX ở các khu kinh tế, khu
công nghiệp góp phần giải quyết lao động mất việc làm do phải nhường đất
cho khu kinh tế, khu công nghiệp; phát triển HTX ở một số lĩnh vực như chợ,
môi trường, dịch vụ tổng hợp, lâm nghiệp, ở các huyện miền núi và huyện Lý
Sơn; phát triển các HTX đánh bắt hải sản xa bờ theo Đề án của tỉnh. Đa dạng
hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh của HTX theo hướng chuyển mạnh
sang mô hình kinh doanh tổng hợp đa ngành và dịch vụ tổng hợp gắn với địa
bàn NT. Xây dựng mô hình HTX tiên tiến để phổ biến, nhân rộng.
- Tăng cường năng lực tổ chức, điều hành, hoạt động, kinh doanh của
ban quản trị và người quản lý THT, HTX. Kích thích việc nâng cao năng lực
không chỉ về chuyên môn mà còn cả về tâm lực, có tâm huyết, gắn bó với
KTTT của đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt quản lý HTX. Đồng thời,
quan tâm đến việc thường xuyên nâng cao trình độ tay nghề cho thành viên
giúp họ nắm được kiến thức, quy trình làm ra những sản phẩm mới theo nhu
cầu của thị trường. Kích thích cạnh tranh trong cơ chế thị trường để các THT,
HTX tự vươn lên, có đóng góp tác động tích cực đối với phát triển của kinh tế
hộ thành viên và xây dựng NTM. Thực tế cho thấy nơi nào các THT và HTX
chủ động vươn lên, khẳng định vị trí, vai trò, phát huy được nội lực của chính
mình, vượt mọi khó khăn, thử thách, tập trung được nguồn lực và năng động
trong tổ chức quản lý lựa chọn và quyết định việc sản xuất kinh doanh, thì nơi
đó phong trào KTTT phát triển mạnh mẽ và vững chắc hơn.
141
4.2.5. Giải pháp hỗ trợ, ưu đãi phát triển kinh tế tập thể trong xây
dựng nông thôn mới Như 2.2.3 đã xác định sự hỗ trợ không phải là yếu tố nội sinh quyết
định sự phát triển của KTTT, nhưng nó là tiền đề quan trọng, có thể tạo “cú
huých” để phá vỡ sự trì trệ, khơi dậy động lực tự vươn lên, thúc đẩy phát
triển. Điều 6 Luật HTX 2012 quy định 12 nhóm chính sách hỗ trợ đối với
KTTT cụ thể là đối với HTX, liên hiệp HTX: hỗ trợ về đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực; về xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường; ứg dụng KH, kỹ
thuật và CN mới; tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển HTX; hỗ trợ tạo điều
kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã
hội và hỗ trợ thành lập mới HTX, liên hiệp HTX. Bên cạnh đó, Nhà nước còn
áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác
theo quy định của pháp luật về thuế; ưu đãi lệ phí đăng ký HTX, liên hiệp
HTX theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí. Ngoài ra, còn có chính
sách ưu đãi riêng đối với các HTX hoạt động trong khu vực NT về đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng; giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động theo
quy định của pháp luật về đất đai; ưu đãi về tín dụng, về vốn, giống khi gặp
khó khăn do thiên tai, dịch bệnh; ưu đãi trong chế biến sản phẩm. Theo đó,
Chính phủ đã ban hành quy định chi tiết căn cứ vào lĩnh vực, địa bàn, điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ của đất nước và trình độ
phát triển của KTTT trong Nghị định 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013.
Trong giai đoạn tới, bên cạnh việc thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các
chính sách hỗ trợ, ưu đãi KTTT do Trung ương ban hành, tỉnh Quảng Ngãi
cần có các giải pháp chi tiết, cụ thể về hỗ trợ và ưu đãi phát triển KTTT trong
xây dựng NTM phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng hiện có của địa
phương. Cần tập trung vào:
- Hỗ trợ về tài chính, tín dụng
Mục tiêu của hỗ trợ là tạo nguồn vốn cần thiết cho hoạt động của các
đơn vị KTTT. Trên cơ sở chính sách của Nhà nước, cần thành lập Quỹ hỗ trợ
142
phát triển HTX của tỉnh có sự quản lý, tư vấn của Liên minh HTX tỉnh để kịp
thời trợ giúp HTX và các thành viên HTX có vốn để hoạt động và phát triển
sản xuất, kinh doanh như để mua giống, vật tư và các yếu tố sản xuất khác
cũng như để đối phó với những rủi ro có thể xảy ra, nhất là trong sản xuất của
HTX nông nghiệp do tác động bởi thiên tai, dịch bệnh. Nghiên cứu để phát
triển Quỹ hoạt động không vì lợi nhuận theo nguyên tắc hoạt động bảo toàn
vốn và bù đắp chi phí quản lý để hỗ trợ phát triển KTTT. Nguồn quỹ này hiện
mới được UBND tỉnh quan tâm giải quyết, cần được phát huy trong thời gian
tới. Tất nhiên, để có được hỗ trợ từ nguồn quỹ này, các đơn vị KTTT phải có
dự án, phương án đầu tư khả thi được ngân hàng chấp thuận cho vay. Mức hỗ
trợ cụ thể của Quỹ này đối với các đơn vị KTTT cũng phải được quy định vừa
nhằm hỗ trợ tạo thuận lợi cho HTX có vốn hoạt động vừa để bảo toàn, tránh
rủi ro và duy trì lâu dài nguồn vốn.
- Hỗ trợ về đầu tư
Mục tiêu của hỗ trợ là tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, giảm thiểu
đầu tư từ nguồn vốn của đơn vị KTTT, qua đó tăng hiệu quả hoạt động của
đơn vị. Theo mục tiêu này, ngân sách của tỉnh hỗ trợ những HTX có đầu tư cơ
giới hóa vào nông nghiệp như máy làm đất, máy thu hoạch, hệ thống sấy, bảo
quản sản phẩm và các phương tiện, thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh. Hỗ
trợ những dự án trang bị phương tiện, công cụ lao động của HTX tiếp nhận
giải quyết việc làm cho những người lao động ở các khu kinh tế, khu công
nghiệp, đô thị mới do nhường đất sản xuất, những HTX tiếp nhận, giải quyết
việc làm cho người khuyết tật. Đối tượng hỗ trợ, mức hỗ trợ và thời gian hỗ
trợ phải được cụ thể, đúng chính sách, công khai, minh bạch, tránh tràn lan
trên quan điểm tạo “cú huých”, khơi dậy ý thức tự lực vươn lên của HTX và
xã viên, không tạo ra sự trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước.
- Hỗ trợ về KH, CN, khuyến công - nông - thương và chương trình hỗ
trợ phát triển KTTT
Mục tiêu của hỗ trợ là làm tăng tiềm lực và sức cạnh tranh của đơn vị
143
KTTT. Theo mục tiêu này, hằng năm, cần dành một nguồn kinh phí cần thiết
từ ngân sách tỉnh để hỗ trợ trực tiếp cho đơn vị KTTT trong việc ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật, CN mới nhất là CN sinh học, giống cây trồng, vật nuôi, chế
biến, bảo quản nông thủy sản sau thu hoạch phục vụ phát triển sản xuất; ứng
dụng CN thông tin; nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu sản phẩm;
học tập thực tế các mô hình quản lý, mô hình làm ăn có hiệu quả; hỗ trợ để
HTX có điều kiện tham gia hội chợ, triển lãm, tìm kiếm thị trường, quảng bá
thương hiệu. Hỗ trợ đối với các HTX được thành lập theo Đề án xây dựng và
phát triển HTX dịch vụ và khai thác hải sản xa bờ. Đối tượng hỗ trợ, mức hỗ
trợ, thời gian hỗ trợ phải căn cứ vào nhu cầu khả thi và điều kiện hiện có của
chính quyền các cấp.
- Hỗ trợ về xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường
Nhà nước hỗ trợ HTX, liên hiệp HTX tham gia các triển lãm trong và
ngoài nước; tổ chức các hội chợ, triển lãm dành riêng cho hình thức KTTT;
xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, xuất xứ hàng hóa, xây dựng và triển khai
cổng thông tin điện tử, sàn giao dịch thương mại điện tử cho các HTX, liên
hiệp HTX; hỗ trợ về thông tin thị trường và công tác tiếp thị.
- Hỗ trợ về phát triển đội ngũ cán bộ và thu hút nguồn nhân lực
Mục tiêu là nâng cao năng lực quản lý và trình độ chuyên môn kỹ thuật
để có thêm nội lực phát triển đơn vị KTTT. Trên cơ sở quy chuẩn các chức
danh quản lý đơn vị KTTT như hội đồng quản trị, ban giám đốc, ban kiểm
soát, kế toán để Nhà nước hỗ trợ về đào tạo. Cần thiết, Nhà nước có thể tăng
cường cán bộ quản lý, kỹ thuật viên chức có thời hạn về làm việc tại HTX. Hỗ
trợ HTX trong việc thu hút nhân lực chất lượng cao phù hợp với ngành nghề
và cần thiết để họ trở về làm việc và gắn bó lâu dài với HTX. Đối tượng hỗ
trợ và mức hỗ trợ cụ thể phải theo quy định và nguồn lực có thể bảo đảm của
chính quyền nhà nước các cấp trên quan điểm tạo động lực để thu hút và phát
triển nhân lực tại các đơn vị KTTT ở NT.
- Ưu tiên hỗ trợ đối với những đơn vị KTTT thực hiện các dự án sản
144
xuất, kinh doanh, dịch vụ đóng góp trực tiếp vào xây dựng NTM
Đối với các đơn vị KTTT có đủ năng lực được ưu tiên tham gia các
chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội như xây dựng
kết cấu hạ tầng trên địa bàn NT và quản lý các công trình sau khi hoàn thành,
kể cả các công trình chợ và công trình hạ tầng phục vụ phát triển cụm công
nghiệp và cụm làng nghề ở nông thôn; các dự án, chương trình phát triển kinh
tế - xã hội khác ở NT phù hợp với khả năng của mình thì cần được xem xét hỗ
trợ. Đồng thời, hỗ trợ các địa phương và các HTX thực hiện các dự án sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ góp phần phát triển các thương hiệu nông sản, thực
phẩm mang tính đặc thù của tỉnh như sản xuất hành, tỏi ở huyện Lý Sơn; sản
phẩm từ cây quế ở huyện Trà Bồng; cá bống sông Trà; đường, kẹo đặc sản...
Nội dung và mức hỗ trợ được quy định dựa vào quy hoạch phát triển và ngân
sách thực tế của tỉnh, huyện.
Ngoài ra, chính quyền các cấp cần có những hỗ trợ để cơ cấu lại HTX
theo mô hình mới như tuyên truyền, kiểm kê, quyết toán, đại hội thành viên, xây
dựng các phương án và các khoản chi phí có liên quan đến hoạt động giải thể,
hợp nhất hoặc sáp nhập HTX.
Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển hợp tác quốc tế về
KTTT, chủ động tìm kiếm đối tác, các tổ chức tài trợ nước ngoài để hỗ trợ
KTTT trong quá trình đổi mới, củng cổ, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt
động. Tranh thủ sự hỗ trợ, giúp đỡ thiết thực, có hiệu quả của các tổ chức đại
điện HTX của một số nước trên thế giới để tìm nguồn tài trợ kể cả tài trợ về tổ
chức, quản lý cho quá trình phát triển KTTT trong xây dựng NTM ở tỉnh Quảng
Ngãi giai đoạn tới. Phải coi sự hỗ trợ, giúp đỡ quốc tế có tầm quan trọng cho
việc phát triển nhanh và thực hiện các bước phát triển rút ngắn.
- Chính sách ưu đãi đất đai Ưu đãi về đất đai đối với KTTT hoạt động trong lĩnh vực NN là rất
quan trọng, có tác động lớn đến sự phát triển của các THT, HTX với thành
viên là nông dân, góp phần nâng cao đời sống cho thành viên, đặc biệt là ở
145
khu vực NT. Bởi vậy, cuối năm 2013, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề xuất
chính sách giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động trong lĩnh vực NN của
HTX, liên hiệp HTX. Chính sách ưu đãi được cụ thể: miễn tiền sử dụng đất
hoặc tiền thuê đất khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự
án xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của cộng
đồng thành viên KTTT nếu dự án được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Miễn nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất khi thực hiện dự án đầu tư nhằm
phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh cho cộng đồng thành viên HTX, liên
hiệp HTX đối với dự án nằm trong quy hoạch. Áp dụng mức giá thấp nhất của
loại đất tương ứng trong bảng giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quy định đối với dự án ưu đãi đầu tư, khuyến khích đầu tư nếu
thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước. HTX, liên hiệp HTX được nhà nước
hỗ trợ tối đa 80% tiền thuê đất, thuê mặt nước theo mức giá quy định của nhà
nước đối với dự án ưu đãi hoặc khuyến khích đầu tư. Thiết nghĩ, đây là một
giải pháp rất cần được tỉnh Quảng Ngãi nghiên cứu, áp dụng nhằm hỗ trợ các
THT và HTX khi các nguồn lực sản xuất của họ trong NN và NT ở một tỉnh
miền Trung đang còn rất nhiều khó khăn.
Cần huy động các lực lượng xã hội, các tổ chức đoàn thể trong nước và
quốc tế tham gia thúc đẩy phát triển KTTT. Đẩy mạnh các hoạt động tham gia,
phối hợp giữa các tổ chức đoàn thể nhân dân, hội, hiệp hội trên địa bàn tỉnh,
huyện... với các đơn vị quản lý và Liên minh HTX tỉnh trong việc xây dựng và
thực hiện cơ chế, chính sách, tuyên truyền vận động các hội viên tham gia phát
triển KTTT, tìm giải pháp cần thiết gắn với đặc thù hoạt động của tổ chức, gắn
với các Chương trình xây dựng NTM một cách thiết thực.
Trên đây là các giải pháp chủ yếu để thúc đẩy phát triển KTTT trong xây
dựng NTM ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn tới. Các giải pháp này có quan hệ gắn
bó với nhau. Việc tổ chức, triển khai thực hiện các giải pháp là phải đồng bộ.
Bên cạnh phải phát huy tính tích cực, sáng tạo của người dân NT, cần phải có sự
146
vào cuộc quyết liệt của các cấp ủy Đảng và chính quyền. Phải tăng cường trách
nhiệm của hệ thống chính trị đối với toàn bộ quá trình phát triển KTTT trong xây
dựng NTM. Đặc biệt, phải tăng cường tính thống nhất về tư tưởng, tính tiên
phong, gương mẫu trong lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và phải coi đây là điều
kiện có tính tiên quyết cho việc thực hiện thành công các giải pháp.
147
KẾT LUẬN
KTTT là một hình tổ chức kinh tế phổ biến trên thế giới trong khoảng
200 năm lại đây. Ở Việt Nam, hình thức kinh tế này đã trải qua quá trình phát
triển 70 năm, trở thành một thành phần kinh tế được Đảng và Nhà nước xác
định cùng với các thành phần kinh tế khác có vai trò quan trọng trong phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu và thực tiễn trên thế giới cho thấy,
sự ra đời và phát triển của KTTT là tất yếu khách quan do lực lượng sản xuất
và kinh tế thị trường đã đạt tới một trình độ phát triển nhất định. KTTT đã từng
tồn tại ở nhiều hình thức từ thấp đến cao, như THT, HTX, Liên hiệp HTX và
liên minh HTX. So với kinh tế cá thể và tiểu chủ, KTTT có nhiều ưu điểm
hơn cả về quy mô, hiệu quả kinh tế, lợi ích xã hội và phát triển cộng đồng.
KTTT là một quan hệ kinh tế trong đó người lao động, hộ gia đình, pháp nhân
hình thành các mối liên kết, tương trợ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh, tạo
việc làm, tạo của cải đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. KTTT được
thành lập và hoạt động theo những nguyên tắc thành lập và hoạt động của
HTX. Ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của KTTT được phát triển theo những
tiến bộ của lực lượng sản xuất và nhu cầu của các thành viên.
Trong xu thế hiện nay, phát triển KTTT không chỉ là sự tăng tiến về
kinh tế, mà còn nhằm phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Nó hướng đến
phát triển bền vững, nhất là ở khu vực NT. Ở Việt Nam, phát triển KTTT
được đặt trong nội dung và là một tiêu chí xây dựng NTM. Phát triển KTTT
không chỉ tạo ra điều kiện vật chất, kinh tế mà còn góp phần thúc đẩy các
quan hệ xã hội, cộng đồng văn hóa tiến bộ và bảo vệ môi trường ở NT. Những
thành tựu của xây dựng NTM lại tạo ra nhu cầu và điều kiện tốt hơn cho phát
triển các hình thức KTTT.
Nội dung phát triển KTTT trong xây dựng NTM bao gồm đa dạng về
hình thức và đa sở hữu với nhiều quy mô, trình độ, liên kết KTTT với các chủ
148
kinh tế bên ngoài; gắn kết hài hòa giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội
và môi trường trong quá trình phát triển. Điều kiện để phát triển KTTT trong
xây dựng NTM là trình độ nhận thức về vai trò của KTTT trong xây dựng
NTM phải được nâng cao; các giá trị và nguyên tắc cơ bản của KTTT phải được
tuân thủ; môi trường thể chế và tâm lý xã hội phải thuận tiện; có sự hỗ trợ cần
thiết của Nhà nước; mức độ và kết quả của việc xây dựng NTM.
Trên cơ sở lý luận, tham khảo kinh nghiệm của Ấn Độ và một số tỉnh
trong nước, đối chiếu với thực tiễn ở tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn từ năm 2011
đến nay cho thấy việc phát triển KTTT trong xây dựng NTM của tỉnh đã đạt
được những kết quả tích cực thể hiện sự thành công trong nhận thức và vận
dụng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước của các cấp chính quyền
địa phương. Đã xuất hiện một số điển hình KTTT trong xây dựng NTM có thể
được nhân rộng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, trước yêu cầu thúc đẩy xây dựng
NTM, việc phát triển KTTT ở tỉnh Quảng Ngãi còn không ít những trở lực.
Trong giai đoạn tới, yêu cầu xây dựng NTM phải quyết liệt, tích cực
hơn rất nhiều. Việc phát triển KTTT cần thống nhất về quan điểm, phương
hướng và phải có giải pháp thiết thực. Phát triển KTTT phải được đặt trong
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội
nhập quốc tế, tự do hóa thương mại và phải có sự hỗ trợ của Nhà nước; coi
trọng phát triển kinh tế hộ và hiệu quả kinh tế; kiên quyết chuyển đổi HTX
kiểu cũ và phát triển HTX mới; phát triển KTTT phải đảm bảo tính vững
chắc, thiết thực gắn với các tiêu chí NTM. Phải thực hiện đồng bộ các giải
pháp: nâng cao nhận thức về KTTT trong xây dựng NTM; tạo điều kiện, tiền đề
kinh tế - xã hội cần thiết cho phát triển KTTT ở NT; hoàn thiện công tác quản
lý; nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị KTTT; thực hiện đầy đủ, kịp thời
chính sách hỗ trợ, ưu đãi KTTT trong xây dựng NTM./.
149
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phan Văn Hiếu (2011), Phát triển bền vững các hợp tác xã ở tỉnh Quảng
Ngãi, Tạp chí Khoa học - Xã hội miền Trung (3), tr 25-36.
2. Phan Văn Hiếu (2013), Phát triển hợp tác xã NN kiểu mới trong NN, NT -
giải pháp xây dựng NT mới ở tỉnh Quảng Ngãi, Tạp chí Khoa học - Xã hội
miền Trung (3), tr 19-27.
3. Phan Văn Hiếu (2016), Kết quả và một số kinh nghiệm từ mô hình Hợp
tác xã dịch vụ NN - NT Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Tạp
chí Giáo dục lý luận (242), tr 154-156.
4. Phan Văn Hiếu (2016), Giải pháp để Hợp tác xã kiểu mới phát triển bền
vững tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính kỳ 2 - Tháng 05/2016 (633), tr 103.
5. Phan Văn Hiếu (2016), Hợp tác xã kiểu mới: giải pháp đột phá phát triển
NN Việt Nam hiện nay, Tạp chí Tài chính kỳ 1 - Tháng 6/2016 (634), tr 55.
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn An, Hà Nội đẩy mạnh phát triển các mô hình hợp tác xã chăn
nuôi, http://www.mpi.gov.vn/, Cập nhật ngày 22/10/2013. Và Hỗ trợ
các hợp tác xã để phát triển chăn nuôi, http://www.vca.org.vn/, Cập
nhật ngày 02/4/2015.
2. Ban Chấp hành Trung ương, Ban Kinh tế số 137-BC/BKTW (9/2015), Báo
cáo sơ kết 3 năm thực hiện Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị về
đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, Khóa IX về tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Hà Nội.
3. Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới, Văn phòng điều phối (9/2011), Tài liệu đào tạo tiểu giáo viên
(TOT) phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới,
Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Bích (chủ nhiệm) (2000), Lý luận, chính sách và giải pháp
đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác, Đề tài nhánh 03-03, thuộc Chương
trình KHXH 03, "Xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và thực hiện công bằng xã hội", Hà Nội.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Vụ Hợp tác xã (2012), Tư tưởng hợp tác xã: kinh
nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Tài liệu tập huấn Luật Hợp tác xã năm
2012, Hà Nội.
7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2010), Sổ tay xây dựng và phát
triển Tổ hợp tác, Hà Nội.
8. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2014), nông nghiệp, nông dân,
nông thôn, Thường trực Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng NT mới, Hà Nội.
151
9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 2477/TB-BNN-VP (2016),
Thông báo Kết luận của Bộ Trưởng Cao Đức Phát tại Hội nghị sơ kết
3 năm thực hiện Luật Hợp tác xã và nhiệm vụ, giải pháp phát triển
kinh tế hợp tác năm 2016 trong lĩnh vực NN, Hà Nội.
10. Bộ Tài chính, số 83/2015/TT-BTC (2015), Thông tư Hướng dẫn chế độ
quản lý tài chính đối với hợp tác xã, Hà Nội.
11. Cần sớm hoàn thiện Bộ tiêu chí NT mới cấp xã giai đoạn 2016-2020,
http://nongthonmoi.gov.vn, Cập nhật ngày 28/08/2016.
12. Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc và Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp tác
trong NN nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Chính phủ (2008), Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 của
Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng khóa X về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn, Hà Nội.
14. Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 Phê duyệt
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 -
2020, Hà Nội.
15. Chính phủ, số 193/2013/CP (2013), Nghị định Quy định chi tiết một số
điều của Luật Hợp tác xã, Hà Nội.
16. Chỉ thị 19/CT-TTg: Động lực mới phát triển kinh tế tập thể,
http://www.vca.org.vn/ Cập nhật ngày 25/7/ 2016.
17. Cục thống kê Quảng Ngãi (2015), Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi,
Nxb Thống kê, Quảng Ngãi.
18. Tô Xuân Dân, Lê Văn Viện, Đỗ Trọng Hùng (2013), Xây dựng NT mới ở
Việt Nam - Tầm nhìn mới, tổ chức quản lý mới, bước đi mới, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
19. Phạm Việt Dũng (2016), Phát triển hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác
xã năm 2012, http://www.tapchicongsan.org.vn/.
152
20. Phạm Bảo Dương (2015), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới,
phát triển hợp tác xã ở NT Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (10).
21. Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (2010), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVIII, http://baoquangngai.vn/, Cập nhật
ngày 06/12/2010.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, số 13-NQ/TW, ngày 18/3/2002 về
tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
5/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa X về NN, nông dân, NT, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Chính trị (2013), Kết luận số 56-KL/TW ngày
21/2/2013 về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về
tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (11/2015), Văn kiện
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XIX, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Địa chí Quảng Ngãi (2006), Nxb Khoa học, Hà Nội.
31. Hoàng Kim Giao (chủ nhiệm) (1997), Kinh tế hợp tác, một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Đề tài cấp bộ, Hội đồng Trung ương Liên minh các
HTX Việt Nam, Viện Kinh tế HTX chủ trì.
153
32. Chu Thị Hảo, NATO IMAGAWA (2003), Lý luận về Hợp tác xã - Quá
trình phát triển Hợp tác xã NN Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
33. Chu Thị Hảo (2006), Tổ hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
hiện tại và tương lai, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
34. Hồ Quế Hậu (2008), “Xây dựng mô hình liên kết giữa doanh nghiệp chế
biến với nông dân”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, (3).
35. Thanh Hiền (2016), “Kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống hợp tác xã Việt
Nam”, Báo Hà Nội mới, ngày 10/04/2016.
36. Nguyễn Trọng Hoài (chủ nhiệm) (2011), Giải pháp nâng cao hiệu quả HTX
gắn liền với xóa đói giảm nghèo tại Bến Tre, Đề tài khoa học cấp tỉnh.
37. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Tư tưởng
Hồ Chí Minh về hợp tác xã- những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tài liệu
Hội thảo khoa học quốc gia, Hà Nội.
38. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Quảng Ngãi (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo
cáo số liệu về hoạt động các nguồn tiết kiệm tại cơ sở hội, Quảng Ngãi.
39. Hội Nông dân tỉnh Quảng Ngãi (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo
tình hình hoạt động các tổ hơp tác/ câu lạc bộ trong sản xuất NN, NT
tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
40. HĐND tỉnh Quảng Ngãi (2016), Quyết định số 13/2016/NQ-HĐND ngày
15/7/2016 về quy định mức hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước để thực hiện
một số nội dung xây dựng NTM trên địa bàn và khen thưởng công
trình phúc lợi cho huyện, xã đạt chuẩn NTM giai đoạn 2016-2020,
Quảng Ngãi.
41. Lưu Đức Khải (2014), “Kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam: Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Trang tin điện tử tổng hợp Ban kinh tế
Trung ương, 12/2014.
42. John Maynard Keynes (1936), Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và
tiền tệ, Sách dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994.
154
43. Làng nghề Hà Nam xây dựng thương hiệu Bánh đa nem làng Chều,
http://www.moit.gov.vn/, Cập nhật ngày 09/01/2015.
44. Chử Văn Lâm (2005), Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể - vị trí và vai trò của
nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
Báo cáo tổng hợp đề tài KX.01.03, Chương trình khoa học cấp nhà nước
KX.01.
45. Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Trung tâm hỗ trợ phát triển HTX, doanh
nghiệp nhỏ và vừa Khu vực Miền trung Tây nguyên, Đề tài Khoa học
(2011), Tái cấu trúc hợp tác xã trong quá trình hội nhập - Cơ sở lý
luận và thực tiễn.
46. Liên minh hợp tác xã tỉnh Quảng Ngãi (12/2014), Báo cáo Tổng kết tình
hình kinh tế tập thể và hoạt động của Liên minh HTX tỉnh nhiệm kỳ 2009
-2014, phương hướng và nhiệm vụ nhiệm kỳ 2014 - 2019, Quảng Ngãi.
47. Liên minh hợp tác xã tỉnh Quảng Ngãi (12/2015), Báo cáo Tổng kết tình
hình kinh tế tập thể và hoạt động của Liên minh HTX năm 2015;
Phương hướng, nhiệm vụ năm 2016, Quảng Ngãi.
48. Liên minh hợp tác xã Việt Nam, số 155/LMHTXVN-CSPT (2016),
Hướng dẫn đánh giá Hợp tác xã kiểu mới hoạt động hiệu quả, Hà Nội.
49. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chi nhánh tỉnh Quảng Ngãi (2011, 2012,
2013, 2014, 2015), Tổng hơp tình hình hoạt động Quỹ tín dụng nhân
dân, Quảng Ngãi.
50. Lã Văn Lý (2006), “Tăng cường phối hợp xây dựng các hợp tác xã NN và
thực hiện liên kết 4 nhà”, Tạp chí NT mới, kỳ 1, tháng 7.
51. Đặng Ngọc Lợi (chủ nhiệm) (2010), Rào cản trong phát triển các HTX ở
Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Mã số: B.10-03, Hà Nội.
52. V.I.Lênin (1970), Toàn tập, tập 33, Nxb Sự thật, Hà Nội.
53. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
54. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 43, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
155
55. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
56. C.Mác và Ph. Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
57. C.Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 24, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
58. C.Mác và Ph. Ăngghen (1984), Tuyển tập, tập IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
59. C.Mác và Ph. Ăngghen (1984), Tuyển tập, tập VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
60. Hồ Chí Minh (1999), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Hồ Chí Minh (1999), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Hồ Chí Minh (1999), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (1999), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Nguyễn Thiện Nhân (2015), "Hợp tác xã kiểu mới: Giải pháp đột phá
phát triển NN Việt Nam", http://vietnamnet.vn/, 16/3/2015.
65. Nông dân bỏ ruộng, doanh nghiệp bí đất, http://www.tienphong.vn/Kinh-
Te/tich-tu-roi-van-run, 12/3/2016.
66. Paul A.Samuelson & W.D.Nordhaus (1989), Kinh tế học, Tập 2, Viện
Quan hệ quốc tế (dịch), Hà Nội
67. Vũ Văn Phúc (2012), Xây dựng NT mới - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Chu Tiến Quang, Lê Xuân Quỳ (2005), Tiếp tục đổi mới và phát triển
kinh tế hợp tác và HTX Việt Nam, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương, Hà Nội.
69. Chu Tiến Quang (2009), Kinh tế hộ gia đình ở NT Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
70. Quảng Ngãi: Hợp tác xã Bình dương đi đầu trong phát triển kinh tế tập
thể, http://wcag.mard.gov.vn/.
71. Quảng Ngãi qua 5 năm xây dựng nông thôn mới, Cổng thông tin UBND
tỉnh Quảng Ngãi, Cập nhật ngày 25/2/2016.
156
72. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật HTX,
số 18/2003/QH11, ngày 26/11/2003, Hà Nội.
73. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật HTX, số 23/2012/QH13, ngày 20/11/2012, Hà Nội.
74. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã (1999), Đổi mới tổ chức và quản lý các hợp tác xã trong NN, NT, Nxb NN, Hà Nội.
76. Sở KH&CN tỉnh Quảng Ngãi, Báo cáo tổng kết đề tài KH&CN (2015), Nghiên cứu những tác động biến đổi khí hậu đối với tỉnh Quảng Ngãi: các giải pháp thích ứng và ứng phó, Quảng Ngãi.
77. Sở KH&CN tỉnh Quảng Ngãi, Báo cáo tổng kết dự án tài KH&CN (2016),
Ứng dụng tiến bộ KH&CN nâng cao hiệu quả sản xuất lúa trên đất dồn
điền đổi thửa tại HTXNN Bình Dương, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi.
78. Tác phẩm Đường Kách mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
http://www.bqllang. gov.vn/chu-tich-ho-chi-minh/tac-pham/1009-h-p-
tac-xa.html, 01/2 /2013.
79. Phạm Thắng (2015), Phát triển KTTT, bảo đảm nền kinh tế phát triển bền
vững, http://www.tapchicongsan.org.vn/, 16/11/2015.
80. Diệp Kim Tấn (2008), “Một số định hướng và giải pháp phát triển hợp tác
xã NN”, Tạp chí Cộng sản điện tử, (6).
81. Tỉnh uỷ Quảng Ngãi (2011), Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 13/10/2011
Về phát triển NN, xây dựng NT mới tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 -
2015, định hướng đến năm 2020, Quảng Ngãi.
82. Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Kết luận số 30-KL/TU ngày 26/4/2016 của Hội nghị
Tỉnh ủy lần thứ 3 khóa XIX về phát triển NN, xây dựng NTM giai đoạn
2016-2020, Quảng Ngãi.
157
83. Hoàng Thọ, Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể tỉnh Sóc Trăng,
http://sokhdt.soctrang.gov.vn/.
84. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định 2261/QĐ-TTg Phê duyệt Chương
trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015 - 2020, Hà Nội.
85. Thủ tướng Chính phủ (2015), Chỉ thị 19/CT-TTg ngày 24/7/2015 Về việc
đẩy mạnh triển khai thi hành Luật Hợp tác xã, Hà Nội.
86. Tổ chức Nghiên cứu và Chuyển giao Công nghệ Pháp - GRET (2009),
Phong trào Hợp tác xã ở Việt Nam, AID-COOP.
87. Hà Triều, Chuyện làm ăn ở những hợp tác xã kiểu mới, Viện Khoa học kỹ
thuật NN miền Nam, http://iasvn.org/.
88. Minh Trí, Làn gió mới xây dựng nông thôn mới ở Quảng Ngãi,
http://www.quangngai.gov.vn/, Cập nhật ngày 11/7/2016.
89. Bùi Văn Trịnh (chủ nhiệm) (2009), Đề tài khoa học cấp tỉnh, Điều tra hiện trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm củng cố và phát triển nhân rộng các tổ chức hợp tác xã phù hợp với nguyện vọng của các thành viên cộng đồng tỉnh Hậu Giang, Hậu Giang.
90. Nguyễn Minh Tú (2006), “Phát triển hợp tác xã ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản, (16).
91. Nguyễn Minh Tú (2009), Xu thế mới của phát triển kinh tế tập thể: nhu cầu hoàn thiện luật pháp, chính sách, Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư, http://www.mpi.gov.vn, Cập nhật ngày 03/04/2009.
92. Nguyễn Minh Tú (2011), Mô hình tổ chức Hợp tác xã kiểu mới, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
93. UBND tỉnh Quảng Ngãi, Quyết định số 54/QĐ-UBND ngày 15/11/2007 của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc Phê duyệt Kế hoạch phát triển HTX NN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2007-2010 và định hướng đến năm 2015, Quảng Ngãi.
94. UBND huyện Bình Sơn (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo quyết toán doanh thu - nguồn vốn - tài sản của các HTX trên địa bàn huyện.
158
95. UBND huyện Đức Phổ (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo quyết
toán doanh thu - nguồn vốn - tài sản của các HTX trên địa bàn huyện.
96. UBND huyện Mộ Đức (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo quyết
toán doanh thu - nguồn vốn - tài sản của các HTX trên địa bàn huyện.
97. UBND huyện Nghĩa Hành (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo quyết
toán doanh thu - nguồn vốn - tài sản của các HTX trên địa bàn huyện.
98. UBND huyện Sơn Tịnh (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo quyết
toán doanh thu - nguồn vốn - tài sản của các HTX trên địa bàn huyện.
99. UBND huyện Tư Nghĩa (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo quyết
toán doanh thu - nguồn vốn - tài sản của các HTX trên địa bàn huyện.
100. UBND thành phố Quảng Ngãi (2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo
quyết toán doanh thu - nguồn vốn - tài sản của các HTX trên địa bàn
thành phố.
101. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2014), Quyết định 04 Về việc Phê duyệt đề án
củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức Hợp
tác xã trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2015, định hướng đến năm
2020, Quảng Ngãi.
102. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2014), Quyết định 31 Ban hành Quy định
chính sách hỗ trợ khuyết khích phát triển Hợp tác xã trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi, giai đoạn 2014 – 2020, Quảng Ngãi.
103. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NT mới giai đoạn 2011 -
2015; Phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2011 - 2020 và kế hoạch
năm 2016, Quảng Ngãi.
104. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế tập
thể giai đoạn 2011 - 2015 và kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 5 năm
2016 - 2020, Quảng Ngãi.
159
105. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Quyết định 33 Ban hành Quy định một số
chính sách hỗ trợ phát triển Hợp tác xã dịch vụ và khai thác hải sản xa
bờ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2015 – 2020, Quảng Ngãi.
106. UBND tỉnh Quảng Ngãi, Sở KH&CN (số 824/2015), Báo cáo Tổng kết
hoạt động KH&CN giai đoạn 2011 - 2015; Định hướng hoạt động
KH&CN giai đoạn 2016 – 2020, Quảng Ngãi.
107. UBND tỉnh Quảng Ngãi, Sở NN và Phát triển NT (2015), Kế hoạch phát
triển kinh tế tập thể trong NN, giai đoạn 2016 - 2020 trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
108. UBND tỉnh Quảng Ngãi, Sở KH&CN (4/2016), Báo cáo tổng hợp Dự án
KH&CN cấp tỉnh, Xây dựng mô hình Hợp tác xã dịch vụ NN, NT Tịnh
Trà”, Quảng Ngãi.
109. http://binhson.quangngai.gov.vn/, Cập nhật ngày 30/5/2016.
B. Tài liệu tiếng Anh 110. Akira Kurimoto (2004), Agricultural Cooperatives in Japan: An
Institutional Approach, Journal of cooperation, 32 (2) 2004: 111-128,
ISSN 0377-7480 ©.
111. Ahmad Bello Dogarawa (2010), The Role of Cooperative Societies in Economic Development, Ahmadu Bello University (ABU), June 8.
112. Azer Efendiev, Pavel Sorokin (2013), "Rural Social Organization and Farmer Cooperatives Development in Russia and other Emerging Economies: Comparative Analysis", National Research University
Higher Economics, Moscow, Russia, Vol.3, No.14.
113. Dr H. K. Bhanwala, Chủ tịch NABARD (2015), Annual Report 2014-2015, www.lucidsolutionsonline.com, 22 June.
114. Brett Fairbairn (2013), History of Ecological Perspective: Gaia theory and the problems of cooperatives in Turn-of-the-Century Germany,
The American Historical Review.
160
115. Cook, M.L. (1994). The role of management behavior in agricultural
cooperatives. Journal of Agricultural Cooperation, USA, Vol. 1, pp. 42-66.
116. Daman Prakash (2003), Development of Agricultural Cooperatives - Relevance of Japanese Experiences to Developing Countries, Rural
devwlopment and management centre, February.
117. Deininger, K. (1995). Collective agricultural production: A solution for
transition economies? Journal of Cooperatives, USA, Vol. 23, No. 8,
pp. 1317-1334.
118. Elena Garnevska, Guozhong Liu and Nicola Mary Shadboltc (2011),
Factors for Successful Development of Farmer cooperatives in
Northwest China, International Food and Agribusiness Management
Review Volume 14, Issue 4, 2011, http://www.ifama.org.
119. Gerald Hanks (2012), The Structure of a Cooperative Organization.
Chron.com.
120. Dr. Hannes Gebhard (1916), Co-Operation in Finland, London William
and Norgate, 14 Henrietta Street, Covent garden, W.C.
121. ICA, Co-operative identity, values & principles, http://ica.coop/.
122. PhD, IIRA director and professor Christopher D. Merrett (2012),
Bibliography of Cooperatives and Cooperative Development, Viện
Illinois. June. 123. ILO (2001), Report V (1): Promotion of cooperatives, Fifth item on the
agenda, 89th Session, ISSN 0074-6681, June.
124. ILO (2014), "The Role of Cooperatives in Achieving the sustainable
development goals - the economic dimension”, International Labour
Office Geneva 8 - 10 December.
125. John Sumelius... (2013), Cooperatives as a Tool for Poverty Reduction and Promoting Business in Tanzania, University of Helsinki
Department of Economics and Management Discussion Papers No 65
Helsink.i.
161
126. Prof. Jorge V. Sibal (2000), A Century of the Philippine Cooperative
Movement, University of Wisconsin Center for Cooperatives. 127. Karami, E. & Rezaei-Moghaddam, K. (2007). Modeling determinants of
agricultural production cooperatives’performance in Iran . Agricultural Economics, USA,Vol. 33, pp. 305-314.
128. M.G. University (Brazil), “Chapter 2: Co-operation and co-operative movement - a theoretical frame work”.
129. PD Dr. Michael Prinz (2014), German Rural Cooperatives, Friedrich-Wilhelm Raiffeise and the Organization of Trus, Khoa Lịch sử và Triết học Đại học Bielefeld (CHLB Đức).
130. Miss Banishree Das, Dr Nirod Kumar Palai, and Dr Kumar Das (2006), Problems and prospects of the cooperative movement in India under the globalization regime. http://www.helsinki.fi/iehc.
131. Muhammad Shehu Hussain (2014), The Role of Cooperative Organizations in Rural Community Development in Nigeria: Prospects and Challenges, Academic Research International , Vol. 5 (3), May.
132. Ortmann, G.F. & King, R.P. (2007). Agricultural cooperatives: History, theory and problems. Agrekon, Emgland, Vol 46, No 1, pp. 40-68.
133. Part II: Legal Aspects of Cooperative Organizational Structure, Indiana Law Journal, Vol 27 Iss 3, Article 3 (1952).
134. FAO (2012), Enabling rural cooperatives and producer organizations to thrive as sustainable business enterprises, http://www.fao.org/.
135. Robert Owen, https://en.wikiquote.org/wiki/Robert_Owen. 136. Robert Owen Writings (1820), Report to the County of Lanark…, Robert
Owen Museum, http://robert-owen-museum.org.uk/. 137. Ryan Gibson (2005), The role of co-operatives in community economic
development, Rural Development Institute,Canada, February. 138. Suren Movsisyan (2013), "The Role of Cooperatives in the Development
of Agriculture in Armenia", ICD,Germany Berlin.
162
139. M.G. University, Chapter 2: Co-operation and co-operative movement -
a theoretical frame work, http://shodhganga.inflibnet.ac.in/bitstream/, (Brazil).
140. Wayne D.Rasmussen (1991), Farmers cooperation, and USDA a history of agricultural cooperative service, Agricultural Information Bulletin 621, July.
141. Wikipedia. https://en.wikipedia.org/wiki/Cooperative. 142. Yamashita, Kazuhito (2009), The Agricultural Cooperatives and
Farming Reform in Japan, The Tokyo Foundation, January 14. 143. Zhang Xiaoshan (2015), China's farm co-ops sow for growth,
http://www.thenews.coop/93503/news/, 13 February.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1 19 Tiêu chí xây dựng NT mới cấp xã (Theo quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày 14/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ)
Nhóm 1: Quy hoạch 1. Tiêu chí Quy hoạch và thực hiện quy hoạch - Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất NN
hàng hoá, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. - Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường theo chuẩn mới.
Chỉ tiêu: Đạt. - Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư
hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc văn hóa tốt đẹp. Nhóm 2: Hạ tầng kinh tế - xã hội 2. Tiêu chí giao thông - Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hoá hoặc bê tông hoá đạt chuẩn
theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT. Chỉ tiêu: 100%. - Tỷ lệ km đường trục thôn, xóm được cứng hoá đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật
của Bộ GTVT. Chỉ tiêu: 75%. - Tỷ lệ km đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa. Chỉ tiêu
100% (70% cứng hoá) - Tỷ lệ km đường trục chính nội đồng được cứng hoá, xe cơ giới đi lại phải
thuận tiện. Chỉ tiêu: 70%. 3. Tiêu chí Thủy lợi - Hệ thống thuỷ lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh. Chỉ tiêu: Đạt. - Tỷ lệ km đường mương do xã quản lý được kiên cố hoá. Chỉ tiêu 85%. 4. Tiêu chí Điện 4.1. Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện. Chỉ tiêu: Đạt. 4.2. Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn. Chỉ tiêu: 98%. 5. Tiêu chí Trường học - Tỷ lệ trường học các cấp: mần non, mẫu giáo, tiểu học, THCS có cơ sở vật
chất đạt chuẩn quốc gia. Chỉ tiêu 80%.
6. Tiêu chí cơ sở vật chất văn hoá
- Nhà văn hoá và khu thể thao xã đạt chuẩn của Bộ VH-TT và Du lịch. Chỉ
tiêu: Đạt.
- Tỷ lệ thôn có nhà văn hoá và khu thể thao thôn đạt quy định của Bộ VH-TT
và Du lịch. Chỉ tiêu: 100%.
7. Tiêu chí Chợ NT
- Chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng. Chỉ tiêu: Đạt.
8. Tiêu chí Bưu điện
- Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông. Chi tiêu: Đạt
- Có internet đến NT. Chỉ tiêu: Đạt.
9. Tiêu chí nhà ở dân cư
- Nhà tạm dột nát. Chỉ tiêu: Không
- Tỷ lệ nhà ở đạt tiêu chuẩn Bộ Xây dựng. Chỉ tiêu: 80%.
Nhóm 3: Nhóm kinh tế và tổ chức sản xuất
10. Tiêu chí thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người/năm so với mức bình quân chung của tỉnh.
Chỉ tiêu: 1,4 lần.
11. Tiêu chí tỷ lệ hộ nghèo
- Tỷ lệ hộ nghèo dưới mức 6%. Chỉ tiêu: 5%.
12. Tiêu chí cơ cấu lao động
- Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực, NT, nghề nghiệp. Chỉ
tiêu: 35%
13. Tiêu chí hình thức tổ chức sản xuất
Có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã sinh hoạt có hiệu quả. Chỉ tiêu: Có
14. Tiêu chí giáo dục
- Phổ cập giáo dục trung học. Chỉ tiêu: Đạt
- Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục họcTHPT. Chỉ tiêu: 85%
15. Tiêu chí Y tế
- Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế. Chỉ tiêu: Đạt
- Y tế xã đạt chuẩn quốc gia. Chỉ tiêu: Đạt
16. Tiêu chí Văn hoá
- Xã có từ 70% số thôn, bản trở lên đạt tiêu chuẩn làng văn hoá theo quy định của Bộ VH-TT&DL. Chỉ tiêu: Đạt
- Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia. Chỉ tiêu: 85%
17. Tiêu chí Môi trường - Các cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn về môi trường. Chỉ tiêu: Đạt - Không có hoạt động suy giảm môi trường và có các hoạt động phát triển
môi trường xanh - sạch - đẹp. Chỉ tiêu: Đạt - Nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch. Chỉ tiêu: Đạt - Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo quy định. Chỉ tiêu: Đạt 18. Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh - Cán bộ xã đạt chuẩn. Chỉ tiêu: Đạt - Có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định. Chỉ tiêu: Đạt - Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “Trong sạch, vững mạnh”. Chỉ
tiêu: Đạt - Các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên.
Chỉ tiêu: Đạt 19. Tiêu chí An ninh - Trật tự xã hội An ninh xã hội được giữ vững. Chỉ tiêu: Đạt.
Phụ lục 2
Thực trạng về trình độ học vấn của nhân lực HTX NN
tỉnh Quảng Ngãi năm 2015
STT Chức danh Trình độ học vấn
Tổng số
Tiểu học THCS THPT Người Tỷ lệ (%) Người Tỷ lệ (%) Người Tỷ lệ (%)
1
HĐQT 534 42 7,86 282 52,80 210 39,34
CTHĐQT Giám đốc
181 17 9,39 93 51,38 71 39,23
TVHĐQT PGĐ
226 11 4,87 110 48,67 105 46,46
TVHĐQT 127 14 11,02 79 66,21 34 26,77
2
BKS 276 47 17,02 154 55,79 75 27,19
TBKS 181 36 19,89 91 50,27 54 29,84
UVBKS 95 11 11,57 63 66,32 21 22,11
3
CB nghiệp vụ 543 80 14,74 168 30,94 295 54,32
Kế toán trưởng 181 5 2,76 58 32,04 118 65,20
Nhân viên 362 75 20,72 110 30,39 177 48,89
Tổng cộng 1353 169 12,50 604 44,64 580 42,86
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ [46; 47; 107].
Phụ lục 3
Thực trạng về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhân lực
HTX NN tỉnh Quảng Ngãi năm 2015
ST
T
CHỨC
DANH
Tổng
số
Trình độ chuyên môn
Đại học, cao đẳng Trung cấp Sơ cấp (3 tháng) Chưa đào tạo
Người Tỷ lệ
(%) Người
Tỷ lệ
(%) Người
Tỷ lệ
(%) Người
Tỷ lệ
(%)
1
HĐQT 534 11 2,06 90 16,85 123 23,04 310 58,05
CTHĐQT
Giám đốc 181 6 3,32 53 29,28 69 38,12 53 29,28
TVHĐQT
PGĐ 226 4 0,17 32 14,15 47 20,79 143 63,27
TVHĐQT 127 1 0,79 5 3,93 7 5,51 114 89,77
2
BKS 276 3 1,10 21 7,60 80 28,98 172 62,32
TBKS 181 3 1,66 21 11,60 69 38,12 88 48,62
UVBKS 95 0 0 0 0 11 11,57 84 88,43
3
Cán bộ
nghiệp vụ 543 31 5,71 189 34,81 114 21,00 209 38,48
Kế toán
trưởng 181 19 10,50 92 50,82 44 24,32 26 14,36
Nhân viên 362 12 3,31 97 26,79 70 19,34 183 50,56
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ [46; 47; 107]
Phụ lục 4
Độ tuổi của cán bộ quản lý HTX NN
tỉnh Quảng Ngãi năm 2015
Độ tuổi cán bộ
quản lý HTX
Giai đoạn (2011-2015)
GĐ % PGĐ % TB
KS % KTT %
23 - 30 0 0 0 0 0 0 22 12,15
31 - 40 9 6,7 14 7,74 0 0 31 17,12
41 - 50 44 24,30 49 27,08 39 21,55 53 29,28
51 - 60 116 64,08 99 54,69 91 50,27 78 43,09
60 - 70 12 6,62 19 10,49 51 28,18 7 3,86
Tổng cộng 181 100 181 100 181 100 181 100
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ [46; 47; 107]