Trang 1 CHUYÊN ĐỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY CỦA HỌC SINH TRONG NHỮNG BÀI VỀ CHỦ ĐỀ KHÁNG CHIẾN. PHẦN I: MỞ ĐẦU Trên tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Bộ giáo dục và đào tạo đang thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước thành những con người chủ động, tích cực, sáng tạo, có tri thức mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra cho bộ môn lịch sử là phải đổi mới phương pháp dạy và học để biến quá trình dạy và học thành quá trình tự học của học sinh. Môn lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đã và đang trên đà đổi mới về phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, năng lực tư duy của học sinh. Trong quá trình dạy và học, giáo viên đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn tổ chức học sinh tự học và hợp tác học tập với bạn. Tuy nhiên thực tế trong quá trình dạy và học lịch sử, tính tích cực, chủ động, đặc biệt là khả năng tư duy của học sinh đối với bộ môn chưa cao, từ việc học sinh tìm ra qui luật dựa trên các sự kiện cụ thể đến việc giải thích được các sự kiện còn hạn chế. Học sinh chỉ thích nghe giảng, cảm nhận một chiều mà lười tư duy. Đối với bộ môn lịch sử khối lượng, kiến thức ở bậc THCS nhiều nội dung, sự kiện nhưng quĩ thời gian dành cho môn học lại không nhiều , chỉ 1 đến 2 tiết trên tuần. Nếu giáo viên chỉ làm việc một chiều, truyền thụ kiến thức là giáo viên mới chỉ cung cấp cho học sinh biết sự kiện thì đó chưa phải là dạy và học lịch sử, chưa đúng đặc trưng bộ môn, mà phải từ sự kiện giáo viên cung cấp hoặc giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu, rút ra được bản chất, đó chính là yêu cầu cần đạt của môn học. Muốn học sinh hiểu lịch sử thì phải làm sao tạo được hứng thú cho học si nh. Vì vậy tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh trong dạy và học là hết sức cần thiết, đặc biệt là trong những bài học lịch sử kháng chiến. Đặc thù của những bài học về kháng chiến là các sự kiện phải được giáo viên và học sinh tái hiện cụ thể, sinh động, không khí giờ học được tạo ra bởi chính sự sống động của các sự kiện. Chính vì vậy các biện pháp sư phạm được áp dụng trong giờ dạy học phải khôi phục lại được bức tranh quá khứ. Từ đó từng bước giúp các em từ sự kiện rút ra bản chất sự kiện, hiện tượng hay quá trình, qui luật , bài học kinh nghiệm, từ đó các em sẽ say mê tìm tòi, nghiên cứu và khi đó nhiệm vụ “dân ta
16
Embed
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀthcsquangtrung.pgdbaoloc.edu.vn/upload/39309/... · Xác định đúng trọng tâm của bài, bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng, thiết kế, tổ
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Trang 1
CHUYÊN ĐỀ
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TƯ DUY CỦA HỌC SINH
TRONG NHỮNG BÀI VỀ CHỦ ĐỀ KHÁNG CHIẾN.
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trên tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Bộ giáo dục và đào
tạo đang thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước
thành những con người chủ động, tích cực, sáng tạo, có tri thức mang bản sắc dân tộc Việt
Nam. Xuất phát từ mục tiêu trên, nhiệm vụ đặt ra cho bộ môn lịch sử là phải đổi mới
phương pháp dạy và học để biến quá trình dạy và học thành quá trình tự học của học sinh.
Môn lịch sử ở trường phổ thông hiện nay đã và đang trên đà đổi mới về phương
pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, năng lực tư duy của học sinh. Trong quá trình
dạy và học, giáo viên đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn tổ chức học sinh tự học và hợp tác
học tập với bạn. Tuy nhiên thực tế trong quá trình dạy và học lịch sử, tính tích cực, chủ
động, đặc biệt là khả năng tư duy của học sinh đối với bộ môn chưa cao, từ việc học sinh
tìm ra qui luật dựa trên các sự kiện cụ thể đến việc giải thích được các sự kiện còn hạn
chế. Học sinh chỉ thích nghe giảng, cảm nhận một chiều mà lười tư duy.
Đối với bộ môn lịch sử khối lượng, kiến thức ở bậc THCS nhiều nội dung, sự kiện
nhưng quĩ thời gian dành cho môn học lại không nhiều, chỉ 1 đến 2 tiết trên tuần. Nếu giáo
viên chỉ làm việc một chiều, truyền thụ kiến thức là giáo viên mới chỉ cung cấp cho học
sinh biết sự kiện thì đó chưa phải là dạy và học lịch sử, chưa đúng đặc trưng bộ môn, mà
phải từ sự kiện giáo viên cung cấp hoặc giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu, rút ra được
bản chất, đó chính là yêu cầu cần đạt của môn học.
Muốn học sinh hiểu lịch sử thì phải làm sao tạo được hứng thú cho học sinh. Vì vậy
tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh trong dạy và học là hết sức cần thiết, đặc biệt
là trong những bài học lịch sử kháng chiến. Đặc thù của những bài học về kháng chiến là
các sự kiện phải được giáo viên và học sinh tái hiện cụ thể, sinh động, không khí giờ học
được tạo ra bởi chính sự sống động của các sự kiện. Chính vì vậy các biện pháp sư phạm
được áp dụng trong giờ dạy học phải khôi phục lại được bức tranh quá khứ. Từ đó từng
bước giúp các em từ sự kiện rút ra bản chất sự kiện, hiện tượng hay quá trình, qui luật, bài
học kinh nghiệm, từ đó các em sẽ say mê tìm tòi, nghiên cứu và khi đó nhiệm vụ “dân ta
Trang 2
phải biết sử ta” sẽ không còn là khẩu hiệu nữa, dân ta sẽ “hiểu tường gốc tích nước nhà
Việt Nam”.
Với mong muốn tạo được hứng thú học tập, phát triển năng lực tư duy của học sinh
trong quá trình dạy và học, tổ Sử-Địa-GDCD chúng tôi mạnh dạn thực hiện chuyên đề
“Phát triển năng lực tư duy của học sinh trong những bài chủ đề kháng chiến”.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG.
1. Thuận lợi.
a. Xã hội:
Hoạt động dạy học nói chung và bộ môn lịch sử nói riêng được cả xã hội quan tâm.
Thời gian gần đây bộ văn hóa và viện sử học có chương trình học sử trên đường phố được
dư luận đồng tình, ủng hộ, từ đó nâng cao tầm quan trọng trong nhận thức của mỗi người
dân đối với môn Lịch sử.
b. Nhà trường:
Lãnh đạo nhà trường quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dạy học, chú trọng việc
giáo dục phương pháp tự học cho học sinh.
Đội ngũ GV nhiệt tình và có trình độ chuyên môn vững vàng, được đào tạo đạt chuẩn
và trên chuẩn, được tham dự các lớp tập huấn về chuyên môn do Sở, Phòng GD&ĐT tổ
chức, có ý thức cầu tiến, thường xuyên trao đổi, góp ý với đồng nghiệp, tổ bộ môn trong
quá trình giảng dạy.
Cơ sở vật chất của nhà trường được đầu tư: Mạng, Internet, Tivi được trang bị đầy đủ,
cho tất cả các lớp học, học sinh được trang bị kiến thức về vi tính để khai thác thông tin
qua mạng như Trường học kết nối…
c. Phụ huynh - Học sinh:
Học sinh có điều kiện tiếp cận tiến bộ về văn hóa, khoa học kĩ thuật, việc học của
học sinh được gia đình quan tâm, đầu tư.
Đa số học sinh học tập tích cực, có ý thức phấn đấu, có nhu cầu khám phá, có hứng
thú học tập môn Lịch sử . Các em cũng đã làm quen với việc đổi mới phương pháp học tập
bộ môn Lịch sử từ lớp 6.
2. Khó khăn.
Trang 3
Về phía một số phụ huynh và học sinh còn xem nhẹ bộ môn, coi là môn phụ nên chỉ
hướng các em vào học các môn như Văn, Toán, Anh…chưa nhận thức được tầm quan
trọng của môn lịch sử.
Một số HS chưa chăm học, thời gian dành cho việc học còn ít, vẫn còn một số HS chưa
tích cực trong việc nhận nhiệm vụ mà giáo viên giao cho. Khả năng tự học còn hạn chế
làm ảnh hưởng lớn hoạt động tổ chức dạy học của GV trên lớp.
Về phía GV cũng có những hạn chế như vốn hiểu biết sâu, rộng về kiến thức liên môn,
khả năng, kinh nghiệm nắm bắt các thao tác, kĩ năng vận dụng phương pháp dạy học linh
hoạt .
Tài liệu phục vụ cho việc soạn giảng, tổ chức hoạt động dạy học theo yêu cầu đổi mới
chỉ mang tính định hướng nên GV phải tự nghiên cứu, tìm tòi , thiết kế.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước. Từ buổi
sơ khai nước ta luôn bị xâm lược nên truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của
dân tộc được thể hiện rõ nét qua những bài lịch sử kháng chiến.
Học sinh muốn hiểu lịch sử thì giáo viên phải tạo được hứng thú, say mê. Vì vậy đa
dạng hóa các phương pháp dạy và học, tích cực hóa các hoạt động học tập của học sinh là
hết sức cần thiết, đặc biệt trong những bài học lịch sử kháng chiến. Học sinh có hứng thú
học tập sẽ hiểu biết sâu sắc hơn về truyền thống đấu tranh kiên cường của cha ông cha
chống giặc ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc. Qua đó giáo dục học sinh lòng tự hào dân tộc,
lòng yêu quê hương, đất nước, bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan cách mạng cho
học sinh, giúp học sinh thấy được trách nhiệm của mình để giữ gìn và phát huy truyền
thống vẻ vang của dân tộc.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP:
1.Yêu cầu chung:
Yêu cầu cơ bản đối với bài dạy lịch sử kháng chiến là thông qua những sự kiện,
bằng những đồ dùng trực quan và phương pháp dạy học tích cực giáo viên giúp học sinh
tái hiện lại quá khứ để học sinh thấy được khí thế hào hùng, chống ngoại xâm của cha ông
ta. Qua đó giúp học sinh nắm được bản chất, đó là nguyên nhân, diễn biến kết quả, ý nghĩa
lịch sử, nguyên nhân thắng lợi cũng như nguyên nhân thất bại, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm từ thực tiễn lịch sử.
Trang 4
Để phát huy năng lực tư duy của học sinh, giáo viên phải lựa chọn phương pháp
thích hợp, kết hợp những hình ảnh với những câu chuyện lịch sử, vận dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học như tường thuật, miêu tả... kết hợp đồ dùng trực quan, tài liệu tham
khảo và các câu hỏi tư duy thì bài học mới đạt hiệu quả.
2. Yêu cầu cụ thể:
a. Đối với giáo viên:
Xác định đúng trọng tâm của bài, bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng, thiết kế, tổ chức
hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập với các hình thức đa dạng phù hợp
từng bài học, phù hợp đặc điểm, đối tượng học sinh.
Động viên, khuyến khích tạo điều kiện cho học sinh tham gia một cách chủ động tích
cực trong quá trình lĩnh hội, khám phá tri thức.
Thiết kế, hướng dẫn học sinh thực hiện các dạng bài tập tư duy và rèn luyện kĩ năng
chuẩn bị đồ dùng.
b. Học sinh:
Chuẩn bị kĩ nội dung bài mới theo hướng dẫn của giáo viên, chủ động tìm tài liệu
liên quan đến bài học.
Trong giờ học, học sinh phải chú ý, tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt
động học tập để tự khám khá và lĩnh hội tri thức.
3. Giải pháp cụ thể:
a. Sử dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề:
Phương pháp nêu vấn đề là phương pháp cơ bản đối với môn học lịch sử, bản chất của
phương pháp này là khuyến khích học sinh phát hiện và tự giải quyết vấn đề dưới sự
hướng dẫn của giáo viên. Thông qua quá trình gợi ý, dẫn dắt, nêu câu hỏi, giáo viên tạo
điều kiện cho học sinh tranh luận, tìm tòi phát hiện vấn đề, thông qua các tình huống có
vấn đề. Đây là quá trình đòi hỏi học sinh phải chủ động giải quyết vấn đề từ đơn giản đến
phức tạp để cuối cùng nắm được cốt lõi bản chất của vấn đề. Phương pháp này sẽ giúp học
sinh vừa nắm được kiến thức vừa phát triển tư duy tích cực, sáng tạo, khuyến khích tự lập
của học sinh.
Khi thực hiện giáo viên chú ý :
+ Nêu vấn đề, hướng dẫn học sinh tư duy để giải quyết vấn đề
+ Hướng dẫn học sinh quan sát, so sánh, tổng hợp... qua đó làm nổi bật nội dung
bài học, kiến thức trọng tâm .
Trang 5
Ví dụ 1: Khi dạy bài Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông-Nguyên (Lịch
sử 7) giáo viên hướng dẫn học sinh so sánh cách đánh giặc của nhà Trần trong 3 lần
kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên có những điểm nào giống và khác
nhau ?
Ví dụ 2: Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai (Lịch sử 7) giáo viên nêu vấn đề
Trước âm mưu xâm lược nước ta của nhà Tống, nhà Lý đối phó như thế nào?
b. Phương pháp phát hiện kiến thức và thảo luận:
Với phương pháp này giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời giúp
học sinh khám phá những tri thức mới.
Học sinh chủ động tìm tòi, phát hiện kiến thức thông qua trao đổi thảo luận và tự giác
lĩnh hội tri thức thông qua hoạt động học tập, giáo viên tạo điều kiện để học sinh tự nêu
lên vấn đề học tập được độc lập giải quyết vấn đề đó, giáo viên khuyến khích học sinh
phát biểu những ý kiến riêng, độc đáo, sáng tạo của mình. Từ đó giúp các em rút ra nội
dung bài học phương pháp hoạt động hoạt động nhóm tư duy tích cực của học sinh được
phát huy, rèn luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong nhóm.
Với phương pháp này giáo viên phải chú ý:
+ Lựa chọn kiến thức phù hợp, xây dựng hệ thống câu hỏi sát với nội dung bài học,
phù hợp với tất cả đối tượng học sinh, hệ thống câu hỏi phải vừa sức từ dễ đến khó, từ hiện
tượng đến bản chất để phát huy hứng thú học tập của học sinh.
+ Dự kiến cách tổ chức thảo luận phù hợp để học sinh làm việc tích cực có hiệu quả.
+ Giáo viên chuẩn bị các vấn đề thảo luận, dự kiến các tình huống xảy ra cùng với các
phương án xử lí.
Ví dụ 1: Khi dạy bài : Cuộc kháng chiến chống chống Tống 1075 -1077(giai đoạn II)
giáo viên có thể nêu vấn đề:
? Tại sao ta đang trên đà thắng lợi, Lý Thường Kiệt lại chủ động giảng hòa với địch?
Học sinh nhận nhiệm vụ, tìm hiểu sách giáo khoa, thảo luận, bàn bạc đề xuất cách giải
quyết.
Nhằm đảm bảo mối quan hệ bang giao hòa hiếu giữa 2 nước sau chiến tranh, bảo đảm
hòa bình lâu dài cho đất nước, kết thúc chiến tranh có lợi cho dân tộc. Và đó cũng là nét
độc đáo trong cách đánh giặc của Lý Thường Kiệt thể hiện tính nhân đạo của dân tộc ta.
Ví dụ 2: Khi dạy bài Phong trào Tây Sơn ( Lịch sử 7), giáo viên có thể nêu vấn đề
hướng dẫn học sinh thảo luận:
Trang 6
? Tại sao nói trận Rạch Gầm-Xoài Mút là sự phát triển cao của nghệ thuật quân sự Việt
Nam thời phong kiến?
Học sinh thảo luận, bàn bạc dựa vào sách giáo khoa và tường thuật của giáo viên về
diễn biến trận Rạch Gầm-Xoài Mút rút ra nội dung kiến thức cần đạt:
Khai thác được thế mạnh, sự thuận lợi của địa hình tự nhiên
Lối đánh linh hoạt, biến hóa (du kích, nhử địch, giả vờ rút chạy, bất ngờ tấn công...)
Ví dụ 3: Trong bài Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938, giáo viên có thể
nêu vấn đề:
? Vì sao nói trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938 là một chiến thắng vĩ đại trong
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta?
Học sinh nhận nhiệm vụ, thảo luận đề xuất cách giải quyết và rút ra nội dung bài học:
Đây là lần thứ hai Nam Hán xâm lược nước ta, sau trận này quân Nam Hán không dám
đem quân sang xâm lược nước ta lần thứ ba.
Quân dân ta đã đập tan hoàn toàn mưu đồ xâm chiếm nước ta của Nam Hán.
Khẳng định nền độc lập dân tộc, mở ra thời kì độc lập lâu dài cho Tổ Quốc.
Ví dụ 4: Khi dạy bài Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Lịch sử Điện
Biên Phủ, giáo viên đặt vấn đề:
? Tại sao lại khẳng định chiến thắng Điện Biên Phủ đã quyết định việc chấm dứt chiến
tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương?
Học sinh cùng bàn bạc rút ra nội dung kiến thức:
Chiến thắng Điện Biên Phủ đập tan kế hoạch NaVa và ý chí xâm lược của Pháp, xoay
chuyển cục diện chiến tranh.
Cổ vũ các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng.
Góp phần quyết định kí hiệp định Giơ-ne-Vơ 1954 lập lại hòa bình ở Đông Dương.
c. Phương pháp trực quan và sử dụng tài liệu tham khảo:
Một yêu cầu bắt buộc đối với bài học lịch sử kháng chiến là phải có đồ dùng dạy
học (tranh ảnh, sơ đồ, lược đồ ...) để giúp học sinh tái hiện lại quá khứ. Đồ dùng trực quan
có vai trò rất lớn trong việc nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức, việc sử
dụng đồ dùng trực quan ngoài việc góp phần tạo biểu tượng, hình thành khái niệm nó còn
phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ của học sinh. Khi quan sát
bất cứ đồ dùng trực quan nào học sinh sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan,
Trang 7
mắt thấy, tai nghe, tạo cho học sinh dễ nhớ, dễ hiểu, phát triển năng lực chú ý quan sát
hứng thú học tập bộ môn.
Để sử dụng đồ dùng trực quan hiệu quả nhất, giáo viên căn cứ nội dung, chủ đề bài
học để lựa chọn các phương tiện, đồ dùng trực quan thích hợp. Từ đồ dùng trực quan giáo
viên hướng dẫn gợi mở giúp học sinh quan sát rút ra nhận xét và tìm được mối quan hệ
giữa các nội dung của bài.
Ví dụ 1: Khi dạy bài Cuộc kháng chiến lần thứ ba chống quân Nguyên xâm
lược(Lịch sử 7), giáo viên trình chiếu lược đồ chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 và hỏi
? Dựa vào cơ sở nào mà Trần Hưng Đạo xác định kế hoạch phản công?
Học sinh quan sát lược đồ và trả lời: Tiêu diệt đoàn thuyền lương của giặc, đẩy chúng
vào thế bị động...
Ví dụ 2: Khi dạy bài Khởi nghĩa Lý Bí (Lịch sử 6) giáo viên yêu cầu học sinh quan