1 I. “ST” NGHĨA LÀ SỰ THÁNH THIỆN Người ta kể rằng: tại một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì quá đói khổ, nghèo nàn đã trở thành kẻ “bần cùng sinh đạo tặc”. Họ rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự “ST”, có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer). Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống để mong chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng, anh chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ “ST” đáng nguyền rủa này. Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: “Tôi cần phải lấy lại lòng tin của những người xung quanh và của chính tôi”. Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì mình có thể. Anh lao động bằng đôi tay của mình. Anh dành một phần hoa lợi để giúp đỡ người nghèo. Anh sống chan hòa tình yêu thương với mọi cư dân trong vùng. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự “ST” vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Nhưng chẳng mấy ai để ý đến ý nghĩa hai chữ ST trên vầng trán của anh. Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: “Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (Saint)”. Hôm nay lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, các ngài trở thành thánh nhân cao cả là nhờ biết khép lại quá khứ để chỉ lo tìm kiếm ý Chúa và thực thi suốt cuộc đời. Các ngài cũng có một quá khứ lầm lỗi, một quá khứ tưởng chừng như đã làm cho hai ngài suốt đời sống trong ân hận và tủi nhục. Phêrô đã có lần bị Chúa quở là “Satan”. Lầm lỗi lớn nhất trong cuộc đời ông là ba lần chối Thầy trước mặt người đời. Phaolô đã năm lần bảy lượt đi lùng bắt những ai mang danh Kitô hữu. Chính Phaolô đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo hội. Nhưng mẫu số chung của hai ngài chính là biết đứng lên sau những lần vấp ngã và chuộc lại lỗi lầm bằng cuộc sống làm chứng nhân cho Chúa. Thực vậy, sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô. Ánh mắt Thầy vẫn trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ điệp: “Phêrô, sao con lại chối Ta. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó chẳng lẽ không còn một chút vương vấn hay sao?”. Lại thêm tiếng gà gáy đêm khuya đã giúp lương tâm ông tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: “trước khi gà gáy con đã chối Thầy ba lần”. Phêrô lầm lũi ra khỏi pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, một cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết rồi, niềm tự hào, tự tin quá mức. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình chỉ là cát bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Mới hôm qua ông còn tuyên bố rằng: “dù mọi người bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Thế mà, miệng gan hùm đã không còn khi đối diện trước nguy nan. Ông đã hèn nhát chối Thầy đến ba lần. Nhưng đêm hôm đó, một biến cố trọng đại đã "đổi mới" tâm hồn Phêrô. Lòng ăn năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội. Phaolô, sau lần ngã ngựa đớn đau bởi một luồng sáng chói lòa hôm ấy. Mắt ông không còn thấy gì nữa, ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Con mắt thể xác ông Bản Tin Số 55 – CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN NĂM B – Ngày 28.6.2015 Mừng Kính 37 Năm - Lễ Bổn Mạng Cộng Đoàn Thánh Phêrô – Torance
8
Embed
Bản Tin Số 55 CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN NĂM B Ngày 28.6 ... · hoàn thiện mình và nhất là hãy nói về tình yêu Chúa cho anh em, cho bạn bè, cho mọi
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
I. “ST” NGHĨA LÀ SỰ THÁNH THIỆN
Người ta kể rằng: tại một vùng miền
quê nước Mỹ, có hai anh em nhà kia
vì quá đói khổ, nghèo nàn đã trở thành
kẻ “bần cùng sinh đạo tặc”. Họ rủ
nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không
may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình
phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự “ST”, có nghĩa
là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer).
Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn
sang một vùng khác sinh sống để mong chôn chặt dĩ
vãng. Thế nhưng, anh chẳng bao giờ quên được nỗi
nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ “ST”
đáng nguyền rủa này.
Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: “Tôi
cần phải lấy lại lòng tin của những người xung quanh
và của chính tôi”. Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của
mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một
sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu.
Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì
mình có thể. Anh lao động bằng đôi tay của mình. Anh
dành một phần hoa lợi để giúp đỡ người nghèo. Anh
sống chan hòa tình yêu thương với mọi cư dân trong
vùng. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu
tự “ST” vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Nhưng
chẳng mấy ai để ý đến ý nghĩa hai chữ ST trên vầng
trán của anh.
Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong
làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một
hồi rồi trả lời: “Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ
viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi
đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (Saint)”.
Hôm nay lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, các ngài
trở thành thánh nhân cao cả là nhờ biết khép lại quá
khứ để chỉ lo tìm kiếm ý Chúa và thực thi suốt cuộc
đời. Các ngài cũng có một quá khứ lầm lỗi, một quá
khứ tưởng chừng như đã làm cho hai ngài suốt đời sống
trong ân hận và tủi nhục. Phêrô đã có lần bị Chúa quở
là “Satan”. Lầm lỗi lớn nhất trong cuộc đời ông là ba
lần chối Thầy trước mặt người đời. Phaolô đã năm lần
bảy lượt đi lùng bắt những ai mang danh Kitô hữu.
Chính Phaolô đã can dự vào việc ném đá Stêphanô, vị
tử đạo đầu tiên của Giáo hội. Nhưng mẫu số chung của
hai ngài chính là biết đứng lên sau những lần vấp ngã
và chuộc lại lỗi lầm bằng cuộc sống làm chứng nhân
cho Chúa.
Thực vậy, sau khi chối Thầy lần thứ ba, từ trên
pháp đình Chúa nhìn xuống Phêrô. Ánh mắt Thầy vẫn
trìu mến thân thương như gởi đến ông sứ điệp: “Phêrô,
sao con lại chối Ta. Ơn nghĩa Thầy trò ba năm gắn bó
chẳng lẽ không còn một chút vương vấn hay sao?”. Lại
thêm tiếng gà gáy đêm khuya đã giúp lương tâm ông
tỉnh ngộ và nhớ lại lời Thầy đã tiên báo: “trước khi gà
gáy con đã chối Thầy ba lần”. Phêrô lầm lũi ra khỏi
pháp đình, nước mắt tuôn trào, tâm hồn trĩu nặng, một
cái gì đó đã chết trong ông. Vâng, đã chết rồi, niềm tự
hào, tự tin quá mức. Ông chỉ là cát bụi, ông biết mình
chỉ là cát bụi, yếu hèn và rất dễ sa ngã. Mới hôm qua
ông còn tuyên bố rằng: “dù mọi người bỏ Thầy, riêng
con thì không bao giờ”. Thế mà, miệng gan hùm đã
không còn khi đối diện trước nguy nan. Ông đã hèn
nhát chối Thầy đến ba lần. Nhưng đêm hôm đó, một
biến cố trọng đại đã "đổi mới" tâm hồn Phêrô. Lòng ăn
năn bộc phát và lòng khiêm nhường chân thành đã biến
Phêrô thành người thuyền trưởng trên con tàu Giáo hội.
Phaolô, sau lần ngã ngựa đớn đau bởi một luồng
sáng chói lòa hôm ấy. Mắt ông không còn thấy gì nữa,
ông như kẻ bị mù trong ba ngày. Con mắt thể xác ông
Bản Tin Số 55 – CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN NĂM B – Ngày 28.6.2015
Mừng Kính 37 Năm - Lễ Bổn Mạng Cộng Đoàn Thánh Phêrô – Torance
2
bị đóng lại, nhưng con mắt tâm hồn ông lại được mở
ra. Ông đã thấy Giêsu, người mà ông tưởng đã chết, thế
mà, Người đã Sống lại thật, lên trời ngự bên hữu Chúa
Cha. Người đang nói với ông: “Ta là Giêsu mà ngươi
đang tìm giết”. Bao lâu nay ông không tin có sự sống
lại. Ông đang hăm hở tiêu diệt những ai loan báo về sự
sống lại của một tử tội Giêsu. Giờ đây, ông đã tin. Sự
sống của Chúa Phục sinh đã làm thay đổi cuộc đời của
ông. Và kể từ nay, ông đã trở thành một tông đồ ra đi
đổi mới cả thế giới.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta đôi khi cũng có
những yếu đuối, có những vấp té bởi cạm bẫy của tham
sân si. Vì thế, có ai đó đã từng nói rằng: “lầm lỗi là của
con người”, nhưng đứng lên làm lại cuộc đời đó là của
“thánh nhân”. Thánh Phêrô và thánh Phaolô đã nhìn
quá khứ như một hồng ân của Thiên Chúa dành cho
các ngài. Chúa không trách phạt các ngài mà còn tin
tưởng trao phó sứ mạng mở mang nước Chúa đến tận
cùng trái đất. Với ơn trời cao cả đó, thánh Phaolô đã
từng thốt lên: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng
Tin Mừng”. Còn thánh Phêrô thì không còn sợ cường
quyền ức hiếp, ngài đã mạnh dạn nói rằng: “phải nghe
lời Thiên Chúa hơn là lời của con người”. Và hôm nay,
Chúa vẫn không trách phạt chúng ta theo như chúng ta
đáng tội, Ngài vẫn khoan dung tha thứ và hằng mời gọi
chúng ta hãy làm lại cuộc đời, hãy dùng ơn Chúa để
hoàn thiện mình và nhất là hãy nói về tình yêu Chúa
cho anh em, cho bạn bè, cho mọi người mà chúng ta
gặp gỡ thân quen.
Nhìn lại cuộc đời của hai thánh Phê-rô và Phao-lô
giúp chúng ta biết can đảm đứng dậy sau những lần vấp
ngã, và nhất là biết noi gương các ngài trở thành chứng
nhân cho tình yêu Chúa giữa thế gian. Amen
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
II. ĐỪNG TUYỆT VỌNG...
Ðiều cao quý nhất của con người không phải là của
cải vật chất, danh vọng, địa vị mà là tự do. Tự do để đi
lại. Tự do để hành động mà không bị một thế lực nào
khống chế hay kềm kẹp. Thế nên, có tự do là có hạnh
phúc, nhưng ngược lại đó là đau khổ và bất hạnh.
Con người có thể mất tự do bởi đau ốm
bệnh tật. Con người cũng có thể mất tự do
bởi những đam mê tội lỗi. Ðau ốm bệnh tật
giam hãm con người phần xác. Ðam mê tội
lỗi giam hãm con người phần hồn. Tất cả
đều làm cho con người đau khổ và thất vọng. Có những
người đau khổ vì đau lâu ốm dài. Có những người đau
khổ vì tai nạn hay mắc những căn bệnh hiểm nghèo.
Có những người đau khổ vì lỡ nghiện ngập hay sa chân
lỡ bước mà không thể từ bỏ và làm lại cuộc đời được.
Tất cả những ai đang sống trong tình trạng này đều
mong muốn được giải thoát, được cứu chữa. Họ đều
cảm thấy mình bất lực với sự dữ đang hoành hành thân
xác và tâm hồn mình. Họ cần một phép lạ có thể biến
đổi tình trạng của họ nên tốt hơn.
Ðó cũng là tâm trạng của ông Hội trưởng có con
gái bị bệnh và của người phụ nữ bị bệnh băng huyết
trong bài tin mừng hôm nay. Ông hội trưởng có lẽ đã
từng đi "vái tứ phương" để tìm thầy chạy thuốc cho đứa
con cưng của mình. Người phụ nữ có lẽ đã đi đến
đường cùng, nên đánh liều xông thẳng vào Chúa, chỉ
mong được chạm vào Chúa, với hy vọng nho nhỏ là
được lành bệnh. Họ đã được toại nguyện. Người phụ
nữ cảm thấy nhẹ mình. Không còn khổ sở vì căn bệnh
đã kéo dài suốt 12 năm. Ông hội trưởng cảm thấy hạnh
phúc vì đứa con đã ngồi dạy, ăn uống bình thường. Có
lẽ họ rất vui vì được Chúa nhận lời họ. Niềm tin của họ
vào Chúa đã được bù đắp bằng ơn lành Chúa ban cho
họ. Họ đã được giải thoát khỏi đau khổ bằng sức mạnh
và quyền năng của Chúa.
Thế nhưng, đôi khi chúng ta không khỏi thắc mắc
băn khoăn. Tại sao Chúa nhận lời người này mà lại
không nhận lời người kia? Tại sao giữa dòng đời có
người vui và có người buồn? Có người khoẻ mạnh. Có
người ốm đau. Có những người cả cuộc đời sống trong
lụa là gấm vóc. Có những người lại cơ cực lầm than.
Có người được yêu thương, có người bị khinh chê
ruồng bỏ. Có người hạnh phúc, có người bất hạnh. Phải
chăng Thiên Chúa yêu thương người này và ghét bỏ
người kia? Chắc chắn là không. Vì Thiên Chúa là Cha
nhân từ. Ngài yêu thương mọi loài mà Ngài đã tạo dựng
nên. Hoa cỏ đồng nội. Muôn thú muôn loài đều được
Ngài chăm sóc huống chi con người. Sự dữ không phải
do Thiên Chúa mang đến. Sự dữ là thế lực thù nghịch
với Thiên Chúa. Ma quỷ luôn tìm cách phá hủy công
trình của Chúa. Trong đó công trình vĩ đại nhất mà
Thiên Chúa đã làm nên, đó là tạo dựng con người giống
hình ảnh Thiên Chúa. Chính vì điểm này mà Thiên
Chúa luôn đòi hỏi con người dùng tự do để quy phục
Thiên Chúa thay vì quay lưng lại với Ngài. Con người
có tự do để hành xử. Theo Chúa để chống lại sự dữ, để
sống vâng phục theo thánh ý Chúa. Khi con người sử
dụng tự do để sống theo thánh ý Chúa là lúc con người
chấp nhận những thử thách khó khăn trong cuộc đời,
3
với một niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, Ngài sẽ
không bao giờ bỏ rơi những ai trung tín theo Ngài.
Người ta kể rằng: có một thiếu phụ sống rất bi
quan. Cô cảm thấy dường như Chúa đã bỏ rơi mình.
Một lần kia, thiếu phụ đang đi trên đường và gặp một
linh mục, sau câu chào hỏi, linh mục đã nói với thiếu
phụ rằng: Cô có dám buông tay cho đứa bé rớt xuống
đất không?
Thiếu phụ nhìn linh mục với sự ngạc nhiên, không
hiểu sao ngài lại nói như thế?
Linh mục nói tiếp: Nếu có ai trả cho cô một số tiền
lớn để buông đứa bé cho rơi xuống đất, cô có chịu
không?
Thiếu phụ trả lời: Dù ai có cho tiền nhiều như sao
trên trời tôi cũng không đời nào buông con tôi rơi
xuống cách đau đớn như vậy.
Lúc ấy, linh mục ôn tồn bảo: Thiên Chúa là người
cha nhân lành, Ngài sẽ không bao giờ để con cái Ngài
rơi xuống hố thẳm của đau khổ đâu.
Nghe lời đó, thiếu phụ bừng tỉnh, và dường như cô
không còn bi quan trong cuộc sống nữa.
Cuộc đời vẫn thường có những trái ngang. Dòng
đời không thiếu những bất trắc xảy ra, khiến chúng ta
dễ thất vọng về những gì chúng ta đang có. Hãy tin
tưởng vào Thiên Chúa. Hãy chạy đến cùng Thiên
Chúa. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ
làm những điều tốt đẹp nhất cho dân Ngài.
Nguyện xin Thiên Chúa luôn nâng đỡ trợ giúp
chúng ta vượt qua khó khăn, thử thách và ban cho
chúng ta một đức tin vững vàng, để chúng ta luôn tin
rằng: Thiên Chúa là người Cha đầy nhân ái, bao dung,
Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho cuộc đời của
chúng ta. Amen.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
III. HẠNH THÁNH PHÊRÔ – NGÀY 29 THÁNG 6
Phêrô là tên mà Chúa đặt cho Simon,
có nghĩa là “Đá”, Simon là anh em ruột
của Anrê, một trong 12 Tông đồ của Chúa
Giêsu, là những dân chài chất phác ở biển
Galilea. Anrê theo làm môn đệ của thánh
Gioan tẩy giả. Lần kia, khi Chúa Giêsu đi qua, thánh
Gioan đã giới thiệu với hai môn đệ của mình là Anrê
và Gioan: “Đây là Con Thiên Chúa”.
Anrê và Gioan liền theo Chúa Giêsu. Về nhà, Anrê
nói lại với Phêrô rằng: mình đã gặp Đấng thiên sai. Hai
anh em dẫn nhau đến gặp Chúa Giêsu. Nhìn họ với cặp
mắt thần linh, Chúa Giêsu bảo: “Anh là Simon, nhưng
từ nay tên là Phêrô (Ga 1,35-42).
Simon Phêrô gắn bó với Chúa Giêsu mặc dầu vẫn
tiếp tục nghề chài lưới. Ông đến được tiệc cưới tại Cana
và được chứng kiến phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu
cho thấy thiên tính của Người. Vài tháng sau, Phêrô và
Anrê giặt lưới bên bờ hồ, Chúa Giêsu lên một chiếc
thuyền để giảng dạy dân chúng. Sau đó Người nói với
Phêrô: “Ra khơi mà thả lưới đánh cá”. Sau một đêm
làm việc mà không bắt được gì. Nhưng bây giờ Phêrô
vẫn mau mắn vâng lời. Kết quả thật lạ lùng, mẻ cá
nhiều quá đến như muốn làm rách lưới. Bối rối trước
sự lạ và cảm thấy mình bất xứng không đáng ở gần
Chúa Giêsu, Phêrô quỳ sụp dưới chân Người mà
nói: “Xin hãy xa tôi vì tôi là kẻ tội lỗi”. Chúa Giêsu trả
lời: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới bắt người”.
Rồi đây ông sẽ lôi kéo nhiều tâm hồn về với Chúa như
số cá nhiều vô kể ông đã lưới được. Ông đã từ bỏ tất
cả: gia đình, thuyền lưới mà theo Chúa Giêsu. Khi chọn
12 tông đồ, Chúa Giêsu đặt ông đứng đầu cả nhóm, vào
đầu tháng 4, sau khi hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu
truyền cho các tông đồ qua bên kia bờ hồ. Gió nổi lên
dữ dội: Chúa Giêsu đến với các ông. Mệt nhọc chèo
chống ngược gió trong đêm tối, các ông tưởng là bóng
ma và lên tiếng kêu la. Chúa Giêsu trấn an: “Hãy vững
lòng, chính là Ta, đừng sợ”. Phêrô liền kêu ngay: “Lạy
Thầy, xin truyền cho tôi được đi trên mặt nước mà đến
với thầy”. Người bảo:“Hãy đến đây”. Và Phêrô gieo
mình đến với Chúa Giêsu. Nhưng sau phút giây tin
tưởng ban đầu, thấy gió thổi mạnh, ông sợ và bắt đầu