Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 1/53 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN BẢN TIN SỐ 05/2019 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Chế tạo thiết bị điện gió Các giải pháp tăng cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin quang điện hóa sử dụng chất màu nhạy quang Hệ thống tìm kiếm video thông minh theo thông tin hình ảnh Công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS trong việc hỗ trợ cứu hỏa Phương pháp phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn dịch nhân tạo Phát triển thành công AI hướng đến lĩnh vực bất động sản Tối ưu hóa dàn máy tính để bàn CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY “Bàn tay robot Uplift” cho người khuyết tật CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM Phẩm màu thực phẩm từ quả gấc, quà dành dành và lá gai VẬT LIỆU – HÓA CHẤT Phương pháp tích hợp nguyên tử hydro vào lớp màng giúp cải thiện chất lượng pin mặt trời Chế tạo vật liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong pin nhiên liệu dùng cho động cơ di động tương lai Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa nguyên tố ABO (ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4) bằng phương pháp bốc bay nhiệt Chế tạo gạch từ rác thải nhựa CÔNG NGHỆ SINH HỌC Phát hiện một loài loài thực vật mới cho khoa học Quy trình sản xuất astaxanthin và β-glucan để bổ sung vào thức ăn cho cá dĩa đỏ Thu thập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn phân giải chlorpyrifos Y HỌC
53
Embed
BẢN TIN SỐ 05/2019lib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2019/08/Bantin_KHCNVN_05-2019.pdfchanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn nhưng nơi đây không có điện để
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 1/53
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN SỐ 05/2019
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Chế tạo thiết bị điện gió
Các giải pháp tăng cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin quang điện hóa sử dụng
chất màu nhạy quang
Hệ thống tìm kiếm video thông minh theo thông tin hình ảnh
Công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS trong việc hỗ trợ cứu hỏa
Phương pháp phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn dịch nhân tạo
Phát triển thành công AI hướng đến lĩnh vực bất động sản
Tối ưu hóa dàn máy tính để bàn
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
“Bàn tay robot Uplift” cho người khuyết tật
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Phẩm màu thực phẩm từ quả gấc, quà dành dành và lá gai
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Phương pháp tích hợp nguyên tử hydro vào lớp màng giúp cải thiện chất lượng pin mặt trời
Chế tạo vật liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong pin nhiên liệu dùng cho động cơ
di động tương lai
Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa nguyên tố ABO
(ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4) bằng phương pháp bốc bay nhiệt
Chế tạo gạch từ rác thải nhựa
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Phát hiện một loài loài thực vật mới cho khoa học
Quy trình sản xuất astaxanthin và β-glucan để bổ sung vào thức ăn cho cá dĩa đỏ
Thu thập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn phân giải chlorpyrifos
Y HỌC
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 2/53
Nghiên cứu và chế tạo thành công vật liệu kết xương titan
NÔNG NGHIỆP
Công nghệ sấy vi sóng trong bảo quản, chế biến nông sản và thực phẩm
Chế tạo máy thu gom nông sản tự động
Chế tạo hệ thống tưới cây bằng điện thoại
Thuyền phun thuốc đa năng
Máy cày đa năng
Máy phun thuốc trừ sâu tự động
Thùng trồng cây không cần tưới nước
Chế tạo dung dịch giữ nông sản tươi hơn 10 ngày
Nghiên cứu ứng dụng đồng bộ các giải pháp khoa học và công nghệ chuyển đổi cơ cấu cây
trồng đạt hiệu quả kinh tế cao vùng đồng bằng sông Hồng
Quy trình nhân giống in vitro lan Dendrobium bằng mô phân sinh chồi
MÔI TRƯỜNG
Chế tạo hệ thống xử lý nước nuôi thủy sản
Phương tiện gom rác thủy bộ
Xử lý nước thải sinh hoạt bằng thiết bị lọc nhỏ giọt cải tiến với giá thể sinh học kiểu mới
Hệ thống xử lý nước thải sử dụng giá thể vi sinh
Nắp cống thoát nước tự động gạt rác
Giải pháp lấy nước ngầm kiểu mới
Giải pháp công nghệ trong đo đạc địa hình bãi bồi ven biển
LĨNH VỰC KHÁC
Phát hiện hư hỏng công trình xây dựng bằng phương pháp dao động
12 doanh nghiệp đầu tiên ngành phi thực phẩm đạt chuẩn hội nhập
Ra mắt Không gian đổi mới sáng tạo cho sinh viên Đồng bằng sông Cửu Long
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 3/53
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Chế tạo thiết bị điện gió
Thiết bị điện gió của gia đình ông Bá.
Trong điều kiện lưới điện quốc gia
không thể kéo tới thì thiết bị điện gió của lão
nông Lê Thành Bá, ở xã Tân Hòa, huyện
Châu Thành A, là một giải pháp khả thi.
Tạo điện từ gió
Ông Bá kể, “Khu vườn của tôi trồng
đủ các loại cây ăn trái như xoài Đài Loan,
chanh không hạt… Hiện cây trồng đã lớn
nhưng nơi đây không có điện để tôi gắn mô tơ
tưới nước. Tôi đã 60 tuổi rồi nên không thể
xách từng thùng tưới cho cây được”. Trong
“cái khó, ló cái khôn”, vào tháng 6-2018, ông
Bá nghĩ đến cách tạo ra điện mà không cần
phải phụ thuộc vào điện lưới từ ngành điện.
Và rồi, ông bắt tay vào nghiên cứu và chế tạo
thành công quạt điện gió phát điện thông
minh. “Ban đầu, tôi định làm điện bằng tấm
pin năng lượng mặt trời nhưng chi phí cao
nên tôi tìm trên mạng các cách làm quạt điện
gió. Sau lần đầu thất bại, tôi vẫn tiếp tục
nghiên cứu, cuối cùng cũng thành công và lắp
đặt quạt điện gió phục vụ sinh hoạt và sản
xuất nông nghiệp”, ông Bá hào hứng chia sẻ.
Sau gần 100 ngày không rời mô hình,
ông Bá đã hoàn thành thiết kế cây quạt điện
gió gồm một số bộ phận chính như: bộ phận
tua bin phát điện, bộ tăng tốc, bánh lái điều
chỉnh hướng, cánh quạt đón gió dài 1,2m…,
đặc biệt chiếc quạt điện gió được gắn cao hơn
mặt đất khoảng 12m. Khi có gió, cánh quạt
xoay tạo ra dòng điện có công suất khoảng
1kW/giờ. Để hạn chế rủi ro, ông Bá đã lắp đặt
thêm bộ phận phanh tua bin ngắt điện phòng
khi có gió mạnh và bình ắc quy tích trữ đủ
điện năng. Tuy nhìn bề ngoài điện gió khá to
và nhiều chi tiết nhưng giá thành để làm nên
cả hệ thống điện gió khá rẻ. Ông Bá tính hết
chi phí khoảng 25 triệu đồng/cây quạt có
công suất 1kW/giờ nhưng phục vụ tốt cho
sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp. Với 3
công đất vườn, ông Bá có thể sử dụng được
cho việc bơm tưới cây trong thời gian 3 giờ.
Ngoài ra, khi nguồn điện cạn kiệt thì chỉ cần
1 giờ quạt gió xoay tích điện thì tiếp tục sử
dụng. Ưu điểm của thiết bị này chính là tích
điện bất kỳ thời gian nào dù ban ngày hay ban
đêm, đây là điều mà nguồn điện năng lượng
mặt trời không làm được. “Bây giờ, tôi không
lo về điện bơm nước tưới cây nữa. Nếu không
có gió, tôi sử dụng điện sinh hoạt bình thường
nhờ vào bình ắc quy tích trữ điện. Đồng thời,
với công suất tải điện 1kW/giờ thì một năm
tôi tiết kiệm khoảng 3.600 kW điện”, ông Bá
tâm sự.
Hiệu ứng lan tỏa
Ông Nguyễn Văn Phúc, Bí thư Đảng
ủy xã Tân Hòa, thông tin: Việc ông Bá chế
tạo được điện gió cơ bản phục vụ cho sinh
hoạt, sản xuất nông nghiệp, người dân địa
phương mừng lắm. Nhiều người đã tìm hiểu
thông tin đến để nhờ ông chế tạo về phục vụ
cho gia đình.
Như anh Huy, ngụ cùng địa phương
với ông Bá, đã mấy lần đến đặt hàng nhờ ông
làm cho một chiếc quạt. Anh Huy cho biết:
“Tôi có 7 công đất trồng cây ăn trái và nuôi
cá. Cũng cùng hoàn cảnh như ông Bá, mảnh
vườn tôi chưa có điện, nếu kéo điện lưới thì
phải mất hơn 50 triệu đồng, chưa kể tiền điện
phải trả hàng tháng. Vì vậy, tôi đã đặt hàng
ông Bá làm cây quạt điện gió có công suất
3kW/giờ để sử dụng mô tơ bơm nước công
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 5/53
suất 3 mã lực phục vụ tưới tiêu. Với công suất
này, ông Bá dự tính chi phí chỉ khoảng 30
triệu đồng, vì chỉ tăng thêm kích thước cánh
quạt và mua thêm bình ắc quy tích điện”.
Trước hiệu ứng mang lại bước đầu,
ông Bá chia sẻ thêm: “Những thiết bị mà tôi
chế tạo nên theo tính toán sẽ sử dụng được từ
10-20 năm. Để cải tiến tốt hơn cho sản phẩm,
tới đây tôi tiếp tục nghiên cứu chế tạo quạt
điện gió cánh đứng nhằm tạo ra điện năng
lớn hơn, hướng đến sản xuất đại trà, giảm giá
thành để phục vụ nhu cầu của người dân”.
Bí thư Đảng ủy xã Tân Hòa Nguyễn
Văn Phúc cho biết thêm: “Mô hình điện gió
này rất thông minh, giải quyết nhu cầu sử
dụng điện của người dân địa phương, nhất là
đối với những khu vực nông thôn chưa kết nối
được điện lưới quốc gia. Chúng tôi rất khâm
phục ông Bá vì ông đã chế tạo ra được thiết
bị giúp tiết kiệm điện năng mà còn phục sản
xuất nông nghiệp tốt. Chúng tôi sẽ tuyên
truyền và khuyến khích người dân sử dụng
quạt điện gió gắn liền sản xuất nông nghiệp
để gia tăng lợi nhuận cho gia đình”.
Nguồn:Trúc Linh,
baohaugiang.com.vn, 11/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Các giải pháp tăng cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin quang điện hóa sử dụng chất màu nhạy quang
TS Nguyễn Tuyết Phương (bìa trái) hướng dẫn sinh viên nghiên cứu về pin mặt trời.
Hiện nay việc tận dụng không gian
kiến trúc để hấp thu năng lượng mặt trời, tạo
nguồn năng lượng sạch chưa được chủ đầu tư
các tòa nhà cao tầng quan tâm.
Vì vậy, đề tài “Các giải pháp tăng
cường độ bền và hiệu năng hoạt động của pin
quang điện hóa sử dụng chất màu nhạy
quang” của TS Nguyễn Tuyết Phương (Khoa
Hóa, Trường Đại học Khoa học Tư nhiên -
Đại học Quốc gia TPHCM) và cộng sự hy
vọng sẽ góp phần “xanh” hóa được những tòa
nhà bê tông cốt thép ở đô thị.
Pin quang điện hóa sử dụng chất màu
nhạy quang, hay còn gọi pin mặt trời chất
màu nhạy quang (dye-sensitized solar cells) là
loại pin mới, được xếp vào nhóm thế hệ thứ 3
sau pin silicon, pin màng mỏng vô cơ. Pin
này có ưu điểm dễ chế tạo, giá thành thấp,
hiệu quả hoạt động cao (trên 40%) trong điều
kiện ánh sáng yếu nên phù hợp các ứng dụng
trong nhà.
Nói về quá trình và cơ duyên nghiên
cứu đề tài này, TS Nguyễn Tuyết Phương cho
rằng các kết quả nghiên cứu trong thời gian
học tập, công tác ở tại Đan Mạch đã giúp giải
thích được vai trò của từng chất trong pin và
độ bền của pin để tiếp tục phát triển, tối ưu
thành phần dung dịch điện ly; sử dụng các chất
phụ gia mới để tăng độ bền của pin. “Kết quả
cho thấy độ bền của pin được cải thiện đáng
kể từ 60% tăng lên 90%. Hơn thế nữa, nghiên
cứu đã tiếp tục phát triển những hệ điện ly mới
dễ tổng hợp, giá thành thấp, thân thiện với môi
trường và cải thiện tốt độ bền của pin”, TS
Nguyễn Tuyết Phương khẳng định.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 6/53
Để tăng hiệu năng hoạt động của pin,
TS Phương đã phát triển phương pháp biến
tính bề mặt điện cực của pin bằng các phương
pháp hóa học, điện hóa. Phương pháp điện
hóa còn cho phép đánh giá hiệu quả của quá
trình biến tính điện cực, giúp xác định một
cách gián tiếp những yếu tố ảnh hưởng đến
hiệu năng hoạt động của pin do biến tính bề
mặt gây ra, để từ đó sử dụng phương pháp
biến tính phù hợp.
36 tuổi đời, ngoài những giờ trên giảng
đường, hàng tuần, tiến sĩ Phương vẫn trao đổi
làm việc với các giáo sư nước ngoài và được
các thầy gửi hóa chất, tặng trang thiết bị để
nghiên cứu và giảng dạy. Đặc biệt là với GS
Torben Lund (Trường Roskilde, Đan Mạch)
đã hỗ trợ, khuyến khích để ngày nay TS
Phương là một trong số ít chuyên gia về lĩnh
vực pin mặt trời của Việt Nam.
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cơ
bản mà các nhà khoa học như TS Phương
đang gặp khi triển khai vào thực tiễn còn hạn
chế. Sở dĩ có điều đó là do các nghiên cứu
ứng dụng cần phải có sự phối hợp liên ngành
và đa ngành; trong khi nghiên cứu của các
nhà khoa học tập trung vào chuyên môn sâu
và chuyên ngành hẹp.
Mặt khác thị trường khoa học công
nghệ hiện nay mới được hình thành, cơ chế
chính sách và thông tin khoa học chưa hoàn
thiện, còn thiếu kết nối giữa nhà khoa học và
doanh nghiệp; nhiều sản phẩm nghiên cứu
hữu ích, có giá trị thực tiễn cao nhưng không
thể có địa chỉ chuyển giao. Trong khi các
doanh nghiệp cần sản phẩm lại đi tìm kiếm,
thậm chí phải mua của nước ngoài với giá
cao. Từ đó, gây lãng phí cả tiền bạc, thời gian
và chất xám của nguồn lực trong nước.
Pin có thể uốn dẻo, nhiều màu sắc Nghiên cứu của TS Nguyễn Tuyết Phương
tập trung vào 2 yếu tố: độ bền và hiệu
năng hoạt động của pin quang điện hóa sử
dụng chất màu nhạy quang phức chất
Ruthenium để góp phần đẩy nhanh quá
trình thương mại hóa loại pin này. Điểm
đặc biệt là giúp các doanh nghiệp có thể
sản xuất ra những “tấm dán” pin mặt trời
có thể uốn dẻo, bẻ cong, nhiều màu sắc…
để sử dụng làm cửa kính cho các tòa nhà
cao tầng, vừa đáp ứng thẩm mỹ về mặt
kiến trúc vừa chuyển hóa quang năng
thành điện năng.
Nguồn: Quang Huy, sggp.org.vn,
04/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Hệ thống tìm kiếm video thông minh theo thông tin hình ảnh
Đề tài do tác giả Nguyễn Vinh Tiệp và
cộng sự (Trung tâm Phát triển KH&CN Trẻ)
thực hiện nhằm nghiên cứu và phát triển hệ
thống phần mềm cho phép người sử dụng tìm
kiếm từ kho dữ liệu video lớn các phân đoạn
video chứa thông tin tương ứng với hình
ảnh/vật mẫu trong thế giới thực.
Hiện nay, các hệ thống tương tác thông
minh ngày càng được quan tâm và có những
ứng dụng thiết thực trong cuộc sống. Các hệ
thống này sử dụng những kênh đầu vào theo
hướng tiếp cận tương tự như các giác quan
của con người (như thị giác, thính giác, vị
giác, khứu giác,...) nên cần giải quyết nhiều
bài toán cơ bản liên quan đến các kênh dữ
liệu đầu vào như dữ liệu hình ảnh, âm thanh
và các cảm biến khác.
Đề tài tập trung nghiên cứu, xây dựng
các thuật toán tìm kiếm đối tượng dựa vào
đặc trưng thị giác trên kho dữ liệu lớn và xây
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 7/53
dựng ứng dụng tương tác minh họa. Khái
niệm tìm kiếm dựa trên đặc trưng thị giác
được hiểu theo nghĩa đối tượng tìm kiếm là
ảnh hoặc video được đánh chỉ mục hoàn toàn
tự động mà không có sự can thiệp của con
người. Bài toán tìm kiếm này có rất nhiều ứng
dụng trong thực tế như ứng dụng tìm kiếm
hình ảnh, hệ thống giám sát, quản lý thương
hiệu, quảng cáo. Đối với những đối tượng tìm
kiếm của ảnh mẫu, người sử dụng có thể quan
tâm đến toàn bộ cảnh vật trong ảnh cho đến
những đối tượng với kích thước lớn nhỏ khác
nhau. Khi tìm kiếm với những đối tượng ít
đặc trưng, ví dụ như những đối tượng nhỏ
hoặc không có nhiều hoa văn, giả thuyết của
mô hình BOW (Bag of Visual Word) bị vi
phạm. Cho dù sử dụng các kỹ thuật hậu xử lý
nâng cao của mô hình BOW cũng như kiểm
tra ràng buộc hình học, mở rộng truy vấn vẫn
không giải quyết được vấn đề trên.
Do vậy, nhóm tác giả đề xuất phương
pháp kiểm tra ràng buộc mới trong đó dung
hợp mô hình BOW (tiếp cận từ dưới đi lên
hay còn gọi là bottom up) và phương pháp
phát hiện đối tượng (tiếp cận từ trên xuống
hay còn gọi là top down). Đóng góp chính
của đề xuất này là khai thác hiệu quả mối
quan hệ về vị trí của các từ thị giác (visual
word) với vị trí đề xuất đối tượng (object
instance propsal) được ước lượng bởi bộ phát
hiện đối tượng. Trong quá trình phát triển các
thuật toán phục vụ cho bài toán tìm kiếm đối
tượng dựa vào thông tin thị giác, nhóm tác giả
cũng xây dựng các hệ thống tương tác đi kèm
để minh họa cho ý tưởng tương tác và tiềm
năng ứng dụng thực tế như hệ thống tra cứu
thông tin du lịch, văn hóa và sản phẩm, hệ
thống khuyến nghị hỗ trợ gợi nhớ hình ảnh có
liên quan dựa trên mạng xã hội.
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
08/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS trong việc hỗ trợ cứu hỏa
Nhóm tác giả Phạm Hoàng Bảo, Trần
Huỳnh Duy, Nguyễn Thị Thanh Thùy (sinh
viên Trường đại học khoa học tự nhiên
TP.HCM) đã nghiên cứu đề tài Ứng dụng
công nghệ mô phỏng 3D và định vị GPS
trong việc hỗ trợ cứu hỏa và dập lửa khi xảy
ra hỏa hoạn.
Chỉ trong 9 tháng đầu của năm
2018, cả nước xảy ra 2.989 vụ cháy, làm 73
người tử vong và 163 người bị thương, tổng
thiệt hại lên đến 1.590 tỷ đồng. Để giảm thiểu
những tổn thất mất mát xảy ra quá lớn cần
phải phát hiện đám cháy xảy ra ở giai đoạn
đầu chưa lan rộng và có những biện pháp sơ
tán người dân ra đến nơi an toàn sớm nhất.
Đồng thời khi quét nhiệt, lính cứu hỏa có thể
phát hiện nhiệt độ cao ở một vài điểm trong
tòa nhà, đó chính là nơi nguyên nhân dẫn đến
cháy nổ cần phải dập tắt đám cháy tại điểm
gây cháy trước để tránh lây lan.
Từ đó, nhóm đã thực hiện một App –
Web cứu hộ, phần mềm được sử dụng hệ
thống định vị GPS trong nhà (nơi không gian
hẹp) để xác định đúng vị trí của người gặp
nạn và hướng dẫn hướng đi an toàn rời khỏi
tòa nhà.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 8/53
Xét ở một phòng của một căn hộ cụ
thể, khi có tai nạn xảy ra, chuông báo cháy
của tòa nhà sẽ hoạt động mạnh mẽ. Khi người
trong phòng phát hiện có hỏa hoạn, trước tiên
họ sẽ dùng những biện pháp thô sơ như đeo
khẩu trang thấm nước, đeo mặc nạ chống độc
v.v… Sau đó dùng thiết bị di động có kết nối
3G/4G dùng App được cài đặt/đăng nhập tài
khoản từ trước để định vị vị trí của bản thân.
Sau đó, khi rời khỏi cửa, thiết bị quét nhiệt
tòa nhà sẽ cung cấp cho người dùng địa điểm
an toàn để thoát hiểm.
Còn ở bên ngoài, những người cứu hộ
sẽ thực hiện công tác phun nước dập lửa,
đồng thời có nhân viên đăng nhập vào Web
được cung cấp có hình mô phỏng toàn tòa
nhà, từ đó có thể thấy người còn kẹt lại trong
căn nhà thông qua thiết bị định vị của họ
được thể hiện bằng những chấm đỏ. Từ đó, có
thể cứu hộ người dân một cách nhanh chóng,
hạn chế được số người chết do ngạt thở khi có
hỏa hoạn xảy ra.
Việc ứng dụng phần mềm đã giúp đem
lại hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội như:
giảm thiệt hại tài sản, cụ thể là xác định được
chính xác nguồn gây cháy để tập trung chữa
cháy khu vực đó; giảm sự cháy lan qua khu
vực lân cận, giúp giảm mất mát tài sản lẫn
thiệt hại chung cư; nhờ vào chức năng định vị
vị trí người dân mà giảm được số lượng
người thương vong; công tác cứu hỏa, hỗ trợ
dễ dàng và người dân dựa vào đó có thể tìm
được đường thoát an toàn.
Một cách tổng quát, theo bạn
Phạm Hoàng Bảo, đại diện nhóm tác giả, việc
xây dựng mô hình 3D mô phỏng tòa nhà kết
hợp với cảm biến nhiệt và định vị GPS nhằm
cung cấp vị trí người sử dụng trong toà nhà,
hệ thống GPS cần phải có độ chính xác cao
trong không gian nhỏ. Dựa vào cảm biến
nhiệt kết hợp với mô hình 3D của toà nhà mà
ta có được cái nhìn tổng quát về đám cháy và
hướng đám cháy lây lan.
Về hướng phát triển phát triển tiếp
theo, có thể phát triển ứng dụng nhầm cập
nhật các thông số quan trắc không khí trong
toà nhà (như nồng độ O2, nồng độ CO2), giúp
dự báo khả năng cháy khi có cháy và liên hệ
với tổng đài 114. Có thể gửi cả thông tin về
tòa nhà như nơi bắt đầu cháy, nồng độ O2 và
CO2 khi đó ra sao v.v… để lực lượng cứu hỏa
có thể chuẩn bị dụng cụ đầy đủ nhằm ứng
phó.
Điều kiện cần thiết là mỗi chung
cư cần trang bị thiết bị cảm biến nhiệt, ít nhất
mỗi tầng một máy nhằm hỗ trợ tốt nhất cho
ứng dụng. Tổ chức một khóa học hướng dẫn
sử dụng ứng dụng cho sở cứu hỏa và người
dân trong các chung cư nhằm đảm bảo sử
dụng một cách hiệu quả trong trường hợp
khẩn cấp nhất.
Đây là đề tài đã được chọn vào vòng
thuyết trình cuộc thi: “Tìm kiếm giải pháp,
sản phẩm GIS TP.HCM năm 2018” do Sở
KH&CN TP.HCM tổ chức.
Nguồn: Mai Thy,
khoahocphothong.com.vn, 25/03/2019
Trở về đầu trang
*************
Phương pháp phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn dịch nhân tạo
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 9/53
Nhóm nghiên cứu Nguyễn Tấn Toàn,
Vũ Thanh Nguyên, Trịnh Quốc Sơn, Lê Đình
Tuấn từ Trường đại học công nghệ thông tin
TP.HCM và Trường đại học kinh tế công
nghiệp Long An đã nghiên cứu phương pháp
phát hiện virus máy tính dựa trên hệ miễn
dịch nhân tạo kết hợp thông tin từ cấu trúc PE
của tập tin trên hệ điều hành Windows.
Các nhà khoa học đã nghiên cứu về
một phương pháp phát hiện virus dựa trên
giải thuật của hệ miễn dịch nhân tạo (AIS),
kết hợp với thông tin được trích xuất từ cấu
trúc Portable Executable (PE) của các tập tin
trên hệ điều hành Windows, nhằm giúp giảm
chi phí trích xuất đặc trưng từ việc dùng đặc
trưng của cấu trúc PE và tăng thêm sự đa
dạng của các bộ phát hiện thông qua giải
thuật hệ miễn dịch nhân tạo. Phương pháp đã
được thực nghiệm với các bộ dữ liệu và các
bộ phân lớp khác nhau (SVM, Naïve Bayes
và Decision Tree). Kết quả thực hiện cho thấy
độ chính xác của phương pháp có thể đạt lần
lượt 89,25%, 79,93% và 87,38% khi sử dụng
SVM, Naïve Bayes và Decision Tree trong
giai đoạn phân lớp.
Hiện nay, để phát hiện virus máy tính,
hai phương pháp kinh điển nhất là phương
pháp dựa trên chữ ký và phương pháp dựa
trên hành vi. Nhưng so với thời điểm hiện tại,
hai phương pháp này không đủ tốt để giải
quyết vấn đề của virus. Phương pháp dựa trên
chữ ký cơ bản có nhược điểm là không thể
nhận dạng được các virus chưa biết (mới hoặc
là biến thể của virus trước đó). Trong khi đó,
phương pháp dựa trên hành vi mặc dù có thể
phát hiện được các virus chưa biết dựa trên
chuỗi hành vi của tập tin nhưng chi phí để
phân tích của phương pháp này rất tốn kém.
Do đó, gần đây, để tìm ra các phương
pháp tốt hơn, nhiều phương pháp mới dựa
trên khai thác dữ liệu, máy học, thống kê, hệ
miễn dịch nhận tạo đã được các nhiều khoa
học quan tâm. Đi theo xu hướng đó, nhóm
nghiên cứu tiếp cận theo hướng phát hiện
virus mới dựa trên các giải thuật của hệ miễn
dịch nhân tạo, kết hợp với thông tin được
trích xuất từ cấu trúc PE của tập tin trên hệ
điều hành Windows, với mong muốn đóng
góp về nghiên cứu thử nghiệm một cách tiếp
cận mới với việc kết hợp giá trị của dữ liệu
PE trong phát hiện virus và khả năng xây
dựng, đa dạng hóa các bộ phát hiện (detector)
của AIS khi lượng dữ liệu huấn luyện còn hạn
chế so với lượng dữ liệu thực tế trong phát
hiện virus máy tính trên hệ điều hành
Windows.
Kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học
đã tiếp cận việc phát hiện virus máy tính bằng
phương pháp sử dụng AIS kết hợp với thông
tin được trích xuất từ cấu trúc PE. Phương
pháp tiếp cận của bài báo có thể dự đoán các
tập tin chưa biết trước đó với một hiệu suất
khá tốt.
Các thử nghiệm đã cho thấy rằng cách
tiếp cận của bài báo có thể đạt lần lượt độ
chính xác trung bình là 89,25%, 79,93%, và
87,38% khi sử dụng SVM, Naive Bayes, và
Decision Tree. Về lý thuyết, thông tin số thực
từ cấu trúc PE có sự khác nhau trong miền giá
trị giữa tập tin sạch và tập tin virus. Bên cạnh
đó, các DLL quan trọng chứa các hàm liên
quan đế đọc, viết, copying dữ liệu... của hệ
thống và đây là các loại hành vi mà virus
thường sử dụng nên các DLL chứa các hành
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 10/53
vi này thường xuyên được gọi trong các virus
máy tính. Do đó, mà việc kết hợp thông tin
dạng số từ thông tin của các PE header và
thông tin của DLL có thể sẽ là đặc trưng tốt
trong phân biệt virus và tập tin sạch.
Trong giai đoạn sử dụng AIS, NSA sẽ
loại bỏ các vector đặc trưng không tốt khi nó
quá gần giống với tập tin sạch nhằm để giảm
thiểu sai sót trong bước dự đoán và giữ lại các
vector đặc trưng tốt cho quá trình tạo các bộ
phát hiện. Để làm cho hệ thống có thể dự
đoán được virus chưa biết tốt hơn, một biến
thể của Clonalg được sử dụng để nhân bản
các bộ phát hiện với một vài đột biến nhằm
làm cho các bộ phát hiện trở nên đa dạng hơn.
Tuy nhiên, việc tìm một bộ phân biệt virus và
tập tin sạch một cách thủ công là tương đối
khó nên phương pháp phân lớp được sử dụng.
Để phân lớp, các vector nguy hiểm được tính
toán, chuẩn hóa và trải qua quá trình phân lớp
nhằm tạo bộ phân lớp cho việc dự đoán virus.
Đó là các nguyên nhân lý giải cho việc
phương pháp có thể đạt được kết quả khá tốt
như mong đợi.
Trong tương lai, để làm cho phương
pháp này trở nên tốt hơn, nhóm nghiên cứu
cho biết sẽ đánh giá phương pháp bằng các
đặc trưng khác, các biến thể của giải thuật
AIS khác nhau cùng với tập các dữ liệu đa
dạng, phong phú hơn. Bên cạnh đó, ở thời
điểm hiện tại, hệ thống chỉ có thể dự đoán
được một tập tin là virus hay tập tin sạch nên
các nỗ lực để dự đoán được kiểu virus sẽ
được đầu tư nhằm làm cho hệ thống tốt hơn.
Nguồn: N.Quỳnh,
khoahocphothong.com.vn, 20/03/2019
Trở về đầu trang
*************
Phát triển thành công AI hướng đến lĩnh vực bất động sản
Hoạt động đào tạo nội bộ thường xuyên tại Vitalify Asia.
Từ tháng 4/2019, hệ thống RPA (
Robotic Process Automation - dịch vụ tự động
hóa quy trình bằng Robot) có tích hợp AI (trí
tuệ nhân tạo) để dự đoán hiệu quả của mỗi bất
động sản một cách tự động và các giải pháp tối
ưu cho các công ty môi giới bất động sản
chính thức được giới thiệu tại Nhật Bản.
Dịch vụ do Vitalify Asia - công ty
chuyên phát triển các ứng dụng trên
Mobile/Web và nghiên cứu phát triển công
nghệ AI tại Hồ Chí Minh sở hữu, và công ty
TNHH RPA Retech Lab - đối tác kinh doanh
vận hành và triển khai.
“Hankyou baizou kun”
(https://www.rparetechlab.com/hankyobaizo/)
do nhóm kỹ sư AI Việt Nam phát triển là dịch
vụ tân tiến nhất được vận hành theo nguyên
tắc đó là AI sẽ tuyển chọn và đề cử những dự
án bất động sản thích hợp cho từng nhà môi
giới. Việc này không những giúp cắt giảm
đáng kể chi phí mà còn thu hút khách hàng
tiềm năng. Loại đặc thù công việc này trước
đây chỉ có thể thực hiện được bởi đội ngũ
nhân viên kinh doanh bất động sản có nhiều
năm kinh nghiệm.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 11/53
Những thành viên trong nhóm phát
triển “Mobile AI Lab" thuộc công ty Vitalify
Asia là những kỹ sư AI ưu tú nằm trong bảng
xếp hạng Top 1% trên Kaggle - một sân chơi
cạnh tranh về AI của Google. Họ luôn tích
cực tiếp cận, tích luỹ những kỹ thuật mới; và
hàng ngày tiến hành nghiên cứu, phát triển AI
bằng cách lựa chọn những chủ đề đa dạng
khác nhau mà họ cảm thấy hứng thú.
Ông Hà Quốc Hiền - Phó Giám đốc
công ty TNHH Vitalify Asia nhấn mạnh: “Để
thực hiện dự án này, chúng tôi đã gặp phải
một vài khó khăn. Đầu tiên, đó là phân tích và
chuẩn hóa dữ liệu. Khi nhận dữ liệu bất động
sản từ khách hàng Nhật mình đã phải làm việc
với họ để phân tích ý nghĩa của từng dữ liệu,
ngoài ra mình cũng phải chuẩn hóa dữ liệu đó
để có thể sử dụng được. Thứ hai là xây dựng
mô hình bài toán phù hợp với yêu cầu của
khách hàng cũng như phù hợp với kiến thức
và nghiệp vụ trong lĩnh vực bất động sản tại
Nhật Bản. Thứ ba là xây dựng công thức để
đánh giá về bài toán đã làm được.”
Bên cạnh đó Vitalify Asia có đội phát
triển dự án chuyên nghiệp, nhất quán từ tích
hợp mô hình AI vào hệ thống Web cho đến
khi triển khai ra thị trường. Cụ thể trên 10
năm phát triển Vitalify Asia luôn cập nhật
những công nghệ hiện đại, tiên tiến nhất và áp
dụng mô hình Agile Scrum để có thể phát
triển tất cả các công đoạn của dự án chỉ với
đội ngũ gồm PM (quản lý dự án) và những kỹ
sư full stack.
Nhờ vào việc vận dụng những kinh
nghiệm phát triển thực tiễn được tích lũy
trong thời gian qua và cách tổ chức hệ thống
như trên; cùng với sự chỉ đạo, hướng dẫn của
ông Hà Quốc Hiền- Phó Giám Đốc công ty;
Vitalify Asia đã tạo nên một môi trường làm
việc lý tưởng thu hút nhiều nhân tài với năng
lực sáng tạo, khả năng tư duy cao và sự nỗ
lực không ngừng từ các kỹ sư Việt Nam để
hướng tới sự phát triển thành công các dịch
vụ tiên tiến trong một khoảng thời gian ngắn.
Trong khoảng thời gian gần đây, năng
lực của các kỹ sư Việt Nam đã không ngừng
được nâng cao ở mặt kỹ thuật mà còn ở nhiều
phương diện khác như là kỹ năng giao tiếp
với nước ngoài; sự linh hoạt, uyển chuyển; và
năng lực sáng tạo. Tiếp tục đà phát triển này,
năng lực kỹ sư Việt Nam được kỳ vọng sẽ
ngày càng phát triển nhanh hơn trong tương
lai. Vitalify Asia sẽ khai thác triệt để môi
trường đầy tiềm năng này để có thể bắt kịp
thời đại Công Nghệ 4.0 mà các nước đang
hướng tới và cung cấp các dịch vụ do Việt
Nam phát triển ra thị trường thế giới.
Nguồn: thoidai.com.vn, 23/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Tối ưu hóa dàn máy tính để bàn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 05/2019 12/53
Thạc sĩ Đặng Thanh Hùng giới thiệu bo mạch điện tử Raspberry Pi
Vì được trang bị nhiều năm nên các
dàn máy tính để bàn của Bệnh viện Nhi đồng
1 đã xuống cấp, không ít trong số đó khi sử
dụng phát ra tiếng ồn rất lớn. Với một bệnh
viện luôn quá tải người bệnh, lại thêm tiếng
ồn của các thiết bị điện tử, khiến không khí
các phòng khám thêm phần bí bách. Là
Trưởng phòng Công nghệ thông tin của Bệnh
viện Nhi đồng 1, thạc sĩ Đặng Thanh Hùng
nghĩ đến giải pháp làm sao để thay thế những
cục CPU cổ điển bằng loại thiết bị khác, hiện
đại hơn. Anh bắt tay vào tìm hiểu các thiết bị
thay thế.
Từ nguồn tài liệu trong và ngoài nước,
kỹ sư Đặng Thanh Hùng biết đến bo mạch
điện tử Raspberry Pi có khả năng thay thế cục
CPU mà chức năng không thay đổi. Lục tìm
các địa chỉ bán thiết bị điện tử tại TPHCM,
anh Hùng vui mừng khi thấy sản phẩm này có
ở thị trường với giá tương đối rẻ. Sau khi âm
thầm thử nghiệm trên máy tính để bàn của cá
nhân, anh khá hài lòng với thiết bị thay thế
này. Với máy tính đơn lẻ thì quá ổn, nhưng
với hệ thống cả trăm dàn máy, làm sao để vận
hành tối ưu nhất lại là thách thức không nhỏ.
Anh Hùng tiếp tục nghiên cứu cách vận hành
nó trên hệ thống hàng trăm máy tính. Sau 3
tháng anh đã tìm ra cách vận hành khả quan.
Giữa năm 2016, anh Hùng mạnh dạn đề xuất
ban giám đốc bệnh viện cho thay thế cuốn
chiếu (máy nào xuống cấp, hư hỏng thì thay
trước), từng bước chuẩn hóa máy tính để bàn
của toàn bệnh viện.
Thạc sĩ Đặng Thanh Hùng cho biết, bo
mạch điện tử Raspberry Pi với kích thước chỉ
lớn hơn chiếc thẻ ATM, nếu tính cả hộp bảo
quản thì bằng gói thuốc lá (kích thước bằng
1/100 CPU cổ điển), nhưng đầy đủ chức năng
của một cục CPU cổ điển, hoàn toàn thay thế
chỗ đứng của cục CPU trong dàn máy tính.
Các bo mạch sẽ được kết nối với máy chủ
thành một hệ thống vận hành khép kín. Đặc
biệt, sản phẩm này hoạt động theo cơ chế ảo
hóa máy chủ bằng phần mềm Proxmox mở
rộng để kết nối từ bo mạch qua mạng nội bộ
vào máy chủ.
Đầu năm 2017, ban giám đốc Bệnh
viện Nhi đồng 1 đồng ý đưa công trình sáng
tạo vào áp dụng cuốn chiếu tại bệnh viện.
Thạc sĩ Đặng Thanh Hùng phân tích, sở dĩ
anh thuyết phục ban giám đốc bệnh viện thay
thế bo mạch Raspberry Pi cho CPU bởi nó có
rất nhiều ưu điểm. Cụ thể, mỗi bo mạch điện
tử mua mới có giá gần 2 triệu đồng, nhưng
CPU mua mới giá trung bình là 8 triệu đồng,
vì vậy khi đầu tư thiết bị này, bệnh viện tiết
kiệm được 3/4 chi phí đầu tư trang thiết bị. Vì
Raspberry Pi hoạt động theo cơ chế ảo hóa
máy chủ bằng phần mềm Proxmox mở rộng
nên hoàn toàn không mất chi phí mua phần
mềm bản quyền như một số hệ thống khác.
Đặc biệt, thiết bị này giúp tiết kiệm
điện, trung bình mỗi cục CPU khi sử dụng sẽ
tiêu thụ hết 150 - 200w điện/giờ, trong khi
sản phẩm mới chỉ tiêu thụ hết 4w điện/giờ,
như vậy về điện năng, bo mạch điện tử
Raspberry Pi tiết kiệm gần 40 lần so với
CPU. Với máy tính bàn sử dụng CPU, khi
thiết bị bị lỗi phần mềm, nhân viên kỹ thuật
phải tới tận nơi để kiểm tra, sữa chữa, nhưng
với bo mạch điện tử Raspberry Pi, toàn bộ lỗi
phần mềm đều được sửa chữa trên hệ thống
máy chủ. Ước tính mỗi ngày tiết kiệm được
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 13/53
từ 2 - 3 công làm việc. Ngoài ra, bo mạch
điện tử Raspberry Pi không tỏa nhiệt ra ngoài
môi trường và khi thiết bị hư hỏng, lượng rác
thải điện tử cũng sẽ giảm rất nhiều so với
CPU cổ điển và tiết kiệm được diện tích
không gian đặt.
“Giai đoạn đầu, chúng tôi thay thế
100 bo mạch điện tử Raspberry Pi cho 100
cục CPU cổ điển ở những dàn máy tính để
bàn cũ nhất. Kết quả là hệ thống vận hành tốt
ngoài mong đợi, không bác sĩ nào phàn nàn
về thiết bị máy tính. Sau thành công ở giai
đoạn đầu, hiện toàn Bệnh viện Nhi đồng 1 đã
thay thế gần 300 cục CPU bằng bo mạch
Raspberry Pi. Tính ra, trong năm vừa qua,
bệnh viện đã tiết kiệm được gần 500 triệu
đồng tiền điện. Nếu thay thế 600 CPU của
toàn bộ máy tính hiện hữu trong bệnh viện thì
mỗi năm cũng tiết kiệm được gần 1 tỷ đồng”,
kỹ sư Hùng cho biết.
Kết quả mà giải pháp này mang lại đã
khiến cho một số bệnh viện trên địa bàn
TPHCM quyết định học hỏi và áp dụng, như
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, Bệnh viện Da
Liễu TPHCM,….
Nguồn: Thu Hường, sggp.org.vn,
02/04/2019
Trở về đầu trang
*************
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
“Bàn tay robot Uplift” cho người khuyết tật
Sinh viên và doanh nghiệp cùng thực hiện dự án "Bàn tay robot Uplift".
“Bàn tay robot Uplift” là sáng kiến của
một startup nhằm tạo cơ hội cho những người
khuyết tật tại Việt Nam được lắp tay điện và
giới thiệu việc làm miễn phí.
Đây là hoạt động hợp tác giữa Vulcan
Augmetics Social Enterprise (doanh nghiệp
khởi nghiệp chuyên sản xuất tay chân giả linh
hoạt giá rẻ) và Đại học RMIT Việt Nam.
Theo đó, sinh viên Đại học RMIT Việt Nam
sẽ tham gia trực tiếp vào các công đoạn của
dự án “Bàn tay robot Uplift” nhằm nâng cao
kỹ năng, kỹ thuật và công nghệ.
Sinh viên được yêu cầu nghiên cứu và
chế tạo một cánh tay điện có thể hỗ trợ người
khuyết tật làm một số công việc cụ thể như
rửa chén bát. Sinh viên phải tạo ra những
chuyển động của cánh tay robot để người
khuyết tật có thể thực hiện nhiều công việc
một cách bình thường.
PGS Eric Dimla, Trưởng khoa Khoa
học và Công nghệ, Đại học RMIT Việt Nam
cho biết, sinh viên sẽ hoàn thành thiết kế cơ
học và bản mẫu điều khiển điện tử đầu tiên.
Các em sẽ kết hợp hai phần lại với nhau và
thử hệ thống trong thời gian tới đây.
“Chúng tôi sẽ cùng với doanh nghiệp
tham gia vào hoạt động hỗ trợ để quảng bá
nhằm giúp dự án tiếp cận với cộng đồng”-
PGS Eric Dimla nói.
Ông Rafael Masters, Nhà sáng lập và
là Giám đốc điều hành của Vulcan
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 14/53
Augmetics, cho biết, đây là một phần trong
dự án “Bàn tay robot Uplift” nhằm tạo cơ hội
cho 30 người khuyết tật tại Việt Nam được
lắp tay điện và giới thiệu việc làm miễn phí.
Dự án này đã dành chiến thắng trong
Giải thưởng Doanh nhân cộng đồng (Blue
Venture Award) đầu tiên tại Việt Nam vào
đầu năm nay. Dự án sẽ đại diện cho Việt Nam
tham gia tranh tài trên đấu trường quốc tế -
the Venture, được tổ chức vào tháng 5 này.
“Chúng tôi đánh giá cao về những
sinh viên tham gia dự án. Đây là những người
trẻ có tư duy cấp tiến, rất có khả năng thích
ứng và hết sức chủ động. Chúng tôi tin tưởng,
với sự đóng góp lớp của sinh viên trong dự án
này, những mục tiêu quan trọng trong kiến
tạo ra những đóng góp có giá trị và tạo ảnh
hưởng cho xã hội tại Việt Nam sẽ thành hiện
thực”- ông Rafael Masters nói.
Nguồn: Hà Thế An, khampha.vn,
22/04/2019
Trở về đầu trang
*************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Phẩm màu thực phẩm từ quả gấc, quà dành dành và lá gai
Gia Hân và Minh Hạnh thực hiện công đoạn chiết phẩm màu.
Lê Nguyễn Gia Hân và Lê Thị Minh
Hạnh, học sinh lớp 9/5 trường THCS Thống
Nhất, thành phố Huế, đã nghiên cứu sản xuất
thành công phẩm màu thực phẩm từ những
nguyên liệu dễ kiếm, giá rẻ như quả gấc, quà
dành dành và lá gai.
Minh Hạnh cho biết, phẩm màu là chất
phụ gia thực phẩm được sử dụng rất nhiều
trong chế biến thực phẩm, là một trong những
chỉ tiêu đánh giá chất lượng cảm quan thực
phẩm và góp phần làm tăng cảm giác ngon
miệng, kích thích sự thèm ăn.
“Khác với phẩm màu tổng hợp, phẩm
màu tự nhiên được làm từ những chất màu
sẵn có trong thực vật tự nhiên, không gây độc
và không gây ra những mùi vị lạ cho thực
phẩm. Sử dụng chất màu tự nhiên không chỉ
cải thiện được hình thức bên ngoài mà còn
làm tăng giá trị đinh dưỡng của thực phẩm”,
Hạnh nhấn mạnh.
Gia Hân cho biết, để tạo ra được các
phẩm màu này khá đơn giản. Trước tiên, các
nguyên liệu được xử lý sạch, sấy khô và xay
bột mịn. Đối với nguyên liệu là quả gấc nên
chọn trái tươi, ruột chín đỏ, tách hạt và màng
xung quanh hạt, sấy ở 70oC với thời gian 20
phút. Sau đó, tách màng xung quanh hạt và
sấy khô ở 110oC với thời gian 60 phút, đạt độ
ẩm dưới 5% rồi làm nguội.
Dành dành chọn trái cây màu vàng
tươi, lấy hạt, rửa sạch với nước, và sấy khô ở
110oC với thời gian 60 phút để đạt độ ẩm
dưới 5%, làm nguội, xay thành bột mịn. Còn
với lá gai thì chọn lá xanh tươi, rửa sạch bằng
nước, đun sôi lá với nước nóng ở 100oC trong
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 15/53
10 phút, sau đó sấy khô ở nhiệt độ 110oC để
đạt độ ẩm dưới 5%.
Tiếp theo, cân 1 gam nguyên liệu khô
cho vào bình cầu 500 ml. Thêm 50 ml ethanol
thực phẩm. Đặt trên máy khuấy từ gia nhiệt
có lắp đặt hệ thống làm lạnh ngưng tụ hồi lưu.
Nhiệt độ chiết 70oC, thời gian chiết 60 phút
đối với phẩm màu đỏ từ quả gấc và phẩm
màu vàng từ dành dành; thời gian chiết 90
phút đối với phẩm xanh từ lá Gai.
Phẩm màu thu được cần được bảo
quản và lưu giữ trong ngăn mát tủ lạnh để sử
dụng dần.
Bước đầu, hai bạn đã thử 'nhuộm màu'
cho hai loại sản phẩm chế biến có gia nhiệt,
gồm đông sương làm từ rong biển và hạt trân
châu làm từ bột năng và bột gạo. Kết quả cho
màu sắc đậm đẹp, không có mùi vị lạ.
“Hiện tại, chúng em đang nghiên cứu
sản xuất thêm 2 phẩm màu đỏ và tím từ củ
dền đỏ và từ bắp cải tím. Theo em, việc sản
xuất các phẩm màu thực phẩm từ thiên nhiên
với nguyên liệu sẵn có, dễ làm tại các hộ gia
đình, nhằm góp phần bảo vệ sức khỏe, nâng
cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng”,
Gia Hân nói.
Hạt trân châu sau khi được 'nhuộm màu
Theo cô giáo Phan Thị Ngọc Hóa, giáo
viên hướng dẫn thực hiện đề tài, Gia Hân và
Minh Hạnh là các học sinh rất đam mê nghiên
cứu khoa học.
“Với quy trình chế biến đơn giản này
hoàn toàn có thể sản xuất ra các phẩm màu
100% tự nhiên thay thể cho phẩm màu tổng
hợp, góp phầm bảo vệ sức khỏe cho mọi
người”, cô Hóa cho biết thêm.
Vừa qua, đề tài của hai em được trao
giải Nhì tại Cuộc thị Khoa học kỹ thuật tỉnh
Thừa Thiên Huế năm học 2018-2019.
Nguồn: Hồ Thành, khampha.vn,
22/04/2019
Trở về đầu trang
**************
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Phương pháp tích hợp nguyên tử hydro vào lớp màng giúp cải thiện chất lượng pin mặt trời
Nhóm nghiên cứu của TS. Nguyễn
Trọng Hiếu tại Đại học quốc gia Australia
(ANU), trường đại học hàng đầu của
Australia và thế giới, mới đây đã công bố một
loạt phát hiện đột phá có thể giúp cách mạng
hóa công nghệ năng lượng mặt trời.
Theo phóng viên TTXVN tại Sydney,
trong khi đa số các nghiên cứu tập trung vào
cải thiện chất lượng của phần lõi bên trong
pin mặt trời, nhóm nghiên cứu của TS. Trọng
Hiếu tập trung vào lớp màng mỏng bên trên
của pin, vốn mỏng hơn vài ngàn lần so với
tóc người. Lớp vỏ mỏng này dùng để dẫn
điện từ pin và bảo vệ phần lõi.
Đầu năm 2018, nhóm nghiên cứu phát
hiện lớp vỏ mỏng này có thể phát ra ánh sáng
rất đặc biệt. Họ nhanh chóng nhận ra sự hiện
diện của các nguyên tử hydro làm thay đổi
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 16/53
đáng kể các đặc tính của ánh sáng này. Đây là
thông tin mà sau đó có thể được sử dụng để
tìm hiểu những gì xảy ra bên trong lớp màng
mỏng. Cuối năm 2018, nhóm tiếp tục tìm ra
một phương pháp để tích hợp các nguyên tử
hydro vào lớp màng này để cải thiện chất
lượng của toàn bộ pin.
Theo TS. Hiếu, hydrogen là nguyên tố
nhẹ nhất trong bảng tuần hoàn nhưng cực kỳ
mạnh để chữa lành “vết thương” của vật liệu
bán dẫn. Thật không may, trong tự nhiên, nó
thường tồn tại ở dạng phân tử (hai nguyên tử
liên kết với nhau).
Nhóm nghiên cứu đã khắc phục điều
này bằng cách đặt một vật liệu khác có nhiều
hydro nguyên tử lên trên lớp màng, sau đó
đẩy các nguyên tử hydro riêng lẻ vào trong
màng bằng cách làm nóng mẫu ở 4000C.
TS. Hiếu cho biết, khi các nguyên tử
hydro được “tiêm” vào lớp màng, thay vì lõi
tế bào, hiệu suất của toàn bộ pin được tăng
lên đáng kể.
Nghiên cứu sinh Trương Ngọc Thiện,
thành viên người Việt Nam duy nhất trong
nhóm nghiên cứu, cho biết thêm, khi dùng vật
liệu silicon chất lượng cao, việc cải thiện lõi
tế bào chỉ đạt mức độ giới hạn. Do đó, cải
thiện lớp màng là một bước rất quan trọng để
đạt được pin mặt trời hiệu quả cao.
Theo nghiên cứu sinh Trương Ngọc
Thiện, những khám phá này chắc chắn sẽ
giúp sản xuất pin mặt trời silicon mạnh hơn
và hiệu quả hơn bởi các nhà khoa học đã biết
cách điều khiển hàm lượng hydro bên trong
lớp màng để có pin mặt trời tốt hơn”.
TS. Hiếu cho biết vài năm trở lại đây,
có vài chục nhóm nghiên cứu về công nghệ
mới này trên phạm vi toàn cầu. Cuối năm
2017, khi ý tưởng vừa nhen nhóm, anh rất lo
lắng, nhưng sau khi tuyển được một nhóm
sinh viên xuất sắc đầu năm 2018 thì nhóm bắt
tay vào việc thực hiện dự án này.
Nguồn: Ngọc An,
khoahocphothong.com.vn, 10/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Chế tạo vật liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong pin nhiên liệu dùng cho động cơ di động tương lai
Th.S Nguyễn Văn Mỷ tại Trung tâm Nghiên cứu vật liệu cấu trúc nano và phân tử.
Công trình “Nghiên cứu chế tạo vật
liệu nano thế hệ mới và ứng dụng chúng trong
pin nhiên liệu dùng cho động cơ di động
tương lai” của thạc sĩ - nghiên cứu sinh
Nguyễn Văn Mỷ ở Trung tâm Nghiên cứu vật
liệu cấu trúc nano và phân tử - Đại học Quốc
gia TPHCM đã tạo ra sức bền lớn hơn cho pin
năng lượng, có hiệu quả cao khi ứng dụng
vào việc sản xuất pin cho các thiết bị di động,
đặc biệt với pin cho xe hơi điện.
Thế giới luôn chạy đua tìm nguồn
năng lượng tốt hơn, sạch hơn, bền hơn và khi
nói về pin nhiên liệu thì xu hướng nghiên
cứu, phát triển pin có dung lượng cao hơn,
bền hơn ngày càng phổ biến và cấp thiết hơn.
Sự bùng nổ gần đây của xe điện đặt ra yêu
cầu nghiên cứu các ứng dụng của pin để tích
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 17/53
trữ và vận chuyển năng lượng nhanh và bền
bỉ. Gần đây, Nhật Bản đã có kế hoạch sử
dụng những chiếc xe sử dụng pin nhiên liệu
thay thế cho xăng dầu để chở vận động viên
đến các nơi thi đấu tại Olympic Tokyo năm
2020. Trong đó, “thêm sức bền” cho pin
nhiên liệu là một vấn đề đặt ra cho nguồn
năng lượng này.
Thạc sĩ - nghiên cứu sinh Nguyễn Văn
Mỷ cho biết: Trong số các thành phần cấu tạo
pin nhiên liệu, việc phát triển vật liệu làm
màng trao đổi proton, có khả năng hoạt động
trong điều kiện thực tế được quan tâm sâu
sắc. Các vật liệu làm màng trao đổi proton
truyền thống là các polyme perfluorosulfonic
(PFSA), tức là Nafion được hydrat hóa hoàn
toàn, có khả năng đạt được độ dẫn proton cao
khoảng 1 x 10-1 S cm-1 tại 800C. Tuy nhiên,
độ ẩm tương đối (RH) cần phải cao hơn 98%.
Với độ ẩm này, chỉ một sự dao động nhiệt độ
nhỏ, có thể gây ra sự ngưng tụ nước dẫn đến
mất hiệu suất của pin nhiên liệu cũng như tốn
chi phí lớn trong việc duy trì độ ẩm cao.
Ngoài ra, pin nhiên liệu hydro cần hoạt
động tốt ở nhiệt độ cao để giảm sự đầu độc của
khí CO đối với xúc tác Pt trên điện cực. Tuy
nhiên, tại nhiệt độ cao hơn 800C, cấu trúc
Nafion không bền (trương nở về mặt cơ học)
dẫn đến làm giảm độ dẫn proton. Do đó, cần
thiết kế và tổng hợp các vật liệu mới làm màng
trao đổi proton với độ dẫn proton cao, hoạt
động tốt ở nhiệt cao và độ ẩm thấp hơn 98%.
Vật liệu khung hữu cơ kim loại (Metal-
organic frameworks - MOFs) là loại vật liệu
xốp có diện tích bề mặt cao được tạo thành từ
các cụm kim loại và các cầu nối hữu cơ. Loại
vật liệu này đang thu hút sự quan tâm của các
nhà khoa học trên thế giới và được ứng dụng
trong nhiều lĩnh vực khác nhau như là lưu trữ,
tách khí, hấp phụ khí nhà kính như CO2 hay
CH4, xúc tác dị thể, đầu dò hóa học… Gần
đây, vật liệu nano MOFs được sử dụng rộng
rãi để làm vật liệu màng trao đổi proton nhờ có
độ bền nhiệt và hóa học cao cũng như có thể
đưa chất mang proton vào cấu trúc MOFs
thông qua tương tác axit-bazơ.
“Cho đến năm 2017 và 2018, lần đầu
tiên chúng tôi đã tổng hợp thành công hai loại
vật liệu Zr-MOFs mới, chưa từng được công
bố trên thế giới (được đặt tên lần lượt là
VNU-17 và VNU-23) trên cơ sở các liên kết
sulfonat của cầu nối hữu cơ với các cụm kim
loại Zr. Giá trị độ dẫn proton này cao hơn rất
nhiều so với các vật liệu MOFs truyền thống
và gần tiệm cận giá trị độ dẫn proton của các
vật liệu công nghiệp cũng như phù hợp với
điều kiện thực tế sử dụng pin nhiên liệu cho
các loại xe hơi”, ông Mỷ cho biết thêm.
Với công trình này, ông Nguyễn Văn
Mỷ đã đóng góp lớn vào hệ thống thư viện về
vật liệu mới trên thế giới: VNU-17 và VNU-
23 là hai cấu trúc hoàn toàn mới và chưa từng
được công bố. Hai vật liệu HIm11VNU-17 và
His8.2VNU-23 thể hiện giá trị dẫn proton
vượt trội so với các vật liệu MOFs khác. Vật
liệu His8.2VNU-23 có giá trị độ dẫn >10-2 S
cm-1 (95oC, 85 %RH) tương tự với độ dẫn
proton của vật liệu truyền thống Nafion
nhưng khắc phục hoàn toàn nhược điểm của
Nafion khi được đo lường ở độ ẩm thấp hơn
và nhiệt độ cao. Và hơn nữa, đề tài có khả
năng ứng dụng cao (vì quá trình tổng hợp vật
liệu từ các nguồn rẻ tiền như muối ZrOCl2 và
linker H2NDC) để làm màng trao đổi proton
trong thực tế với loại pin nhiên liệu hydro.
Nguồn: Kim Thanh, sggp.org.vn,
06/04/2019
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 18/53
Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa nguyên tố ABO (ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4) bằng phương pháp bốc bay nhiệt
Nhằm nghiên cứu chế tạo thành công
dây nano của một số ôxít kim loại đa thành
phần ABO như ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4
bằng phương pháp bốc bay nhiệt nhằm ứng
dụng trong lĩnh vực cảm biến khí và quang
xúc tác, nhóm nghiên cứu do TS. Đỗ Đăng
Trung, Trường Đại học Phòng cháy Chữa
cháy, Bộ Công An đứng đầu đã tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu chế tạo và
khảo sát tính chất dây nano ôxít kim loại đa
nguyên tố ABO (ZnWO4, ZnSnO3, Zn2SnO4)
bằng phương pháp bốc bay nhiệt”.
Sau một thời gian triển khai thực hiện,
nhóm nghiên cứu đã thu được các kết quả
như sau:
1. Nghiên cứu chế tạo và khảo sát tính
chất của dây nano ABO
- Đã chế tạo thành công dây nano
Zn2SnO4 bằng phường pháp bốc bay nhiệt.
Hỗn hợp bột nguồn gồm ZnO:C:Sn. Tỷ lệ
thành ZnO:C là 1:1 và thành phần Sn thay đổi
trong khoảng từ 2 đến 10% tổng khối lượng.
Tính chất về cấu trúc và hình thái của dây
nano Zn2SnO4 đã được chúng tôi nghiên cứu
bằng phương pháp SEM và XRD. Ảnh hưởng
của hàm lượng Sn đền cấu trúc và hình thái
của dây nano Zn2SnO4 cũng đã được chúng
tôi nghiên cứu. Các kết quả này đã được công
bố trên tạp chí ISI. Bên cạnh đó, nhóm nghiên
cứu cũng đã nghiên cứu chế tạo dây nano đa
nguyên loại Indium-Tin-Oxide (ITO) và dây
nano SnWO4. Tuy nhiên, việc chế tạo loại
dây này khá phức tạp, kết quả nghiên cứu
hính thái sản phẩm thu được cho thấy không
phải là dây nano ITO cũng như SnWO4. Kết
quả thu được chưa đủ tốt để công bố trên các
công trình khoa học.
- Việc nghiên cứu chế tạo dây nano đa
nguyên (ABO) bằng phương pháp bốc bay
nhiệt khá phức tạp. Trong báo cáo định kỳ,
nhóm có đề xuất mở rộng nghiên cứu chế tạo
dây nano đa nguyên bằng phương pháp hóa
học và kết quả là đã nghiên cứu chế tạo thành
công dây nano ZnO bằng phương pháp thủy
nhiệt hóa học khá đơn giản. Các kết quả
nghiên cứu này được chúng tôi công bố trên
tạp chí Journal of Electronic Materials.
Phương pháp nghiên cứu này có thể được
phát triển để chế tạo loại dây nano đa nguyên
trong thời gian tới bằng cách đưa thêm các
tiền chất khác nhau.
- Đã thành công trong việc sử dụng
phương pháp thủy nhiệt ở áp suất cao và chế
tạo thành công thanh, dây nano MnWO4 sử
dụng hỗn hợp tiền chất chứa các ion Mn2+ và
W2+. Các điều kiện thí được tối ưu để chế tạo
thanh nano MnWO4 với độ lặp lại khá tốt.
Các kết quả nghiên cứu này cũng đã được
chúng tôi công bố trên tạp chí Journal of
Alloys & compounds. Theo hướng nghiên
cứu này nhóm cũng đã tiến hành nghiên cứu
chế tạo thanh, dây nano ZnWO4 và SnWO4
bằng phương pháp thủy nhiệt hóa học ở áp
suất cao. Các kết quả nghiên cứu được trình
bày chi tiết trong phần phụ lục của báo cáo.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 19/53
- Đã nghiên cứu cấu trúc dây nano đa
nguyên CoAl2O4 sử dụng khuông chitosan.
Cấu trúc này có độ xốp khá cao, có tiềm năng
ứng dụng trong vật liệu cảm biến khí và
quang xúc tác.
2. Ứng dụng vật liệu chế tạo được
trong lĩnh vực cảm biến khí và xúc tác
- Đã nghiên cứu chế tạo thành công
cảm biến dây nano Zn2SnO4 bằng phương
pháp mọc trực tiếp lên điện cực và khảo sát
được khả năng nhạy khí NO2 của cảm biến.
Ảnh hưởng của hàm lượng Sn đến tính chất
nhạy khí của dây nano cũng đã được nghiên
cứu. Các kết quả nghiên cứu chính đã được
công bố trên tạp chí Journal of Alloys &
compounds . Các kết quả cho thấy rằng, cảm
biến dây nano Zn2SnO4 nhạy khá tốt với khí
NO2. So với cảm biến dây nano ZnO, độ đáp
ứng của cảm biến dây nano Zn2SnO4 lớn hơn
rất nhiều, độ đáp ứng với 10ppm NO2 ở 200
độ C lên đến gần 35 lần. Trong khi đó độ đáp
ứng với các khí khác như CO, H2, H2S và
NH3 chỉ trong khoảng từ 1.1 đến 2.2 lần, có
nghĩa cảm biến dây nano Zn2SnO4 có độ chọn
lọc khá tốt với khí NO2.
- Đã nghiên cứu một cách có hệ thống
tính chất dây khí của dây nano ZnO và dây
nano Zn2SnO4, sử dụng cảm biến chế tạo
bằng phương pháp mọc trực tiếp trên điện
cực. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng,
khoảng cách từ đế cảm biến đến vật liệu
nguồn có ảnh hưởng mạnh đến tính chất nhạy
khí của dây nano Zn2SnO4. Trong khi với
cùng khoảng cách nghiên cứu, thì cảm biến
dây nano ZnO hầu như không ảnh hưởng
nhiều đến tính chất nhạy khí của cảm biến.
Các kết quả đưa đến một lưu ý quan trọng
trong việc chế tạo số lượng lớn (chế tạo trên
diện tích lớn) cảm biến dây nano Zn2SnO4
bằng phương pháp bốc bay nhiệt để đạt được
hiệu suất chế tạo mong muốn khi ứng dụng
trong thực tế. Các kết quả này được trình bày
trong phần phụ lục của báo cáo kèm theo.
- Đã nghiên cứu khả năng nhạy khí
NH3 của cảm biến thanh nano MnWO4 chế
tạo bằng phương pháp nhỏ phủ đơn giản. Các
kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cảm biến
thanh nano nhạy tốt với khí NH3 ở nhiệt độ
400 độ C (nhiệt độ tối ưu). Độ đáp ứng của
cảm biến khá tuyến tính với nồng độ khí NH3
trong khoảng nồng độ từ 10 đến 1000 ppm.
Chi tiết các kết quả nghiên cứu này được
công bố trên tạp chí Journal of Alloys &
compounds.
Như vậy, các kết quả nghiên cứu đề tài
thu được có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu này có tiềm năng để phát
triển các sản phẩm cảm biến khí thế hệ mới
với nhiều tính năng ưu việt so với cảm biến
truyền thồng. Do đó, nhóm nghiên cứu rất
mong nhận được hỗ trợ để thực hiện các
nghiên cứu tiếp theo.
Nguồn: P.T.T (NASATI), vista.gov.vn,
26/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo gạch từ rác thải nhựa
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 05/2019 20/53
Nhóm học sinh đang chế tạo sản phẩm gạch polymer từ nhựa thải
Nhóm học sinh Nguyễn Trần Tiến,
Trần Thị Kiều Trang, Võ Thị Mỹ Trâm, Phan
Quốc Huy, Trần Lê Anh Đức, Trần Thái Minh
Quang (lớp 11, Trường THPT Cao Thắng, TP.
Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế) đã chế tạo thành
công sản phẩm gạch polymer từ nhựa thải
nhưng có chất lượng tương đương với gạch
block thông thường.
Gạch polymer của nhóm là loại gạch
không nung, được làm ra bởi 4 nguyên liệu là
xi măng, cát sạn (hỗn hợp giữa cát và sạn),
nhựa xay, nước. Nhóm học sinh đã thu gom
rác thải nhựa (như vỏ tivi, vỏ máy tính, bàn
chải đánh răng, bàn phím, con chuột máy
tính...), rửa sạch và cắt nhỏ. Sau đó, phối trộn
với xi măng, cát sạn và nước rồi đổ vào
khuôn, tạo ra gạch.
Nhóm có 4 mẫu thực nghiệm với tỉ lệ
trộn nhựa khác nhau. Như với mẫu có 0,85 kg
xi măng, 300 gr nhựa và 7,5 kg cát, nước, các
em đã làm nên sản phẩm “gạch nhựa” block
đặc khối lượng 9,8 kg, có kích thước
100x185x280 mm. Hoặc với lượng xi măng
trên, lượng nhựa tăng lên 600 gr, cát giảm
còn 6 kg và nước thì tạo ra sản phẩm gạch
block tương tự với trọng lượng 9,4 kg…
Sau thời gian bảo dưỡng 28 ngày,
nhóm đã đưa mẫu thực nghiệm đi kiểm tra
thông số kĩ thuật ở Xưởng gạch ngói màu
terizzo thuộc Công ty Xi măng Long Thọ
(Huế). Qua kiểm tra về cường độ chịu nén,
lực phá hoại, cường độ trung bình (MPA)…
theo tiêu chuẩn phương pháp thí nghiệm
TCVN 6477-2016, mẫu TN3 là phù hợp với
tất cả mọi công trình, còn TN4 phù hợp với
các công trình chịu lực ít.
Với tính ứng dụng cao, sản phẩm đã
mang về cho nhóm giải Ba cuộc thi Khoa học
kỹ thuật cấp tỉnh vừa diễn ra đầu năm 2019.
Sắp tới, nhóm sẽ nghiên cứu thử
nghiệm xây dựng công thức phối trộn đưa
lượng nhựa thải vào nhiều hơn trong một viên
gạch, thay thế một lượng cát, sạn để tạo vật
liệu mới nhẹ hơn, bền hơn...
Nguồn: BT, baochinhphu.vn,
19/04/2019
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 21/53
Phát hiện một loài loài thực vật mới cho khoa học
Đặc điểm hình thái của Aristolochia nuichuaensis
Theo TS. Đỗ Văn Trường, Bảo tàng
thiên nhiên Việt Nam, Mộc hương Núi Chúa
(Aristolochia nuichuaensis), một loài thực vật
mới cho khoa học vừa được phát hiện và mô
tả từ Vườn quốc gia Núi Chúa, tỉnh Ninh
Thuận, Việt Nam.
Trên thế giới, chi Mộc hương
(Aristolochia L.) gồm khoảng 600 loài phân
bố chủ yếu vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, là
một trong những nhóm thực vật quan trọng, có
giá trị làm cảnh, làm thuốc hay cung cấp thức
ăn cho sâu non thuộc họ Bướm phượng
(Papilionidae, Lepidoptera). Ở Việt Nam, chi
này được biết khoảng 25 loài thuộc 2 phân chi
Aristolochia và Siphisia. Trong khi nghiên cứu
đa dạng chi Mộc hương ở Việt Nam, các nhà
khoa học thuộc Bảo tàng thiên nhiên Việt
Nam, Viện sinh thái học Miền Nam, thuộc
Viện hàn lâm khoa học và công nghệ Việt
Nam và cán bộ Vườn quốc gia Núi Chúa, tỉnh
Ninh Thuận, đã phát hiện và mô tả một loài
thực vật mới thuộc họ Mộc hương
(Aristolochiaceae) ở Vườn quốc gia Núi Chúa,
tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Loài thực vật mới
có tên khoa học là Mộc hương Núi Chúa,
Aristolochia nuichuaensis V.T.Do & H.T.Luu.
Loài mới có đặc điểm hình thái tương
tự với các loài Aristolochia baenzigeri, A.
bidoupensis, và A. petelotii; tuy nhiên, loài
mới được phân biệt với các loài kể trên bởi
những đặc trưng hình thái như: phiến lá hình
tim, trục cụm hoa dài đến 20 cm, phần trên
của ống bao hoa hình trụ, thuôn dài và hẹp
hơn nhiều so với phần dưới, mặt ngoài duy
nhất màu tím, mặt trong duy nhất màu trắng,
môi hình chuông, đường kính 4.5-5 cm, thùy
không cuộn lại, bề mặt ngoài màu trắng với
nhiều đường gờ màu tím nổi rõ, bề mặt trong
màu trắng với nhiều đường gờ lõm và mụn
cơm, họng hình ellip, màu trắng;
gynostemium với 3 thùy nhọn. Những đặc
điểm hình thái trên đặt loài mới này trong
phân chi Siphisia.
Đây là loài thứ 8 của phân chi Siphisia
được phát hiện và mô tả gần đây ở Việt Nam
và nâng tổng số loài của phân chi Siphisia ở
Việt Nam lên 16 loài. Nhóm nghiên cứu cũng
liệt kê thành phần loài, phân bố và xây dựng
khóa định loại cho tất cả các loài của phân chi
Siphisia ở Việt Nam.
Nguồn: A.T,khoahocphothong.com.vn,
18/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Quy trình sản xuất astaxanthin và β-glucan để bổ sung vào thức ăn cho cá dĩa đỏ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 22/53
Đề tài do tác giả Ngô Đại Nghiệp và
cộng sự (Đại học Khoa học Tự nhiên,
TP.HCM) thực hiện nhằm tạo chế phẩm có
chứa astaxanthin từ nấm men Rhodosporidium
sp. và vi tảo Haematococcus pluvialis và β-
glucan từ Rhodosporidium sp. và
Saccharomyces cerevisiae, ứng dụng trong thực
phẩm chăn nuôi làm tăng phẩm chất vật nuôi.
Trong tự nhiên, các loài cá nhiệt đới
thường có nhiều màu sắc khác nhau và chính
đặc điểm này làm cho chúng trở nên rực rỡ,
thu hút hơn và làm cho chúng có giá trị kinh tế
không chỉ phục vụ cho nền công nghiệp cá
cảnh trong nước mà còn có khả năng tiến tới
xuất khẩu. Thực tế khi nuôi các loại cá cảnh
như cá dĩa, để nhuộm màu cơ, da hay làm cho
cá cảnh có màu vàng cam hay đỏ, thức ăn nuôi
công nghiệp thường được bổ sung sắc tố, làm
cho cá có màu sắc đẹp hơn. Các sắc tố hiện
diện trên da, đóng một vai trò quan trọng đối
với giá trị thương mại của các loài cá cảnh.
Astaxanthin và β-glucan là hai hợp chất có
nhiều tiềm năng trong việc tăng màu sắc và
sức đề kháng cho cá cảnh, đã được sử dụng
như là thành phần bổ sung trong thực phẩm
cho một số đối tượng thủy hải sản. Trong
nghiên cứu này, astaxanthin được thu nhận từ
tảo Haematococcus pluvialis và nấm men
hồng Rhodosporidium sp., β-glucan được thu
từ nấm men hồng, nấm men bia và nấm men
bánh mì (Saccharomyces cerevisiae).
Các kết quả thu được cho thấy,
Haematococcus pluvialis có hai pha sinh
trưởng và tạo astaxanthin. Môi trường tăng
sinh tốt nhất cho loài H. pluvialis là BG11 ở
điều kiện sục khí với cường độ ánh sáng
2Klux, thời gian chiếu 12 giờ ở 25oC trong
thời gian 14 ngày. Trong giai đoạn tạo
astaxanthin, khi sử dụng môi trường BG11
nuôi tĩnh thì từ 18 ngày trở đi mới có sự tích
lũy astaxanthin. Khi tăng nhiệt độ lên 37oC
thì thời gian bắt đầu tích lũy là ngày thứ 10 và
đạt 2,68% ở ngày thứ 22. Khi nuôi trong môi
trường RM không có nitơ và phospho với thời
gian chiếu sáng 24 giờ/ngày hàm lượng
astaxanthin tích lũy chiếm tới 2,67% trọng
lượng tế bào chỉ sau 10 ngày gây stress.
Trong khi nấm men Rhodosporidium
sp. cho sinh khối có nhiều astaxanthin tối ưu
khi nuôi cấy với tỷ lệ giống bổ sung 10% vào
thời điểm 74 giờ. Cụ thể hàm lượng
astaxanthin là 2309,17μg/l và trọng lượng
sinh khối khô thu được là 6,1696 g/l hay
374,29 μg/g sinh khối khô. Ngoài ra cũng đã
xác định được điều kiện thích hợp cho thu
nhận hàm lượng β-glucan là 64,87% ở nồng
độ NaOH 0,5M trong thời gian 4 giờ, nhiệt độ
100oC, tỷ lệ mẫu:NaOH là 1:5. Ngoài ra, quy
trình thích hợp để tách chiết β-glucan từ vách
tế bào nấm men cho cả men bia và men bánh
mì là NaOH 1M, đun ở 1000C trong 4 giờ với
tỷ lệ NaOH (ml):vách tế bào (g) = 1:5.
Sau ba tháng thí nghiệm, kết quả cho
thấy màu sắc của cá dĩa đỏ ở các nghiệm thức
có sự khác nhau rõ rệt ở nồng độ 90mg/kg
thức ăn. Cá dĩa có màu sắc đậm nhất ở
nghiệm thức chế phẩm thương mại với số
điểm trung bình là 28,25; kế đến là nghiệm
thức astaxanthin tách chiết tương ứng với số
điểm 26,23; nghiệm thức đối chứng không sử
dụng astaxanthin cho kết quả màu sắc trên da
cá dĩa nhạt nhất với 20,48 điểm. Sau 30 ngày
cho cá ăn thức ăn có bổ sung β-glucan với các
nồng độ khác nhau 0,1%, 0,5% và 1%, ở
nghiệm thức cho ăn ở nồng độ 1% có khả
năng kích thích miễn dịch cho cá dĩa. Đồng
thời β-glucan có khả năng kích thích tăng sức
đề kháng hơn là trị bệnh.
Từ kết quả thử nghiệm xác định được
chế phẩm bổ sung cho thức ăn cho cá dĩa đỏ
có thể làm đậm màu của cá và làm tăng hệ
miễn dịch (tăng tổng số tế bào bạch cầu ở cá)
là hàm lượng astaxanthin và β-glucan lần lượt
là 90mg/kg thức ăn và 10g/kg thức ăn.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Số 05/2019 23/53
Nguồn: Lam Vân, cesti.gov.vn,
14/04/2019
Trở về đầu trang
**************
Thu thập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn phân giải chlorpyrifos