1 BIỂU TƯỢNG THÁNH GIÓNG: TỪ HUYỀN THOẠI ĐẾN LỊCH SỬ THÀNH VĂN Đinh Hồng Hải, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Email: [email protected]Đt:0985731933 (Nguồn: Nhiều tác giả (2014), Lễ hội cộng đồng: Truyền thống và biến đổi. Nxb. ĐHQG Tp. HCM, tr.106-124) Từ khóa: biểu tượng Thánh Gióng, huyền thoại, lịch sử thành văn, huyền thoại anh hùng, chống ngoại xâm, tinh thần chiến đấu, thế đối trọng văn hóa, vị thần hộ quốc Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương) là một biểu tượng trung tâm của Hội làng Phù Đổng (Hội Gióng) được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2010. Bao quanh huyền thoại Thánh Gióng là vô số câu chuyện kể dân gian về xuất thân của một vị anh hùng có công chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Song hành với các huyền thoại về Thánh Gióng là tín ngưỡng thờ Thánh Gióng phổ biến rộng khắp khu vực xứ Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh và một phần Hà Nội) và những bản thần phả/thần tích ghi lại những chiến công cũng như thành phần xuất thân đặc biệt của vị thánh này. Tìm hiểu nguồn gốc lễ hội ở làng Phù Đổng, các nhà khoa học đã xác định lễ hội này khởi nguyên là một dạng nghi lễ phồn thực vốn rất phổ biến ở các xã hội nông nghiệp sơ khai ở Việt Nam (Nguyễn Văn Huyên 1938, Trần Quốc Vượng 1995). Sự kết hợp của một lễ hội nông nghiệp mang tính phồn thực với biểu tượng Thánh Gióng (một người anh hùng có công với nước, một biểu tượng của tinh thần dân tộc - nationalism mà ở Việt Nam thường được gọi là chủ nghĩa anh hùng - heroism) 1 đã tạo nên một trong những lễ hội đặc sắc nhất của người Việt, nơi hội tụ nhiều nét đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam. Trong cuộc hội thảo diễn ra hai ngày 16-18/12/2013 tại Đại học Khoa học và kỹ thuật Hồng Kông (Hong Kong University of Sciences and Technology - HKUST), chúng tôi đã thảo luận về lễ hội làng Phù Đổng trong bối cảnh lịch sử của Việt Nam với các lớp lịch sử và văn hóa chồng xếp lên nhau qua biểu tượng Thánh Gióng để tìm hiểu quá trình “một lễ hội nông nghiệp biến thành một lễ hội quốc gia” và một nhân vật huyền thoại được “lịch sử hóa” thành một vị anh hùng và được đưa vào lịch sử chính thống như thế nào. Từ đó tìm hiểu quá trình hình thành huyền thoại Thánh Gióng trong văn hóa dân gian Việt Nam. 2 Trong bản tham luận này, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của biểu tượng Thánh Gióng trong 1 Thuật ngữ “nationalism” trong tiếng Anh thường được dịch là chủ nghĩa quốc gia, một số dịch giả sử dụng chủ nghĩa dân tộc trong tiếng Việt tuy không sai về mặt ngữ nghĩa nhưng theo tôi dễ bị nhầm lẫn với chủ nghĩa dân tộc cực đoan (chẳng hạn chủ nghĩa Đại Hán – Great Hanism) có hàm ý tiêu cực, vì vậy, nghiên cứu này sẽ dùng một cụm từ “mềm mại” hơn là tinh thần dân tộc cho thuật ngữ này để tránh bị hiểu lầm. 2 Tên bản tham luận đã trình bày tại hội thảo: Đánh giá các lễ hội cộng đồng và các lằn ranh xã hội chủ nghĩa và hậu xã hội chủ nghĩa (Remaking Communal Festivals and Social Boundaries in Socialist/Post-socialist Societies) tổ chức tại HKUST là “Hội làng Phù Đổng trong bối cảnh lịch sử của Việt Nam” (Phù Đổng Community Festival in Historical Context of Vietnam).
15
Embed
Biểu tượng Thánh Gióng: Từ huyền thoại đến lịch sử thành văn (The Symbol of St Giong: From Myth to Historical Text in Vietnam)
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
BIỂU TƯỢNG THÁNH GIÓNG: TỪ HUYỀN THOẠI ĐẾN
LỊCH SỬ THÀNH VĂN Đinh Hồng Hải, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Email: [email protected] Đt:0985731933
(Nguồn: Nhiều tác giả (2014), Lễ hội cộng đồng: Truyền thống và biến đổi. Nxb. ĐHQG Tp. HCM, tr.106-124)
Từ khóa: biểu tượng Thánh Gióng, huyền thoại, lịch sử thành văn, huyền thoại anh hùng, chống
ngoại xâm, tinh thần chiến đấu, thế đối trọng văn hóa, vị thần hộ quốc
Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương) là một biểu tượng trung tâm của Hội làng Phù
Đổng (Hội Gióng) được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
năm 2010. Bao quanh huyền thoại Thánh Gióng là vô số câu chuyện kể dân gian về xuất thân
của một vị anh hùng có công chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Song hành với các huyền
thoại về Thánh Gióng là tín ngưỡng thờ Thánh Gióng phổ biến rộng khắp khu vực xứ Bắc (nay
thuộc tỉnh Bắc Ninh và một phần Hà Nội) và những bản thần phả/thần tích ghi lại những chiến
công cũng như thành phần xuất thân đặc biệt của vị thánh này. Tìm hiểu nguồn gốc lễ hội ở làng
Phù Đổng, các nhà khoa học đã xác định lễ hội này khởi nguyên là một dạng nghi lễ phồn thực
vốn rất phổ biến ở các xã hội nông nghiệp sơ khai ở Việt Nam (Nguyễn Văn Huyên 1938, Trần
Quốc Vượng 1995). Sự kết hợp của một lễ hội nông nghiệp mang tính phồn thực với biểu tượng
Thánh Gióng (một người anh hùng có công với nước, một biểu tượng của tinh thần dân tộc -
nationalism mà ở Việt Nam thường được gọi là chủ nghĩa anh hùng - heroism) 1 đã tạo nên một
trong những lễ hội đặc sắc nhất của người Việt, nơi hội tụ nhiều nét đặc trưng văn hóa truyền
thống Việt Nam.
Trong cuộc hội thảo diễn ra hai ngày 16-18/12/2013 tại Đại học Khoa học và kỹ thuật
Hồng Kông (Hong Kong University of Sciences and Technology - HKUST), chúng tôi đã thảo
luận về lễ hội làng Phù Đổng trong bối cảnh lịch sử của Việt Nam với các lớp lịch sử và văn hóa
chồng xếp lên nhau qua biểu tượng Thánh Gióng để tìm hiểu quá trình “một lễ hội nông nghiệp
biến thành một lễ hội quốc gia” và một nhân vật huyền thoại được “lịch sử hóa” thành một vị anh
hùng và được đưa vào lịch sử chính thống như thế nào. Từ đó tìm hiểu quá trình hình thành
huyền thoại Thánh Gióng trong văn hóa dân gian Việt Nam.2 Trong bản tham luận này, chúng tôi
tiếp tục tìm hiểu nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của biểu tượng Thánh Gióng trong
1 Thuật ngữ “nationalism” trong tiếng Anh thường được dịch là chủ nghĩa quốc gia, một số dịch giả sử dụng chủ
nghĩa dân tộc trong tiếng Việt tuy không sai về mặt ngữ nghĩa nhưng theo tôi dễ bị nhầm lẫn với chủ nghĩa dân tộc
cực đoan (chẳng hạn chủ nghĩa Đại Hán – Great Hanism) có hàm ý tiêu cực, vì vậy, nghiên cứu này sẽ dùng một
cụm từ “mềm mại” hơn là tinh thần dân tộc cho thuật ngữ này để tránh bị hiểu lầm. 2 Tên bản tham luận đã trình bày tại hội thảo: Đánh giá các lễ hội cộng đồng và các lằn ranh xã hội chủ nghĩa và
hậu xã hội chủ nghĩa (Remaking Communal Festivals and Social Boundaries in Socialist/Post-socialist Societies) tổ
chức tại HKUST là “Hội làng Phù Đổng trong bối cảnh lịch sử của Việt Nam” (Phù Đổng Community Festival in
văn hóa Việt Nam cũng như vai trò của biểu tượng này trong lịch sử chiến tranh giữ nước của
người Việt thông qua một nét gạch nối: Từ huyền thoại đến lịch sử thành văn.
1. Giới thuyết khái niệm
1.1. Huyền thoại
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên trang 454 thì huyền thoại là “Câu chuyện
huyền hoặc, kỳ lạ, hoàn toàn do tưởng tượng” và thần thoại là “truyện kể dân gian về các vị thần,
phản ánh những khát vọng của con người thời cổ trong đấu tranh chinh phục thiên nhiên”
(tr.893). Khi chuyển ngữ qua tiếng Anh, huyền thoại có thể là myth hoặc legend (Nguyễn Văn
Tuấn 2011) trong khi thần thoại thường được chuyển ngữ một cách phổ biến là myth. Như vậy,
thần thoại hay huyền thoại tương đương với myth trong tiếng Anh (mythe trong tiếng Pháp).3
Vẫn theo Từ điển Tiếng Việt thì truyền thuyết là “truyện kể dân gian truyền miệng về các nhân
vật và sự kiện có liên quan đến lịch sử, thường mang nhiều yếu tố thần kỳ. Truyền thuyết về
nguồn gốc dân tộc. Truyền thuyết Thánh Gióng” (tr. 1018). Như vậy, legend trong tiếng Anh
gần nghĩa với truyền thuyết hơn là huyền thoại và “chuyện truyền thuyết có tính chất huyền hoặc,
hoang đường” được định nghĩa là huyền sử (tr. 454).
Có thể thấy thần thoại, truyền thuyết và huyền sử là những danh từ độc lập dùng để mô tả
những câu chuyện truyền miệng, tưởng tượng về các sự kiện, hiện tượng, con người, các vị thần,
thánh trong thế giới cổ đại có mối quan hệ với thế giới siêu nhiên, tổ tiên, các vị anh hùng,… qua
thế giới quan của con người ở giai đoạn sơ khai. Tuy nhiên, chúng ta khó có thể tách bạch hoàn
toàn các thuật ngữ này với nhau vì giữa chúng vẫn thường xuyên xảy ra tình trạng mix (lẫn lộn,
hỗn hợp, hỗn tạp,…), ở Việt Nam, sự phân biệt các thuật ngữ này càng trở nên mơ hồ hơn và khó
tách bạch hơn. Thậm chí, chúng ta có thể “gộp” các thần thoại, truyền thuyết và huyền sử về
Thánh Gióng vào một cái khuôn chung của truyện kể dân gian (folktale) với tên gọi giai thoại
Gióng. Vẫn theo Từ điển Tiếng Việt đã dẫn ở trên thì giai thoại là “mẩu chuyện lý thú được lưu
truyền rộng, có liên quan ít nhiều tới nhân vật có thật trong xã hội, trong lịch sử” (Hoàng Phê tr.
372).
Thuật ngữ huyền thoại không đơn thuần chỉ mang hàm nghĩa của những câu chuyện diễn ra
ở giai đoạn sơ khai hay trong quá khứ như thần thoại mà nó còn là một thuật ngữ mang tính xã
hội. Theo Roland Barthes, huyền thoại có tính hai mặt của sự biểu đạt “vừa là nghĩa vừa là hình
3 Theo Free Dictionary thì huyền thoại (myth) có các nghĩa như sau: 1.a. A traditional, typically ancient story
dealing with supernatural beings, ancestors, or heroes that serves as a fundamental type in the worldview of a people,
as by explaining aspects of the natural world or delineating the psychology, customs, or ideals of society: the myth of
Eros and Psyche; a creation myth. b. Such stories considered as a group: the realm of myth. 2. A popular belief or
story that has become associated with a person, institution, or occurrence, especially one considered to illustrate a
cultural ideal: a star whose fame turned her into a myth; the pioneer myth of suburbia. 3. A fiction or half-truth,
especially one that forms part of an ideology. 4. A fictitious story, person, or thing: "German artillery superiority on
the Western Front was a myth" (Leon Wolff).
3
thức” (Barthes 2008, 1957 tr.321). Từ đó, ông phân ra ba bước đọc và giải mã huyền thoại, có
thể tóm lược như sau: 1) biểu tượng hóa; 2) giải mã biểu tượng; 3) đọc biểu tượng và ông yêu
cầu “chính bản thân người đọc huyền thoại phải phát hiện ra chức năng căn bản của nó” (tr.323).
Dưới góc độ ngôn từ, Phùng Văn Tửu đã phân tích thuật ngữ myth trong tiếng Anh, mythes trong
tiếng Pháp, mythos trong tiếng Hy Lạp và huyền thoại trong tiếng Việt bao gồm hai phần “thoại”
– lời nói và “huyền” – mơ hồ. (Phùng Văn Tửu trong Barthes đd. tr.380). Ông cho rằng “huyền
thoại vừa đồng nhất vừa phân biệt với thần thoại” (tr. 399), theo đó, thần thoại tương đương với
huyền thoại cổ.
1.2.Huyền thoại trong mối quan hệ với lịch sử
Khác với huyền thoại, lịch sử là “1) quá trình phát sinh, phát triển đã qua hay cho đến tiêu
vong của một hiện tượng, một sự vật nào đó; 2) khoa học nghiên cứu về quá trình phát triển của
xã hội loài người nói chung, hay của một quốc gia, dân tộc nói riêng” (danh từ), còn tính từ là
những gì “thuộc về lịch sử của các quốc gia, dân tộc, có tính chất, ý nghĩa quan trọng trong lịch
sử. Sự kiện lịch sử, bước ngoặt lịch sử, sứ mạng lịch sử” (Hoàng Phê, sđd. tr. 546). Nói cách
khác “huyền thoại là những câu chuyện kể để làm gương, là sự gợi lại những sự kiện đã qua
nhưng được trình bày như là hiện thực và thiêng liêng, chúng tạo nên những khuôn mẫu chuẩn
mực cho cộng đồng người đang sống. Lịch sử thì đơn giản hơn, chỉ nhằm tập hợp những thông
tin có sẵn về từng thời kỳ quá khứ nào đó và tổ chức chúng lại theo các hệ vấn đề thúc đẩy nhà
sử học” (Mucchielli, 2004 tr.5).
Xét về mặt lý thuyết, lịch sử không được phép dung nạp các yếu tố huyền hoặc, kỳ lạ, tưởng
tượng, hoang đường, mơ hồ của huyền thoại vì “huyền thoại tước bỏ hết lịch sử khỏi đối tượng
mà nó nói đến” (Barthes tr. 359). Tuy nhiên, trên thực tế, các yếu tố mang tính huyền thoại vẫn
“ken dày” trong những gì vẫn được gọi là lịch sử, tới mức, huyền thoại trở thành lịch sử(!).
Chúng ta có thể sử dụng thuật ngữ lịch sử hóa huyền thoại (historicization) để mô tả hiện tượng
này. Ngược lại, chúng ta có thể bắt gặp đây đó những chứng cứ lịch sử hết sức cụ thể nhưng lại
được đề cập đến như những huyền thoại, chẳng hạn như huyền thoại Napoleon, huyền thoại
Singapore,… có nghĩa là, những con người bằng xương bằng thịt hay những sự vật, hiện tượng
hết sức cụ thể (những yếu tố lịch sử) lại được huyền thoại hóa (mythologization) thành những
huyền thoại.
Dễ dàng nhận thấy trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay thuật ngữ huyền thoại
dành cho những con người, sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện đại xuất hiện khá dày. Chẳng
hạn huyền thoại Maradona, huyền thoại Steve Job, huyền thoại Võ Nguyên Giáp,… Rõ ràng,
những huyền thoại ở đây không hoàn toàn mang tính huyền hoặc, kỳ lạ, tưởng tượng như bản
chất ban đầu vốn có của nó mà mang một đặc tính xã hội của thời đại. Mặc dù lúc này “lịch sử
đã đổi chỗ cho huyền thoại và thực hiện cùng một chức năng của nó, với các xã hội không có
chữ viết và tài liệu lưu trữ thì mục đích của huyền thoại là để đảm bảo nó càng tiệm cận càng tốt
– dĩ nhiên là không thể nhập làm một - cái tương lai có kết nối với hiện tại và quá khứ” (Levi-
4
Strauss tr.42-43). 4 Tuy nhiên, lịch sử không thể thay thế hoàn toàn cho huyền thoại ngay cả khi
nền khoa học của nhân loại đạt đến đỉnh cao như hiện nay. Nói cách khác, chỉ khi nào nền khoa
học hoàn toàn thế chỗ cho tín ngưỡng và niềm tin tôn giáo thì khi đó huyền thoại mới kết thúc.
Điều đó đã không xảy ra vì rằng “dù với một tổ chức mang tính thiết chế khả quan nhất thì rồi
một ngày kia tiến bộ khoa học vẫn rất có thể bất ngờ dừng lại. Chẳng hạn, biết đâu sẽ xảy ra một
trận dịch của thuyết thần bí. Điều này hoàn toàn có khả năng xảy ra, vì ngay đến một số trí thức
còn phản ứng với tiến bộ khoa học (hoặc với nhu cầu về một xã hội mở) bằng việc co mình vào
thuyết thần bí, chứ nói gì đến bất kỳ ai” (Popper, tr.265-266).
Có thể nói, mối quan hệ giữa huyền thoại và lịch sử giống như hai cực của một nam châm,
giữa chúng có vô số điểm khác nhau nhưng điểm khác nhau căn bản nhất giữa huyền thoại và
lịch sử là: huyền thoại có tính đồng đại còn lịch sử mang tính lịch đại. Để xác định yếu tố nào
thuộc về huyền thoại và yếu tố nào thuộc về lịch sử, chúng ta cần phải nắm vững ba bước đọc
huyền thoại của Roland Barthes: 1) biểu tượng hóa; 2) giải mã biểu tượng; 3) đọc biểu tượng. Và
việc tìm hiểu chức năng căn bản của huyền thoại như Barthes đã đề cập chính là quá trình nghiên
cứu các biểu tượng cụ thể - yếu tố đã tạo nên huyền thoại.5 Biểu tượng Thánh Gióng chính là
yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên huyền thoại Thánh Gióng. Và để đọc được huyền
thoại Thánh Gióng trong lịch sử văn hóa Việt Nam chúng ta cần phải tiến hành một nghiên cứu
cụ thể từ nguồn gốc đến quá trình phát triển của biểu tượng Thánh Gióng.
2. Huyền thoại Thánh Gióng với lịch sử chống ngoại xâm ở Việt Nam
2.1. Vai trò của huyền thoại trong lịch sử chiến tranh Việt Nam
Trong “Lời nhà xuất bản” của Lịch sử quân sự Việt Nam Tập 1 viết: “Chỉ tính từ thế kỷ III
tr.CN – từ cuộc xâm lược của nhà Tần vào đất Việt đến nay, trải qua gần 2.300 năm, dân tộc ta
đã buộc phải cầm vũ khí tới 12 thế kỷ để bảo vệ độc lập chủ quyền của tổ quốc, đấy là chưa kể
đến công cuộc mở nước và các cuộc nội chiến khốc liệt kéo dài. Chiến tranh giữ nước đã đi suốt
chiều dài lịch sử đất nước.”6 Có thể nói lịch sử Việt Nam chính là lịch sử đấu tranh chống ngoại
xâm, và trong một bối cảnh lịch sử như vậy, yếu tố chủ đạo của lịch sử Việt Nam chính là yếu tố
“chống ngoại xâm.” Để chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập suốt 23 thế kỷ qua, người Việt cần
phải có ý chí độc lập, tình đoàn kết, sức mạnh quân sự, và trên hết là tinh thần chiến đấu. Ý chí
độc lập, tình đoàn kết và sức mạnh quân sự là các yếu tố luôn được các triều đại Việt Nam chú ý
vun đắp cả khi đã giành được độc lập. Tuy nhiên, tinh thần chiến đấu lại là một yếu tố khó kiểm
soát nhất vì nó không đến từ ý chí của triều đình hay người chỉ huy mà nó đến từ trái tim và dòng
máu nóng của người dân và binh sĩ. Nếu không có tinh thần chiến đấu thì không thể có Chiến
4 “Khi huyền thoại trở thành lịch sử” trong Claude Levi-Strauss 1979, Myth and Meaning. Schocken Books, NY
1979 5 Ở Việt Nam, những huyền thoại đương đại thậm chí còn nhiều hơn cả những câu chuyện thần thoại được ghi chép
trong các tư liệu thành văn, đặc biệt là những huyền thoại anh hùng trong lịch sử chống ngoại xâm như Lê Văn
Tám, Kơ Pa Kơ Lơng/Kpă KLơng,... 6 Hà Văn Tấn, Chử Văn Tần, Phạm Lý Hương, Trịnh Cao Tưởng, Nguyễn Quốc Dũng, Lịch sử quân sự Việt Nam
Tập 1. Nxb Chính trị Quốc gia 1999
5
thắng Bạch Đằng, không thể Ba lần đánh tan quân Nguyên-Mông, không thể Đập tan 20 vạn
quân Thanh,… vì sức mạnh của kẻ thù lớn hơn chúng ta gấp bội phần.
Có thể nói, tinh thần chiến đấu chính là yếu tố quan trọng nhất trong mọi cuộc chiến và
xuyên suốt lịch sử chống ngoại xâm của người Việt. Vậy bằng cách nào mà các triều đại phong
kiến Việt Nam nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu của người dân qua hàng nghìn năm lịch sử? Bên
cạnh việc giáo dục ý thức xây dựng một quốc gia độc lập và tự chủ thì quá trình hình thành nên
những huyền thoại chống ngoại xâm chính là một trong những nền tảng nuôi dưỡng tinh thần
chiến đấu của người Việt trong suốt chiều dài của lịch sử. Không kể đến huyền thoại Thánh
Gióng (là nội dung chính đang đề cập đến trong nghiên cứu này) chúng ta có thể tìm thấy vô số
biểu tượng anh hùng được xem như những huyền thoại chống ngoại xâm như Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ và gần đây là Võ Nguyên Giáp. Họ vừa là những nhân vật lịch sử,
vừa là những huyền thoại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Chính những
huyền thoại này là nguồn nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu và tiếp thêm sức mạnh chiến đấu của
người Việt. Dưới đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu khía cạnh nói trên qua biểu tượng Thánh Gióng
trong lịch sử chống ngoại xâm của người Việt.
2.2. Quá trình hình thành biểu tượng Thánh Gióng trong lịch sử Việt Nam
Quá trình hình thành biểu tượng Thánh Gióng từ một huyền thoại thành một biểu tượng anh
hùng dân tộc (national symbol of heroism) đã được ghi lại qua một số tài liệu cổ như Thiền Uyển
Tập Anh, Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái,... Nói đến quá trình này, cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng cho rằng: “Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thực lịch sử mà
nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tưởng hóa, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình cùng với
thơ và mộng, chắp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian, làm nên tác phẩm văn
hóa mà đời đời con người ưa thích…”7 Tác phẩm văn hóa mà ông đề cập đến ở đây chính là biểu
tượng Thánh Gióng. Cùng với các biểu tượng anh hùng trong lịch sử chiến tranh Việt Nam,
Thánh Gióng là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn tập hợp sức mạnh toàn dân tộc, biến sức mạnh
tinh thần đó thành nguồn sức mạnh chiến đấu bảo vệ nền độc lập. Đây là điều đã được các nhà
khoa học ghi nhận trong hầu hết các nghiên cứu về Thánh Gióng từ trước tới nay.
Vậy biểu tượng Thánh Gióng có từ bao giờ? Để trả lời các câu hỏi này, chúng ta cần phân
biệt biểu tượng anh hùng dân tộc nói chung với biểu tượng Thánh Gióng nói riêng. Theo đó,
biểu tượng anh hùng dân tộc có thể tồn tại từ lâu đời ở nhiều nền văn hóa khác nhau, còn ở Việt
Nam, biểu tượng này chắc hẳn đã có từ thời Hai Bà Trưng, Ngô Quyền nếu không nói là sớm
hơn. Tuy nhiên, chứng cứ sớm nhất của biểu tượng Thánh Gióng thì mới chỉ xuất hiện một cách
“mờ ảo” ở giai đoạn Tiền Lê và chỉ thực sự rõ nét từ thời Lý. Và theo Nguyễn Văn Huyên thì
“việc tổ chức hội Gióng như ngày nay mới bắt đầu từ khoảng thế kỷ 11, đời Lý Thái Tổ.”8
7 Phạm Văn Đồng, Nhân ngày giỗ Tổ vua Hùng. Báo Nhân Dân, ngày 29 tháng 4 năm 1969. Dẫn lại theo Nguyễn
Thị Bích Hà, Đã đến lúc kể lại truyền thuyết Gióng, trong http://vns.hnue.edu.vn/?page=service_detail&TID=225 8 Nguyễn Văn Huyên - "Hội Phù Đổng (Một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam - 1938)" trong Lễ hội
Thánh Gióng, Nxb. Văn hóa Thông tin, H.2009, tr.380. Trong Thiền Uyển Tập Anh cũng đề cập đến việc Khuông
6
Những tư liệu sớm nhất như Thiền Uyển Tập Anh, Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái,…
cũng chỉ đề cập đến Thánh Gióng trong và sau giai đoạn trị vì của nhà Lý.9 Qua đó, có thể đi đến
kết luận là muộn nhất thì tới thế kỷ 11 dưới triều đại nhà Lý, biểu tượng Thánh Gióng đã ra đời
bằng cách biểu tượng hóa tinh thần dân tộc thành một biểu tượng cụ thể, đó là Xung Thiên
Thần Vương (tước hiệu của Thánh Gióng do Lý Công Uẩn ban tặng – theo Việt Điện U Linh,
tr.92) có đền thờ, bài vị thờ hoặc tượng thờ cụ thể. Như vậy, quá trình hình thành biểu tượng
Thánh Gióng được định hình rõ nét từ thời Lý và người có công xây dựng nên biểu tượng người
anh hùng Thánh Gióng chính là Lý Công Uẩn. Và huyền thoại Thánh Gióng chính là một trong
những biểu tượng của nền độc lập tự chủ của nước Đại Việt.
2.3. Mục đích biểu tượng hóa Thánh Gióng
Ngay sau khi giành lại độc lập từ tay nhà Hán sau nghìn năm chịu ách nô dịch, các triều đại
Ngô, Đinh và Tiền Lê đã tìm những cách thức khác nhau để thoát khỏi vòng kiểm tỏa của đại
Hán. Nhưng tầm nhìn của các triều đại này chỉ giới hạn ở mức độ “phòng thủ” cả về quân sự lẫn
văn hóa. Việc chọn kinh đô ở Hoa Lư với thế đất “phòng thủ,” xa khu vực trung tâm đồng bằng
châu thổ sông Hồng và xa các trung tâm kinh tế-chính trị-văn hóa như Cổ Loa, Đại La (Tống
Bình),… đã cho thấy rõ chủ trương này. Hai triều đại này dường như chưa tìm ra được thế đối
trọng với văn hóa Trung Hoa nên chủ trương “phòng thủ văn hóa.” Chủ trương này đã biến
thành tư duy bảo thủ, cụ thể như việc “cởi trần” khi tiếp đón sứ thần Trung Hoa hoặc bốc thức ăn
bằng tay (để tạo sự khác biệt với người Hán, tương tự như Quang Trung giữ tóc dài, răng đen để
phân biệt với triều Mãn Thanh). Tư duy phòng thủ quân sự và bảo thủ văn hóa của các triều đại
trước đã được vị vua nhà Lý thay đổi nhanh chóng ngay sau khi lên ngôi. Năm 1010, Lý Công
Uẩn dời đô từ Hoa Lư, một nơi có lợi thế về phòng thủ nhưng bất tiện về giao thương thời bấy
giờ, ra Đại La, một nơi trung tâm kinh tế-văn hóa-chính trị đông đúc của người Việt nằm giữa
đồng bẳng châu thổ Bắc Bộ.
Cùng với việc dời đô, Lý Công Uẩn cũng ban hành nhiều chính sách mới về kinh tế-văn hóa-
chính trị khiến cho nước Đại Việt trở nên hưng thịnh về mọi mặt. Tầm nhìn chiến lược của vị
vua nhà Lý với nền độc lập tự chủ không chỉ về mặt quân sự, kinh tế mà còn “nhìn xa trông rộng”
tới văn hóa nghệ thuật: ông cùng các vị vua nhà Lý đã tìm được thế đối trọng với văn hóa Trung
Hoa – đó là văn hóa Ấn Độ. Cụ thể, Lý Công Uẩn cùng các vị vua nhà Lý đã đưa Phật giáo Đại
Việt phát triển lên một tầm mức phổ biến toàn quốc gia, “hòa Đường – Phạn nhị âm” làm nhạc
cung đình (theo Bia Sùng Thiện Diên Linh), xây dựng “biểu tượng rồng thời Lý” thành một kiệt
tác nghệ thuật mang nhiều nét đặc trưng của Ấn Độ,… Đây cũng là một trong những biểu tượng
đặc sắc của vương triều nhà Lý. 10
Trong quá trình tìm thế đối trọng với văn hóa Trung Hoa,
Việt Đại Sư cầu đảo Tì Sa Môn Thiên Vương giúp Lê Hoàn đánh thắng quân Tống năm Thiên Phúc thứ nhất -
981(tr.22). 9 Các tư liệu thành văn có đề cập đến nguồn gốc Thánh Gióng như Việt điện u linh và Thiền Uyển tập anh là những
tư liệu cổ nhất (thời Trần) ghi lại nguồn gốc Thánh Gióng. 10
Chẳng hạn, hình rồng được đưa vào trong hình lá đề - một biểu tượng của Phật giáo Ấn Độ, hình rồng mang nhiều
yếu tố tạo hình của rắn thần Naga,… Xem thêm Đinh Hồng Hải, Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa Việt
Nam, Nxb. Tri thức 2012, tr. 44-48.
7
biểu tượng Tì Sa Môn/Xung Thiên Thần Vương/Phù Đổng Thiên Vương/Thánh Gióng – một vị
thần có nguồn gốc Ấn Độ - đã được Việt hóa để khẳng định vương quyền của nhà vua, uy quyền
của triều đại và chủ quyền của đất nước trước đại Hán. Nhờ “tầm nhìn thiên niên kỷ” đó mà
nước Đại Việt đã xóa được nỗi nhục nô lệ nghìn năm trước để tồn tại và phát triển bên cạnh kẻ
thù truyền kiếp của mình.
Vậy tại sao nhà Lý lại chọn văn hóa Ấn Độ làm thế đối trọng với văn hóa Trung Hoa và
chọn Thánh Gióng làm biểu tượng cho tinh thần dân tộc? Có thể nhận thấy, tại thời điểm cách
ngày nay hàng nghìn năm thì việc biết đến Ấn Độ (xứ Tây Trúc) và nhận thức được nền văn hóa
đó là một cái nhìn xuyên thời gian và không gian của Lý Công Uẩn. Nền văn hóa Ấn Độ (thông
qua kinh tạng của Phật giáo) trong con mắt của vua quan nhà Lý và các bậc trí giả đương thời
của Đại Việt giống như chốn “Tây Phương cực lạc.” Vì vậy, chỉ có nền văn hóa vĩ đại đó mới có
thể điều hòa sự thống trị của văn hóa đại Hán đối với quốc gia Đại Việt. Trên thực tế, nhiều yếu
tố văn hóa Ấn Độ (tiêu biểu là Phật giáo với hàng trăm triệu tín đồ Phật giáo) đã và đang tồn tại
trong văn hóa Trung Hoa, trong khi các yếu tố văn hóa Trung Hoa hầu như không gây được tác
động nào thật rõ nét ở Ấn Độ. Chọn văn hóa Ấn Độ để chấn hưng nền văn hóa Đại Việt chính là
cách tạo thế đối trọng cần thiết đối với văn hóa Trung Hoa. Bên cạnh những hiểu biết kinh viện
về xứ Tây Trúc thông qua kinh sách Phật giáo, nhà Lý còn có một lợi thế khác là những tù binh
Chiêm vốn có nền tảng văn hóa Ấn Độ. Họ đã mang đến Đại Việt của nhà Lý một kho tàng văn
hóa và nghệ thuật Ấn Độ đã được bản địa hóa với vô số kiệt tác được tạo ra thông qua những đôi
bàn tay khéo léo của họ vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay.
Việc Lý Công Uẩn chọn một vị thần có nguồn gốc Ấn Độ để phong làm Xung Thiên Thần
Vương là một cách Việt hóa vị thần chủ về tài-lộc, hộ pháp, hộ quốc. Đặc biệt, vị thần hộ quốc
chính là “giấc mơ ngàn năm” của người Việt sau ngàn năm Bắc thuộc. Nguyên mẫu vị thần hộ
quốc Vaisravana ở vương quốc độc lập và hùng mạnh Khotan/Khitan/Khiết Đan/契丹(thuộc Tân
Cương, Trung Quốc ngày nay) 11
chính là niềm cảm hứng để giới trí thức tăng lữ Đại Việt “mơ”
về một vị thần hộ quốc bảo vệ cho quốc gia Đại Việt độc lập. Giấc mơ của Khuông Việt Đại sư
(xem mục 3.3. dưới đây) cũng chính là giấc mơ của tầng lớp trí thức trong giai đoạn độc lập tự
chủ này. Vấn đề còn lại là Việt hóa nó như thế nào để hình thành nên một biểu tượng anh hùng
dân tộc cho một quốc gia độc lập mà thôi. Thông qua các lễ hội dân gian truyền thống (cụ thể là
hội làng ở núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ - tức Hội Gióng ngày nay), triều đình nhà Lý đã “thổi”
luồng sinh khí cho tinh thần dân tộc của quân dân Đại Việt bằng biểu tượng Xung Thiên Thần
Vương – Thánh Gióng. Từ đây, một ngôi đền nhỏ, một lễ hội địa phương, một vị thần bản địa
bỗng chốc vụt biến thành một ngôi đền lớn, một vị thần hộ quốc, một biểu tượng anh hùng với
danh hiệu Xung Thiên Thần Vương. Đây chính là cách thức nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu của
người Việt trước hiểm họa xâm lăng của đại Hán luôn cận kề mà vua, quan, sư, sãi và người dân
Đại Việt vừa thoát khỏi. Minh chứng cho mục đích của việc biểu tượng hóa Thánh Gióng không
11
Xem thêm: The Cult of Vaiśravaṇa in Khotan and Medieval China, Luận văn Thạc sĩ của WANG Yuantian (王元
天), Khoa lịch sử, Đại học Macau 2012.
8
chỉ được nhìn thấy qua hội Gióng và biểu tượng Thánh Gióng mà còn được ghi lại trong lịch sử
thành văn của người Việt từ hàng nghìn năm qua.
3. Biểu tượng Thánh Gióng qua lịch sử thành văn
3.1. Di vết Ấn Độ của biểu tượng Thánh Gióng
Mặc dù di vết thời Lý của biểu tượng Thánh Gióng trong văn hóa Việt Nam cho tới nay chưa
được xác định qua các hiện vật khảo cổ học nhưng nguồn gốc của Thánh Gióng lại được tìm thấy
qua dấu vết về một vị thần là “tiền thân” của Thánh Gióng. Việt Điện U Linh của Lý Tế Xuyên
có đề cập đến vị thần này qua việc Lý Thái Tổ ban hiệu cho một vị thần ở chùa Kiến Sơ là Xung
Thiên Thần Vương. “Vương là thần thổ địa chùa Kiến-sơ. Xưa có thiền sư tên là Chí Thành tu ở
chùa Kiến-sơ, tại làng Phù Đổng, lập một gian nhà thờ thần thổ địa ở bên hữu chùa, làm nơi tĩnh
mịch để đến tụng niệm” (VĐUL 1972, tr.90). Lời người sao lục trong tập sách này đặt ra một câu
hỏi ngỏ “Chùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng cạnh đền Phù-đổng thiên vương, một vị thần dẹp giặc
Ân khi xưa. Xét trong sử chép “Vua Lý Thái Tổ truy phong ngài là “Xung thiên thần vương”, lập
miếu thờ ở bên chùa Kiến Sơ…” thì Xung thiên thần vương tức là hiệu duệ của Phù đổng thiên
vương. Ở đây sao lại còn thấy “Xung thiên” là thần thổ địa?” (VĐUL, tr.93). Điều này cho thấy
biểu tượng Thánh Gióng không chỉ có mối quan hệ với Tì Sa Môn (như trong Thiền Uyển Tập
Anh dưới đây) mà còn có quan hệ với thần đất/thổ địa – một tín ngưỡng bản địa. Lý Công Uẩn đã
sắc phong cho vị thần “nhỏ” (có thể là thần thổ địa) của ngôi đền này thành Xung Thiên Thần
Vương - một vị thần hộ quốc - và cho xây dựng đền khang trang hơn. Như vậy, Lý Công Uẩn
chính là người ban tước hiệu và “quốc gia hóa” một vị thần địa phương thành một vị thần hộ
quốc.
Thiền Uyển tập anh có ghi lại câu nói của một vị thần với Khuông Việt đại sư rằng “Ta là
Tỳ Sa Môn thiên vương, những người theo ta là Dạ xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để
giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho
ngươi biết" (TUTA, tr. 22). Trong Lĩnh Nam chích quái có đoạn: “Sau vua Lý Thái Tổ phong
làm Xung Thiên Thần Vương lập miếu thờ ở Phù Đổng” (LNCQ, tr. 21). Ngoài ra, trong Đại
Nam Nhất Thống Chí, Việt Sử Lược và các sử liệu sau này ít nhiều đều dẫn lại sự tích Thánh
Gióng theo các tài liệu trên. Trong một nghiên cứu gần đây (Thần Tài: Nguồn gốc và quá trình
phát triển trong văn hóa Việt Nam) chúng tôi đi đến kết luận: “vị thần có tên là Tì Sa Môn/Tì Sa
Môn Thiên Vương/Xung Thiên Thần Vương trong các tác phẩm nói trên chính là những chứng
cứ thành văn cụ thể về nguồn gốc Thánh Gióng ở Việt Nam... Như vậy, có thể khẳng định rằng,
biểu tượng Thánh Gióng hay Phù Đổng Thiên Vương hiện nay chính là một phiên bản của Xung
Thiên Thần Vương, Tì Sa Môn Thiên Vương, Đa Văn Thiên Vương và cũng chính là Vaisravana
hay Kubera – vị Thần Tài có nguồn gốc từ Ấn Độ.”12
12
Tương tự, Nguyễn Công Lý trong Tiểu sử Khuông Việt Thiền Sư (932 – 1011) cũng cho rằng “Riêng ở Việt Nam,
Tỳ Sa Môn Thiên Vương có lúc đã được Việt hoá thành Sóc Thiên Vương mà Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích
quái lục đã ghi chép lại thành truyện “Sóc Thiên Vương.” Có tài liệu còn nói vị thần này đã hoá thân thành Phù
Đổng Thiên Vương như Lĩnh Nam chích quái liệt truyện tục loại đã chép. Vị thần Hộ pháp này có duyên với ngài
Khuông Việt, báo mộng cho ngài biết, và chính ngài đã sai thợ chặt cây, tạc tượng để thờ phụng đúng y như trong
9
3.2. Quá trình lịch sử hóa huyền thoại Thánh Gióng
Sau khi được Lý Công Uẩn sắc phong là Xung Thiên Thần Vương, cho xây dựng đền thờ
khang trang và tổ chức lễ hội quy mô lớn, vị thần hộ quốc này ngày càng đóng vai trò quan
trọng đối với quốc gia và người dân Đại Việt. Vì lý do này mà các danh hiệu phong cho vị thần
này về sau ngày một dài ra và ngày càng nhiều thêm như Xung Thiên Dũng Liệt Chiêu Ứng Uy
Tín Đại Vương, Phù Đổng Thiên Vương,… bên cạnh tên gọi dân gian Thánh Gióng. Cũng từ
đây, biểu tượng Thánh Gióng (của người Việt) thâm nhập vào mọi ngõ ngách của văn hóa dân
gian người Việt qua huyền thoại/truyền thuyết, lễ hội và tín ngưỡng.
Không chỉ phổ biến biểu tượng Thánh Gióng rộng khắp trong dân chúng và ghi lại “nhân
thân” của vị thần hộ quốc này qua các tác phẩm văn học có tính lịch sử, các triều đại kế tiếp còn
lịch sử hóa biểu tượng này thành một nhân vật cụ thể có quê hương bản quán, có gia đình, cha
mẹ,… bằng vô số bản sắc phong, thần phả, thần tích ở những nơi được thờ. Đây là lý do khiến
người đời sau dần quên đi nguồn gốc thực sự của Thánh Gióng là một vị thần mang nguyên mẫu
Ấn Độ.13
“Có lẽ cũng vì lý do đó mà Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính vào năm Hồng Phúc thứ
nhất (đời Lê Anh Tông - 1572) được giao việc biên soạn chuyển đổi và thay đổi thần tích, thần
phả của nhiều ngôi đền, đình của các làng Bắc Bộ. Rất nhiều thần tích đã được bổ sung một nội
dung mới, rất nhiều vị thành hoàng làng đã được khoác một lớp áo mới để mang tầm vóc những
vị anh hùng. Rất nhiều những lễ hội nông nghiệp đã được bồi phủ những yếu tố lịch sử để trở
thành lễ hội lịch sử.”14
Đi xa hơn, quá trình lịch sử hóa huyền thoại Thánh Gióng không chỉ được ghi lại qua các sắc
phong, thần phả, thần tích mà còn được ghi lại trong các sử liệu chính thống của quốc gia. Ngoài
Thiền Uyển Tập Anh, Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái đã nêu ở trên còn có nhiều tài liệu
đời sau đề cập đến. Chẳng hạn An Nam Chí Lược ghi “Xung-Thiên-Miếu: Tại làng Phù-Đổng,
hồi xưa trong nước rối loạn, chợt thấy một người có uy có đức, dân đều về theo, người ấy bèn
cầm quân dẹp loạn, rồi bay lên trời đi mất, hiệu là Xung-Thiên-Vương, dân lập đền miếu để thờ”
(ANCL, tr.67), Đại Việt sử ký toàn thư, kỷ Hồng Bàng thị chép: “Đời Hùng Vương thứ 6, ở làng
Gióng có hai vợ chồng ông bà lão nghèo chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức thế mà họ vẫn
chưa có con. Một hôm bà ra đồng thấy một vết chân rất to liền ướm thử xem thua kém bao nhiêu,
không ngờ về nhà bà thụ thai và 12 tháng sau sinh được một cậu bé khôi ngô tuấn tú. Kì lạ thay,
cậu bé ấy lên ba mà vẫn không biết nói cười, đặt đâu nằm đấy. Gặp lúc trong nước có tin nguy
giấc mộng, để sau đó, năm 981, thiền sư đến đó cầu đảo và Thần đã hiển linh giúp triều đình nhà Tiền Lê bằng cách
nổi sóng to gió lớn để đánh tan giặc Tống xâm lược trên dòng Ninh giang mà ở trên chúng tôi có trích dẫn. Pháp
Bảo, 9/27/2013, Trong http://phapbao.org/tieu-su-khuong-viet-thien-su-932-1011/ 13
Thậm chí cho đến nay nhiều nhà khoa học có tên tuổi ở Việt Nam vẫn tin rằng Thánh Gióng là một nhân vật lịch
sử có thật, họ Đổng, quê ở làng Phù Đổng,… Xem Lương Văn Kế, Cung khắc Lược (Báo Đất Việt online ngày
3/4/2012), Đi tìm dấu chân các vị thần bất tử, kỳ 2:”Thánh Gióng có thật?” trong http://baodatviet.vn/van-
Hà Văn Tấn, Chử Văn Tần, Phạm Lý Hương, Trịnh Cao Tưởng, Nguyễn Quốc Dũng (1999),
Lịch sử quân sự Việt Nam Tập 1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Hà Văn Tấn (2005), Đến với Lịch sử văn hoá Việt Nam, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội
tối cần thiết trong quá trình định nghĩa và hồi phục cộng đồng dân tộc. Tiến trình này đang diễn ra ở Việt Nam như
mô tả của Lương Văn Hy trong http://pacificaffairs.ubc.ca/pdfs/luong.pdf. Tư tưởng quốc gia văn hóa thể hiện qua
các hoạt động của nhà cầm quyền, từ thay đổi luật lệ cho đến tổ chức lễ hội văn hóa cổ truyền thay vì cấm cản và đối
lập như trước kia. Cũng theo đó thì chủ nghĩa quốc gia không chỉ đơn giản là cặp song hành của hai sắc thái chính trị
và văn hóa như trình bày, mà xu hướng thế giới trong vài thập niên qua là chuyển từ chủ nghĩa quốc gia phát triển
(developmental nationalism) sang chủ nghĩa quốc gia văn hóa (cultural nationalism) trong diễn biến động lực học
tái cấu trúc (dynamics of restructuring).” Theo Lê Hải trong: http://bansacdantocvietnam.blogspot.com/search/label/Kh%C3%A1i%20ni%E1%BB%87m%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c 21
Anthony D. Smith, Ethno-symbolism and nationalism: A cultural approach. Routledge 2009, N.Y. dẫn lại theo Lê