Bài 1: Tổng quan về thuế và hệ thống thuế ACC401_Bai1_v2.0018102202 1 Bài 1 TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ HỆ THỐNG THUẾ Nội dung Mục tiêu Phân tích được bản chất và đặc trưng của thuế. Trình bày được các đặc điểm của các loại thuế theo các tiêu thức phân loại khác nhau. Chỉ ra được các yếu tố cấu thành một sắc thuế. Kể tên được hệ thống thuế hiện hành ở Việt Nam. Phân tích được các nội dung cơ bản của luật quản lý thuế. Hướng dẫn học Bản chất của thuế. Các đặc trưng của thuế. Vai trò của thuế. Phân loại thuế. Các yếu tố cấu thành một sắc thuế. Hệ thống thuế hiện hành ở Việt Nam. Quản lý thuế. Để học tốt bài này sinh viên cần: Đọc kỹ nguồn tài liệu tham khảo để chọn ra những tài liệu tham khảo hữu ích nhất. Xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu được cung cấp cho bài này để học tập tốt hơn. Bài 1 là bài khái quát về môn học. Sinh viên chỉ cần nắm vững các khái niệm, các kiến thức cơ bản, để làm nền tảng nghiên cứu các bài sau.
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Bài 1: Tổng quan về thuế và hệ thống thuế
ACC401_Bai1_v2.0018102202
1
Bài 1 TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ HỆ THỐNG THUẾ
Nội dung Mục tiêu
Phân tích được bản chất và đặc trưng của
thuế.
Trình bày được các đặc điểm của các loại
thuế theo các tiêu thức phân loại khác nhau.
Chỉ ra được các yếu tố cấu thành một sắc thuế.
Kể tên được hệ thống thuế hiện hành ở
Việt Nam.
Phân tích được các nội dung cơ bản của luật
quản lý thuế.
Hướng dẫn học
Bản chất của thuế.
Các đặc trưng của thuế.
Vai trò của thuế.
Phân loại thuế.
Các yếu tố cấu thành một sắc thuế.
Hệ thống thuế hiện hành ở Việt Nam.
Quản lý thuế.
Để học tốt bài này sinh viên cần:
Đọc kỹ nguồn tài liệu tham khảo để chọn ra
những tài liệu tham khảo hữu ích nhất.
Xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu được
cung cấp cho bài này để học tập tốt hơn.
Bài 1 là bài khái quát về môn học. Sinh viên
chỉ cần nắm vững các khái niệm, các kiến
thức cơ bản, để làm nền tảng nghiên cứu các
bài sau.
Bài 1: Tổng quan về thuế và hệ thống thuế
ACC401_Bai1_v2.0018102202
2
ịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là cần thiết khách
quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Nhà nước là một tổ chức
chính trị, đại diện quyền lợi cho giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp
thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Nhà nước xuất hiện đòi hỏi phải có cơ sở vật chất nhất định để
đảm bảo cho sự tồn tại và hoạt động của mình. Do đó, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị
vốn có để tập trung một bộ phận của cải trong xã hội vào tay Nhà nước. Việc huy động, tập trung
nguồn của cải đó có thể được thực hiện bằng các cách khác nhau, trong đó có hình thức đóng
góp bắt buộc được gọi là thuế.
Thuế luôn luôn gắn chặt với sự phát triển của tổ chức bộ máy Nhà nước. Sự phát triển và thay
đổi hình thái tổ chức Nhà nước luôn kéo theo sự cải biến của các hình thức thuế và hệ thống thuế
nói chung. Cùng với việc mở rộng các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, các hình thức thuế
ngày càng phong phú hơn, công tác quản lý thuế ngày càng được hoàn thiện hơn và thuế đã trở
thành một công cụ quan trọng, có hiệu quả của Nhà nước để tác động đến đời sống kinh tế - xã hội
của đất nước.
1.1. Bản chất của thuế
Trên góc độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức,
cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo Luật định để đáp ứng nhu cầu chi
tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên góc độ của Nhà nước, “Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác
định, không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho Nhà nước thông qua con
đường quyền lực nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nước”.
Trên góc độ kinh tế học, thuế được xem xét như là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà
nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu
vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Mặc dù còn nhiều các định nghĩa khác nhau, song nếu khái quát chung để tìm các hạt
nhân hợp lý của từng quan điểm, có thể rút ra một số đặc trưng chung của thuế sau đây:
Thứ nhất, nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các mối quan hệ tiền tệ phát sinh
giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân trong xã hội.
Thứ hai, những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan
và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo
mệnh lệnh của Nhà nước.
Thứ ba, xét theo khía cạnh luật pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được pháp
luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Từ những nội dung trên, có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau:
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo
mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
1.2. Các đặc trưng của thuế
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong, vốn có của thuế. Những
thuộc tính đó có tính ổn định tương đối qua từng giai đoạn phát triển và biểu hiện thành
L
Bài 1: Tổng quan về thuế và hệ thống thuế
ACC401_Bai1_v2.0018102202
3
những đặc trưng riêng có của thuế, qua đó giúp ta phân biệt giữa thuế với các công cụ tài
chính khác. Những đặc trưng đó là:
1) Tính bắt buộc
Tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt giữa thuế với các hình
thức động viên tài chính khác của ngân sách nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt
buộc dưới hình thức thuế là một phương thức phân phối của Nhà nước, theo đó một bộ
phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước mà không kèm theo
một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế.
Tính bắt buộc của thuế không mang nội dung hình sự, nghĩa là việc đóng thuế cho Nhà
nước không phải là kết quả nảy sinh từ hành vi phạm pháp mà là nghĩa vụ đóng góp
được pháp luật thừa nhận và xã hội tôn vinh.
2) Tính không hoàn trả trực tiếp
Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi thu
thuế, Nhà nước không hứa hẹn cung ứng trực tiếp một dịch vụ công cộng nào cho người
nộp thuế. Sau khi nộp thuế, Nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho
người nộp thuế. Cũng như vậy, người nộp thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa
vụ thuế với lý do họ không được hoặc ít được hưởng những lợi ích trực tiếp từ nhà nước.
Lợi ích từ việc nộp thuế sẽ được hoàn trả gián tiếp thông qua các dịch vụ công cộng của
Nhà nước cho cộng đồng và xã hội.
3) Tính pháp lý cao
Đặc điểm này thể hiện thuế là một công cụ tài chính có tính pháp lý cao. Điều đó được
quyết định bởi quyền lực chính trị của Nhà nước. Để sự chuyển giao bắt buộc thông qua
thuế diễn ra được “êm thấm”, mặc dù quá trình đó được thực hiện dưới sự bảo vệ của
luật pháp, thì những quy định của pháp luật cũng không thể tùy tiện mà phải dựa trên
những cơ sở khoa học nhất định. Vì vậy, trong luật thuế phải quy định rõ những thủ tục
cần thiết quy định phạm vi, hình thức và các thủ tục, quy trình pháp lý liên quan đến
nghĩa vụ nộp thuế như: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời
hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.
1.3. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
1.3.1. Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước
Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện động viên nguồn tài
chính cho Nhà nước. Đây chính là vai trò truyền thống, căn bản của thuế.
Nhờ có vai trò nay mà Nhà nước mới có thể có trong tay mình nguồn tiền tệ cần thiết để
chi tiêu cho các hoạt động của mình, đồng thời tạo ra những tiền đề để Nhà nước tiến
hành tái phân phối sản phẩm xã hội theo các mục tiêu quản lý được đặt ra. Hiện nay, ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng nhất. Tỷ
trọng các khoản thu từ thuế thường chiếm trên 80% tổng thu của ngân sách. Ở nước ta,
nếu không tính các khoản thu từ dầu thô, nguồn thu từ thuế cũng thường chiếm trên 90%
tổng các khoản thu của ngân sách nhà nước trong vòng một thập kỷ trở lại đây.
Bài 1: Tổng quan về thuế và hệ thống thuế
ACC401_Bai1_v2.0018102202
4
1.3.2. Điều tiết kinh tế vĩ mô
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy định các hình
thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế,
xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế, sử
dụng linh hoạt các ưu đãi và miễn, giảm thuế. Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các
hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung, phù hợp lợi ích của xã hội... Trong điều kiện cơ
chế thị trường, khi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào nền kinh tế ngày càng hạn
chế thì việc sử dụng công cụ thuế như một biện pháp điều chỉnh vĩ mô mang lại hiệu quả
cao. Vai trò này xuất phát từ khả năng tái phân phối của cải làm thay đổi tương quan lực
lượng vật chất của các đối tượng điều chỉnh trong nền kinh tế. Tác động điều chỉnh vĩ
mô nền kinh tế có thể biểu hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, thuế có thể được sử dụng như một công cụ nhạy bén góp phần kiềm chế lạm
phát, ổn định giá cả, kích thích đầu tư tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Theo các lý thuyết kinh tế, lạm phát và tăng giá có thể xuất phát từ nguyên nhân cầu kéo
hoặc chi phí đẩy. Trường hợp lạm phát do nguyên nhân cầu kéo làm giá cả tăng cao, nhà
nước có thể dùng biện pháp điều chỉnh tăng thuế tiêu dùng làm giảm bớt áp lực tăng cầu
giả tạo, trên cơ sở đó điều chỉnh lại cân bằng quan hệ cung cầu. Trường hợp ngược lại,
nếu lạm phát nảy sinh từ nguyên nhân chi phí đẩy thì việc giảm thuế đối với các yếu tố
đầu vào là cần thiết nhằm giảm nhẹ áp lực tăng chi phí và tạo điều kiện hạ giá bán sản
phẩm, trên cơ sở đó lập lại quan hệ cung cầu, ổn định giá cả thị trường.
Cũng theo các lý thuyết kinh tế hiện đại, tự thân của nền kinh tế thị trường có xu hướng
phát triển theo chu kỳ (hưng thịnh - suy thóai - tiêu điều - hồi phục) gây ra những cuộc
tàn phá nặng nề sau mỗi chu kỳ phát triển. Thuế được coi là công cụ điều tiết nhạy cảm
để hạn chế sự phát triển chu kỳ của nền kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển
quá nóng, Nhà nước có thể tăng thuế nhằm giảm bớt đầu tư tư nhân. Ngược lại, trong
điều kiện nền kinh tế phát triển trì trệ, việc giảm thuế đầu tư sẽ góp phần kích thích đầu
tư, kích cầu tiêu dùng làm cho kinh tế hồi phục nhanh hơn.
Cũng tương tự như vậy, việc áp dụng chính sách thuế phân biệt giữa các ngành, các lĩnh
vực, các khu vực, các vùng lãnh thổ khác nhau có tác dụng phân bổ lại nguồn lực, tạo ưu
thế tương đối cho những vùng, khuc vực ngành nghề cần ưu tiên phát triển nhằm duy trì
hoặc lập lại trạng thái phát triển hài hòa, cân đối của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai, thuế được coi là công cụ sắc bén để phân phối lại sản phẩm xã hội nhằm đạt
mục tiêu công bằng xã hội.
Phát triển nền kinh tế thị trường chắc chắn sẽ nảy sinh những vấn đề xã hội cần có sự
can thiệp của Nhà nước. Một trong những vấn đề đó là sự gia tăng khoảng cách giàu
nghèo giữa các thành viên trong xã hội do những lợi thế khách quan hoặc hoàn cảnh bất
lợi ngẫu nhiên mang lại. Xét cả từ góc độ kinh tế lẫn xã hội, sự chênh lệch thái quá về
thu nhập giữa các thành viên trong xã hội cần phải được hạn chế. Tham gia vào quá trình
này, thuế được coi là công cụ tái phân phối quan trọng, góp phần đảm bảo công bằng xã
hội. Thuế có thể thực hiện được những mục tiêu công bằng này nếu nó bao quát được
hầu hết đối tượng nộp thuế và phân biệt mức đóng góp thông qua các mức thuế suất
khác nhau, đặc biệt là thuế suất lũy tiến theo thu nhập.
Bài 1: Tổng quan về thuế và hệ thống thuế
ACC401_Bai1_v2.0018102202
5
Thứ ba, thuế còn được coi là công cụ sắc bén được sử dụng nhằm đạt mục tiêu bảo hộ
sản xuất nội địa và duy trì, tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong điều
kiện hội nhập quốc tế.
Việc mở cửa nền kinh tế cũng đồng nghĩa với việc phải đối mặt với những rủi ro cạnh
tranh khốc liệt từ bên ngoài. Vì vậy, bất cứ nước nào tham gia hội nhập đều phải thiết
lập một hàng rào bảo hộ hợp lý và hợp pháp nhằm hạn chế hoặc giảm bớt xung động
cạnh tranh bất lợi. Trong các công cụ bảo hộ (thuế và phi thuế) thì thuế quan được coi là
hàng rào bảo hộ linh hoạt và hiệu quả nhất nhằm điều hòa áp lực cạnh tranh. Mức thuế
cao đối với hàng nhập khẩu có tác dụng giảm bớt hoặc triệt tiêu lợi thế giá cả giữa hàng
nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Ngược lại, mức thuế thấp hoặc bằng không đối
với hàng nhập khẩu có tác dụng khuyến khích nhập khẩu những hàng hóa cần thiết bù
đắp thiếu hụt cho nền kinh tế đồng thời gây áp lực cần thiết nhằm nâng cao sức cạnh
tranh cho những ngành hàng nội địa tương tự.
Khi nền kinh tế đã hội nhập sâu, các công cụ bảo hộ mới như thuế chống bán phá giá,
thuế chống trợ cấp và thuế đối kháng có thể được sử dụng bổ sung cho thuế quan trong
việc bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hiệu quả.
Ở cấp độ cao hơn, hệ thống thuế hợp lý với mức thu vừa phải sẽ góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế thông qua việc kích thích xuất khẩu và thu hút
vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế.
1.4. Phân loại thuế
Phân loại thuế là việc sắp xếp các sắc thuế trong hệ thống thuế thành những nhóm khác
nhau theo những tiêu thức nhất định.
Phân loại thuế có ý nghĩa quan trọng trong quản lý thu thuế từ khâu xây dựng chính sách
đến triển khai thực hiện. Phân loại thuế nhằm làm rõ những điểm đặc thù của từng loại
thuế và ảnh hưởng của chúng trong hệ thống thuế nói chung để vận dụng đúng đắn trong
quá trình hoạch định chính sách thuế.
Phân loại thuế có thể được thực hiện dựa trên những tiêu thức sau đây:
1.4.1. Phân loại theo đối tượng chịu thuế
Nếu căn cứ vào đối tượng chịu thuế, có thể chia các sắc thuế thành ba loại:
Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế có đối tượng chịu thuế là thu nhập nhận được.
Thu nhập này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: thu nhập từ lao động dưới
dạng tiền lương, tiền công; thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi
nhuận, lợi tức, cổ phần... Thuế thu nhập cũng có nhiều hình thức khác nhau: thuế thu