BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM 1 MỤC LỤC CHƯƠNG I: RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 3 PHẦN 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH ............................................................................................................................................................................................. 3 PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TẠI VIỆT NAM .............................................................................................................................................. 22 PHẦN 3: KHUYẾN NGHỊ SỬA ĐỔI CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH ................................ 38 CHƯƠNG II: HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN 46 PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN ............................................................................ 46 PHẦN 2: RÀ SOÁT VIỆC THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH/ĐỘC QUYỀN ................................................................................................................................................... 63 PHẦN 3: KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH/ĐỘC QUYỀN ......................................................................................... 82 CHƯƠNG III: TẬP TRUNG KINH TẾ 89 PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ ................................... 89 PHẦN 2: QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM .............................................. 120 PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.................................................................................................................................................. 142 CHƯƠNG IV: RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 151 PHẦN 1: HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM .............................................................................. 151 PHẦN 2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ .................................................................................................................................................... 184 PHẦN 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM ............. 210 CHƯƠNG V: MÔ HÌNH CÁC CƠ QUAN CẠNH TRANH 224 PHẦN 1: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ XÂY DỰNG CƠ QUAN CẠNH TRANH .................................................................... 224 PHẦN 2: THỰC TRANG CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH TẠI VIỆT NAM ................................................................... 230 PHẦN 3. ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................................................................. 242
332
Embed
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
1
MỤC LỤC
CHƯƠNG I: RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH 3
PHẦN 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH
TRANH ............................................................................................................................................................................................. 3
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH TẠI VIỆT NAM .............................................................................................................................................. 22
PHẦN 3: KHUYẾN NGHỊ SỬA ĐỔI CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH ................................ 38
CHƯƠNG II: HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, LẠM DỤNG
VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN 46
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN ............................................................................ 46
PHẦN 2: RÀ SOÁT VIỆC THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH/ĐỘC QUYỀN ................................................................................................................................................... 63
PHẦN 3: KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT
HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH/ĐỘC QUYỀN ......................................................................................... 82
CHƯƠNG III: TẬP TRUNG KINH TẾ 89
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH VÀ QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ ................................... 89
PHẦN 2: QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM .............................................. 120
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.................................................................................................................................................. 142
CHƯƠNG IV: RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH 151
PHẦN 1: HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH Ở VIỆT NAM .............................................................................. 151
PHẦN 2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ .................................................................................................................................................... 184
PHẦN 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TẠI VIỆT NAM ............. 210
CHƯƠNG V: MÔ HÌNH CÁC CƠ QUAN CẠNH TRANH 224
PHẦN 1: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ XÂY DỰNG CƠ QUAN CẠNH TRANH .................................................................... 224
PHẦN 2: THỰC TRANG CƠ QUAN QUẢN LÝ CẠNH TRANH TẠI VIỆT NAM ................................................................... 230
PHẦN 3. ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................................................................. 242
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
2
PHỤ LỤC: MÔ HÌNH CƠ QUAN CẠNH TRANH MỘT SỐ NƯỚC 252
I. ỦY BAN THƯƠNG MẠI LÀNH MẠNH NHẬT BẢN ................................................................................................................................... 252
II. ỦY BAN THƯƠNG MẠI LIÊN BANG HOA KỲ VÀ CỤC CHỐNG ĐỘC QUYỀN CỦA BỘ TƯ PHÁP ....................................................... 267
III.ỦY BAN THƯƠNG MẠI LÀNH MẠNH ĐÀI LOAN .................................................................................................................................. 277
IV. ỦY BAN CẠNH TRANH VÀ NGƯỜI TIÊU DÙNG ÚC ............................................................................................................................. 291
V. CỤC CẠNH TRANH CANADA ................................................................................................................................................................... 298
VI. CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH PHÁP ...................................................................................................................................................... 307
VII. ỦY BAN CẠNH TRANH LIÊN BANG THỤY SỸ .................................................................................................................................... 316
VIII. ỦY BAN CẠNH TRANH SINGAPORE ................................................................................................................................................... 325
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
3
CHƢƠNG I:
RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH VỀ
HÀNH VI THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
PHẦN 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC HÀNH VI
THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1. Khái quát chung về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Quá trình cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để đạt được lợi thế hơn
so với các đối thủ. Tuy nhiên, khi phải đối mặt với cạnh tranh, không ít các doanh
nghiệp đã nhìn nhận cạnh tranh như một mối hiểm họa đối với khả năng thu lợi nhuận
cũng như sự tồn vong của doanh nghiệp. Vì vậy, thay vì nỗ lực điều chỉnh, nâng cao
năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới, các doanh nghiệp này
đã chọn một con đường dễ dàng hơn là dàn xếp, thỏa thuận với các đối thủ cạnh tranh
trên thị trường về giá cả, sản xuất, thị trường, khách hàng… nhằm duy trì thị phần và
lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Hậu quả tất yếu của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự độc quyền hóa thị trường,
theo đó các vấn đề quan trọng của thị trường như giá cả, sản lượng, khách hàng…
không còn tuân thủ theo quy luật thị trường mà bị khống chế bởi một nhóm các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận. Từ việc khống chế thị trường, hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, vì vậy, thường mang tính chất ―trục lợi‖ (exploitative) hoặc ―ngăn cản, loại
bỏ‖ (exclusionary) cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh như Adam Smith đã phát
hiện thấy trong cuốn Sự thịnh vượng của các quốc gia xuất bản năm 1776:
―… những người trong cùng một nghề thường hiếm khi gặp nhau, thậm chí để vui vẻ
và giải trí, nhưng nếu có thì các cuộc nói chuyện giữa họ thường kết thúc với âm mưu
chống lại công chúng, hoặc một số thủ đoạn để tăng giá.‖
Mặc dù vậy, không phải tất cả các thỏa thuận giữa các doanh nghiệp đều nhất
thiết nhằm mục đích hoặc có tác động làm phương hại cạnh tranh. Trong một số quốc
gia, luật cạnh tranh có quy định miễn trừ cho một số thỏa thuận hợp tác giữa các doanh
nghiệp nếu các thỏa thuận đó có tác dụng làm tăng hiệu quả kinh tế, năng động hóa thị
trường. Ví dụ, nhiều quốc gia cho phép các doanh nghiệp hợp tác trong lĩnh vực nghiên
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
4
cứu, phát triển sản phẩm (R&D), nghiên cứu, phát triển các tiêu chuẩn thống nhất cho
sản phẩm… để kích thích lợi thế kinh tế qui mô, thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật, công
nghệ... mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và toàn bộ nền kinh tế.
Từ các đánh giá, nhìn nhận về tác động tiêu cực của các hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh của hầu khắp các nước trên thế giới đều có quy
định điều chỉnh các hành vi thỏa thuận và đều coi pháp luật điều chỉnh hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh là một trong ba cột trụ quan trọng của Luật Cạnh tranh. Tuy
nhiên, như đã đề cập trên đây, do không phải bất kỳ thỏa thuận nào giữa các doanh
nghiệp cũng mang ý nghĩa tiêu cực nên việc phân định rõ các dạng thức thỏa thuận,
đánh giá được bản chất, tác động của các hành vi thỏa thuận có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với việc xây dựng và thực thi pháp luật cạnh tranh ở các quốc gia.
1.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Mặc dù không có một khái niệm chung, thống nhất giữa các quốc gia về ―thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh‖, tuy nhiên, từ thực tiễn thực thi pháp luật, có thể thấy cách
hiểu, cách tiếp cận đối với ―thỏa thuận hạn chế cạnh tranh‖ ở các quốc gia có nhiều
điểm tương đối đồng nhất.
Ở Châu Âu, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định tại Điều 101 (Điều 81
cũ) của Hiệp ước thành lập liên minh Châu Âu như sau:
"Mọi thoả thuận giữa các doanh nghiệp, quyết định của hiệp hội các doanh
nghiệp và mọi hành vi liên kết khác có thể ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước
thành viên và có mục đích hoặc hệ quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật
cạnh tranh trên thị trường của liên minh, đều bị coi là đi ngược lại với mục đích thành
lập thị trường chung và bị cấm”.
Tại Nhật Bản, khoản 6, Điều 2, Luật Chống độc quyền quy định:
“Hạn chế thương mại bất hợp lý là các hoạt động kinh doanh mà thông qua đó
bất kỳ doanh nghiệp nào bằng hợp đồng, thỏa thuận hay bất kỳ các hoạt động thông
đồng khác, không phụ thuộc tên gọi, cùng hạn chế hay tiến hành các hoạt động kinh
doanh của họ theo cách thức cố định giá, duy trì giá hay tăng giá, hoặc để giới hạn
sản xuất, công nghệ, sản phẩm, cơ sở sản xuất hay khách hàng hoặc giao dịch của các
đối tác, gây ra hạn chế đáng kể đối với cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại, đi ngược
lại lợi ích chung”.
Tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh hiện hành thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được liệt
vào nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh, theo đó là các hành vi của doanh nghiệp làm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
5
giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Khác với pháp luật cạnh tranh của
Châu Âu và Nhật Bản, Luật Cạnh tranh của Việt Nam không đưa ra khái niệm về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh mà quy định cụ thể về 8 dạng thức (hành vi) thoả thuận, bao
gồm các thỏa thuận như thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, tiết chế sản
lượng… quy định tại Điều 8, Luật Cạnh tranh.
Như vậy, pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cũng như của các quốc gia nêu trên
đều không phân biệt hình thức thỏa thuận (công khai hay ngầm) và đều nhắm vào mục
đích/hệ quả hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận. Tuy nhiên, từ các cách tiếp cận điều
chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, có thể thấy rằng pháp luật cạnh tranh Việt
Nam hiện hành sử dụng cách tiếp cận đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hẹp hơn so
với tiếp cận của Châu Âu và Nhật Bản, chí ít trên 2 phương diện:
Ở Việt Nam, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ bao hàm thỏa thuận giữa các
doanh nghiệp, không bao hàm các quyết định của Hiệp hội doanh nghiệp hay các hành
vi liên kết khác như ở Châu Âu và Nhật Bản. Chính bởi cách tiếp cận này, Luật Cạnh
tranh của Việt Nam đã không xem xét vai trò của các hiệp hội trong các vụ việc liên
quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Xuất phát từ cách tiếp cận liệt kê hành vi, ở Việt Nam, ngoài 8 dạng thỏa
thuận được luật hóa tại Điều 8 của Luật, các hạn chế thương mại bất hợp lý khác hay
các hành vi liên kết, thông đồng khác mặc dù có mục đích hoặc hệ quả ngăn cản, hạn
chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường nhưng nếu không thuộc 8
dạng thỏa thuận được liệt kê sẽ không bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và không
bị xem xét.
Trong các phần sau, báo cáo sẽ phân tích kỹ lưỡng hơn các điểm tương đồng, dị
biệt trong cách tiếp cận điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của pháp luật
cạnh tranh Việt Nam và của một số nước khác, đánh giá các ưu, nhược điểm để từ đó
có các khuyến nghị phù hợp.
1.2. Các loại hình thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được phân loại và nhận dạng
theo nhiều tiêu chí khác nhau. Hình dưới đây trình bày cách phân loại thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh theo mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thỏa thuận và theo mức độ
vi phạm nguyên tắc cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
6
Thỏa thuận HCCT
Thỏa thuận ngang Thỏa thuận dọc
Thỏa thuận ngang
nghiêm trọng
Thỏa thuận ngang
ít nghiêm trọng
Ấn định giá
Hạn chế sản lượng
Thông đồng đấu thầu
Phân chia thị trường
Ấn định giá bán lại
Các loại thỏa thuận dọc khác
Hợp đồng giao dịch độc quyền
Bán kèm
Phân loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1.2.1. Căn cứ mối quan hệ giữa các doanh nghiệp tham gia thoả thuận
Căn cứ theo mối quan hệ giữa các chủ thể (doanh nghiệp) tham gia thỏa thuận, có
thể phân loại thành thỏa thuận theo chiều ngang và thỏa thuận theo chiều dọc. Việc
phân loại này có một ý nghĩa quan trọng trong cách tiếp cận điều chỉnh hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, bởi vì thỏa thuận ngang luôn được đánh giá là có tác động
nguy hại hơn so với thỏa thuận theo chiều dọc, do phạm vi ảnh hưởng trên cùng một
thị trường của thỏa thuận ngang lớn hơn thỏa thuận dọc. Do vậy, phân biệt rõ ràng giữa
thỏa thuận ngang và thỏa thuận dọc sẽ giúp ích cho việc định hướng cách thức điều
chỉnh hành vi thỏa thuận, mức độ can thiệp của cơ quan cạnh tranh đối với vụ việc.
a. Thỏa thuận theo chiều ngang
Thỏa thuận theo chiều ngang (các-ten) là thỏa thuận giữa các chủ thể kinh
doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình kinh doanh (ví dụ: thỏa thuận
giữa các nhà sản xuất, những người bán buôn với nhau, giữa những người bán lẻ với
nhau).
Về chủ thể, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang diễn ra giữa các
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh với nhau.
Về hình thức, thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp,
có thể công khai hoặc ngầm.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
7
Về nội dung, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang thường tập trung
vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh như
giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng và nội dung hợp
đồng.
Khi những nội dung của thỏa thuận được hình thành và thực hiện, thì các yếu tố
nói trên sẽ trở thành tiêu chuẩn thống nhất, không có cạnh tranh trên thị trường giữa
những doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Căn cứ vào mức độ vi phạm các nguyên tắc cạnh tranh, xem xét trên phương diện
các tác động mà thỏa thuận theo chiều ngang mang đến đối với thị trường, người tiêu
dùng, nền kinh tế và xã hội nói chung, mà người ta chia thỏa thuận theo chiều ngang
thành hai nhóm:
Thoả thuận ngang nghiêm trọng (hardcore cartel) và
Các loại thoả thuận ngang ít nghiêm trọng (non-hardcore cartel).
Trong số các thỏa thuận theo chiều ngang, không phải tất cả các thỏa thuận
theo chiều ngang đều gây tác hại xấu, mà có thể có những trường hợp các đối thủ
cạnh tranh phối hợp với nhau theo cách thức mang lại lợi ích kinh tế không chỉ cho
bản thân họ, mà còn làm lợi cho cả người tiêu dùng. Những thỏa thuận ngang như
thế có thể gọi là thỏa thuận hợp tác.
Những hình thức thỏa thuận hợp tác phổ biến nhất bao gồm:
Thỏa thuận nghiên cứu và phát triển (R&D): Các thỏa thuận R&D có thể
tạo ra một khuôn khổ chung cho một số hoạt động R&D nhất định, cải thiện các công
nghệ hiện có hoặc hợp tác nghiên cứu, phát triển và tiếp thị các sản phẩm mới.
Thỏa thuận sản xuất: Có ba dạng thỏa thuận sản xuất chính:
- thỏa thuận liên doanh sản xuất, theo đó các bên thỏa thuận liên doanh sản xuất
một số sản phẩm nhất định;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
10
- thỏa thuận chuyên môn hóa (đơn phương hoặc đồng nhất), theo đó các bên
thỏa thuận đơn phương hoặc cùng nhau chấm dứt sản xuất một loại sản phẩm và mua
chúng từ một bên khác;
- thỏa thuận thầu phụ, theo đó một bên (nhà thầu) giao việc sản xuất sản phẩm
cho một bên khác (nhà thầu phụ).
Thỏa thuận mua chung sản phẩm: Thỏa thuận liên quan đến việc cùng nhau
mua sản phẩm do một công ty liên doanh mà trong đó nhiều doanh nghiệp giữ cổ phần
nhỏ tiến hành thông qua một hợp đồng thỏa thuận hoặc dưới một hình thức hợp tác lỏng
lẻo hơn.
Thỏa thuận thƣơng mại hóa: Những thỏa thuận này bao gồm hợp tác giữa
các đối thủ cạnh tranh trong việc bán, phân phối và quảng bá sản phẩm của mình.
Phạm vi của chúng có thể khác nhau tùy thuộc vào các chức năng thương mại được
quy định trong thỏa thuận.
Thỏa thuận định chuẩn: Các thỏa thuận định chuẩn có mục tiêu chính là
xác định các tiêu chuẩn chất lượng và kỹ thuật thống nhất đối với những sản phẩm, quy
trình sản xuất hoặc phương pháp sản xuất mà các doanh nghiệp phải tuân thủ.
Thỏa thuận bảo vệ môi trƣờng: Thỏa thuận bảo vệ môi trường là các thỏa
thuận mà theo đó các bên tham gia cam kết giảm ô nhiễm theo quy định của Luật môi
trường hoặc để đạt được các mục tiêu bảo vệ môi trường.
Thỏa thuận về các điều kiện kinh doanh: Thỏa thuận về các điều kiện kinh
doanh là những thỏa thuận thống nhất về điều kiện kinh doanh, cung ứng, thanh toán.
Bên cạnh mặt tích cực là tăng tính tường minh của thị trường còn có điểm cần cân nhắc
về nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh trên thị trường. Đó là sự liên
kết của các doanh nghiệp trên cơ sở xác định các điều kiện có thể gây khó khăn cho các
doanh nghiệp mới hoặc đối thủ tiềm năng và cũng gây trở ngại cho tính năng động, đổi
mới của mỗi doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Các dạng thỏa thuận nêu trên, một mặt có tác động gây hạn chế cạnh tranh nhưng
mặt khác cũng có tác động thúc đẩy cạnh tranh, mang lại lợi ích cho xã hội và người
tiêu dùng. Chính vì vậy, các quốc gia như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản có các đối xử khác
biệt hoặc miễn trừ (có thời hạn) đối với các thỏa thuận này.
b. Thỏa thuận theo chiều dọc
Thỏa thuận theo chiều dọc (vertical agreement/vertical restraints) là thỏa thuận
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
11
hợp tác giữa hai hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động ở những khâu khác nhau trong quá
trình sản xuất, hoặc phân phối trên thị trường. Nhìn chung, các thỏa thuận theo chiều
dọc phần lớn ít gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường cạnh tranh, tới thị trường hơn
so với thỏa thuận theo chiều ngang.
Về chủ thể, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận dọc không phải là đối thủ cạnh
tranh của nhau, mà là những doanh nghiệp hoạt động ở các khâu khác nhau trong quá
trình kinh doanh, chẳng hạn như nhà sản xuất và nhà phân phối.
Về hình thức, cũng giống như thỏa thuận ngang, thỏa thuận dọc có thể công khai
hoặc ngầm định.
Về nội dung, thỏa thuận dọc thường tập trung vào các điều kiện kinh doanh trên
thị trường thứ cấp như giá bán lại, khu vực phân phối, sản lượng phân phối, khách
hàng giao dịch, điều kiện phân phối…Thỏa thuận theo chiều dọc thường đa dạng, tùy
thuộc vào đặc điểm của sản phẩm hay dịch vụ phân phối. Dựa trên các nhóm hành vi
thường gặp, thỏa thuận theo chiều dọc có ba dạng chính, bao gồm:
thỏa thuận ấn định giá bán lại;
thỏa thuận bán kèm sản phẩm, dịch vụ;
hợp đồng độc quyền.
Ngoài ra, còn có một số hình thức thỏa thuận dọc khác như ấn định số lượng sản
phẩm, dịch vụ phải bán, bán sản phẩm theo mức giá khuyến nghị…
Về tác động hạn chế cạnh tranh, có thể thấy thỏa thuận dọc tác động đến hoạt động
cạnh tranh giữa các nhà phân phối của cùng một sản phẩm (intra-brand) và giữa các nhà
sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ trên thị trường (inter-brand). Nói cách khác, tác động hạn
chế cạnh tranh của thỏa thuận theo chiều dọc là theo cả chiều dọc và chiều ngang. Tuy
nhiên, mức độ gây hạn chế cạnh tranh của các dạng thỏa thuận dọc thường ít hơn (so với
thỏa thuận ngang), vì vậy các nước thường sử dụng cách tiếp cận hợp lý để đánh giá theo
từng vụ việc cụ thể và thông thường chỉ xem xét khi một trong các bên tham gia thỏa
thuận có sức mạnh thống lĩnh thị trường. Riêng đối với thỏa thuận ấn định giá bán lại,
Nhật Bản có cách tiếp cận tương đối nghiêm khắc, theo đó mặc nhiên cấm mọi hình thức
thỏa thuận ấn định giá bán lại.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
12
2. Đánh giá tác động của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh xảy ra ở nhiều dạng khác nhau và gây ra các
tác động khác nhau. Có một số thỏa thuận mặc nhiên bị coi là gây ra tác động hạn chế
cạnh tranh, một số thỏa thuận chỉ gây tác động hạn chế cạnh tranh trong những trường
hợp nhất định và cũng có những thỏa thuận không gây tác động hạn chế cạnh tranh.
Đánh giá mức độ tác động của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là nhằm đưa ra cách thức
điều chỉnh phù hợp đối với mỗi loại hành vi.
Thỏa thuận ngang có tính chất nguy hại hơn thỏa thuận dọc
Các cơ quan cạnh tranh thường đánh giá thỏa thuận ngang (giữa các đối thủ cạnh
tranh ở cùng một khâu trong quá trình kinh doanh trên thị trường) có phạm vi ảnh
hưởng đến thị trường và tính chất nguy hại hơn so với thỏa thuận dọc (giữa các doanh
nghiệp ở các khâu khác nhau của quá trình kinh doanh trên thị trường). Các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang, đặc biệt là các thỏa thuận hardcore cartel liên
quan đến giá, sản lượng, phân chia thị trường và thỏa thuận thông đồng đấu thầu luôn
có bản chất hạn chế cạnh tranh. Các thỏa thuận này luôn nhắm đến lợi ích của các bên
tham gia thỏa thuận và đối lập với lợi ích của các chủ thể còn lại trên thị trường như
nhà cung ứng, người tiêu dùng hay các đối thủ cạnh tranh khác không tham gia thỏa
thuận.
Trong khi đó, đối với các thỏa thuận theo chiều dọc, bên cạnh tác động gây hạn
chế cạnh tranh, các cơ quan cạnh tranh cũng thừa nhận các tác động tích cực, thúc đẩy
cạnh tranh của các thỏa thuận, ví dụ: giúp nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ
kiểm soát được các chi phí quảng cáo, khuếch trương sản phẩm, chi phí giao dịch, định
giá bán lẻ sản phẩm rẻ hơn và đồng nhất trong cùng mạng lưới phân phối, tránh tình
trạng thu lợi nhuận kép, kiểm soát các tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm, dịch vụ, bảo
vệ hình ảnh thương hiệu đã tạo dựng, cải thiện chất lượng dịch vụ, loại bỏ tình trạng
hưởng khống (free riding) của các đối thủ cạnh tranh từ sự đầu tư phát triển hệ thống
phân phối... Vì vậy, đối với các thỏa thuận dọc, cơ quan cạnh tranh thường đánh giá tác
động tới cạnh tranh và ra quyết định theo từng trường hợp cụ thể.
Thỏa thuận thuộc nhóm hardcore nguy hại hơn thỏa thuận thuộc nhóm non-
hardcore cartel.
Có một số loại thỏa thuận được xếp vào nhóm thỏa thuận ngang nghiêm trọng
nhất như thỏa thuận ấn định giá, hạn chế sản lượng, phân chia thị trường và thông đồng
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
13
đấu thầu. Các thỏa thuận này luôn được ưu tiên chú trọng hàng đầu, bởi hầu hết các
quốc gia đều cho rằng các loại thỏa thuận này luôn gây ra tác động nguy hại và trực
tiếp đối với môi trường cạnh tranh. Trong khi đó, các thỏa thuận non-hardcore không
phải lúc nào cũng gây ra tác động tiêu cực. Một số thỏa thuận non-hardcore còn phát
sinh hiệu quả kinh tế như đã phân tích ở phần trên. Trong nhiều trường hợp, các tác
động thúc đẩy cạnh tranh của các thỏa thuận này còn lớn hơn so với tác động phản
cạnh tranh mà nó gây ra. Thông thường, các cơ quan cạnh tranh xem xét, đánh giá các
hành vi non-hardcore cartel trên cơ sở phân tích và cân bằng các tác động thúc đẩy
cạnh tranh cũng như tác động hạn chế cạnh tranh phát sinh từ thỏa thuận.
3. Nguyên tắc ban hành quy định cấm
Từ thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh, trên cơ sở đánh giá mức độ nguy hại
tới cạnh tranh của các dạng thỏa thuận, các nước đi trước đã đưa ra các nguyên tắc để
đánh giá tính hợp pháp/bất hợp pháp của một thỏa thuận nhằm tăng cường khả năng
thực thi pháp luật. Có hai nguyên tắc được các cơ quan cạnh tranh sử dụng khi xem
xét, đánh giá một hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm: cấm mặc nhiên (per
se rule) đối với các thỏa thuận nghiêm trọng và chỉ cấm một số trường hợp đối với các
thỏa thuận không thuộc nhóm nghiêm trọng (rule of reason).
Nguyên tắc vi phạm mặc nhiên là nguyên tắc coi một số hành vi hạn chế cạnh
tranh cụ thể là mặc nhiên vi phạm pháp luật cạnh tranh. Nguyên tắc vi phạm mặc nhiên
khẳng định tính bất hợp pháp của một số loại hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cụ
thể khi chứng minh được sự tồn tại của thỏa thuận, mà không cần phải xem xét đến
mục đích gây hạn chế cạnh tranh, mức độ thiệt hại và tác động mà thỏa thuân gây ra.
Thông thường, nguyên tắc vi phạm mặc nhiên được áp dụng khi xem xét, đánh
giá các hành vi thuộc nhóm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng (hardcore
cartel), bao gồm các thỏa thuận ấn định giá hàng hóa một cách trực tiếp hoặc gián tiếp,
thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát sản lượng, thỏa thuận phân chia thị trường, khu vực,
khách hàng và thông đồng đấu thầu.
Trên thực tế, các nước như Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản đều coi 4 dạng thỏa
thuận ngang gồm thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường, thỏa thuận
kiểm soát số lượng sản xuất, mua bán và thông đồng đấu thầu là các thỏa thuận làm
nguy hại tới cạnh tranh trong mọi trường hợp, không thể được biện minh bởi bất kỳ
một lập luận nào về tác động tích cực hay hiệu quả của các thỏa thuận. Do vậy, khi
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
14
xem xét tính hợp pháp/bất hợp pháp của các thỏa thuận này, nước nói trên đều áp dụng
nguyên tắc vi phạm mặc nhiên, tức là cấm các thỏa thuận trong mọi trường hợp.
Nguyên tắc hợp lý là nguyên tắc đánh giá một hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh là vi phạm pháp luật cạnh tranh trên cơ sở xem xét, cân bằng giữa tác động thúc
đẩy cạnh tranh và tác động hạn chế cạnh tranh của thỏa thuận. Nguyên tắc này được
coi là kim chỉ nam của Luật chống độc quyền Mỹ và cũng được áp dụng rộng rãi ở
Liên minh Châu Âu, Nhật Bản.
Theo nguyên tắc hợp lý, việc kiểm tra tính bất hợp pháp của hành vi được tiến
hành dựa trên việc đánh giá xem liệu thỏa thuận giữa các doanh nghiệp đơn thuần chỉ
là các quy định chung và có tác dụng thúc đẩy cạnh tranh hay liệu nó có thể ngăn chặn
hoặc thậm chí phá hủy sự cạnh tranh trên thị trường. Nói cách khác, trong những
trường hợp này, cơ quan cạnh tranh phải cân nhắc, cân bằng giữa các tác động thúc đẩy
cạnh tranh và tác động hạn chế cạnh tranh.
Nếu thỏa thuận giữa các doanh nghiệp mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn so với
các tác động phản cạnh tranh; đồng thời lợi ích này là công bằng giữa nhà sản xuất
và người tiêu dùng trong khi không có biện pháp nào khác có thể được sử dụng để
mang lại lợi ích kinh tế tương đương thì thỏa thuận đó được coi là hợp pháp. Ngược
lại, nếu hành vi thỏa thuận dẫn đến các tác động hạn chế cạnh tranh mà không thể
bù đắp bởi các tác động thúc đẩy cạnh tranh mà nó đem lại và không đáp ứng những
điều kiện nêu trên thì bị coi là bất hợp pháp.
Tuy nhiên, để đưa ra được đánh giá cuối cùng, các cơ quan cạnh tranh thường
phải xem xét các hiện tượng đặc biệt dẫn đến hình thành và áp dụng các thỏa thuận,
các điều kiện thị trường trước và sau khi thực hiện thỏa thuận, bản chất của thỏa thuận
và các tác động thực tế hoặc có thể do hành vi thỏa thuận gây ra… Theo hướng dẫn áp
dụng Điều 101(3) TFEU của EU, việc đánh giá một thỏa thuận có thể được thực hiện
thông qua 2 bước: (1) Thỏa thuận đang xem xét có gây hạn chế cạnh tranh hay không;
và (2) thỏa thuận đó có mang lại lợi ích thúc đẩy cạnh tranh hay không và liệu tác động
thúc đẩy cạnh tranh của thỏa thuận có lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh do nó mang
lại hay không. Hướng dẫn hiện tại của EU liệt kê 4 điều kiện có thể được các cơ quan
cạnh tranh dùng làm căn cứ để xem xét, đánh giá thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, gồm:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
15
Lợi ích kinh tế: thỏa thuận đang xem xét phải mang lại những lợi ích kinh tế
như cải tiến sản xuất và phân phối sản phẩm hoặc thúc đẩy sự tiến bộ khoa học kỹ
thuật và kinh tế phải lớn hơn các tác động hạn chế cạnh tranh gây ra.
Tính cần thiết: các hạn chế do thỏa thuận gây ra là cần thiết để đạt được các
lợi ích kinh tế. Nếu có những cách khác ít gây hạn chế cạnh tranh hơn để đạt được lợi
ích tương tự, thì những lợi ích đạt được từ việc thỏa thuận sẽ không thể được sử dụng
để biện minh cho tác động hạn chế cạnh tranh. Nói cách khác, cơ quan cạnh tranh phải
đánh giá liệu các tác động hạn chế cạnh tranh có vượt quá những gì cần thiết để đạt
được lợi ích kinh tế hay không.
Chia sẻ lợi ích công bằng cho người tiêu dùng: các lợi ích kinh tế đạt được phải
có lợi không chỉ cho các bên tham gia thỏa thuận, mà phải được chia sẻ một cách công
bằng cho người tiêu dùng. Phần lợi ích chuyển cho người tiêu dùng có thể được đánh giá
thông qua việc đánh giá lợi ích cắt giảm chi phí, môi trường cạnh tranh, các yếu tố cung
cầu có lợi cho cạnh tranh…Doanh nghiệp tham gia thỏa thuận sẽ giữ lại hiệu quả không
được chia sẻ cho người tiêu dùng, thể hiện bởi đạt được lợi nhuận cao hơn.
Không loại bỏ cạnh tranh: cơ quan cạnh tranh cần đánh giá liệu thỏa thuận có
gây ra tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường hay không. Nếu
các doanh nghiệp tham gia có vị trí thống lĩnh trên thị trường, thì thỏa thuận gây ra các
tác động phản cạnh tranh và vì vậy hành vi sẽ thuộc diện bị cấm thực hiện.
Như vậy, đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, tiếp cận điều chỉnh của các nước
là kết hợp áp dụng nguyên tắc vi phạm mặc nhiên (đối với thỏa thuận nghiêm trọng) và
nguyên tắc hợp lý (đối với các dạng thỏa thuận khác và thỏa thuân theo chiều dọc).
4. Xử lý vi phạm
4.1. Các hình thức xử lý vi phạm
Sau khi xem xét, đánh giá tính bất hợp pháp của hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh trên cơ sở nguyên tắc vi phạm mặc nhiên hoặc nguyên tắc hợp lý, nếu xét thấy
hành vi thỏa thuận vi phạm pháp luật cạnh tranh, thì tùy thuộc vào tính nghiêm trọng,
mức độ tác động và thiệt hại do hành vi gây ra mà cơ quan cạnh tranh, cơ quan công tố
truy cứu trách nhiệm đối với các đối tượng khác nhau, với các hình thức xử lý vi phạm
khác nhau.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
16
Đối tượng có thể bị truy cứu trách nhiệm liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh gồm: a) doanh nghiệp; b) cá nhân; c) tổ chức ngành nghề.
Các hình thức xử lý vi phạm đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy
định trong pháp luật cạnh tranh phải phù hợp với đối tượng bị truy cứu trách nhiệm, đồng
thời phải tương xứng với mức độ tác động và gây hại của hành vi, trong đó bao gồm:
a) chế tài phạt tù: được áp dụng đối với cá nhân vi phạm;
b) chế tài phạt tiền: được áp dụng đối với doanh nghiệp; cá nhân và/hoặc tổ
chức vi phạm;
c) biện pháp khắc phục hậu quả: được áp dụng đối với doanh nghiệp và/hoặc tổ
chức vi phạm.
4.1.1. Xử lý vi phạm đối với cá nhân
Cá nhân vi phạm được đề cập trong phần này có thể là giám đốc, nhà quản lý,
người đại diện doanh nghiệp, chủ tịch hoặc thành viên ban chấp hành hiệp hội đã thực
hiện hành vi thỏa thuận; ép buộc, lôi kéo, xúi giục hoặc tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi
để các bên dễ dàng tham gia thỏa thuận.
Các hình thức xử lý vi phạm có thể áp dụng đối với các cá nhân vi phạm bao gồm
a) chế tài phạt tù và/hoặc b) chế tài phạt tiền.
Chế tài xử lý vi phạm đối với cá nhân thường được áp dụng trong các trường hợp
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc nhóm hardcore cartels, như thỏa thuận ấn định giá,
phân chia thị trường, hạn chế sản lượng hoặc thông đồng đấu thầu...
Việc quy định các chế tài xử lý hình sự đối với các cá nhân tham gia thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh thể hiện sự nghiêm khắc của pháp luật đối với các hành vi các-ten
nguy hại, đồng thời mang tính răn đe, ngăn ngừa. Tuy nhiên, không phải tất cả các
nước đều có quy định về chế tài xử lý vi phạm đối với cá nhân tham gia thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh. Các chế tài xử phạt này chỉ được áp dụng ở những quốc gia có chế độ
xử lý hình sự đối với các-ten, với cách tiếp cận coi các-ten là một tội hình sự, tương tự
như các tội danh trộm cắp, gian lận... Khi đó, việc xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh vi phạm được thực hiện theo thủ tục tố tụng hình sự.
Trong xử lý hình sự đối với các cá nhân tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,
các quốc gia cũng quy định khác nhau về thẩm quyền xử lý vi phạm, thời hạn phạt tù
và mức phạt tiền tối đa.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
17
Tại một số quốc gia, chẳng hạn như Canada, cơ quan cạnh tranh chịu trách nhiệm
điều tra vụ việc, nhưng việc truy tố hình sự lại thuộc thẩm quyền của Viện công tố.
Trong khi đó, ở các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Israel, Cơ quan chống độc quyền có
đồng thời hai thẩm quyền điều tra và truy tố hình sự đối với hành vi các-ten.
Về thời hạn phạt tù tối đa, một số quốc gia quy định cá nhân vi phạm có thể bị
phạt tù tối đa lên tới 5 năm, như Nhật Bản, Ireland, Vương quốc Anh...Trong khi đó,
Hoa Kỳ có cách tiếp cận nghiêm khắc hơn đối với hành vi các-ten, đặc biệt là các-ten
hardcore cartels, với quy định về thời hạn phạt tù tối đa lên tới 10 năm.
Mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân vi phạm về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh có thể là 5 triệu yen (tại Nhật Bản), 4 triệu euro (tại Ireland), 500,000 đô la New
Zealand (tại New Zealand) hoặc 1 triệu đô la Mỹ (tại Hoa Kỳ).
4.1.2. Xử lý vi phạm đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể phải chịu các hình thức
xử lý như sau: a) phạt tiền và/hoặc b) buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả.
a) Phạt tiền
Có thể nói, phạt tiền đối với doanh nghiệp là hình thức xử lý vi phạm chính được
các cơ quan cạnh tranh áp dụng phổ biến đối với các vụ việc liên quan đến hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh.
Cơ sở để tính toán mức phạt tiền đối với doanh nghiệp vi phạm tương đối đa dạng
và có sự khác biệt giữa các quốc gia. Nó có thể là:
o doanh thu/doanh số bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan hoặc tổng
doanh thu, doanh thu trên thị trường nội địa hoặc doanh thu toàn cầu;
o lợi nhuận thu được từ hành vi vi phạm bất chính;
o thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan.
Trong tính toán mức phạt tiền đối với doanh nghiệp, cơ quan cạnh tranh luôn chú
trọng tới các yếu tố như tỷ lệ phần trăm từ doanh thu/doanh số, lợi nhuận bất chính;
khoảng thời gian để tính toán doanh thu/doanh số, lợi nhuận; khung phạt tối thiểu, tối
đa. Tỷ lệ phần trăm tối đa từ doanh thu thường được quy định ở mức 10%. Khoảng
thời gian để tính toán doanh thu làm cơ sở tính mức phạt có thể là 01 hoặc tối đa 03
năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Khung phạt có thể rơi vào khoảng
giữa mức tối thiểu và mức tối đa, hoặc chỉ quy định mức phạt tối đa.
Đối với từng vụ việc, cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm về hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh có quyền quyết định áp dụng một, một số hoặc tất cả các hình thức
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
18
phạt tiền nêu trên. Mức phạt tiền cao hay thấp tùy thuộc vào tính nghiêm trọng, mức độ
tác động của hành vi, tuy nhiên không được vượt quá mức tối đa, hoặc nằm ngoài
khung phạt tiền theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
b) Biện pháp khắc phục hậu quả
Ngoài chế tài phạt tiền, các biện pháp khắc phục hậu quả cũng được các cơ quan
thực thi cạnh tranh chú trọng áp dụng như là các giải pháp nhằm cân bằng thị trường,
đưa thị trường trở về trạng thái cạnh tranh hơn hoặc trạng thái như trước khi xảy ra các
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Các biện pháp khắc phục hậu quả đối với doanh nghiệp có thể là buộc bồi thường,
bù đắp tổn thất, thiệt hại cho khách hàng, người tiêu dùng, đối tác kinh doanh; buộc
loại bỏ những điều khoản vi phạm ra khỏi hợp đồng, bản cam kết, ghi nhớ, thỏa thuận
giữa các doanh nghiệp/cá nhân kinh doanh; buộc cam kết không tái phạm hoặc tiếp tục
vi phạm các quy định của Luật Cạnh tranh hay buộc học tập và được giáo dục nhận
thức về pháp luật cạnh tranh... Các biện pháp xử lý này mang tính chiến lược, lâu dài,
có tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn các trường hợp tái phạm trong tương lai.
4.1.3. Xử lý vi phạm đối với tổ chức nghề nghiệp
Các tổ chức nghề nghiệp, chẳng hạn như hiệp hội các doanh nghiệp trong cùng
một ngành không phải là đối tượng trực tiếp tham gia thỏa thuận. Tuy nhiên, hiệp hội
vẫn có thể là đối tượng bị truy cứu trách nhiệm liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh do đã ép buộc, lôi kéo, xúi giục các doanh nghiệp thành viên tham gia
thỏa thuận, thực hiện các quyết định của hiệp hội liên quan đến giá, sản lượng sản xuất,
thị trường...hay đóng vai trò tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thành
viên gặp gỡ, trao đổi các thông tin kinh doanh nhạy cảm và thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh.
Các hình thức xử lý vi phạm áp dụng đối với hiệp hội ngành nghề có thể là phạt
tiền hoặc buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả. Nhật Bản và Đài Loan là
hai quốc gia có những quy định rõ ràng về xử lý vi phạm của hiệp hội thương mại, hiệp
hội nghề nghiệp liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
4.2. Xu hướng điều chỉnh các quy định về xử lý vi phạm
Với quan điểm thống nhất cho rằng vi phạm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là
một trong các vi phạm pháp luật cạnh tranh nghiêm trọng nhất, thời gian gần đây các
nước trên thế giới có xu hướng điều chỉnh các quy định về xử lý vi phạm liên quan đến
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo hướng tăng chế tài xử phạt. Cụ thể:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
19
a) Xu hướng hình sự hóa các-ten
Theo nghiên cứu mới nhất của Mạng lưới cạnh tranh quốc tế (ICN) năm 2009 về
“Xu hướng và sự phát triển trong thực thi chống các-ten”, trong giai đoạn 10 năm gần
đây từ năm 2000 đến năm 2009, đã có một số quốc gia sửa đổi, bổ sung Luật Cạnh
tranh theo hướng hình sự hóa một số hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm
trọng.
Chẳng hạn, Luật Cạnh tranh của Vương quốc Anh năm 2003 đã bổ sung thêm các
quy định về phạt tù lên tới 5 năm và phạt tiền không giới hạn đối với cá nhân vi phạm
liên quan đến hành vi các-ten nghiêm trọng. Tương tự, điều khoản quy định về chế tài
phạt hình sự đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng được đưa vào trong
pháp luật cạnh tranh của Romania năm 2003, Estonia năm 2002 và Hungary năm 2005.
Gần đây nhất, năm 2009, cơ quan thực thi cạnh tranh tại Úc và Nam Phi cũng đã
thay đổi quan điểm và có thái độ nghiêm khắc hơn đối với các hành vi các-ten, coi các-ten
là một tội hình sự. Theo Luật Cạnh tranh mới được sửa đổi của Úc, cá nhân vi phạm hình
sự trong các vụ việc các-ten có thể chịu mức phạt tù tối đa 10 năm và/hoặc mức phạt tiền
tới 220,000 đô la Úc/hành vi. Tại Nam Phi, từ năm 2009, cá nhân là giám đốc hoặc giữ vị
trí quản lý doanh nghiệp đã chỉ đạo, lôi kéo doanh nghiệp thực hiện thảo thuận hạn chế
cạnh tranh có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự dưới hình thức nộp phạt với mức tiền
phạt không quá 500,000 Rand Nam Phi hoặc bị phạt tù tối đa 10 năm, hoặc phải chịu cả
hai chế tài xử phạt.
b) Xu hướng tăng mức phạt
Thể hiện phản ứng mạnh mẽ hơn, quyết tâm cao hơn trong thực thi các quy định
kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, trong thời gian gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới
có xu hướng tăng chế tài xử phạt đối với doanh nghiệp và cá nhân vi phạm, bao gồm tăng
thời hạn phạt tù, mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân, doanh nghiệp. Cụ thể như dưới đây:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
20
Xu hƣớng thay đổi mức phạt đối với cá nhân vi phạm pháp luật về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh của một số quốc gia 2000 – 2009
Quốc gia Năm
SĐBS
Mức phạt tù tối đa Mức phạt tiền tối đa
Trƣớc SĐBS Sau SĐBS Trƣớc
SĐBS Sau SĐBS
Chile 2009 2 năm 5 năm
Ai-len 2002 2 năm 5 năm 3 triệu € 4 triệu €
Nhật Bản 2009 3 năm 5 năm
Hà Lan 2001 300,000
NZ$
500,000 NZ$
Tây Ban Nha 2007 60,000 €
Hoa Kỳ 2004 3 năm 10 năm 350,000 $ 1 triệu $
Xu hƣớng thay đổi mức phạt tiền đối với doanh nghiệp vi phạm pháp luật về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của một số quốc gia 2000 – 2009
Quốc gia Năm
SĐBS Trƣớc SĐBS Sau SĐBS
Chile 2009 24.2 triệu $
Ai Cập 2008 2 triệu $ 55 triệu $
Pháp 5% doanh thu thị trường Pháp 10% doanh thu toàn cầu
Đức 3 lần lợi nhuận thu được từ
hành vi vi phạm
1 triệu € và 10% tổng doanh
thu
Ai-len 2002 3 triệu € 4 triệu €
Nhật Bản 2005 6% doanh thu trên TTLQ 10% doanh thu trên TTLQ
Hàn Quốc 2005 5% doanh thu hàng năm 10% doanh thu hàng năm
Hà Lan 2001 5 triệu NZ$ 10 triệu NZ$;
3 lần lợi nhuận thu được từ
hành vi vi phạm hoặc 10%
doanh thu.
Panama 2007 100,000 $ 1 triệu $
Tây Ban Nha 2007 10% doanh thu hoặc 10 triệu €
Hoa Kỳ 2004 10 triệu $ 100 triệu $
Mỗi quốc gia lựa chọn một chế độ xử lý riêng đối với hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, phù hợp với hệ thống pháp luật của mình. Mặc dù cơ sở và cách tính toán
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
21
mức phạt, khung phạt giữa các quốc gia có sự khác biệt, tuy nhiên với việc thống nhất
nâng cao quan điểm đánh giá đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các cơ
quan cạnh tranh ngày càng có xu hướng hình sự hóa hành vi các-ten nghiêm trọng hoặc
quy định chế tài phạt nặng hơn nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chống các-ten.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
22
PHẦN 2: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH HIỆN
HÀNH VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TẠI VIỆT NAM
1. Tổng quan về các quy định hiện hành
1.1. Về các hành vi t hỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Khoản 3, Điều 3, Luật cạnh tranh đưa ra khái niệm về hành vi hạn chế cạnh tranh
―là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, làm sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế‖. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh và
các văn bản hướng dẫn không đưa ra định nghĩa trực tiếp về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Một cách gián tiếp có thể hiểu, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là thỏa thuận giữa
hai hay nhiều doanh nghiệp nhằm làm giảm, làm sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường.
Luật Cạnh tranh và Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định về thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh dưới hình thức liệt kê các hành vi cụ thể và mô tả chi tiết về nội dung, hình
thức của các loại thỏa thuận này. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, vì vậy, được hiểu bao
gồm 08 dạng thỏa thuận quy định tại Điều 8, Luật Cạnh tranh và được quy định chi tiết
tại các Điều từ 14 đến 21, Nghị định 116/2005/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
Theo Điều 8, Luật cạnh tranh, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
1) Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
2) Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung
ứng dịch vụ;
3) Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán
hàng hoá, dịch vụ;
4) Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
5) Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên
quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng;
6) Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh;
7) Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các
bên của thoả thuận;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
23
8) Thông đồng để một hoặc các bên của thoả thuận thắng thầu trong việc cung
cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Mỗi loại thỏa thuận trên được mô tả chi tiết tại Nghị định hướng dẫn thi hành (từ
Điều 14 đến Điều 21, Nghị định 116/2005/NĐ-CP). Như vậy, phạm vi các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh bị điều chỉnh chỉ nằm trong khuôn khổ các hành vi được quy định
trong Luật và Nghị định.
1.2. Về các quy định cấm
Các quy định cấm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được đề cập tại Điều 9,
Luật Cạnh tranh. Theo đó, các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm đoán ở hai
mức độ: cấm tuyệt đối (trong mọi trường hợp) và cấm khi thị phần kết hợp của các bên
tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan chiếm từ 30% trở lên. Mặc dù vậy, căn cứ
các quy định hiện hành, có thể thấy rằng Luật Cạnh tranh của Việt Nam sử dụng
nguyên tắc vi phạm mặc nhiên khi đánh giá các hành vi thỏa thuận.
1) Quy định cấm tuyệt đối (Khoản 1, Điều 9, Luật Cạnh tranh): được áp dụng
đối với các thỏa thuận quy định tại khoản 6; 7; 8, Điều 8, Luật Cạnh tranh, bao gồm (1)
thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc
phát triển kinh doanh; (2) thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp
không phải là các bên của thoả thuận; (3) thông đồng để một hoặc các bên của thoả
thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Theo cách tiếp cận của Luật Cạnh tranh Việt Nam, ba loại thỏa thuận bị cấm
tuyệt đối và không được miễn trừ luôn hàm chứa tính chất hạn chế cạnh tranh mà
không có bất cứ một cơ sở nào để có thể biện hộ về hiệu quả của chúng đối với thị
trường. Do đó, việc xác định hành vi thỏa thuận bị cấm trong các trường hợp này
không đòi hỏi phải chứng minh về sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia
thỏa thuận.
2) Quy định cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên
thị trƣờng liên quan từ 30% trở lên (Khoản 2, Điều 9, Luật Cạnh tranh): được áp
dụng đối với các thỏa thuận quy định tại khoản 1; 2; 3; 4; 5, Điều 8, Luật Cạnh tranh,
bao gồm (1) thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
(2) thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;
(3) thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá,
dịch vụ; (4) thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; (5) thoả
thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
24
vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến
đối tượng của hợp đồng.
Các thỏa thuận không thuộc ba trường hợp bị cấm tuyệt đối chỉ có thể bị cấm khi
thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan từ
30% trở lên. Việc xác định cấu thành hành vi thỏa thuận bị cấm trong những trường
hợp này yêu cầu phải chứng minh hai yếu tố:
- Nội dung của thỏa thuận thuộc các hình thức thỏa thuận được quy định tại
khoản 1; 2; 3; 4 hoặc 5, Điều 8, Luật Cạnh tranh;
- Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường
liên quan phải chiếm từ 30% trở lên.
Điều kiện khác biệt giữa hai mức độ cấm đoán là yêu cầu về mức thị phần kết
hợp của các bên tham gia thỏa thuận. Theo cách tiếp cận của các nhà làm luật Việt
Nam, thị phần là cơ sở để xác định khả năng chi phối của doanh nghiệp đối với thị
trường. Theo Luật Cạnh tranh, mức thị phần trên thị trường liên quan từ 30% trở lên đã
có thể trao cho doanh nghiệp sức mạnh thị trường, là khả năng tác động đến giá cả thị
trường của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua.
Quy định ―cấm có điều kiện‖ căn cứ trên cơ sở duy nhất là thị phần kết hợp của
các bên tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan, không xem xét trên cơ sở đánh
giá, cân nhắc giữa các tác động tích cực và tiêu cực của hành vi.
1.3. Về các quy định miễn trừ
Phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được miễn trừ theo Luật Cạnh tranh
bao gồm 5 dạng hành vi được xem xét cấm theo ―nguyên tắc hợp lý‖, nghĩa là bị cấm
khi thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các bên tham gia từ 30% trở lên. Cụ
thể, theo Điều 10, Luật Cạnh tranh, chỉ những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định
tại khoản 2, Điều 9 mới thuộc phạm vi các thỏa thuận được xem xét miễn trừ có thời
hạn.
Các thỏa thuận nêu trên được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong các
điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng:
a) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh
doanh;
b) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch
vụ;
c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ
thuật của chủng loại sản phẩm;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
25
d) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không
liên quan đến giá và các yếu tố của giá;
e) đ) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
f) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc
tế.
Để được hưởng miễn trừ, các bên tham gia thỏa thuận phải thực hiện thủ tục đề
nghị hưởng miễn trừ quy định tại Điều 25-38, Luật Cạnh tranh. Trên cơ sở hồ sơ đề
nghị hưởng miễn trừ của các bên, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm xem xét,
đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Công Thương ra quyết định.
1.4. Về các hình thức xử lý vi phạm
a) Hình thức xử lý vi phạm
Tại Việt Nam, các tổ chức, cá nhân kinh doanh (doanh nghiệp) vi phạm các quy
định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm sẽ bị xử lý theo các hình thức được quy
định tại Điều 117, 118, Luật Cạnh tranh và được quy định chi tiết tại Điều 10-17, Nghị
định 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, bao gồm:
- Phạt tiền;
- Phạt bổ sung;
- Biện pháp khắc phục hậu quả.
Các hình thức xử lý vi phạm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
STT Hình thức
xử lý
Mô tả chi tiết
1
Phạt tiền 0 - 5% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực
hiện hành vi vi phạm nếu không thuộc các trường hợp đặc biệt
(quy định tại Khoản 2, Điều 10, Nghị định 120/2005/NĐ-CP).
5-10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực
hiện hành vi vi phạm nếu thuộc các trường hợp:
- Hàng hoá, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực
phẩm, trang thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người,
thuốc thú y, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật,
giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ;
- Doanh nghiệp vi phạm giữ vai trò tổ chức, lôi kéo các đối tượng
khác tham gia vào thoả thuận.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
26
STT Hình thức
xử lý
Mô tả chi tiết
2
Phạt bổ
sung
Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện
hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu
được từ việc thực hiện hành vi vi phạm
3
Biện pháp
khắc phục
hậu quả
Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi
hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh
b) Thẩm quyền xử lý vi phạm
Liên quan đến việc xử lý vi phạm các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, sau khi kết thúc quá trình điều tra, Cục Quản lý cạnh tranh có quyền đề xuất,
kiến nghị các hình thức và mức độ xử phạt dựa trên kết quả điều tra và mức độ vi phạm
của các doanh nghiệp. Thẩm quyền xử lý vi phạm đối với hành vi hạn chế cạnh tranh
nói chung, và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói riêng thuộc về Hội đồng cạnh tranh và
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định tại Điều 43, Nghị định 120/2005/NĐ-
CP Quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
c) Căn cứ xác định mức độ xử lý
Khi xác định mức độ xử lý đối với từng hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh cũng tương tự như đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh
nói chung, cơ quan có thẩm quyền có quyền căn cứ vào một hoặc một số yếu tố được
quy định tại Điều 7, Nghị định 120/2005/NĐ-CP như sau:
- Mức độ gây hạn chế cạnh tranh do hành vi vi phạm gây ra;
- Mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra;
- Khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng vi phạm;
- Thời gian thực hiện hành vi vi phạm;
- Khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
- Các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.
d) Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
Các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng là một trong các yếu tố được xem xét
để cân nhắc, xác định mức độ xử lý đối với vi phạm liên quan đến hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được quy định chi tiết tại Điều
85, Nghị định 116/2005/NĐ-CP. Cụ thể:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
27
- Tình tiết giảm nhẹ bao gồm:
a) Tự nguyện khai báo về hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền phát
hiện;
b) Đối tượng vi phạm đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của hành vi vi phạm
hoặc tự nguyện khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại;
c) Đối tượng vi phạm tự nguyện cung cấp chứng cứ, thông tin liên quan đến hành
vi vi phạm mà cơ quan có thẩm quyền trước đó chưa biết;
d) Tác động tích cực của hành vi vi phạm đối với việc phát triển nền kinh tế.
- Tình tiết tăng nặng bao gồm:
a) Vi phạm nhiều lần trong cùng lĩnh vực hoặc tái phạm trong cùng lĩnh vực;
b) Thực hiện hành vi vi phạm sau khi nhận được quyết định không chấp thuận
được hưởng miễn trừ hoặc quyết định bãi bỏ quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ
quan có thẩm quyền;
c) Tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu
chấm dứt hành vi đó;
d) Sau khi thực hiện hành vi vi phạm đã có hành vi trốn tránh, che giấu vi phạm.
Quy định về tình tiết giảm nhẹ đối với vi phạm liên quan đến thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh đã đề cập đến vấn đề xét giảm nhẹ mức độ xử lý đối với trường hợp “tự
nguyện khai báo về hành vi vi phạm trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện” và
trường hợp ―đối tượng vi phạm tự nguyện cung cấp chứng cứ, thông tin liên quan đến
hành vi vi phạm mà cơ quan có thẩm quyền trước đó chưa biết‖.
Mặc dù quy định này có mang hơi hướng, tinh thần của chính sách khoan hồng,
tuy nhiên nó chưa được cụ thể hóa bằng một ―chương trình khoan dung‖ để chỉ ra lợi
ích rõ ràng của bên tham gia thỏa thuận khi tự nguyện khai báo thông tin về hành vi vi
phạm và cung cấp chứng cứ cho cơ quan cạnh tranh giống như các quy định về
Chương trình khoan dung mà các nước phát triển hiện đang áp dụng một cách hiệu
quả.
2. Đánh giá các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
2.1. Các kết quả đạt được
Ngay từ khi mới được ban hành, giới học giả, luật gia và cộng đồng đông đảo các
doanh nghiệp đã kỳ vọng Luật Cạnh tranh nói chung và pháp luật điều chỉnh hành vi
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
28
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là văn bản quan trọng đảm bảo môi trường kinh doanh
bình đẳng, đảm bảo sự vận hành hiệu quả của một nền kinh tế thị trường. Đến nay, sau
hơn 6 năm kể từ 1/7/2005 (thời điểm Luật có hiệu lực), có thể nói rằng việc ban hành
và thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam cũng đã đạt được một số kết quả ban đầu.
a) Đã ban hành được bộ quy định điều chỉnh
Thành công bước đầu của Việt Nam trong kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh
nói chung và hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói riêng trước hết là đã xây dựng
và ban hành được một bộ quy định điều chỉnh tương đối đầy đủ, bao gồm Luật Cạnh
tranh và các Nghị định hướng dẫn thi hành, tạo được cơ sở pháp lý cho hoạt động cạnh
tranh của doanh nghiệp cũng như việc quản lý nhà nước về cạnh tranh của cơ quan
cạnh tranh.
Mặc dù pháp luật cạnh tranh ở một số quốc gia tiên tiến trên thế giới như Hoa Kỳ,
Nhật Bản, EU đã có một lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, tuy nhiên, đối với một
số nước châu Á nó vẫn còn là một lĩnh vực tương đối mới. Việc Việt Nam lần đầu tiên
ban hành Luật Cạnh tranh năm 2004 là một bước tiến bộ so với các nước trong khu vực
ASEAN. Việt Nam là nước thứ tư trong khu vực ASEAN đã thông qua và áp dụng một
Bộ luật Cạnh tranh toàn diện, chỉ sau Thái Lan (ban hành năm 1999), Indonesia (năm
1999) và Singapore (tháng 10 năm 2004).
Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam hiện nay được điều chỉnh
bởi:
(1) Luật Cạnh tranh của Quốc hội năm 2004;
(2) Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Cạnh tranh và
(3) Nghị định 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
Nếu như Luật Cạnh tranh đưa ra các quy định khái quát về mặt nguyên tắc liên
quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm:
- quy định về hành vi (Điều 8, Luật Cạnh tranh);
- quy định cấm (Điều 9, Luật Cạnh tranh);
- quy định miễn trừ (Điều 10, Luật Cạnh tranh);
- quy định về xử lý vi phạm (Điều 117 – 121, Luật Cạnh tranh);
- quy định về trình tự, thủ tục điều tra và xử lý vụ việc (Chương V, Luật Cạnh
tranh),
thì các Nghị định hướng dẫn thi hành quy định chi tiết hơn giúp các cơ quan chức
năng có căn cứ rõ ràng hơn khi xem xét các vụ việc liên quan đến hành vi thỏa thuận
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
29
hạn chế cạnh tranh. Cụ thể, Nghị định 116/2005/NĐ-CP giải thích rõ hơn các quy định
cấm, miễn trừ, trình tự, thủ tục điều tra và xử lý đối với vụ việc thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, trong khi Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về hình thức và
mức độ xử lý đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (Điều
10-17).
b) Đã xây dựng và từng bước hoàn thiện bộ máy cơ quan thực thi
Song song với việc ban hành bộ quy định điều chỉnh hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, bộ máy thực thi tại Việt Nam cũng đã được xây dựng, hình thành với hai cơ
quan chức năng, bao gồm Hội đồng cạnh tranh và Cục Quản lý cạnh tranh.
Cơ sở pháp lý cho hoạt động của Hội đồng cạnh tranh và Cục Quản lý cạnh tranh
bao gồm Nghị định 05/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 về việc thành lập
và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh
tranh và Nghị định 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh. Theo đó,
liên quan đến các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh có
chức năng thụ lý và tổ chức điều tra, trong khi đó Hội đồng cạnh tranh có chức năng xử
lý vụ việc. Với mô hình cơ quan thực thi như hiện tại, việc điều tra và xử lý vụ việc
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh độc lập với nhau.
Việc xây dựng các nghị định nêu trên bước đầu đã tạo tiền đề, cơ sở giúp cơ quan
thực thi điều tra và xử lý được một số vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tuy
nhiên, cũng chính trong quá trình vận hành bộ máy thực thi đã bộc lộ những khó khăn,
bất cập về mô hình cần khắc phục. Do đó, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan thực thi cạnh tranh vẫn đang từng bước được hoàn thiện. Vấn đề này
được phân tích sâu hơn trong khuôn khổ “Báo cáo rà soát mô hình cơ quan cạnh tranh
Việt Nam”.
c) Một số quy định đã được thực thi, góp phần cải thiện môi trường kinh
doanh/văn hóa cạnh tranh
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, các cơ quan cạnh
tranh Việt Nam thông qua quá trình thực thi đã thực sự bắt đầu đưa Luật Cạnh tranh đi
vào cuộc sống. Kết quả kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thể hiện rõ
nhất thông qua việc một số quy định đã được thực thi nhằm góp phần cải thiện môi
trường kinh doanh cũng như văn hóa cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong số các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, quy định về hành vi
“thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp” tại
Khoản 1, Điều 8, Luật Cạnh tranh và Điều 14, Nghị định 116/2005/NĐ-CP, đồng thời
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
30
quy định cấm tại Khoản 2, Điều 9, Luật Cạnh tranh, cũng như các quy định về xử lý vi
phạm, trình tự , thủ tục điều tra và xử lý vụ việc thỏa thuận ấn định giá tương ứng được
thực thi khá hiệu quả. Trong ba năm trở lại đây, đã có 03 vụ việc thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh được điều tra, trong đó có 01 vụ việc đã được xử lý. Cả 03 vụ việc này đều
liên quan đến ―hành vi thỏa thuận ấn định giá‖ trên các thị trường bảo hiểm vật chất xe
ô tô, thị trường tấm lợp và thị trường bảo hiểm học sinh.
Việc thực thi một số quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã có những tác
động tích cực đối với môi trường cạnh tranh trên các thị trường liên quan trong ba vụ
việc được điều tra, đồng thời, nhận thức của doanh nghiệp về pháp luật cạnh tranh cũng
được nâng lên rõ rệt.
Cụ thể, trong các vụ việc nêu trên, sau khi cơ quan cạnh tranh ra quyết định điều
tra, các hiệp hội đã gửi công văn yêu cầu các doanh nghiệp thành viên ngừng thực hiện
các thỏa thuận ấn định giá, một số doanh nghiệp lớn đã yêu cầu các đại lý, công ty con
ngừng áp dụng mức giá mới, thậm chí có một vài doanh nghiệp đã bồi thường cho khách
hàng một khoản tiền chênh lệch giữa các mức giá trước và sau khi thực hiện thỏa thuận.
Bên cạnh đó, nhận thức được hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vi phạm pháp
luật cạnh tranh, bị điều tra và xử lý nghiêm minh, nên các doanh nghiệp và hiệp hội đã
có thái độ hợp tác tốt hơn trong việc cung cấp thông tin, chứng cứ phục vụ quá trình điều
tra.
d) Đã phát hiện được một số vấn đề cần hoàn thiện
Nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ trong lĩnh vực cạnh tranh nói
chung và lĩnh vực kiểm soát hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói riêng, ngoài việc
xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, thì việc hoàn thiện chúng
sao cho phù hợp với thực tiễn và bối cảnh kinh doanh, phát triển kinh tế, xã hội cũng là
một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Trải qua hơn 5 năm thực thi các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bên
cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn cũng cho thấy một số những vấn đề bất cập xuất
phát từ các quy định pháp lý cần phải hoàn thiện. Chẳng hạn như thiếu một quy địnhh
quét về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khiến cho một số hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp về bản chất vi phạm nguyên tắc cạnh tranh nhưng chưa có cơ sở pháp
lý để điều chỉnh, hay trường hợp một số quy định còn chưa rõ ràng khiến cơ quan cạnh
tranh lúng túng trong việc áp dụng hoặc một số quy định lại cho nhiều cách hiểu khác
nhau gây nên tranh cãi.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
31
Những khó khăn, bất cập trong thực thi kiểm soát các hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh xuất phát từ những quy định pháp luật sẽ được phân tích sâu hơn trong phần
2.2. dưới đây.
2.2. Các khó khăn, thách thức phát sinh từ quy định pháp luật
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhiều ý kiến cũng cho rằng do Luật Cạnh
tranh vẫn còn là một lĩnh vực mới nên hiệu quả thực tiễn của luật vẫn còn nhiều điểm
cần bàn. Nguyên nhân chính có thể bắt nguồn từ cơ chế thực thi, từ sự hạn chế nguồn
lực, sự bất cập trong mô hình cơ quan cạnh tranh hay từ chính sự thiếu rõ ràng, hợp lý,
minh bạch trong các quy định pháp lý …. Trong khuôn khổ phần này, Nhóm nghiên cứu
chỉ phân tích, đánh giá những khó khăn, vướng mắc phát sinh từ quy định pháp luật về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Nhóm nghiên cứu đánh giá những bất cập pháp lý theo
các nhóm vấn đề như sau: a) bất cập liên quan đến các quy định về hành vi; b) bất cập
liên quan đến các quy định cấm; c) bất cập liên quan đến các quy định miễn trừ; d) bất
cập liên quan đến các quy định về xử lý vi phạm/khắc phục hậu quả và e) bất cập liên
quan đến chính sách khoan hồng.
a) Liên quan đến các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Hiện nay, pháp luật cạnh tranh Việt Nam chưa có định nghĩa hoặc quy định
chung về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Các quy định hiện hành chỉ nhắm đến các
hình thức biểu hiện bên ngoài một cách cứng nhắc, chưa nhắm vào bản chất phản cạnh
tranh của hành vi, đồng thời chưa bao quát được hết các dạng thức kinh doanh mới với
tính phức tạp ngày càng cao của doanh nghiệp. Chẳng hạn, thỏa thuận ấn định mức giá
sàn, giá trần; thỏa thuận tăng giá hoặc giảm giá (không chỉ ở mức cụ thể) hoặc thỏa
thuận duy trì giá bán lại cho bên thứ ba... là những thỏa thuận có bản chất hạn chế cạnh
tranh, nhưng chưa được quy định. Trong khi hành vi kinh doanh, chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp (trong đó có hành vi thỏa thuận) thay đổi ngày càng phức tạp
với nhiều dạng thức khác nhau thì tiếp cận quy định ―cứng‖ như hiện nay sẽ gây khó
khăn cho cơ quan thực thi trong quá trình điều tra, xử lý các vụ việc cụ thể.
b) Liên quan đến các quy định cấm
Thứ nhất, việc phân nhóm các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo hai
mức độ cấm đoán quy định tại Điều 9, Luật Cạnh tranh là chưa hoàn toàn hợp lý.
Cụ thể, một số hành vi thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế sản
lượng và thông đồng đấu thầu luôn mang bản chất phản cạnh tranh, vi phạm nghiêm
trọng các nguyên tắc cạnh tranh và có tác động trực tiếp đến các yếu tố thị trường như
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
32
giá cả, sản lượng, khu vực phân phối... Theo cách tiếp cận của nhiều cơ quan cạnh
tranh trên thế giới, các thỏa thuận này bị cấm trong mọi trường hợp mà không cần xem
xét đến các yếu tố tác động hay các trường hợp cụ thể, và không được phép miễn trừ.
Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 2, Điều 9 về các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh bị cấm, các hành vi thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường và hạn chế sản
lượng (được quy định tại Khoản 1, 2, 3, Điều 8, Luật Cạnh tranh và Khoản 14, 15, 16,
Nghị định 116/2005/NĐ-CP) chỉ bị cấm khi thị phần kết hợp của các bên tham gia thỏa
thuận trên thị trường liên quan chiếm từ 30% trở lên.
Quy định này bộc lộ bất cập ở chỗ, một số trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh nghiêm trọng, chẳng hạn như thỏa thuận ấn định giá nghiễm nhiên không bị cấm
nếu thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia thỏa
thuận đạt dưới ngưỡng 30%. Trong khi đó, những thỏa thuận này vẫn gây ra tác động
tăng giá hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Trong những trường hợp này, thị phần
không phản ánh đầy đủ, chính xác về sức mạnh thị trường, hay nói cách khác là khả
năng gây hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận.
Trong kinh tế học, “sức mạnh thị trường” được coi là “khả năng doanh nghiệp
thu được lợi nhuận từ việc tăng giá cao hơn mức giá cạnh tranh hoặc hạn chế sản
lượng, chất lượng thấp hơn mức cạnh tranh trong một khoảng thời gian tương đối dài”.
Chính việc tăng giá hay hạn chế sản lượng mà vẫn thu lợi nhuận đã phản ánh sức mạnh
thị trường và khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia thỏa
thuận. Do đó, việc thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế sản lượng và
thông đồng đấu thầu mặc nhiên vi phạm các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
và phải bị cấm tuyệt đối. Quy định cấm có điều kiện đối với các thỏa thuận dạng này sẽ
có thể dẫn đến bỏ sót những hành vi thỏa thuận gây hại cho môi trường cạnh tranh và
người tiêu dùng.
Thứ hai, thị phần là cơ sở duy nhất để phân biệt hai mức độ cấm đoán cũng gây
nên những bất cập trong quá trình thực thi kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Trước hết, việc phân biệt các mức độ cấm đoán đối với các hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh phải dựa trên bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi, tính chất và
mức độ tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các yếu tố cạnh tranh trên thị trường. Thị
phần chỉ là một trong số rất nhiều tiêu chí được sử dụng để đánh giá khả năng gây hạn
chế cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, qua đó gián tiếp phản ánh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
33
mức độ và phạm vi tác động đối với thị trường nếu xảy ra hành vi thỏa thuận. Đánh giá
sức mạnh thị trường hay khả năng gây hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp thỏa thuận
ngoài thị phần còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như cấu trúc của chính thị trường
đó, năng lực dư thừa của các đối thủ cạnh tranh, rào cản gia nhập thị trường, sức mua
của người tiêu dùng....
Ngoài ra, mỗi một ngành có một cấu trúc thị trường riêng và số lượng doanh
nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh ở các ngành, các lĩnh vực cũng khác nhau. Việc
ấn định một ngưỡng thị phần kết hợp 30% cho tất cả các thị trường, các ngành nghề, lĩnh
vực để xác định sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận là không
hợp lý.
Do đó, nếu chỉ căn cứ vào ngưỡng thị phần kết hợp 30% của các doanh nghiệp
tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan để phân biệt các mức độ cấm đoán đối với
các hành vi thỏa thuận sẽ là chưa toàn diện, khiến cho việc đánh giá hành vi thỏa thuận
bị cấm trên thực tế trở nên cứng nhắc và không phù hợp với thực tiễn.
c) Liên quan đến các quy định miễn trừ
Thứ nhất, phạm vi các loại thỏa thuận được miễn trừ như các quy định hiện
hành là chưa hợp lý.
Như đã phân tích ở trên, các thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn
chế sản lượng luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh và vi phạm nghiêm trọng các
nguyên tắc cạnh tranh. Theo đó, các thỏa thuận này phải bị cấm tuyệt đối và không
được phép miễn trừ. Tuy nhiên, theo Luật Cạnh tranh Việt Nam các thỏa thuận này vẫn
thuộc phạm vi các thỏa thuận được phép miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng các điều
kiện quy định tại Khoản 1, Điều 10, Luật Cạnh tranh.
Thứ hai, các quy định về miễn trừ chưa đề cập đến nguyên tắc xác định thời
hạn cho hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Theo quy định tại Điều 10, Luật Cạnh tranh, việc miễn trừ đối với thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh là có thời hạn. Việc cho hưởng miễn trừ có thời hạn đối với thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì, theo thời gian các thỏa thuận này
thường có xu hướng không còn đáp ứng được các điều kiện cần thiết để hưởng miễn
trừ nữa.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
34
Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thụ lý hồ sơ, ra quyết định cho hưởng miễn trừ
đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có quyền đề xuất, quyết định về thời hạn miễn
trừ. Tuy nhiên, việc thiếu các quy định về thời hạn miễn trừ trong pháp luật cạnh tranh
dẫn đến thiếu căn cứ trong việc xác định thời hạn cho hưởng miễn trừ đối với thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ ba, quy định miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có sự
mâu thuẫn liên quan đến thỏa thuận về giá.
Cụ thể, hành vi “thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp” quy định tại Khoản 1, Điều 8 và bị cấm theo Khoản 2, Điều 9, Luật
Cạnh tranh thuộc phạm vi các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được miễn trừ. Tuy
nhiên, trong số các điều kiện để được hưởng miễn trừ lại bao gồm điều kiện “Thống
nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá
và các yếu tố của giá” (điểm d, Khoản 1, Điều 10, Luật Cạnh tranh). Sự mâu thuẫn
trong quy định miễn trừ cũng gây ra bất cập trong quá trình thực thi.
d) Liên quan đến các quy định về xử lý vi phạm
Thứ nhất, mức phạt tiền được xác định căn cứ trên tổng doanh thu là không hợp
lý.
Thực tiễn điều tra, xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh cho thấy, tất cả các khiếu
nại hoặc khởi kiện ra tòa án đối với các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh đều có nội
dung liên quan đến căn cứ xác định khoản tiền phạt là tổng doanh thu. Mặc dù nội
dung khiếu nại, khiếu kiện này đều bị cơ quan cạnh tranh Việt Nam hoặc tòa án bác bỏ
bởi đó là quy định của pháp luật, tuy nhiên có thể thấy rằng việc xác định mức phạt
tiền dựa trên tổng doanh thu, trong nhiều trường hợp, là không tương xứng với mức độ
tác động của hành vi thỏa thuận. Chính bởi nhận định này, cơ quan cạnh tranh trong
các vụ việc đều xem xét áp dụng mức phạt rất thấp trong khung phạt đến 10%, ví dụ:
0.0x% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Vấn đề
đặt ra là, đối với những hành vi bị xử phạt ở mức 5-10% tổng doanh thu thì mức xử
phạt tối thiểu phải là 5%. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp thậm chí có thể bị
phá sản bởi quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và tất nhiên, đó là trường hợp mà
không một cơ quan cạnh tranh nào trên thế giới mong muốn bở nó đi ngược lại với
mục tiêu bảo vệ cạnh tranh mà tất cả các luật cạnh tranh đều hướng đến.
Với nhìn nhận xử phạt dựa vào các căn cứ hợp lý để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại
và đóng góp cho nền kinh tế, không xử phạt để chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp,
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
35
nhiều quốc gia đã áp dụng nguyên tắc tính mức xử phạt căn cứ theo doanh thu trên thị
trường liên quan hoặc thị trường bị ảnh hưởng. Ngoài ra, đối với các hành vi hạn chế
cạnh tranh diễn ra trong một quá trình, ví dụ hành vi thỏa thuận đã diễn ra trong 5 năm,
các cơ quan cạnh tranh có thể lấy tổng doanh thu trên thị trường liên quan của doanh
nghiệp trong các năm doanh nghiệp đã thực hiện hành vi vi phạm để làm căn cứ xác
định mức phạt. Tuy nhiên, với nhìn nhận xử phạt nhưng không làm chấm dứt hoạt
động của doanh nghiệp, nhiều nước có quy định chỉ hạn chế trong phạm vi tổng doanh
thu trên thị trường liên quan của doanh nghiệp trong phạm vi tối đa là 3 năm liên tiếp
(như Nhật Bản) hoặc quy định mức phạt tối đa trong mọi trường hợp là không quá 10%
tổng doanh thu trong năm tài chính của doanh nghiệp.
Thứ hai, thiếu cơ sở để xác định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh nghiệp
vi phạm các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Các quy định về xử lý vi phạm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ đề cập
đến hai mức khung phạt tiền là 0-5% và 5-10% tổng doanh thu của năm tài chính trước
năm thực hiện hành vi vi phạm, nhưng không đưa ra nguyên tắc xác định mức phạt cụ
thể trong khung hình phạt đó. Điều đó gây khó khăn cho Cơ quan quản lý cạnh tranh
và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh trong việc xác định mức phạt tiền cụ thể đối với
các doanh nghiệp vi phạm các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, thậm chí gây
tranh cãi trong quyết định mức độ xử lý vi phạm. Mặt khác, việc thiếu cơ sở pháp lý
trong xác định mức phạt tiền cụ thể sẽ dẫn đến những quan ngại của doanh nghiệp về
tính minh bạch trong xử lý vi phạm, đồng thời các doanh nghiệp cũng khó xác định
được mức độ xử lý đối với hành vi vi phạm của mình.
Thứ ba, chưa có quy định về mức phạt tiền tối thiểu.
Việc thiếu quy định về mức phạt tiền tối thiểu (lớn hơn 0 đồng) dẫn đến thực tế
xảy ra trường hợp doanh nghiệp vi phạm chịu mức phạt tiền bằng 0 đồng, do tổng
doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của bên vi phạm
bằng 0. Việc áp dụng mức phạt tiền 0 đồng trong trường hợp này không có ý nghĩa răn
đe đối với doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm.
Thứ tư, chưa có quy định về hình thức và mức độ xử lý đối với cá nhân vi phạm.
Các quy định về xử lý vi phạm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chưa xem
xét hình thức xử lý đối với cá nhân vi phạm (phạt tiền và/hoặc phạt tù). Thực tế, ý
tưởng liên kết, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường do các cá nhân đứng đầu doanh
nghiệp, như thành viên ban giám đốc, lãnh đạo, trưởng phòng kinh doanh...xây dựng
nên. Nếu chỉ áp dụng chế tài xử phạt nặng đối với doanh nghiệp có thể dẫn đến tình
trạng khánh kiệt, phá sản doanh nghiệp sau khi nộp phạt, gây ảnh hưởng trực tiếp đến
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
36
đời sống của công nhân, nhân viên đang lao động tại doanh nghiệp, trong khi đó những
cá nhân vi phạm lại không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ năm, các quy định về xử lý vi phạm đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
chưa xem xét các chế tài đối với Hiệp hội ngành nghề.
Tại Việt Nam hiện nay có hàng nghìn hiệp hội ngành nghề với quy mô lớn nhỏ
khác nhau. Là tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhưng thực tế cho thấy có nhiều trường hợp,
hiệp hội đóng vai trò chủ trương xây dựng ý tưởng thỏa thuận, tổ chức gặp mặt, trao
đổi thông tin giữa các doanh nghiệp, vận động các doanh nghiệp thành viên tham gia
và thực hiện thỏa thuận.
Mặc dù các hiệp hội ngành nghề thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh
tranh theo Điều 2, Luật Cạnh tranh, tuy nhiên, hiện chưa có cơ sở pháp lý để áp dụng
các chế tài xử lý vi phạm đối với hiệp hội trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Trong bối cảnh nhận thức của các doanh nghiệp và hiệp hội về pháp luật cạnh
tranh còn chưa cao, việc không áp dụng chế tài xử lý đối với các vi phạm của hiệp hội
liên quan đến các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ không có tác động cảnh
báo, răn đe cũng như khuyến khích các hiệp hội thực hiện tốt các quy định của pháp
luật cạnh tranh.
Thứ sáu, các hình thức phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả chưa phản
ánh đúng mục đích răn đe, giáo dục đối với doanh nghiệp vi phạm.
Theo quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay, biện pháp xử phạt bổ
sung và khắc phục hậu quả đối với các vi phạm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm:
(1) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả
tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; và (2) Buộc
loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh.
Do đặc thù của các vụ việc liên quan đến thỏa thuận, các doanh nghiệp có thể
thỏa thuận bằng miệng hoặc bằng văn bản dưới nhiều hình thức khác nhau như điện
thoại, email, bản cam kết, thỏa thuận… Chính vị vậy, các biện pháp xử phạt bổ sung và
khắc phục hậu quả trên đây dường như không phù hợp và ít được áp dụng trên thực
tiễn. Trong khi đó, biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả lại là một trong
những nội dung quan trọng mà các cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh quốc tế hướng
tới.
Ở Nhật Bản, trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, ngoài biện pháp xử
phạt hành chính đối với doanh nghiệp và thậm chí là xử phạt hình sự đối với các cá nhân
có liên quan trực tiếp đến thỏa thuận, cơ quan cạnh tranh của Nhật Bản còn buộc các
doanh nghiệp thực hiện lệnh chấm dứt hành vi vi phạm, không được thực hiện các hành vi
tương tự trong tương lai, buộc các doanh nghiệp vi phạm thực hiện chương trình tuân thủ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
37
pháp luật (compliance program), yêu cầu doanh nghiệp vi phạm cung cấp thông tin, tài
liệu liên quan (ví dụ thông tin về giá bán sản phẩm liên quan) theo định kỳ… Điều đáng
lưu ý là cơ quan cạnh tranh Nhật Bản có thẩm quyền đưa ra các biện pháp mà cơ quan này
cho là cần thiết tùy theo đặc thù của từng vụ việc, từng ngành. Đây cũng là điểm các nhà
làm luật Việt Nam cần nghiên cứu, tham khảo thêm trong quá trình hoàn thiện pháp luật
cạnh tranh.
e) Liên quan đến chính sách khoan hồng
Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh của các nước đi trước cho thấy, việc xử lý
các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ có xu hướng ―ngầm hóa‖ các thỏa thuận. Điều
này sẽ làm cho việc phát hiện và điều tra các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trở nên khó
khăn hơn, phức tạp hơn gấp nhiều lần. Vì vậy, hầu hết các nước đã sử dụng chính sách
khoan hồng như một công cụ quan trọng để phát hiện và điều tra các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh. Trên thực tế, phần lớn các vụ việc cartel của cơ quan cạnh tranh là vụ
việc được phát hiện thông qua chính sách khoan hồng.
Pháp luật Việt Nam hiện nay về vấn đề khoan hồng mới chỉ có quy định về các
tình tiết giảm nhẹ áp dụng với các bên trong một số trường hợp nhất định. Tuy nhiên,
qua 5 năm thực thi Luật Cạnh tranh cũng có thể thấy quy định về tình tiết giảm nhẹ
không giúp khám phá ra nhiều vụ việc vi phạm do chưa tạo được động cơ và áp lực lớn
để doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trình báo và cung cấp thông tin về thỏa thuận mà
họ tham gia. Vì vậy, cần phải bổ sung các quy định về chính sách khoan hồng để tăng
cường hiệu quả thực thi pháp luật.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
38
PHẦN 3: KHUYẾN NGHỊ SỬA ĐỔI CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỎA THUẬN
HẠN CHẾ CẠNH TRANH
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn thực thi các quy định về thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh tại Việt Nam và phân tích bài học kinh nghiệm của EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản,
Nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong đó tập trung vào định hướng sửa đổi, hoàn thiện các
quy định liên quan đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để phù hợp hơn với thực tiễn thực
thi. Các khuyến nghị được xây dựng trên cơ sở phân tích những bất cập xuất phát từ các
quy định hiện hành như đã nêu trong phần 2 ở trên, đồng thời bám sát các nhóm vấn đề
liên quan đến các (1) hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, (2) các quy định cấm, (3) các
quy định miễn trừ, (4) các hình thức xử lý vi phạm và (5) chương trình khoan dung.
1. Liên quan đến các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Xuất phát từ tình hình thực thi pháp luật, nhóm nghiên cứu cho rằng cần bổ sung
thêm một điều khoản chung về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong đó quy định
bản chất chung nhất của hành vi nhằm bao quát hết các dạng thức thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh. Cụ thể:
Cần bổ sung một quy định chung hay nói cách khác là một “điều khoản quét”
(basket clause) về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm “quét” hết các dạng hành
vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội thì các dạng thức kinh doanh của doanh
nghiệp cũng ngày càng trở nên đa dạng, phong phú, theo đó hành vi của doanh nghiệp
cũng có xu hướng biến đổi không ngừng nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận, đặc biệt
trong các môi trường cạnh tranh khốc liệt. Do đó, các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh cũng ngày càng được doanh nghiệp biến hóa nhằm đối phó với các cơ quan cạnh
tranh. Mặc dù hình thức thỏa thuận có thể thay đổi, tuy nhiên bản chất hạn chế cạnh tranh
của hành vi chỉ liên quan đến những yếu tố cạnh tranh như giá cả, khu vực phân phối, thị
trường tiêu thụ, sản lượng, chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Pháp luật cạnh tranh cần dựa
vào các đặc điểm này của hành vi thỏa thuận để ban hành các quy định điều chỉnh.
Trong bối cảnh hiện nay, để đảm bảo việc thực thi luật có hiệu quả, tránh bỏ sót
hành vi hoặc xử lý các hành vi thỏa thuận cần thiết để mang lại lợi ích kinh tế xã hội,
nhóm nghiên cứu cho rằng Việt Nam cần kết hợp hài hòa phương pháp liệt kê hiện tại và
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
39
phương pháp tiếp cận hợp lý. Nói cách khác, bên cạnh việc coi các hành vi được liệt kê
trong luật cũng như trong các văn bản hướng dẫn là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, Việt Nam cần cho phép áp dụng quy định chung hay nói cách khác là một ―điều
khoản quét‖ (basket clause) nhằm ―quét‖ hết các dạng hành vi thỏa thuận có tác động xấu
tới môi trường cạnh tranh, không nên chỉ quy định dựa theo các hình thức biểu hiện bên
ngoài một cách cứng nhắc như hiện nay.
Trong khuôn khổ báo cáo này, nhóm nghiên cứu không có đủ điều kiện để nêu ra
các đề xuất cụ thể về khái niệm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, nhóm
nghiên cứu cho rằng Việt Nam cần cân nhắc kinh nghiệm của các nước như Hoa Kỳ, Nhật
Bản cũng như Châu Âu trong việc áp dụng cách tiếp cận rộng đối với hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, theo đó bao quát toàn bộ các hợp đồng, liên kết, hay bất kỳ hoạt động
thông đồng nào khác (không phụ thuộc vào tên gọi hay hình thức) có mục đích hoặc hệ
quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch quy luật cạnh tranh.
Cân nhắc bổ sung quy định điều chỉnh hành vi của Hiệp hội các doanh nghiệp
trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Mặc dù Hiệp hội không trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường,
không trực tiếp «cạnh tranh« nhưng hoạt động của các hiệp hội nói chung có thể có tác
động lớn tới quá trình cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. Trong hướng dẫn
phát hiện và xử lý thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, OECD đã chỉ ra rằng Hiệp hội chính là
một trong những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp họp bàn và đi đến
thỏa thuận. Chính vì vậy, nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ đã quy định xử phạt Hiệp hội liên
quan về hành vi «tạo điều kiện để hình thành và thực hiện thỏa thuận giữa các thành
viên«. Một số nước khác như EU, Nhật Bản thậm chí còn coi quyết định, nghị quyết của
hiệp hội các doanh nghiệp là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và vì vậy, cũng bị
xem xét, xử lý tương tự như hành vi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Về hình thức xử
phạt đối với hiệp hội liên quan, theo kinh nghiệm của các nước đi trước, biện pháp xử
phạt có thể bao gồm cảnh cáo, phạt tiền hoặc đề nghị các cơ quan chức năng rút giấy phép
hoạt động của Hiệp hội vi phạm.
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay đã bỏ qua vai trò của
Hiệp hội trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thực tế thực thi pháp luật về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam cho thấy, trong 06 vụ việc thỏa thuận hạn chế
cạnh (điều tra chính thức 02 vụ việc) tranh mà cơ quan cạnh tranh Việt Nam đã xem xét,
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
40
xử lý, Hiệp hội đều là tổ chức đứng sau, giữ vai trò tổ chức, lôi kéo doanh nghiệp tham
gia và giám sát việc thực thi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Thậm chí trong nhiều vụ
việc, Hiệp hội còn ban hành các «quyết định», các «nghị quyết » về giá cả, sản lượng…
trên thị trường để các doanh nghiệp thành viên thực hiện. Trong khi đó, do pháp luật cạnh
tranh không có quy định điều chỉnh hành vi của hiệp hội nên các cơ quan cạnh tranh đã bỏ
qua hoặc lờ đi vai trò của Hiệp hội trong các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong
thời gian tới, Việt Nam cần cân nhắc bổ sung các quy định để điều chỉnh hành vi của Hiệp
hội để phù hợp với thực tiễn và tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật.
2. Liên quan đến các quy định cấm
Thứ nhất, xem xét điều chỉnh các hành vi thuộc nhóm bị cấm tuyệt đối và cấm tùy
theo từng trường hợp cụ thể.
Như đã trình bày trong Phần I, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể bao gồm các
thỏa thuận ngang nghiêm trọng (thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường, hạn chế sản
lượng và thông đồng đấu thầu), thỏa thuận ngang ít nghiêm trọng và các thỏa thuận dọc.
Cũng như phân tích tại Phần I, thỏa thuận ngang nghiêm trọng (hardcore cartel) luôn bị
các cơ quan cạnh tranh quốc tế coi là các hành vi làm phương hại tới cạnh tranh nhiều
nhất và vì vậy các nước có xu hướng cấm nhóm hành vi này trong mọi trường hợp và
không xem xét miễn trừ đối với 4 dạng hành vi này. Đối với các hành vi thỏa thuận còn
lại, các nước đều có quy định cho phép cơ quan cạnh tranh cân nhắc các «lợi ích» và «chi
phí » đối với cạnh tranh, đối với người tiêu dùng và đối với toàn xã hội để ra quyết định
cấm hoặc không cấm các doanh nghiệp thực hiện tùy từng trường hợp cụ thể, tùy đặc thù
của từng ngành, đặc điểm của từng thị trường.
Từ thực tiễn thực thi pháp luật, tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước,
Nhóm nghiên cứu cho rằng cần điều chỉnh các quy định cấm của pháp luật cạnh tranh
Việt Nam theo hướng:
- Cấm tuyệt đối đối với 4 dạng thỏa thuận luôn bị coi là nghiêm trọng trong mọi
trường hợp gồm: thỏa thuận ấn định giá; thỏa thuận phân chia thị trường; thỏa thuận hạn
chế, kiểm soát sản lượng sản xuất, mua bán và; thông đồng đấu thầu.
- Cấm theo từng trường hợp cụ thể đối với các dạng thỏa thuận khác tùy theo đặc
thù của từng ngành, đặc điểm của từng thị trường.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
41
Có như vậy, việc thực thi các quy định của pháp luật cạnh tranh về hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh mới có thể phục vụ tốt cho mục tiêu tạo điều kiện cho nền kinh
tế phát triển và đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng Việt Nam.
Thứ hai, cần xem xét sửa đổi cách tiếp cận đánh giá thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
dựa theo tiêu chí duy nhất là thị phần như hiện nay.
Một số ý kiến cho rằng quy định như hiện tại (chỉ cần xem xét thị phần của các
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận) là dễ thực thi và phù hợp với các cơ quan cạnh tranh
còn non trẻ. Ở một khía cạnh khác, một số ý kiến khác cho rằng việc ban hành các quy
định điều chỉnh hành vi chỉ vì mục tiêu tạo điều kiện dễ dàng cho cơ quan thực thi luật mà
làm sai lệch bản chất, ý nghĩa, mục đích của việc điều chỉnh là cần phải xem xét lại bởi
nếu không việc thực thi các quy định sẽ không còn có ý nghĩa, thậm chí trong một số
trường hợp còn phản tác dụng. Chính vì vậy, các nước khi ban hành các quy định điều
cấm đối hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều căn cứ vào bản chất gây hạn chế cạnh
tranh của hành vi và thị phần chỉ là một trong các yếu tố để cơ quan cạnh tranh có thể
xem xét khi đánh giá về vụ việc.
Đối với các vụ việc liên quan đến các hành vi thỏa thuận không thuộc nhóm thỏa
thuận nghiêm trọng, pháp luật cạnh tranh của phần lớn các nước như Hoa Kỳ, Châu Âu,
Nhật Bản… đều áp dụng nguyên tắc hợp lý khi đánh giá vụ việc. Khác với tiếp cận của
Việt Nam, trong các tiêu chí để đánh giá một hành vi có thuộc diện bị cấm hay không, các
cơ quan cạnh tranh quốc tế chỉ coi tiêu chí thị phần không hẳn là một tiêu chí chiếm vị trí
quan trọng. Như đã trình bày tại Chương I, khi đánh giá vụ việc, cơ quan cạnh tranh
trước hết đánh giá liệu thỏa thuận đang xem xét có gây hạn chế cạnh tranh hay không.
Trong trường hợp thỏa thuận có khả năng gây hạn chế cạnh tranh, cơ quan cạnh tranh sẽ
tiếp tục đánh liệu thỏa thuận đó có mang lại lợi ích thúc đẩy cạnh tranh hay không và liệu
tác động thúc đẩy cạnh tranh của thỏa thuận có lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh do nó
mang lại hay không. Các tiêu chí có thể giúp các cơ quan cạnh tranh đánh giá có thể bao
gồm (1) lợi ích kinh tế mà thỏa thuận đó mang lại; (2) tính cần thiết của thỏa thuận nhằm
đạt được các lợi ích kinh tế đó; (3) phần lợi ích được chuyển/chia sẻ cho người tiêu dùng
và; (4) tính không loại bỏ cạnh tranh của thỏa thuận.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
42
Tham khảo kinh nghiệm của các nước đi trước, Nhóm nghiên cứu cho rằng Việt
Nam cần thay đổi cách tiếp cận đánh giá thỏa thuận dựa chủ yếu vào yếu tố thị phần một
cách cứng nhắc như hiện nay. Để có thể thực hiện được điều này, Việt Nam cần nghiên
cứu kỹ để đưa ra một bộ tiêu chí đánh giá phù hợp, theo đó đảm bảo sự cân bằng giữa
phương pháp liệt kê và tiếp cận hợp lý về mặt kinh tế.
3. Liên quan đến các quy định miễn trừ
Như đã trình bày tại mục 2 trên đây, đối với các thỏa thuận thuộc nhóm nghiêm
trọng (hardcore cartel), bao gồm 4 hành vi: (1) thỏa thuận ấn định giá ; (2) thỏa thuận
phân chia thị trường ; (3) thỏa thuận hạn chế sản lượng ; và (4) thông đồng đấu thầu, Việt
Nam cần cân nhắc sửa đổi quy định hiện tại theo hướng cấm trong mọi trường hợp và
không áp dụng miễn trừ đối với nhóm hành vi này. Đối với các thỏa thuận khác, Việt
Nam cần nghiên cứu áp dụng nguyên tắc hợp lý, theo đó cơ quan cạnh tranh sẽ xem xét
trên cơ sở đánh giá yếu «chi phí» và «lợi ích» của thỏa thuận. Theo cách tiếp cận này,
Việt Nam không cần phải ban hành các quy định về miễn trừ. Các điều kiện xem xét miễn
trừ quy định tại Điều 10, Luật Cạnh tranh hiện nay có thể được đưa vào bộ tiêu chí để
đánh giá «chi phí» và «lợi ích» của hành vi thỏa thuận (ngoài hardcore cartel). Miễn trừ,
nếu có, có thể xem xét miễn trừ theo các đặc thù của ngành (block exemptions), tuy nhiên
việc này cần được cân nhắc kỹ lưỡng để tránh việc lạm dụng và làm giảm thiểu vai trò, vị
thế cũng như hiệu quả của Luật Cạnh tranh. Đồng thời, thời hạn miễn trừ và các điều kiện
gia hạn thời hạn được hưởng miễn trừ cũng cần được xem xét quy định.
4. Liên quan đến các quy định về hình thức và mức độ xử lý vi phạm
Thứ nhất, xác định mức phạt tiền dựa trên doanh thu trên thị trường liên quan
Một trong những ý nghĩa quan trọng của việc xác định thị trường liên quan là nhằm
xác định mức độ, phạm vi tác động, gây hạn chế cạnh tranh của hành vi thỏa thuận. Do
đó, khi áp dụng các hình thức xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh bị cấm, đặc biệt là khi xác định mức phạt tiền, thì doanh thu của các
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan là căn cứ hợp lý hơn thay vì
tổng doanh thu của doanh nghiệp vi phạm như hiện nay. Việc tính toán mức phạt tiền dựa
trên doanh thu trên thị trường liên quan sẽ tương xứng với mức độ tác động, ảnh hưởng
đối với môi trường cạnh tranh trên chính thị trường đó.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
43
Thứ hai, quy định các nguyên tắc xác định mức phạt tiền
Đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, pháp luật cạnh
tranh quy định mức phạt tiền đối với doanh nghiệp tham gia thỏa thuận từ 0 đến 10% tổng
doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Tuy nhiên, khung phạt từ
0 đến 10% là tương đối rộng. Do đó, cần quy định nguyên tắc xác định một mức phạt tiền cụ
thể trong khung hình phạt đó. Chẳng hạn, đối với một hành vi vi phạm quy định của pháp
luật cạnh tranh có thể đưa ra một mức phạt chuẩn. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, các căn
cứ xác định mức độ xử lý như mức độ gây hạn chế cạnh tranh, mức độ thiệt hại do hành vi
gây ra, thời gian thực hiện hành vi vi phạm...sẽ có ý nghĩa giúp cơ quan xử lý vụ việc xác
định mức phạt thực tế tăng lên hoặc giảm xuống so với mức phạt chuẩn. Tuy nhiên, các căn
cứ này cũng cần phải được lượng hóa một cách tương đối để cơ quan cạnh tranh có thể dễ
dàng áp dụng, minh bạch hóa trong xác định mức phạt, tránh gây tranh cãi.
Thứ ba, quy định mức phạt tiền tối thiểu
Nếu việc xác định mức phạt tiền chỉ căn cứ vào doanh thu, có những trường hợp
mức phạt tiền của doanh nghiệp bằng 0 đồng, do doanh thu để tính mức phạt bằng 0. Vì
vậy, cần quy định mức phạt tiền tối thiểu đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
dưới hình thức một số tiền tối thiểu mà doanh nghiệp vi phạm phải nộp phạt. Nếu số tiền
phạt được tính toán trên cơ sở doanh thu lớn hơn mức phạt tiền tối thiểu, thì áp dụng mức
phạt tiền tính theo doanh thu, ngược lại, nếu thấp hơn thì áp dụng mức phạt tiền tối thiểu.
Việc quy định mức phạt tiền tối thiểu như thế có tác dụng răn đe, ngăn ngừa những doanh
nghiệp mới gia nhập thị trường, doanh nghiệp nhỏ tham gia vào một thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh.
Thứ tư, quy định các hình thức xử lý vi phạm đối với các cá nhân vi phạm
Với xu hướng hình sự hóa các-ten trên toàn thế giới, trong giai đoạn 10 năm gần đây,
theo nghiên cứu của Mạng lưới cạnh tranh quốc tế (ICN) về xu hướng và sự phát triển trong
thực thi chống các-ten cho thấy có rất nhiều quốc gia đã sửa đổi, bổ sung pháp luật cạnh
tranh theo hướng áp dụng hình thức phạt tù hoặc tăng mức phạt tù đối với cá nhân vi phạm,
trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Úc, New Zealand. Sự thay đổi này cho thấy xu
hướng ngày càng coi trọng việc kiểm soát và xử lý các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Việc hình sự hóa các-ten có tác dụng ngăn chặn một số hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh có nguy cơ xảy ra trong tương lai, đồng thời việc tăng mức phạt kết hợp với
chương trình khoan dung có tác động thúc đẩy thực thi chống các-ten một cách hiệu quả.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
44
Tuy nhiên, ở Việt Nam việc hình sự hóa một hành vi nào đó chỉ được diễn ra ở giai
đoạn xây dựng pháp luật, dưới sự cho phép của Quốc hội. Một hành vi vi phạm được áp
dụng xử lý theo hình thức phạt tù chỉ khi nó được quy định điều chỉnh trong Bộ luật hình
sự. Điều đó có nghĩa là, việc hình sự hóa các-ten ở Việt Nam sẽ dẫn đến yêu cầu phải sửa
đổi, bổ sung không chỉ pháp luật cạnh tranh, mà cả pháp luật hình sự. Trong khi đó, Bộ
luật hình sự mới được sửa đổi, bổ sung năm 2009 tại kỳ họp Quốc hội khóa XII. Do đó,
việc hình sự hóa các-ten trong bối cảnh hiện tại là tương đối sớm. Mặc dù vậy, việc hình
sự hóa các-ten vẫn là một ý tưởng tốt tăng cường hiệu quả thực thi chống các-ten, thể hiện
sự nghiêm khắc của pháp luật đối với các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gây hại
nghiêm trọng cho môi trường cạnh tranh và người tiêu dùng. Do vậy, Nhóm nghiên cứu
cho rằng, ở một thời điểm thích hợp trong tương lai việc hình sự hóa các-ten vẫn nên
được xem xét và cân nhắc.
Thứ năm, quy định các hình thức xử lý vi phạm đối với các hiệp hội ngành nghề.
Do đặc thù thị trường tại Việt Nam có sự tham gia sâu rộng của các hiệp hội ngành
nghề trong việc định ra chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên dẫn đến
nguy cơ xảy ra tình trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thành
viên, mà trong đó hiệp hội đóng vai trò tổ chức, giám sát thực hiện thỏa thuận. Như kiến
nghị ở trên, các quyết định của hiệp hội gây hạn chế cạnh tranh cũng có thể được coi là
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, do đó các hiệp hội ngành nghề cũng phải được coi là đối
tượng vi phạm. Bởi vậy, cần thiết phải quy định các chế tài xử lý vi phạm đối với hiệp hội
ngành nghề.
Do hiệp hội ngành nghề là tổ chức phi lợi nhuận, cho nên việc xác định mức phạt
tiền dựa theo doanh thu như áp dụng đối với các doanh nghiệp vi phạm là không hợp lý.
Đối với hiệp hội, có thể quy định các mức phạt cứng (số tiền cụ thể) đối với cá nhân thuộc
hiệp hội và đối với hiệp hội, đồng thời có thể áp dụng các biện pháp phạt bổ sung hoặc
các biện pháp khắc phục hậu quả, chẳng hạn như rút giấy phép hoạt động, buộc loại bỏ
những điều khỏan vi phạm pháp luật ra khỏi quyết định của hiệp hội, buộc cam kết không
được tái phạm, buộc phải học tập về pháp luật cạnh tranh và phổ biến cho các doanh
nghiệp thành viên...
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
45
Thứ sáu, điều chỉnh lại các quy định về các biện pháp phạt bổ sung hoặc các biện
pháp khắc phục hậu quả.
Các biện pháp phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối với thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh được quy định như hiện nay chưa mang tính thực tiễn cao. Để các hình
thức xử lý vi phạm này thực sự có ý nghĩa khắc phục hậu quả cần bổ sung các quy định
về các biện pháp phạt bổ sung hoặc biện pháp khắc phục hậu quả theo hướng tăng cường
phổ biến, giáo dục nhận thức cho hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp về pháp luật cạnh
tranh, khôi phục lại các điều kiện cạnh tranh công bằng, thực hiện các cam kết không vi
phạm pháp luật cạnh tranh trong tương lai...
5. Liên quan đến chƣơng trình khoan dung
Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh của các nước đi trước cho thấy, việc xử lý
các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ có xu hướng ―ngầm hóa‖ các thỏa thuận. Điều này
sẽ làm cho việc phát hiện và điều tra các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trở nên khó khăn
hơn, phức tạp hơn gấp nhiều lần. Vì vậy, hầu hết các nước đã sử dụng chính sách khoan
hồng như một công cụ quan trọng để phát hiện và điều tra các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Trên thực tế, phần lớn các vụ việc cartel của cơ quan cạnh tranh là vụ việc được
phát hiện thông qua chính sách khoan hồng.
Một trong những nguyên nhân khiến chương trình khoan hồng thành công hơn, mấu
chốt chính là ở hình thức và mức xử phạt phải nặng. Khi đứng trước nguy cơ phải đối mặt
với các chế tài nghiêm khắc, nặng nề do hành vi vi phạm của họ, đồng thời trước những
quan ngại về nguy cơ phá vỡ các-ten khi thông tin bị rò rỉ bởi một trong số các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận, doanh nghiệp sẽ có động cơ tự nguyện khai báo, hợp tác với
cơ quan điều tra để nhận được lợi ích từ chương trình khoan dung.
Pháp luật Việt Nam hiện nay về vấn đề khoan hồng mới chỉ có quy định về các tình
tiết giảm nhẹ áp dụng với các bên trong một số trường hợp nhất định. Tuy nhiên, qua 5
năm thực thi Luật Cạnh tranh cũng có thể thấy quy định về tình tiết giảm nhẹ không giúp
khám phá ra nhiều vụ việc vi phạm do chưa tạo được động cơ và áp lực lớn để doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận trình báo và cung cấp thông tin về thỏa thuận mà họ tham gia.
Vì vậy, cần phải bổ sung các quy định về chính sách khoan hồng để tăng cường hiệu quả
thực thi pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo chương trình khoan dung phát huy đúng tác
dụng, các quy định về chương trình khoan dung phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc
minh bạch, rõ ràng. Đồng thời, cũng cần quan tâm đến cơ chế bảo mật thông tin về đối
tượng khai báo và bảo vệ nhân chứng. Có như vậy, chương trình khoan dung mới trở
thành một công cụ hữu hiệu giúp cơ quan cạnh tranh thực thi hiệu quả các quy định về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh./.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
46
CHƢƠNG II:
HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƢỜNG,
LẠM DỤNG VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN
PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC KIỂM SOÁT ĐỘC QUYỀN
I. Độc quyền và một số vấn đề về kiểm soát độc quyền
Thị trường là sự tương tác giữa cung và cầu, qua đó xác định giá và lượng hàng hóa
hoặc dịch vụ trao đổi. Tính đa dạng trong hoạt động trao đổi giữa người mua và người bán
hình thành nên các hình thái thị trường khác nhau, bao gồm: cạnh tranh hoàn hảo; độc
quyền; cạnh tranh độc quyền và độc quyền nhóm.
Doanh nghiệp hoạt động trên thị trường bị chi phối bởi các quy luật cung, cầu và thị
trường. Trong các hình thái thị trường nêu trên, thị trường cạnh tranh được cho là thị
trường trong đó nguồn tài nguyên khan hiếm được phân bổ một cách hiệu quả nhất. Đối
với các hình thái thị trường còn lại, do nằm trong tay của một số ít doanh nghiệp nên các
doanh nghiệp có khả năng thay đổi, định đoạt giá cả, sản lượng cũng như các yếu tố khác
của thị trường (quyền lực/sức mạnh thị trường).
Vấn đề đặt ra là, mọi doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp cạnh tranh hay độc quyền,
đều hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các
doanh nghiệp thường có quy mô nhỏ, không có quyền lực thị trường và luôn chịu áp lực
gia nhập ngành dễ dàng của các doanh nghiệp mới tiềm năng. Họ là người chấp nhận giá
và lựa chọn sản lượng cung ứng ra thị trường theo nguyên tắc chi phí biên (MC) = giá bán
(P) để tối đa hóa lợi nhuận.
Trong khi đó, doanh nghiệp độc quyền là người sản xuất duy nhất trên thị trường,
không chịu áp lực từ việc gia nhập ngành của các đối thủ tiềm năng, có quyền lực thị
trường lớn. Vì vậy, doanh nghiệp độc quyền có khả năng kiểm soát, định đoạt sản lượng
cung ứng và mức giá thị trường. Lý thuyết kinh tế đã chỉ ra rằng để tối đa hóa lợi nhuận,
doanh nghiệp độc quyền sẽ lựa chọn sản lượng và định giá tương ứng tại điểm mà chi phí
biên (MC) = lợi nhuận biên (MR) < P.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
47
Trên thực tế, hầu như không tồn tại một thị trường độc quyền tồn tại thực sự. Lợi
nhuận siêu ngạch từ thị trường độc quyền sẽ thu hút các doanh nghiệp mới tham gia thị
trường, làm thủ tiêu tính chất độc quyền tuyệt đối của thị trường, hình thành nên các dạng
thị trường độc quyền nhóm hoặc thị trường cạnh tranh độc quyền. Tuy nhiên, trong các
hình thái thị trường này, những doanh nghiệp có sức mạnh vượt trội vẫn có thể đưa ra các
quyết định về giá và sản lượng tương tự như doanh nghiệp trên thị trường độc quyền
nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình. Những doanh nghiệp nắm sức mạnh thị trường vượt
trội như vậy được coi là các doanh nghiệp nắm giữ vị trí thống lĩnh/độc quyền trên thị
trường.
Với đặc điểm chung nhất nêu trên, thị trường độc quyền làm nảy sinh hai vấn đề lớn,
đó là: tổn thất phúc lợi xã hội (deadweight loss) và lợi nhuận siêu ngạch của nhà độc
quyền.
1. Tổn thất phúc lợi xã hội
Như thể hiện tại biểu đồ dưới đây, phần bên trái của biều đồ dưới đây minh hoạ cho
thặng dư mà người tiêu dùng và người sản xuất nhận được trong thị trường cạnh tranh
hoàn hảo. Phần bên phải biểu đồ minh hoạ mức thặng dư thất thoát mà người tiêu dùng và
người sản xuất phải chịu trong một thị trường độc quyền so với một thị trường cạnh tranh
hoàn hảo. Biểu cho thấy, việc tối đa hóa lợi nhuận của nhà độc quyền tối đã làm cho mức
giá thị trường tăng từ P(pc) tới P(m), trong khi đó sản lượng cung ứng ra thị trường giảm
từ Q(pc) xuống Q(m).
So sánh tình huống cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền
Xét về phúc lợi xã hội, nếu nhìn nhận phúc lợi xã hội là tổng thặng dư của nhà sản
xuất và thặng dư của người tiêu dùng, có thể dễ dàng thấy rằng so với thị trường cạnh
tranh, phúc lợi xã hội trong trường hợp độc quyền đã giảm đi một lượng tương ứng với
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
48
diện tích BCF. Các nhà kinh tế gọi phần mất mát này là tổn thất vô ích (dead weight loss)
hay là chi phí xã hội của độc quyền. Nói cách khác, tổng phúc lợi xã hội sẽ giảm hơn so
với thị trường cạnh tranh bởi phần mất mát về thặng dư của người tiêu dùng không được
chuyển toàn bộ sang cho nhà sản xuất mà mất mà một cách vô ích.
Như vậy, xét về hiệu quả kinh tế, độc quyền sẽ dẫn tới sự phân bổ nguồn lực kém
hiệu quả hay nói cách khác các quyết định về giá cả và sản lượng của nhà độc quyền vì
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã phá hỏng mục tiêu tối đa hóa thặng dư xã hội. Các nhà
kinh tế, vì vậy, đã nhìn nhận các vấn đề gây ra bởi tình trạng độc quyền là thất bại thị
trường và đã đề xuất các giải pháp kiểm soát độc quyền nhằm đưa thị trường có yếu tố
độc quyền về gần với thị trường cạnh tranh. Luật cạnh tranh chính là một trong những
công cụ để Nhà nước can thiệp, kiểm soát hành vi của doanh nghiệp độc quyền, nâng cao
hiệu quả của nền kinh tế.
2. Lợi nhuận siêu ngạch của nhà độc quyền
Ở một thị trường cạnh tranh, doanh nghiệp tham gia thị trường khó có thể thu được
lợi nhuận siêu ngạch bởi điều này sẽ kích thích các doanh nghiệp mới tham gia thị trường
và về dài hạn, khoản lợi nhuận vượt trội có xu hướng tiến tới 0. Trên thị trường độc
quyền, doanh nghiệp độc quyền có khả năng thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Lợi nhuận siêu ngạch của nhà độc quyền
Do sức hấp dẫn của lợi nhuận siêu ngạch, doanh nghiệp có sức mạnh thị trường luôn
tìm cách đạt được và duy trì vị thế độc quyền. Chính vì vậy, trong quá trình kinh doanh,
doanh nghiệp có sức mạnh độc quyền có xu hướng áp dụng hai chiến lược kinh doanh
chính gồm: (1) trục lợi từ vị thế, sức mạnh thị trường của mình để thu lợi; và (2) loại bỏ
đối thủ cạnh tranh, đóng cửa thị trường nhằm duy trì, tăng cường sức mạnh của doanh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
49
nghiệp trên thị trường. Trong cả hai trường hợp, hành vi của doanh nghiệp đều gây ra các
tác động tiêu cực cho nền kinh tế và tất nhiên người tiêu dùng là đối tượng phải trực tiếp
gánh chịu hậu quả. Luật cạnh tranh được ban hành nhằm mục tiêu kiểm soát các hành vi
tiêu cực đó của doanh nghiệp.
II. Pháp luật cạnh tranh về kiểm soát độc quyền
1. Mục tiêu của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát độc quyền
Sự cần thiết của việc điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp có sức mạnh độc quyền
Thông qua lý luận về thị trường độc quyền đã trình bày tại phần trên, có thể thấy nhà
độc quyền luôn có động cơ để thực hiện các hành vi nhằm gia tăng lợi nhuận siêu ngạch
của mình.
Sức mạnh độc quyền đem lại cho doanh nghiệp lợi thế cạnh tranh so với các doanh
nghiệp khác và đem lại khả năng chi phối các quan hệ với khách hàng. Những lợi thế cạnh
tranh có thể là khả năng kiểm soát các yếu tố của thị trường (như nguồn nguyên liệu, giá
cả, số lượng sản phẩm đáp ứng cho người tiêu dùng; khả năng tài chính; thói quen tiêu
dùng của khách hàng .v.v.) và các yếu tố tạo ra địa vị không ngang bằng trong cạnh tranh
giữa doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường và các đối thủ của nó (bao gồm cả đối thủ
tiềm năng).
Nhà độc quyền có điều kiện tận dụng những ưu thế trên nhằm gây khó khăn cho đối
thủ trong quá trình kinh doanh hoặc ngăn cản việc gia nhập thị trường. Đối với khách
hàng, vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền đã khẳng định địa vị quan trọng của doanh nghiệp
trong cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường liên quan bởi họ là nguồn cung
hoặc nguồn cầu chủ yếu của thị trường. Vì thế, quyền lựa chọn của khách hàng đã bị hạn
chế, nhu cầu của khách hàng bị lệ thuộc vào khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có cơ hội để bóc lột khách hàng thông qua việc áp đặt những điều kiện giao dịch
không công bằng.
Chính vì những hậu quả tiềm tàng như vậy, việc điều chỉnh hành vi của doanh
nghiệp có sức mạnh độc quyền luôn là trọng tâm của chính sách cũng như pháp luật cạnh
tranh các nước.
Mục tiêu chính của pháp luật cạnh tranh
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về chính sách và pháp luật cạnh tranh giữa các
quốc gia, nhưng các quốc gia đều thống nhất về ba mục tiêu chính của chính sách và pháp
luật cạnh tranh là: (1) đảm bảo một quá trình cạnh tranh hiệu quả; (2) tăng cường phúc lợi
xã hội, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng; và (3) tối đa hóa hiệu quả sản xuất, kinh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
50
doanh, phân bổ các nguồn lực xã hội. Vì vậy, luật cạnh tranh là công cụ để bảo vệ và đem
lại lợi ích cho nền kinh tế, xã hội và người tiêu dùng.
Với vai trò là một bộ phận không tách rời của chính sách và pháp luật cạnh tranh,
pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền cũng hướng đến
những mục tiêu chung đã nêu trên.
Điểm quan trọng nhất cần lưu ý là mặc dù tình trạng độc quyền của thị trường có thể
dẫn đến tổn thất chung cho xã hội nhưng pháp luật cạnh tranh không cấm các doanh
nghiệp bằng sức mạnh nội tại của mình, thông qua các biện pháp cạnh tranh, đạt được sức
mạnh độc quyền. Pháp luật cạnh tranh hướng tới mục tiêu hiệu quả và lợi ích người tiêu
dùng thông qua việc đảm bảo cạnh tranh trên thị trường chứ không phải bảo vệ đối thủ
cạnh tranh.
Do đó, pháp luật cạnh tranh chỉ điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp độc quyền/
thống lĩnh trên thị trường nhằm hạn chế, ngăn chặn việc thực hiện các hành vi lạm dụng
sức mạnh thị trường để loại bỏ cạnh tranh và gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Nói cách
khác, việc áp dụng pháp luật chống lạm dụng vị trí độc quyền/thống lĩnh không nhằm xoá
bỏ vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền của doanh nghiệp mà chỉ loại bỏ hành vi lạm
dụng vị trí thống trị/độc quyền để trục lợi hoặc để bóp méo cạnh tranh.
2. Nội dung chính của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát độc quyền
Về kiểm soát độc quyền, pháp luật cạnh tranh các nước tập trung vào 4 vấn đề chính:
(1) xác định thị trường liên quan, (2) xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền, (3) kiểm soát
hành vi và (4) chế tài xử lý.
2.1. Xác định thị trường liên quan
Xác định thị trường liên quan được xem là một bước quan trọng, mang tính quyết
định đối với một vụ việc hạn chế cạnh tranh. Xác định thị trường liên quan giúp đánh giá
được sức mạnh thị trường mà doanh nghiệp có được, các đối thủ cạnh tranh và tác động
của hành vi do doanh nghiệp có sức mạnh thị trường thực hiện.
Trên thế giới, một doanh nghiệp được xem là có vị trí thống lĩnh khi có sức mạnh thị
trường đáng kể (theo Điều 102 TFEU1). Thị trường liên quan được xác định càng hẹp thì
doanh nghiệp càng bị coi là có vị trí thống lĩnh và có khả năng gây hạn chế cạnh tranh
càng lớn và ngược lại.
1 TFEU là viết tắt của ―Hiệp ước về chức năng của Liên minh Châu Âu (Treaty of the Functioning of the European
Union‖ (hay còn được gọi là Hiệp ước Lisbon), có từ năm 2007
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
51
Thông thường, cơ quan cạnh tranh xác định thị trường liên quan căn cứ trên cả
phương diện sản phẩm và phương diện địa lý. Mục đích của việc xác định thị trường trên
cả hai phương diện này là nhằm xác định các đối thủ cạnh tranh thực sự của doanh nghiệp
thống lĩnh cũng như khả năng các đối thủ này có thể ngăn cản doanh nghiệp thống lĩnh có
những hành động đơn phương tăng giá hoặc áp đặt giá trên mức giá cạnh tranh. Mặt khác,
việc xác định thị trường liên quan sẽ hỗ trợ việc tính toán thị phần (không tính đến các yếu
tố khác), qua đó xác định được sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp có liên quan đối
với hành vi hạn chế cạnh tranh. Các doanh nghiệp có thị phần thấp thường không sở hữu
sức mạnh thị trường đáng kể, mặc dù về nguyên tắc, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có
một sức mạnh thị trường riêng của mình dù ít hay nhiều.
Việc xác định thị trường liên quan cũng chính là quá trình đi tìm câu trả lời cho câu
hỏi ―Đâu là những sản phẩm mà người tiêu dùng cho là có khả năng thay thế ở mức chấp
nhận được cho một sản phẩm, khi xem xét đến các yếu tố đặc tính, giá cả, mục đích sử
dụng và các thuộc tính quan trọng khác của sản phẩm?‖. Có nhiều loại thông tin, tài liệu
giúp cơ quan cạnh tranh có thể đánh giá mức độ về khả năng thay thế giữa sản phẩm hay
sự khác biệt giữa các khu vực bán sản phẩm. Đối với mỗi vụ việc, các loại thông tin,
chứng cứ khác nhau sẽ có vai trò quyết định trong quá trình xem xét, phân tích vụ việc,
điều này sẽ phụ thuộc nhiều vào đặc tính và đặc trưng riêng của ngành công nghiệp và các
sản phẩm hay dịch vụ mà cơ quan cạnh tranh đang xem xét.
Liên quan đến việc xác định thị trường liên quan, có hai phương pháp xác định
chính: xem xét khả năng thay thế về cầu và khả năng thay thế về cung. Trong hầu hết các
trường hợp, thị trường thường được xác định dựa trên quan điểm của khách hàng, tức là
xét từ góc độ khả năng thay thế về cầu. Nếu cần thiết phải xác định thị trường dựa trên
quan điểm của nhà cung cấp, tức là xem xét khả năng thay thế về cung.
Trên quan điểm kinh tế học, khả năng thay thế về cầu tạo nên sức mạnh thường
xuyên, có hiệu quả và ngay tức thì cho các nhà cung cấp một loại sản phẩm cụ thể. Nếu
như khách hàng có thể dễ dàng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế sẵn có hoặc
chuyển sang một nhà cung cấp ở một khu vực địa lý khác, thì một doanh nghiệp, hoặc một
nhóm doanh nghiệp không bị coi là có tác động đáng kể lên những điều kiện bán hàng
thông thường, như giá bán hàng hóa, dịch vụ. Về cơ bản, việc xác định thị trường bao
gồm xác định các nguồn cung về mặt sản phẩm và vị trí địa lý của nhà cung cấp có khả
năng thay thế hiệu quả cho khách hàng của các doanh nghiệp liên quan trên thị trường.
Nhìn chung, những tác động cạnh tranh phát sinh từ khả năng thay thế về cung
thường không tác động ngay tới hành vi kinh doanh của các doanh nghiệp khác trên thị
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
52
trường. Vì vậy, một số cơ quan cạnh tranh xem xét khả năng thay thế về cung trong giai
đoạn xác định thị trường liên quan, nhưng cũng có một số cơ quan cạnh tranh xem xét khả
năng thay thế về cung tại giai đoạn đánh giá phân tích cạnh tranh.
2.1.1. Về thị trường sản phẩm liên quan
Tại Nhật Bản, thị trường sản phẩm liên quan được định nghĩa là: ―Phạm vi sản phẩm
được xác định bằng việc xem xét khả năng thay thế giữa các sản phẩm từ phía người tiêu
dùng. Mức độ thay thế sản phẩm rất phù hợp với mức độ tương đồng về mục đích sử dụng
của các sản phẩm. Vì thế, tiêu chí mục đích sử dụng có thể được sử dụng để đánh giá độ
thay thế sản phẩm‖2.
Tại Liên minh Châu Âu, thị trường sản phẩm liên quan được định nghĩa như sau:
―Một thị trường sản phẩm liên quan bao gồm tất cả những sản phẩm và/hoặc dịch vụ mà
người tiêu dùng cho là có thể hoán đổi, thay thế cho nhau về đặc tính, giá cả và mục đích
sử dụng của các sản phẩm đó‖3.
Còn tại Hoa Kỳ, thị trường liên quan được định nghĩa như sau: ―Khi một sản phẩm
được bán bởi một công ty sáp nhập (sản phẩm A) cạnh tranh với một hoặc nhiều sản phẩm
được bán bởi một công ty sáp nhập khác, cơ quan cạnh tranh sẽ xác định thị trường sản
phẩm liên quan xung quanh sản phẩm A để đánh giá về tầm quan trọng của quan hệ cạnh
tranh này. Thị trường sản phẩm liên quan đó bao gồm nhóm các sản phẩm có khả năng
thay thế cho sản phẩm A, và bao gồm cả sản phẩm A. Vì vậy, cơ quan cạnh tranh có thể
xác định một thị trường liên quan bao gồm nhiều sản phẩm‖4.
Vì vậy, khi xác định thị trường sản phẩm liên quan, cơ quan cạnh tranh cần xác định
nhóm các sản phẩm được coi là thuộc thị trường sản phẩm liên quan để phục vụ quá trình
phân tích các tác động cạnh tranh mà hành vi gây hạn chế cạnh tranh đang bị nghi ngờ có
thể gây ra đối với những sản phẩm đó.
Một số phương pháp xác định thị trường sản phẩm liên quan mà các cơ quan cạnh
tranh trên thế giới thường sử dụng, gồm: Phân tích khả năng thay thế về cầu của sản phẩm
dẫn đến hình thành một nhóm các sản phẩm mà theo đánh giá của người tiêu dùng đó là
các sản phẩm có khả năng thay thế cho nhau; Phân tích khả năng thay thế về cung trong
trường hợp ảnh hưởng của khả năng thay thế về cung tương đương với khả năng thay thế
2 Xem Hướng dẫn áp dụng Luật Chống độc quyền trong khi xem xét vụ việc kết hợp kinh doanh (2004, sửa đổi
2011), trang 12. 3 Xem Lưu ý của Uỷ ban Châu Âu về xác định thị trường liên quan theo mục đích của Luật Cạnh tranh
(97/C372/03), trang 8. 4 Xem: Hướng dẫn sáp nhập theo chiều dọc, công bố ngày 19/8/2010, trang 8.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
53
về cầu liên quan đến tính hiệu quả và kịp thời; sử dụng phép thử SSNIP hay còn gọi là
phép thử nhà độc quyền giả định.
2.1.2. Về thị trường địa lý liên quan
Tại Nhật Bản, thị trường địa lý liên quan được định nghĩa như sau: ―Phạm vi địa lý,
cũng như phạm vi sản phẩm đều được xác định dựa trên việc xem xét khả năng thay thế
giữa các sản phẩm được cung cấp tại mỗi khu vực với nhau. Mức độ thay thế giữa các sản
phẩm được cung cấp tại mỗi khu vực có thể được xác định bằng hành vi của người sử
dụng và nhà cung cấp, và các vấn đề về vận chuyển hàng hóa‖.
Liên minh Châu Âu định nghĩa về thị trường địa lý liên quan như sau: ―Thị trường
địa lý liên quan bao gồm các khu vực nơi mà các doanh nghiệp có liên quan có mối liên
hệ với nhau trong việc cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ, trong đó các điều kiện cạnh tranh
là đồng nhất và có thể phân biệt với các khu vực địa lý lân cận do các điều kiện cạnh tranh
tại các khu vực này là khác biệt đáng kể. Các nhân tố có liên quan trong quá trình xác định
thị trường địa lý liên quan bao gồm bản chất và các đặc tính của sản phẩm hoặc dịch vụ có
liên quan, sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường hay thị hiếu của người tiêu dùng,
sự khác biệt đáng kể về thị phần của các doanh nghiệp giữa các khu vực địa lý lân cận hay
các khác biệt đáng kể về giá‖.
Tại Hoa Kỳ, thị trường địa lý liên quan được xác định thông qua việc trả lời một câu
hỏi tương tự như câu hỏi đã được đặt ra khi xác định thị trường sản phẩm liên quan:
―Người tiêu dùng sẽ chuyển sang nguồn cung nào nếu giá của sản phẩm liên quan tăng
một mức nhỏ nhưng đáng kể và không phải trong một thời gian ngắn?‖ Nếu như một số
lượng đáng kể người tiêu dùng chuyển sang mua hàng tại một khu vực ngoài khu vực
đang được xem xét, vậy khu vực địa lý mà người tiêu dùng sẽ quyết định chuyển sang
mua hàng sẽ phải nằm trong thị trường địa lý liên quan.
Vì vậy, khi xác định thị trường địa lý liên quan, cơ quan cạnh tranh cần xác định khu
vực địa lý cụ thể để phục vụ quá trình phân tích các tác động cạnh tranh mà hành vi gây
hạn chế cạnh tranh đang bị nghi ngờ có thể gây ra trong khu vực đó.
Một số bằng chứng mà cơ quan cạnh tranh có thể xem xét để đưa ra kết luận về thị
trường địa lý liên quan như: Bằng chứng về sự phân chia đơn đặt hàng tới các khu vực
khác nhau trong quá khứ; Các đặc tính cơ bản của cầu; quan điểm của khách hàng và đối
thủ cạnh tranh; mô hình mua sắm địa lý hiện tại; Các rào cản gia nhập và rút khỏi thị
trường v.v…
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
54
2.2. Xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền
―Vị trí thống lĩnh/độc quyền‖ được hiểu là một doanh nghiệp trên thị trường có khả
năng tăng giá bán sản phẩm, hạn chế số lượng sản phẩm đầu ra hoặc thậm chí hạn chế quá
trình đổi mới sản phẩm và những điều này có thể gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường.
Liên quan đến khái niệm vị trí thống lĩnh/độc quyền, theo Điều 102 Hiệp ước Cộng
đồng kinh tế Châu Âu (TFEU), ―vị trí thống lĩnh‖ được định nghĩa như ―thế mạnh kinh tế
hình thành do việc thực hiện hành vi ngăn cản cạnh tranh hiệu quả vốn được duy trì trên
thị trường liên quan, thông qua đó, doanh nghiệp có thể hành xử độc lập đáng kể trước đối
thủ cạnh tranh, khách hàng và cuối cùng là người tiêu dùng‖.
Trong Mục 2 của Luật Chống độc quyền Sherman Act của Hoa Kỳ, sức mạnh độc
quyền được hiểu là ―doanh nghiệp có khả năng (1) định giá cao hơn đáng kể so với mức
giá cạnh tranh và (2) cố tình gây ra hành vi này trong khoảng thời gian nhất định nhằm
loại bỏ đối thủ cạnh tranh mới gia nhập hoặc mở rộng thị trường‖.
Mặc dù trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng có thể nhận thấy
một số đặc điểm chung phản ánh trong các định nghĩa về ―sức mạnh thị trường‖ đó là:
Thứ nhất, việc đánh giá sức mạnh thị trường hoặc vị trí thống lĩnh phải gắn liền
trong mối quan hệ với thị trường liên quan cụ thể, không thể mang tính chất trừu tượng
chung chung. Điều này có nghĩa bản thân doanh nghiệp đó (hoặc có thể kết hợp nhiều
doanh nghiệp tạo thành nhóm doanh nghiệp thống lĩnh) phải có vị trí dẫn đầu trên thị
trường so với các đối thủ cạnh tranh của mình.
Thứ hai, cần phân biệt rõ ràng giữa khái niệm “sức mạnh thị trường” và “sức
mạnh thị trường đáng kể/ hoặc vị trí thống lĩnh”:
Sức mạnh thị trường được hiểu là khả năng doanh nghiệp có thể thực hiện hành vi
kiểm soát giá cả hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Tuy khác nhau về mức độ, sức mạnh
thị trường và sức mạnh thị trường đáng kể (hoặc có vị trí thống lĩnh) có mối quan hệ với
nhau. Theo Mục 2 của Đạo luật Sherman Act của Hoa Kỳ, sức mạnh mạnh độc quyền đòi
hỏi mức độ đáng kể về mức mạnh thị trường nhằm kiểm soát giá hoặc loại trừ cạnh tranh
trên thị trường. Bên cạnh đó, sức mạnh độc quyền cũng tồn tại trong khoảng thời gian dài
và không chỉ mang tính chất tạm thời. Xét theo Điều 102 TFEU, vị trí thống lĩnh là việc
doanh nghiệp có khả năng ngăn cản cạnh tranh hiệu quả đang tồn tại trên thị trường và
hành động độc lập so với các đối thủ cạnh tranh. Khái niệm về tính độc lập, đặc trưng cho
vị trí độc quyền/chi phối của doanh nghiệp trên thị trường, có liên quan đến mức độ hạn
chế cạnh tranh mà doanh nghiệp có khả năng gây ra. Khi có vị trí thống lĩnh thị trường,
các doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp đó không hẳn thuộc đối tượng gây cản trở cạnh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
55
tranh hiệu quả. Nói cách khác, doanh nghiệp cần phải có được sức mạnh đáng kể trên thị
trường, chứ không chỉ đơn thuần có sức mạnh thị trường.
Như đã phân tích ở trên, pháp luật cạnh tranh và quá trình thực thi các quy định pháp
lý sử dụng nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau nhằm xác định đối tượng điều chỉnh
từng hành vi phản cạnh tranh đối với doanh nghiệp có ―vị trí thống lĩnh‖, ―sức mạnh độc
quyền‖ và ―sức mạnh thị trường đáng kể‖. Dù việc sử dụng khái niệm khác nhau, khung
pháp lý về cạnh tranh trên thế giới đồng nhất quan điểm rằng các quy định cấm hành vi
hạn chế cạnh tranh chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có ―sức mạnh thị trường đáng
kể‖.
Sức mạnh thị trường đáng kể tồn tại khi các nỗ lực cản trở cạnh tranh bởi các đối thủ
cạnh tranh hầu như không có tác động đến doanh nghiệp đó. Trong trường hợp này, các
quyết định của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh về sản lượng và giá cả có thể gây ảnh
hưởng đến thị trường đầu ra. Để phân biệt giữa sức mạnh thị trường và sức mạnh thị
trường đáng kể cần phải có những quy định pháp luật giám sát và xử lý thông qua các quy
định cấm, cần xác định liệu sức mạnh thị trường hiện hữu trong thời gian lâu dài, hoặc
đáng kể. Việc nhấn mạnh vào độ bền sức mạnh thị trường giải thích câu hỏi vì sao việc
xác định rào cản gia nhập và mở rộng thị trường- bên cạnh xác định thị phần- là một bước
quan trọng trong việc khẳng định doanh nghiệp có sức mạnh thị trường hay không.
Thứ ba, việc sở hữu sức mạnh thị trường đáng kể không vi phạm Luật Cạnh
tranh, nhưng việc đánh giá đóng vai trò quan trọng trong việc rà soát, xác định liệu
doanh nghiệp đó có khả năng đơn phương thực hiện hành vi phản cạnh tranh hay
không?
Hơn nữa, một số Luật Cạnh tranh như Việt Nam hoặc Châu Âu phân định rõ ràng
giữa hành vi đơn phương gây ra bởi một doanh nghiệp với sức mạnh thị trường đáng kể
(hay còn có thể hiểu là vị trí thống lĩnh) và các tác động kết hợp hình thành do một nhóm
các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh/độc quyền (hoặc có thể hiểu là thống lĩnh thị trường
kết hợp).
2.2.1. Xác định vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp
Những chứng cứ khẳng định sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp thường
được chia thành các chứng cứ trực tiếp và gián tiếp. Về chứng cứ trực tiếp, các chứng cứ
này giúp xác định khả năng doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể thông qua mức
độ nhạy cảm doanh thu doanh nghiệp trước sự thay đổi của khách hàng và doanh thu của
đối thủ cạnh tranh, cũng như xác định ―hiệu quả hoạt động‖ của doanh nghiệp. Chứng cứ
trực tiếp có thể được sử dụng như phương pháp đo lường khả năng của công ty khi muốn
tăng giá sản phẩm, dịch vụ cao hơn mức giá cạnh tranh hiệu quả; hoặc đánh giá khả năng
sinh lời, chứng cứ về hành vi gây tác động phản cạnh tranh trên thị trường của doanh
nghiệp, v.v. Trong khi đó, các chứng cứ gián tiếp thường có liên quan đến khả năng làm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
56
thay đổi cấu trúc thị trường và quan ngại rằng liệu công ty đó có sức mạnh thị trường lớn
hay không.
Nhằm xác định liệu một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan
hay không, cơ quan cạnh tranh thường căn cứ trên nhiều yếu tố, như: thị phần, các rào cản
gia nhập và mở rộng sản xuất, rào cản rút lui khỏi thị trường, sức mạnh của người mua, độ
co giãn về cầu, khả năng sinh lợi nhuận, mức chênh lệch giữa giá và chi phí v.v…
Trong các yếu tố nêu trên, thị phần là một yếu tố quan trọng được cơ quan cạnh
tranh sử dụng để đánh giá vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền của doanh nghiệp trên thị
trường. Khi doanh nghiệp nắm được thị phần cao trong thời gian dài trên thị trường,
không cần nhiều chứng cứ cũng có thể giả định rằng doanh nghiệp đó có vị trí thống lĩnh.
Ngược lại, với doanh nghiệp có thị phần thấp, cơ quan cạnh tranh cần thu thập thêm nhiều
chứng cứ để có thể kết luận chắc chắn về vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Biến động về
thị phần cho thấy cạnh tranh hiệu quả giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Đây
không phải trường hợp khi các doanh nghiệp là kết quả của quá trình tập trung kinh tế.
Để đánh giá sức mạnh thị trường, trước tiên cần dựa trên dữ liệu thị phần hiện tại
của các doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nghi vấn cũng như các đối thủ cạnh tranh
của các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, những đánh giá tổng quan về quá trình phát triển
của thị trường trong quá khứ, thị phần các chủ thể tham gia cũng là công cụ hữu ích cung
cấp thông tin quan trọng về cạnh tranh, cũng như xu thế phát triển của các đối thủ cạnh
tranh.
Luật pháp của Châu Âu và Hoa Kỳ đều không quy định chính xác về mức độ thị
phần, mà trong đó thị trường chắc chắn có doanh nghiệp thống lĩnh hay có khả năng chi
phối. Tuy nhiên, quy định pháp luật các quốc gia trên thế giới chỉ ra một số kinh nghiệm
về mức thị phần và vị trí doanh nghiệp trên thị trường như sau:
Khả năng kết luận dựa trên chỉ tiêu thị phần Mức thị phần của doanh
nghiệp
EU U.S.
Giả định cao về khả năng có vị trí thống lĩnh trên thị
trường (chủ yếu kết luận thông qua những chứng cứ
ban đầu)
> 50% 70 – 80%
Giả định có vị trí thống lĩnh và cần thu thập thêm
chứng cứ
40 – 50%
Giả định thấp về vị trí thống lĩnh, cần thu thập thêm
nhiều chứng cứ chứng minh
30 – 40% 50 – 70%
Không có dấu hiệu về vị trí thống lĩnh trên thị trường < 25%* < 50%
**
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
57
* Theo Thông lệ 32 Quy chế Hội đồng EC (Concil Regulation EC) số 139/2004
ngày 20/01/2004 về kiểm soát tập trung kinh tế của doanh nghiệp (Quy chế sáp nhập EC),
OJ 24 L, 2004/01/29, trang 1-22.
** Ngoại trừ trường hợp ―nỗ lực độc quyền hóa‖ khi hành vi trong nghi vấn có khả
năng tạo nên độc quyền trên thị trường liên quan, tuy mức độ thị phần doanh nghiệp thấp
nhưng vẫn cần xem xét thêm.
Tuy nhiên, những suy luận về thống lĩnh thị trường không tự hiểu là doanh nghiệp
đó sở hữu thị phần cao trên thị trường. Thị phần chỉ là một trong những chỉ tiêu đánh giá
sức mạnh thị trường, tuy cần khẳng định rằng thị phần đóng vai trò là yếu tố quyết định.
Các phán quyết của tòa án đều cho rằng ―việc chứng minh thống lĩnh thị trường của doanh
nghiệp đòi hỏi quá trình đánh giá toàn diện và không chỉ đơn thuần dựa trên tiêu chí thị
phần‖5.
2.2.2. Xác định vị trí thống lĩnh của nhóm doanh nghiệp
Bên cạnh sự tồn tại của vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp, còn có thống lĩnh thị
trường kết hợp của nhóm doanh nghiệp. Điều 102 của TFEU quy định cấm không chỉ
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp đơn lẻ, và cả một nhóm doanh
nghiệp: ―Bất kỳ hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường gây ra bởi một hay nhiều
doanh nghiệp (…)‖.
Theo luật pháp Châu Âu, nhóm có vị trí thống lĩnh bao gồm hai hoặc nhiều doanh
nghiệp có thể hành động giống nhau một cách riêng lẻ hoặc cùng hành động như một thực
thể liên kết trên một thị trường liên quan cụ thể.6 Trên quan điểm kinh tế học, sẽ là đầy đủ
chứng cứ khi các doanh nghiệp áp dụng cùng một chính sách chung trên thị trường và
hành động độc lập đáng kể trên thị trường với các đối thủ cạnh tranh, khách hàng và
người tiêu dùng.
Khái niệm về thống lĩnh thị trường kết hợp đề cập đến các khái niệm ―thỏa thuận
ngầm‖. ―Thỏa thuận‖ hay ―cấu kết ngầm‖ là một dạng liên kết và hợp tác có sự đồng
thuận chính thức hoặc không chính thức giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường (do đó
thuộc đối tượng những thỏa thuận vi phạm pháp luật) với mục đích gây hạn chế cạnh
5 Trích nguồn: American Council of Certified Podiatric Physicians & Surgeons v. American Board. of Podiatric
Surgery, Inc., 185 F.3d 606, 623 (6th Cir. 1999). 6 Tham khảo thêm thông tin tại Joined cases C-395/96 P and C-396/96 P Compagnie maritime belge transports SA,
Compagnie maritime belge SA and Dafra-Lines A/S v Commission [2000] ECR I-1365, paragraph 36.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
58
tranh đáng kể trên thị trường. Tác động của cấu kết ngầm giữa các doanh nghiệp đó là tạo
ra mức giá cao trên thị trường và đem lại doanh thu lớn cho các doanh nghiệp.
Quá trình đánh giá khả năng tồn tại của vị trí thống lĩnh liên kết bao gồm việc trả lời
một số câu hỏi như: Thị trường tồn tại đồng lực khiến các doanh nghiệp tham gia thông
đồng? những hành vi thông đồng đó có khả năng tồn tại và bền vững không?... Để trả lơi
chính xác, hai điều kiện sau đây cần phải thực hiện:
(i) Khả năng các đối tác thông đồng nhanh chóng phát hiện ra độ lệch chuẩn từ chiến
lược thông đồng;
(ii) Có hình phạt đáng tin cậy khiến cho các đối thủ cạnh tranh sản xuất cao hơn
nhiều mức thông thường (hoặc bán ở mức giá rất thấp) trong một khoảng thời gian mà
thỏa thuận đó xảy ra, do đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp tham gia.
Tuy nhiên, hai điều kiện này khó có thể nhận biết được trên thực tế. Do đó, một số
yếu tố sau đây sẽ tạo điều kiện cho thông đồng giữa các doanh nghiệp và có thể sử dụng
để đánh gia khả năng tồn tại của liên kết độc quyền nhóm:7
- Số lượng các doanh nghiệp tham gia liên kết chi phối thị trường/ mức độ tập trung;
- Tính cân xứng (VD: cấu trúc chi phí giống nhau)
- Điều kiện ổn định của thị trường: thị trường càng ổn định càng dễ dàng phát hiện
những sai lệch của thị trường do chiến lược thỏa thuận giữa các doanh nghiệp. Ngoài ra,
đổi mới công nghệ trong điều kiện thị trường ổn định sẽ làm cho những thỏa thuận phản
cạnh tranh khó xảy ra hơn.
- Tính minh bạch của thị trường (VD: các doanh nghiệp có thể quan sát hành động
của đối thủ cạnh tranh trên thị trường)
- Cơ chế xử phạt đảm bảo tính răn đe khiến các doanh nghiệp thấy không đáng kể
thực hiện các hành vi thỏa thuận.
- Sức mạnh bên mua: bên mua có thể tận dụng khả năng thương lượng của mình để
thúc đẩy cạnh tranh giữa các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ trên thị trường và do đó làm
mất tính ổn định của hành vi thông đồng.
- Rào cản gia nhập thị trường cao: Rào cản gia nhập thị trường càng cao thì càng dễ
duy trì hành vi thông đồng, cũng như ngăn chặn khả năng các doanh nghiệp mới phá vỡ
sự thông đồng đó.
7 Tổng quan về các yếu tố tạo điều kiện cho hành vi thông đồng được trình bày cụ thể tại ―Competition policy-
theory and practice,‖, M.Motta (2004, pp.137 ff)
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
59
Trên thực tế, không có nguyên tắc cố định nào đưa ra cách đánh giá thỏa thuận liên
kết tạo nên sức mạnh thống lĩnh như các tiêu chí đã đề cập ở trên. Tuy nhiên, trong quá
trình đánh giá từng vụ việc thì việc đánh giá tổng quan những tiêu chí nếu trên cũng mang
lại những ý nghĩa nhất định.
2.3. Đánh giá hành vi vi phạm
Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh có thể được phân loại theo nhiều cách khác
nhau. Tuy nhiên, cách phân loại truyền thống và quan trọng trong pháp luật Châu Âu chủ
yếu dựa trên các tác động do hành vi gây ra. Theo cách phân loại này, các hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh/ độc quyền có thể được chia thành hai nhóm hành vi chính như sau:
(i) “Hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ đối thủ” là hành vi có tác động ngăn cản
cạnh tranh hiệu quả trên thị trường liên quan bằng cách loại bỏ hoặc cản trở các đối thủ
cạnh tranh hiện tại và/hoặc tăng các rào cản gia nhập thị trường đối với các đối thủ tiềm
năng.
Khái niệm này gồm hai phần, thứ nhất hành vi mang tính loại bỏ trước hết về mặt
bản chất phải có khả năng phong tỏa, loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường. Để xác
định khả năng này cần phải điều tra về hình thức và bản chất của hành vi đó. Thứ hai,
trong bối cảnh thị trường cụ thể, cần xác định khả năng phát sinh tác động phong tỏa, bóp
méo thị trường.
Phong tỏa thị trường có nghĩa là các đối thủ cạnh tranh hiện tại hoặc tiềm năng bị từ
chối tham gia một phần hoặc toàn bộ vào thị trường. Phong tỏa thị trường có thể là ngăn
cản việc gia nhập hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh của các đối thủ hoặc thúc đẩy họ rút
lui khỏi thị trường. Sự phong tỏa thị trường thậm chí hiện hữu ngay cả khi các đối thủ bị
phong tỏa không bị buộc phải rút lui khỏi thị trường: đó là khi các đối thủ cạnh tranh bị áp
đặt các điều kiện khó khăn dẫn đến cạnh tranh kém hiệu quả. Các đối thủ có thể bị gây
khó dễ khi doanh nghiệp thống lĩnh trực tiếp làm tăng chi phí hoặc giảm cầu đối với các
sản phẩm của đối thủ. Các doanh nghiệp thống lĩnh thường là các doanh nghiệp đã gây
dựng được danh tiếng để dễ dàng mở rộng hoặc thâm nhập thị trường.
Sự phong tỏa bị coi là bóp méo thị trường nếu nó có khả năng ngăn cản sự duy trì
mức độ cạnh tranh hiện có hoặc ngăn chặn sự phát triển cạnh tranh trên thị trường và do
đó, có khả năng làm giá cả tăng lên hoặc được duy trì trên mức giá cạnh tranh.
(ii) “Hành vi lạm dụng mang tính trục lợi/bóc lột” là hành vi đối xử không công
bằng hoặc bất hợp lý đối với những bên bị phụ thuộc vào doanh nghiệp thống lĩnh trong
việc cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ trên thị trường liên quan. Hành vi của doanh nghiệp
thống lĩnh có thể được coi là hành vi mang tính bóc lột khi hành vi này là không công
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
60
bằng và bất hợp lý đối với những đối tượng phụ thuộc vào doanh nghiệp thống lĩnh.
Những đối tượng này có thể là các khách hàng (khi doanh nghiệp thống lĩnh định giá quá
cao) hoặc các nhà cung cấp của doanh nghiệp thống lĩnh (khi trả một mức giá quá thấp).
Trong hai nhóm hành vi nêu trên, hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ được coi là
nghiêm trọng hơn và phản ánh mức độ tác động kinh tế lớn hơn của hành vi lạm dụng.
Tuy nhiên, bảo vệ người tiêu dùng cuối cùng là mục tiêu quan trọng của pháp luật cạnh
tranh và do đó rất cần thiết phải xem xét, đánh giá liệu một hành vi mang tính loại bỏ trên
thực tế có gây thiệt hại cho người tiêu dùng cuối cùng hoặc có dẫn đến việc tăng giá hoặc
hạn chế sản lượng, hạn chế sự lựa chọn hay không. Bởi vậy, không có sự phân biệt một
cách tuyệt đối giữa hai loại hành vi trên và một số hành vi lạm dụng khác, chẳng hạn như
việc áp dụng điều khoản bán kèm có thể vừa mang tính bóc lột, vừa mang tính loại bỏ.
Cũng có thể áp dụng cách phân loại khác đối với các hành vi mang tính loại bỏ gây
tác hại đến cạnh tranh trên thị trường, khi vị trí thống lĩnh bị lạm dụng nhằm hạn chế hoặc
bóp méo cạnh tranh trên thị trường liên quan, đặc biệt khi một doanh nghiệp thống lĩnh
bằng cách lạm dụng sức mạnh độc quyền có thể kiểm soát, chi phối sự cạnh tranh trên thị
trường thứ cấp. Cách phân loại này như sau:
Thứ nhất, hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ ―trên cùng một thị trường‖ điển hình
có thể là hành vi định giá hủy diệt hoặc áp đặt các nghĩa vụ giao dịch độc quyền gây khó
khăn hoặc ngăn cản các đối thủ cạnh tranh phát triển hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh
trên thị trường mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh. Loại hành vi này được gọi là “phong
tỏa theo chiều ngang”.
Thứ hai, hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ trên thị trường liên đới bao gồm hành
vi từ chối cung cấp/giao dịch hoặc ép giá (margin squeeze). Trong khi mục đích của các
hành vi lạm dụng được mô tả ở trên là nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh trên thị trường sơ
cấp, thì hành vi lạm dụng trên thị trường liên đới nhằm loại bỏ đối thủ đang hoạt động
hoặc có khả năng sắp sửa tham gia vào thị trường thứ cấp. Loại hành vi này được gọi là
“phong tỏa theo chiều dọc”.
Xuất phát từ quan điểm của chính sách cạnh tranh, trong phần lớn các trường hợp,
chỉ nên quan ngại khi bản thân doanh nghiệp thống lĩnh/độc quyền trên thị trường sơ cấp
cũng tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trường thứ cấp. Mặc dù vậy, đôi lúc chúng ta
cũng không thể nhận biết rõ ràng một hành vi cụ thể thuộc loại nào, nhưng cấu trúc của
các loại hành vi lạm dụng có thể được sắp xếp như ở dưới đây:
Các hành vi lạm dụng mang tính loại bỏ
+ Hành vi mang tính loại bỏ liên quan đến giá (dạng hành vi hủy diệt)
- Định giá hủy diệt
- Phân biệt giá
- Giảm giá …(Fidelity Rebates)
- Ép giá (Margin squeeze)
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
61
- Trợ cấp chéo
+ Hành vi mang tính loại bỏ không liên quan đến giá (hành vi nhằm làm tăng chi phí của
đối thủ)
- Giao dịch độc quyền
- Bán kèm /bán trọn gói
- Từ chối cung cấp
Các hành vi lạm dụng mang tính bóc lột
- Định giá bất hợp lý
- Hạn chế sản lượng
- Áp đặt điều kiện bất hợp lý
2.4. Chế tài xử lý vi phạm
Một điểm chung của hầu hết các cơ quan cạnh tranh trên thế giới là việc xem phạt
tiền như một hình thức răn đe hơn là biện pháp bồi thường.8 Cụ thể, phạt tiền không chỉ để
trừng phạt hành vi vi phạm mà còn dùng để ngăn chặn việc thực hiện hành động phạm
pháp giống và tương tự trong tương lai của mà còn răn đe những đối tượng tiềm tàng có
khả năng thực hiện hành vi phản cạnh tranh khác.
Trong trường hợp này, việc tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ hành vi phạm pháp
có thể giúp ngăn ngừa hiệu quả các vi phạm trong tương lai. Tuy nhiên, rất khó đưa ra
mức phạt dạng này vì không dễ để xác định và chứng minh một khoản lợi nhuận nhất định
mà doanh nghiệp thu được là do hành vi phạm pháp mà có. Vì thế, hầu hết cơ quan cạnh
tranh tính toán mức phạt dựa trên doanh thu của doanh nghiệp vi phạm một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp. Doanh thu này có thể là doanh thu của doanh nghiệp vi phạm trên thị
trường liên quan. Vì thế, dường như không có công thức tối ưu để xác định một mức phạt
hiệu quả. Bên cạnh đó, việc xử phạt tiền cũng có nhiều điểm không thuận tiện. Ví dụ, áp
dụng mức phạt quá cao có thể gây ra kết quả không mong muốn như phá sản và chính vì
thế tác động xấu đến cạnh tranh và thậm chí là nghiêm trọng hơn thế.
Mặc dù pháp luật mỗi quốc gia quy định khác nhau về mức phạt tiền đối với doanh
nghiệp vi phạm, tuy nhiên các cơ quan cạnh tranh đều phải xem xét một số yếu tố nhất
định để tính toán mức phạt cuối cùng. Trong đó, hầu hết cơ quan cạnh tranh đều nhận ra
rằng tổng số tiền phạt phụ thuộc vào mức độ vi phạm. Tuy nhiên, một số yếu tố khác có
thể được xem xét (chủ yếu liên quan đến mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm), như:
mức độ chủ định vi phạm, liệu hành vi vi phạm có được tiến hành một cách nghiêm túc
8 ICN 2008 ―Setting of fines for cartels in ICN jurisdiction‖.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
62
hay không, đặc điểm của thị trường, khoảng thời gian vi phạm, lợi nhuận có được từ việc
vi phạm v.v… Ngoài ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ có thể được xem xét khi điều
chỉnh mức phạt cơ bản, như: khoảng thời gian của hành vi, tái phạm, từ chối hợp tác, cản
trở điều tra v.v… (tình tiết tăng nặng); hợp tác hiệu quả, chấm dứt ngay hành vi vi phạm
v.v… (tình tiết giảm nhẹ).
Bên cạnh những hình thức phạt truyền thống, cũng cần lưu ý tới các cách thức khác
để có thể ngăn chặn hành vi vi phạm. Một ví dụ quan trọng là nghĩa vụ phải công khai các
hình phạt bởi vì thiệt hại gây ra cho uy tín của doanh nghiệp có thể là một hình thức ngăn
chặn rất hữu hiệu.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
63
PHẦN 2: RÀ SOÁT VIỆC THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH/ĐỘC QUYỀN
I. Tổng quan các quy định hiện hành
Quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trong hệ thống pháp luật
Việt Nam được thể hiện trong các văn bản chính gồm: Luật Cạnh tranh, Nghị định
116/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết một số Điều của Luật Cạnh tranh, Nghị định
120/2005/NĐ-CP về xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. Khác với hệ thống
pháp luật ở các nước như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, Việt Nam sử dụng cách tiếp cận vi
phạm mặc nhiên để đánh giá doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền cũng như các
hành vi bị coi là ―lạm dụng‖ và hình thức xử lý vi phạm.
Về khái niệm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, pháp luật cạnh tranh Việt Nam phân
biệt hai trường hợp: một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh. Để xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp/ nhóm doanh nghiệp, pháp luật
cạnh tranh Việt Nam dựa chủ yếu vào ngưỡng thị phần. Cụ thể như bảng sau:
Doanh nghiệp/Nhóm doanh nghiệp Ngƣỡng thị phần
1 Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh Từ 30% trở lên
2
Nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
Nhóm 2 doanh nghiệp Từ 50% trở lên
Nhóm 3 doanh nghiệp Từ 65% trở lên
Nhóm 4 doanh nghiệp Từ 75% trở lên
Riêng đối với trường hợp một doanh nghiệp, khoản 1, Điều 11 của Luật Cạnh tranh
quy định thêm tiêu chí ―khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể‖ để xác định
vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Tiêu chí đánh giá ―khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể‖ được quy định tương đối chi tiết tại Điều 22, Nghị định 116/2005/NĐ-
CP, theo đó liệt kê một số căn cứ để đánh giá như: năng lực tài chính, năng lực công nghệ,
quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, mạng lưới phân phối của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã không hướng dẫn cách thức
đánh giá khả năng của doanh nghiệp gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể dựa trên
các yếu tố đó như thế nào.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
64
Về khái niệm doanh nghiệp có vị trí độc quyền, Điều 12, Luật cạnh tranh quy định
―doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh
về hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan‖. Theo
quan điểm của các nhà làm luật Việt Nam, sở dĩ cần phân biệt rõ doanh nghiệp thống lĩnh
và doanh nghiệp độc quyền để điều chỉnh là do có một số hành vi mà chỉ doanh nghiệp
độc quyền mới có thể thực hiện hoặc chỉ doanh nghiệp độc quyền thực hiện mới gây ảnh
hưởng tiêu cực cho thị trường và người tiêu dùng.
Về các quy định cấm, pháp luật cạnh tranh Việt Nam thừa nhận sự tồn tại của các
doanh nghiệp thống lĩnh, doanh nghiệp độc quyền, tuy nhiên cấm tất cả các hành vi lạm
dụng sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp này. Theo cách tiếp cận vi phạm mặc
nhiên, Điều 13, Luật cạnh tranh Việt Nam liệt kê 06 hành vi ―lạm dụng vị trí thống lĩnh‖
và Điều 14 liệt kê thêm 02 hành vi ―lạm dụng vị trí độc quyền‖ để điều chỉnh. Trên cơ sở
các quy định này, Nghị định 116/2005/NĐ-CP đã quy định các hành vi ―lạm dụng vị trí
thống lĩnh‖, ―lạm dụng vị trí độc quyền‖ một cách cụ thể, theo đó mô tả một cách chi tiết
các hình thức biểu hiện của từng hành vi bị coi là ―lạm dụng‖.
Ví dụ, theo quy định tại Điều 31, của Nghị định 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết
quy định tại khoản 6, Điều 13 của Luật cạnh tranh, hành vi ―ngăn cản việc tham gia thị
trường của những đối thủ cạnh tranh mới‖ là những hành vi sau đây:
“1. Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới.
2. Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp nhận
phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới.
3. Bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị
trường nhưng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 23 của Nghị định này.”
Theo cách tiếp cận này, chỉ 03 hành vi được liệt kê tại Điều 31, Nghị định 116/NĐ-
CP mới bị coi là hành vi ngăn cản việc tham gia thị trường của đối thủ cạnh tranh mới.
Ngoài 03 hành vi trên, các hành vi khác mặc dù có tác động ngăn cản việc tham gia thị
trường của đối thủ cạnh tranh mới cũng không bị coi là hành vi ―lạm dụng‖ vị trí thống
lĩnh/độc quyền và không bị xem xét, xử lý. Ngược lại, một số hành vi mặc dù không có
khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể, thậm chí mang lại lợi ích cho cạnh
tranh, cho người tiêu dùng nhưng có hình thức biểu hiện phù hợp với mô tả trong các văn
bản hướng dẫn thi hành luật cũng sẽ bị cấm thực hiện.
Cách tiếp cận quy định về vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, thị trường
liên quan cũng như hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền… của pháp luật
cạnh tranh Việt Nam như trên có một số điểm mạnh, đặc biệt đối với các cơ quan cạnh
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
65
tranh còn non trẻ. Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thực thi trên thực tế, các quy định hiện tại
cũng đã phát sinh một số điểm bất cập, cần xem xét đánh giá để hoàn thiện. Trong phần
sau, báo cáo sẽ tập trung phân tích, đánh giá kỹ hơn về các điểm mạnh cũng như các bất
cập cần hoàn thiện của hệ thống pháp luật kiểm soát doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc
quyền hiện hành.
II. Thực tiễn 6 năm thực thi pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền
Sau hơn 6 năm, Luật Cạnh tranh về cơ bản đã tạo được hành lang pháp lý quan
trọng, giúp tạo lập và duy trì môi trường kinh doanh bình đẳng. Đây là tiền đề quan trọng
đảm bảo hoạt động kinh doanh bình đẳng, bền vững cho các doanh nghiệp, đồng thời đảm
bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã
hội. Trên cơ sở quy định của pháp luật, các cơ quan cạnh tranh cũng đã chú trọng đẩy
mạnh hoạt động thực thi pháp luật và từng bước áp dụng các quy định của pháp luật để xử
lý các vụ việc thực tiễn.
Mặc khác, sau 6 năm thực thi Luật cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành, số
lượng các vụ việc vẫn còn ở mức hạn chế. Cụ thể, từ 2005 đến nay, Cục QLCT đã điều tra
03 vụ việc trong các lĩnh vực: cung cấp xăng dầu hàng không; bia; phân phối và chiếu
phim nhựa. Đến thời điểm hiện tại, Cơ quan cạnh tranh đã hoàn tất việc xử lý 02 vụ việc
trong đó ra quyết định xử phạt 01 vụ việc và ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc đối
với vụ việc còn lại.
Ngoài ra, trong nỗ lực tăng cường hoạt động thực thi pháp luật, Cục QLCT cũng
thường xuyên tiến hành hoạt động điều tra tiền tố tụng9. Trong năm 2009, Cục QLCT đã
tiến hành được 08 vụ điều tra tiền tố tụng liên quan đến các hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh/độc quyền. Mặc dù vậy, hoạt động điều tra tiền tố tụng đến thời điểm hiện tại chưa
mang lại hiệu quả tích cực, theo đó chỉ chuyển được 01 vụ việc thành điều tra chính thức
theo quy định của pháp luật cạnh tranh.
Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng trên, Nhóm nghiên cứu nhận thấy có một số
nguyên nhân chính, xuất phát từ phía: các cơ quan cạnh tranh, từ nhận thức của các doanh
nghiệp về pháp luật cạnh tranh còn hạn chế và từ các quy định của Luật Cạnh tranh, cũng
9 Điều tra tiền tố tụng: được tiến hành khi trên thị trường đang xảy ra các tranh chấp hoặc có biến động bất thường và
hành vi của một hay một số doanh nghiệp trên thị trường có dấu hiệu vi phạm quy định của Luật Cạnh tranh. Hoạt
động này nhằm thu thập thêm các thông tin, chứng cứ về hành vi của doanh nghiệp và thông tin chung về thị trường.
Kết quả của hoạt động này là đưa ra kiến nghị điều tra vụ việc nếu phát hiện thấy dấu hiệu vi phạm, hoặc tiếp tục
theo dõi diễn biến vụ việc nếu nhận thấy chưa có đủ chứng cứ về dấu hiệu vi phạm của doanh nghiệp.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
66
như hoạt động thực thi các quy định đó. Thực tế triển khai các hoạt động thực thi pháp
luật cạnh tranh cho thấy, các vấn đề nổi cộm liên quan đến quy định của pháp luật cạnh
tranh thường tập trung vào các nội dung như: xác định thị trường liên quan, xác định
doanh nghiệp thống lĩnh (theo ngưỡng thị phần), xác định hành vi bị coi là ―lạm dụng‖ và
một số nội dung liên quan đến biện pháp xử phạt và khắc phục hậu quả. Trong phần sau,
Nhóm nghiên cứu sẽ tập trung phân tích về từng vấn đề này.
III. Đánh giá quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền
1. Quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam về xác định thị trƣờng liên quan
Nhìn chung, cách thức xác định thị trường liên quan của Luật cạnh tranh Việt Nam
cũng phù hợp với các nguyên tắc được sử dụng phổ biến: dựa trên việc đánh giá khả năng
thay thế về cầu và khả năng thay thế về cung.
Các tiêu chí xác định thị trường liên quan của Luật cạnh tranh Việt Nam là được quy
định rất cụ thể tại Nghị định 116. Về mặt tích cực, việc quy định cụ thể như vậy giúp nâng
cao tính minh bạch của pháp luật cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan cạnh tranh
trong quá trình thực thi luật. Tuy nhiên, việc liệt kê các tiêu chí cụ thể cũng như giản lược
hóa các đánh giá về mặt kinh tế trong quá trình xác định thị trường liên quan đã gây
không ít khó khăn cho cơ quan cạnh tranh và trong một số trường hợp có hướng việc đánh
giá của cơ quan cạnh tranh xa rời khỏi thực tế thị trường.
Thứ nhất, Khoản 2, Điều 4, Nghị định 116 quy định: ―đặc tích của hàng hóa, dịch
vụ được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau: (a) tính chất vật lý, (b) tính chất hóa
học, (c) tính năng kỹ thuật, (d) tác dụng phụ đối với người sử dụng, (đ) khả năng hấp thụ.
Các tiêu chí cụ thể nêu trên có thể phù hợp đối với hàng hóa nhưng không có một sự liên
quan nào tới dịch vụ. Do đó, trong trường hợp cần phải xác định thị trường liên quan của
một loại dịch vụ, cơ quan cạnh tranh không thể áp dụng các tiêu chí này để xác định đặc
tích của dịch vụ, từ đó, không đảm bảo đầy đủ các yếu tố xác định thị trường liên quan
theo quy định của luật10
.
Thứ hai, về cách thức xác định khả năng thay thế cho nhau về giá, Điểm c, Khoản 5,
Điều 4, Nghị định 116 quy định ―Hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế được cho
nhau về giá cả nếu trên 50% của một lượng mẫu ngẫu nhiên 1.000 người tiêu dùng sinh
sống tại khu vực địa lý liên quan chuyển sang mua hoặc có ý định mua hàng hóa, dịch vụ
10
Khoản 1, Điều 4, Nghị định 116 quy định ―thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch
vụ có thể thay thế cho nhau cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả‖.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
67
khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử dụng hoặc
có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ đó tăng lên quá 10% và
được duy trì trong 06 tháng liên tiếp‖. Có thể thấy đây là một hình thức đơn giản của phép
thử SSNIP được các cơ quan cạnh tranh trên thế giới công nhận rộng rãi trong việc xác
định thị trường liên quan. Về bản chất, phép thử SSNIP (small but significant and non-
transitory increase in price – mức tăng giá tối thiểu đủ để khách hàng chuyển sang sử
dụng sản phẩm thay thế khác) là nhằm kiểm tra khả năng nhà độc quyền giả định có thể
thu lợi từ việc tăng giá sản phẩm/dịch vụ ở mức độ nhất định (5%-10%) trong một khoảng
thời gian nhất định (6 tháng – 1 năm). Trong trường hợp việc tăng giá đó giúp nhà độc
quyền có thể thu được lợi nhuận (mức sụt giảm trong sản lượng bán ra, tương ứng với
lượng khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm/dịch vụ khác, không đủ lớn để để làm
giảm lợi nhuận từ việc tăng giá) thì thị trường sản phẩm liên quan đã được xác định.
Trong trường hợp nhà độc quyền không thể thu lợi từ việc tăng giá thì thị trường sản
phẩm liên quan sẽ được mở rộng hơn.
Trên thực tế, số lượng vụ việc sử dụng phép thử SSNIP thuần túy là rất ít do khó
khăn về mặt thu thập dữ liệu thị trường và sự tốn kém trong việc tổ chức lấy ý kiến người
tiêu dùng. Do đó, các cơ quan cạnh tranh thường sử dụng công cụ thay thế như độ co giãn
về cầu để gián tiếp đánh giá khả năng tăng giá của nhà độc quyền giả định.
Do đó, quy định về xác định khả năng thay thế về giá tại Nghị định 116 có những
nhược điểm sau:
Yêu cầu trên 50% mẫu chuyển sang sử dụng một hàng hóa/dịch vụ khác để
xác định khả năng thay thế giữa hai loại sản phẩm/dịch vụ là quá chặt chẽ. Bởi với mức
tăng giá 10%, có thể số lượng người sử dụng sản phẩm/dịch vụ quyết định không tiếp tục
sử dụng hàng hóa/dịch vụ đó nữa chiếm trên 50%. Tuy nhiên, để trên 50% lượng khách
hàng chuyển sang sử dụng một sản phẩm/dịch vụ khác là không khả thi và thường dẫn đến
kết quả thị trường liên quan được xác định là của chính sản phẩm/dịch vụ được khảo sát
hay có thể hiểu là doanh nghiệp bị điều tra là doanh nghiệp độc quyền trên thị trường liên
quan được xác định theo quy định của Luật cạnh tranh. Điều này không phản ánh đúng
với thực tế cạnh tranh trên thị trường.11
11
Kinh nghiệm từ việc thực hiện khảo sát giá theo quy định của Luật cạnh tranh trong vụ bia cho thấy: có trên 50%
số lượng người được phỏng vấn cho biết sẽ không tiếp tục sử dụng sản phẩm được hỏi trong trường hợp giá của sản
phẩm đó tăng lên 10% trong khoảng thời gian 6 tháng. Tuy nhiên, họ lại quyết định lựa chọn các sản phẩm thay thế
khác nhau chứ không phải là một sản phẩm duy nhất khác. Do đó, kết quả khảo sát cho thấy, lượng người tiêu dùng
chuyển sang sử dụng một sản phẩm thay thế khác không đáp ứng ngưỡng 50% như quy định của luật. Như vậy, có
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
68
Việc yêu cầu thực hiện khảo sát trong mọi trường hợp xác định khả năng
thay thế về giá gây ra lãng phí về nguồn lực cho cơ quan cạnh tranh. Thay vào đó, việc
đưa ra nguyên tắc xác định khả năng thay thế về giá và cho phép cơ quan cạnh tranh sử
dụng các công cụ phù hợp nhất tùy vào đặc điểm của từng vụ việc sẽ giúp tiết kiệm cả về
thời gian và chi phí. Ví dụ, với bản chất của phép thử SSNIP như nêu ở trên, cơ quan cạnh
tranh có thể đánh giá khả năng tăng giá của nhà độc quyền giả định thông qua độ co giãn
chéo về cầu.
Theo kinh nghiệm quốc tế, việc xác định thị trường liên quan chủ yếu dựa trên đánh
giá khả năng thay thế về cầu. Cơ quan cạnh tranh chỉ đánh giá khả năng thay thế về cung
khi thấy rằng khả năng gia nhập thị trường của đối thủ mới là khả thi.
2. Quy định về xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh/độc quyền
Theo quy định của Luật cạnh tranh, vị trí thống lĩnh/độc quyền của doanh nghiệp
được xác định dựa trên hai căn cứ: thị phần trên thị trường liên quan hoặc khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Một doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh
thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây
hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.
Khái niệm ―khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể‖ được giải thích tại
Điều 22 Nghị định 116/2005/NĐ-CP. Theo đó, khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách
đáng kể của doanh nghiệp trên thị trường liên quan được xác định dựa vào một hoặc một
số căn cứ chủ yếu sau đây:
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
- Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp.
- Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối
hoạt động của của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của
doanh nghiệp.
- Năng lực tài chính của công ty mẹ.
- Năng lực công nghệ.
- Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.
- Quy mô của mạng lưới phân phối.
Với cách thức quy định nêu trên của Luật cạnh tranh cũng như Nghị định
116/2005/NĐ-CP, Nhóm nghiên cứu có một số đánh giá như sau:
thể hiểu, theo cách xác định thị trường liên quan được quy định tại Nghị định 116, thị trường sản phẩm liên quan của
vụ việc là thị trường của chính sản phẩm đó, không bao gồm các sản phẩm cạnh tranh nào khác. Điều này không
phản ánh đúng thực tế cạnh tranh trên thị trường bia..
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
69
Thứ nhất, về việc xác định sức mạnh thị trường của doanh nghiệp dựa trên tiêu chí
thị phần theo Luật Cạnh tranh hiện hành, khi một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp
đạt được một ngưỡng thị phần nhất định thì mặc nhiên được coi là có vị trí thống lĩnh trên
thị trường. Thị phần của doanh nghiệp/nhóm doanh nghiệp bị cho là có hành vi phản cạnh
tranh được xem xét tại thời điểm thực hiện hành vi đó, tính theo tháng, quý hoặc năm.
Về vấn đề này, Luật Cạnh tranh của các quốc gia phát triển đều thừa nhận vai trò của
thị phần trong việc đánh giá sức mạnh thị trương của doanh nghiệp bởi thị phần của doanh
nghiệp được thể hiện một cách khách quan, dựa trên các số liệu cụ thể, rõ ràng và cho
thấy sự tương quan trong sức mạnh của doanh nghiệp bị xem xét với các đối thủ khác trên
thị trường. Tuy nhiên, các quốc gia này không đưa ra các ngưỡng thị phần cụ thể để làm
cơ sở xác định sức mạnh thị trường của doanh nghiệp. Thay vào đó, thị phần của doanh
nghiệp bị xem xét được đem so sánh với thị phần của các đối thủ cạnh tranh hoặc được
xem xét trong một quá trình để đánh giá sự tồn tại và sự bền vững của sức mạnh thị
trường mà doanh nghiệp nắm giữ. Cách thức đánh giá như vậy là cần thiết để đảm bảo
tính chính xác khi sử dụng tiêu chí thị phần để xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp.
Bởi có những trường hợp, mặc dù doanh nghiệp nắm giữ 30% thị phần trên thị trường liên
quan nhưng không hề có sức mạnh vượt trội so với đối thủ cạnh tranh hoặc khách hàng.
Ví dụ, trên một thị trường có 03 doanh nghiệp đứng đầu, các doanh nghiệp nắm giữ lần
lượt 50%, 30% và 20% thị phần. Trong trường hợp này, một doanh nghiệp trong số đó, dù
nắm giữ 30% thị phần, cũng không thể có sức mạnh vượt trội so với đối thủ hiện đang giữ
50% thị phần; do đó, không thể coi là có vị trí thống lĩnh trên thị trường. Ngược lại, cũng
tồn tại những thị trường trong đó có 01 doanh nghiệp đứng đầu nắm giữ 20% thị phần;
80% thị trường còn lại thuộc về các doanh nghiệp chỉ nắm giữ 1%-2% thị phần. Như vậy,
doanh nghiệp đứng đầu thị trường, mặc dù không nắm giữ tới 30% thị phần, nhưng lại có
sức mạnh thị trường vượt trội so với phần còn lại của thị trường, hoàn toàn có khả năng
đưa ra những quyết định có ảnh hưởng tới toàn thị trường.
Chính vì vậy, các cơ quan cạnh tranh trên thế giới còn sử dụng cùng lúc rất nhiều
tiêu chí đánh giá vị trí thống lĩnh khác nhau ngoài tiêu chí thị phần. Theo Báo cáo của
Mạng lưới cạnh tranh quốc tế- ICN12, các cơ quan cạnh tranh trên thế giới hiện sử dụng
hơn 20 tiêu chí để đánh giá vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Trong đó, các tiêu chí
thường thấy là:
12
ICN, Report on the Objectives of Unilateral Conduct Laws, Assessment of Dominance/Substantial Market Power,
and State- Created Monopolies, Prepared by the Unilateral Conduct Working Group, 2007.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
70
- Vị thế (gồm năng lực vượt trội) và hành vi của các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường,
- Các rào cản gia nhập và khả năng gia nhập thị trường của đối thủ mới,
- Tính bền vững của của sức mạnh thị trường mà các doanh nghiệp đang nắm
giữ,
- Sức mạnh của người mua,
- Các nguồn lực thiết yếu mà doanh nghiệp đang nắm giữ v.v…
Trong tất cả các tiêu chí đó, ICN cũng như các cơ quan cạnh tranh đều cho rằng:
không tiêu chí đơn lẻ nào cho phép khẳng định doanh nghiệp có nắm giữ vị trí thống lĩnh
hay không, nhưng nếu nhiều tiêu chí cùng được kết hợp sử dụng thì có thể cho phép
khẳng định điều đó.
Thứ hai, về tiêu chí khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể, với những
nội dung được đề cập ở trên, có thể thấy, các nội dung được Luật cạnh tranh cân nhắc xem
xét dừng lại ở trạng thái tĩnh. Có nghĩa là, các yếu tố được cân nhắc đánh giá chỉ tập trung
vào doanh nghiệp bị xem xét chứ không được đem so sánh trong mối tương quan với các
đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường. Ví dụ, Điều 22, Nghị định 116 có đề cập tới một
trong các nội dung cần xem xét khi đánh giá khả năng hạn chế cạnh tranh một cách đáng
kể là ―quy mô của mạng lưới phân phối‖. Đánh giá theo quan điểm ―tĩnh‖, sẽ có ý kiến
cho rằng, quy mô như thế nào thì được coi là có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể. Còn theo quan điểm ―động‖, quy mô hệ thống phân phối của doanh nghiệp
bị điều tra sẽ được đem so sánh với phần còn lại của thị trường, từ đó cơ quan cạnh tranh
có đánh giá chính xác hơn về sức mạnh trên thị trường của doanh nghiệp.
Ngoài ra, thực tế thực thi Luật cạnh tranh của các quốc gia phát triển cho thấy, trong
một số trường hợp, bản thân việc doanh nghiệp có thể thực hiện một hành vi lạm dụng
nhất định đã cho thấy doanh nghiệp đó có sức mạnh thị trường. Mục 2 của Luật Chống
độc quyền Sherman Act của Hoa Kỳ quy định, sức mạnh độc quyền được hiểu là ―doanh
nghiệp có khả năng (1) định giá cao hơn đáng kể so với mức giá cạnh tranh và (2) cố tình
gây ra hành vi này trong khoảng thời gian nhất định nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh mới
gia nhập hoặc mở rộng thị trường‖.
Tóm lại, các quy định về đánh giá vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp trong Luật cạnh
tranh hiện hành còn khá cứng nhắc và trong một số trường hợp không phản ánh đúng
tương quan cạnh tranh trên thị trường.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
71
3. Quy định về xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền
3.1. Việc phân biệt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và hành vi lạm dụng vị trí
độc quyền chưa phù hợp với thực tiễn
Như đã trình bày tại mục 1 trên đây, Luật Cạnh tranh đã đặt các doanh nghiệp độc
quyền vào tình trạng bị giám sát về hành vi lạm dụng một cách nghiêm khắc hơn so với
các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Ngoài những hành vi bị cấm theo điều 13
Luật Cạnh tranh, các doanh nghiệp độc quyền còn bị cấm thêm hai hành vi theo Khoản 2
và 3 Điều 14 gồm hành vi áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng và hành vi lợi dụng
vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có
lý do chính đáng.
Những hành vi trên chủ yếu xâm phạm đến quyền lợi của khách hàng và nguyên tắc
bình đẳng trong các hợp đồng đã hoặc sẽ được ký kết giữa doanh nghiệp độc quyền và
khách hàng, đối tác của họ. Vì vậy, chúng ta có thể suy đoán cơ sở xây dựng nên khoản 2
và khoản 3 Điều 14 là tình trạng không cân xứng về vị trí giữa doanh nghiệp độc quyền và
khách hàng, đối tác. Theo đó, quyền lựa chọn của người tiêu dùng và khách hàng sẽ
không tồn tại nếu có doanh nghiệp độc quyền trên thị trường. Hệ quả tất yếu là khách
hàng sẽ luôn ở vào tình trạng yếu thế trong giao dịch do nhu cầu của họ bị lệ thuộc vào
khả năng và quyết định cung ứng của nhà độc quyền.
Để ngăn chặn những khả năng khai thác lợi thế độc quyền, xâm phạm đến các
nguyên tắc bình đẳng của pháp luật hợp đồng, Luật Cạnh tranh cấm các doanh nghiệp độc
quyền không được áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng và không được đơn
phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng mà không có lý do chính đáng. Tuy nhiên, trên
thực tế, các hành vi trên có thể xảy ra ở bất kỳ môi trường kinh doanh nào có khiếm
khuyết về cạnh tranh, nhất là khi có sự tồn tại của doanh nghiệp có sức mạnh thị trường.
Vì vậy, khả năng xâm hại đến quyền lợi chính đáng của khách hàng hoặc xâm hại đến
nguyên tắc bình đẳng được pháp luật hợp đồng bảo hộ bằng những hành vi trên đều có thể
xảy ra ngay cả khi chỉ tồn tại doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh (không độc quyền) và hoàn
toàn có thể gây tác động tiêu cực tới cạnh tranh trên thị trường.
Trong vụ việc cạnh tranh liên quan đến Công ty xăng dầu hàng không (Vinapco), các
cơ quan cạnh tranh cho rằng tại thời điểm xem xét (tháng 4/2008), do Vinapco có vị trí
độc quyền trên thị trường dịch vụ cung cấp xăng dầu hàng không (không có doanh nghiệp
nào cạnh tranh với Vinapco trên thị trường) nên hành vi áp đặt các điều kiện bất lợi cho
khách hàng và lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã
giao kết mà không có lý do chính đáng đã bị xử lý. Tại thời điểm hiện tại, Vinapco hoàn
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
72
toàn có thể thực hiện hành vi trên mà không bị xem xét bởi Luật cạnh tranh do hiện nay
họ đã không còn vị trí độc quyền trên thị trường, mặc dù đối thủ cạnh tranh của Vinapco
(là Công ty cổ phần nhiên liệu bay Petrolimex) trên thị trường chỉ chiếm một lượng thị
phần không đáng kể tại sân bay Tân Sơn Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh).
Tương tự, năm 2007, Cục Quản lý cạnh tranh nhận được thư tố cáo một doanh
nghiệp lớn (năm 2006 chiếm tới 98% thị phần) đã có hành vi đơn phương ngừng bán hàng
cho hàng loạt các doanh nghiệp phân phối. Trên cơ sở các thông tin ban đầu, Cục Quản lý
cạnh tranh đã làm việc với một số doanh nghiệp, cơ quan có liên quan và nhận định việc
đơn phương ngừng bán hàng là có thật và có tác động tiêu cực tới thị trường. Tác động
của hành động đơn phương ngừng bán hàng, thay đổi doanh nghiệp phân phối sản phẩm
có thể lan trên diện rộng bởi sản phẩm đó là đầu vào quan trọng cho nhiều ngành sản xuất
khác. Mặc dù vậy, do doanh nghiệp thực hiện hành vi đơn phương ngừng cung cấp hàng
hóa không phải là doanh nghiệp độc quyền quy định tại Điều 12, Luật Cạnh tranh nên Cục
Quản lý cạnh tranh đã không thể xem xét, áp dụng Điều 14, Luật Cạnh tranh để điều tra,
xử lý vụ việc.
Tham khảo kinh nghiệm của các nước như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, có thể thấy
pháp luật cạnh tranh của các nước này không phân biệt hành vi của doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh và hành vi của doanh nghiệp có vị trí độc quyền. Thay vào đó, các nước này
quan niệm vị trí độc quyền là một trường hợp đặc biệt của vị trí thống lĩnh và về bản chất
doanh nghiệp có vị trí độc quyền hay doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đều là các doanh
nghiệp có sức mạnh thị trường, có khả năng hành xử một cách tương đối độc lập so với
đối thủ cạnh tranh (nếu có) và người tiêu dùng. Trong các vụ việc, để đánh giá, ra quyết
định điều chỉnh, cơ quan cạnh tranh của các nước đặt trọng tâm phân tích là tác động gây
hạn chế cạnh tranh, tính chất tận thu, trục lợi hay ngăn cản, đóng cửa thị trường của hành
vi kinh doanh. Pháp luật cạnh tranh của nhiều nước vì vậy chỉ đề cập hành vi của doanh
nghiệp thống lĩnh mà không phân biệt rõ 02 nhóm hành vi như pháp luật cạnh tranh hiện
hành của Việt Nam.
3.2. Việc liệt kê, mô tả hành vi một mặt dẫn tới cách tiếp cận hẹp, khó thực thi,
mặt khác có thể bỏ sót hành vi phản cảnh tranh trên thị trường
Xét về hành vi, Luật cạnh tranh hiện hành liệt kê 6 hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
và 8 hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm. Trên cơ sở các quy định này, Nghị định
116/2005/NĐ-CP tiếp tục chi tiết hóa các quy định của Luật bằng cách liệt kê 20 hành vi
lạm dụng với các hình thức biểu hiện khác nhau. Ngoài 20 hành vi trên, các hành vi khác
mặc dù có thể có tính chất đóng cửa thị trường/loại bỏ đối thủ cạnh tranh (market
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
73
foreclosure/exclusionnary) hoặc tính chất tận thu (exploitative) khác không bị coi là lạm
dụng vị trí thống lĩnh. Tiếp cận liệt kê hành vi một cách chi tiết có thể dẫn tới 03 vấn đề
chính:
Quy định mang nặng tính định dạng, thiên về mô tả hình thức biểu hiện bên
ngoài mà chưa chú trọng đến các dấu hiệu đặc trưng của hành vi
Xuất phát từ nhiều nguyên nhân, các cơ quan soạn thảo Luật Cạnh tranh và các văn
bản hướng dẫn thi hành đã chọn phương pháp mô tả hành vi dựa theo hình thức biểu hiện
bên ngoài của hành vi. Ví dụ, hành vi ―ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối
thủ cạnh tranh mới‖ quy định tại khoản 6, Điều 13, Luật Cạnh tranh được hiểu theo hướng
chỉ bao gồm 03 hành vi (Điều 31, Nghị định 116/2005/NĐ-CP):
(1) Yêu cầu khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới.
(2) Đe dọa hoặc cưỡng ép các nhà phân phối, các cửa hàng bán lẻ không chấp nhận
phân phối những mặt hàng của đối thủ cạnh tranh mới.
(3) Bán hàng hóa với mức giá đủ để đối thủ cạnh tranh mới không thể gia nhập thị
trường nhưng không thuộc trường hợp quy định tại Điều 23 của Nghị định này.
Quy định một cách chi tiết dựa vào hình thức biểu hiện bên ngoài như trên hạn chế
đáng kể khả năng đánh giá của cơ quan cạnh tranh trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc.
Căn cứ theo hệ thống các quy định hiện hành, cơ quan cạnh tranh của Việt Nam thực chất
không có thẩm quyền được đưa ra các đánh giá sâu về bản chất gây hạn chế cạnh tranh
của hành vi mà chỉ là cơ quan thu thập các chứng cứ phù hợp với các mô tả theo quy định
của pháp luật để kết luận về hành vi. Điều này một mặt tạo điều kiện dễ dàng cho cơ quan
thực thi trong quá trình thu thập thông tin, chứng cứ để chứng minh hành vi, bởi chỉ cần
thu thập các thông tin, chứng cứ phù hợp với mô tả theo quy định của luật mà không cần
phải phân tích, chứng minh về tác động phản cạnh tranh của hành vi. Tuy nhiên, nhìn ở
khía cạnh khác, việc liệt kê nêu trên cũng tạo ra khó khăn cho cơ quan cạnh tranh trong
quá trình thực thi.
Trong vụ việc thực tế liên quan đến thị trường bia, theo đó một doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh bia đã ký hợp đồng phân phối độc quyền với một số ít các nhà hàng/các
quán bán bia. Trong điều khoản hợp đồng, doanh nghiệp bia đã yêu cầu các nhà hàng ký
hợp đồng với họ không được bán các loại bia cạnh tranh khác, và vì vậy, xét về mặt pháp
lý, hành vi này thỏa mãn khách quan quy định tại khoản 1, Điều 31 của Nghị định
116/2005/NĐ-CP. Điều đáng nói là, số lượng các hợp đồng độc quyền liên quan là rất
nhỏ, và mặc dù không có tác động ngăn cản việc tham gia thị trường của doanh nghiệp
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
74
khác nhưng việc ký hợp đồng độc quyền vẫn có thể bị coi là vi phạm do hợp đồng có nội
dung phù hợp với mô tả hành vi bị cấm theo quy định của pháp luật.
Ở một góc nhìn khác, trong vụ việc liên quan đến bản quyền phát hình các sự kiện
thể thao, Công ty CP Viễn thông và Truyền thông An Viên (AVG) đã ký hợp đồng hợp
tác với Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (VFF), theo đó AVG được VFF chuyển nhượng toàn
bộ thương quyền của các giải bóng đá13 do VFF tổ chức trong đó có các trận thi đấu tại
giải bóng đá vô địch quốc gia trong thời hạn từ 2011- 2030. Điều đáng nói là, với cách
tiếp cận hiện tại, mặc dù hợp đồng này có tác động hạn chế cạnh tranh, ngăn cản sự tham
gia thị trường của các doanh nghiệp khác nhưng do Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng
dẫn không có quy định cấm ký kết các hợp đồng độc quyền với thời hạn dài nên các cơ
quan cạnh tranh đã không thể có ý kiến về hợp đồng này. Các cơ quan có liên quan khác
sau một thời gian xem xét cũng đã kết luận thừa nhận hiệu lực của hợp đồng trên bởi hiện
nay không quy định nào của pháp luật cấm các pháp nhân ký kết với nhau hợp đồng 20
năm.
Qua hai vụ việc thực tiễn, có thể thấy rằng tiếp cận hiện nay của pháp luật cạnh tranh
Việt nam, trong một số trường hợp, đã ngăn chặn không cho phép doanh nghiệp thực hiện
các hành vi không có tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể, thậm chí là có lợi
cho cạnh tranh, và ngược lại, cho phép thực hiện các hành vi có tác động hạn chế cạnh
tranh, đóng cửa thị trường. Ở các vụ việc tương tự như vụ việc liên quan đến hợp đồng
độc quyền trên thị trường bia và vụ việc bản quyền khai thác các sự kiện thể thao, pháp
luật cạnh tranh của nhiều nước có cách hành xử tương đối khác, theo đó ra quyết định trên
cơ sở đánh giá bản chất hạn chế cạnh tranh, tính chất trục lợi hay đóng cửa thị trường của
hành vi, bất kể hành vi đó được thể hiện dưới hình thức nào. Ví dụ, đối với vụ bia, cơ
quan cạnh tranh có thể cấm doanh nghiệp thực hiện hành vi nếu thấy rằng hợp đồng độc
quyền có tác động ngăn cản một cách đáng kể hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp
bia khác. Ngược lại, họ cũng có thể cho phép thực hiện hợp đồng tùy thuộc từng bối cảnh
thị trường…
Qua thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm
của các nước đi trước, Nhóm nghiên cứu cho rằng đã đến lúc Việt Nam cần nghiên cứu
13
Gồm ghi âm, ghi hình, sản xuất và sở hữu bản ghi âm, ghi hình; quyền công bố, phát sóng, khai thác doanh thu
dưới mọi hình thức và trên mọi phương tiện như truyền hình, internet, cũng như tất cả phương tiện khác, cũng như
tất cả các quyền có liên quan khác đối với một phần hoặc toàn bộ các cuộc thi đấu và các sự kiện, thông tin bên lề
(...)
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
75
thay đổi cách tiếp cận mô tả hành vi theo hình thức biểu hiện bên ngoài, thay vào đó là
cách tiếp cận nhắm trực diện vào bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi. Có như vậy,
việc thực thi pháp luật cạnh tranh mới thực sự mang lại hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế
theo đúng mục tiêu ban hành pháp luật.
Mô tả hành vi với cấu thành pháp lý quá phức tạp đến mức gây khó khăn
cho quá trình áp dụng luật trong thực tiễn
Pháp luật cạnh tranh hiện hành, đặc biệt là các quy định chi tiết tại Nghị định
116/2005/NĐ-CP quy định các hành vi hành vi với mô tả về hình thức biểu hiện và cấu
thành pháp lý quá phức tạp, gây khó khăn cho quá trình áp dụng trong thực tiễn. Ví dụ,
với hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý quy định tại Khoản 2 điều 13 Luật
Cạnh tranh, Nghị định 116/2005/NĐ-CP diễn giải thành:
Hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho
khách hàng nếu cầu về hàng hoá, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất
thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp và thỏa mãn hai điều kiện sau đây:
a) Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60
ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng mức
tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó;
b) Không có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch
vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá.
Căn cứ quy định nêu trên, để chứng minh một doanh nghiệp có hành vi áp đặt giá
bán hàng hóa dịch vụ bất hợp lý cơ quan cạnh tranh trước hết cần chứng minh cầu về hàng
hoá, dịch vụ không tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản
xuất của doanh nghiệp. Đòi hỏi này phù hợp với lý thuyết kinh tế, thừa nhận quy luật cung
cầu và giá cả tuy nhiên rất khó áp dụng bởi trên thực tiễn khó có thể ước lượng được
chính xác ―cầu‖ đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó. Nếu tạm chấp nhận căn cứ vào
số liệu bán hàng trong quá khứ để đưa ra ước lượng về lượng cầu và so sánh với năng lực
sản xuất của doanh nghiệp đang xem xét, cơ quan điều tra sẽ gặp khó khăn tiếp theo là xác
định giá bán lẻ trung bình của hàng hóa/dịch vụ tại cùng thị trường liên quan trong khoảng
thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp theo quy định của Nghị định.
Việc xác định giá bán lẻ trung bình càng khó khăn hơn khi khoản 4, Điều 4 của Nghị
định 116/2005/NĐ-CP quy định “giá cả của hàng hóa, dịch vụ là giá ghi trong hóa đơn
bán lẻ theo quy định của pháp luật” và càng khó khăn hơn khi phải thu thập số liệu từ
nhiều doanh nghiệp, nhiều mặt hàng trên cùng thị trường liên quan để tính giá trung bình
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
76
trong thời gian “tối thiểu” 60 ngày liên tiếp trước khi tăng giá. Tiếp sau đó, cơ quan cạnh
tranh phải thu thập các thông tin, số liệu về giá thành sản xuất của hàng hóa tương
ứngtrong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá để đánh giá và
chứng minh không tồn tại các biến động bất thường làm tăng chi phí sản xuất lên quá
5%... Khó khăn càng tăng lên gấp nhiều lần khi việc tính toán chi phí sản xuất cũng được
quy định cụ thể tại Điều 24 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP và càng khó khả thi hơn khi
việc hạch toán chi phí trên đầu sản phẩm là tùy thuộc vào chế độ hạch toán, tùy thuộc
chiến lược kinh doanh của từng doanh nghiệp và nhiều yếu tố khác…
Ở một phương diện khác, quy định cụ thể về hành vi ấn định giá bán hàng hóa, dịch
vụ bất hợp lý như trên vô hình chung đã thu hẹp đáng kể phạm vi áp dụng của khoản 2,
Điều 13, Luật Cạnh tranh. Hành vi ấn định giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý theo quy
định của luật có thể được tiếp cận theo hướng ấn định giá để thu lợi quá mức (excessive
pricing). Tuy nhiên, theo diễn giải của Nghị định 116/2005/NĐ-CP, hành vi ấn định giá
bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý chỉ được tiếp cận dưới một hình thức là ―hành vi tăng giá
bán bất hợp lý‖, đó là tăng giá quá 5% khi chi phí tăng không quá 5%. Quy định này sẽ
không áp dụng đối với trường hợp doanh nghiệp lạm dụng sức mạnh thị trường để áp đặt
mức giá cao bất hợp lý ngay từ đầu cũng như không áp dụng trong trường hợp có biến
động về cầu, có biến động làm tăng chi phí sản xuất quá 5%.
Theo cách tiếp cận này, nếu doanh nghiệp chứng minh được chi phí sản xuất tăng
5,1%, thì việc tăng giá 10%, 20%, 50%... thậm chí hơn nữa cũng không thuộc phạm vi
điều chỉnh của khoản 2, Điều 13, Luật Cạnh tranh. Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh
tại Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, các vụ việc liên quan đến khoản 2, Điều 13 của
Luật Cạnh tranh (điều 27, Nghị định 116/2005/NĐ-CP sau một thời gian xem xét đều dẫn
tới bế tắc, không thể áp dụng. Điều này cũng dễ hiểu bởi trên thực tế với biến động CPI,
lạm phát của nền kinh tế Việt Nam, cộng thêm tác động của đợt khủng hoảng kinh tế toàn
cầu…trong thời gian qua dễ dàng làm chi phí sản xuất tăng quá 5%. Và như đã đề cập trên
đây, khi chi phí sản xuất tăng quá 5% thì doanh nghiệp thống lĩnh hoàn toàn có thể tăng
giá hàng hóa ở mức cao nhất có thể mà không cần phải lo ngại về các rủi ro pháp lý liên
quan đến khoản 2, Điều 13 của Luật Cạnh tranh.
Xem xét các quy định khác của Luật Cạnh tranh và của Nghị định 116/2005/NĐ-CP,
có thể thấy nhiều quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền khác cũng gặp
các vấn đề tương tự như đối với hành vi áp đặt giá bán bất hợp lý. Cách tiếp cận quy định
hiện hành không những đặt ra các đòi hỏi pháp lý gây khó khăn cho quá trình thực thi luật
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
77
mà còn làm sai lệch bản chất, mục đích của việc điều chỉnh. Trong thời gian tới, Việt Nam
cần đánh giá nghiêm túc về cách tiếp cận hiện hành, tránh tình trạng quy định quá chi tiết,
quá cụ thể về các hành vi bởi càng quy định chi tiết, càng bó hẹp phạm vi và càng khó áp
dụng trên thực tiễn.
Tiếp cận liệt kê theo các hình thức biểu hiện chi tiết của hành vi tất yếu dẫn
tới việc bỏ sót hành vi phản cạnh tranh, tạo kẽ hở pháp lý để doanh nghiệp lách luật
Bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt là khi Việt
Nam hội nhập sâu, rộng hơn với nền kinh tế quốc tế, đã có nhiều thay đổi làm cho một số
nội dung của Luật Cạnh tranh không còn phù hợp, hoặc chưa bắt kịp với thực tiễn kinh
doanh của doanh nghiệp. Nhiều chiến lược cạnh tranh mới, trong đó có cả các hành vi
phản cạnh tranh đã ―du nhập‖ và được các doanh nghiệp vận dụng trong hoạt động kinh
doanh. Các hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính chất đóng cửa thị trường/loại bỏ đối thủ
cạnh tranh (market foreclosure/exclusionnary) hoặc mang tính chất tận thu (exploitative)
được thực hiện dưới nhiều hình thức mới với mức độ tinh vi, phức tạp ngày càng cao hơn.
Trong khi đó các quy định hiện hành của Luật Cạnh tranh còn mang tính kỹ thuật,
cứng nhắc chưa nhắm vào bản chất phản cạnh tranh của hành vi mà chỉ nhắm đến hình
thức biểu hiện bên ngoài của hành vi và vì vậy, chưa bắt kịp với điều kiện thực tiễn, gây
khó khăn cho quá trình thực thi pháp luật. Đơn cử như hành vi ―ép giá‖ (Margin
Squeezing), mặc dù pháp luật cạnh tranh thế giới đã điều chỉnh từ lâu và hành vi đã xuất
hiện tương đối phổ biến tại Việt Nam nhưng pháp luật cạnh tranh hiện hành không quy
định điều chỉnh hành vi này. Vì vậy, cơ quan cạnh tranh trong một số trường hợp đã phải
vận dụng các quy định khác để giải quyết vụ việc, giải quyết các vấn đề phát sinh từ hành
vi ép giá một cách khiên cưỡng.
Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ sót hành vi như trên, Nhóm nghiên cứu
cho rằng vấn đề chính không nằm ở chỗ phải rà soát để bổ sung toàn bộ các hành vi mà
nằm ở cách tiếp cận ban hành các quy định. Với cách tiếp cận hiện hành, Nhóm nghiên
cứu cho rằng ngay cả khi pháp luật cạnh tranh liệt kê hàng trăm hành vi phản cạnh tranh
dựa theo hình thức biểu hiện bên ngoài vẫn không thể bao quát hết các hành vi, đặc biệt là
khi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng diễn biến phức tạp. Vì vậy, bên
cạnh việc rà soát các hành vi mới, vấn đề cần tập trung nghiên cứu để sửa đổi chính là
cách tiếp cận ban hành và thực thi pháp luật, giữ được cân bằng giữa phương pháp liệt kê,
mô tả và các quy định nhắm vào bản chất của hành vi.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
78
4. Quy định về biện pháp xử lý vi phạm
Trong hệ thống pháp luật cạnh tranh hiện hành, biện pháp xử lý vi phạm được quy
định cụ thể tại Nghị định 120/2005/NĐ-CP, theo đó bao gồm: (1) Phạt cảnh cáo; (2) Phạt
tiền; và (3) Các biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả. Trong các hình thức xử
phạt và khắc phục hậu quả trên đây, biện pháp cảnh cáo chỉ được áp dụng trong một số ít
trường hợp liên quan đến các hành vi vi phạm quy định về cung cấp thông tin, tài liệu, tiết
lộ thông tin, tài liệu thuộc bí mật điều tra hoặc gây rối tại phiên điều trần (Điều 39-40,
Nghị định 120/2005/NĐ-CP). Đối với các vi phạm về lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc
quyền, cơ quan cạnh tranh có thể áp dụng biện pháp phạt tiển đến 10% tổng doanh thu
trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm của doanh nghiệp, một số biện
pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3, 4, Điều 4 của Nghị
định 120/2005/NĐ-CP.
Qua một số vụ việc thực tiễn, Nhóm nghiên cứu nhận thấy quy định hiện hành của
Luật Cạnh tranh và Nghị định 120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm liên quan đến lạm dụng
vị trí thống lĩnh/độc quyền có thể làm phát sinh một số vấn đề chính như sau:
4.1. Mức phạt tiền được xác định căn cứ trên tổng doanh thu của năm tài chính
trước năm thực hiện hành vi vi phạm là không hợp lý
Theo quy định hiện hành của pháp luật, mức phạt tiền đối với hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh/độc quyền có thể lên đến 10% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm
thực hiện hành vi vi phạm. Vấn đề đặt ra là, trong các vụ việc hạn chế cạnh tranh, doanh
nghiệp liên quan thường kinh doanh đa nghành nghề, ví dụ: ngoài việc kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ đang xem xét, đa phần các doanh nghiệp liên quan đều có kinh doanh thêm
các hàng hóa, dịch khác. Thậm chí trong một số vụ việc, doanh thu phát sinh từ việc kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ có liên quan trực tiếp đến hành vi vi phạm chỉ chiếm một phần
rất nhỏ trong tổng doanh thu của doanh nghiệp. Đối với những trường hợp này, việc xác
định mức xử phạt căn cứ theo tổng doanh thu theo quy định dường như không tương xứng
với mức độ tác động, ảnh hưởng của doanh nghiệp khi thực hiện hành vi vi phạm trên thị
trường.
Cũng từ những nhận định trên, do pháp luật hiện hành quy định tương đối linh hoạt
về mức xử lý vi phạm (0-5%; 5-10% Tổng doanh thu) nên các cơ quan cạnh tranh có xu
hướng lựa chọn tỷ lệ tính mức phạt rất thấp. Ví dụ: trong vụ việc liên quan đến hành vi
lạm dụng vị trí độc quyền của Vinapco, hay trong vụ việc liên quan đến hành vi thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh của 19 doanh nghiệp bảo hiểm, cơ quan cạnh tranh đã xác định
mức phạt rất thấp chỉ tương đương 0.025% tổng doanh thu. Vấn đề đặt ra là, đối với
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
79
những hành vi bị xử phạt ở khung phạt từ 5-10% tổng doanh thu theo quy định thì kể cả
khi cơ quan cạnh tranh áp dụng triệt để các tình tiết giảm nhẹ, tỷ lệ tính mức xử phạt tối
thiểu cũng phải là 5%. Đối với những trường hợp này, nếu lấy tổng doanh thu trong năm
tài chính để làm căn cứ tính mức phạt thì mức phạt có thể rất lớn, thậm chí có thể khiến
doanh nghiệp phá sản bởi quyết định xử lý vụ việc và tất nhiên, đó là trường hợp mà
không một cơ quan cạnh tranh nào trên thế giới mong muốn bởi nó có thể đi ngược lại với
mục tiêu bảo vệ, giữ gìn cạnh tranh.
4.2. Thiếu cơ sở để xác định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh nghiệp thực
hiện hành vi vi phạm
Đối với hình thức phạt tiền, hiện nay pháp luật cạnh tranh quy định 02 khung xử
phạt chính là từ 0 - 5% và từ 5 - 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực
hiện hành vi vi phạm. Do các khung phạt trên là rất rộng, đặc biệt khi sử dụng căn cứ tính
phạt là tổng doanh thu, Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định một số căn cứ để xác định
mức độ xử lý đối với các hành vi vi phạm. Cụ thể, Điều 7, Nghị định 120/2005/NĐ-CP
quy định một số yếu tố mà cơ quan cạnh tranh có thể xem xét khi xác định mức độ xử lý
vi phạm sau:
1. Mức độ gây hạn chế cạnh tranh do hành vi vi phạm gây ra.
2. Mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra.
3. Khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng vi phạm.
4. Thời gian thực hiện hành vi vi phạm.
5. Khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
6. Các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 8 của Nghị định
này.
Mặc dù vậy, pháp luật cạnh tranh không quy định cách thức sử dụng các yếu tố để
xác định tỷ lệ tính mức phạt như thế nào, chí ít là về mặt nguyên tắc. Điều này gây khó
khăn cho cơ quan cạnh tranh trong việc xác định mức phạt tiền cụ thể đối với các doanh
nghiệp vi phạm, thậm chí gây tranh cãi trong quyết định mức độ xử lý vi phạm hoặc có
thể dẫn đến việc tùy tiền trong quyết định mức phạt. Ở một góc nhìn khác, việc thiếu cơ
sở pháp lý trong xác định mức phạt tiền cụ thể sẽ dẫn đến những quan ngại về tính minh
bạch, tính có thể dự đoán trước (predictability), tính hợp lý trong quá trình xử lý vi phạm.
5. Quy định về biện pháp xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả
Cũng tương tự như cách tiếp cận quy định về hành vi, pháp luật cạnh tranh Việt Nam
cũng liệt kê một cách chi tiết các biện pháp xử phạt bổ sung và khắc phục hậu quả mà cơ
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
80
quan cạnh tranh có thể áp dụng. Đối với biện pháp xử phạt bổ sung, pháp luật cạnh tranh
quy định 02 biện pháp, trong đó bao gồm ―tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để
thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc
thực hiện hành vi vi phạm‖ là biện pháp có thể áp dụng đối với các vi phạm về lạm dụng
vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền trên thị trường. Đối với biện pháp khắc phục
hậu quả, Nghị định 120/2005/NĐ-CP liệt kê 09 biện pháp áp dụng đối với các vi phạm
liên quan đến hành vi lạm dụng, ví dụ: Buộc loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật
ra khỏi hợp đồng hoặc giao dịch kinh doanh liên quan; Buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi
đã áp đặt cho khách hàng; Buộc khôi phục các điều kiện phát triển kỹ thuật, công nghệ
mà doanh nghiệp đã cản trở; Buộc cơ cấu lại doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường…
Về biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi
phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi
vi phạm, mặc dù việc tịch thu khoản lợi nhuận bất hợp pháp là cần thiết trong một số
trường hợp, tuy nhiên Nhóm nghiên cứu nhận thấy việc coi biện pháp này là một biện
pháp xử phạt bổ sung là chưa hợp lý và khiên cưỡng. Xét trên nhiều góc độ, khoản lợi
nhuận thu được từ hành vi vi phạm không phải, và không thể là tang vật hay phương tiện
sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm. Trong khi pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
xem xét khoản lợi nhuận bất hợp pháp dưới hình thức biện pháp khắc phục hậu quả, pháp
luật cạnh tranh cũng cần điều chỉnh để đảm bảo tính nhất quán trong hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật.
Về biện pháp khắc phục hậu quả, có thể nói pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã áp
dụng cả các biện pháp khắc phục hậu quả theo hành vi (behaviorial remedies) và biện
pháp khắc phục hậu quả theo cấu trúc (structural remedies). Nghiên cứu, so sánh quy định
về hành vi và quy định về khắc phục hậu quả, có thể thấy về bản chất hầu hết các biện
pháp khắc phục hậu quả theo quy định hiện hành đều hướng tới mục tiêu chính là dừng,
chấm dứt hành vi vi phạm. Ví dụ: buộc loại bỏ các điều kiện bất lợi đã áp đặt cho khách
hàng chỉ áp dụng đối với các vi phạm liên quan đến khoản 2, Điều 14 của Luật Cạnh tranh
áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng; biện pháp buộc sử dụng hoặc bán lại các sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp đã mua nhưng không sử dụng chỉ áp dụng
đối với các vi phạm liên quan đến hành vi mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử dụng (điểm a, khoản 3, Điều 28, Nghị định
116/2005/NĐ-CP)…. Ở nhóm biện pháp khắc phục hậu quả theo cấu trúc, Nghị định
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
81
116/2005/NĐ-CP sử dụng biện pháp buộc cơ cấu lại doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường để cải thiện cạnh tranh trên thị trường.
Thực tiễn điều tra, xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh nói chung và lạm dụng vị trí
thống lĩnh/độc quyền tại Việt Nam cho thấy vai trò của biện pháp khắc phục hậu quả vẫn
chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ. Mặc dù liệt kê nhiều biện pháp khắc phục hậu quả,
tuy nhiên các biện pháp đưa ra đều ở dưới dạng các quy định cứng nhắc, có thể phù hợp
đối với một vài vụ việc mà không phù hợp với các vụ việc, các ngành khác. Theo kinh
nghiệm của các nước đi trước, nhóm biện pháp khắc phục theo hành vi thường được đưa
ra dưới dạng buộc một doanh nghiệp phải thực hiện một số yêu cầu của cơ quan cạnh
tranh hoặc chấm dứt thực hiện các hành vi có tác động xấu tới môi trường cạnh tranh.
Biện pháp khắc phục theo hành vi, vì vậy, thường rất linh hoạt để phù hợp với từng điều
kiện, hoàn cảnh thị trường cũng như đặc thù trong hoạt động kinh doanh của từng doanh
nghiệp.
Trên thực tiễn, pháp luật cạnh tranh của nhiều nước không quy định quá chi tiết, cụ
thể về các biện pháp khắc phục hậu quả mà đòi hỏi cơ quan cạnh tranh phải xem xét, đánh
giá và quyết định về biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng vụ việc, từng ngành. Ví
dụ: Luật chống độc quyền Nhật Bản quy định cơ quan cạnh tranh có quyền yêu cầu doanh
nghiệp vi phạm thực hiện các biện pháp cần thiết để loại trừ những hành vi vi phạm.
Chính vì vậy, các cơ quan cạnh tranh quốc tế đều có chung quan điểm cho rằng việc thiết
kế được biện pháp khắc phục hậu quả phù hợp, hiệu quả là một nội dung điều tra không
kém phần quan trọng so với điều tra xác định vị trí thống lĩnh và hành vi lạm dụng. Trong
tương lai, để luật cạnh tranh thực sự phát huy hiệu quả, Việt Nam cần nghiên cứu, điều
chỉnh cách tiếp cận về biện pháp khắc phục hậu quả theo hướng điều chỉnh tác động của
hành vi thay vì điều chỉnh trực tiếp các biểu hiện bên ngoài của hành vi như hiện nay.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
82
PHẦN 3: KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ
KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH/ĐỘC QUYỀN
I. Thay đổi cách thực xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền
Trên cơ sở những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn hơn 6 năm thực thi pháp luật
cạnh tranh Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường/độc quyền
đã cho thấy nhu cầu cấp thiết phải thay đổi cách thức xác định vị trí thống lĩnh/độc quyền
hiện nay. Việc sửa đổi có thể được thực hiện theo hướng như sau:
Thứ nhất, xóa bỏ cách thức đánh giá vị trí thống lĩnh/sức mạnh thị trường phụ thuộc
vào tiêu chí thị phần, theo các mức thị phần cố định như hiện nay.
Thứ hai, sửa đổi cụm từ ―Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể‖ thành
―Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường liên quan‖ và xây
dựng các quy định về ―Khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường
liên quan‖ thành hệ thống tiêu chí duy nhất để đánh giá vị trí thống lĩnh/ sức mạnh thị
trường đáng kể của doanh nghiệp.
Việc xây dựng hệ thống các tiêu chí giúp đánh giá vị trí thống lĩnh/ sức mạnh thị
trường đảng kể của doanh nghiệp (hoặc nhóm doanh nghiệp) cần thiết được cân nhắc kỹ
lưỡng trên cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn kinh doanh tại Việt Nam. Dưới
đây là một số tiêu chí phổ biến (không phải tất cả các tiêu chí được sử dụng hiện nay) mà
cơ quan cạnh tranh Việt Nam có thể tham khảo nhằm xác định vị trí thống lĩnh/ sức mạnh
thị trường đáng kể của doanh nghiệp:
(1) Thị phần
Trước tiên, cơ quan cạnh tranh cần dữ liệu thị phần hiện tại của doanh nghiệp nghi
vấn cũng như các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp này. Về cơ bản, thị phần thường
được tính toán dựa trên doanh thu hoặc số lượng hàng bán ra, hoặc năng lực sản xuất của
doanh nghiệp. Một yếu tố khác cũng cần xem xét là sự phân bổ thị phần trên thị trường.
Phân bổ thị phần bất đối xứng (VD: một công ty chiếm 50% thị phần và 3 công ty còn lại
mỗi công ty chiếm 10% thị phần) sẽ dễ tạo ra sức mạnh thị trường cho doanh nghiệp lớn
hơn là khi thị phần được chia đều (mỗi công ty chiếm 20% thị phần). Bên cạnh đó, những
thay đổi về thị phần trong quá khứ có thể cung cấp thông tin hữu ích về quá trình cạnh
tranh, cũng như khả năng vận động của thị trường giữa các đối thủ cạnh tranh thông qua
mức độ tăng, giảm thị phần.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
83
Tuy nhiên, thị phần không chỉ là yếu tố duy nhất giúp xác định tình hình cạnh tranh
trên thị trường. Vì thế, cần phân tích thêm các yếu tố khác để đánh giá cụ thể, chính xác vị
trí thống lĩnh/sức mạnh thị trường của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp.
(2) Rào cản gia nhập và mở rộng sản xuất
Sức mạnh thị trường lớn chỉ có được khi khả năng mở rộng sản xuất hoặc gia nhập
thị trường khó khăn, và khi đó, doanh nghiệp sẽ có thể duy trì hành động đơn phương
trong khoảng thời gian tương đối. Tuy nhiên, cơ quan cạnh tranh cũng không nhất thiết
phải tìm chứng cứ về rào cản mở rộng hoặc gia nhập thị trường trong lĩnh vực thường
xuyên có sự gia nhập mới các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu nỗ lực nhằm mở rộng
hoặc gia nhập không thành công, có thể do hành vi ngăn cản, thì việc mở rộng hoặc gia
nhập ít có khả năng gây ra hạn chế cạnh tranh.
Khả năng gia nhập hoặc mở rộng thị trường có thể được đánh giá theo một số tiêu
chí như: Lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp, các rào cản về cấu trúc, chính sách, chiến
lược, công nghệ, thời điểm gia nhập và mở rộng thị trường, hiệu quả của việc gia nhập và
mở rộng thị trường v.v…
(3) Rào cản rút lui khỏi thị trường
Rủi ro khi mở rộng hoặc gia nhập thị trường cũng phụ thuộc vào chi phí mà doanh
nghiệp phải chấp nhận khi việc mở rộng hoặc gia nhập mới không thành công. Những chi
phí đó thường là kết quả của những đầu tư vào thị trường cụ thể. Việc đầu tư vào một thị
trường cụ thể không thể không phục vụ và sử dụng cho một thị trường khác nếu công ty
đó muốn rút lui khỏi thị trường đó (thường được gọi là ―chi phí chìm‖). Vì vậy, chi phí
chìm thấp sẽ làm tăng rủi ro của việc mở rộng hoặc gia nhập thị trường mới, và ngược lại,
chi phí chìm cao sẽ ngăn ngừa được rủi ro này tốt hơn. Chi phí chìm cao, lợi nhuận cận
biên kỳ vọng sẽ cao hơn và thu hút việc gia nhập và mở rộng thị trường.
(4) Sức mạnh của người mua
Vị trí của người mua trên thị trường cung cấp dấu hiệu về khả năng họ có thể hạn
chế hành vi lạm dụng của doanh nghiệp. Người mua có sức mạnh lớn có thể tận dụng khả
năng thương lượng để thúc đẩy cạnh tranh giữa các nhà cung cấp và phá vỡ những hành
động hợp tác của nhóm doanh nghiệp, gián tiếp đe dọa bằng cách chuyển đơn hàng đến
nhà cung ứng khác, xây dựng mạng lưới cung ứng mới, hoặc đe dọa sẽ thiết lập mạng lưới
tự cung ứng cấp trên.
(5) Độ co giãn về cầu
Độ co giãn về cầu mà doanh nghiệp phải đối mặt tác động đến khả năng tăng giá sản
phẩm của công ty đó, sau khi tính toán đến phản ứng về cầu của khách hàng và các nhà
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
84
cung cấp trước sự tăng giá của đối thủ cạnh tranh. Một doanh nghiệp sẽ có độ co giãn về
cầu cao hơn trong trường hợp các đổi thủ cạnh tranh có phản ứng ―hiệu quả‖ thông qua
việc tăng sản lượng đầu ra. Ngược lại, độ co giãn về cầu thấp sẽ cho thấy doanh nghiệp đó
có sức mạnh thị trường cao hơn.
(6) Khả năng sinh lợi nhuận
Một cách tiếp cận khác có ích trong một số trường hợp cụ thể nhằm xác định liệu
năng lực hoạt động của doanh nghiệp (khả năng sinh lợi nhuận) đồng nhất với quan ngại
rằng doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đáng kể hay không. Phương pháp đánh giá vị
thế của doanh nghiệp dựa vào khả năng sinh lợi nhuận có thể mang lại kết quả chính xác
trong trường hợp các số liệu thu thập được có liên quan và đáng tin cậy. Tỷ suất lợi nhuận
cao sẽ chỉ ra bằng chứng về sức mạnh thị trường đáng kể của doanh nghiệp và có thể được
sử dụng làm bằng chứng cho các vụ việc về hạn chế cạnh tranh.
Trong sáu tiêu chí trên, cũng như tất cả tiêu chí khác, không có tiêu chí đơn lẻ nào
cho phép khẳng định doanh nghiệp nắm giữ vị trí thống lĩnh/độc quyền, nhưng nếu nhiều
tiêu chí, nhiều dấu hiệu cùng kết hợp lại thì có thể cho phép khẳng định điều đó.
Ngoài ra, các tiêu chí cần được quy định theo hướng mở, tránh quá bó hẹp để cơ
quan cạnh tranh có thể đưa ra đánh giá, nhận định phù hợp trong các trường hợp cụ thể.
II. Xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng
Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành mới chỉ đưa ra định nghĩa hành
vi hạn chế cạnh tranh, vị trí thống lĩnh/độc quyền mà chưa có định nghĩa hoặc các tiêu chí
chung nhất để xác định như thế nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền. Thiếu
sót này khiến doanh nghiệp không hiểu được bản chất của hành vi để tránh; đồng thời có
thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong nội bộ các cơ quan cạnh tranh, từ đó dẫn tới
thiếu định hướng, thậm chí nhầm lẫn trong quá trình thực thi. Việc thiếu một định nghĩa
chung hoặc các tiêu chí đó đồng thời dẫn tới việc phân nhóm, liệt kê các hành vi chưa rõ
ràng và chưa hợp lý.
Ngoài ra, các quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/ độc quyền chưa bao
quát được toàn điện các hành vi lạm dụng gây tác động hạn chế cạnh tranh. Lý do như
sau: Luật Cạnh tranh hiện hành định nghĩa hành vi lạm dụng bằng cách liệt kê một số
lượng hạn chế các hành vi lạm dụng tiêu biểu. Trong khi đó, kinh nghiệm 6 năm thực thi
các quy định này cho thấy, cơ quan cạnh tranh đã phải đối mặt với nhiều vụ việc mà hành
vi bị điều tra cũng có tác động hạn chế cạnh tranh giống với những hành vi được Luật liệt
kê. Tuy nhiên, do các hành vi đó không được liệt kê và giải thích trong Luật hiện hành,
nên cơ quan cạnh tranh không thể sử dụng Luật Cạnh tranh để xử lý các hành vi đó.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
85
Do vậy, cần thiết phải xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh/ độc quyền, đồng thời phải có quy định bao quát các hành vi lạm dụng có tác
động hạn chế cạnh tranh có thể xảy ra. Trong thời gian tới, quy định của Luật Cạnh tranh
về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền có thể được sửa đổi theo hướng sau:
- Xây dựng các tiêu chí cơ bản nhằm xác định hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh/độc quyền;
- Liệt kê một số dạng hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền cơ bản căn
cứ theo các tiêu chí như trên;
- Đưa ra một điều khoản quét (basket clause) để bao quát các hành vi có bản
chất tương tự.
Mặt khác, như đã trình bày tại Phần 2, cùng với việc thay đổi đổi cách thức xác định
vị trí thống lĩnh/độc quyền như đã nêu tại mục 1, các quy định giải thích cụ thể về hành vi
lạm dụng vị trí thị trường cũng phải được bãi bỏ.
III. Thay đổi cách thức phân loại nhóm hành vi và quy định cấm
Hiện nay, Luật Cạnh tranh Việt Nam đang phân loại các hành vi lạm dụng thành hai
nhóm, gồm: hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và lạm dụng vị trí độc quyền; và tất cả
hành vi đó đều bị nghiêm cấm trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, việc phân loại nhóm
hành vi và áp dụng nguyên tắc vi phạm mặc nhiên (per se illegal) đối với mọi trường hợp
như trên chưa thực sự phù hợp (như đã phân tích tại mục 3, Chương II). Do vậy, Luật
Cạnh tranh cần thiết được sửa đổi theo hướng:
Phân loại, nhóm hành vi theo bản chất, tác động của hành vi;
Không nên cấm tuyệt đối mọi hành vi, trong mọi trường hợp mà nên trao quyền cho
cơ quan cạnh tranh trong việc đánh giá bản chất và tác động của hành vi để đưa ra quyết
định hợp lý.
Về vấn đề này, pháp luật cạnh tranh trên thế giới cũng có những quan điểm, cách
đánh giá khác nhau. Cụ thể:
Pháp luật cạnh tranh của trên thế giới có nhiều cách phân loại các hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh/độc quyền khác nhau, nhưng không nằm ngoài mục tiêu phản ánh chính
xác bản chất hành vi, từ đó quyết định có nên cấm tuyệt đối hành vi hay không. Nhìn
chung, pháp luật cạnh tranh thường có thái độ khác nhau đối với hai nhóm hành vi: (i)
nghiêm cấm đối với hành vi Ấn định giá bán lại (Resale Price Maintenance- RPM), (ii)
các hành vi lạm dụng khác không liên quan đến giá có thể được xem xét, cân nhắc giữa
những tác động tích cực và tiêu cực của hành vi.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
86
Ấn định giá bán lại là việc một nhà sản xuất/cung cấp thỏa thuận với các nhà phân
phối/bán lẻ nhằm kiểm soát mức giá của sản phẩm mà các nhà phân phối/bán lẻ bán lại
cho khách hàng sau khi mua sản phẩm đó từ nhà sản xuất/cung cấp. Ấn định giá bán lại có
thể diễn ra dưới ba dạng cơ bản, đó là: ấn định giá bán lại cố định (fixed RPM), ấn định
giá bán lại tối đa (maximum RPM), và ấn định giá bán lại tối thiểu (minimum RPM). Lần
lượt theo các hình thức ấn định giá bán lại này, các nhà PP-BL chỉ được phép bán lại sản
phẩm cho khách hàng theo một mức giá (i) cụ thể không đổi, hoặc (ii) không cao hơn hay
(iii) không thấp hơn một mức giá xác định mà nhà sản xuất/cung cấp đã ấn định. Ấn định
giá bán lại liên quan đến hai nhóm chủ thể kinh doanh hoạt động trên hai giai đoạn khác
nhau của một chu trình kinh doanh: giai đoạn sản xuất/cung cấp và giai đoạn phân
phối/bán lẻ. Do đó, dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, hành vi ấn định giá bán lại còn được
gọi là ấn định giá theo chiều dọc (vertical price fixing) để phân biệt với hành vi ấn định
giá theo chiều ngang (horizontal price fixing)-tức thỏa thuận ấn định giá giữa các đối thủ
cạnh tranh, cùng hoạt động trên cùng một giai đoạn của một chu trình kinh doanh.
Tuy nhiên, EU và Hoa Kỳ lại có cách nhìn nhận khác nhau về hành vi ấn định giá
bán lại, và do đó cũng có xử lý khác nhau đối với hành vi này. Cụ thể:
Về lý thuyết, Ủy ban Châu Âu cho rằng ấn định giá bán lại có hai ảnh hưởng tiêu
cực tới cạnh tranh: (i) làm giảm cạnh tranh về giá của một nhãn hiệu sản phẩm, và (ii) làm
gia tăng sự minh bạch về giá theo chiều hướng xấu cho cạnh tranh. Thứ nhất, trong trường
hợp ấn định giá bán lại cố định hay ấn định giá bán lại tối đa, các nhà phân phối/bán lẻ
không còn cạnh tranh với nhau về giá của nhãn hiệu sản phẩm liên quan. Điều này dẫn
đến việc triệt tiêu cạnh tranh về giá của nhãn hiệu sản phẩm đó. Trong khi đó, ấn định giá
bán lại tối đa hay đề xuất giá bán lại là một tiêu điểm, qua đó ít hay nhiều có thể dẫn đến
việc thống nhất giá bán lại tại mức giá tối đa hay mức giá đề xuất đó. Thứ hai, khi giá bán
lại và sự thay đổi giá bán lại được công khai như vậy sẽ khiến cho việc thỏa thuận ngầm
theo chiều ngang giữa các nhà sản xuất/cung cấp hay giữa các nhà phân phối/bán lẻ dễ
dàng hơn, ít nhất là trên thị trường có ít đối thủ cạnh tranh. Qua đó, việc giảm cạnh tranh
đối với một nhãn hiệu sản phẩm có thể gián tiếp dẫn đến việc giảm cạnh tranh giữa các
sản phẩm có khả năng thay thế nhau. 14
Tuy nhiên, trong xu thế đề cao việc bảo vệ cạnh tranh giữa các sản phẩm có khả
năng thay thế nhau hơn là việc bảo vệ cạnh tranh trong một nhãn hiệu sản phẩm nhất định
14
Xem European Commission Guidelines on Vertical Restraints, OJ 2000 C291/1, đoạn 111-112.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
87
của pháp luật cạnh tranh hiện đại, Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã lần lượt hủy bỏ phán quyết
Albrecht và Dr. Miles bằng phán quyết Khan 15
và Leegin16
vào năm 1997 và 2007. Theo
đó, hành vi ấn định giá bán lại tối đa và ấn định giá bán lại tối thiểu không còn bị coi là vi
phạm mặc nhiên Đạo luật Sherman. Để khẳng định chúng có vi phạm hay không, các
hành vi này phải được xem xét theo nguyên tắc lập luận hợp lý (rule of reason), tức phải
đánh giá các yếu tố liên quan đến các hạn chế cạnh tranh này, cân bằng giữa các lợi ích
thúc đẩy cạnh tranh và các ảnh hưởng tiêu cực hạn chế cạnh tranh mà các hạn chế cạnh
tranh đó mang lại để xem về bản chất chúng có tác dụng thực sự khuyến khích cạnh tranh
hay ngăn cản cạnh tranh.17
.
IV. Sửa đổi, bổ sung quy định về biện pháp xử lý vi phạm
- Về hệ thống các hình thức xử lý vi phạm:
Pháp luật cạnh tranh hiện hành quy định 03 nhóm biện pháp xử lý vi phạm đối với
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền, gồm: hình phạt chính (phạt tiền), hình phạt
bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả. Các phân loại này là tương tự như nhiều ngành
luật khác. Tuy nhiên, đối với pháp luật cạnh tranh việc phân biệt hình phạt bổ sung và
biện pháp khắc phục hậu quả như trên là không cần thiết. Vì vậy, có thể rút gọn hệ thống
các hình thức xử lý vi phạm đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh/độc quyền chỉ gồm
2 nhóm hình thức xử phạt là: hình phạt chính (phạt tiền) và biện pháp khắc phục hậu quả.
Trong đó, hình phạt chính được áp dụng đối với mọi trường hợp cơ quan cạnh tranh quyết
định xử lý vi phạm; biện pháp khắc phục hậu quả chỉ được áp dụng trong trường hợp cần
thiết, do cơ quan cạnh tranh quyết định.
Đồng thời, pháp luật cạnh tranh nên có các quy định cụ thể hơn về việc xử lý vi
phạm đối hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền. Trong
đó, Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành cần khẳng định một cách thống
nhất: hình phạt chính áp dụng cho nhóm hành vi này chỉ là phạt tiền, và không áp dụng
biện pháp phạt cảnh cáo.
- Đối với hình phạt chính (phạt tiền):
Mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm nên được xác định trên doanh thu của doanh
nghiệp trên thị trường liên quan của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
292
1.4 Bổ nhiệm lãnh đạo
1.4.1 Ban Lãnh đạo
Tên Thông tin liên quan (Chức vụ trƣớc đây)
Chủ tịch Rod Sims Chủ tịch Tòa án điều tiết giá độc lập của New
South Wales, Ủy Viên Hội đồng Cạnh tranh
quốc gia…
Phó Chủ
tịch
Michael Schaper
Ủy viên phụ trách vấn đề vốn cho khu vực
doanh nghiệp nhỏ
Thành
viên
Sarah Court Luật sư cao cấp, Giám đốc Trung tâm tư vấn
Luật chính phủ
Joe Dimasi Trưởng Bộ phần điều hành của ACCC
Jill Walker Thành viên của Tòa án cạnh tranh Úc
Edward Willett Giám đốc điều hành Hội đồng Cạnh tranh quốc
gia
1.4.2 Quy trình bổ nhiệm lãnh đạo cấp cao
Ban lãnh đạo của ACCC bao gồm 7 thành viên, trong đó có 01 chủ tịch và 02 phó
chủ tịch. Thành viên Ban lãnh đạo do Người đứng đầu cơ quan Nhà nước bổ nhiệm có
nhiệm kỳ 05 năm. Quyết định bổ nhiệm được tiến hành khi dựa trên đa số phiếu bầu ủng
hộ của các cơ quan lập pháp lãnh thổ và bang ở nước đó.
1.5 Cơ sở pháp lý đảm bảo tính độc lập của Cơ quan cạnh tranh
ACCC là cơ quan thuộc chính phủ chịu trách nhiệm thi hành Luật Thương mại và
các luật liên quan khác, nhưng là cơ quan hoạt động độc lập với Chính phủ.
ACCC được phép áp dụng Luật Thương mại một cách tự chủ để bảo đảm sự nhất
quán trong quá trình thực thi.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
293
Bên cạnh thực thi Luật, ACCC cung cấp thông tin cũng như đào tạo cho doanh
nghiệp và người tiêu dùng về những bộ Luật cơ quan này đang áp dụng.
1.6 Cơ cấu tổ chức
Đơn vị cấp dưới Ủy ban là Ban thư ký, đứng đầu là Trưởng Ban thư ký (CEO)
Ban thư ký có 03 bộ phận: (i) Bộ phận thực thi Luật; (ii) Bộ phận hợp tác và (iii) Bộ
phận điều hành chung
Trong Bộ phận thực thi có Nhóm tổ chức thực thi, Nhóm phổ biến Luật và Nhóm
Sản phẩm an toàn.
1.7 Chức năng
ACCC có những chức năng sau:
1. Đẩy mạnh khuyến khích quá trình cạnh tranh nhưng vẫn tuân thủ luật
2. Đảm bảo kinh doanh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và an toàn sản
phẩm
3. Quản lý lĩnh vực cơ sở hạ tầng ưuốc gia cũng như các lĩnh vực được cho là cạnh
tranh bị hạn chế
2. Thực thi Luật
2.1 Văn bản Luật: Luật cạnh tranh và Bảo vệ ngƣời tiêu dùng (tiền thân là
Luật Thƣơng mại) và các luật khác
2.2. Lĩnh vực thực thi
Thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh (Cartel)
(Bao gồm Quy định
miễn trừ)
Ấn định giá, hạn chế đầu ra, thông đồng đấu thầu, phân chia
khách hàng, nguồn cung và thị trường; tẩy chay vv (Điều 45
vv)
Lạm dụng vị trí thống
lĩnh
Lạm dụng sức mạnh thị trường (Điều 46)
Thỏa thuận độc quyền (Điều 47)
Duy trì giá bán lại tối thiểu (Điều 48)
Mua bán và sáp nhập Hoạt động mua bán và sáp nhập nếu gây ảnh hưởng xấu đến
quá trình cạnh tranh sẽ bị cấm (Điều 50, phần 50A)
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
294
3. Quyền hạn thực thi luật
3.1 Hành chính (dân sự)
3.1.1 Quyền tiến hành điều tra vụ việc
ACCC thu thập thông tin liên quan đến hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh và bảo vệ
người tiêu dùng thông qua khiếu nại của người tiêu dùng, báo chí, nội bộ ACCC và các
cơ quan khác.
Trung tâm tiếp nhận thông tin sẽ trả lời tất cả những khiếu nại cũng như thắc mắc
liên quan đến cạnh tranh và người tiêu dùng.
Quy định về trường hợp miễn trừ
ACCC có thể cho cá nhân hoặc doanh nghiệp hưởng chính sách khoan hồng nếu cá
nhân và doanh nghiệp là thành viên của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tự giác khai báo về
hoạt động thỏa thuận sớm nhất và tại thời điểm ACCC chưa có thông tin đầy đủ về vụ
việc để tiến hành mở điều tra.
Chính sách khoan hồng của ACCC đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
được áp dụng từ năm 2005, thay thế cho chính sách miễn trừ trước đó.
3.1.2. Quyền tiến hành điều tra
ACCC có thể yêu cầu đối tượng liên quan:
(1) Cung cấp đúng thời hạn cho cơ quan điều tra bằng văn bản thông tin cần thiết
theo đúng mẫu mà cơ quan điều tra yêu cầu;
(2) Chỉ định đại diện của công ty đến làm việc với ACCC dựa trên yêu cầu cụ thể
của ACCC
(3) Có mặt tại địa điểm được quy định rõ trong thông báo cung cấp thông tin, bằng
chứng theo hình thức phỏng vấn hoặc nộp văn bản tùy theo yêu cầu của ACCC
3.1.3. Quyền ra quyết định
Quyết định của ACCC được đưa ra thông qua các buổi họp chính thức giữa các Ủy
viên. Chỉ có Ủy ban mới có quyền tiến hành quyết định của tòa án về việc thông qua hoặc
cho phép các hành vi phản cạnh tranh xét đến lợi ích công chúng.
Để thực thi các điều khoản liên quan đến phản cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh,
ACCC có thể tiến hành:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
295
- Tuyên bố hành vi cụ thể nào vi phạm Luật Cạnh tranh
- Phán quyết của Tòa án để ngăn chặn những hành vi bị cấm hoặc yêu cầu thực hiện
một số
- Xác định thiệt hại
- Bằng chứng
- Phạt lao động công ích
- Phạt án treo
- Phạt chính thức
- Xin lỗi công khai
- Thông báo công khai về hành vi vi phạm liên quan đến phản cạnh tranh
- Phạt tiền có thể lên đến 10 triệu đô la, gấp ba lần so với lợi nhuận do hành vi vi
phạm mang lại; hoặc chiếm khoảng 10% doanh thu hàng năm của doanh nghiệp vi phạm
trong trường hợp là phạt công ty; và khoảng 500.000 đô la trong trường hợp phạt cá nhân.
( Cho phép và thông báo)
ACCC có thể miễn giảm các quyết định của tòa án theo Bộ luật thương mại đối với
một số hành vi phản cạnh tranh nhất định nếu như hành vi này phục vụ cho lợi ích cộng
đồng. Quá trình xét xử này được xem như một phần quan trọng và đặc biệt về chức năng
của ACCC.
Các doanh nghiệp được hưởng miễn giảm thông qua hai công đoạn công khai và
minh bạch bao gồm ―cho phép‖ và ―thông báo‖
Quá trình cho phép sẽ bảo vệ doanh nghiệp trước những quyết định của tòa án liên
quan đến hành vi vi phạm luật cạnh tranh (ngoại trừ vi phạm liên quan đến lạm dụng sức
mạnh thị trường hoặc sáp nhập theo s.50). ACCC có quyền cho phép doanh nghiệp tham
gia vào hoạt động phản cạnh tranh nếu xét thấy lợi ích công chúng từ hoạt động này lớn
hơn những thiệt hại cho cộng đồng hoặc có thể mang lại những lợi ích xứng đáng được
cho phép thực hiện
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
296
Quá trình thông báo bảo vệ doanh nghiệp trước quyết định của toàn án về hành vi vi
phạm có thể xảy ra liên quan những điều khoản về mua bán độc quyền của Luật nêu trên
và liên quan đến những thỏa thuận mua bán tập thể của các doanh nghiệp nhỏ.
3.2. Hình sự
Liên quan đến vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các quy định liên quan đến vi
phạm hình sự được giới thiệu tháng 7 năm 2009.
Được bảo đảm bởi tòa án, cán bộ điều tra của ACCC có thể đến các doanh nghiệp
tìm kiếm hồ sơ và bằng chứng vv
ACCC sau đó sẽ chuyển giao những vi phạm hình sự liên quan đến thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh cho Giám đốc bộ phận khởi tố dân sự của Khối thịnh vượng chung đối với
những trường hợp khởi tố hình sự nhất định.
3.3 Sáp nhập và Mua lại
3.3.1 Thông báo trƣớc khi sáp nhập
ACCC không yêu cầu thông báo trước khi tiến hành sáp nhập. Tuy nhiên, thay vào
đó các bên có thể thảo luận không chính thức với ACCC để tham khảo ý kiến và cho phép
chính thức, sau đó nhận được sự thông qua của Tòa án Cạnh tranh
3.3.2 Hiệu lực của việc ra quyết định
Liên quan đến quyết định cho phép chính thức của ACCC, Luật Thương mại Úc quy
định rằng ACCC sẽ phải đưa ra quyết định liên quan đến cho phép tiến hành sáp nhập
trong vòng 40 ngày làm việc sau khi nhận được hồ sơ chính thức. Nếu quyết định không
được đưa ra trong khoảng thời gian đó có nghĩa rằng hồ sơ đã bị từ chối.
Thời gian đối với quá trình ra quyết định của ACCC có thể được gia hạn nếu như
bên nộp hồ sơ chấp thuận để ACCC sử dụng thêm một khoản thời gian nhất định để đánh
giá và đưa ra quyết định đối với bộ hồ sơ đó.
3.4 Số liệu liên quan đến quá trình thực thi Luật Cạnh tranh
3.4.1 Số lƣợng quyết định/ vụ việc
3.4.1.1 Hành chính (dân sự)
2008 2009 2010
15 9 8
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
297
3.4.1.2 Hình sự
Không có
3.4.1.3 Sáp nhập và Mua bán
2009 2010
Phản đối công khai 1 8
Tòa án giải quyết 3 4
Không phản đối 5 5
3.2.2 Lƣợng phạt (đơn vị: AUD)
2009 2010
41,549,000 22,510,000
4. Thẩm quyền hoạch định chính sách
(1) Bên cạnh những công việc nêu trên của ACCC, ACCC còn thực hiện một số
chức năng sau:
(a) cung cấp cho các chủ thể tham gia vào hoạt động thương mại và các chủ thể có
nhu cầu khác thông tin liên quan đến hoạt động, chức năng, thẩm quyền của ACCC, theo
như Bộ luật nêu trên;
(b) Kiểm tra chặt chẽ và báo cáo lại cho Bộ trưởng phụ trách về các bộ luật đang
thực thi ở Úc liên quan đến lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng phù hợp với quyền hạn và
chức năng của ACCC do Chính phủ quy định;
(c) Tiến hành nghiên cứu các vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng phù
hợp với quyền hạn và chức năng của ACCC do Chính phủ quy định;
(d) Tiến hành nghiên cứu các vụ việc do Hội Đồng giao cho có liên quan đến chức
năng của ACCC
(e) Cung cấp thông tin chung cho công chúng về các vấn đề ảnh hưởng đến lợi ích
của người tiêu dùng;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
298
(f) Cung cấp hướng dẫn cho người tiêu dùng về quyền và nghĩa vụ của những người
được bổ nhiệm công việc bảo vệ người tiêu dùng
(2) Khi một vấn đề nêu trong đoạn (1)(b) do Bộ trưởng phụ trách chuyển đến ACCC
để kiểm định và báo cáo:
(a) ACCC sẽ đăng Công báo và các tờ báo liên quan các thông tin phù hợp như sau:
(-) chỉ rõ thông tin được đưa ra và xác định rõ vấn đề liên quan đến thông tin đó; và
(-) mời các bên có lên quan cho biết ý kiến về vấn đề đó và chỉ rõ thời gian cũng
như cách thức thu thập những ý kiến đó;
(b) ACCC chỉ nên xin ý kiến của các nhân liên quan về một vấn đề cụ thể khi có lý
do chính đáng, từ đó mới xây dựng báo cáo gửi đến Bộ trưởng vụ trách;
(c ) ACCC có thể cho vào báo cáo nêu trên kiến nghị về sửa đổi Luật liên quan đến
vấn đề được đăng tin ở trên ; xác định rõ những kiến nghị góp phần sửa đổi Luật hiện tại
hay xây dựng Luật mới.
(3) Bộ trưởng phụ trách sau khi nhận được báo cáo liên quan đến vấn đề ở phần
(1)(b) từ phía Ủy ban sẽ tiến hành gửi một bản copy đến Nghị viện để được thông qua và
phát huy hiệu lực trong thời gian sớm nhất.
5. Quy trình xử lý vụ việc
5.1 Quy trình điều tra
5.2 Quy trình ra quyết định
- Được đề cập ở điều 3.1 và 3.3 ở trên
5.3 Kháng án
ACCC và bị cáo sẽ tiến hành kháng cáo Quyết định của Tòa án liên quan đến các vụ
việc cạnh tranh đến Tòa án cao hơn và Tòa án tối cao trong một khoảng thời gian nhất
định được quy định trong Luật.
V. Cục Cạnh tranh Canada
1. Thông tin chung
1.1. Tên gọi:
Cục cạnh tranh Canada
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
299
1.2. Tóm tắt lịch sử hình thành
1889 Luật ngăn chặn và phòng ngừa các hình thức liên kết trong hạn chế thương
mại được ban hành
1892 Luật ngăn chặn và phòng ngừa các hình thức liên kết trong hạn chế thương
mại kết hợp Bộ luật Hình sự được ban hành.
1910 Luật phối hợp điều tra được ban hành.
1923 Luật phối hợp điều tra mới được ban hành.
1952 Sửa đổi Luật điều tra phối hợp.
1986 Luật cạnh tranh được ban hành. Luật Tòa án cạnh tranh được ban hành.
1.3.Nguồn lực
1.3.1. Số lƣợng nhân viên
2004 2005 2006 2007 2008
440 440 453 447 435
1.3.2. Ngân sách
(CAD)
2007 2008
40,300,000 47,100,000
1.4. Bổ nhiệm ngƣời đứng đầu cơ quan
1.4.1. Danh sách lãnh đạo
Cục trưởng Cục cạnh tranh hiện tại là bà Melanie Aitken. Bà giữ chức Cục
trưởng tạm thời từ tháng 12 năm 2008 và chính thức được bổ nhiệm tháng 5 năm 2009.
Cục trưởng chịu trách nhiệm quản lý và thực thi Luật Cạnh tranh và ba Đạo luật ghi
nhãn gồm Luật đóng gói và nhãn mác tiêu dùng, Luật nhãn mác kim loại quý và Luật
nhãn hiệu hàng dệt may.
Melanie L. Aitken — Cục trưởng Cục cạnh tranh;
Paul Collins — Phó cục trưởng phụ trách các vấn đề Sáp nhập;
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
300
John Pecman — Phó cục trưởng phụ trách các vấn đề hình sự;
Lisa Campell — Phó cục trưởng phụ trách các vấn đề thương mại lành mạnh
Douglas Clark — Quyền Phó cục trưởng phụ trách các vấn đề Dân sự;
Lise Davey — Phó cục trưởng cạnh tranh phụ trách chấp hành và thực thi;
Alan Gunderson — Quyền Trưởng phòng các vấn đề Kinh tế;
Pierre Leduc — Phó cục trưởng các vấn đề công vụ;
Mollie Johnson - Phó cục trưởng cạnh tranh các vấn đề lập pháp và vụ viêc quốc tế
Vicky Eatrides — Phó cục trưởng cạnh tranh Văn Phòng Ủy Viên
1.4.2. Thủ tục bổ nhiệm lãnh đạo cơ quan
Bộ trưởng Công nghiệp bổ nhiệm Cục trưởng Cục cạnh tranh
1.5. Căn cứ bảo đảm tính độc lập của Cơ quan cạnh tranh
Theo Luật Cạnh tranh, Cục trưởng có thể ra quyết định điều tra các vấn đề dân sự và
sáp nhập trước khi Tòa án cạnh tranh xét xử, đưa ra các kiến nghị tới Bộ trưởng Tư pháp
Canada về các vấn đề hình sự, đồng thời cũng là tham gia tranh tụng trước tòa liên bang
và bang như là một luật sư về cạnh tranh.
1.6. Cơ cấu tổ chức
Cục cạnh tranh Canada có bảy văn phòng đại diện tại Halifax, Montreal, Toronto,
Hamiltion, Winnipeg, Calgary và Vancouver.
Cơ quan có tám phòng chuyên môn:
Phòng các vấn đề dân sự xem xét hành vi phản cạnh tranh như: lạm dụng vị trí
thống lĩnh; nhà sản xuất khống chế người tiêu dùng như: từ chối cung cấp hàng hóa, độc
quyền kinh doanh và bán hàng kèm điều kiện khắt khe.
Phòng chấp hành và thực thi giám sát việc tuân thủ hoạt động của Cục, chương
trình đào tạo và dịch vụ khách hàng. Phòng cũng quản lý Trung tâm thông tin và kế hoạch
của Cục, quản lý nguồn lực, điều hành, thông tin hoạt động.
Phòng các vấn đề hình sự điều hành và thực thi các quy định hình sự theo Luật
cạnh tranh, bao gồm các hành vi làm giảm cạnh tranh (như ấn định giá) và thông đồng
đấu thầu, phân biệt giá, định giá hủy diệt và duy trì giá. Phòng hình sự tiến hành các hoạt
động thực thi thông qua các văn phòng khu vực tại Ottawa và một số thành phố khác.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
301
Phòng chính sách và thực thi kinh tế cung cấp tư vấn, chuyên môn kinh tế cũng
như hỗ trợ thực thi cho trưởng bộ phận kinh tế của Cục và các phòng khác của Cục.
Phòng quan hệ đối ngoại và công vụ gồm Ban truyền thông và các vấn đề quốc tế,
nâng cao lợi ích của Cục trong hợp tác quốc tế, đàm phán và phát triển chính sách. Đảm
bảo người tiêu dùng Canada, các doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế đều nhận thức được
sự đóng góp quan trọng của Văn phòng tới cạnh tranh trên thị trường và sự phát triển của
nền kinh tế Canada.
Phòng Thƣơng mại lành mạnh điều hành và thực thi các quy định về hành vi chỉ
dẫn nhầm lẫn và tiếp thị gian dối theo Luật cạnh tranh. Ngoài ra, Phòng còn giải quyết các
vụ việc liên quan đến tiếp thị lừa đảo qua điện thoại, kế hoạch tiếp thị bán hàng đa cấp và
mô hình bán hàng kim tự tháp, chỉ dẫn sai lệch hoặc gây nhầm lẫn, khiếu nại về mức giá
thông thường bị sai hoặc nhầm lẫn, các chương trình khuyến mại mà trong đó không thực
hiện đầy đủ các quy định đã đặt ra. Phòng cũng điều hành và thực thực Luật đóng gói và
dán nhãn sản phẩm, Luật nhãn mác kim loại quý và Luật nhãn hiệu hàng dệt may, gọi
chung là các đạo luật về tiêu chuẩn. Phòng thực hiện các điều tra thông qua trụ sở tại
Ottawa và các văn phòng đại diện của Cục.
Phòng các vấn đề luật pháp và quốc hội chịu trách nhiệm xem xét, sửa đổi Luật
cạnh tranh hiện hành, quản lý, phối hợp trong quá trình làm luật của Quốc hội, hỗ trợ các
vấn đề về chính sách và tuyên truyền.
Phòng sáp nhập xem xét các giao dịch sáp nhập để đánh giá liệu các sáp nhập tiềm
năng có thể ngăn chặn hay làm giảm cạnh tranh trên thị trường hay không.
2. Thực thi Luật
Cục cạnh tranh chịu trách nhiệm quản lý và thực thi Luật cạnh tranh, Luật đóng gói
và dán nhãn (sản phẩm không phải là thực phẩm), Luật nhãn hiệu hàng dệt may và Luật
nhãn mác kim loại quý.
2.1.Luật cạnh tranh
Luật cạnh tranh là đạo luật liên bang giám sát hầu hết các hoạt động kinh doanh tại
Canada. Luật bao gồm các quy định hình sự và dân sự nhằm ngăn chặn hành vi phản cạnh
tranh trên thị trường.
Luật nhằm duy trì và khuyến khích cạnh tranh tại Canada để:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
302
Thúc đẩy hiệu quả và khả năng thích ứng của nền kinh tế Canada
mở rộng các cơ hội tham gia vào thị trường thế giới đồng thời ghi nhận vai trò của
cạnh tranh nước ngoài tại Canada.
đảm bảo các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội tham gia bình đẳng vào nền kinh tế
Canada
cung cấp cho người tiêu dùng các mức giá cạnh tranh và sự lựa chọn sản phẩm.
Các quy định của Luật cạnh tranh:
Quy định về các hành vi phản cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ nội địa đã có
hiệu lực ngày 23 tháng 8 năm 2000.
Quy định về việc thông báo giao dịch căn cứ trên phần VIII của Luật cạnh tranh.
Các tham vấn từ trước về Luật cạnh tranh
Ngày 12 tháng 3 năm 2010, hai quy định sửa đổi của Luật Cạnh tranh có hiệu lực.
Những thay đổi này cho phép áp dụng các biện pháp hình sự hiệu quả hơn chống lại các
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng, trong khi vẫn cho phép các doanh nghiệp
hoạt động tự do và linh hoạt để kiếm lợi từ các liên kết hợp pháp với đối thủ cạnh tranh.
Theo quy định của pháp luật cạnh tranh, các loại hành vi phản cạnh tranh bị cấm và bị cơ
quan cạnh tranh điều tra như sau:
Ấn định giá
Thông đồng đấu thầu
Chỉ dẫn sai lệch hoặc gây nhầm lẫn
Gian dối thông báo giải thưởng
Lạm dụng vị trí thống lĩnh
Độc quyền kinh doanh, bán hàng kèm điều kiện khắt khe, hạn chế thị trường
Từ chối giao dịch
Sáp nhập
Kế hoạch tiếp thị đa cấp và chương trình bán hành kim tự tháp
Quảng cáo gian dối qua điện thoại
Hành vi tiếp thị gian dối
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
303
2.2. Luật đóng gói và dán nhãn hàng hóa
Luật gồm các quy định hình sự liên quan đến việc đóng gói, dán nhãn, buôn bán,
quảng cáo sản phẩm, sản phẩm quan trọng đóng gói sẵn và một số sản phẩm khác. Luật
yêu cầu các sản phẩm tiêu dùng đóng gói sẵn phải cung cấp chính xác và đầy đủ thông tin
để giúp người tiêu dùng lựa chọn đúng sản phẩm. Luật cấm các hành vi chỉ dẫn sai hay
sai lệch và bắt buộc nhà sản xuất đưa ra các thông số kỹ thuật của sản phẩm như: tên sản
phẩm, số lượng và địa chỉ các đại lý phân phối.
2.3. Luật nhãn mác hàng dệt may
Luật gồm các quy định hình sự liên quan đến việc đóng gói, dán nhãn, buôn bán,
quảng cáo sản phẩm tiêu dùng dệt may. Luật yêu cầu các sản phẩm dệt may phải có đầy
đủ và chính xác thông tin để giúp người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm. Luật cấm các hành
vi chỉ dẫn sai hay sai lệch và bắt buộc nhà sản xuất đưa ra các thông số kỹ thuật của sản
phẩm, địa chỉ bưu điện và mã số CA.
2.4. Luật nhãn mác kinh loại quý
Luật gồm các quy định liên quan đến việc dán nhãn các sản phẩm là các kim loại
quý. Luật yêu cầu phải mô tả thống nhất, chi tiết chất lượng các sản phẩm làm từ vàng,
bạc, bạch kim và palladium để giúp người tiêu dùng lựa chọn đúng sản phẩm. Luật cấm
các hành vi chỉ dẫn sai hay nhầm lẫn các sản phẩm làm từ kim loại quý. Luật cũng yêu
cầu các đại lý chọn nhãn hiệu sản phẩm phải tương tự chất lượng kim loại đã dùng trước
đây theo Luật và các Quy định.
3. Quyền hạn thực thi luật
3.1. Các vụ việc hành chính
- Ngăn chặn các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và các hành vi phản cạnh
trành: Khi thích hợp, Cục khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện thực hiện quy định
của pháp luật. Bao gồm các hành động cần thiết để khôi phục tình hình. Một giải pháp
chính thức hơn liên quan đến việc ký một thỏa thuận với Toà án Cạnh tranh, theo đó tất cả
các bên đồng ý thực hiện giải pháp khôi phục cạnh tranh trên thị trường. Khi tuân thủ tự
nguyện không thể đạt được, Cục có thể nộp đơn cho Toà án Cạnh tranh cho một trật tự để
khắc phục tình hình.
- Loại bỏ các hành vi chỉ dẫn sai hoặc gây nhầm lẫn thực, các hành vi hành
tiếp thị lừa đảo: Theo quy chế dân sự của Luật Cạnh tranh, Cục có thể tiến hành các hoạt
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
304
động điều tra, xem xét, đánh giá trước khi chuyển vụ việc lên Toà án Cạnh tranh, Tòa án
Liên bang hoặc tòa án cấp tỉnh hoặc vùng lãnh thổ. Để xác định hành vi vi phạm các quy
định này, Cục phải chứng minh với xác xuất như nhau từng yếu tố cấu thành hành vi. Cục
thường làm việc với các doanh nghiệp để loại bỏ hành vi phản cạnh tranh thông qua thủ
tục rút gọn. Theo Luật cạnh tranh, Cục trưởng Cục cạnh tranh sẽ chấm dứt một cuộc điều
tra nếu có đủ bằng chứng để chuyển vụ việc lên Tóa án cạnh tranh chuyển vụ việc tới
Viện trưởng Viện Kiểm sát hoặc đó là vụ việc giải quyết bằng thủ tục rút gọn.
3.2. Các vụ việc hình sự:
Cục cạnh tranh quản lý và thực thi các quy định hình sự theo Luật Cạnh tranh, chủ
yếu liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh và thông đồng đấu thầu. Văn phòng này có
một số công cụ bao gồm các chương trình phòng vệ (Immunity Program) để thi hành các
quy định này. Các vấn đề nghiêm trọng nhất được gọi là Giám đốc Công truy tố cùng với
một đề nghị để truy tố. Người phạm tội bị phạt tiền, bị án tù hoặc cả hai. Để giải quyết các
vụ án hình sự, Cục cũng làm việc với các công ty để loại bỏ hành vi phản cạnh tranh
thông qua giải pháp thay thế.
3.3. Mua bán và sáp nhập
Cục xem xét các giao dịch sáp nhập theo Mục 92 của Luật Cạnh tranh và đánh giá
xem liệu một đề xuất sáp nhập có thể làm giảm đáng kể hoặc ngăn chặn đối thủ cạnh
tranh hay không. Khi Cục thấy rằng một đề nghị sáp nhập có khả năng ảnh hưởng đáng kể
và tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường, các Ủy viên có thể yêu cầu các bên tham gia tái
cơ cấu sáp nhập hoặc đề nghị các biện pháp khắc phục khác để giải quyết những vấn đề
cạnh tranh cụ thể. Khi mối quan tâm về cạnh tranh không thể được giải quyết bằng
thương lượng, các Ủy viên có thể chuyển hồ sơ lên Toà án Cạnh tranh.
Đối với việc sáp nhập có liên quan đến nhiều hơn một hệ thông Luật, việc hợp tác
quốc tế là rất quan trọng. Khi cần thiết, Cục chia sẻ với các cơ quan cạnh tranh quốc tế
quan điểm và thông tin về những vụ việc sáp nhập cũng như lợi ích từ việc trao đổi này.
Mặt khác, Cục cũng trao đổi các ý kiến về những phương pháp và cách thức thực thi
chính sách tốt nhất hiện nay khi xem xét sáp nhập với các cơ quan cạnh tranh khác đồng
thời phối hợp vê mặt thời gian trong quá trình đánh giá và xem xét lại việc gia hạn. Khi
cần thiết, tìm các biện pháp phù hợp (hoặc ít nhất không mâu thuẫn nhau) để khắc phục
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
305
sáp nhập. Cục thường xuyên tiếp xúc với các đối tác của mình tại Uỷ ban Thương mại
Liên bang Hoa Kỳ, Bộ Tư pháp và Ủy ban châu Âu.
3.4. Những số liệu về thực thi Luật cạnh tranh
Từ năm 2006 tới 2010, Cơ quan cạnh tranh đã tiếp nhận trung bình khoảng 1,200
khiếu nại, yêu cầu thông tin liên quan đến các vấn đề dân sự và đã tiến hành điều tra mỗi
năm khoảng 30 vụ việc.
Đối với các vấn đề hình sự, số lượng khiếu nại chỉ bằng 1/3 các vụ việc dân sự,
(khoảng 400 khiếu nại và yêu cầu), cơ quan đã tiến hành kiểm tra mỗi năm khoảng 26 vụ
việc.
Đối với hành vi cạnh tranh lành mạnh, hàng năm trung bình khoảng 16,000 khiếu
nại và yêu cầu thông tin, 20 ý kiến bằng văn bản và tiến hành kiểm tra 52 vụ việc.
Đối với hành vi Mua bán & Sáp nhập, số liệu như sau:
Thông báo
Sáp nhập
Cấp chứng nhận
hợp pháp hóa
M&A
Một số thẩm
định khác
Tổng số
2009-2010
(tính đến
tháng 5/2010)
10 190 16 216
2009-2008 12 195 32 239
2008-2007 15 294 28 337
2007-2006 18 250 32 300
3.5. Tổng số tiền phạt
Cục có trách nhiệm hành chính thu tiền phạt theo quyết định của Tòa án. Trong thời
gian 2010-2006, hơn 10 triệu USD tiền phạt được thu từ Cục hàng năm. Cụ thể, trong
từng vụ việc, số tiền phạt như sau:
Các vụ việc dân sự: khoảng $7,945,000 hàng năm
Các vụ việc về thương mại lành mạnh: khoảng $2,000,000 mỗi năm
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
306
Đối với các vụ việc sáp nhập, doanh thu từ việc Thông báo sáp nhập và cấp chứng
nhận hợp pháp (ARC) yêu cầu qua các năm là: 10.1 triệu USD năm 2009-2010, 10.2 triệu
USD năm 2008 – 2009 và 15.3 triệu USD năm 2007 – 2008.
Liên quan đến các vụ việc hình sự, Luật cạnh tranh đã được sửa đổi đáng kể vào
tháng 3 năm 2009, các sửa đổi này có hiệu lực từ ngày 12 tháng 3 năm 2010. Mức phạt tối
đa cho các hành vi thỏa thuận tăng gấp đôi so với trước, mức phạt lên tới 25 triệu USD
(….), phạt tù tới 14 năm. Người vi phạm có thể bị phạt cả 2 hình thức trên.
4. Thẩm quyền hoạch định chính sách
Cục cạnh tranh có chức năng ban hành các Hướng dẫn và các quy định ngành:
Cục ban hành Dự thảo Hướng dẫn thực thi chống định giá hủy diệt để tham vấn
tháng 10 năm 2007,
Cục đã hoàn thành nghiên cứu quy định chuyên môn ngày 11 tháng 12 năm 2007,
nghiên cứu cho thấy các điều khoản giới hạn quảng cáo, áp đặt giá cho các dịch vụ và hạn
chế cung cấp các dịch vụ chất lượng có thể bị sử dụng quá mức so với mục tiêu bảo vệ lợi
ích công cộng.
Cục kiếm soát quá trình thực hiện quy định về dịch vụ nha khoa. Khi nghiên cứu
chuyên môn được công bố, Cục đã hỗ trợ quản lý dịch vụ nha khoa thông qua áp dụng các
nguyên tắc của báo cáo đó.
Cục tham gia vào quá trình tham vấn công khai liên quan đến trình tự, đề xuất sửa
đổi để tăng cường thẩm quyền tài phán giữa Ủy ban phát thanh-truyền hình -viễn thông
Canada (CRTC) và Cục tại các thị trường điện thoại địa phương.
Cục là đại diện công khai trên văn bản đối với Quản lý quang phổ và Chi nhánh
Viễn thông Canada trong khuôn khổ triển khai dịch vụ băng tần quang phổ không dây.
Cục cũng tham gia vào khuôn khổ tố tụng pháp lý của CRTC đối với việc bán buôn
và các dịch vụ cần thiết khác.
5. Quy trình xử lý vụ việc
5.1. Thủ tục điều tra
Tùy vào sự tự nguyện hợp tác giữa các bên liên quan, Cục sẽ có những biện pháp
khác nhau để giải quyết những vụ việc nhất định.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
307
Biện pháp xử lý rút gọn cho phép Cục giải quyết một số vấn đề nhanh chóng và
dễ dàng mà không cần một cuộc điều tra hoặc trình tự tố tụng đầy đủ. Biện pháp này bao
gồm các cam kết tự nguyện của các công ty và cá nhân để có thước đo xác định tác động
của hành vi phản cạnh tranh và các lệnh cấm. Giải quyết vấn đề theo cách này làm giảm
sự không chắc chắn và tối đa hóa việc sử dụng các nguồn lực Cục vì biện pháp xử lý rút
gọn không yêu cầu hành động lâu dài từ tòa án.
Ngoài ra, trong trường hợp các bên được yêu cầu từ Cục để cung cấp thông tin và tài
liệu cần thiết bằng văn bản. Loại yêu cầu này bắt buộc tất cả các bên có nghĩa vụ thi hành
mệnh lệnh các cơ quan quốc gia. Đặc biệt, trong các trường hợp gian lận thầu và thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, Immunity program là một trong những cách hiệu quả nhất để
khuyến khích các công ty để lộ thông tin cho Cục.
5.2. Kháng cáo
Khi Toà án đưa ra phán quyết cuối cùng về từng trường hợp cạnh tranh ở
Canada, các thủ tục kháng cáo được tiến hành bởi các tòa án cấp cao hơn.
VI. Cục Quản lý cạnh tranh Pháp
1. Thông tin chung
1.1. Tên cơ quan
Cục Quản lý cạnh tranh Pháp
1.2. Tóm tắt lịch sử
Được thành lập theo Luật Đổi mới nền kinh tế Ban hành năm 2008, Cục quản lý
cạnh tranh Pháp thay thế Hội đồng cạnh tranh (thành lập theo Pháp lệnh ngày 01 tháng 12
năm 1986). Pháp lệnh này được được hệ thống lại trong Phần 4 của Bộ luật Thương mại
năm 2000. Hội đồng cạnh tranh được thanh lập thay thế Ủy ban cạnh tranh (được thành
lập năm 1977). Tiền thân của Ủy ban cạnh tranh là Ủy van kỹ thuật về Cartel và Vị trí độc
quyền. Điều 95, 96 và 97 của Luật Đổi mới nền kinh tế chú trọng vào việc xây dựng Cục
quản lý cạnh tranh và các quy định trước đây của Bộ luật Thương mại.
Với sự điều chỉnh của Luật Đối mới nền kinh tế, Cục quản lý cạnh tranh có toàn bộ
quyền năng của Hội đồng cạnh tranh trước kia và hầu hết quyền hạn của Tổng Vụ cạnh
tranh, tiêu dùng và trấn áp gian lận (DGCCRF) về vấn đề cạnh tranh. Đồng thời, Cục
quản lý cạnh tranh cũng có thêm quyền hạn nữa là đưa ra những ý kiến và khuyến nghị
cho cơ quan công quyền khác.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
308
Trên cơ sở đó, các điều tra viên trước đây thuộc DGCCRF đã chuyển sang Cục quản
lý cạnh tranh. Thêm vào đó việc gia tăng thêm quyền biện hộ của các doanh nghiệp đã tạo
nên sự phân cách lớn hơn giữa chức năng điều tra và chức năng phán xét, theo đó mà vai
trò của ―Đội trưởng đội xử lý vụ việc‖ của Cục quản lý cạnh tranh được nâng lên (mục
1.2), ngoài ra trong vụ việc còn xuất hiện thêm chức danh ―cán bộ điều trần‖ (mục 1.3).
Cuối cùng, thêm một sự đổi mới nữa trong việc soạn thảo của Ban Nghiên cứu của Cục
quản lý cạnh tranh (1.4).
1.3. Nguồn nhân lực
Sau khi tiếp nhận thêm 60 cán bộ mới, Cục quản lý cạnh tranh đến nay có tổng số
cán bộ là 200 so với 130 cán bộ vào năm 2008.
Đội trưởng đội xử lý vụ việc: Chức năng điều tra và khởi tố của Cục quản lý cạnh
tranh được thực hiện dưới sự giám sát của Đội trưởng đội xử lý vụ việc. Đội trưởng được
bổ nhiểm bởi Bộ trưởng Bộ kinh tế cùng với sự đồng thuận của Hội đồng.
1.4. Bổ nhiệm
1.4.1. Lãnh đạo cao nhất
Tên Chức vụ trƣớc đây
Chủ tịch Bruno Lasserre Chủ tịch Hội đồng
Đồng Chủ tịch Thẩm phán và tranh tụng
Hội đồng Nhà nước
Phó Chủ tịch Francoise Aubert Phó Chủ tịch Hội đồng
Thẩm phán Tòa án Tối cao
Elisabeth Flury Herard Cựu thành viên của Hội đồng giám sát
Patrick Spilliaert Thành viên Tổng Cục kiểm toán
1.4.2. Thủ tục bổ nhiệm lãnh đạo cơ quan
Chủ tịch và 4* Phó Chủ tịch được bổ nhiệm bởi Tống thống theo đề nghị của Bộ
trưởng Bộ Kinh tế.
*Hiện tại trống 1 vị trí
Ủy ban Tài chính Kinh tế của cả Quốc hội và Thượng Nghị viện có thể góp ý về
việc bổ nhiểm Chủ tịch cạnh tranh của Tổng thống.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
309
1.5. Cơ sở pháp lý về sự độc lập của cơ quan cạnh tranh
Điều L461-1 của Luật Đổi mới nền kinh tế:
―Cục Quản lý cạnh tranh là một cơ quan hàn chính độc lập, đảm bảo việc tự do cạnh
tranh trong môi trường kinh doanh. Chính điều này sẽ vì vậy nó hỗ trợ thêm sự vận hành
của thị trường cạnh tranh của Châu Âu và quốc tế‖
1.6. Bộ máy tổ chức
1.7. Chức năng
Cục Quản lý cạnh tranh có ba chức năng sau:
Thứ nhất, Cục thực hiện một số chức năng tư vấn. Bất kỳ đề xuất nào về pháp luật
cạnh tranh phải được chính thức tham khảo ý kiến từ Chính phủ (Điều L462-2 Luật
Thương mại). Ngoài ra, Cục có thể được yêu cầu cho y’ kiến về bất cứ vấn đề nào liên
quan đến cạnh tranh. Trong bối cảnh đó, một số các cơ quan cũng có quyền kiến nghị cho
ý kiến, bao gồm Chính phủ, Quốc hội, Toà án, quản lý ngành (như các quy định Viễn
thông ("ARCEP"), các quy định về truyền thông ("CSA") hoặc Quy định về Năng lượng
("CRE")), chính quyền khu vực và địa phương, giáo sư và các hiệp hội, công đoàn thương
mại, các phòng nông nghiệp, thương mại và công nghiệp (Điều L461-5, L462-1 và L462-
3 Luật Thương mại.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
310
Cục quản lý cạnh tranh thông qua ý kiến về hệ thông chia sẻ thông tin bảo mật được
thiết kế cho các khách sạn theo Điều 81 EC và các quy định quốc gia (CCI Mulhouse), e-
Competition, ngoài ra còn có các tổ chức công đoàn thương mại và người tiêu dùng.. các
hiệp hội vào tháng 12 năm 2006-I. Cuối cùng, việc sửa đổi năm 2008 (Ordonnance n°
2008-1161 du 13 novembre 2008 portant modernisation de la régulation de la
concurrence) cho phép Cục quản lý cạnh tranh thẩm quyền ban hành ý kiến và đề xuất
hành động của Chính phủ tại các thị trường nơi cạnh tranh có thể được cải thiện. (Điều
L.462-4 Luật Thương mại).
Thứ hai, chức năng thực thi Luật cạnh tranh không lành mạnh của Pháp và EC tại
Pháp thông qua điều tra các vụ việc và ban hành quyết định, bao gồm các quyết định về
các biện pháp trừng phạt tạm thời, phạt tiền, biện pháp khắc phục, cảnh cáo (Điều L462-5,
L462-6 Luật Thương mại). Thêm vào đó, Cục cũng có những công cụ thực thi khác như
xem xét việc chấp nhận cam kết từ các bên…. để thương lượng các biện pháp giải quyết
cũng như cấp miễn toàn bộ hay một phần tiền phạt cho người nộp đơn khoan hồng trong
các trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ ba, Cục có thẩm quyền xem xét các thông báo sáp nhập (Điều L430-3 Luật
Thương mại). Trước năm 2008, thẩm quyền này thuộc về DGCCRF. Tuy nhiên, Bộ
trưởng Kinh tế vẫn là người quyết định cuối cùng các vụ việc sáp nhập.
- Kết thúc giai đoạn đầu tiên, Bộ Trưởng sẽ có 5 ngày để xem xét quyết định cuối
cùng (kể từ ngày nhận), sau đó sẽ ―yêu cầu‖ Cơ quan Cạnh tranh về khả năng tiếp tục tiến
hành giai đoạn điều tra thứ 2. Cơ sở để xem xét sự can thiệp này cũng như việc Cơ quan
cạnh tranh có thực hiện ―yêu cầu‖ đó hay không không được Pháp Luật quy định cụ thể.
Vào cuối giai đoạn 2, Bộ trưởng đã có 25 ngày làm việc sau khi nhận được quyết
định của Cục về vụ việc liên quan đến căn cứ về lợi ích công cộng ngoài việc duy trì cạnh
tranh trên thị trường. Luật không giới hạn các căn cứ về lợi ích công cộng, cũng không
phải là loại quyết định có liên quan một phần chức năng của Cục (cho phép hay cấm),
cũng không phải là quyền hạn của Bộ trưởng Bộ (thêm cũng như các biện pháp cưỡng
chế, biến cho phép sang lệnh cấm và ngược lại).
Trong thời gian này, các bên không thực hiện các giao dịch, do đó tổng thời gian
cho giai đoạn 1 khoảng 30 đến 45 ngày làm việc và từ 90 đến 110 ngày làm việc cho giai
đoạn 2.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
311
2. Thực thi Luật
2.1. Thực thi Luật
Cục quản lý cạnh tranh có thẩm quyền gần như tuyệt đối để thi hành pháp luật cạnh
tranh của Pháp và EC.
2.2. Phạm vi của Luật cạnh tranh
Cơ quan cạnh tranh thực thi các quy tắc được ghi trong Sách tập IV, Tiêu đề II, Luật
Thương mại Pháp (FCC). Những quy định này cung cấp kiểm soát về:
(i) Các thỏa thuận phản cạnh tranh và các hành vi liên quan (Điều L. 420-1 FCC,
lệnh cấm theo Điều 81 (1) EC);
(ii) Lạm dụng vị trí thống lĩnh đơn lẻ hoặc tập thể (Điều L. 420-2 (1) FCC, lệnh cấm
theo Điều 82 EC);
(iii) Lạm dụng ưu thế bởi một hoặc một nhóm doanh nghiệp (không nhất thiết có vị
trí thống lĩnh) đối với nhà cung cấp hoặc khách hàng (Điều L. 420-2(2) FCC); và (iv) lạm
dụng để ấn định giá thấp (Điều L. 420-5 FCC).
3. Quyền hạn thực thi Luật
3.1.1 Hành chính
3.1.1. Quyền khởi tố điều tra
Công việc điều tra: Cục Cạnh tranh đã có những điều tra viên trong biên chế.
Tuy nhiên, Bộ vẫn giữ lại các dịch vụ điều tra ở cấp độ khu vực để có thể tiến hành
những điều tra đơn giản cũng như việc khám xét, tịch thu tang vật liên quan đến hành vi
phản cạnh tranh cáo buộc trong " khuôn khổ địa phương."
Điều trần trong quá trình khám xét và tịch thu. Sửa đổi cho phép điều tra viên của
Cục Cạnh tranh và của Bộ để thu thập lời khai từ những nhân viên công ty trong quá trình
khám xét và tịch thu. Quyền hạn đã được mở rộng vì nó bao gồm cả "thông tin hay lời
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
312
giải thích hữu ích cho các mục đích của điều tra" và không giới hạn yêu cầu liên quan đến
yếu tố liên quan, tài liệu, như là trường hợp trong luật pháp châu Âu.
Xử phạt đối với hành vi cản trở điều tra. Cục Cạnh tranh có thể, theo yêu cầu của
các trưởng nhóm điều tra, ban hành một lệnh cấm, cùng với hình phạt hàng ngày, đối với
các công ty không trả lời thông báo xuất hiện hoặc không phúc đáp kịp thời thông tin theo
yêu cầu của các điều tra viên của Cục Cạnh tranh hoặc của Bộ.
Cơ quan cạnh tranh cũng có thể, theo yêu cầu của các trưởng nhóm điều tra, áp dụng
phạt đối với việc cung cấp thông tin không đầy đủ, không chính xác hoặc không đầy đủ
hoặc thay đổi tang vật. Tiền phạt không được vượt quá 1% doanh thu của công ty bị coi là
có hành vi cản trở việc điều tra hoặc các yêu cầu của điều tra viên.
Các hình thức xử phạt hình sự đã có hiệu lực trước khi sửa đổi, vẫn được duy trì:
trong trường hợp cản trở điều tra, cá nhân có thể bị kết án 6 tháng tù giam và phạt 7.500
€, các đối tượng pháp lý khác sẽ bị phạt 37.500 €.
3.1.2. Quyền ra quyết định
Nếu Cục quản lý cạnh tranh phát hiện các dấu hiệu vi phạm Luật cạnh tranh, Cục có
quyền ra quyết định yêu cầu các bên chấm dứt các hành vi phản cạnh tranh (s) và áp dụng
hình phạt. Quyết định này được công bố trên website của Cục Cạnh tranh. Thông thương
quyết định của Cục sẽ có hiệu lực ngay lập tức. Cục Cạnh tranh cũng có thể ra cảnh cáo
nhằm khôi phục lại cạnh tranh trên thị trường. Cục Cạnh tranh cũng có thể yêu cầu các
bên tham gia công khai các quyết định xử phạt hoặc công bố trên báo chí. Ngược lại, Cục
cũng có thể quyết định rằng không có cơ sở để tiếp tục tố tụng (i) trong trường hợp hành
vi phản cạnh tranh chưa gây hại trên thị trường, (ii) khi cho rằng tồn tại hành vi bị cấm
nhưng chưa được quy định, (iii) trong trường hợp cam kết từ phía bởi các bên và được
chấp nhận từ phía Cục.
3.2. Hình sự
(Không)
3.3. Mua bán và sáp nhập
3.3.1. Thông báo trƣớc khi tiến hành sáp nhập
Ngưỡng 150.000.000 € tổng doanh thu đạt từ tất cả các bên tham gia giao dịch sáp
nhập và ngưỡng 50.000.000 € doanh thu đạt được ở Pháp ít nhất hai của các bên trong
giao dịch được duy trì.
Tuy nhiên, ngưỡng thông báo mới € 75.000.000 và 15.000.000 € được áp dụng thay
vì các ngưỡng chung trong trường hợp các bên đang hoạt động trong phân phối bán lẻ
hoặc ngoài lãnh thổ Pháp. Cụ thể, khi có ít nhất hai bên trong giao dịch sáp nhập hoạt
động một hoặc một số cửa hàng bán lẻ sẽ phải điền vào một bản yêu cầu nếu:
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
313
• Tổng doanh thu của tất cả các bên tham gia giao dịch đạt trên 75.000.000 €; và
• Có ít nhất hai bên tham gia giao dịch ở Pháp có tổng doanh thu trên 15.000.000 €
trong ngành thương mại bán lẻ.
Khi soạn thảo, các ngưỡng này áp dụng đối với bất kỳ giao dịch sáp nhập liên quan
đến ít nhất hai bên điều hành cửa hàng bán lẻ, ngay cả khi những người chỉ chiếm một
phần biên của việc kinh doanh của các bên.
3.3.2. Quyền hạn ra quyết định
Giai đoạn I. Giai đoạn I giới hạn thời gian như sau:
• thời hạn bình thường cho giai đoạn I đối với việc điều tra là 25 ngày làm việc;
• nếu các cam kết được đề xuất, giai đoạn I được mở rộng cho 15 ngày làm việc;
• thời hạn có thể bị hoãn trong 15 ngày, theo đề xuất của các bên, "trong trường hợp có
yêu cầu cụ thể, chẳng hạn như hoàn thiện các cam kết."
Giai đoạn II. Giai đoạn II giới hạn thời gian như sau:
• thời hạn bình thường cho giai đoạn II đối với việc điều tra 65 ngày làm việc;
• nếu các cam kết được nộp ít hơn 20 ngày làm việc trước khi kết thúc thời hạn 65
ngày, giai đoạn II sẽ được gia hạn thêm 20 ngày làm việc;
• giới hạn thời gian này có thể bị hoãn trong 20 ngày, theo sáng kiến của các bên,
"trong trường hợp yêu cầu cụ thể, chẳng hạn như hoàn thiện các cam kết."
Thời hạn kiểm tra từ Bộ trưởng Kinh tế. Như đã nêu ở trên, Bộ trưởng Kinh tế có
thể:
• ở cuối giai đoạn I, trong thời hạn 05 ngày làm việc từ khi nhận quyết định của Cục,
yêu cầu tiến hành giai đoạn II của điều tra (điều tra mang tính chiều sâu);
• ở cuối giai đoạn II, trong thời hạn 25 ngày làm việc từ khi nhận được quyết định
cuối cùng của Cục, xem xét trên các căn cứ khác với cạnh tranh.
3.4. Số liệu về thực thi Luật cạnh tranh
3.4.1. Hành chính
Thời gian 2005 2006 2007 2008 2009
Số lƣợng quyết định 31 13 24 16 15
Số lƣợng công ty, nhóm, doanh nghiệp
bị phạt tiền
137 178 94 82 58
Tổng số tiền phạt (triệu Euro) 754,4 128,2 211 613,3 206,6
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
314
3.4.2. Mua bán & sáp nhập Ban hành 94 quyết định về sáp nhập năm 2009
4. Thẩm quyền hoạch định chính sách
4.1. Soản thảo/Công bố luật
Thủ tục thông báo liên quan đến chương trình khoan hồng của Pháp ban hành ngày
2-3-2009
Thông báo về Cam kết cạnh tranh ban hành ngày 2-3-2009
4.2. Ban hành các Hƣớng dẫn
Khác
*Gồm phối hợp với các Bộ khác,
Nghiên cứu thị trường/Khảo sát và một số loại khác
5. Quy trình xử lý vụ việc
5.1. Thủ tục điều tra
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
315
Hành động/Quyết định Thời gian
Thủ tục khởi tố (hồ sơ/giới thiêu/…)
Yêu cầu thông tin và hƣớng dẫn (kiểm tra / nghe
của các bên từ trưởng nhóm nếu cần thiết / yêu cầu
thông tin) Pre-SO, khả năng trình cam kết
Không có khung thời gian cụ thể - có thể
kéo dài vài tháng / năm kể từ khi bắt đầu
của vụ việc
SO được soạn thảo bởi các cán bộ xử ly’ và thông
báo cho các bên, người khiếu nại và các đại diện
Chính phủ (Commissaire du Gouvernement) do Báo
cáo viên (có thể quyết định áp dụng thủ tục đơn giản
trong hầu hết các đơn giản và / hoặc ít nhất là trường
hợp có hại)
Không có khung thời gian cụ thể - một vài
tháng / năm kể từ khi bắt đầu của vụ việc
Biên bản giám sát của các bên, người khiếu nại và
đại diện Chính phủ đối với SO / truy cập vào các hồ
sơ áp dụng thủ tục giải quyết. Ở giai đoạn này, các
bên có thể chọn không phản đối cuộc thi trong SO
và lợi ích phù hợp từ giảm tiền phạt
Hai tháng kể từ khi nhận được SO + thêm
một tháng khi yêu cầu
Báo cáo nhóm xử lý thông báo cho các bên, người
khiếu nại và các Commissaire du Gouvernement
Không có khung thời gian cụ thể - trong
thực tế là một vài tuần / tháng kể từ khi
nhận được biên bản khi trả lời với SO,
hoặc nhiều hơn trong trường hợp khó khăn
cụ thể
Trả lời của các bên trong các báo cáo Hai tháng sau khi nhận được báo cáo +
thêm một tháng khi trường hợp yêu cầu
đặc biệt
Ý kiến trao đổi của các bên trong quá trình tố tụng
được gửi đến cơ quan điều trần (HO)/ Báo cáo tham
vấn của HO được trình lên Chủ tịch của Cơ quan
cạnh tranh
Quá trình trao đổi ý kiến hậu SO không bị
giới hạn về mặt thời gian – Báo cáo của
HO được gửi đến Ban Lãnh đạo 10 ngày
trước khi diễn ra phiên điều trần
Điều trần trước Ban lãnh đạo Cơ quan cạnh tranh/
Trao đổi ý kiến miệng giữa Rapporteur Général, các
bên và Commissaire du Gouvernement
Không quy định khung thời gian cụ thể -
khoảng từ 2 đến 6 tuần sau khi nhận được
các ý kiến phản hồi về báo cáo
Quyết định của Ban lãnh đạo (Quyết định này
không được dựa trên những dữ kiện bổ sung về hành
vi vi phạm cho những quan điểm đã được trình bày
trong báo cáo)
Một hoặc hai tháng sau khi kết thúc phiên
điều trần
Thông báo về quyết định xử lý đối với các bên –
Đăng tải Quyết định trên trang tin điện tử của cơ
quan cạnh tranh.
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
316
5.2. Thủ tục ra quyết định
Được mô tả ở phần 3.1 và 3.2 ở trên
5.3. Kháng cáo
Các bên (và cả ủy viên công tố) có thể kháng lại giá trị pháp lý của (i) mệnh lệnh tư
pháp điều chỉnh điều khoản thanh tra L.450-4, và (ii) các điều kiện mà trong đó cuộc
thanh tra được tiến hành với đầy đủ quyền tài phán trước chủ tịch của Tòa phúc thẩm đối
với thẩm phán, người đã ban hành mệnh lệnh hành chính đối với cuộc điều tra đã tiến
hành. Cả hai trường hợp kháng cáo nêu trên phải được yêu cầu trong vòng 10 ngày và
không có hiệu lực tạm hoãn. Một kháng cáo chống lại các điều kiện của cuộc thanh tra
cũng có thể được nộp trong khoảng thời gian tương tự bởi chính người đưa ra khiếu kiện
vì các khoản mục thu được trong suốt cuộc thanh tra. Thủ tục kháng cáo có thể được nộp
lên Chủ tịch tòa Phúc thẩm trước 6 đến 8 tháng. Lệnh do Chủ tịch tòa Phúc thẩm đã đưa
ra chỉ có thể được kháng cáo đối với các vấn đề pháp lý tại phòng hình sự của tòa phá án
Các điều kiện nêu trong điều khoản về thanh tra L.450-3 có thể bị khiếu kiện như là
một khiếu kiện đến sau lên cơ quan điều tra khi quyết định chọn cơ sở của vụ việc và khi
kháng cáo với tòa Phúc thẩm Paris. Sau-SO, các bên liên quan có thể đệ trình các quan sát
của mình cho các viên chức tham gia phiên điều trân của cơ quan điều tra đối với những
vi phạm tiềm tàng quyền lợi của họ. Các viên chức sẽ đưa ra một báo cáo không có tính
ràng buộc pháp lý cho Chủ tịch cơ quan điều tra 10 ngày trước khi phiên điều trần diễn ra,
trong đó có thể dựa trên hoặc không dựa trên các kết luận của các viên chức nêu trên.
VII. Ủy ban Cạnh tranh Liên bang Thụy Sỹ
1. Thông tin chung
1.1. Tên cơ quan
Ủy ban Cạnh tranh Liên bang Thụy Sỹ (COMCO)
1.2. Sơ lƣợc lịch sử
1.2.1. Thành lập
COMCO được thành lập dựa trên Đạo luật liên bang về Cartel và các hành vi hạn
chế cạnh tranh khác năm 1995 (Đạo luật Cartel).
Về mặt hành chính, COMCO là một đơn vị của Federal Department of Economic
Affairs, tuy nhiên, COMCO là cơ quan liên bang độc lập (Điều 18).
BÁO CÁO RÀ SOÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
317
1.2.2. Các mốc thời gian
1962 Đạo luật Cartel thứ nhất được ban hành, theo đó, Ủy ban Cartel được thành
lập.
1985 Đạo luật Cartel 1962 được thay thế bằng Đạo luật 1985 mới.
1995 Đạo luật Cartel 1985 được thay thế bằng Đạo luật Cartel hiện nay, theo đó
COMCO được thành lập.
2003 Đạo luật Cartel được sửa đổi (có hiệu lực từ tháng Tư năm 2004)
1.3. Nguồn lực
1.3.1. Nhân lực36
Ủy ban Cạnh tranh liên bang Thụy Sỹ được hỗ trợ bởi một Ban Thư Ký toàn thời
gian (đến cuối năm 2009, Ban Thư Ký có 64 thành viên bao gồm cả bán thời gian và full-
time).
Ban Thư Ký với hơn 50 thành viên với lĩnh vực chuyên sâu về kinh tế và pháp lý.
1.3.2. Ngân sách37
Ngân sách hàng năm của COMCO vào khoản 7 triệu CHF (tương đương với 7.65
triệu USD).
1.4. Bổ nhiệm lãnh đạo cao nhất38
1.4.1. Ban Lãnh đạo
COMCO bao gồm Ban Chủ tịch (Chủ tịch và 2 phó chủ tịch) và 9 thành viên khác
(bao gồm các chuyên gia độc lập).
Chủ tịch: Giáo sư Tiến sỹ Vincent Martenet.
(Nguyên là Phó Chủ tịch từ năm 1998, cũng giáo sự luật cạnh tranh và hiến pháp
của Đại học Lausanne).
1.4.2. Bổ nhiệm Chủ tịch
Các thành viên của COMCO được lựa chọn bởi Hội đồng Liên bang.
1.5. Cơ sở pháp lý về sự độc lập của cơ quan cạnh tranh39
36 http://www.weko.admin.ch/org/index.html?lang=en 37 THE 2005 HANDBOOK of COMPETITION ENFORCEMENTCEMENT AGENCIES 38 The European Antitrust Review 2011 39 Federal Act on Cartels and other Restraints of Competition - CartA