Top Banner
Tác giả: Lý Hoàng Anh Thi BÁO CÁO NGÀNH MÍA ĐƯỜNG Tháng 01/2013
23

Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

Jan 11, 2016

Download

Documents

dragon.knightit

abc
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

Tác giả: Lý Hoàng Anh Thi

BÁO CÁO NGÀNH

MÍA ĐƯỜNG

Tháng 01/2013

Page 2: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

TÓM TẮT

Niên vụ 2011/2012 được đánh giá là thành công nhất trong vòng 5 năm gần đây

Theo báo cáo của Cục trồng trọt, Bộ NN&PTNT, tổng diện tích trồng mía của nước ta niên vụ 2011/2012 đạt

khoảng 283,2 nghìn héc ta, tăng 4,3% so với niên vụ trước đó. Năng suất mía bình quân cả nước đạt 62,4

tấn/ha, sản lượng mía cả nước được 17,5 triệu tấn, tăng so với vụ trước gần 2 tấn/ha. Sản lượng mía ép công

nghiệp đạt 14,5 triệu tấn, sản xuất được 1.306.240 tấn đường. So với vụ trước, lượng mía ép công nghiệp tăng

gần 2 triệu tấn, sản lượng đường tăng 155.780 tấn.

Mối quan hệ giữa vùng trồng và nhà máy đường đóng vai trò then chốt cho sự phát triển của cả ngành

Theo các chuyên gia trong ngành, quy mô nhà máy càng lớn thì hoạt động càng hiệu quả. Tuy nhiên, các nhà

máy đường không thể tự ý nâng quy mô và công suất nếu vùng trồng tại đó không có tiềm năng mở rộng

tương ứng. Do đó, việc cung cấp đủ nguyên liệu mía cho nhà máy và việc phát triển vùng trồng mía phù hợp

với công suất thiết kế nhà máy rất quan trọng.

Hiện nay, các vùng trồng mía mới chỉ cung cấp được khoảng 3/4 lượng nguyên liệu cần thiết cho các

nhà máy đường trên cả nước

Theo báo cáo tổng kết ngành mía đường niên vụ 2011/2012, tổng công suất thiết kế của các nhà máy đạt

129.900 tấn mía ép/ngày, tương đương sản lượng mía ép khoảng 19 – 20 triệu tấn/năm. Thực tế cả niên vụ,

tổng sản lượng mía mà các nhà máy đã ép đạt 14,5 triệu tấn, như vậy bình quân một nhà máy đường hoạt

động với công suất thực bằng 72,5 - 74,4% công suất thiết kế. Nói cách khác, vùng trồng mía mới chỉ cung cấp

bình khoảng 3/4 lượng nguyên liệu cần thiết cho các nhà máy đường trên cả nước.

Mía đường là ngành được nhà nước bảo hộ

Hàng năm các doanh nghiệp muốn xuất khẩu hay nhập khẩu đường đều phải được Bộ Công Thương cấp giấy

phép xuất khẩu hay hạn ngạch (quota) nhập khẩu. Thuế suất nhập khẩu t rong hạn ngạch là 5% trong năm

2012 và sẽ về 0% từ năm 2015, tuy nhiên nếu nhập ngoài hạn ngạch, doanh nghiệp sẽ phải chịu mức thuế

suất thấp nhất là 80%. Nước ta chỉ mở cửa hoàn toàn cho việc nhập đường từ 2015 theo cam kết WTO.

Giá đường trong nước luôn cao hơn giá đường thế giới

Chênh lệch bình quân giữa giá bán lẻ đường ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp.HCM hay Cần Thơ so với

giá nhập khẩu đều ở mức rất cao. Điều này giúp cho các công ty đườ ng t rong nước, cũng như các doanh

nghiệp có quota nhập khẩu được hưởng nhiều lợi ích, tuy nhiên các doanh nghiệp sử dụng đường làm nguyên

liệu và người tiêu dùng cuối cùng lại phải chịu thiệt hại. Chênh lệch giá đường là nguyên nhân t rực tiếp dẫn

đến tình trạng nhập lậu đường Thái Lan vào miền Tây nước ta.

Giá bán đường trong nước đã không còn giữ được mức cao như cuối năm 2011 mà bắt đầu theo chiều

hướng giảm. Đến cuối tháng 9 năm nay, giá đường đã giảm từ 5-20% so với thời điểm đầu năm tùy loại

đường và vùng miền. Điều này chủ yếu do (i) giá đường thế giới giảm. (ii) sức ép giảm giá từ các công ty công

nghiệp thực phẩm. (iii) tình trạng đường nhập lậu và đường thẩm lậu từ tạm nhập tái xuất.

Sự sụt giảm giá đường hầu như chỉ diễn ra đối với phương thức bán sỉ tại kho, còn giá bán lẻ vẫn luôn

duy trì ở mức cao. Theo báo cáo của Agromonitor, giá bán lẻ bình quân hàng tuần trong 9 tháng đầu năm nay

dao động quanh mức 22-26 ngàn đồng/kg, không hề thấp hơn so với giá bán trong năm 2011.

Page 3: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

1

Nghị định 60/2012/NĐ-CP được coi là sự hỗ trợ rất lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành mía

đường. Trong tháng 7/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định 60/2012/NĐ-CP hướng dẫn việc thực hiện Nghị

quyết số 29/2012/QH13 của Quốc hội về triển khai một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức

và cá nhân, theo đó các công ty mía đường có số lao động thường xuyên trong năm hơn 300 người sẽ được

giảm 30% thuế TNDN.

Trong tháng 8/2012, Văn phòng Chính phủ đã có công văn 6576/VPVP -KTTH theo đó đồng ý với đề nghị

của Bộ Tài chính và Bộ Công thương về việc miễn thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng nông sản,

trong đó có mía đường do các tổ chức và cá nhân đầu tư, trồng tại Campuchia . Các công ty đang đầu tư

trồng mía tại Campuchia như BHS và SBT sẽ được hưởng ưu đãi này kể từ vụ 2012/2013.

Hiện ngành mía đường đã bắt đầu bước vào vụ thu hoạch vụ 2012/2013 bắt đầu giữa tháng 10/2012 và

kết thúc tháng 4/2013. Theo kế hoạch sản xuất của các nhà máy, sản lượng mía ép là 16,7 triệu tấn, tăng

15,1% và sản lượng đường dự kiến đạt 1,59 triệu, tấn, tăng 23% so với vụ trước, trong đó đường luyện RE dự

kiến là 450.000 tấn, chiếm 28,3% tổng sản lượng đường sản xuất.

Theo kế hoạch, diện tích vùng nguyên liệu sẽ tiếp tục được mở rộng lên gần 270 ngàn ha . Việc gia tăng diện

tích vùng trồng, sản lượng mía cũng như sản lượng đường đang làm gia tăng nỗi lo cung vượt cầu bởi trên thị

trường vẫn còn hàng trăm ngàn tấn đường tồn kho và đường nhập lậu. Dự báo trong các tháng cuối năm nay,

giá đường RS khó có khả năng phục hồi.

Đối với đường RE, giá bán được dự báo tăng nhẹ do các công ty trong ngành thực phẩm, đặc biệt là đồ

uống bước vào vụ Tết. Hiện nay chỉ có 9/38 nhà máy đường của các công ty SBT, BHS, LSS, NIVL, La Ngà,

Việt Đài, Tate & Lyle sản xuất đường RE với sản lượng chiếm khoảng 30% tổng sản lượng đường sản xuất,

trong khi nhu cầu lại cao nên đường RE vẫn được tiêu thụ ổn định, ít tồn kho và không phải cạnh tranh với

đường nhập lậu RS.

Kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm nay của các công ty đường kém khả quan hơn nhiều so với kỳ

vọng từ đầu năm. Tổng doanh thu của 6 công ty đường chỉ tăng nhẹ 6%, trong khi tổng lợi nhuận gộp, lợi

nhuận t rước thuế và lợi nhuận sau thuế giảm lần lượt 38,4%, 46,6% và 44,7% so với cùng kỳ năm trước. Tuy

có sự khác biệt về tăng trưởng doanh thu giữa các công ty đường, nhưng cả 6 công ty đường niêm yết đều

suy giảm lợi nhuận. Hai yếu tố khiến lợi nhuận giảm là (i) giá vốn hàng bán tăng, (ii) chi phí lãi vay tăng.

Giá vốn hàng bán tăng nhanh hơn doanh thu đã khiến tỷ suất lợi nhuận gộp giảm, thậm chí ngay cả giá

trị tuyệt đối của lợi nhuận gộp không tăng mà lại giảm khá mạnh. Giá vốn hàng bán trong 9 tháng đầu

năm 2012 của 6 công ty đường niêm yết tăng mạnh 20,6% so với cùng k ì năm 2011 cộng với giá bán bình

quân giảm từ 5-10% đã khiến tỷ suất lợi nhuận gộp của 6 công ty đường niêm yết giảm chỉ còn 14,4% từ mức

24,8% trong 9 tháng đầu năm 2011. Đối với nhà đầu tư giá trị, điều này rõ ràng làm giảm mức độ hấp dẫn của

ngành mía đường so với một số nhóm ngành khác như sữa, cao su, cà phê…

ROE 9 tháng đầu năm nay của 6 công ty đường đạt 12,8%, giảm gần 50% so với mức 23,6% của cùng

kỳ năm trước. Đáng chú ý là ROE của các công ty lớn lại thấp hơn ROE của các công ty nhỏ. Mặc dù tỷ

suất lợi nhuận sau thuế là yếu tố chính khiến ROE sụt giảm, tuy nhiên đòn bẩy tài chính lại là yếu tố làm chậm

đà sụt giảm của ROE.

Tồn kho gia tăng là t ình trạng đang diễn ra đối với các công ty sản xuất đường RS là KTS, NHS và SEC, cũng

như chứng minh cho những khó khăn mà ngành mía đường đang đối mặt. Điều bất thường là sự gia tăng hàng

tồn kho diễn ra ngay trước khi ngành đường bước vào niên vụ mới, điều này gây thêm áp lực về tiêu thụ cho

các công ty đường.

Page 4: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

2

Một số công ty đường đang gặp khó khăn trong việc hoàn thành kế hoạch doanh thu và lợi nhuận năm

2012. Dự báo NHS, BHS và SBT có thể hoàn thành kế hoạch doanh thu, tuy nhiên BHS và SBT có thể chỉ đạt

khoảng 94% kế hoạch lợi nhuận cả năm nay, NHS dự báo vượt 14,2% kế hoạch lợi nhuận năm nay . Hai công

ty KTS và SEC sẽ không hoàn thành cả kế hoạch doanh thu và lợi nhuận năm nay.

KHUYẾN NGHỊ

Tuy trong 9 tháng đầu năm 2012 có nhiều khó khăn đối với ngành mía đường nói chung và đối với 6 công ty

đường niêm yết nói riêng, nhưng nhìn chung ngành mía đường vẫn có nhiều tiềm năng phát t riển . Tôi khuyến

nghị xem xét đầu tư vào các mã SBT, BHS, NHS, căn cứ vào các tiêu chí về khả năng hoàn thành kế hoạch

năm, chỉ số EPS dự phóng 2012 và P/E.

Đối với NHS, cho dù gặp nhiều khó khăn nhưng NHS sẽ hoàn thành kế hoạch lợi nhuận năm nay. Tôi cũng dự

báo BHS sẽ hoàn thành kế hoạch lợi nhuận năm. Riêng đối với SBT, cho dù đánh giá công ty này không đạt kế

hoạch lợi nhuận năm, cũng như giá cổ phiếu đang chịu tác động bởi những thông tin tiêu c ực, tuy nhiên với uy

tín và những lợi thế mà công ty đạt được ở khu vực miền Nam, tôi dự báo SBT sẽ sớm vượt qua giai đoạn khó

khăn.

Hiện nay có 7 công ty đường niêm yết trên TTCK Việt Nam bao gồm: Đường Biên Hòa (BHS), Đường Kon Tum

(KTS), Đường Lam Sơn (LSS), Đường Ninh Hòa (NHS), Đường Bourbon Tây Ninh (SBT), Mía đường - Nhiệt

điện Gia Lai (SEC) và Đường Sơn La (SLS). Tuy nhiên báo cáo này tôi chỉ tập trung phân t ích, đánh giá và

khuyến nghị đối với 6 công ty đường niêm yết trừ SLS, do SLS không công bố đủ số liệu 9T/2011 làm căn cứ

so sánh và phân tích.

Page 5: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

3

I. TỔNG QUAN NGÀNH MÍA ĐƯỜNG VIỆT NAM NIÊN VỤ 2011/2012

1. Vùng nguyên liệu

Mở rộng vùng trồng mía là mục tiêu rất quan trọng, bởi vùng trồng mía có mối quan hệ rất chặt chẽ với các nhà

máy đường. Quy mô vùng trồng mía càng phù hợp với công suất thiết kế của nhà máy, thì nhà máy càng hoạt

động hiệu quả.

Theo báo cáo của Cục trồng t rọt, Bộ NN&PTNT, diện tích vùng trồng mía của nước ta tăng khá mạnh. Đến

cuối vụ 2011/2012 diện tích vùng trồng cả nước đạt khoảng 283,2 nghìn héc ta, tăng 4,3% so với niên vụ trước

đó. Năng suất mía bình quân cả nước đạt 62,4 tấn/ha, sản lượng mía cả nước được 17,5 triệu tấn, tăng so với

vụ trước gần 2 tấn/ha. Sản lượng mía ép công nghiệp đạt 14,5 triệu tấn, sản xuất được 1.306.240 tấn đường.

So với vụ trước, lượng mía ép công nghiệp tăng gần 2 triệu tấn, sản lượng đường tăng 155.780 tấn. Đây là vụ

mía thắng lợi nhất về năng suất, sản lượng mía từ trong vòng 5 năm gần đây.

Theo số liệu tổng hợp t rên 25 tỉnh thành có nhà máy đường,

tổng diện tích trồng mía đạt 271 nghìn héc ta (95,7% diện tích

cả nước), trong đó diện t ích mà các nhà máy đầu tư hoặc ký

hợp đồng bao tiêu với người nông dân đạt 234,2 nghìn héc ta

(82,7% diện tích cả nước), tăng 7,1% so với niên vụ trước.

Sản lượng mía thu hoạch đạt 16,9 triệu tấn, tăng 12,34% và

sản lượng đường sản xuất đạt 1.295.878 tấn, tăng 12,26% so

với niên vụ trước. Sau năm 2011 được coi là rất thành công

trong sản xuất và kinh doanh, nhiều công ty đường đã đầu tư

vùng trồng mía, nâng cao công suất nhà máy nên các chỉ tiêu

của niên vụ năm nay đều tăng nhanh hơn hẳn năm trước.

Tuy nhiên, niên vụ 2011/2012 vẫn tồn tại một số khó khăn:

- Tình trạng nhà máy không đủ nguyên liệu dẫn đến mua xô,

mua theo hai giá trong vùng và ngoài vùng vẫn tồn tại. Vùng của

nhà máy thì mua với giá thấp, ngoài vùng nhà máy thì mua giá

cao để có nguyên liệu, gây hệ quả xấu cho việc đầu tư xây dựng

vùng nguyên liệu làm cho nông dân không yên tâm đầu tư phát

triển vùng nguyên liệu, từ đó không nâng cao được chất lượng

cây mía.

- Tình trạng tranh mua nguyên liệu giữa các nhà máy dẫn đến

tình t rạng chặt ép mía non, mía lẫn tạp chất cao, hoặc một số

nơi khác nhà máy ngừng thu mua mía khiến mía nằm phơi nắng

tại ruộng cả tháng mới được đưa vào ép... nên chữ đường

giảm, tỷ lệ tiêu hao mía đường cao.

- Thời tiết một số nơi không thuận lợi dẫn đến cháy mía, khiến

người nông dân và nhà máy chịu thiệt hại khá lớn. Theo thông tin từ các nhà máy đường Biên Hòa và

Buorbon, năm nay tỷ lệ mía cháy tại ruộng một số nơi trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, Long An lên đến hơn 20%.

Diện tích vùng trồng mía tại 25 tỉnh thành

293,

6

270,

7

265,

6

266,

3

248,

8

271,

0

220

230

240

250

260

270

280

290

300

2007 2008 2009 2010 2011 2012

nghìn ha

-10,00%

-8,00%

-6,00%

-4,00%

-2,00%

,00%

2,00%

4,00%

6,00%

8,00%

10,00%

Tổng diện tích tăng/giảm

Tổng sản lượng mía tại 25 tỉnh thành

17.3

96,7

16.1

45,5

15.6

08,3

15.9

46,8

15.0

45,1

16.9

01,3

0

2.000

4.000

6.000

8.000

10.000

12.000

14.000

16.000

18.000

20.000

2007 2008 2009 2010 2011 2012

nghìn tấn

-20,00%

-15,00%

-10,00%

-5,00%

,00%

5,00%

10,00%

15,00%

Sản lượng cả nước tăng/giảm

Page 6: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

4

2. Tình hình phát triển của các vùng miền trồng mía

Mía là cây công nghiệp phù hợp với thời tiết và điều kiện đất đai trải rộng trên cả ba miền Bắc, Trung và Nam bộ.

Dưới đây là kết quả niên vụ 2011/2012 chi tiết trên 6 khu vực

STT Vùng sản xuất Diện tích

(ha) tỷ trọng

Năng suất

(tấn/ha)

Chữ

đường

Sản lượng mía

(tấn) tỷ trọng

CẢ NƯỚC 270.961 62,4 9,6 16.901.259

1 Miền Bắc 26.294 9,7% 61,0 10,5 1.528.306 9,0%

Miền núi phía Bắc 26.294 9,7% 61,0 10,5 1.528.306 9,0%

2 Miền Trung 151.618 56,0% 53,7 10,5 8.193.936 48,5%

Bắc Trung bộ 54.383 20,1% 61,3 10,8 2.962.506 17,5%

Duyên hải miền Trung 51.961 19,2% 52,0 10,0 2,601,503 15,4%

Tây Nguyên 45.274 16,7% 55,8 10,9 2.630.404 15,6%

3 Miền Nam 93.049 34,3% 79,1 9,3 7.178.990 42,5%

Đông Nam Bộ 34.395 12,7% 66,5 9,3 2.329.435 13,8%

Đồng bằng sông Cửu Long 58.654 21,6% 87,4 9,4 4.849.555 28,7%

Nguồn: Bộ NN & PTNT niên vụ 2011/2012

Ghi chú: chữ đường (commercial cane sugar) là khái niệm chỉ lượng đường thương phẩm có thể được chiết xuất từ cây mía .

Cơ cấu diện tích vùng trồng míá và sản lượng đường theo khu vực niên vụ 2011/2012

19,2%16,7%

21,6%

12,7%

20,1%

9,7%

M iền núi phía Bắc

Bắc Trung bộ

Duyên hải miền Trung

Tây Nguyên

Đông Nam bộ

Đồng bằng sông Cửu Long

15,4%

15,6%

28,7%

13,8%

17,5%

9,0%

M iền núi phía Bắc

Bắc Trung bộ

Duyên hải miền Trung

Tây Nguyên

Đông Nam bộ

Đồng bằng sông Cửu Long

Page 7: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

5

Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trồng mía lớn

nhất của cả nước, với diện tích chiếm tỷ trọng đến 21,6%

diện tích, sản lượng mía thu hoạch chiếm tỷ trọng 28,7% so

với cả nước. Đặc biệt, năng suất bình quân nơi đây đạt 87,4

tấn/ha, cao hơn đến 40,1% so với năng suất bình quân cả

nước.

Năng suất chính là điểm nổi bật nhất của khu vực này trong

những năm gần đây. Một số nhà máy còn báo cáo đạt năng

suất tới hơn 90 tấn/ha, ví dụ như tại nhà máy Sóc Trăng, Trà Vinh đạt năng suất 95 tấn/ha). Khu vực này có

hai mùa trồng mía, mùa vụ chính diễn ra trong giai đoạn trước mùa mưa (từ tháng 4 đến tháng 6), cây mía sau

khi trồng khoảng 10-12 tháng là có thể thu hoạch. Ở một số nơi đất thấp còn một vụ phụ là trồng những giống

mía có thời gian thu hoạch khoảng 8 tháng, thời gian trồng ngay sau mùa lũ (lũ về khoảng tháng 9, 10), trước

lũ năm sau thì thu hoạch mía.

Khu vực Bắc Trung Bộ là vùng trồng mía lớn thứ hai cả

nước, chủ yếu tập t rung ở hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An

với diện tích đạt gần 54,4 ha (tỷ trọng 20,1%), sản lượng mía

đạt 2,96 triệu tấn (tỷ trọng 17,5%). Điểm nổi bật của khu vực

này là chữ đường luôn đạt khá cao, bình quân khoảng 10,8

ccs, tuy nhiên điểm yếu nhất là năng suất. Niên vụ

2011/2012, cho dù được đầu tư thâm canh tốt nên khu vực

này đã tăng được năng suất bình quân lên 54,6 tấn/ha, tuy

nhiên so với các vùng khác thì vẫn còn rất thấp.

Khu vực Đông Nam Bộ có diện tích 34,4 nghìn héc ta (tỷ

trọng 12,7%), tập trung chủ yếu ở tỉnh Tây Ninh (gần 23,9

nghìn héc ta), còn lại là tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, trong niên

vụ năm nay, diện t ích lại giảm 1,9% do tình trạng mía cháy

tại nhiều nơi trên địa bàn tỉnh Tây Ninh, khiến diện t ích nơi

đây giảm khoảng 6,1%. Tuy nhiên, năng suất mía ở khu vực

này vẫn đạt bình quân 66,5 tấn/ha, do người dân nơi đây

được các công ty đường hỗ trợ về kỹ thuật, giống mía, công

cụ và vốn nên vùng trồng của họ có năng suất mía cao hơn

so với các vùng khác. Khu vực này hiện đang có thêm một lợi thế là mở rộng vùng t rồng mía sang Campuchia

(dự án của cả 2 công ty đường Biên Hòa và Đường Buorbon Tây Ninh).

Khu vực Tây Nguyên là nơi có tốc độ tăng trưởng lớn nhất

cả nước về sản lượng mía năm nay. Tuy cây mía gặp phải

sự canh tranh lớn từ cây cà phê và sắn lát nhưng diện tích

trồng mía nơi đây vẫn đạt hơn 45 nghìn héc ta, tăng 19,1%

so với niên vụ trước, sản lượng mía đạt hơn 2 triệu tấn, tăng

đến 28,9% so với niên vụ trước.

Niên vụ 2011/2012 +/-%

Số tỉnh có nhà máy 7

Số nhà máy đường 9

Diện tích (ha) 58.654 6,5%

Năng suất (tấn/ha) 87,4 8,8%

Chữ đường BQ 9,4

Sản lượng mía (tr.tấn) 4.849.555 9,6%

Niên vụ 2011/2012 +/-%

Số tỉnh có nhà máy 2

Số nhà máy đường 6

Diện tích (ha) 54.383 9,9%

Năng suất (tấn/ha) 54,5

Chữ đường BQ 9,7

Sản lượng mía (tr.tấn) 2.962.506 16.1%

Niên vụ 2011/2012 +/-%

Số tỉnh có nhà máy 2

Số nhà máy đường 5

Diện tích (ha) 34.395 -1,9%

Năng suất (tấn/ha) 66,5 5,1%

Chữ đường BQ 9,1

Sản lượng mía (tr.tấn) 2.329.435 1.0%

Niên vụ 2011/2012 +/-%

Số tỉnh có nhà máy 4

Số nhà máy đường 5

Diện tích (ha) 45.274 19,1%

Năng suất (tấn/ha) 58,1

Chữ đường BQ 9,9

Sản lượng mía (tr.tấn) 2.630.404 28,9%

Page 8: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

6

Khu vực duyên hải miền Trung: các vùng trồng mía ở khu

vực này dọc ven biển t rên phạm vi 6 tỉnh từ Quảng Ngãi đến

Phan Rang, ngoại trừ công ty đường Quảng Ngãi có một

nhà máy đường hoạt động trên địa bàn tỉnh Gia Lai (khu vực

Tây Nguyên). Niên vụ 2011/2012, khu vực này không có

biến động lớn so với niên vụ trước, diện t ích vùng trồng chỉ

tăng 1,5% nhưng sản lượng mía lại giảm khoảng 0,5% .

Khu vực miền núi phía Bắc là vùng có diện tích trồng mía

tăng mạnh nhất, nhưng chủ yếu do một nhà máy của công ty

Đường Tuyên Quang hoạt động trở lại sau khi đã ngừng

hoạt động trong niên vụ trước (để sáp nhập vào công ty

Đường Sơn Dương). Niên vụ 2011/2012, diện tích khu vực

này tăng 31,8%, sản lượng mía tăng 28,3%.

3. Các nhà máy đường

Theo quy hoạch đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 trong QĐ 124/2012/QĐ-TTg, nhà nước chủ

trương không xây dựng thêm nhà máy đường. Hiện nay cả nước có 37 nhà máy đường đang hoạt động, phân

bố rộng ở cả 3 miền đất nước, khoảng cách giữa các nhà máy khá lớn, trừ khu vực Đồng bằng sông Cửu

Long. Các nhà máy đường có thể hoạt động tối đa 6 tháng tùy từng vùng miền, bình quân chỉ khoảng 4 đến 5

tháng từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, sau đó nhà máy nghỉ bảo dưỡng (trừ một số nơi đất thấp ở

đồng bằng sông Cửu Long có thể thu hoạch thêm một vụ mía trong tháng 7 và tháng 8, hoặc 1 số nơi nhà máy

hoạt động muộn để tận dụng mía cuối vụ).

Sản lượng đường của các nhà máy theo khu vực

Số lượng nhà máy

Diện tích (ha)

Diện tích BQ/nhà

máy

Tổng công suất (tấn mía /ngày)

Sản lượng đường (tấn)

Tỷ lệ mía/ đường bq

CẢ NƯỚC 37 234.243 6.331 129.900 1.295.878 0,1

Miền núi phía Bắc 4 15.499 3.875 7.000 91.150 9,9

Bắc Trung Bộ 6 51.941 8.657 31.100 260.010 10,7

Duyên hải miền Trung 8 60.767 7.596 28.800 298.790 11,1

Tây Nguyên 5 36.223 7.245 19.400 181.430 10,8

Đông Nam Bộ 5 29.668 5.934 18.000 168.220 11,8

Đồng bằng sông Cửu Long 9 40.145 4.461 25.600 296.278 12,0

Nguồn: Bộ NN & PTNT niên vụ 2011/2012

Niên vụ 2011/2012 +/-%

Số tỉnh có nhà máy 6

Số nhà máy đường 8

Diện tích (ha) 51.961 1,5%

Năng suất (tấn/ha) 50,1

Chữ đường BQ 9,6

Sản lượng mía (tr.tấn) 2.601.053 -0,5%

Niên vụ 2011/2012 +/-%

Số tỉnh có nhà máy 4

Số nhà máy đường 4

Diện tích (ha) 26.294 31,8%

Năng suất (tấn/ha) 58,2

Chữ đường BQ 10,4

Sản lượng mía (tr.tấn) 1.528.306 28,3%

Page 9: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

7

Việc cung cấp đủ nguyên liệu mía cho nhà máy và

việc phát triển vùng trồng mía phù hợp với công suất

thiết kế nhà máy rất quan trọng. Theo nhiều chuyên

gia trong ngành, quy mô nhà máy càng lớn thì hoạt

động càng hiệu quả, tuy nhiên, các nhà máy đường

không thể tự ý nâng quy mô và công suất nếu vùng

trồng tại đó không có tiềm năng mở rộng tương ứng

Điểm đáng chú ý nhất trong niên vụ năm nay là rất

nhiều nhà máy đã nâng công suất ép mía. Theo số

liệu tổng kết niên vụ 2011/2012, có 21/37 nhà máy

đã nâng công suất, trong đó có nhiều nhà máy đã

nâng lên mức rất cao so với năm trước trước, ví dụ

như nhà mấy đường Lam Sơn nâng công suất thêm

50%, nhà máy đường Biên Hòa – Trị An nâng thêm

48%, nhà máy đường Sơn La nâng thêm gần 47%,

nhà máy đường AN Khê – Gia Lai (trực thuộc công

ty đường Quảng Ngãi) nâng thêm gần 43%.

Theo báo cáo tổng kết ngành mía đường niên vụ

2011/2012, tổng công suất thiết kế của các nhà máy

đạt 129.900 tấn mía ép/ngày, tương đương sản

lượng mía ép khoảng 19 – 20 triệu tấn/năm. Thực tế

cả niên vụ, tổng sản lượng mía mà các nhà máy đã

ép đạt 14,5 triệu tấn, như vậy bình quân một nhà

máy đường hoạt động với công suất thực bằng 72,5

- 74,4% công suất thiết kế. Nói cách khác, vùng

trồng mía mới chỉ cung cấp bình khoảng 3/4 lượng

nguyên liệu cần thiết cho các nhà máy đường trên

cả nước.

Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tập trung 9 nhà máy, tổng công suất thiết kế 25.600 tấn mía ép/ngày,

nhưng diện t ích vùng t rồng mía bình quân một nhà máy chỉ hơn 4 nghìn héc ta, thấp hơn rất nhiều so với các

vùng khác (trừ miền núi phía Bắc). Sức ép cạnh tranh cũng rất cao dẫn đến tình trạng các nhà máy thường vào

vụ sớm, ép mía non dẫn đến chữ đường thấp, hiệu suất thu hồi đường trên mía rất thấp, tỷ lệ tiêu hao cao, ví

dụ như nhà máy Đường Long Mỹ Phát tỷ lệ tiêu hao lên đến 14 mía/đường, nhà máy Đường NIVL 13,5

mía/đường, còn bình quân cả vùng là 12 mía/đường.

Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích vùng trồng mía lớn nhất, năng suất cao nhất nước nhưng năm

nay sản lượng đường nơi đây chỉ chiếm tỷ trọng 22,9% sau khu vực duyên hải miền Trung, và không thực sự

vượt trội so với khu vực Bắc Trung Bộ.

Page 10: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

8

Vùng Đông Nam Bộ có 5 nhà máy thuộc 3 công ty

đường, trong đó hai công ty thuộc loại có quy mô lớn

và thương hiệu nổi tiếng là Đường Biên Hòa (BHS)

và Đường Buorbon Tây Ninh (SBT). Thuận lợi lớn

nhất của các công ty này là nhà máy được đặt ngay

sát tam giác kinh tế trọng điểm Tp.HCM – Đồng Nai -

Bình Dương. Hiện rất nhiều công ty công nghiệp

thực phẩm lớn như Coca, Pepsi, Red Bull, URC Việt

Nam, Vinacafe, Vinamilk.. đều là đối tác truyền thống

của BHS và SBT. Tuy nhiên, các nhà máy đang gặp

phải là điều kiện đất đai và thời tiết. Cụ thể, tình

trạng cháy mía đã diễn ra trên diện rộng, lượng mía

cháy chuyển về các nhà máy của hai doanh nghiệp

trên chiếm tới 20% và 30% tổng lượng mía, khiến tỷ

lệ tiêu hao mía đường cao hơn và sản lượng đường

giảm so với năm trước .

Các nhà máy ở những khu vực khác, nói chung tuy vẫn gặp những khó khăn mang tính đặc trưng vùng miền,

ví dụ như sự cạnh tranh của cây lúa ở Đồng bằng sông Hồng, cây sắn ở khu vực Tây nguyên, hay mưa bão

hàng năm ở các tỉnh duyên hải miền Trung, nhưng trong niên vụ 2011/2012 vẫn đạt những kết quả rất tích cực.

4. Thị trường tiêu thụ đường

Theo đánh giá của Bộ NN & PTNT, sau 3 vụ sản xuất mía đường sụt giảm liên tiếp, vụ sản xuất 2011/2012 đã

sản xuất đường đủ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước năm nay, thậm chí nếu cộng với khoảng 230 nghìn

tấn tồn kho tại thời điểm cuối tháng 31/7, lượng đường nhập khẩu theo thỏa thuận WTO là 70.000 tấn và

đường nhập lậu không ngăn chặn được thì lượng đường hiện dư thừa rất lớn.

Theo Hiệp hội Mía đường Việt Nam, tốc độ tiêu thụ đường chậm lại chủ yếu do sức tiêu dùng chững lại, cũng

như tình hình tồn kho gia tăng tại cả những công ty công nghiệp lớn sử dụng đường làm nguyên liệu. Ngoài ra

còn phải kể đến sức ép quá lớn từ đường nhập lậu qua biên giới Tây Nam và đường tạm nhập tái xuất sang

Trung Quốc (nhưng thực chất không tái xuất). So với năm trước, giá bán đường tại nhà máy hiện đã giảm

xuống dưới 16.000 đ/kg (giảm khoảng 3.000 đồng/kg so với mức đỉnh cuối năm 2011), nhưng việc tiêu thụ

đường vẫn đang rất khó khăn. Ngoài ra, tình t rạng đường nhập lậu giá rẻ từ Thái Lan qua biên giới Tây Nam

diễn ra thường xuyên liên tục đã ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tiêu thụ đường của các nhà máy trong khu

vực này.

Khả năng nhập khẩu đường vào nước ta, theo lộ trình hội nhập và cam kết WTO/AFTA, Việt Nam phải mở cửa

cho thị trường đường nhưng được phép duy trì hạn ngạch và thuế quan. Nếu đường nhập khẩu vào Việt Nam

không theo hạn ngạch, sẽ phải chịu thuế 80 – 85%, điều này có tác dụng bảo hộ đường trong nước, tuy nhiên

hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp đang đề nghị được cấp hạn ngạch nhập đường. Lý do chính là, giá đường

nhập khẩu từ Thái Lan t rong hạn ngạch thấp hơn giá bán sỉ đường nội địa khoảng 10% - 15%. Nếu doanh

nghiệp thực phẩm nhận được quota thì doanh nghiệp đó sẽ được lợi về giá hơn giá mua trong nước. Nếu các

công ty đường có quota, công ty đó sẽ nhập về và bán với giá bằng giá trong nước, phần chênh lệch 10 -15%

là khoản lợi nhuận từ kinh doanh đường. Do vậy, tình trạng doanh nghiệp gửi đơn lên Bộ Công thương xin

nhập khẩu đường mà nguyên nhân chủ yếu chính là chênh lệch giá cả.

Ngoài ra, cũng vì lý do chênh lệch giá nên ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long luôn diễn ra t ình trạng nhập

lậu và giá bán ở khu vực này luôn thấp hơn so với giá ở Hà Nội và Tp.HCM. Điều này cũng khiến cho lợi

nhuận của các nhà máy đường trong khu vực này thấp hơn so với các nhà máy ở các vùng khác.

0 50 100 150 200 250 300 350

M iền núi phía Bắc

Bắc Trung bộ

Duyên hải miền Trung

Tây Nguyên

Đông Nam bộ

Đồng bằng sông Cửu Long

09/10 10/11 11/12

Sản lượng đường từng khu vực qua 3

niên vụ

Page 11: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

9

Năm 2011, Việt Nam nhập khoảng 250 nghìn tấn đường

trong hạn ngạch (giảm 44,4%), tổng kim ngạch nhập khẩu

đạt 252,7 triệu USD (tăng 19,9% so với năm 2010).

Đường nhập chủ yếu từ Thái Lan chiếm tỷ trọng 47,7%

kim ngạch nhập khẩu, sau đó là Mỹ chiếm tỷ trọng 12,9%.

Kim ngạch nhập khẩu tăng trong khi số lượng giảm do giá

đường thế giới tăng (giá đường tinh luyện Thái Lan tăng

bình quân 21,3%, giá đường thô NewYork tăng 22,7%).

Khả năng xuất khẩu đường: Sự chênh lệch giá trong

nước và quốc tế là yếu tố cản trở khả năng xuất khẩu

đường, tuy nhiên Việt Nam hiện vẫn xuất khẩu sang một số

nước, chủ yếu đường tinh luyện vào thị trường Trung Quốc

theo cả hai đường chính ngạch và tiểu ngạch. Năm 2011

kim ngạch xuất khẩu vào nước này là 191,6 triệu USD,

chiếm 97,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ đầu năm 2012,

ở miền Bắc đã diễn ra tình trạng xuất lậu đường tiểu ngạch

qua Trung Quốc.

Theo báo cáo của Armajaro, dự báo nhập khẩu của Trung

Quốc trong niên vụ 2012/2013 sẽ đạt khoảng 1,94 triệu tấn, giảm khoảng 1,03 triệu tấn so với niên vụ

2011/2012 và sản lượng đường đạt 12,5 triệu tấn, tăng 8,7% so với vụ trước do bội thu trong mùa vụ tới. Do

đó, khả năng nhập khẩu đường của Trung Quốc trong thời gian tới sẽ giảm đáng kể và nếu Trung Quốc giảm

nhập khẩu đường trong thì sẽ dẫn tới khả năng cung vượt cầu và tồn kho lớn ở nước ta.

Kim ngạch NK theo loại đường

90,3

2

91,0

2

210,

70

112,

56

108,

06

252,

70

29,3

6

32,0

8

0

50

100

150

200

250

300

Đường thô Đường tinh

luyện

Đường

khác

Tổng cộng

(triệu USD) 2010 2011

Cơ cấu loại đường nhập khẩu từ Thái Lan

năm 2011

77,4%

21,3%

1,3%Đường tinh luyện

Đường thô

Đường khác

Cơ cấu giá trị nhập khẩu đường năm 2011

theo quốc gia

47,3%

3,3%8,1%

12,8%

28,5%

Thái Lan

Philippines

Malaysia

Mỹ

Các quốc gia khác

Cơ cấu thị trường XK đường 2011

1,7%

0,7%

97,6%

China

Saudi Arabia

Các nước khác

Page 12: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

10

II. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

1. Thuận lợi

- Mía là loại cây công nghiệp có thời hạn canh tác đến khi thu hoạch bình quân từ 10 đến 12 tháng (một số

giống sử dụng tại các khu vực đất thấp, hàng năm phải né lũ ở đồng bằng sông Cửu Long có thể cho thu

hoạch sau 8 tháng), đặc điểm sinh học của cây mía phù hợp với điều kiện đất đai và thời tiết ở trên cả ba

miền của nước ta.

- Đường là sản phẩm thiết yếu trong nền kinh tế nên ngành mía đường luôn được đặt dưới sự bảo hộ của

nhà nước. Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp khi xuất khẩu đường phải được phép của Bộ Công

Thương, còn nhập khẩu thì theo hạn ngạch hàng năm (quota). Nếu doanh nghiệp nhập khẩu trong hạn

ngạch thì được hưởng thuế suất 5% (từ năm 2013 sẽ là 0%), nhưng lượng đường nhập theo hạn ngạch

được kiểm soát chặt chẽ với mục tiêu ưu tiên cân đối nhu cầu trong nước, tránh gây tồn kho lớn. Ngoài ra,

doanh nghiệp vẫn được phép nhập khẩu ngoài hạn ngạch, nhưng thuế nhập khẩu sẽ được áp đến 80% tính

trên giá trị đường thô và 85% trên giá trị đường tinh luyện. Những mức thuế này khiến giá nhập khẩu đội

lên rất cao so với giá trong nước, do đó có tác dụng rất lớn trong việc hạn chế nhập khẩu ngoài hạn ngạch.

- Niên vụ 2011/2012, bình quân giá thu mua mía được giữ ở mức 950 - 1.100 đồng/kg, giảm khoảng 100 -

200 đồng/kg tùy vùng miền. Giá thu mua mía hiện chiếm khoảng 70 - 75% giá thành sản xuất đường và

theo BCTC của các công ty đường đang niêm yết, giá thành sản xuất đường chiếm khoảng 70 - 80% doanh

thu. Như vậy giá thu mua mía chiếm khoảng 50-60% doanh thu. Phạm vi 40 - 50% còn lại là tỷ suất lợi

nhuận rất lớn nếu nhà máy đường tiết kiệm được các chi phí vận chuyển, cân đong, ép mía, chi cố định

(khấu hao, quản lý) và gia tăng sản lượng bán.

- Nhiều công ty mía đường không phát triển kênh bán lẻ mà chủ yếu tập trung vào kênh bán sỉ cho các công

ty công nghiệp và thương mại. Trong tình hình cung cầu thường xuyên cân bằng hàng năm, việc bán sỉ này

giúp công ty tiết kiệm được nhiều chi phí marketing, bán hàng và quản lý doanh nghiệp (các chi phí này chỉ

chiếm tỷ lệ khoảng 5 - 8% doanh thu), nhờ đó tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu năm 2011 đạt

bình quân trên 20%, ROE bình quân trên 30%. Đây là mức tỷ suất lợi nhuận rất lớn nếu so sánh với các

ngành SXKD khác.

- Đầu năm 2012, một số nhà máy đường đã tăng công suất ép mía như hai nhà máy đường Biên Hòa – Trị

An và Biên Hòa – Tây Ninh của công ty Đường Biên Hòa, nhà máy đường Buorbon Tây Ninh, nhà máy

đường An Khê của công ty Đường Quảng Ngãi, nhà máy đường Cần Thơ... Tuy nhiên, những công ty này

vốn có những lợi thế nhất định có vị trí gần vùng tiêu thụ và vùng trồng mía thuận lợi để mở rộng... nên việc

gia tăng công suất không gây ra tình trạng tranh mua nguyên liệu như ở nơi khác.

- Tuy giá đường nội địa cao hơn so với giá thế giới, nhưng đường Việt Nam dự báo vẫn có thể được xuất

khẩu sang Trung Quốc chừng nào nhu cầu của nước này còn quá lớn so với cung. Điều này có thể giúp

các nhà máy đường tiêu thụ hàng tồn kho, đặc biệt vào tháng 8 hay tháng 9 khi các nhà máy chuẩn bị bước

vào niên vụ mới, điều này giúp giá cả thị trường thường xuyên giữ được ở mức cao hơn so với giá thế giới .

Lấy ví dụ, việc xuất khẩu trong Q3/2011 đã giúp ngành đường tăng giá đường trong nước lên đến hơn 20

ngàn đồng/kg sau khi đã giảm giá trong Q2.

- Theo Quyết định 26/2007/QĐ-TTg, một trong những điểm quan trọng trong chính sách phát triển ngành mía

đường là không xây dựng thêm nhà máy mới trong nước. Điều này ngăn chặn ý định tham gia thị trường

của những doanh nghiệp mới.

Page 13: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

11

2. Khó khăn

- Khó khăn lớn nhất của ngành mía đường Việt Nam là bài toán xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu mía.

Công tác giống mía, kỹ thuật canh tác, công tác thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn nên chữ đường

nhìn chung còn thấp (chữ đường bình quân của Thái Lan thường xuyên trên 11 ccs, trong khi chữ đường

Việt Nam chỉ khoảng 8-9 ccs).

- Việc nhập lậu đường không ngăn chặn được đã tác động lớn đến điều hành cung cầu và giá đường lậu

không chịu thuế nên có thường xuyên gây khó khăn cho các công ty đường trong nước.

- Chênh lệch giá đường tuy mang lại nhiều lợi nhuận cho công ty trong ngành, nhưng lại làm gia tăng chi phí

cho các ngành khác sử dụng đường làm nguyên liệu. Ngay từ đầu năm 2012, khi nền kinh tế có dấu hiệu

giảm phát, sức tiêu dùng chững lại... thì việc duy trì mức chênh lệch giá sỉ trong nước cao hơn khoảng 2

ngàn đồng/kg so với giá nhập khẩu đã gây ra phản ứng từ các công ty lớn như Vinamilk, URC, Pepsi...

- Phần lớn các nhà máy đường đều bán sỉ cho các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp khác như bánh

kẹo, sữa, nước giải khát..., cho các công ty thương mại có chức năng phân phối hay bán cho các nhà máy

đường của công ty khác trong ngành, còn thị trường bán lẻ lại do các công ty phân phối “đảm trách”. Chỉ có

một vài doanh nghiệp đang phát triển mạng lưới bán lẻ đến người tiêu dùng như Đường Biên Hòa, Bourbon

Tây Ninh... Như vậy, trong những thời điểm nhất định khi có dấu hiệu tồn kho gia tăng, các nhà máy đường

buộc phải chấp nhận hạ giá bán sỉ chứ không có khả năng tác động đến giá bán lẻ trong nước.

- Tuy giá đường trong nước năm nay vẫn luôn duy trì ở mức cao hơn giá thế giới, nhưng đối với nhiều công

ty trong ngành, tỷ suất lợi nhuận lại đang có dấu hiệu suy giảm. Lý do chính đến từ cả hai phía đầu vào và

đầu ra. Giá thu mua mía không thể giảm nhiều, thậm chí một số nơi tuy giảm nhưng công ty mía lại phải hỗ

trợ những khoản chi phí khác cho người nông dân để người dân không chặt bỏ mía chuyển sang cây trồng

khác, vì thế giá thành 1 kg đường không giảm mà lại tăng. Ngoài ra, tuy ngành đường trong nước được bảo

hộ, giá đường trong nước cao hơn giá thế giới nhưng do t ình trạng nhập lậu nên các công ty đường cũng

buộc phải hạ giá để “cạnh tranh”.

- Không có nhiều công ty đường mạnh dạn hỗ trợ vốn cho người dân như trường hợp của công ty đường

Bourbon Tây Ninh (công ty tiếp tục hỗ trợ 9 triệu đồng/ha, chưa kể hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng, máy móc

và giống mía), do đó nhiều công ty đường đang lo người dân chuyển đổi từ trồng mía sang những loại cây

công nghiệp khác như cao su, sắn lát,..

- Một số nơi ở Miền Trung – Tây Nguyên, ĐBS Cửu

Long mặc dù đã được quy hoạch nhưng một số

vùng mía của các nhà máy khá gần nhau hoặc bị

trùng lắp, hoặc quy mô vùng trồng lại quá nhỏ so

với công suất nhà máy, việc tổ chức thu mua mía

lại tương đối phức tạp nên khi giá đường lên cao,

việc tranh mua mía thường diễn ra.

- Đường tuy vẫn xuất khẩu được nhưng hơn 90% là

xuất sang Trung Quốc. Đây đang là lợi thế nhưng

cũng trở thành khó khăn nếu Trung Quốc tự cân đối

được cung cầu hoặc gia tăng nhập khẩu từ các

nước khác. Giá thành cao luôn là điểm yếu của

ngành đường nước ta và chưa có dấu hiệu cho

thấy có thể sớm khắc phục.

Theo thông cáo báo chí, tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai

(HAGL) đã triển khai dự án cụm công nghiệp mía

đường Hoàng Anh Attapeu tại Lào, bao gồm vùng

trồng 12 nghìn héc ta (trong đó HAGL tự đầu tư 8 nghìn

héc ta), một nhà máy đường với công suất 7.000 tấn mía

ép/ngày và một số các nhà máy sử dụng các phụ phẩm

từ mía đường như nhà máy cồn ethanol, nhà máy điện

và nhà máy phân bón. Dự kiến HAGL sẽ có tấn đường

đầu tiên từ niên vụ 2012/2013. Hiện đang có nhiều thông

tin về khả năng HAGL sẽ xin nhập đường về Việt Nam

để tiêu thụ trong nước, với mức thuế quan có khả năng

chỉ ở mức 2,5%.

Page 14: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

12

- Một số doanh nghiệp đang triển khai các dự án cụm nhà máy đường ở Lào và Campuchia như Hoàng Anh

Gia Lai, Buorbon Tây Ninh..., dự kiến sẽ có thêm lượng cung đường về Việt Nam ngay từ cuối năm 2012,

điều này sẽ gia tăng áp lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước.

III. TỔNG QUAN NGÀNH MÍA ĐƯỜNG 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2012

1. Tình hình ngành đường 9 tháng đầu năm 2012

Theo báo cáo tổng kết niên vụ 2011/2012 của Bộ NN&PTNT, các nhà máy đường đã ép 14,5 triệu tấn mía, sản

xuất 1,3 triệu tấn đường, tăng 12,3% so với vụ trước và cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước cho

đến khi vào vụ 2012/2013. Kết quả khả quan này đạt được nhờ hai yếu tố: vùng nguyên liệu tăng gần 12 nghìn

ha và năng suất mía bình quân cả nước đạt 61,7 tấn/ha, tăng 1,2 tấn/ha so với vụ trước. Tuy nhiên t rong 9

tháng đầu năm nay, ngành mía đường đang đối mặt với nhiều khó khăn là tình t rạng giá bán giảm và tồn kho

tăng.

Giá bán đường trong nước đã không còn giữ được mức cao như cuối năm 2011 mà bắt đầu theo chiều hướng

giảm, tuy nhiên có sự phân hóa rõ nét giá đường RS và RE. Đến cuối tháng 9, giá đường RS tại kho các nhà

máy đường đã giảm từ 10-20%, trong khi đường RE giảm khoảng 2-5% so với thời điểm đầu năm. Giá đường

trong nước giảm do nguyên nhân: (i) giá đường thế giới giảm, (ii) sức ép giảm giá từ các công ty công nghiệp

thực phẩm, (iii) tình trạng đường nhập lậu và đường thẩm lậu từ tạm nhập tái xuất.

- Tính đến cuối tháng 9 năm nay, giá đường thô trên sàn New York chỉ còn 20,42 cents/pound, tương đương

45 cents/kg, giảm 15,5% so với đầu năm và giảm 18,4% so với mức đỉnh 25 cents/pound tại thời điểm cuối

tháng 2. Biến động của giá đường thế giới đã tác động lên giá bán sỉ đường trong nước. Trong tháng 9,

đường RS được chào bán ở mức giá 14.500 – 15.500 đồng/kg, đường RE được bán ở mức 17.000 –

18.000 đồng/kg.

- Sức ép từ các công ty công nghiệp thực phẩm là yếu tố góp phần làm giảm giá đường. Ngành đường là

ngành được nhà nước bảo hộ nên từ giữa năm 2011 đến Q1/2012, giá đường trong nước thường xuyên

cao hơn giá đường thế giới, thậm chí tại một số thời điểm trong Q1, mức chênh lệch giá lên đến hơn 4.000

đồng/kg. Mức chênh lệch giữa giá đường trong nước và thế giới diễn ra trong tình hình kinh tế khó khăn đã

khiến nhiều công ty công nghiệp lớn gửi kiến nghị phản đối lên Bộ Công Thương và xin được cấp quota

nhập khẩu đường để giảm chi phí, điều này đã gây áp lực buộc các công ty đường trong nước phải giảm

giá bán.

- Tình trạng đường nhập lậu và thẩm lậu từ hoạt động tạm nhập tái xuất cũng là yếu tố làm giảm giá đường

trong nước, thậm chí gây ra tình t rạng dư thừa nguồn cung và tồn kho. Đường nhập lậu hầu hết là đường

RS có xuất xứ từ Thái Lan, với giá bán ở mức 14.000 – 14.500 đồng/kg, thấp hơn ít nhất 5% so với giá

đường RS trong nước. Nhiều công ty đường vì thế đã phải giảm giá bán xuống dưới mức 15 ngàn

đồng/kg, trong đó có cả hai công ty niêm yết là KTS và SEC.

Một điểm đáng lưu ý là sự sụt giảm giá đường hầu như chỉ diễn ra đối với phương thức bán sỉ tại kho, còn giá

bán lẻ vẫn luôn được duy trì ở mức cao. Theo báo cáo của Agromonitor, giá bán lẻ bình quân trong 9 tháng

đầu năm nay dao động quanh mức 22-26 ngàn đồng/kg, không hề thấp hơn so với giá bán trong năm 2011. Tại

Tp.HCM, hơn 90% thị phần bán lẻ thuộc về BHS, trong đó các sản phẩm đường túi của công ty này được bán

từ 24-26 ngàn đồng/kg.

Page 15: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

13

Một số chính sách, văn bản pháp luật đáng chú ý

Trong tháng 7/2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định 60/2012/NĐ -CP hướng dẫn việc thực hiện Nghị quyết

số 29/2012/QH13 của Quốc hội về triển khai một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá

nhân, theo đó các công ty mía đường có số lao động thường xuyên trong năm hơn 300 người sẽ được giảm

30% thuế TNDN. Nghị định 60/2012/NĐ-CP được coi là sự hỗ trợ rất lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành

mía đường.

Trong tháng 8/2012, Văn phòng Chính phủ đã có công văn 6576/VPVP-KTTH theo đó đồng ý với đề nghị của

Bộ Tài chính và Bộ Công thương về việc miễn thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng nông sản, trong đó có

mía đường do các tổ chức và cá nhân đầu tư, trồng tại Campuchia. Các công ty đang đầu tư trồng mía tại

Campuchia như BHS và SBT sẽ được hưởng ưu đãi này kể từ vụ 2012/2013.

2. Dự báo ngành mía đường Q4/2012

Hiện ngành mía đường đã bước vào vụ thu hoạch vụ 2012/2013 bắt đầu từ giữa tháng 10/2012 và kết thúc

tháng 4/2013. Vụ 2012/2013 dự kiến diện tích vùng nguyên liệu sẽ tiếp tục được mở rộng lên gần 270 ngàn ha,

tăng 14,7% so với vụ t rước, bao gồm cả diện t ích tại Campuchia của một số công ty đường như BHS, SBT

nhưng không tính đến diện tích 6.000 ha tại Lào của tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai đầu tư. Theo kế hoạch sản

xuất của các nhà máy, sản lượng mía ép là 16,7 triệu tấn, tăng 15,1% và sản lượng đường dự kiến đạt 1,59

triệu, tấn, tăng 23% so với vụ trước, trong đó đường luyện RE dự kiến là 450.000 tấn, chiếm 28,3% tổng sản

lượng đường sản xuất.

Kế hoạch mở rộng vùng nguyên liệu, tăng sản lượng mía cũng như sản lượng đường đang làm gia tăng nỗi lo

cung vượt cầu bởi trên thị trường vẫn còn hàng trăm ngàn tấn đường tồn kho và đường nhập lậu. Tuy Chính

phủ đã cho phép xuất khẩu đường tiểu ngạch sang Trung Quốc để giảm lượng đường tồn kho nhưng việc xuất

khẩu dự báo gặp khó khăn do giá đường trong nước vẫn cao giá hơn giá đường Thái Lan, nước lớn nhất

ASEAN xuất khẩu đường vào Trung Quốc. Dự báo trong các tháng cuối năm nay, giá đường RS khó có khả

năng phục hồi.

Đối với đường RE, giá bán được dự báo tăng nhẹ do các công ty trong ngành thực phẩm, đặc biệt là đồ uống

bước vào vụ Tết. Hiện nay chỉ có 9/38 nhà máy đường của các công ty SBT, BHS, LSS, NIVL, La Ngà, Việt

Đài, Tate & Lyle sản xuất đường RE đáp ứng nhu cầu của ngành đồ uống, nhất là đối với các công ty lớn như

Pepsi, Coca Cola, Vinamilk, URC, Vinacafe… Sản lượng đường RE chiếm khoảng 30% tổng sản lượng đường

sản xuất trong khi nhu cầu lại cao nên đường RE vẫn được tiêu thụ ổn định, ít tồn kho và không phải cạnh

tranh với đường nhập lậu RS.

Page 16: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

14

IV. KẾT QUẢ KINH DOANH 9 THÁNG ĐẦU NĂM 2012 CỦA 6 CÔNG TY ĐƯỜNG NIÊM YẾT

Kết quả kinh doanh 9T/2012 của 6 công ty đường niêm yết

Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu 9T/12 9T/11 +/-%

Doanh thu thuần 6.372,4 6.012,4 6,0%

Giá vốn hàng bán 5.455,4 4.523,2 20,6%

Lợi nhuận gộp 917,0 1.489,2 -38,4%

Tỷ suất lợi nhuận gộp 14,4% 24,8%

Doanh thu tài chính 293,2 144,3 103,3%

Chi phí tài chính 322,9 251,0 28,7%

Chi phí hoạt động 245,9 236,0 4,2%

Lợi nhuận trước thuế 631,1 1.182,3 -46,6%

Tỷ suất lợi nhuận trước thuế 9,9% 19,7%

Lợi nhuận sau thuế 551,7 997,6 -44,7%

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế 8,7% 16,6%

1. Tăng trưởng

Kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm nay của các công ty đường được đánh giá là thấp hơn nhiều so với kỳ

vọng từ đầu năm. Tổng doanh thu của 6 công ty đường niêm yết chỉ tăng nhẹ 6%, trong khi tổng lợi nhuận gộp,

lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế giảm lần lượt 38,4%, 46,6% và 44,7% so với cùng kỳ năm trước.

Điều quan trọng là tuy có sự khác biệt về tăng t rưởng doanh thu giữa các công ty đường, nhưng cả 6 công ty

đường niêm yết đều suy giảm lợi nhuận.

Tăng trưởng doanh thu

Tuy có sự phân hóa thành hai nhóm tăng trưởng doanh thu, nhưng cả 6 công ty đường niêm yết đều công bố

thông tin về việc giảm giá bán. Đặc biệt đối với các công ty sản xuât đường RS như KTS và NHS, giá bán giảm

là nguyên nhân khiến doanh thu giảm 19,9% và 4,5% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu thuần

Đơn vị: tỷ đồng, nguồn: BCTC các công ty đường

Page 17: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

15

BHS và SBT đã công bố doanh thu 9 tháng đầu năm

2012 tăng nhẹ lần lượt là 25,3% và 2,6% so với cùng

kỳ năm trước nhờ vào lợi thế là hai công ty duy nhất

sản xuất đường RE ở khu vực miền Nam. Theo đại

diện của BHS, giá bán giảm khoảng 3% so với cùng

kỳ năm trước không gây khó khăn gì cho công ty,

lượng đường tiêu thụ hàng tháng của BHS vẫn duy trì

ổn định từ 10.000 – 13.000 tấn. Đối với SBT, giá bán

giảm khoảng 2% không phải là nguyên nhân chính

khiến doanh thu tăng nhẹ 2,6%, mà do công ty đã tiêu

thụ gần hết lượng đường tồn kho ngay trong 6 tháng

đầu năm. Lượng đường tiêu thụ trong Q3/2012 chủ

yếu là đường “tạm nhập tái xuất”, điều này khiến

doanh thu Q3/2012 của SBT giảm 29,3% so với

Q3/2011.

Đối với công ty sản xuất đường RS là NHS và sản xuất cả đường RE lẫn đường RS là LSS, giá bán giảm từ 9-

15% so với cùng kỳ năm trước là nguyên nhân khiến doanh thu giảm lần lượt 4,5% và 6%. Điều quan trọng là

sản lượng tiêu thụ trong 9 tháng đầu năm nay của các công ty này vẫn tăng so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu

tiêu thụ trong Q1, tuy nhiên khó khăn diễn ra trong khâu tiêu thụ sản phẩm của hai công ty này bắt đầu từ

Q3/2012.

KTS là trường hợp giảm doanh thu đến 19,9% do hai yếu tố (i) giá bán giảm và (ii) sản lượng tiêu thụ giảm.

Đến cuối Q3/2012, giá bán đường của KTS chỉ còn khoảng 14.800 đồng/kg, giảm 10% so với Q3/2011. NHS

và SEC là hai công ty cùng sản phẩm đường RS với KTS với giá bán giảm hơn 15% nhưng đã tăng sản lượng

tiêu thụ để bù đắp cho mức tăng trưởng của doanh thu, trong khi sản lượng tiêu thụ t rong Q2 và Q3/2012 của

KTS giảm mạnh lần lượt là 73,8% và 26,3% so với Q2 và Q3/2011. Điều này cho thấy KTS bắt đầu gặp khó

khăn từ Q2/2012.

Tăng trưởng lợi nhuận

Tỷ suất lợi nhuận gộp

Đơn vị: tỷ đồng, nguồn: BCTC các công ty đường

Lợi nhuận gộp

Page 18: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

16

Điểm chung lớn nhất trong kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm nay của 6 công ty đường là lợi nhuận gộp đều

giảm. Ngay cả BHS, SBT và SEC tuy doanh thu tăng trưởng cao hơn cùng kỳ năm trước nhưng lợi nhuận gộp

vẫn giảm tương ứng 12,4%, 34,8% và 19,5%. Nguyên nhân chính khiến lợi nhuận gộp của cả 6 công ty đường

giảm là do chi phí giá vốn tăng cao 20,6% so với cùng kỳ năm trước.

Giá vốn hàng bán tăng nhanh hơn doanh thu đã khiến tỷ suất lợi nhuận gộp giảm, thậm chí ngay cả giá trị tuyệt

đối của lợi nhuận gộp không tăng mà lại giảm khá mạnh. Giá vốn hàng bán trong 9 tháng đầu năm 2012 của 6

công ty đường niêm yết tăng mạnh 20,6% so với cùng kì năm 2011 cộng với giá bán bình quân giảm từ 5-10%

đã khiến tỷ suất lợi nhuận gộp của 6 công ty đường niêm yết chỉ còn 14,4% từ mức 24,8% trong 9 tháng đầu

năm 2011. Đối với nhà đầu tư giá trị, điều này rõ ràng làm giảm mức độ hấp dẫn của ngành mía đường so với

một số nhóm ngành khác như sữa, cao su, cà phê…

Theo các chuyên gia trong ngành mia đường, giá thu mua mía chiếm bình quân 70% giá vốn sản xuất đường.

Trong vụ 2011/2012, những công ty lớn như BHS, LSS và SBT đều thu mua mía 10 ccs ở mức giá trên 1.000

đồng/kg, các công ty có quy mô nhỏ hơn như KTS, SEC, NHS thu mua ở mức giá từ 900 đồng/kg trở lên. So

với vụ 2010/2011, giá mía đầu vào tăng hơn 10% so với cùng kỳ năm trước, điều này góp phần đẩy giá vốn

tăng thêm từ 5-8%.

Ngoài yếu tố giá thu mua mía, một số yếu tố khác liên quan đến quá trình sản xuất như mức tiêu hao mía

đường, chi phí vận chuyển, chi phí chạy máy và khấu hao nhà máy (một số công ty áp dụng định mức khấu

hao t ính theo đơn vị sản phẩm như BHS, SBT...) cũng đã góp phần làm tăng giá vốn. Đặc biệt, giá vốn đường

của BHS còn biến động theo giá bán đường thô của nhà máy khác. Trong 9 tháng đầu năm nay, BHS đã tiêu

thụ 108.574 tấn đường, ngoài 52.840 tấn tự sản xuất trong vụ 2011/2012, phần còn lại công ty mua đường thô

từ nhà máy khác để luyện thành đường RE rồi tiêu thụ dưới thương hiệu Đường Biên Hòa, do đó giá vốn

đường bình quân của BHS còn biến động tùy thuộc vào giá mua đường thô từ bên ngoài.

Ngoài lợi nhuận gộp giảm, lợi nhuận trước thuế và sau thuế 9 tháng đầu năm nay của 6 công ty đường niêm

yết cũng giảm mạnh tương ứng 46,6% và 44,7% so với cùng kỳ năm trước do chi phí hoạt động và chi phí tài

chính tăng tương ứng 9,1% và 28,7% trong đó chi phí lãi vay tăng 24,5%.

Lợi nhuận trước thuế Lợi nhuận sau thuế

Đơn vị: tỷ đồng, nguồn: BCTC các công ty đường

Page 19: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

17

Chi phí lãi vay trong 9 tháng đầu năm nay của 5/6 công ty đường trừ

BHS tăng lên 80,7 tỷ đồng, tăng mạnh 68,2% so với cùng kỳ năm trước.

Đối với các công ty KTS, LSS và SEC, chi phí lãi vay tăng lần lượt là

47,8%, 245,95 và 56,1% đã góp phần làm giảm thêm lợi nhuận trước

thuế, tuy nhiên xét cả về mức tăng tuyệt đối và tương đối, đáng chú ý

nhất là LSS.

LSS bắt đầu tăng nợ vay từ Q4/2011 và đến cuối Q3/2012, mức nợ vay

đã tăng lên 1.022,8 tỷ đồng, t rong đó 86% là nợ vay ngắn hạn. Ngoài

mục đích thanh toán tiền mua mía và hỗ trợ vốn cho nông dân trồng mía,

công ty còn sử dụng nợ vay tài trợ cho dự án đầu tư nâng cấp nhà máy

đường số 2, vì thế chi phí lãi vay 9 tháng đầu năm nay đã lên đến 60,2 tỷ

đồng, tăng 245,9% so với cùng kỳ năm trước và góp phần làm sụt giảm

lợi nhuận trước thuế. Ngoài ra, hệ số chi trả lãi vay 1

của LSS chỉ còn 2,5

lần, giảm rất mạnh so với mức 22 lần của cùng kỳ năm trước. Tuy chưa

thể khiến LSS gặp rủi ro thua lỗ, nhưng mức tăng chi phí lãi vay này

đang ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch lợi nhuận 2012 của công ty.

BHS là công ty duy nhất giảm 55,3% chi phí lãi vay 9 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm trước nhờ 2 yếu

tố: (i) mặt bằng lãi suất ngân hàng đã giảm từ hơn 25% trong năm 2011 về mức bình quân 18-20% trong năm

nay, (ii) BHS chỉ vay nợ bình quân 330 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm nay, so với mức bình quân 645 tỷ đồng

trong cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tổng nợ vay cuối Q3/2012 của BHS đã tăng đến 807,7 tỷ đồng, điều này

dự kiến sẽ khiến chi phí lãi vay của BHS tăng lên trong thời gian tới.

2. Hiệu quả

ROE

ROE 9 tháng đầu năm nay của 6 công ty đường đạt 12,8%, giảm gần 50% so với mức 23,6% của cùng kỳ năm

trước. Đáng chú ý là ROE của các công ty lớn lại thấp hơn ROE của các công ty nhỏ, đặc biệt ROE của LSS

chỉ đạt 5,9%, mức thấp nhất trong vòng 3 năm trở lại đây. Mặc dù tỷ suất lợi nhuận sau thuế là yếu tố chính

khiến ROE sụt giảm, tuy nhiên đòn bẩy tài chính lại là yếu tố làm chậm đà sụt giảm của ROE.

Hệ số đòn bẩy tài chính t ính đến cuối tháng 9 năm nay của 6 công ty đường đạt

khoảng 2 lần, cao hơn mức 1,6 lần của cùng kỳ năm trước. Một số công ty có mức

tăng đòn bầy tài chính lớn là BHS (từ 2,5 lên 3,1 lần), LSS (từ 1,6 lên 2,1 lần) và

NHS (từ 2,0 lên 2,7 lần) do tăng nợ vay, tuy nhiên đòn bẩy tài chính vẫn là yếu tố

tác động tích cực lên ROE bởi đến cuối Q3, chưa có công ty đường nào gặp rủi ro

thua lỗ. Hệ số khả năng chi trả lãi vay cho thấy các công ty đường vẫn có đủ lợi

nhuận để chi trả cho chi phí lãi vay. Ngay cả LSS là công ty có chi phí lãi vay tăng

245,9%, hệ số EBIT/chi phí lãi vay của LSS vẫn đạt đến 253,1% .

Điểm đáng lưu ý đối với hệ số đòn bẩy tài chính tại thời điểm cuối tháng 9 năm nay

là rủi ro thanh toán. Đối với các công ty BHS, LSS, NHS và SEC, hệ số khả năng

thanh toán nhanh đã giảm xuống dưới 1 lần, do đó rủi ro sẽ tăng lên nếu các công

ty này gia tăng thêm nợ vay.

1 Ghi chú: Hệ số chi trả lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ Chi phí lãi vay

Chi phí lãi vay 9T/2012 so với

9T/2011 (đơn vị: tỷ đồng)

Công ty Lãi vay +/-%

BHS 28,9 -55,3%

KTS 1,7 47,8%

LSS 60,2 245,9%

NHS 39,1 6,9%

SBT 58,6 54,6%

SEC 39,6 56,1%

Nguồn: BCTC các công ty đường

Khả năng chi trả lãi vay

9T/2012 so với 9T/2011

EBIT/chi phí lãi vay

BHS 391,7%

KTS 1.802,6%

LSS 253,1%

NHS 303,5%

SBT 573,6%

SEC 272,0%

Page 20: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

18

3. Những thay đổi đáng lưu ý trong cấu trúc tài chính

Tồn kho và phải thu ngắn hạn tăng

Tồn kho gia tăng là tình trạng đang diễn ra đối với các công ty sản xuất

đường RS là KTS, NHS và SEC, cũng như chứng minh cho những khó

khăn mà ngành mía đường đang đối mặt. Điều bất thường là sự gia tăng

hàng tồn kho diễn ra ngay trước khi ngành đường bước vào niên vụ mới,

điều này gây thêm áp lực về tiêu thụ cho các công ty đường.

Đối với NHS và SEC, tình trạng tồn kho cuối Q3/201 tăng mạnh đồng thời

nợ ngắn hạn tăng tương ứng 191% và 338,3% đã làm tăng rủi ro thanh

toán. Hệ số khả năng thanh toán nhanh của NHS và SEC chỉ còn 0,5 và

0,8 lần, do đó mục tiêu quan trọng của hai công ty này trong Q4 phải là tiêu

thụ được lượng đường tồn ngay trong các tháng cuối năm. Việc bán

đường cho BHS gia công có thể là giải pháp khả thi, do giữa các công ty này đang có những mối liên kết chung

về cổ đông và cổ phần.

Đối với KTS, tuy mức tồn kho cuối Q3/2012 tăng mạnh 572,1% so với cuối Q3/2011 nhưng giá trị hàng tồn kho

chỉ 42,8 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 43,5% tài sản ngắn hạn và không gây ra rủi ro thanh toán do hệ số khả năng

thanh toán nhanh của KTS đạt 2,6 lần.

Ngoài sự gia tăng hàng tồn kho, giá trị các khoản phải thu ngắn hạn của 5/6 công ty đường niêm yết trừ LSS,

tuy nhiên việc gia tăng các khoản phải thu này không bất thường, chủ yếu do các công ty thanh toán t rước tiền

mua mía cho người nông dân.

Giá trị hàng tồn kho cuối T9/2012

so với cuối T9/2011

Công ty Tồn kho +/-%

BHS 475,7 -14,1%

KTS 42,8 572,1%

LSS 459,7 40,8%

NHS 206,9 466,8%

SBT 119,2 -46,1%

SEC 60,6 593,5%

Đơn vị: tỷ đồng

ROE Đòn bẩy tài chính

Page 21: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

19

Nợ ngắn hạn tăng

Tính đến cuối tháng 9 năm nay, tổng nợ của 6 công ty đường tăng 74,9%,

trong đó nợ ngắn hạn tăng 116,4% và nợ dài hạn giảm 10,5%. Trong số

các khoản mục của nợ ngắn hạn, đáng chú ý là nợ vay ngắn hạn tăng

209,8%, điều này tuy giúp công ty đường có thêm vốn lưu động và gia tăng

đòn bẩy tài chính, nhưng cũng làm tăng chi phí lãi vay và gây ra rủi ro

thanh toán nợ nếu như công ty sử dụng tiền vay không phù hợp với kỳ hạn

vay.

Một trong những đặc điểm quan trọng của các công ty mía đường là

thường sử dụng nợ vay ngắn hạn tài trợ cho các hoạt động thu hoạch mía,

bao gồm trả tiền mía cho nông dân, thuê nhân công thu hoạch, chi phí vận

chuyển..., giá trị nợ vay vì thế thường tăng trong đầu vụ và giảm dần về

cuối vụ. Đối với BHS và SBT, nợ vay tăng ngay từ cuối Q3 trước khi vào vụ

do các công ty này có chính sách thanh toán trước tiền mua mía cho người

nông dân. Do đó, tuy nợ vay ngắn hạn cuối Q3 của BHS và SBT tăng mạnh 93,7% và 209,7% so với Q3/2011

nhưng không tạo ra rủi ro thanh toán.

Ngược lại, việc gia tăng nợ vay ngắn hạn đang tạo ra rủi ro cho các công ty LSS, NHS và SEC. Kể từ Q4/2011

đến hết Q2/2012, LSS đã dựa nhiều vào nợ vay ngắn hạn để đầu tư vào tài sản cố định. Trong tình hình doanh

thu và lợi nhuận sụt giảm, việc sử dụng tiền vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn không chỉ dẫn đến chi phí lãi vay

tăng cao mà còn tạo ra rủi ro thanh toán. Hệ số khả năng thanh toán nhanh của LSS chỉ còn 0,8 lần. Theo nghị

quyết ĐHCĐ về việc phát hành trái phiếu chuyển đổi t rong năm nay, một trong những mục đích của việc sử

dụng số tiền 200 tỷ đồng dự kiến thu từ đợt phát hành này là để trả nợ vay ngắn hạn. Nếu LSS phát hành trái

phiếu chuyển đổi thành công, công ty sẽ giảm chi phí lãi vay và rủi ro thanh toán, tuy nhiên đã hơn 1 tháng kể

từ ngày hết hạn đóng tiền mua trái phiếu, LSS vẫn chưa công bố kết quả đợt phát hành trái phiếu.

Đối với NHS và SEC, số liệu 9 tháng đầu năm nay cho thấy hai công ty này đã sử dụng hơn 40% nợ vay ngắn

hạn để đầu tư tài chính, theo đó SEC đã thực hiện các giao dịch chứng khoán ngắn hạn, còn NHS đã mua

thêm cổ phần của hai công ty Điện Gia Lai và SEC. Điều bất thường là hai công ty này gia tăng đầu tư tài chính

khi đang gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh chính như lợi nhuận giảm và tồn kho tăng, điều này góp

phần làm gia tăng rủi ro thanh toán.

V. KHẢ NĂNG HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH NĂM 2012

Chỉ tiêu BHS KTS NHS SBT SEC

KH doanh thu 2012 2.880,0 314,0 791,0 1.810,0 844,0

% hoàn thành KH 70,7% 69,4% 89,5% 81,6% 66,9%

Kế hoạch lãi trước thuế 2012 162,0 46,0 83,0 400,0

% hoàn thành KH 52,1% 60,7% 99,2% 69,8%

Kế hoạch lãi sau thuế 2012 34,0 83,5

% hoàn thành KH 62,7% 71,8%

Nguồn: BCTC các công ty

BHS: có thể hoàn thành kế hoạch doanh thu cả năm 2012 do doanh thu của công ty thường tập trung vào Q4.

Trong 3 năm gần đây, doanh thu Q4 của BHS luôn cao hơn ba quý trước đó và thường đạt tỷ trọng hơn 30%

trên tổng doanh thu cả năm. Dự báo doanh thu Q4 năm nay của công ty đạt trên 950 tỷ đồng, doanh thu cả

năm đạt 2.987,2 tỷ đồng, tăng 16,5% so với năm 2011 và vượt 3,7% chỉ tiêu kế hoạch doanh thu năm nay.

Giá trị nợ vay ngắn hạn cuối

T9/2012 của 6 công ty niêm yết &

so với cuối T9/2011

T9/2012 Nợ vay

NH +/-%

BHS 701,5 93,7%

KTS 9,7 576,8%

LSS 878,1 422,4%

NHS 108,9 128,8%

SBT 412,9 209,7%

SEC 198,4 503%

Đơn vị: tỷ đồng

Page 22: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

20

Trong 9 tháng đầu năm nay, lợi nhuận trước thuế của BHS chỉ đạt hơn 52% kế hoạch lợi nhuận năm. Tuy

nhiên, tôi kỳ vọng lãi trước thuế trong quý 4/2012 đạt 68 tỷ đồng dựa trên mức tỷ suất lãi gộp trên 6,9% và thu

nhập tài chính bổ sung khoảng 10-12 tỷ đồng từ lãi cho nông dân vay mà theo đại diện của BHS, công ty

thường hạch toán khi người dân thực sự trả lãi, thường vào cuối năm. Lũy kế cả năm 2012, lợi nhuận trước

thuế của BHS dự phóng đạt 152,4 tỷ đồng, thấp hơn 6% chỉ tiêu kế hoạch lợi nhuận năm nay.

NHS: Doanh thu 9 tháng đầu năm nay của NHS đã đạt 89,5% kế hoạch năm, tuy nhiên theo số liệu 3 năm gần

đây, tỷ trọng doanh thu Q4 trên tổng doanh thu cả năm chỉ chiếm từ 5-7%, hàng tồn kho của NHS đến cuối Q3

tăng cao bất thường 468,7% so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt giá trị đường thành phẩm là 197,4 tỷ đồng,

cao gấp 7,6 lần cùng kỳ năm trước. Vì vậy, mục tiêu của NHS trong 3 tháng cuối năm nay đẩy mạnh tiêu thụ

sản phẩm, kể cả việc tiếp tục chấp nhận bán giá thấp để giảm bớt tồn kho, do đó tôi dự báo NHS có thể hoàn

thành kế hoạch doanh thu năm nay.

Lợi nhuận t rước thuế trong 9 tháng đầu năm của NHS đạt 99,2% kế hoạch năm. Tôi kỳ vọng lãi trước thuế

Q4/2012 đạt 12,5 tỷ đồng, lũy kế cả năm 2012, lợi nhuận trước thuế của NHS dự phóng đạt 94,8 tỷ đồng, vượt

14,2% chỉ tiêu kế hoạch lợi nhuận năm nay.

SBT: Để thực hiện mục tiêu lợi nhuận trước thuế cả năm 400 tỷ đồng, tức là mức lợi nhuận trước thuế Q4

phải đạt 121 tỷ đồng và công ty phải bán ít nhất 35.600 tấn đường tinh RE . Theo kế hoạch của công ty, lượng

đường RE sản xuất trong vụ 2012/2013 sẽ đạt gần 100.000 tấn, khoảng 15% sản lượng của vụ này sẽ được

tiêu thụ ngay trong 2 tháng cuối năm nay, nếu mức giá bán đạt trên 18.000 đồng/kg thì công ty sẽ có được

doanh thu đường khoảng 300 tỷ đồng, cộng với doanh thu từ các sản phẩm phụ thì sẽ hoàn thành kế hoạch

doanh thu năm nay (doanh thu từ đường thường chiếm 90% tổng doanh thu). Theo đại diện SBT, dự kiến hoạt

động kinh doanh trong Q4/2012 sẽ được phục hồi và đạt hiệu quả cao hơn các quý trước, do đó tôi kỳ vọng lãi

trước thuế trong quý 4/2012 của SBT đạt 98 tỷ đồng dựa trên mức tỷ suất lãi gộp khoảng 25%, t ương đương

mức tỷ suất của Q4/2011 và khoảng 15 tỷ đồng tăng thêm từ thu nhập tài chính. Lũy kế cả năm 2012, lợi

nhuận trước thuế của SBT dự phóng đạt 377,1 tỷ đồng, thấp hơn 5,8% chỉ tiêu kế hoạch lợi nhuận năm nay.

KTS và SEC: Hiện doanh thu 9 tháng của hai công ty này chỉ mới đạt 69,4% và 66,9% kế hoạch năm. Trong

3 năm gần đây, đỉnh mùa vụ của hai công ty này thường tập trung vào Q1 và Q2, do đó tôi dự báo hai công t y

sẽ không hoàn thành kế hoạch doanh thu cả năm.

Lợi nhuận trước thuế trong 9 tháng đầu năm của KTS chỉ bằng 60,7% kế hoạch năm. Với những khó khăn mà

công ty đang phải đối mặt nhất là sản lượng tiêu thụ giảm, giá bản giảm, giá thành tăng và mức lỗ ròng 421

triệu đồng trong Q3, dự báo công ty khó đạt được 18,1 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế trong Q4 để hoàn thành kế

hoạch năm.

Lợi nhuận sau thuế 9 tháng đầu năm của SEC chỉ bằng 71,9% kế hoạch năm. Thống kê trong 3 năm gần đây,

doanh thu Q4 của SEC chỉ đạt ở mức tương đương doanh thu Q3, do đó dự báo doanh thu Q4/2012 chỉ đạt từ

100-150 tỷ đồng. Với tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu trong 3 quý đầu năm nay chỉ khoảng 8 -12%, do

đó tôi dự báo SEC khó hoàn thành kế hoạch lợi nhuận năm nay.

Page 23: Bao Cao Nganh Mia Duong Jan 20131

NGÀNH MÍA ĐƯỜNG

09/05/2011

09/05/2011

21

Phụ lục: Tổng hợp số liệu của các nhà máy vụ sản xuất 2011/2012

TT Tên nhà máy Diện tích

(ha)

Năng suất

(tấn/ha)

Chữ đường

(ccs)

Tổng CSTK (tấn/ngày)

Sản lượng mía ép

(tấn)

Sản lượng đường (tấn)

CẢ NƯỚC 234.243 61,9 9,85 129.900 14.500.000 1.295.878

I Miền Bắc 15.499 58,3 10,38 7.000 903.000 91.150

Miền núi phía Bắc 15.499 58,3 10,38 7.000 903.000 91.150

1 Sơn Dương 7.056 53,3 9,83 2.800 376.000 36.970

2 Cao Bằng 2.395 66,8 9,85 1.000 156.000 16.540

3 Sơn La 4.430 69,0 11,05 2.200 282.000 29.450

4 Hòa Bình 1.618 55,0 10,30 1.000 89.000 8.190

II Miền Trung 148.931 54,1 10,33 79.300 8.058.000 740.230

Bắc Trung bộ 51.941 53,6 10,60 31.100 2.785.000 260.010

5 Lam Sơn 15.000 60,0 8,50 10.500 862.000 82.120

6 Việt Đài 9.828 56,0 9,44 6.000 614.000 58.000

7 Nông Cống 5.551 42,4 9,75 2.100 248.000 22.960

8 N.An - Tate & Lyle 15.372 48,0 9,69 9.000 605.000 58.500

9 Sông Lam 1.500 55,0 9,00 500 78.000 6.200

10 Sông Con 4.690 48,4 11,75 3.000 378.000 32.230

Duyên hải miền Trung 60.767 54,6 9,93 28.800 3.315.000 298.790

11 Phổ Phong 4.353 45,0 9,61 2.200 226.000 22.490

12 Bình Định 7.418 55,0 10,00 3.500 516.000 43.980

13 KCP 15.600 54,0 8,31 6.000 845.000 70.200

14 Tuy Hòa 5.179 52,1 9,00 1.500 250.000 20.400

15 Ninh Hòa 9.540 56,6 10,40 3.400 540.000 53.300

16 Khánh Hòa 14.442 49,6 10,43 10.000 726.000 70.860

17 Phan Rang 3.075 42,1 9,98 1.000 134.000 12.060

18 MK Sugar VN 1.160 36,0 9,00 1.200 78.000 5.500

Tây Nguyên 36.223 54,1 10,80 19.400 1.958.000 181.430

19 An Khê 16.105 60,0 10,33 10.000 813.000 67.690

20 Gia Lai 6.850 64,4 9,93 3.200 404.000 38.380

21 Kon Tum 2.850 62,0 10,00 1.700 177.000 18.600

22 333 Đắc Lắc 6.423 56,0 9,28 2.500 347.000 33.200

23 Đắc Nông 3.995 47,0 2.000 217.000 23.560

III Miền Nam 69.813 9,07 43.600 5.539.000 464.498

Đông Nam Bộ 29.668 66,7 9,05 18.000 1.978.000 168.220

24 Biên Hòa - Trị An 3.961 57,0 8,64 2.000 213.000 17.640

25 La Ngà 5.326 50,6 9,13 2.000 270.000 22.500

26 Biên Hòa - Tây Ninh 5.094 66,0 8,46 4.000 408.000 35.200

27 Bourbon Tây Ninh 11.967 64,4 8,26 9.000 862.000 74.000

28 Nước Trong 3.320 73,0 8,32 1.000 225.000 18.880

ĐBS Cửu Long 40.145 88,7 9,07 25.600 3.561.000 296.278

29 Hiệp Hòa 4.433 67,0 8,86 2.000 320.000 23.000

30 NIVL 7.083 68,0 8,00 5.000 730.000 54.000

31 Sóc Trăng 4.500 95,0 9,50 2.800 406.000 38.240

32 Kiên Giang 941 56,0 8,39 1.000 133.000 10.430

33 Bến Tre 2.575 70,0 8,98 2.000 331.000 26.950

34 Cần Thơ 11.500 90,0 9,60 6.500 1.046.000 91.508

35 Long Mỹ Phát 4.000 80,0 8,40 2.500 124.000 8.900

36 Cà Mau 1.105 85,0 8,48 1.000 132.000 11.250

37 Trà Vinh 4.008 95,0 10,20 2.800 339.000 32.000 Nguồn: Bộ NN & PTNT, niên vụ 2011/2012