Top Banner
SỐ 14 - THÁNG 03/2016 Một hãng dược phẩm lớn của Ấn Độ che giấu hơn 20 kết quả thử nghiệm thất bại Những gương phụ nữ tiêu biểu đối mặt với thách thức của vấn đề tiêu chuẩn hóa Hình ảnh tốt thu được từ các cấu trúc nano
32

Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

Jan 28, 2017

Download

Documents

dinhnhi
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

SỐ 3 - THÁNG 4/2015

SỐ 14 - THÁNG 03/2016

Maket mới

Một hãng dược phẩm lớn của Ấn Độ che giấu hơn 20 kết quả thử nghiệm thất bại

Những gương phụ nữ tiêu biểu đối mặt với thách thức của vấn đề tiêu chuẩn hóa

Hình ảnh tốt thu được từ các cấu trúc nano

Page 2: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

3

10

23

21(21) Trung tâm kiểm định máy thiết bị đo đạc Nam Sông Tiền - Nơi hội tụ niềm tin

Trong tay Bạn là Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14. Để phục vụ Hội viên và Bạn đọc được tốt hơn, Bản tin rất mong muốn Hội viên và Bạn đọc cho ý kiến và gửi tin, bài về hoạt động thử nghiệm.Mọi ý tưởng, ý kiến đóng góp và sự hỗ trợ của Tổ chức, Doanh nghiệp và Cá nhân đều được trân trọng ghi nhận và nghiên cứu áp dụng để nội dung, hình thức của Bản tin được liên tục cải tiến.Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự quan tâm, tin tưởng của quý vị. Rất mong Bản tin này sẽ trở thành người bạn thân thiết, có ý nghĩa đối với Hội viên và Bạn đọc.

Bản tin Thử nghiệm ngày nay

(3) Quy hoạch lại mạng lưới phòng thí nghiệm trọng điểm(4) Chương trình đào tạo Tháng 4/2016 EDC - HCM(6) Một hãng dược phẩm lớn của Ấn Độ che giấu hơn 20 kết quả thử nghiệm thất bại(7) Những gương phụ nữ tiêu biểu đối mặt với thách thức của vấn đề tiêu chuẩn hóa

(10) AOAC QUỐC TẾ: Kỳ 14: ISO/IEC 17025 “Yêu cầu chung về năng lực phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn” – Các yêu cầu kỹ thuật: Lấy mẫu; Quản lý mẫu thử nghiệm và hiệu chuẩn(13) Các phương pháp nhận dạng và phát hiện vi khuẩn Campylobacter(16) Hình ảnh tốt thu được từ các cấu trúc nano(19) Công nghệ sửa gen CRISPR

(23) Bảo vệ chống sét và phát kiến mới của hệ thống chống sét (Kỳ 5)(26) Nâng cao hình ảnh tế bào bằng các hệ thống kỹ thuật số dễ sử dụng(29) Tích hợp hệ thống dữ liệu sắc ký

(Bìa 3+4): Chương trình Thử nghiệm thành thạo - VinaLAB PT - Tổng hợp (Quý 1)

Page 3: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

3

Quy hoạch lạimạng lưới phòng thí nghiệm trọng điểm

Từ nay đến năm 2017, những phòng thí nghiệm trọng điểm hoạt động chưa hiệu quả sẽ bị giảm bớt.

Theo Đề án tái cơ cấu ngành Khoa học và Công nghệ đến năm 2020, tầm nhìn đến

năm 2030, mạng lưới phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia sẽ được quy hoạch lại, nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu, tăng hiệu quả hoạt động, tạo ra và đưa nhanh các thành tựu khoa học, tiến bộ kỹ thuật vào đời sống.

Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, cả nước hiện có 16 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. Tuy nhiên, vẫn còn những phòng thí nghiệm hoạt động chưa hiệu quả. Quá trình đầu tư lại kéo dài, nhiều phòng thí

nghiệm trang thiết bị lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu của các nhà khoa học, hiệu quả sử dụng thiết bị thấp. Nhiều phòng thí nghiệm thì người quản lý không có kinh nghiệm, nên để thiết bị thất lạc, hạn chế hiệu quả của phòng thí nghiệm.

Trong Đề án tái cơ cấu, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tính đến phương án tăng hiệu quả, quy mô và vốn đầu tư cho các phòng thí nghiệm trọng điểm. Theo đó, từ nay đến năm 2017, những phòng thí nghiệm trọng điểm hoạt động chưa hiệu quả sẽ bị giảm bớt, nhằm tập trung nguồn lực cho những phòng thí nghiệm hoạt động hiệu quả trong thời gian qua. Bộ trưởng Bộ Khoa học

và Công nghệ Nguyễn Quân cho biết: “Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ chỉ hỗ trợ các bộ ngành thành lập các phòng thí nghiệm trọng điểm xuất phát từ nhu cầu của các bộ ngành. Trong đó, áp dụng cơ chế quản lý mở, tự chủ cao hơn, có hiệu quả hơn. Trong mấy năm qua, có 1 số phòng thí nghiệm của một số trường và các bộ có sự đầu tư tốt và thành công. Ví dụ, phòng thí nghiệm vi sinh của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng rất thành công, về quy mô nó cũng là phòng thí nghiệm nhỏ cỡ 2 triệu đô la, nhưng hoạt động tốt hơn vì nó là cơ chế tự chủ, tỷ lệ sử dụng trang thiết bị cao”.

Theo VOV

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY

Page 4: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

4

Trong tháng 04/2016, Trung tâm Đào tạo và Phát triển Sắc Ký (EDC-HCM) có kế hoạch thực hiện 04 khoá đào tạo về Kỹ thuật phân tích vi sinh trong thực phẩm, nước và nước thải; Kỹ thuật quang phổ hấp thu phân tử (UV-Vis) – áp dụng trong phân tích thực phẩm, môi trường và phân bón; Phương pháp đánh giá cảm quan thực phẩm cùng khoá đào tạo về Ứng dụng phương pháp thống kê vào việc đánh giá, xử lý số liệu và kiểm soát kết quả trong phân tích định lượng. Đây là những khoá học có nội dung quan trọng giúp học viên nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực liên quan.

Để nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành về phân tích vi sinh đạt kết quả

đáng tin cậy, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong sản xuất và sức khoẻ người tiêu dùng, đảm bảo vệ sinh môi trường, từ ngày 04/04 đến 08/04/2016, EDC – HCM tổ chức khoá đào tạo “Kỹ thuật phân tích vi sinh trong thực phẩm, nước và nước thải”.

Tham gia khoá đào tạo này, học viên sẽ được hướng dẫn kỹ thuật cơ bản về phân tích vi sinh; được học lý thuyết và thực hành các nội dung về kỹ thuật lấy mẫu và bảo quản mẫu để phân tích vi sinh; Phương pháp kiểm các chỉ tiêu vi sinh theo quy định về chất lượng nước; Phương pháp kiểm các chỉ tiêu vi sinh gây ngộ độc có trong thực phẩm.

Học viên cũng được học lý thuyết và thực hành Phương pháp kiểm nghiệm các chỉ tiêu vi sinh với các giá trị: Tổng số vi khuẩn hiếu khí + Tổng số nấm men nấm mốc; Coliforms, Fecal Coliform, E.coli + Fecal Streptococci;… Thực hành phân tích vi sinh trực tiếp trên mẫu thực phẩm, nước sinh hoạt, nước thải theo tiêu

chuẩn Việt Nam (TCVN), ISO, tiêu chuẩn Quốc tế SMEWW (Mỹ), AOAC (Mỹ), NMKL (Na Uy).

Để đảm bảo chất lượng khoá đào tạo, học viên sẽ được tiếp cận và thực hành tại PTN Vi Sinh của EDC – HCM với các trang thiết bị, phương tiện thực hành hiện đại cùng sự hướng dẫn nhiệt tình chu đáo của các kỹ thuật viên EDC – HCM.

Ngay sau khoá đào tạo về kỹ thuật phân tích vi sinh trong thực phẩm, nước và nước thải, trong 05 ngày từ 11/04 đến 15/04/2016, EDC-HCM tiếp tục tổ chức khoá đào tạo về Kỹ thuật quang phổ hấp thu phân tử (UV-Vis) – áp dụng trong phân tích thực phẩm, môi trường và phân bón với sự tham gia đào tạo của các kỹ sư có nhiều năm kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, dịch vụ phân tích kiểm nghiệm và chuyển giao quy trình tại EDC-HCM.

Khoá đào tạo cung cấp cho học viên kiến thức cơ bản và nâng cao về phương pháp quang phổ hấp thu phân tử (UV-Vis) và ứng dụng; Nghe giới thiệu các kỹ thuật chuẩn bị mẫu, tách chiết và làm giàu mẫu; Hướng dẫn xác nhận giá trị sử dụng cho phương pháp UV-Vis; Xác định khoảng tuyến tính tối ưu của phương pháp; Đánh giá độ lặp lại và độ tái lặp của phương pháp; Hướng dẫn thực hiện xác định hiệu suất thu hồi của phương pháp.

Học viên cũng được trang bị những kỹ năng cần thiết về xác định giới hạn phát hiện (LOD) và giới hạn định lượng (LOQ) của phương pháp; Hướng dẫn tính toán độ không đảm bảo đo theo qui trình phân tích đối với phương pháp UV-Vis; Kiểm tra – hiệu chuẩn thiết bị; Kiểm tra, hiệu chuẩn thiết bị UV-Vis; Biện pháp phòng ngừa và cách khắc phục các sự cố kỹ thuật…

Sau phần học lý thuyết, học viên sẽ được các kỹ sư EDC hướng dẫn thực hành các nội dung quan trọng: Phân tích mẫu môi trường;

CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THÁNG 4/2016 EDC - HCM

Page 5: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY5

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Xác định hàm lượng Nitrit trong nước và nước thải; Xác định Cr6+ trong nước và nước thải; Xác định hàm lượng Fe (II), Fe (III) trong nước ngầm. Thực hành về Phân tích mẫu thực phẩm với các phép thử để định lượng Nitrit trong mẫu thịt; Định lượng hàm lượng formaldehyde trong mẫu bún và được hướng dẫn xác định hàm lượng sắt trong thực phẩm.

Học viên cũng được hướng dẫn thực hiện các phép thử về phân tích mẫu phân bón: Định lượng Biuret trong phân Ure; Định lượng P tổng số trong phân NPK.

ThS. Nguyễn Văn Tâm, người có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực phân tích, thống kê, xử lý số liệu trong phòng thí nghiệm, phụ trách chương trình Thử nghiệm thành thạo Vinalab-PT cùng các cán bộ kỹ thuật của EDC-HCM sẽ trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn thực hành tại khoá đào tạo này.

Với thế mạnh về đào tạo, từ ngày 20/04 đến 22/04/2016, EDC-HCM tiếp tục tổ chức khoá đào tạo ngắn hạn về “Phương pháp đánh giá cảm quan thực phẩm”.

Theo KS chuyên ngành hóa thực phẩm – Lý Văn Đàn: Khoá học cung cấp cho học viên các kiến thức và thực hành về các phương pháp thử nghiệm cảm quan để sau khóa học học viên có thể tự triển khai áp dụng ngay vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị.

Để làm được điều đó, trong quá trình đào tạo, học viên sẽ được tiếp cận và thực hành về các phương pháp cảm quan được áp dụng rộng rãi trong quá trình sản xuất thực phẩm, như: kiểm tra nguyên liệu, kiểm tra quy trình sản xuất, kiểm tra thành phẩm, đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố công nghệ và kỹ thuật đến sản phẩm cuối cùng, xác định mối quan hệ giữa bao bì và chất lượng, xác định thời gian sống của sản phẩm và phát triển sản phẩm mới…

Tại khoá đào tạo này, học viên cũng sẽ được trang bị những kiến thức quan trọng về cơ sở khoa học của cảm quan; Thực hành ngưỡng cảm giác (màu, mùi, vị); Thực

hành nhận biết; Thực hành ngưỡng phát hiện; Thực hành sắp xếp theo cường độ.

Đồng thời, học viên được đào tạo các phương pháp cảm quan như: Các phương pháp sai biệt; Các phương pháp ưu tiên; Phương pháp thăm dò thị hiếu người tiêu dùng; Phương pháp cho điểm theo Tiêu chuẩn Việt Nam – TCVN 3215 – 79, sau đó sẽ thực hành cảm quan trên các sản phẩm thực phẩm.

Với kinh nghiệm nhiều năm trong công tác giảng dạy, dịch vụ phân tích kiểm nghiệm và chuyển giao quy trình, từ ngày 25/04 đến 28/04/2016 EDC-HCM tiếp tục tổ chức khóa đào tạo về chuyên đề “Ứng dụng phương pháp thống kê vào việc đánh giá, xử lý số liệu và kiểm soát kết quả trong phân tích định lượng”.

Tham gia khoá đào tạo, học viên được trang bị lý thuyết về số đo trong phân tích định lượng; Một số hàm phân bố xác suất quan trọng và ứng dụng trong hóa phân tích định lượng; Phân tích hồi quy và phân tích phương sai; Ứng dụng phương pháp thống kê trong ước lượng giới hạn phát hiện (LOD) và giới hạn xác định (LOQ) của quy trình phân tích.

Học viên được thực hành, làm những bài tập thực tế sát thực trong xử lý số liệu thẩm định phương pháp; Xây dựng biểu đồ kiểm soát (control chart) trong phân tích; Xử lý số liệu, đánh giá kết quả so sánh liên phòng thông qua việc tham gia hoặc tổ chức các chương trình Thử nghiệm thành thạo… do TS. Nguyễn Văn Đông, Giảng viên Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên Tp. HCM, chuyên gia về hóa phân tích, kỹ thuật quang phổ hấp thu nguyên tử và ThS. Nguyễn Văn Tâm, phụ trách Chương trình Thử nghiệm thành thạo (Vinalab-PT) cùng các cán bộ kỹ thuật EDC-HCM thực hiện.

Thông tin về các khoá đào tạo, Quý tổ chức/ doanh nghiệp vui lòng truy cập trang web: http://www.edchcm.com/ để biết thêm chi tiết.

vinalab

Page 6: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

6

Một hãng dược phẩm lớn che giấu hơn 20 kết quả thử nghiệm thất bại

Theo một báo cáo của Cục Quản lý Thuốc và Thực phẩm (FDA) Mỹ, hãng dược phẩm Ấn Độ Wockhardt đã che giấu các kết quả thử nghiệm thất bại và xóa dữ liệu từ hệ thống của mình tại một nhà máy ở miền tây Ấn Độ.

Trong báo cáo ngày 12/01/2016, FDA cho biết rằng cùng với một số vi phạm khác, việc

kiểm tra nhà máy Shendra và công ty này tại Mỹ cho thấy kết quả của 22 thử nghiệm thất bại đã không được ghi lại và nhiều file dữ liệu đã bị xóa.

FDA không nêu chi tiết là các file hoặc các thử nghiệm có liên quan đến thuốc cụ thể nào, hoặc những hành vi vi phạm có ảnh hưởng đến chất lượng thuốc sản xuất tại nhà máy vẫn xuất khẩu sản phẩm sang Anh và Ireland hay không.

Các vấn đề xung quanh “tính toàn vẹn dữ liệu” - việc duy trì cơ sở dữ liệu chính xác và nhất quán - là mấu chốt đối với cơ quan giám sát thực phẩm và dược phẩm của Mỹ, nơi quản lý thị trường lớn nhất thế giới đối với các nhà sản xuất thuốc gốc.

Các thanh tra của FDA cũng cho biết đã phát hiện một số thành phần dược phẩm không được bảo quản hoặc ghi nhãn đúng cách. Một lô thuốc bị từ chối được lưu giữ trong khu vực “nguyên liệu đã được phê duyệt”, và một số lô hàng không ghi ngày hết hạn.

Wockhardt là công ty mới nhất trong số nhiều công ty lớn của ngành sản xuất thuốc trị giá 15 tỷ đô la của Ấn Độ phải đứng trước những cáo buộc pháp lý của Mỹ trong vài tháng qua.

Doanh thu từ Mỹ chiếm khoảng 1/5 tổng doanh thu hàng năm 670 triệu đô la của công ty này.

Wockhardt sẽ phải cho FDA biết về kế hoạch khắc phục các sai phạm được nhấn mạnh trong báo cáo. Công ty sẽ không thể chuyển bất kỳ lô hàng nào từ nhà máy đến Mỹ chừng nào chưa đáp ứng được những yêu cầu của FDA.

Hồi đầu tháng 01/2016, Wockhardt đã báo cáo với các nhà đầu tư về thông báo của FDA để cập đến những vi phạm sản xuất tại nhà máy Shendra. Nhưng Chủ tịch công ty Habil Khorakiwala nói rằng mọi vấn đề nêu ra sẽ được giải quyết trong vòng 2 tháng.

Như vậy đã có 2 trong 8 nhà máy của công ty ở Ấn Độ bị FDA cấm xuất khẩu vào Mỹ, thị trường thuốc gốc lớn nhất thế giới, do những lo ngại về chất lượng.

Theo Indiatimes và Businessworld

Thu hồi 62.500 lọ thuốc kháng sinh62.555 lọ thuốc viên Azithromycin hàm lượng 250mg (45.022 lọ) và 500mg (17.533 lọ), sản xuất bởi công ty Wockhardt, đang được thu hồi tại thị trường Mỹ kể từ 29/4/2015 đến nay do việc sử dụng có thể gây ra những hậu quả sức khỏe bất lợi tạm thời hoặc phục hồi được hoặc ít có khả năng gây hậu quả sức khỏe bất lợi nghiêm trọng.

Page 7: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY7

TIN TỨC VÀ SỰ KIỆN NỔI BẬT

Những gương phụ nữ tiêu biểu

đối mặt với thách thức của vấn đề tiêu chuẩn hóaNhân ngày quốc tế phụ nữ 8/3, Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) muốn thay cho lời cảm ơn bằng cách vinh danh những người phụ nữ đang hoạt động trong ngành tiêu chuẩn hóa. Dưới đây là trải nghiệm của 5 người phụ nữ về lĩnh vực mà tưởng rằng chỉ dành cho nam giới.

Phá vỡ những rào cản - Sophie Clivio (Pháp) - Trưởng nhóm kỹ thuật ISOThách thức đối với người phụ nữ hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa là gi?

Trong lịch sử, lĩnh vực tiêu chuẩn hóa thường được coi là công việc của

nam giới. Thực tế, phần lớn các tiêu chuẩn sản phẩm là do các chuyên gia kỹ thuật và kỹ sư nam phát triển.

Nhân đây, tôi cũng xin tỏ lòng biết ơn đến một người (một người đàn ông) người đã dũng cảm tuyển dụng tôi (cách đây khá lâu). Ông đã phá vỡ những rào cản bằng việc tiếp nhận một người phụ nữ vào thế giới của phái mày râu. Đó là trải nghiệm đầu tiên của tôi ở cương vị là một Trưởng phòng Chương trình Kỹ thuật (TPM), lúc đó tôi sẽ phải làm việc với các Ban hình ảnh, Ban hệ thống tự động hóa, Ban tích hợp và các Ban kỹ thuật khác, tôi phải đảm nhiệm vị trí mà trước đây do nam giới nắm giữ. Thành thực mà nói, lúc đầu tôi thấy thật khó để gây dựng uy tín của mình trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa.

Nhưng tôi đã vượt qua được các thách thức này một cách tốt nhất có thể. Có một nền tảng vững chắc là một điều cần thiết. Một Trưởng

phòng Chương trình Kỹ thuật (TPM) cần phải có kiến thức sâu rộng và hiểu rõ các quy trình (công việc đòi hỏi chúng tôi phải làm chủ được các quy trình và quá trình). Làm việc chăm chỉ để thúc đẩy và hỗ trợ công việc của các Ban, tôi đã gây dựng được uy tín của mình và cũng nhận được nhiều quan tâm của các thành viên trên tinh thần đôi bên cùng có lợi.Việc hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa đã mang lại sức mạnh như thế nào cho một người phụ nữ?

Tôi không dám chắc tiêu chuẩn hóa làm tôi trở thành một người mạnh mẽ nhưng tiêu chuẩn hóa đã giúp tôi có cơ hội được làm việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau qua đó đã mở mang đầu óc và thúc đẩy tôi bắt đầu những khám phá mới.

Mọi người đã đúng khi cho rằng tôi nói quá nhiều về kinh nghiệm bản thân liên quan đến mảng trách nhiệm xã hội ISO 26000, quả đúng là như vậy! Quá trình xây dựng tiêu chuẩn này đã có những tác động đáng kể đến tôi. Tôi đã học được rất nhiều từ quan điểm công việc và quan trọng hơn từ quan điểm cá nhân. Đó là một kinh nghiệm sống quý báu.Làm thế nào để thu hút nhiều phụ nữ hơn vào lĩnh vực tiêu chuẩn hóa?

Có lẽ điều này có thể được thực hiện thông qua việc thúc đẩy các hoạt động của Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế và xây dựng tiêu chuẩn. Nhiều người trong xã hội vẫn chưa có được nhận thức cơ bản về tất cả những điều chúng tôi làm, có nhiều vị trí hiện đang để ngỏ cho cả phái nữ, kể cả tại Ban thư kí ISO tại Geneva.

Lời khuyên của tôi đối với phái nữ: hãy đến và tham gia cùng chúng tôi! Công việc này rất đáng để làm, khác với điều bạn biết và hơn thế nữa, nó rất thú vị.

Page 8: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

8

Một người phụ nữ, 6 nhiệm vụ của ISO – Mojdeh Tabari (Iran) - Thư kí của 3 Ban kỹ thuật ISO và Chủ trì 3 Nhóm công tác của ISO. Làm việc tại Đơn vị thành viên ISO tại Iran, ISIRI.

Ban đầu, việc tham gia vào lĩnh vực tiêu chuẩn hóa không hề đơn giản một chút nào bởi có rất nhiều những trở ngại vô hình, đòi hỏi nỗ lực và sự cống hiến nhiều trong công việc. Nhưng điều đó rất đáng để làm, vì nó không chỉ gặt hái được kinh nghiệm và sức mạnh có được từ hoạt động tiêu chuẩn hóa ở cấp quốc tế, mà còn vì có cơ hội tạo nên sự khác biệt ở những lĩnh vực rất quan trọng đối với phái nữ.

Tôi xin viện dẫn sự thành lập của Ban kỹ thuật ISO về mỹ phẩm. Những sản phẩm này thường là mối quan tâm của chị em phụ nữ, mặc dù phái mạnh và trẻ em cũng sử dụng nhiều. Mỹ phẩm thường được dùng trực tiếp trên da có thể gây phản ứng có hại nếu không đáp ứng được những tiêu chuẩn cao nhất. Các tiêu chuẩn ISO do Ban này xây dựng được ngành công nghiệp mỹ phẩm sử dụng nhằm đảm bảo độ an toàn và chất lượng của các sản phẩm này.

Tôi có thể tự hào nói rằng tôi là người đề xuất và góp phần vào việc thành lập Ban kỹ thuật này, quản lý ban thư lý của Ban, chỉ đạo các dự án tiêu chuẩn hóa và thúc đẩy sự tái hoạt động của hai Ban ISO khác đã tạm dừng hoạt động hơn 10 năm qua.

Tôi đã học được rất nhiều kinh nghiệm và cảm thấy khá tự tin trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa và quản lý ở tầm quốc tế.

Tôi tin rằng với sự thành công của người phụ nữ trong các hoạt động quản lý tại các Ban thư ký ISO và các dự án sẽ tạo dựng được sự tự tin cho phái nữ. Tôi hy vọng rằng kinh nghiệm của tôi sẽ khuyến khích những phụ nữ khác, những người cũng mong muốn góp phần to lớn của mình tham gia vào hoạt động tiêu chuẩn hóa.

Tôi tự hào rằng ở Iran, đã và đang có một

số phụ nữ tham gia vào việc phát triển các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế tại Viện Nghiên cứu Công nghiệp và Tiêu chuẩn Iran (ISIRI).Tiến đến đỉnh cao – Ziva Patir (Israel), Phó Chủ tịch Tiêu chuẩn hóa tại Better Place, Nguyên Phó chủ tịch ISO và Nguyên Tổng Giám đốc ISO tại Israel, SII.Đâu là thách thức và lợi thế của phái nữ khi hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa?

Khi tôi bắt đầu sự nghiệp của mình trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa, số lượng phụ nữ tham gia không chỉ rất hạn chế mà gần như không có ai nắm giữ những chức vụ quan trọng cả. Tuy nhiên, vào thời điểm đó đã có một số cơ hội dành cho người phụ nữ thông qua hệ thống cấp bậc dần được cải thiện và một hệ thống được xây dựng hướng đến sự đồng thuận hơn là đưa ra các mệnh lệnh.

Dĩ nhiên, những điều tổng quát thường đơn giản hóa các trường hợp cụ thể, nhưng có những đặc tính thường được gắn với phụ nữ. Những đặc tính này bao gồm tính hợp tác, hiểu rõ những khoảng cách văn hóa và tạo được không khí làm việc tốt, cộng với tính kiên nhẫn, chính xác, sự cống hiến, và cam kết lâu dài. Tất cả điều này đã giúp người phụ nữ trở thành những nhà tiêu chuẩn hóa vĩ đại!

Vào ngày quốc tế phụ nữ, chúng tôi muốn ghi nhận những đóng góp to lớn mà những nhà chuẩn hóa nữ xây dựng nên nhằm xây dựng một tương lai vững bền. Một ví dụ điển hình chính là tác động mạnh mẽ của nhiều phụ nữ trẻ trong việc phát triển ISO 26000 về trách nhiệm xã hội, một trong những dự án quan trọng nhất của ISO cho đến nay.Làm thế nào chúng ta có thể thu hút được nhiều phụ nữ tham gia vào lĩnh vực tiêu chuẩn hóa?

Page 9: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY9

Hiện đã có rất nhiều người phụ nữ đã tham gia, nhưng đã đến lúc để họ đảm nhiệm những vị trí cao hơn. Ở một số nước châu Âu, bạn hầu như không thấy phụ nữ hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa, trong khi ở những nước khác có thể chỉ phụ nữ mới làm công việc này.Chiến đấu cho người tiêu dùng – Norma McCormick (Canada), Chủ tịch, Ủy ban ISO về chính sách người tiêu dùng (ISO/COPOLCO).

Tôi tham gia vào hoạt động tiêu chuẩn hóa bởi vì nó rất quan trọng đến lĩnh vực của tôi, lĩnh vực sức khỏe và an toàn nghề nghiệp. Sau đó, mở rộng ra lĩnh vực sức khỏe và an toàn người tiêu dùng, chính điều này đã mang tôi đến với ISO.

Tôi là chủ tịch, người chủ trì và là thành viên của một vài Ủy ban Tiêu chuẩn hóa Quốc gia và Quốc tế (ISO/COPOLCO). Tôi rất tự hào về những đóng góp lâu dài của chị em phụ nữ đối với những vấn đề liên quan đến người tiêu dùng và những thành tựu của họ trong hoạt động tiêu chuẩn hóa.

ISO/COPOLCO là tổ chức tư vấn cho ISO từ quan điểm của khách hàng về công việc tiêu chuẩn hóa hiện hành và sau này cũng như đánh giá về sự phù hợp. Trong lịch sử phát triển gần 35 năm, ISO/COPOLCO đang có kỷ lục về phụ nữ tham gia và lãnh đạo. Đã có 9 chủ tịch và 5 trong số đó là phụ nữ.

Là thành viên của 3 Ban k‎ỹ thuật ISO và 3 Ban kỹ thuật Canada, tôi rất vui mừng khi thấy hiện nhiều phụ nữ đang tiếp tục đóng góp năng lực của họ trong lĩnh vực này.

ISO 26000, một bước ngoặt trọng đại – Perla Puterman (Venezuela), Chuyên gia của nhóm công tác ISO về Trách nhiệm xã hội, 36 năm trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa.

Ngày nay, việc phụ nữ tham gia vào hoạt động tiêu chuẩn hóa càng ngày càng phù hợp. Ví dụ, ở các nước Mỹ Latinh, và có lẽ ở các quốc gia khác nữa, việc xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế tại các Cơ quan tiêu chuẩn quốc gia được đảm nhiệm chủ yếu bởi phái nữ. Một vài quốc gia tiêu biểu là Argentina, Bolivia, Colombia, Chile, Costa Rica, Cuba, Mexico, Paraguay và Venezuela.

Tại Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế ISO, phụ nữ cũng giữ những vị trí quan trọng. Để tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong việc phát triển ISO 26000, ISO đã đưa ra yêu cầu về số lượng đồng đều nam và nữ trong nhóm công tác, trong các nhóm phụ trợ và các nhóm khác (ví dụ như Nhóm tư vấn và Đội dự thảo hợp nhất).

Sự hiện diện của các chuyên gia và các quan sát viên nữ tăng từ 33% tháng 9 năm 2005 đến 42% vào tháng 5 năm 2009 là một con số đáng ghi nhận.

Theo www.iso.org

Page 10: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

10

Kỳ 14: ISO/IEC 17025 “Yêu cầu chung về năng lực phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn” – Các yêu cầu kỹ thuật: Lấy mẫu; Quản lý mẫu thử nghiệm và Hiệu chuẩn

Lấy mẫuPhần lớn các phòng thử nghiệm thực

phẩm và thuốc hiếm khi lấy mẫu vật liệu ở bên ngoài PTN. Khi PTN không chịu trách nhiệm cho việc lấy mẫu, việc đề cập trong báo cáo rằng mẫu được phân tích ở nguyên trạng như khi nhận là không phù hợp. Trong hầu hết các trường hợp, khách hàng sẽ lựa chọn mẫu. Trong trường hợp PTN được yêu cầu lấy mẫu của sản phẩm tại hiện trường, PTN cần thực hiện theo quy trình đã xây dựng và các yêu cầu của các chương trình đó.

PTN cần văn bản hóa các quy trình để lấy mẫu thứ và/hoặc đồng nhất để đảm bảo rằng các phần mẫu thử đại diện được sử dụng để kiểm nghiệm.

Chú thích: Bất kể cách lấy mẫu được sử dụng là gì, điều tối quan trọng là người lấy mẫu giữ một hồ sơ rõ ràng của quy trình đã được sử dụng để đảm bảo rằng quá trình lấy mẫu có thể được lặp lại chính xác và kết quả phân tích được liên kết tới lô mẫu mà nó đại diện. Các quy trình lấy mẫu được sử dụng thường xuyên cần phải được văn bản hóa đầy đủ. “Trong một số tình huống, ví dụ khi mẫu được lấy cho mục đích pháp lý, mẫu có thể được niêm phong để việc tiếp xúc với mẫu chỉ có thể xảy ra khi hủy niêm phong. Việc xác nhận điều kiện thỏa mãn của niêm phong cần phải được đề cập trong báo cáo phân tích. [Hướng dẫn của CITAC/Eurachem về Chất lượng Hóa phân tích: Một tài liệu bổ trợ công nhận (2002)]

Chú thích: Cần đưa ra các xem xét thích hợp đối với các mẫu có nhiều pha và mẫu dễ biến đổi, xử lý mẫu vô trùng, nhiễm chéo và các vấn đề khác để giảm thiểu các sai lỗi có thể liên quan tới sự không đồng nhất của mẫu. “Nếu PTN thực hiện hoặc chỉ đạo bước lấy mẫu, cần ghi trong báo cáo quy trình sử dụng và đề cập đến tất cả các hạn chế ảnh hưởng tới kết quả”. “Khi có nhiều hơn một mẫu được lấy ra từ vật liệu gốc, nên xây dựng một đồ thị như một phần của tài liệu thể hiện cách lấy mẫu. Việc này sẽ khiến cho việc lấy mẫu sau đó dễ dàng hơn và cũng có thể hỗ trợ cho việc đưa ra kết luận về kết quả thử nghiệm.” [Hướng dẫn của CITAC/Eurachem về Chất lượng Hóa phân tích: Một tài liệu bổ trợ công nhận (2002)]

1. PTN cần có kế hoạch và các quy trình lấy mẫu khi thực hiện lấy mẫu của các chất, vật liệu hoặc sản phẩm cho việc thử nghiệm hoặc hiệu chuẩn sau này. Kế hoạch lấy mẫu cũng như quy trình lấy mẫu cần sẵn có tại địa điểm lấy mẫu. Khi hợp lý, kế hoạch lấy mẫu cần dựa trên các phương pháp thống kê thích hợp. Quá trình lấy mẫu cần đề cập đến các yếu tố cần kiểm soát để đảm bảo tính hiệu lực của kết quả thử nghiệm và hiệu chuẩn.

Ghi chú 1: Lấy mẫu là một quá trình xác định mà tại đó một phần của vật chất, vật liệu hoặc sản phẩm được lấy để cung cấp cho việc thử nghiệm và hiệu chuẩn của một mẫu đại diện cho tổng thể. Lấy mẫu có thể cần thiết đối với chất, vật liệu và sản phẩm là

Page 11: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY11

đối tượng của thử nghiệm hoặc hiệu chuẩn. Trong một số trường hợp nhất định (ví dụ: xét nghiệm pháp y), mẫu có thể không đại diện nhưng được xác định bởi tình trạng sẵn có.

Ghi chú 2: Quy trình lấy mẫu cần mô tả việc lựa chọn, kế hoạch lấy mẫu, lấy và chuẩn bị một hoặc nhiều mẫu từ một chất, vật liệu hoặc sản phẩm để tìm ra thông tin cần thiết.

2. Khi khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoặc loại bớt những thủ tục lấy mẫu đã được văn bản hóa thì những yêu cầu này phải được ghi chép chi tiết cùng với những dữ liệu lấy mẫu phù hợp và phải lưu giữ toàn bộ tài liệu liên quan đến kết quả thử nghiệm/hiệu chuẩn cũng như phải thông báo cho những người có liên quan.

3. PTN phải có các thủ tục ghi lại dữ liệu phù hợp và các hoạt động liên quan đến lấy mẫu hình thành nên một phần hoạt động thử nghiệm hoặc hiệu chuẩn mà PTN tiến hành. Các hồ sơ đó phải bao gồm thủ tục lấy mẫu được sử dụng, sự nhận biết người lấy mẫu, điều kiện môi trường (nếu phù hợp) và các biểu đồ hoặc những cách tương tự để xác định vị trí lấy mẫu khi cần thiết và nếu phù hợp, các thủ tục lấy mẫu thống kê được áp dụng.Quản lý mẫu thử nghiệm và hiệu chuẩn

1. PTN phải có những thủ tục về vận chuyển, tiếp nhận, quản lý, bảo quản, bảo vệ, lưu trữ và/hoặc thanh lý các mẫu thử nghiệm và/hoặc hiệu chuẩn bao gồm mọi qui định cần thiết để bảo vệ tính toàn vẹn của mẫu thử nghiệm và/hoặc hiệu chuẩn và để bảo vệ quyền lợi của PTN và khách hàng.

Phải giữ sạch sẽ và có tổ chức khu vực lưu trữ để giảm thiểu tối thiểu nguy cơ ô nhiễm hoặc nhiễm chéo. Các mẫu phải được lưu trữ sao cho bao bì, và/hoặc bất kỳ con dấu liên quan đều không được hư hỏng. Tránh những điều kiện môi trường bất lợi và cực đoan.

Có thể dùng danh sách kiểm tra (checklist) trình bày chi tiết quá trình lưu trữ mẫu để đảm bảo việc thực hiện đúng tất cả những bước

làm cần thiết. Những điều kiện lưu trữ bất lợi có thể làm thay đổi thành phần cấu tạo của mẫu, ví dụ có thể làm mất chất phân tích bởi thoái hóa hoặc hấp thụ. Trong trường hợp cần thiết, phải tiến hành giám sát môi trường. Cần phải có một mức độ an ninh phù hợp để hạn chế tiếp cận trái phép vào các mẫu.

2. PTN phải có một hệ thống mã hóa mẫu thử nghiệm và/hoặc hiệu chuẩn. Việc mã hóa mẫu phải được duy trì tại PTN trong suốt thời gian mẫu tồn tại ở PTN. Hệ thống mã hóa mẫu phải được thiết kế và hoạt động đảm bảo mẫu không thể bị nhầm lẫn trên thực tế hoặc khi được viện dẫn đến hồ sơ hoặc các tài liệu khác. Hệ thống mã hóa này phải cho phép việc sắp xếp thành các nhóm mẫu nhỏ hơn hoặc cho phép việc chuyển các mẫu đến hoặc từ PTN đi nếu phù hợp.

Nhãn ghi phải được gắn chặt với tất cả bao bì của các phần mẫu và nếu thích hợp, phải có khả năng chống phai màu, khử trùng, chống rò rỉ mẫu hoặc thuốc thử, và khoảng hợp lý của nhiệt độ và độ ẩm.

Ghi chú: Nhãn mẫu rất quan trọng vì một mẫu có thể được chia ra, lấy mẫu thứ hoặc biến đổi theo một cách nào đó trong quá trình thử nghiệm. Khi đó, có thể cần các thông tin bổ sung, ví dụ như tham chiếu về mẫu chính, và tới các quá trình sử dụng để tách hoặc lấy mẫu thứ.

Ghi chú: Ghi nhãn bằng mã vạch tạo nên các lợi thế trong hiệu quả xem xét, tuy nhiên cần thỏa mãn các điều kiện đã nêu ở trên.

3. PTN phải ghi vào hồ sơ khi nhận mẫu thử nghiệm và/hoặc hiệu chuẩn khi thấy có bất cứ khác biệt hoặc có sai lệch so với các điều kiện đã qui định hoặc trong các phương pháp thử nghệm hoặc hiệu chuẩn. Khi có bất cứ nghi ngờ nào về sự phù hợp của mẫu thử nghiệm và/hoặc hiệu chuẩn hoặc khi có một mẫu không phù hợp với sự miêu tả đã cung cấp, cũng như phép thử hoặc hiệu chuẩn được yêu cầu không được qui định chi tiết, thì PTN phải trao đổi ý kiến với khách hàng

Page 12: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

12

về hướng dẫn bổ sung trước khi tiến hành cũng như phải ghi lại cuộc trao đổi ý kiến này.

4. PTN phải có thủ tục và phương tiện phù hợp để tránh hư hỏng, mất mát hoặc tổn hại đến mẫu thử nghiệm, hiệu chuẩn trong khi lưu giữ, quản lý và chuẩn bị. PTN phải áp dụng hướng dẫn về quản lý mẫu được cung cấp cùng mẫu. Khi mẫu phải lưu giữ trong các điều kiện môi trường qui định thì các điều kiện đó phải được duy trì, kiểm soát và ghi chép lại. PTN phải lưu giữ cẩn thận mẫu thử nghiệm/hiệu chuẩn hoặc các phần của mẫu, PTN phải có qui định về lưu giữ và tính an toàn để bảo vệ tình trạng và tính nguyên vẹn của mẫu và các phần mẫu liên quan.

Chú thích 1: Nếu các mẫu thử nghiệm/hiệu chuẩn được sử dụng lại sau khi thử nghiệm thì PTN cần phải đặc biệt quan tâm để đảm bảo các mẫu này không bị phá hủy hoặc tổn hại trong quá trình quản lý, thử nghiệm hoặc trong quá trình lưu giữ/chờ đợi.

Chú thích 2: Một thủ tục lấy mẫu và thông tin về lưu giữ và vận chuyển mẫu, bao gồm cả thông tin về các yếu tố lẫy mẫu

ảnh hưởng đến kết quả thử nghiệm/hiệu chuẩn cần được cung cấp cho những người có trách nhiệm về lấy và vận chuyển mẫu.

Chú thích 3: Lý do để lưu giữ an toàn mẫu hiệu chuẩn/thử nghiệm có thể là do hồ sơ yêu cầu, do đòi hỏi an toàn hoặc giá trị của mẫu, hoặc để tiến hành các phép hiệu chuẩn/thử nghiệm được thực hiện sau này.

Tất cả nhân viên liên quan đến quản lý hệ thống xử lý mẫu phải được đào tạo đầy đủ về các thủ tục này. Thời gian lưu giữ mẫu tối thiểu và điều kiện bảo quản được ghi lại trong hệ thống quản lý và thông báo cho khách hàng để tất cả các bên đều nhận thức được bao lâu mẫu sẽ có sẵn sàng cho thử nghiệm lại hoặc thu hồi.

Nguồn: AOAC(Bản quyền thuộc về VinaLAB)

Kỳ sau: ISO/IEC 17025 “Yêu cầu chung về năng lực phòng thử nghiệm và hiệu chuẩn” – Các yêu cầu kỹ thuật: Đảm bảo chất lượng kết quả thử nghiệm và hiệu chuẩn (Các phương pháp đa chất phân tích).

Page 13: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY13

Những điểm cần lưu ý• Có hình dấu phẩy, Gram âm• Vi hiếu khí• Vi khuẩn chịu nhiệt (trên 30oC)• Có thể cử động dễ dàng

Giới thiệuCampylobacter là nhóm vi khuẩn chủ yếu

gây ra ngộ độc thực phẩm trong cuộc sống con người. Theo báo cáo từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) năm 2011, số ca ngộ độc do nhóm vi khuẩn này là khoảng 845.000 trường hợp/năm tại Hòa Kỳ. Mặc dù những bệnh này rất hiếm khi gây tử vong nhưng đối với những bệnh nhân suy giảm miễn dịch thì khả năng tử vong vẫn hiện hữu. Campylobacter jejuni và C. coli là những nguyên nhân thường gặp nhất trong các ca bệnh đường ruột ở người. Không những thế, rất nhiều các ca bệnh cũng ghi nhận nguyên nhân lây nhiễm là do các loại vi khuẩn khác thuộc họ Campylobacter. Đặc điểm

Campylobacter là thành viên của họ Campylobacteriacease. Những vi khuẩn này thuộc Gram âm và có hình que, tuy nhiên chúng vẫn có thể chuyển thành hình xoắn ốc, hình chữ S hoặc hình dấu phẩy. Hầu hết đặc tính chuyển động theo hình nút chai của chúng là nhờ có tiên mao phân cực. Một tế bào có thể sở hữu 1 đơn mao hoặc 2 đơn mao ở cả hai đầu của tế bào.

Môi trường vi hiếu khí chứa từ 5 – 10% khí CO2 và 3 – 5% O2 là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài Campylobacter. Hầu hết các loài này ưa nhiệt với nhiệt độ tối ưu là 42oC.Lây nhiễm sang các loại đồ ăn

Hầu hết các loại vi khuẩn Campylobacteria spp đều có khả năng lây nhiễm bệnh sang người và rất nhiều thức ăn có nguồn gốc từ động vật ẩn chứa những vi khuẩn gây bệnh. Gia cầm và sản phẩm từ gia cầm là những nguyên nhân chính dẫn đến lây nhiễm bệnh ở người. Những loại thức ăn khác như thịt đỏ, sữa chưa qua tiệt trùng, các mặt hàng tươi sống và nước bị ô nhiễm chính là nơi tiềm tàng mầm bệnh.

Do cần phải có những điều kiện nhiệt độ và độ ẩm đặc trưng phù hợp với khả năng sinh trưởng, nên các loài vi khuẩn Campylobacter không có khả năng sinh sôi và phát triển trong thức ăn. Tuy nhiên, số lượng lây nhiễm của chúng lại thấp (khoảng 500-1000 đơn vị tế bào) cùng với tính lây bệnh cao, điều này có nghĩa chỉ với một lượng tế bào nhỏ thôi cũng đã đủ để gây bệnh.

Các tiêu chuẩn vi sinh đối với Campylobacter quy định rằng vi khuẩn này không nên có mặt trong một mẫu 25g thực phẩm sẵn sàng để sử dụng. Tình trạng hiện tại

Campylobacteriosis là một bệnh tự giới hạn và hiếm khi gây ra ảnh hưởng lớn đối với sức

Các phương pháp nhận dạng

và phát hiện vi khuẩn

Campylobacter

Page 14: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

14

khỏe. Tuy nhiên, nó vẫn có những tác động kinh tế quan trọng đối với hệ thống y tế công cộng, giảm năng suất và các cơ hội giáo dục. Ủy ban An toàn Thực phẩm Châu Âu ước tính rằng chi phí của bệnh Campylobacteriosis tại EU là khoảng 2,4 tỷ Euro mỗi năm. Do đó, giải pháp trọng tâm là tập trung kiểm soát sự lây nhiễm của Campylobacter.

Cơ quan Tiêu chuẩn Thực phẩm Vương quốc Anh đã phối hợp cùng với Bộ Môi trường, Thực phẩm và Các vấn đề nông thôn, ngành công nghiệp gia cầm và các công ty bán lẻ để tiến hành một chương trình nhằm giảm lượng vi khuẩn Campylobacter trên gia cầm. Mục tiêu của chương trình là đến 2015, giảm số lượng gia cầm nhiễm khuẩn từ 27% xuống còn 10%.Các phương pháp nhận dạng và phát hiện vi khuẩn CampylobacterPhương pháp dựa trên nuôi cấy

Các phương pháp dựa trên nuôi cấy để phân lập và phát hiện Campylobacter từ thực phẩm được miêu tả trong cuốn hướng dẫn của

Tổ chức Tiêu chuẩn Thế giới. Tiêu chuẩn ISO 10272-1:20063 hướng dẫn quá trình phát hiện, còn ISO/TS 10272-2:20064 thì chỉ ra phương pháp định lượng.

Mầm bệnh được phân lập bằng cách nuôi cấy trong môi trường chọn lọc sau khi ủ ở điều kiện thoáng khí 41,5oC trong vòng 44 tiếng. Các mẫu thức ăn và môi trường cần một bước đệm tiền tăng sinh để tạo điều kiện hồi phục cho các tế bào đã bị phá hủy. Tăng sinh sử dụng môi trường nuôi cấy canh thang tăng sinh chọn lọc, các tế bào sẽ được ủ trong điều kiện 37oC trong vòng 5 tiếng. Các mẫu bệnh phẩm có thể được nuôi cấy trực tiếp vào môi trường chọn lọc.

Sau khi phân lập, sự xác đinh Campylobacter dựa trên tính chất hóa sinh, đặc điểm sinh trưởng và hình thái học của chúng. Hầu hết những phương pháp này bao gồm các loại xét nghiệm hóa sinh và kỹ thuật nhuộm Gram như: ô-xy hóa, phép thử Catalase, thủy phân Hippurate và phương pháp giảm hàm lượng ni-trit.

Một số môi trường thạch chọn lọc được thiết

Page 15: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY15

kế để phân lập các khuẩn lạc Campylobacter tồn tại trong mẫu phẩm. Các môi trường này bao gồm những cá thế có chọn lọc khác nhau, hầu hết chúng đều là các kháng sinh ức chế sự tăng trưởng của các vi khuẩn đường ruột khác. Môi trường tiền tăng sinh có chứa các thành phần bảo vệ tế bào khỏi sự ảnh hưởng từ các chất dẫn xuất oxy độc hại. Các chất này có thể là máu đã ly giải hoặc khử fibrin, than sinh học, hợp chất sắt sun-phát, sodium metabisulphite và sodium pyruvate (FBP).

Cả môi trường nuôi cấy chọn lọc và tăng sinh đều có thể được mua dưới dạng các loại bột cơ sở hoặc các công thức khả dụng. Hơn nữa, các hệ thống môi trường sẵn có đều có thể được sử dụng để tạo ra môi trường ưa khí, yếu tố tối quan trọng cho sự phục hồi và định lượng Campylobacter.

Mặc dù các phương pháp dựa trên nuôi cấy này tỏ ra hiệu quả và không yêu cầu những trang thiết bị tối ưu nhưng chúng vẫn tồn tại những giới hạn nhất định. Hầu hết các hạn chế đáng kể bao gồm thời gian cần thiết cho việc truy xuất kết quả và phản hồi bị hạn chế của Campylobacter đối với các thử nghiệm hóa sinh. Hơn nữa, những kỹ thuật này yêu cầu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn sâu mà lại có độ chính xác thấp hơn so với nhưng phương pháp phân tử và huyết thanh học. Bên cạnh đó cũng tồn tại khả năng những tế bào Campylobacter chuyển sang trạng thái “còn sống nhưng không nuôi cấy được” (viable but not culturable - VBNC) khi ở trong điều kiện không thích hợp, dẫn đến những kết quả âm tính sai.

Các phương pháp chuẩn bị nuôi cấy khác nhau có thể được hoàn thiện để đẩy nhanh quá trình tăng sinh. Những phương pháp này bao gồm sự phân tách và tập trung tế bào bằng cách lọc hoặc ly tâm.Các phương pháp phát hiện nhanh

Một vài kỹ thuật xét nghiệm trên thị trường, dựa trên miễn dịch học và phân tử học cũng mang đến khả năng định dạng và phát hiện

Campylobacter. Những phương pháp này sở hữu tốc độ cao, tính chính xác và kết quả đáng tin cậy hơn so với các phương pháp truyền thống. Một điểm cộng nữa của các phương pháp này là nó có thể phát hiện ra Campylobacter ngay cả trong trạng thái VBNC. Tuy nhiên, một số phương pháp yêu cầu trang thiết bị hiện đại cũng như nguồn nhân lực được đào tạo chuyên môn sâu. Chúng cũng không có khả năng phân loại tế bào sống hay tế bào chết.

Rất nhiều hệ thống miễn dịch dựa trên các tương tác của kháng thể/kháng nguyên như phương pháp ELISA (Enzyme Linked Immunosorbent Assay) và phương pháp ngưng kết Latex (Latex agglutination) đã có mặt trên thị trường.

Các phương pháp dựa vào axit nucle-ic như Phản ứng chuỗi trùng hợp PCR và real-time PCR đều đã xuất hiện trên thị trường dưới dạng các bộ dụng cụ thử nghiệm. Các kỹ thuật phân tử khác như phương pháp điện di xung điện trường PFGE (Pulsed Field gel Electrophoresis) hay kỹ thuật RAPD (Random Amplified Polymorphic DNA) cũng có thể được áp dụng để nhận dạng và phát hiện sinh vật.

Hơn nữa, sự kết hợp giữa công nghệ truyền thống với hiện đại sẽ mở ra những cải tiến mới, đem lại kết quả có độ chính xác cao và nhanh chóng.

Theo www.rapidmicrobiology.com

Page 16: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

16

Phòng thử nghiệm 4D (4D LABS), Đại học Simon Fraser

4D LABS là một cơ sở chụp hình nano, chế tạo nano và LASIR phối hợp được đặt tại Burnaby, sở hữu một bộ công cụ cho phép tạo hình cấu trúc vật liệu và các thành phần với thông tin quy mô từ micro đến nano mét sử dụng chùm ion hoặc electron hội tụ. Đứng đầu bởi Nathanael Sieb, các nhà nghiên cứu tại 4D LABS ( như nhà khoa học Xin Zhang) làm việc với các khách hàng để trả lời những câu hỏi khoa học vật liệu trong thực tế. Viện nghiên cứu với sự đầu tư hơn 50 triệu đô la có một loạt các thiết bị chụp hình nano, từ kính hiển vi chùm ion và electron độ phân giải cao đến các công cụ chuẩn bị mẫu.

Sieb cho biết “nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào các thuộc tính liên quan đến thành

phần và liên quan đến cấu trúc. Nó bao gồm sàng lọc mẫu để tối ưu hóa quá trình, phát hiện vật liệu hoặc cấu trúc không bình thường, phân tích sự thất bại và kiểm soát chất lượng trong quá trình chế tạo thiết bị bán dẫn công nghiệp, học thuật và các quy trình sản xuất khác”.

Hình ảnh tốt thu được từ các cấu trúc nano

Trong nghiên cứu khoa học, đôi khi kết quả lớn nhất có thể đến từ những hạt nhỏ nhất. Hình ảnh nano hay quá trình sử dụng các kỹ thuật hình ảnh tiên tiến để quan sát và mô phỏng cấu trúc với độ phân giải nano mét đã hoàn thành điều này. Hai viện nghiên cứu, một tại Đại học Maryland và một tại Đại học Simon Fraser ở Burnaby, Canada đang đi đầu trong việc cung cấp khả năng chụp hình nano cho cộng đồng người sử dụng.

Page 17: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY17

Chuẩn bị mẫu là một bước không thể thiếu trong quá trình chụp hình nano và các nhà nghiên cứu tại 4D LABS có quyền truy cập vào một loạt các công cụ để hỗ trợ. Ví dụ, lớp vàng và carbon mạ trên các mẫu không dẫn điện để tạo hình đồng thời giảm thiểu nạp điện vào mẫu không mong muốn. Bước này ngăn chặn sự biến dạng của thông tin mẫu thu được qua chùm điện tử quét. Thiết bị vi phẫu cắt các lát mỏng phù hợp cho kính hiển vi điện tử truyền qua (transmission electron microscopy - TEM), đảm bảo độ truyền qua điện tử tối ưu và các kết quả tốt nhất từ phân tích kích thước nano chi tiết. Thiết bị “ion miller” cắt các mẫu đủ mỏng cho kính hiển vi điện tử truyền qua. Máy làm sạch plasma loại bỏ ô nhiễm hữu cơ ánh sáng trên mẫu để đảm bảo độ chính xác cao hơn và hiệu quả trong thu thập dữ liệu.

4D LABS có 4 kính hiển vi điện tử quét (scanning electron microscopes - SEM) được trang bị khả năng phân tích nguyên tố và 2 trong 4 kính có công nghệ chùm ion hội tụ (FIB). Cơ sở cũng có 3 kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM), 2 trong đó có khả năng phân tích nguyên tố.

SEM là công nghệ thường được sử dụng trong chụp hình nano. Trong SEM, một chùm eletron quét bề mặt vật liệu và tương tác với nguyên tử của nó trong khi một máy dò electron thu thập các electron thứ hai phát sinh bởi chùm tia tạo hình ảnh. Theo các chuyên gia tại 4D LABS, độ phân giải SEM tốt nhất là dưới 1nm một chút. Nếu cần thêm độ phân giải, TEM là cần thiết và thường đòi hỏi nhiều sự chuẩn bị mẫu hơn. Trong TEM, một chùm electron xuyên qua mẫu mỏng, sau đó truyền electron tạo hình ảnh chứa thông tin cấu trúc mẫu.

Ông Zhang cho biết kỹ thuật FIB có thể được sử dụng để chạm khắc vật liệu, chế tạo nano nguyên mẫu hoặc hình ảnh. Công nghệ này là hoàn hảo đối với bề mặt nhỏ và chế tạo thiết bị nguyên mẫu. FIBs có thể viết các cấu trúc cụ thể, như đường lưới và các mảng lỗ/trụ trên chất nền của nhiều vật liệu và hình dáng

khác nhau. Thêm nữa, công nghệ FIB thường nâng cao khả năng của SEM bằng cách khám phá các vật liệu bên trong và cấu trúc của mẫu.

Ông Zhang giải thích: “Ví dụ, các nhà sản xuất vi chip cần hình dung bố trí cấu trúc 3D của chip để kiểm soát chất lượng hoặc tối ưu hóa thiết bị. Lát cắt FIB/SEM và công nghệ quan sát có thể dùng để cán và tạo hình vật liệu/thiết bị theo từng lớp. Nhiều hình ảnh thu được sau đó có thể được tái tạo thành khối 3D nơi vật liệu và thông tin cấu trúc có thể được lấy ra”. Hai hệ thống FIB/SEM với nguồn gallium ion và một kính hiển vi hellium ion cũng có sẵn để hoàn thành FIB.

Trung tâm nano AIMLab, Đại học MarylandPhòng thử nghiệm hiển vi và hình ảnh

nâng cao (AIMLab) trước được gọi là Phòng thử nghiệm thuộc tính, quang phổ và hình ảnh nano (NISPLab), nằm trong khuôn viên trường College Park, được điều hành bởi Wenan Chiou. AIMLab là một trong ba thành phần của Trung tâm nano. Các lãnh đạo của

Page 18: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

18

AIMLab cho biết họ tự hào về khả năng chụp hình nano và phương tiện hiển vi điện tử cho phép gần như tất cả vật liệu đã chuẩn bị được chụp hình và phân tích tới cấp độ nguyên tử.

AIMLab có ba SEM được trang bị đầy đủ (hai trong đó có khả năng FIB) và hai TEM. Một trong hai TEM là TEM phát xạ trường độ phân giải cực cao và S/TEM (Quét kính hiển vi điện tử truyền qua). Các thiết bị hiển vi điện tử này là bắt buộc đối với vận hành chụp hình tiên tiến trong phòng thử nghiệm. Với khả năng chụp hình nano, các kính hiển vi này phù hợp với một loạt nghiên cứu trong ứng dụng kỹ thuật và khoa học vật lý bao gồm nghiên cứu sinh học vũ trụ, giống như những nghiên cứu về sự hình thành ban đầu của vỏ hành tinh.

Martha J. Helim, đại diện khoa học của Trung tâm Nano Maryland cho biết: “Điều thú vị nhất mà chúng tôi đang thực hiện là nghiên cứu pin in-situ, trong đó chúng tôi vận hành pin có cấu trúc nano dưới TEM và theo dõi chúng hoạt động (ví dụ như tạo hình quy mô phân tử in-situ của lithiation điện hóa trong silicon). Dự án này đi đầu trong nghiên cứu của chúng tôi”.

Một khả năng nữa của kính hiển vi điện tử in-situ tại AIMLab là cyro-TEM, cung cấp việc chụp hình kích thước nano tại nhiệt độ nitơ lỏng. Cùng lúc, “ultra-fast heating holders” cho phép các nhà nghiên cứu thực hiện các thí nghiệm ở nhiệt độ cao. Quá trình này cho phép Chiou và đồng nghiệp của ông xem xét việc thay đổi động lực của cấu trúc vi mô trong TEM và SEM.

Công nghệ FIB tại AIMLab sử dụng chùm tia hội tụ gallium hoặc ion khác (như xenon). Công nghệ này được sử dụng chủ yếu trong chất bán dẫn và các lĩnh vực khoa học vật liệu, cụ thể là cho việc đốt vật liệu và phân tích vị trí cụ thể. Các FIB cũng có thể được tích hợp vào hệ thống với cả hai cột chùm electron và ion, bổ sung sự linh hoạt và gắn kết trong các dự án nghiên cứu. Các FIB mới chỉ vừa được cập nhật tại AIMLab, do đó sẽ có nhiều nghiên cứu sử dụng kĩ thuật này hơn trong tương lai.

Chiou cho rằng FIB là một công cụ mạnh mẽ trong nghiên cứu kỹ thuật và khoa học hiện đại ngày nay và AIMLab có 2 trong các FIB được trang bị đầy đủ và tiên tiến nhất trên toàn quốc. Ông so sánh “FIB giống như một con dao găm Thụy Sỹ”. Nó sử dụng ion để thái/cắt vật liệu/mẫu của bạn và cũng sử dụng electron để tạo hình cấu trúc theo phút và thậm chí sửa chữa các thiết bị nano. Nó cũng có thể phân tích vi hóa học trong mẫu của bạn và trình bày dữ liệu bằng 3D”.Chia sẻ của các cơ sở

Cả 4D LAB tại Đại học Simon Fraser và AIMLab Đại học Maryland đều chia sẻ các cơ sở người dùng truy cập mở, còn được gọi là các tổ chức nghiên cứu hợp đồng. Nói một cách khác, những phòng thí nghiệm phi lợi nhuận này không chỉ dành cho các sinh viên đại học tại đây mà cả các cơ quan chính phủ, các nhà nghiên cứu từ các viện khác và doanh nghiệp đều sử dụng chuyên môn và thiết bị phòng thí nghiệm chuyên sâu cao có ở cả 2 địa điểm. Liên kết mật thiết tới các trường đại học gần đấy, cả hai trung tâm tạo hình nano cung cấp nguồn lực cho không chỉ giới học giả mà còn cho cộng đồng doanh nghiệp và khoa học xung quanh.

Theo www.digital.laboratoryequipment.com

Page 19: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY19

Công nghệ sửa gen CRISPR

Năm 2015, Tạp chí Khoa học danh tiếng của Hoa Kỳ đã công bố “Đột phá của năm” là công nghệ chỉnh sửa gen được các chuyên gia cho rằng sẽ làm thay đổi cuộc sống - có tiềm năng tạo ra cuộc cách mạng trong y học, khoa học cơ bản và nông nghiệp.

Page 20: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

20

Công cụ chỉnh sửa gen gọi là CRISPR (Nhóm các đoạn ngắn đối xứng lặp lại

thường xuyên - clustered regularly interspaced short palindromic repeats) - được lấy từ một protein của vi khuẩn - cho phép các nhà khoa học cắt và dán các phần ADN cụ thể, mở đường cho các phương pháp điều trị hay chữa bệnh mới cho các bệnh di truyền.

Trưởng Ban Biên tập tin tức của Tạp chí Science magazine, John Travis, nói: mặc dù kỹ thuật này được phát triển đầu tiên vào năm 2012, nhưng năm nay CRISPR đã phát huy hiệu quả và bắt đầu làm biến đổi nền khoa học, đồng thời châm ngòi cho cuộc tranh luận công khai, làm cho nó trở thành tiến bộ khoa học xuất sắc nhất của năm 2015.

CRISPR đã 2 lần xuất hiện trong danh sách các đột phá của năm, năm 2012 và 2013, với vị trí thứ nhì được gộp cùng với các kỹ thuật chỉnh sửa gen khác. Nhưng năm nay nó tách ra khỏi nhóm, thể hiện sức mạnh thực sự của mình trong một loạt các thành tựu ngoạn mục.

Năm nay, các nhà nghiên cứu đã có thể sử dụng CRISPR để xóa 62 bản sao ADN của một retrovirus trong hệ gen của con lợn, có thể có những tác động lớn đối với những người cần nội tạng.

Khả năng CRISPR để chuyển một gen một cách chính xác vào đúng vị trí, so với các kỹ thuật trước đó, cùng với khả năng đáp ứng và việc sử dụng tương đối dễ dàng trong phòng thí nghiệm, làm cho nó trở thành một công cụ sửa gen mong muốn, các nhà khoa học cho biết.

“Chúng ta - thế giới, khoa học, bệnh nhân và con cháu của chúng ta - cần theo đuổi việc chỉnh sửa gen và nếu có thể, phải làm việc đó đủ an toàn có thể sử dụng ở người”, John Harris, Giáo sư về đạo đức sinh học tại Đại học Manchester, phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh chỉnh sửa gen vào đầu tháng 12/2015.

Nghiên cứu CRISPR đã bắt đầu trong các tế bào soma (không sinh sản). “Những nghiên cứu sớm nhất sẽ là sự can thiệp soma với các

loại tế bào gốc máu khác nhau”, Pilar Ossorio, Giáo sư luật và đạo đức sinh học tại Viện nghiên cứu Morgridge tại Đại học Wisconsin-Madison, nói tại hội nghị thượng đỉnh chỉnh sửa gen.

“Ví dụ, nếu bạn muốn thử và tăng sản xuất insulin của các tế bào tuyến tụy của ai đó, bạn có thể muốn chỉnh sửa gen đó để tới đúng vào các tế bào tụy”, Ossorio nói. Về mặt lý thuyết, liệu pháp này có thể giúp những người mắc một số loại bệnh tiểu đường do các tế bào tuyến tụy không sản xuất đủ insulin. Chúng ta sẽ thấy một loạt CRISPR sử dụng trong việc chỉnh sửa ADN của tế bào được lấy ra ngoài của cơ thể và sau đó đưa trở lại một người.

CRISPR cũng sẽ được sử dụng trong nông nghiệp. Chúng ta có thể sử dụng nó để thao tác ADN thực vật một cách dễ dàng - chúng ta sẽ thấy thêm rất nhiều cây trồng biến đổi gen và có lẽ sẽ có tranh cãi về cách xử lý chúng theo nghĩa pháp lý.

Tóm lại, nếu các nhà khoa học có thể mơ về một thao tác gen, thì CRISPR giờ đây có thể làm cho ước mơ đó thành sự thật. Dù tốt hay xấu, tất cả chúng ta hiện đang sống trong thế giới của CRISPR.

Theo Science magazine, 12/2015

Page 21: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY21

Là một doanh nghiệp tư nhân nhưng Công ty Cổ phần Tư vấn và Vật tư thiết bị đo đạc Nam Sông Tiền (Công ty Nam Sông Tiền) có tới hơn 90% khách hàng là công ty Nhà nước. Theo ông Lê Văn Minh – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Nam Sông Tiền, Để có được thành công này, “yếu tố then chốt được Công ty duy trì thực hiện là chất lượng sản phẩm và dịch vụ chăm sóc khách hàng. Niềm tin của khách hàng làm nên thương hiệu và uy tín của Nam Sông Tiền”.

Tiền thân của Công ty Nam Sông Tiền ngày nay là một cửa hàng vật tư khoa

học kỹ thuật được thành lập năm 1989, đến năm 1999 phát triển và đổi tên thành Doanh nghiệp tư nhân thương mại - dịch vụ Nam Sông Tiền, rồi tiếp tục mở rộng đầu tư và đổi tên thành Công ty Cổ phần Tư vấn và Vật tư Thiết bị Đo đạc Nam Sông Tiền.

Kiên định với triết lý kinh doanh: làm giàu cho bản thân, gia đình, công ty, góp phần xây dựng kinh tế đất nước nên những năm qua, sự phát triển của công ty luôn bám sát và phù hợp với sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.

Công ty hoạt động chuyên sâu trong ngành Đo đạc và bản đồ; Máy định vị, Thiết bị vật tư khoa học kỹ thuật; Thiết bị phòng thí nghiệm, y tế, trường học; Thiết bị khoan địa chất, khảo sát địa hình, địa chất, định vị công trình và quan trắc biến dạng công trình...

Hiện tại, Nam Sông Tiền đang là nhà phân phối độc quyền thiết bị đo đạc của hãng PenTax – Nhật Bản, đồng thời là nhà phân phối các thiết bị đo lường của hãng Leica – Thụy sĩ; Magenllan - Mỹ, Topcon, Nikon, Sokkia của Nhật Bản…

Với đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên chuyên ngành có nhiều kinh nghiệm, được đào tạo kỹ thuật chuyên sâu tại nước ngoài nên khả năng tư vấn chọn thiết bị, hướng dẫn khách hàng sử dụng - khai thác tối đa tính năng thiết bị… được Công ty thực hiện một cách hiệu quả.

Đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đối tác/ khách hàng, Công ty đã xây dựng và áp dụng các phương pháp kiểm định/ hiệu chuẩn theo tiêu chuẩn ISO 17123:2001 và được quản lý theo ISO/IEC 17025:2005 cũng như các yêu cầu tiêu chuẩn của nhà sản xuất.

Cùng với việc được Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng - Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy phép thành lập Trung tâm kiểm định máy thiết bị đo đạc (trực thuộc công ty), Nam Sông Tiền đã khẩn trương xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn ISO 17023 và ISO/IEC 17025 tại Trung tâm này.

Mục tiêu của Trung tâm là chia sẻ thông tin với khách hàng, trả lời những câu hỏi của khách hàng và giúp khách hàng giải quyết những vấn đề kỹ thuật một cách nhanh chóng.

Cùng với sự quan tâm đầu tư đúng mức cho hệ thống các trang thiết bị kiểm định/ hiệu chuẩn hiện đại nhất của các hãng: Pentax, Leica… các thiết bị này cũng đã được Công ty thực hiện liên kết chuẩn Quốc gia/ Quốc tế.

Trung tâm đã sớm đăng ký và trở thành Hội viên VinaLAB vì đây là cơ hội để tham gia các chương trình thử nghiệm thành thạo, so sánh kết quả liên phòng… giúp các kỹ sư/ kỹ thuật viên của Trung tâm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Bên cạnh đó, Kiểm định viên của Công ty còn thường xuyên được tham gia các khoá đào tạo về dịch vụ và sửa chữa để đảm bảo nắm

Công ty Cổ phần Tư vấn và Vật tư Thiết bị Đo đạc

Nam Sông Tiền Nơi hội tụ niềm tin

Page 22: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

22

bắt được những tiến bộ kỹ thuật của tất cả các công nghệ mới nhất về máy - thiết bị đo đạc.

Ông Lê Văn Minh – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Nam Sông Tiền cho biết: “Để có thành công như hôm nay, ngoài tận dụng được những thời cơ vận hội thì yêu cầu trước hết của mỗi cán bộ, nhân viên trong Công ty là phải thực sự có tinh thần cầu tiến, không giấu dốt”.

Công ty luôn có kế hoạch và kinh phí cho việc đào tạo - đào tạo lại và coi đó như một sự đầu tư. Đây cũng là cơ sở để hàng năm, Nam Sông Tiền có thể thực hiện tiếp nhận một số sinh viên mới tốt nghiệp thuộc các chuyên ngành kỹ thuật về công ty để bồi dưỡng, tiếp nhận tạo việc làm cho một số người và giới thiệu làm việc cho các công ty khác với vị trí phù hợp.

Cùng với những trang thiết bị được đầu tư đồng bộ, hiện đại với những tính năng vượt trội, cho kết quả nhanh, chính xác, Phòng Thí nghiệm của Trung tâm cũng đã được đầu tư những thiết bị hiện đại: Thiết bị định vị cốt thép Profoscope đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn: BS 1881 part 204; DIN 1045; SN 505 262; DGZfP B2… cho phép thực hiện định vị cốt thép và đo lớp phủ linh hoạt.

Máy tích hợp đầy đủ chức năng hiển thị theo thời gian thực đặc biệt của cốt thép, cho phép người sử dụng xác định được vị trí của cốt thép dưới bề mặt bê tông đến độ sâu tối đa 180mm. Thiết bị được kết hợp với chỉ thị cốt thép gần kề, báo hiệu vị trí xác định bằng âm thanh và màn hình. Các đặc điểm đặc biệt này kết hợp với nhau làm cho quá trình định vị cốt thép dễ dàng và hiệu quả hơn.

Trung tâm cũng được đầu tư các thiết bị hiện đại để có thể kiểm tra cấu trúc cốt thép tại công trường xây dựng, hướng nằm của cốt thép, định độ dày của bê tông lên cốt thép, đường kính của cốt thép và tính toán độ tương quan giữa các thanh cốt thép lân cận; Thiết bị định vị cốt thép Profometer 5+ giúp kiểm tra vị trí và hướng của cốt thép, đo chiều dày lớp vỏ bê tông, xác định đường kính thép…

Với tầm nhìn chiến lược, sự quan tâm đầu tư đúng mức của Ban Lãnh đạo Công ty về nguồn lực con người và các trang thiết bị thử nghiệm hiện đại, chất lượng các dịch vụ không ngừng được nâng cao… là những yếu tố để Nam Sông Tiền trở thành địa chỉ cung cấp, bảo hành, bảo trì sửa chữa, kiểm định, hiệu chuẩn các lọai máy móc thiết bị chuyên ngành đo đạc, thiết bị vật tư khoa học kỹ thuật được khách hàng tín nhiệm.

Trung tâm kiểm định máy thiết bị đo đạc đã được trang bị hệ thống Collimator chuẩn để kiểm định máy thiết bị của khách hàng đạt tiêu chuẩn của nhà sản xuất. Trong đó, Service Leica là một trong những trung tâm được đầu tư những trang thiết bị hiện đại nhất, có khả năng bảo hành, sửa chữa các sản phẩm chính hãng của Leica không những cho khách hàng tại Việt Nam mà còn đáp ứng yêu cầu của cả khách hàng thuộc các nước khu vực Đông Nam Á.

Khách hàng của Công ty cũng rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực: đo đạc địa chính, giao thông vận tải, tư vấn xây dựng, cầu đường, công trình thủy lợi, cấp thoát nước, nông nghiệp và phát triển nông thôn, hàng không, điện lực, dầu khí, các đơn vị khảo sát và xây dựng thuộc Bộ Quốc phòng, lực lượng Thanh niên xung phong, xây dựng dân dụng, khảo sát hầm mỏ, Viện nghiên cứu, các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học dạy nghề… trên khắp cả nước và các nước lân cận như Lào và Campuchia.

Sớm hội nhập bằng các kế hoạch liên doanh, liên kết với một số tập đoàn nước ngoài (Pentax – Nhật Bản, Leica – Thụy Sĩ, Thales – Pháp và Mỹ); Kiên định với triết lý kinh doanh; Mục tiêu chất lượng và Chính sách chất lượng của mình nên việc tạo dựng và duy trì chất lượng hoạt động các dịch vụ từ trước, trong, sau bán hàng của Công ty là yếu tố quan trọng nhất để làm nên uy tín, thương hiệu Nam Sông Tiền, trở thành nơi hội tụ niềm tin của khách hàng, đối tác.

VinaLAB

Page 23: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

Bảo vệ chống sét và phát kiến mới của hệ thống chống sét

Kỳ 5A-Bảo vệ chống sét

TS. Vũ Đăng QuangỦy viên Ban Chấp hành Hội VinaLAB

Nguyên Trưởng phòng Đo lường Điện - Viện Đo lường Việt Nam

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

23BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY

Page 24: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

24

14 - Hệ thống dàn trải mạng tiêu sét Sét là quá trình trung hoà điện thế giữa tâm

đám mây và đất. Mọi hệ thống tiêu sét phải thiết lập sao cho quá trình này diễn ra một cách chậm chạp và liên tục. Hệ thống mạng tiêu sét đã được thiết kế để vừa đạt được cả 2 chức năng là loại trừ sét trong vùng được bảo vệ và cả cho mạng dàn trải của nó. Thành phần của mạng đầu tiên là chi tiết ion hoá . Hệ thống thanh chốt trục quả cầu tản sét và cọc hoá chất điện cực tiếp đất. Một vài chi tiết hoặc tất cả có thể được sử dụng trong thiết kế cho hệ thống bảo vệ riêng biệt ( xem hình 8)

Hình 8-Ý tưởng mạng tiêu sét của Hãng LEC

Để loại trừ cơn sét cho một vùng ấn định, hệ thống phải tạo ra điện thế giữa địa điểm được xác lập và đám mây dông sét, làm sao cho điện thế đó không đủ cao để cho cú đánh nằm trong giới hạn của vùng. Đó là việc mà hệ thống bảo vệ phải giải thoát hoặc thoát ra, sự tích nạp điện tạo ra trong vùng có liên quan đến một mức mà ở đó trận sét thực tế không còn (Quá trình tích nạp điện xoay chuyển bất ngờ vì điện trường khoẻ tạo bởi cơn sấm sét và chất lượng cách điện kém của bầu không gian ở giữa ).

Các nhà khoa học về không gian đã phát hiện ra rằng rất nhiều năng lượng của cơn sấm sét bị tiêu tán qua quá trình gọi là tiêu tán tự nhiên, là sự ion hoá tạo ra bởi cây cối, đồng cỏ và những giới tự nhiên đơn giản khác hay những công trình mũi nhọn có đất bao quanh do con người làm ra và phơi bày trong trường tĩnh điện do cơn sấm sét tạo ra. Ví dụ: một cơn

sấm sét trên đại dương sẽ tạo ra nhiều sét hơn so với cùng với cơn như thế xảy ra trên đất liền, vì sự tiêu tán tự nhiên trên mặt đất sẽ làm suy yếu đi năng lượng của cơn sấm sét. Bởi vậy nên càng nhiều điểm ion hoá thì đơn giản chỉ là thêm nhiều phương sách tiêu tán hiệu quả hơn, nhân đôi tính hiệu suất của tự nhiên .

Điểm đặc biệt của hiện tượng phóng điện đã được xác định trên 100 năm trước. Đã tìm thấy một điểm mũi nhọn được bao phủ trong trường tĩnh điện mà ở đó có điện thế cao vượt lên trên 10.000V truyền sự tích nạp điện bởi diễn biến ion hoá cho những phân tử khí liền kề .

Hệ thống mạng tiêu sét được hình thành trên cơ sở ứng dụng đặc điểm chính của hiện tượng phóng điện như là một quá trình tích nạp điện được truyền tải cơ học từ vị trí được bảo vệ đến bầu khí quyển bao quanh. Trường tĩnh điện tạo ra bởi cơn sấm sét sẽ lôi kéo sự tích nạp điện ra khỏi vị trí được bảo vệ, rời khỏi nơi có điện thế thấp hơn so với bầu khí quyển bao quanh nó. ( xem hình 9)

Hình 9 - Điểm phóng điện được mô phỏng như bước truyền cơ học

Một hiện tượng thứ hai bổ sung cho chức năng bảo vệ được trang bị thêm là sự hiện diện của “ khoảng không gian tích nạp điện”. Sự tích nạp điện này được mở rộng giữa vị trí được bảo vệ và nơi cơn sấm sét hình thành và các hình dạng của nó có thể được coi như là một lồng Faraday. Các phân tử không khí ion hoá được hình thành

Page 25: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY25

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

bởi quá trình phóng điện bị kéo lên trên, nơi mà chúng bị kéo chậm lại và hướng tới sự hình thành một đám mây của các phân tử khí ion hoá ( xem hình 10)

Hình 10-Khoảng không gian tích nạp điện

15-Bộ phận ion hoá Đây là một thiết bị bao gồm nhiều thành phần, nó được thiết kế để làm tăng hiệu quả cho quá

trình ion hoá từ đồng thời nhiều điểm. Khi trường tĩnh điện tăng lên, một điểm đơn lẻ sẽ tạo ra các dòng và kích hoạt một cơn sét. Ngược lại, nếu có nhiều điểm ion hoá sẽ bắt đầu quá trình ion hoá ở nơi có điện áp cao, nhưng khi điện áp tăng lên thì dòng điện ion hoá sẽ tăng theo hàm số mũ. Vì những ion này lan truyền trên một vùng rộng lớn, không có những dòng được phát ra. Trong trường hợp tột đỉnh, một đám mây dạ quang được hình thành, gây ra trong một khoảnh khắc tức thời ánh sáng rực rỡ xung quanh mạng và dòng điện đang chạy bất ngờ nổ tung .

Ion hoá hội tụ rất nhạy cảm lên đến con số của các thông số được phác hoạ, một vài các con số đó có thể đưa vào một công thức, số khác thì không thể. Các hệ số này bao gồm, kích cỡ, hình dạng, độ cao, điểm nhọn, điểm nhọn cao trên bề mặt mạng, khoảng cách các điểm, phạm vi nằm trong tầm ảnh hưởng của tốc độ gió, cộng với những đặc tính khác liên quan đến môi trường xung quanh. Như vậy, những thiết kế hệ thống hiệu quả giữ nguyên nghĩa như một công trình nghệ thuật cũng như khoa học.

Kỳ sau: A- Bảo vệ chống sét: Hệ thống tiếp đất; cốt lõi quả cầu của hệ thống tiêu sét; điện áp tức thời vượt ngưỡng chặn; bảo vệ đường dây truyền tải điện; lời kết luận cho chuyên mục.

Page 26: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

26

Nâng cao hình ảnh tế bào bằng các hệ thống kỹ thuật số dễ sử dụng

Tiến sĩ Theodore Price, Phó Giáo sư giảng dạy bộ môn Ứng xử (hành vi) và Khoa học trí tuệ tại trường Đại học Texas ở Dallas trao đổi với Biên tập viên, Tiến sĩ Tanuja Koppal về sự ra đời của các thiết bị hình ảnh tế bào kỹ thuật số vô cùng tiện lợi, dễ sử dụng, không tốn kém và có trực quan để làm việc. Ông đề xuất việc sử dụng chúng tại các trường đại học, nơi nhiều sinh viên cần được đào tạo trong khoảng thời gian ngắn. Những thiết bị hình ảnh này cũng tốt như các dụng cụ sàng lọc hoặc đối với các nghiên cứu chứng mình khái niệm cho thấy công việc thí nghiệm trước khi được thực hiện trên các hệ thống hình ảnh đồng tiêu có công suất cao, chi phí cao. Hỏi: Ông có thể đưa ra một số thông tin chi tiết về nghiên cứu và cách ông sử dụng hình ảnh tế bào không?Đáp: Chúng tôi có phòng thử nghiệm (PTN) khoa học thần kinh và dược lý học, lĩnh vực của chúng tôi tập trung vào các cơn đau và tìm ra việc các cơn đau trở thành mãn tính như thế nào. Chúng tôi cố gắng tìm kiếm các mục tiêu mà chúng tôi nghĩ có thể xoay chuyển cơn đau để có thể phát triển phương pháp điều trị mà có thể vĩnh viễn đảo ngược trạng thái đau mãn tính. Để thực hiện điều đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu hành vi động vật và một loạt các xét nghiệm tế bào. Chúng tôi chụp rất nhiều hình ảnh trong nuôi cấy tế bào, gọi là nơron hạch gốc sống lưng xuất phát từ con chuột hoang hoặc một loạt các con chuột biến đổi gen. Chúng tôi quan tâm đến việc tìm kiếm không chỉ tại các hoạt động truyền tín hiệu tế bào, mà còn các hoạt động diễn ra dưới tế bào. Một trong những hoạt động chính mà chúng tôi nghiên cứu là sự kiểm soát dịch mã

Page 27: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY27

TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

hoặc tổng hợp protein. Trong vài năm gần đây, số lượng các phương pháp có sẵn để nghiên cứu kiểm soát dịch mã trong khoang dưới tế bào đã tăng lên. Chúng tôi thực hiện một số lượng hợp lý hình ảnh đồng tiêu sử dụng các kháng thể hoặc tế bào thông báo. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng bắt đầu nghiên cứu một số hình ảnh tế bào sống.Công việc điển hình của chúng tôi liên quan đến việc tạo ra các tế bào nuôi cấy từ chuột, sau đó sử dụng phương pháp tiếp cận dược lý học hoặc di truyền để chuyển đổi các quá trình mà chúng tôi quan tâm và sau đó ghi lại hình ảnh các quá trình đó. Trước đây, chúng tôi đã sử dụng hình ảnh đồng tiêu để thực hiện mọi thứ - từ lúc quan sát việc nhuộm tế bào đến khi những hình ảnh cuối cùng được công bố - nhưng đó là một quá trình chậm. Hiện nay, chúng tôi sử dụng một thiết bị kỹ thuật số chụp hình tế bào huỳnh quang cầm tay để quan sát các tế bào trước khi sử dụng hệ thống đồng tiêu. Hỏi: Thách thức lớn nhất của ông khi thực hiện hình ảnh tế bào là gì và quá trình đó đã thay đổi như thế nào?Đáp: Khoảng ba hoặc bốn năm trước đây, chúng tôi vẫn mất rất nhiều thời gian sử dụng Western blotting (WB) để quan sát phosphoproteins. Sử dụng WB dễ dàng nhưng chậm và không cung cấp bất kỳ loại nào của độ phân giải tế bào. Một vài yếu tố đã tạo điều kiện cho sự thay đổi trong cách thức chúng tôi làm việc. Bây giờ, chúng tôi có một loạt các kháng thể phosphor cụ thể hoạt động rất tốt cho mô miễn dịch hoặc immunocytochemistry. Chúng tôi cố gắng tận dụng lợi thế của các thông báo chuyển biến gen có sẵn. Đây là những con chuột hiện protein huỳnh quang màu xanh lá cây mà sau đó được gắn với các protein nhất định liên quan đến kiểm soát dịch mã, vì vậy chúng tôi có thể nhìn thấy nơi các protein đang di chuyển trong tế bào. Chúng tôi cũng sử dụng một số xét nghiệm mới như “Click Chemistry” và Kỹ thuật SUNSET để đo tổng hợp protein mới ra đời. Với những kỹ thuật xét nghiệm và chụp hình mới, chúng tôi có thể thấy không chỉ các loại thay đổi đang xảy ra, mà còn thấy những gì bên trong tế bào đang diễn ra.Hỏi: Những lợi thế của việc sử dụng thiết bị chụp hình tế bào huỳnh quang kỹ thuật số là gì?Đáp: Chúng tôi là một cơ sở nghiên cứu tại trường đại học, vì vậy ngoài các sinh viên sau đại học và nghiên cứu sinh sau tiến sĩ, chúng tôi có rất nhiều sinh viên đại học đang làm việc trong các PTN. Những sinh viên này không có kinh nghiệm chụp hình tế bào, mặc dù họ có thể được đào tạo nhưng đó là một quyết định đau đầu để họ bắt đầu làm việc trên một kính hiển vi đồng tiêu trị giá 300,000 đô la. Thiết bị chụp hình tế bào kỹ thuật số là một kính hiển vi epifluorescent nhỏ khá mới và không tốn kém. Thông qua việc sử dụng này, các sinh viên có thể trau dồi kỹ năng, quan sát thí nghiệm họ đang thực hiện và nó cung cấp hình ảnh sắc nét phù hợp với kích thước và kinh phí. Điều thiết yếu là nó không thể bị hư hại khi chúng tôi di chuyển nó xung quanh PTN từ bàn này sang bàn khác. Trong một số trường hợp, chúng tôi cũng thay đổi quy trình làm việc để có thể thực hiện tất cả các thí nghiệm hình ảnh kỹ thuật số và không phải sử dụng kính

Page 28: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

28

hiển vi đồng tiêu. Độ nhạy của nó đủ tốt để thực hiện một số thí nghiệm đơn giản và rút ngắn được thời gian trên kính hiển vi đồng tiêu đã được tùy chỉnh để chụp hình tế bào sống của chúng tôi. Có cả kính hiển vi đồng tiêu và “epifluorescence imager” giúp sinh viên nắm rõ từng thiết bị và nó có thể cho chúng ta sử dụng cả hai tốt nhất theo khả năng của mình. Bạn có thể nhận được hình ảnh đẹp trong một vài giờ sử dụng kính hiển vi đồng tiêu, nhưng bạn có thể nhận được kết quả tương tự chỉ trong một vài phút sử dụng hình ảnh kỹ thuật số. Sau đó, bạn có thể chuyển sang thí nghiệm tiếp theo, điều này giúp bạn tiết kiệm cả thời gian và tiền bạc.Hỏi: Ông tìm kiếm điều gì khi đầu tư vào hệ thống mới này?Đáp: Chúng tôi đang tìm kiếm để có được một kính hiển vi epifluorescent có thể sử dụng khi kết thúc thí nghiệm. Vài năm trước đây, tôi đã thấy một hệ thống khác nhưng không mang lại những điều mà chúng tôi đang tìm kiếm, do đó, nó không có giá trị đầu tư. Với các công cụ gần đây, tôi bị ấn tượng bởi các thiết bị chụp hình di động. Nó thực sự không cần bất kỳ không gian đặt bàn máy chuyên dụng nào và những hình ảnh chúng tôi thu được khá đẹp. Sử dụng nó hoàn toàn trực quan với một giao diện màn hình cảm ứng và dễ dàng của một máy tính bảng cá nhân bất kỳ - các sinh viên từ 18 đến 25 tuổi có thể được dạy cách sử dụng nó trong một vài phút. Điều đó rất có giá trị vì chúng tôi có rất nhiều sinh viên đại học trong PTN, những người cần được dạy nhiều điều nhanh chóng.Hỏi: Ông có thể cho biết thêm về những điều mà ông đang tìm kiếm?Đáp: Các yếu tố quan trọng đối với chúng tôi là tính di động. Chúng tôi cần một dụng cụ mà chúng ta có thể di chuyển xung quanh PTN và điều đó mang lại rất nhiều công dụng khác nhau. Một yếu tố khác nữa là dễ sử dụng. Hệ thống hình ảnh kỹ thuật số này là trực quan và bạn có thể tìm ra cách để sử dụng nó gần như ngay lập tức. Nếu bạn có một điện thoại thông minh, bạn sẽ biết cách sử dụng nó.Hỏi: Những loại cải tiến nào mà ông đang tìm kiếm trong các hệ thống hình ảnh mới?Đáp: Ý tưởng sử dụng di động, tất cả các kính hiển vi kỹ thuật số chỉ là bắt kịp và chắc chắn chúng có rất nhiều tiện ích. Đây là một cơ hội tốt để mở rộng dụng cụ này nhằm cho nó linh hoạt hơn. Tôi chắc chắn có thể thêm vào độ phóng đại và các tính năng quang học khác mà không thay đổi tính di động và độ chắc chắn của các dụng cụ. Ngay cả khi chi phí tăng thêm xấp xỉ 5000 đô la, giá vẫn còn khá phải chăng. Ngoài ra, tăng độ linh hoạt hơn trong các hạng mục của epifluorescence sẽ thêm nhiều cơ hội hơn cho các ứng dụng. Ban đầu chúng tôi không hoàn toàn chắc chắn dụng cụ này sẽ được sử dụng trong PTN của chúng tôi, nhưng bây giờ hầu hết thời gian chúng tôi đang sử dụng nó. Sử dụng nó chỉ để quan sát các tế bào và chắc chắn rằng chúng trông khỏe mạnh. Tôi có thể thấy chúng tôi có một trong các hệ thống kỹ thuật số trong phòng nuôi cấy mô rẻ hơn so với các kính hiển vi đảo ngược mà hiện nay không còn ai sử dụng nữa.Hỏi: Với công cụ này, các ông có bị ảnh hưởng về thông lượng của các xét nghiệm không?Đáp: Các thông lượng của hệ thống hình ảnh kỹ thuật số rất tốt cho những gì chúng tôi sử dụng để quan sát các tế bào trên lá kính đậy (coverslip). Chúng tôi đã cố gắng để sử dụng nó cho việc tạo ảnh tấm 96 lỗ nhưng chúng tôi không thể chụp hình toàn các lỗ tại một thời điểm. Khả năng để chụp hình một tấm 96 lỗ chắc chắn sẽ tăng tính hấp dẫn của nó. Sau đó, chúng tôi có thể làm các xét nghiệm hình ảnh thông lượng cao trong một khoảng thời gian ngắn.

Theo www.labmanager.com

Page 29: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

BẢN TIN THỬ NGHIỆM NGÀY NAY29

Michael Barkan là một nhà tư vấn tin học cấp cao tại CSols Inc, một công ty tư vấn tin học trong phòng thử nghiệm (PTN) ở Bắc Mỹ có văn phòng tại Canada và Mỹ. Trước đó, ông làm việc cho Johnson & Johnson về các hệ thống PTN toàn cầu trong 21 năm, nơi ông là nhà quản trị hệ thống dữ liệu sắc ký (CDS) cho các hệ thống benchtop PTN, chạy kiểm chứng thực đối với FTIR, UV-Vis, khối phổ, hấp thụ nguyên tử (AA) và các thiết bị đo đạc khác của PTN.

Hỏi: Dựa trên kinh nghiệm, ông có thể cho biết các xu hướng gần đây nhất mà ông nhận thấy trong hệ thống dữ liệu sắc ký là gì?Đáp: Với cả kinh nghiệm tư vấn và làm việc trong PTN quản lý hệ thống dữ liệu sắc ký, tôi sẽ nói xu hướng mới nhất hiện nay là một sự thúc đẩy lớn về các số liệu. Điều đó liên quan đến những vấn đề như việc khai thác các hệ thống thông qua các số liệu và các hệ thống đó trong PTN được sử dụng nhiều hay ít. Điều đó cho phép các nhà quản lý thực hiện một số cuộc điều tra về lý do tại sao nó như vậy bằng cách đặt câu hỏi với các nhà phân tích, ví dụ, tại sao họ không sử dụng các thiết bị này thường xuyên. Ngoài ra còn có một sự tập trung vào việc muốn biết thông lượng của các mẫu trong PTN. Các nhà quản lý PTN đang bắt đầu đào bới, đặt những câu hỏi, và các hệ thống dữ liệu sắc ký đang thực sự bắt đầu có những mô-đun số liệu như một phần trong các gói của họ.Hỏi: Một số tính năng chính mà các chuyên gia PTN đang tìm kiếm trong một CDS là gì?Đáp: Tất nhiên, các tính năng sắc ký tiêu chuẩn được xây dựng nhưng các tính năng bổ sung mà họ đang tìm kiếm là những mối liên kết với các hệ thống khác để thực hiện công việc hiệu quả hơn. Do đó, hệ thống dữ liệu sắc ký có thể kết nối vào LIMS hoặc các hệ thống thích hợp khác mà dữ liệu có thể được chuyển giao.Hỏi: Những thách thức chính mà nhà quản lý PTN hy vọng sẽ giải quyết thông qua một CDS là gì?Đáp: Mọi người đang tìm cách để tạo ra hiệu quả, do đó họ muốn CDS phù hợp với việc giúp đỡ để tạo ra những hiệu quả. Ngoài ra còn có một sự thúc đẩy lớn trong FDA ngay bây giờ đối với toàn vẹn dữ liệu, vì vậy các nhà quản lý PTN đang tìm kiếm CDS như là một công cụ phù hợp

Page 30: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

30

để không có những câu hỏi về sự tuân thủ.Hỏi: Những khó khăn chính mà hầu hết các PTN phải đối mặt khi thực hiện một CDS là gì?Đáp: Thông thường, điều đầu tiên tôi nhận thấy khi vào một công ty là có ba nhóm mà bạn phải giải quyết: bộ phận CNTT, bộ phận kinh doanh hoặc PTN và bộ phận chất lượng. Một thách thức thường xuyên đó là nhận được sự đồng thuận của cả ba phòng chức năng về những điều khác nhau trong giai đoạn quy hoạch. Một khó khăn khác trong việc thực hiện CDS là hầu hết các PTN để thiết bị lẫn lộn mà bạn thực sự phải tìm ra trong các PTN và sắp xếp lại trước khi bắt đầu lập ra một danh sách các thiết bị cần được đặt đúng vị trí để bạn biết các thiết bị này có hay không tương thích với các CDS mà bạn đã mua.Khó khăn khác mà tôi gặp phải trong quá trình thực hiện, đặc biệt trong cài đặt toàn cầu hoặc nhiều vị trí là vấn đề của việc hài hòa các quá trình giữa các vị trí khác nhau. Nếu bạn đang sử dụng một hệ thống theo một hướng và bạn có các vị trí bên ngoài làm những nhiệm vụ khác biệt thì nó trở nên rất khó khăn để thực hiện hệ thống. Bạn phải làm hài hòa các quá trình giữa các vị trí trước khi bắt đầu thực hiện.Hỏi: Một vài cách tốt nhất mà PTN có thể sử dụng để giải quyết những vấn đề thực hiện là gì?Đáp: Quản lý dự án thực sự phải là một nhà lãnh đạo tài giỏi về dự án và phải họp bàn với các nhóm CNTT, kinh doanh/PTN và chất lượng ngay từ đầu. Nhà quản lý dự án nên họp với họ trước khi thực hiện thực sự bắt đầu để đưa ra một số nguyên tắc cơ bản và đặt một số câu hỏi với thời hạn mà cần phải được trả lời bởi nhóm đó. Sau đó, họ cần phải viết kế hoạch xác nhận vào các bảng trong bản thỏa thuận và triển khai nó một cách phù hợp với biên bản được viết cho tất cả các nhóm. Họ cũng phải chủ động thu thập các thiết bị, phần mềm ngay từ đầu và xác định ngay lập tức những gì tương thích và những gì có thể cần phải được nâng cấp trước khi bắt đầu thực hiện. Thật sự rất khó để làm điều đó ở giữa một dự án. Trong hầu hết các trường hợp, họ sẽ muốn tạo ra một tập hợp mới các quy trình quanh CDS mà tất cả mọi người có thể làm theo.Hỏi: Những sai lầm lớn nhất mà các PTN có xu hướng làm khi lựa chọn một CDS là gì?Đáp: Khi bạn đang triển khai một hệ thống sắc ký mới, rất nhiều người muốn chọn một hệ thống dễ dàng để sử dụng. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của tôi thì những người mà có thể dễ dàng sử dụng hệ thống lại ít tuân thủ chúng hơn. Vì vậy, nếu bạn chọn một người phù hợp hơn để làm giảm bớt lo ngại thì bạn phải nhận ra thực tế là yêu cầu đào tạo nhiều hơn.Hỏi: Các nhà quản lý nên xử lý vấn đề đào tạo như thế nào?Đáp: Việc đào tạo nên được cho tất cả các nhà phân tích, đặc biệt là nếu họ đã không bao giờ thấy loại của hệ thống trước. Những gì tôi đã làm trong quá khứ là giữ một Q & A hàng tuần, khi người dùng bắt đầu có được những câu hỏi cần được trả lời, họ đặt câu hỏi tốt hơn. Việc đào tạo đang được tiếp tục cho đến khi nó không còn cần thiết.Hỏi: Có bất cứ điều gì khác mà bạn muốn bổ sung không?Đáp: Khi triển khai một hệ thống dữ liệu sắc ký, luôn luôn tốt khi có một môi trường mà trong đó bạn không chỉ làm công việc hàng ngày của bạn mà còn có thể “giải trí”. Một nơi mà mọi người không cần phải lo lắng về những điều bị phá vỡ và họ có thể thử những điều mới hoặc các thiết bị mới có thể được cài đặt.

Theo www.labmanager.com

Page 31: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

TT Mã số Tên chương trình Chỉ tiêu Loại chương trình

Thời gian dự kiến

Phí tham dự

CHƯƠNG TRÌNH QUÝ 1Lĩnh vực hóa học

1 VPT.1.5.16.01Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nước uống

Màu sắc, Độ đục, pH, Độ kiềm tổng, Độ cứng tổng, Độ

cứng Ca, TDS, TSS

Định lượng Tháng 1 2,500,000

2 VPT.1.5.16.02Phân tích các

anion trong mẫu nước

N_NO3-, N_NO2-, Cl-, SO4

2-, F-, P_PO43-

Định lượng Tháng 1 2,500,000

3 VPT.1.5.16.03Phân tích kim loại

trong nước và nước thải

Fe, Cu, Zn, Mn, Cr, Ni, Na, K Định lượng Tháng 1 2,500,000

4 VPT.1.5.16.04Phân tích kim loại nặng trong nước

và nước thảiCd, Pb, Hg, As Định lượng Tháng 1 2,500,000

5 VPT.1.5.16.05Phân tích 3 –

MCPD trong nước tương

3 – MCPD Định lượng Tháng 1 2,000,000

6 VPT.1.5.16.06Phân tích các chỉ tiêu trong trà, chè

xanh

Độ ẩmHàm lượng chất tanHàm lượng tro tổngHàm lượng TanninHàm lượng Cafein

Định lượng Tháng 1 2,500,000

7 VPT.1.5.16.07 Phân tích các chỉ tiêu trong Muối Iot

Độ ẩm, Hàm lượng NaCl, Tạp chất, Hàm lượng Iot

Định lượng Tháng 1 2,500,000

8 VPT.1.5.16.09Phân tích các

anion trong mẫu nước

N_NO3-, N_NO2

-, Cl-, SO4

2-, F-, P_PO43- Định lượng Tháng 3 2,500,000

9 VPT.1.5.16.10Phân tích các chỉ tiêu đánh giá độ ô nhiễm nước thải

COD, BOD5, N_NH4

+, Tổng N, Tổng P, TSS

Định lượng Tháng 3 2,500,000

Page 32: Bản tin Thử nghiệm ngày nay số 14

SỐ 14 - THÁNG 03/2016

Maket mới

10 VPT.1.5.16.11Phân tích các chỉ

tiêu trong thực phẩm và thủy sản

pH, Hàm lượng acid, N tổng, Tro

tổng, N_NH3, TVB_N, Ca, P

Định lượng Tháng 3 2,500,000

11 VPT.1.5.16.12 Phân tích Histamin trong nước mắm Histamin Định lượng Tháng 3 2,500,000

12 VPT.1.5.16.13Phân tích Aflatoxin trong bắp, thức ăn

chăn nuôiAflatoxin Định lượng Tháng 3 2,000,000

13 VPT.1.5.16.14Phân tích Vitamin A, Vitamin E trong

sữa

Vitamin A, Vitamin E Định lượng Tháng 3 2,000,000

14 VPT.1.5.16.15

Phân tích Vitamin B1, Vitamin B2, Vitamin C trong

sữa

Vitamin B1Vitamin B2Vitamin C

Định lượng Tháng 3 2,500,000

15 VPT.1.5.16.16Phân tích các chỉ tiêu đánh giá chất

lượng ngũ cốc

Đạm, Đường, Tinh bột, Tro tổng số Định lượng Tháng 3 2,500,000

16 VPT.1.5.16.17 Phân tích kim loại nặng trong đất

Cd, Pb, Hg, As, Fe, Cu, Zn Định lượng Tháng 3 2,000,000

17 VPT.2.5.16.18Chỉ tiêu chất lượng

trong sữa thanh trùng

Hàm lượng chất khô

Hàm lượng chất béo

Hàm lượng proteinĐộ axit

Định lượng Tháng 3 3,500,000

Lĩnh vực sinh học

18 VPT.1.6.16.08Phân tích Vi sinh trong nước giải

khát

Coliforms tổng số, E.coli tổng số,

Pseudomonas aeruginosa, Sulfite reducing clostridia, Fecal streptococci

Định lượng Tháng 1 3,000,000

19 VPT.1.6.16.18Vi sinh trong nước giếng, nước máy,

nước sản xuất

Tổng số VSVHKFecal Coliforms

ColiformsE.coli

Định lượng Tháng 3 3,000,000

20 VPT.1.6.16.19 Phân tích Vi sinh trong nước uống

Coliforms tổng số, E.coli tổng số,

Pseudomonas aeruginosa, Sulfite reducing clostridia, Fecal streptococci

Định lượng Tháng 3 3,000,000

21 VPT.2.6.16.25 Vi sinh vật trong sữa bột L.monocytogen Định tính Tháng 3 3,000,000