Top Banner
1 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN BẢN TIN THÁNG 01/2017 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU Chip 3D thúc đẩy nghiên cứu thuốc Đĩa nano tiêu diệt khối u trong vắc-xin ung thư mới Lớp phủ cấy ghép nha khoa chống nhiễm trùng với ba hướng tấn công Kỹ thuật mới mang lại tiềm năng trong điều trị các bệnh Alzheimer và Parkinson Gạch giúp ngôi nhà “Tàng hình”: Tấm thay đổi màu sắc thông minh có thể giúp ngụy trang ngay lập tức Phương pháp mới tái chế khí nhà kính Dây điện siêu mỏng làm từ những mảnh kim cương siêu nhỏ Chế tạo thành công vật liệu gốc tơ tằm được lập trình sẵn các chức năng Robot mềm bắt chước chuyển động sinh học Làm sạch crom trong nước uống Gen cây tần bì là cơ sở giúp ngăn chặn bệnh chết non ở cây Phương pháp mới giúp phát hiện những hành tinh giống Trái đất Sản xuất vật liệu mới từ lốp ô tô bỏ đi Khai thác năng lượng từ ngón tay để cung cấp cho thiết bị cảm ứng Công nghệ biến khí thải nhà máy thành bột nở Sản xuất được chất dẻo sinh học từ nguồn nguyên liệu tái tạo Tã thông minh tạo ra điện từ nước tiểu Phần mềm mới giúp áp dụng kỹ thuật CRISPR dễ dàng hơn Tạo ra laser siêu nhỏ từ các hạt nano Biến đổi chip bộ nhớ thành bộ vi xử lý để tăng tốc độ tính toán Mực làm từ dây nano cho phép in thiết bị điện tử trên giấy Phát triển được loại kính thủy tinh trong suốt trên cơ sở gỗ Lá nhân tạo mới biến đổi ánh nắng mặt trời thành nhiên liệu hydro Sản xuất túi mua hàng từ vỏ tôm Xác định tính chất quan trọng giúp màng của pin mặt trời perovskite chuyển đổi ánh nắng thành điện năng Nấm men biến đổi đường thực vật thành dầu mỏ B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM 1-0016020 Hợp chất N-(1,2,5-oxadiazol-3- yl)-, N-(tetrazol-5-yl)- N-(triazol-5- yl)bixycloarylcarboxamit, chế phẩm chứa hợp chất này và phương pháp phòng trừ cây trồng không mong muốn 1-0016086 Chế phẩm diệt trừ dịch hại chứa hợp chất anthranilamit và phương pháp phòng trừ loài gây hại 1-0016105 Hợp chất pyrazol carboxamit có hoạt tính diệt nấm, chế phẩm diệt nấm chứa hợp chất này và phương pháp
36

BẢN TIN THÁNG 01/2017

Mar 21, 2022

Download

Documents

dariahiddleston
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: BẢN TIN THÁNG 01/2017

1

TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN

BẢN TIN THÁNG 01/2017

A.THÔNG TIN THÀNH TỰU

Chip 3D thúc đẩy nghiên cứu thuốc

Đĩa nano tiêu diệt khối u trong vắc-xin ung

thư mới

Lớp phủ cấy ghép nha khoa chống nhiễm

trùng với ba hướng tấn công

Kỹ thuật mới mang lại tiềm năng trong điều

trị các bệnh Alzheimer và Parkinson

Gạch giúp ngôi nhà “Tàng hình”: Tấm thay

đổi màu sắc thông minh có thể giúp ngụy

trang ngay lập tức

Phương pháp mới tái chế khí nhà kính

Dây điện siêu mỏng làm từ những mảnh kim

cương siêu nhỏ

Chế tạo thành công vật liệu gốc tơ tằm được

lập trình sẵn các chức năng

Robot mềm bắt chước chuyển động sinh học

Làm sạch crom trong nước uống

Gen cây tần bì là cơ sở giúp ngăn chặn bệnh

chết non ở cây

Phương pháp mới giúp phát hiện những hành

tinh giống Trái đất

Sản xuất vật liệu mới từ lốp ô tô bỏ đi

Khai thác năng lượng từ ngón tay để cung

cấp cho thiết bị cảm ứng

Công nghệ biến khí thải nhà máy thành bột

nở

Sản xuất được chất dẻo sinh học từ nguồn

nguyên liệu tái tạo

Tã thông minh tạo ra điện từ nước tiểu

Phần mềm mới giúp áp dụng kỹ thuật

CRISPR dễ dàng hơn

Tạo ra laser siêu nhỏ từ các hạt nano

Biến đổi chip bộ nhớ thành bộ vi xử lý để

tăng tốc độ tính toán

Mực làm từ dây nano cho phép in thiết bị

điện tử trên giấy

Phát triển được loại kính thủy tinh trong suốt

trên cơ sở gỗ

Lá nhân tạo mới biến đổi ánh nắng mặt trời

thành nhiên liệu hydro

Sản xuất túi mua hàng từ vỏ tôm

Xác định tính chất quan trọng giúp màng của

pin mặt trời perovskite chuyển đổi ánh nắng

thành điện năng

Nấm men biến đổi đường thực vật thành dầu

mỏ

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0016020 Hợp chất N-(1,2,5-oxadiazol-3-

yl)-, N-(tetrazol-5-yl)- và N-(triazol-5-

yl)bixycloarylcarboxamit, chế phẩm chứa

hợp chất này và phương pháp phòng trừ cây

trồng không mong muốn

1-0016086 Chế phẩm diệt trừ dịch hại chứa

hợp chất anthranilamit và phương pháp

phòng trừ loài gây hại

1-0016105 Hợp chất pyrazol carboxamit có

hoạt tính diệt nấm, chế phẩm diệt

nấm chứa hợp chất này và phương pháp

Page 2: BẢN TIN THÁNG 01/2017

2

phòng trừ nấm gây bệnh cho thực vật

ở cây trồng

1-0016107 Thuốc diệt cỏ dạng huyền phù

đặc

1-0016144 Dụng cụ phòng trừ côn trùng và

phương pháp sản xuất dụng

cụ này

1-0016048 Chế phẩm phủ hệ nước chứa hỗn

hợp của nhựa alkyt cải biến bằng

uretan, quy trình điều chế và phương pháp sử

dụng chế phẩm này

1-0016021 Phương pháp làm sạch da

1-0016025 Thể tiếp hợp miễn dịch kháng

mesothelin và dược phẩm

chứa thể tiếp hợp miễn dịch này

1-0016050 Chế phẩm giải phóng kéo dài,

dược phẩm và thuốc chứa

chế phẩm này

1-0016055 Hợp chất có tác dụng ức chế

histon deaxetylaza và quy trình điều chế hợp

chất này

1-0016078 Chế phẩm sử dụng khu trú

1-0016084 Hợp chất heterobiaryl-

xyclohexyl-tetraazabenzo[e]azulen, quy trình

điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa nó

1-0016112 Hợp chất chứa Bo có phân tử nhỏ

và dược phẩm chứa hợp chất

này

1-0016046 Phương pháp sản xuất giầy sử

dụng dung dịch phủ lót đa năng

1-0016024 Miếng dính hạt giống

1-0016035 Chế phẩm để tạo ra tác nhân

nghiền clinke xi măng và hỗn

hợp clinke xi măng chứa tác nhân này

1-0016054 Ván khuôn dùng một lần lắp ghép

được để dựng cốp pha theo mô đun để đổ

móng bê tông

1-0016117 Quy trình sản xuất vật đúc bằng

bọt polyuretan và vật đúc bằng bọt

polyuretan thu được bằng quy trình này

1-0016148 Nhũ tương chứa scleroglucan,

nhũ tương bitum và chế phẩm kết

dính bitum

1-0016245 Hạt phân phối chất hữu ích chứa

polysacarit không ion,

phương pháp sản xuất và chế phẩm chứa hạt

này

Page 3: BẢN TIN THÁNG 01/2017

3

THÔNG TIN THÀNH TỰU

Chip 3D thúc đẩy nghiên cứu thuốc

Các nhà khoa học tại Đại học Crete, Hy

Lạp, đang nghiên cứu các tế bào não của

người để tìm hiểu về bệnh nhân mắc chứng

xơ cứng teo cơ một bên (ALS) và cách điều

trị bệnh.

Họ cho biết bộ não người trên một con

chíp có thể mở đường cho một kỷ nguyên

mới trong nghiên cứu.

Giáo sư Achilleas Gravanis phụ trách dự

án xơ cứng teo cơ một bên trên một con chíp

do châu Âu tài trợ. Nhóm của ông, cùng với

Tiến sĩ Dimitris Tzeranis, một nghiên cứu

sinh thuộc Chương trình Marie Sklodowska-

Curie làm việc với các đồng nghiệp tại Viện

Công nghệ Massachusetts (MIT) và Viện

nghiên cứu tế bào gốc Harvard, Hoa Kỳ, đang

phát triển một loại chip 3D chứa đầy nơron

vận động và các tế bào cơ - tế bào cần thiết

cho sự vận động - và tế bào não hình ngôi sao

còn được gọi là tế bào hình sao.

Gravanis cho biết: "Các tế bào này đóng

một vai trò then chốt trong chứng bệnh ASL.

Chúng tôi đang so sánh các tế bào của bệnh

nhân mắc chứng ALS với những người khỏe

mạnh để phân biệt sự khác nhau, bằng cách

kết hợp dược lý học với kỹ thuật chụp ảnh sử

dụng các hệ thống hiện đại nhất”.

Con chip này được thiết kế nhờ sử dụng

giá đỡ 3D làm từ collagen. Sử sụng nó, các

nhà khoa học có thể tiến hành nghiên cứu để

xác định nguyên nhân của căn bệnh và thử

nghiệm các loại thuốc mới để tìm hiểu liệu

chúng có thể cải thiện cách thức các tế bào

não của con người hoạt động hay không.

Gravanis nói con chip này có thể là một

bước trung gian giữa các xét nghiệm an toàn

và hiệu quả ban đầu trên động vật và thử

nghiệm tốn kém trên những người tình

nguyện. Ông nói thêm: "Điều này sẽ làm

giảm đáng kể số lượng các loài động vật

được sử dụng. Và nó cho phép chúng ta thử

nghiệm nhiều hợp chất hơn từ một thư viện

hóa học. Nếu các con chip tế bào thần kinh

của người ALS xác nhận hợp chất đó có tác

dụng, chúng tôi sẽ có cơ hội thành công cao

hơn ở người”.

Gravanis kết luận: "Thật đáng thất vọng vì

không loại thuốc ALS nào đã được thử

nghiệm trên động vật có tác dụng tốt trên con

người, nhưng bạn không thể mô phỏng cơ thể

con người bằng cách chỉ nhìn vào các tế bào

động vật trong một món ăn".

Con chip này có thể có mặt trên thị trường

vào cuối năm 2017.

Theo vista.gov.vn, 03/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 4: BẢN TIN THÁNG 01/2017

4

Đĩa nano tiêu diệt khối u trong vắc-xin ung thư mới

Ung thư ruột kết và u melanin có thể sẽ

sớm được điều trị bằng một loại vắc-xin đơn

giản, nếu nghiên cứu từ Đại học Michigan

được thử nghiệm thành công. Sử dụng các đĩa

nano tổng hợp, các nhà khoa học đã đào tạo

được hệ thống miễn dịch của chuột tiêu diệt

tế bào ung thư hiệu quả hơn, loại bỏ khối u

trong vòng 10 ngày và ngăn ngừa chúng xuất

hiện trở lại tới nhiều tháng sau khi điều trị.

Kỹ thuật này hoạt động giống như các loại

vắc-xin khác: một lượng nhỏ chỉ dấu sinh học

của bệnh được xác định trước được đưa vào

cơ thể, sau đó hệ thống miễn dịch sẽ tập hợp

lại để chống lại chúng. Trong trường hợp này,

những chỉ dấu được đưa vào theo hình thức

kháng nguyên khối u mới được tập hợp vào

các đĩa nano chỉ rộng 10 nanomet và làm

bằng lipoprotein mật độ cao.

Về cơ bản các nhà khoa học đã đào tạo hệ

thống miễn dịch bằng những đĩa nano để các

tế bào miễn dịch có thể tấn công các tế bào

ung thư.

Thử nghiệm trên những con chuột có khối

u ruột kết và u melanin, 27% các tế bào T của

chuột đã chuyển sự chú ý của chúng vào các tế

bào ung thư. Kết hợp với vắc-xin mới, nhóm

nghiên cứu đã sử dụng "thuốc ức chế điểm

kiểm soát miễn dịch" là loại thuốc nhắm vào

một số proteins nhất định như PD-1 để giữ cho

các tế bào T khỏe mạnh và chống lại tế bào

ung thư. Với cả hai hệ thống hoạt động cùng

nhau, hầu hết các khối u biến mất trong vòng

10 ngày, và khi các nhà nghiên cứu thử đưa

các tế bào ung thư vào 70 ngày sau đó, hệ

thống miễn dịch của đối tượng thử nghiệm đã

không cho chúng có cơ hội để phát triển. Điều

này cho thấy hệ thống miễn dịch có thể 'nhớ'

các tế bào ung thư trong một thời gian dài.

Các nhà nghiên cứu có kế hoạch tăng kích

thước đối tượng cho mẫu vắc-xin của họ, và

xem nó hoạt động như thế nào ở động vật lớn

hơn so với chuột.

Mục đích của các liệu pháp miễn dịch ung

thư là để tiêu diệt các khối u và ngăn ngừa tái

phát trong tương lai mà không có độc tính hệ

thống, và nghiên cứu này đã cho thấy các kết

quả rất hứa hẹn ở chuột

Theo vista.gov.vn, 05/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Lớp phủ cấy ghép nha khoa chống nhiễm trùng với ba hướng tấn công

Theo các nhà nghiên cứu tại Đại học

Basque Country, khoảng 10% các ca cấy

ghép nha khoa sẽ chỉ phải được loại bỏ do

nhiễm khuẩn hay cấy ghép không tích hợp

đúng cách với xương hàm của bệnh nhân. Để

giảm thiểu điều này, nhóm nghiên cứu đã

phát triển lớp phủ mới cho răng cấy ghép

không chỉ gắn vào xương xung quanh chắc

hơn, mà còn có thể chống lại nhiễm trùng do

vi khuẩn theo ba cách.

Răng cấy tiêu chuẩn được tạo thành một

ốc vít titan cắm vào ổ răng trống, với một

chiếc răng giả bên trên. Nó có thể mất vài

tháng để ốc vít tích hợp vào xương, nghĩa là

để xương phát triển xung quanh chân cấy, và

trong thời gian đó, bệnh nhân có thể không ăn

được thức ăn rắn. Những cố gắng trước đây

để cải thiện thời gian phục hồi và làm giảm

nguy cơ bị từ chối bao gồm trồng răng trực

Page 5: BẢN TIN THÁNG 01/2017

5

tiếp vào ổ răng sử dụng tế bào gốc của chính

bệnh nhân, phát triển lớp phủ nano làm tăng

tốc quá trình chữa bệnh, và răng thay thế in

3D bằng một loại nhựa kháng khuẩn gắn liền.

Trong nghiên cứu mới, nhóm nghiên cứu

lên kế hoạch phát triển lớp phủ có thể cải

thiện sự tích hợp xương đồng thời giúp ngăn

chặn nhiễm trùng, bằng cách ngăn chặn vi

khuẩn xâm nhập, hoặc loại bỏ nó sau khi nó

đã phát triển.

Nhóm đã tạo ra được lớp phủ tạo thuận lợi

cho sự phát triển của xương quanh răng cấy

và do đó tạo điều kiện định vị với xương.

Trong một cố gắng khác, họ tìm cách để biến

chất phủ đó thành thuốc diệt khuẩn.

Đầu tiên, các nhà nghiên cứu tổng hợp

một dung dịch tiền thân từ silica, sau đó được

biến thành gel, sơn lên vít và đốt trong lò để

đảm bảo nó phủ bám toàn bề mặt. Lớp gel

này hỗ trợ sự tích hợp xương, đồng thời các

chất kháng khuẩn được thêm vào để nó có

khả năng chống nhiễm trùng.

Nhóm sử dụng silica làm chất tiền thân vì

trong nhiều nghiên cứu hợp chất này đã được

chứng minh có tính kích dẫn xương. Ngoài ra,

để vật liệu có đặc tính kháng khuẩn, họ đã

cho vào nhiều chất diệt khuẩn khác nhau.

Một trong những chất đó hoạt động với

vai trò chất phòng ngừa, hai chất khác được

sử dụng để loại bỏ vi khuẩn khi bị viêm

nhiễm. Chất đầu tiên được tạo ra từ một

nguyên liệu có thời gian biến chất rất dài để

nó luôn bám vào các ốc vít và có tác dụng lâu

nhất có thể để ngăn ngừa vi khuẩn bám vào.

Lớp phủ được thiết kế để tấn công vi

khuẩn hoạt động theo cách gần như ngược lại,

sử dụng một loại nguyên liệu biến chất nhanh

chóng để thích ứng với vi khuẩn, tiết ra chất

kháng khuẩn. Và do việc cấy vào hoặc gỡ ra

đều rắc rối, một trong hai lớp phủ được thiết

kế để sử dụng trong phẫu thuật nha chu, có

thể tra các nguyên liệu vào ốc vít mà không

cần phải gỡ răng cấy ra.

Mặc dù những chất liệu này vẫn còn đang

được thử nghiệm và cần phải nghiên cứu

thêm để tối ưu hóa kết quả, các nhà nghiên

cứu xác nhận rằng lớp phủ kháng khuẩn này

có thể phát triển được.

Theo vista.gov.vn, 05/01/2016

Trở về đầu trang

**************

Sử dụng chất béo để làm lành vết thương nhưng không để lại sẹo

Các nhà nghiên cứu tại Trường Y

Perelman, Đại học Pennsylvania và Đại học

California đã phối hợp để tìm ra cách làm

lành vết thương như da tái tạo mà không để

lại mô sẹo. Phương pháp này liên quan đến

việc biến đổi loại tế bào phổ biến nhất có

trong các vết thương thành tế bào mỡ, trước

đây được cho là không thể thực hiện ở người.

Nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí

Science ngày 5 tháng 1 năm 2017.

Các tế bào mỡ thường được tìm thấy trong

da, nhưng chúng biến mất khi vết thương lành

lại thành sẹo. Các tế bào phổ biến nhất có

trong vết thương đang lành là myofibroblast,

được cho là chỉ tạo thành sẹo. Mô sẹo cũng

không có bất cứ nang lông nào liên kết với

nó, là một yếu tố khác tạo sự bất thường từ

phần còn lại của da. Các nhà nghiên cứu đã

sử dụng những đặc điểm này làm cơ sở cho

nghiên cứu của họ và đã biến đổi

myofibroblast thành các tế bào mỡ mà không

gây sẹo.

Page 6: BẢN TIN THÁNG 01/2017

6

George Cotsarelis, trưởng dự án nghiên

cứu cho rằng: "Về cơ bản, chúng tôi có thể

tác động đến việc làm lành vết thương dẫn

đến sự tái tạo của da mà không để lại sẹo. Bí

mật nằm ở việc tái tạo các nang lông. Sau đó,

mỡ sẽ tái sinh để phản ứng với các tín hiệu từ

những nang lông đó".

Kết quả nghiên cứu cho thấy nang lông và

mỡ phát triển riêng rẽ nhưng không độc lập.

Các nang lông hình thành đầu tiên và phòng

thí nghiệm Cotsarelis trước đây đã phát hiện

ra các yếu tố cần thiết cho sự hình thành của

chúng. Hiện giờ, nhóm nghiên cứu đã phát

hiện thêm các yếu tố trên thực tế được sản

sinh bởi nang lông tham gia vào chuyển đổi

myofibroblast xung quanh để tái sinh dưới

dạng mỡ thay vì tạo thành sẹo. Chất béo đó sẽ

không hình thành nếu không có nang lông

mới, nhưng khi có nang lông, các tế bào mới

có thể phân biệt với các tế bào mỡ tồn tại

trước đó, làm cho vết thương lành lại trông

giống tự nhiên thay vì để lại sẹo. Khi xem xét

yếu tố đang truyền tín hiệu từ nang lông đến

các tế bào mỡ, các nhà nghiên cứu đã xác

định được một yếu tố được gọi là Protein hình

thái xương (BMP) giữ vai trò định hướng

myofibroblast trở thành chất béo.

"Thông thường, myofibroblast được cho là

không có khả năng trở thành loại tế bào khác.

Nhưng trong nghiên cứu, chúng tôi đã tác

động đến các tế bào này để chúng có thể

được chuyển đổi hiệu quả và ổn định thành tế

bào mỡ", Cotsarelis nói. Điều này đã được thể

hiện ở cả các tế bào sẹo lồi của chuột và

người được nuôi cấy.

Phát hiện nghiên cứu có khả năng cách

mạng hóa lĩnh vực da liễu với ứng dụng đầu

tiên và rõ ràng nhất sẽ là phát triển một

phương thức báo hiệu cho myofibroblasts

chuyển đổi thành các tế bào mỡ, giúp vết

thương lành lại mà không để lại sẹo.

Nhưng sự gia tăng của các tế bào mỡ

trong mô cũng có nhiều tác dụng hơn là chỉ

cho vết thương. Mất đi tế bào mỡ là một biến

chứng thường gặp của các căn bệnh khác, đặc

biệt là điều trị HIV và hiện chưa có phương

pháp điều trị hiệu quả. Các tế bào mỡ cũng tự

nhiên mất đi do quá trình lão hóa, đặc biệt là

ở mặt tạo nên vết nhăn sâu, lâu dài khó loại

bỏ như mong đợi về mặt thẩm mỹ bằng các

phương pháp điều trị chống lão hóa. Phát hiện

nghiên cứu có khả năng hướng tới một chiến

lược mới để tái sinh các tế bào mỡ ở da nhăn

nheo, mang lại các liệu pháp mới điều trị

chống lão hóa.

Nhóm nghiên cứu hiện đang tập trung vào

các cơ chế thúc đẩy tái tạo da, đặc biệt là đối

với việc tái sinh nang lông, cũng như các khía

cạnh khác của việc tái lập trình tế bào trong

vết thương trên da. Ngoài ra, các nhà khoa

học cũng xem xét vai trò của máy phát tín

hiệu khác ngoài BMP và tiến hành nghiên

cứu sâu hơn việc sử dụng các tế bào và mô

sẹo của người.

Theo vista.gov.vn, 16/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Kỹ thuật mới mang lại tiềm năng trong điều trị các bệnh Alzheimer và Parkinson

Trong nghiên cứu mà một ngày nào đó có

thể dẫn đến những tiến bộ to lớn có thể chống

lại các bệnh thoái hóa thần kinh như

Alzheimer và Parkinson, các nhà khoa học kỹ

thuật Trường Đại học Michigan đã chứng

minh được một kỹ thuật có thể đo chính xác

các tính chất của các phân tử protein riêng lẻ

nổi bên trong chất lỏng. Các protein rất cần

Page 7: BẢN TIN THÁNG 01/2017

7

thiết đối với chức năng của từng tế bào. Việc

đo các đặc tính của chúng trong máu và trong

các dịch lỏng khác trong cơ thể có thể tiết lộ

các thông tin có giá trị, bởi vì các phân tử là

một khối kiến tạo quan trọng trong cơ thể. Cơ

thể sản xuất chúng với một loạt các hình dạng

phức tạp để có thể truyền tải thông tin giữa

các tế bào, mang oxy và thực hiện các chức

năng quan trọng khác.

Tuy nhiên, đôi khi các protein không tạo

đúng. Và các nhà khoa học tin rằng một số

nhóm các protein biến hình này (misshapen),

có gọi là các amyloid, có thể kết thành cục ở

trong não. Các khối rối dính chặt gây trở ngại

cho chức năng của các tế bào bình thường,

dẫn đến làm thoái hóa các tế bào não và gây

ra bệnh nguy hiểm.

Nhưng các quá trình khiến các amyloids

hình thành và kết thành khối hiện chưa được

hiểu rõ. Điều này là do một phần thực tế là

hiện nay không có phương pháp nào tốt để có

thể nghiên cứu chúng. Các nhà nghiên cứu

nói rằng các phương pháp hiện nay đắt tiền,

tốn thời gian và rất khó khăn để làm sáng tỏ,

và chỉ có thể cung cấp một bức tranh toàn

cảnh về mức độ tổng thể của cácamyloids

trong cơ thể của bệnh nhân.

Mới đây, các nhà nghiên cứu Trường đại

học Michigan và Fribourg đã phát triển được

một kỹ thuật đáng tin cậy mới có thể giúp làm

sáng tỏ vấn đề trên do nó có thể đo các hình

dạng, thể tích, sự tích điện, tốc độ quay và các

thiên hướng liên kết với các phân tử khác.

Nhóm nghiên cứu gọi những thông tin thu

như là “dấu vân tay 5D” và tin rằng nó có thể

tiết lộ các thông tin mới mà một ngày nào đó

sẽ giúp các bác sỹ có thể theo dõi các tình

trạng của các bệnh nhân mắc bệnh thoái hóa

thần kinh và thậm chí có thể phát triển các

phương pháp điều trị mới.

Công trình nghiên cứu này đã được công

bố trên tạp chí Nature Nanotechnology.

“Hãy hình dung ra thách thức trong việc

xác định một người cụ thể nào đó mà chỉ dựa

vào trọng lượng và chiều cao của họ. Thách

thức mà chúng tôi đối mặt đó là các kỹ thuật

hiện nay. Tuy nhiên, Kỹ thuật “thông tin dấu

vân tay 5D” này có thể giúp cung cấp các

thông tin và dễ dàng xác định các protein đặc

biệt”, David Sept, giáo sư chuyên ngành kỹ

thuật y sinh học Trường Đại học U-M, và là

thành viên của nghiên cứu, cho biết.

Theo Michael Mayer, tác giả đứng đầu

nghiên cứu, và là giáo sư lý sinh tại Viện

Adolphe Merkle, Switzerland, cho biết việc

xác định được các protein riêng biệt có thể

giúp các bác sỹ theo dõi tình trạng bệnh của

các bệnh nhân tốt hơn và nó cũng có thể giúp

các nhà nghiên cứu tăng sự hiểu biết đúng về

việc làm thế nào các protein amyloid có liên

quan đến các bệnh thoái hóa thần kinh.

Để có được các số đo chi tiết, nhóm

nghiên cứu đã sử dụng một lỗ cơ nano

(nanopore) rộng chỉ 10-30 nanomet, và chỉ có

một phân tử protein có thể lọt vừa. Các nhà

nghiên cứu đã lấp đầy nanopore bằng dung

dịch muối và đã truyền một dòng điện xuyên

qua dung dịch này.

Khi phân tử protein nhào trộn đi xuyên

qua nanopore, do chuyển động của nó gây ra

rất nhỏ, sự dao động có thể đo được bên trong

dòng điện. Bằng cách cẩn thận đo dòng điện

này, các nhà nghiên cứu có thể xác định dấu

hiệu 5 chiều (5D) độc đáo của protein này và

gần như ngay lập tức xác định được nó.

“Các phân tử amyloid không chỉ khác

nhau về kích cỡ, mà chúng còn có xu hướng

kết cụm lại với nhau thành khối và rất khó để

nghiên cứu chúng", Mayer nói. "Do nó có thể

phân tích từng hạt một, cho nên phương pháp

mới này có thể giúp chúng ta hiểu được hành

vi của các amyloid bên trong cơ thể”.

Cuối cùng, mục tiêu của nhóm nghiên cứu

là phát triển một thiết bị mà các bác sĩ và các

nhà nghiên cứu có thể sử dụng đo các protein

trong mẫu máu hoặc chất dịch cơ thể nào đó

một cách nhanh chóng. Và điều này có thể sẽ

thực hiện được trong một vài năm nữa. Trong

khi chờ đợi, họ tiếp tục nghiên cứu nhằm cải

thiện độ chính xác của kỹ thuật, mài giũa nó

để có được các kết quả về hình dạng của mỗi

protein tốt hơn. Họ tin rằng trong tương lai,

Page 8: BẢN TIN THÁNG 01/2017

8

công nghệ này cũng có thể có ích trong việc

đo các protein liên quan đến bệnh tim và

trong một loạt các ứng dụng khác.

Theo vista.gov.vn, 20/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Gạch giúp ngôi nhà “Tàng hình”: Tấm thay đổi màu sắc thông minh có thể giúp ngụy trang ngay lập tức

Sản xuất ra loại gạch thông minh có khả

năng làm cho ngôi nhà của tương lai hòa tan

vào môi trường xung quanh - Đó là niềm hy

vọng của một nhóm các nhà khoa học người

Ý khi họ đang nghiên cứu một loại gạch gốm

mới có khả năng thay đổi màu sắc và hoa văn

chỉ với một thao tác vỗ nhẹ.

Các nhà khoa học cho biết: Ngoài khả năng

ngụy trang, loại gạch mới còn có thể biến bên

trong của một ngôi nhà thành một phòng trưng

bày nghệ thuật, một túp lều đá hoặc thậm chí

là cung điện Buckingham.

'Gạch điện phát quang' hay còn gọi là

LUMENTILE có cấu tạo bao gồm các chip

điện tử, nguồn phát sáng, tấm kính và thiết bị

điện tử được tích hợp bên trong viên gạch.

Mỗi viên gạch được điều khiển bằng điện

thoại thông minh sẽ hoạt động như một tập

hợp các điểm ảnh. Những điểm ảnh được xử lý

và điều khiển bằng một máy tính trung tâm,

điện thoại thông minh hay máy tính bảng.

GS. Guido Giuliani thuộc trường Đại học

Pavia, Ý - điều phối viên của dự án cho biết:

"Thiết kế mới không chỉ là một bảng điều

khiển kỹ thuật số nhằm thay thế một poster

hoạt hình như bạn nhìn thấy trên mạng Thế

giới ngầm mà đó là cả một phong cách sống

hoàn toàn mới".

Bạn có thể ngay lập tức điểu khiển, kiểm

soát môi trường của riêng bạn: nếu bạn không

thích phòng tắm có màu xanh da trời thì ngay

bây giờ, bạn có thể thay đổi màu sắc của nó

sang xanh lá cây với một cái vỗ nhẹ. Hoặc,

bạn có thể trang trí hoa văn của gạch với hình

chú vịt hoặc cây thông Noel tùy theo sở thích.

Mỗi viên gạch có một bệ gốm cùng một

lớp kính trong suốt ở bên trên, ở giữa được cài

các thiết bị điện tử và công nghệ chiếu sáng

OLEDs. Kích thước của gạch tương đương với

một tờ giấy A3 hình chữ nhật, mỗi viên gạch

đều có nguồn năng lượng, sức mạnh riêng từ

bên trong. Gạch có thể được sử dụng để tạo

thành một phần hoặc toàn bộ các bức tường,

sàn hoặc trần nhà. Khi ở trạng thái không hoạt

động, gạch có màu bạc, đen hoặc trắng.

Nhà sản xuất cho biết ngoài kiểu dáng

hình chữ nhật thông thường, loại gạch lát mới

còn được thiết kế với nhiều hình dạng phong

phú khác như: hình lục giác và hình tam giác.

Gạch được sử dụng chủ yếu để lát trên các bề

mặt phẳng của công trình nhưng nó cũng có

thể được áp dụng đối với các bề mặt uốn cong

như các trụ, cột… Đặc biệt, các nhà nghiên

cứu còn nhấn mạnh khả năng ngụy trang ngay

lập tức của loại gạch mới, do đó, nó có thể

được chọn để sử dụng nhằm ngụy trang cho

các loại xe quân sự.

GS. Guido Giuliani chia sẻ: "Mặc dù còn

cả một chặng đường dài để nghiên cứu và

phát triển phía trước, tuy nhiên, thiết kế mới

của chúng tôi sẽ cung cấp cho một chiếc xe

hoặc một tòa nhà khả năng hòa trộn hoàn

toàn vào môi trường xung quanh nó, và thậm

chí là 'biến mất'”.

Bên cạnh đó, gạch cũng có thể được sử

dụng vào những mục đích khác, phục vụ đối

tượng khác, ví dụ như nó có thể được sử dụng

với vai trò một tấm sàn thông minh giúp đưa

Page 9: BẢN TIN THÁNG 01/2017

ra các thông báo khẩn cấp trong trường hợp

đối tượng là người cao tuổi bị ngã.

Các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ đưa vào

sản xuất loại gạch kết nối đặc biệt này vào

cuối năm 2020.

Theo vista.gov.vn, 03/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Phương pháp mới tái chế khí nhà kính

Thông qua áp dụng một phương pháp mới

sử dụng enzym để điều chỉnh nitơ trên toàn

cầu, các nhà sinh học phân tử tại Trường Đại

học California đã phát hiện ra cách chuyển

đổi CO2 thành CO phù hợp cho các ứng dụng

thương mại như tổng hợp nhiên liệu sinh học.

Nhóm nghiên cứu đã biểu hiện thành công

thành phần reductase của enzym nitrogenase

trong vi khuẩn Azotobacter vinelandii và sử

dụng trực tiếp vi khuẩn này để chuyển đổi

CO2 thành CO. Môi trường nội bào của vi

khuẩn đã được chứng minh có lợi cho việc

chuyển đổi CO2 theo hướng phát triển các

chiến lược sản xuất CO trên quy mô lớn trong

tương lai. Đây là phát hiện đáng ngạc nhiên vì

nitrogenase bên trong vi khuẩn trước đây chỉ

được cho là có khả năng chuyển đổi N2 thành

NH3 trong những điều kiện tương tự. Nghiên

cứu đã được công bố trực tuyến trên tạp chí

Nature Chemical Biology.

Các nhà khoa học đã biết rằng môi trường

nội bào của vi khuẩn Azotobacter vinelandii

ưu tiên các phản ứng khử khác, một phần là

do các cơ chế bảo vệ oxy đã được biết đến và

sự hiện diện của các chất cho điện tử. Nhưng

nhóm nghiên cứu không chắc liệu môi trường

nội bào có hỗ trợ việc chuyển đổi CO2 thành

CO hay không.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu, các nhà khoa

học đã phát hiện ra rằng vi khuẩn Azotobacter

vinelandii có thể khử CO2 và giải phóng CO,

làm cho nó trở thành một hệ thống hấp dẫn,

có thể được nghiên cứu để tìm ra các phương

thức mới tái chế CO2 trong khí quyển thành

nhiên liệu sinh học và các sản phẩm hóa chất

thương mại khác. Phát hiện nghiên cứu xác

định enzym nitrogenase như một khuôn mẫu

để cho ra đời các phương thức sản xuất nhiên

liệu với hiệu quả năng lượng và thân thiện với

môi trường.

Yilin Hu, Phó Giáo sư về sinh học phân tử

& hóa sinh và là đồng tác giả nghiên cứu cho

biết: "Chúng tôi đã quan sát thấy vi khuẩn

chuyển đổi CO2 thành CO, mở ra những

hướng mới để đưa phản ứng này vào quy

trình tái chế hiệu quả khí nhà kính thành

nguyên liệu tổng hợp nhiên liệu sinh học. Như

vậy, chúng ta sẽ đồng thời chống hai thách

thức lớn mà hiện chúng ta đang phải đối mặt,

đó là tình trạng nóng lên toàn cầu và thiếu

năng lượng”.

Theo vista.gov.vn, 03/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 10: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Dây điện siêu mỏng làm từ những mảnh kim cương siêu nhỏ

Các nhà vật lý tại Đại học Stanford cho

biết họ đã phát minh ra dây điện mảnh nhất

thế giới, bề rộng chỉ bằng ba nguyên tử, sử

dụng diamondoid (các bộ phận cấu thành nhỏ

nhất của một viên kim cương) để tạo ra dây

siêu mảnh. Các tác giả tin rằng phương pháp

mới được sử dụng để tạo ra các dây nano này

trong tương lai có thể được sử dụng để làm

dây siêu nhỏ cho một loạt các ứng dụng, bao

gồm các loại vải phát điện, thiết bị quang

điện, và thậm chí cả các vật liệu siêu dẫn có

thể dẫn điện mà hầu như không có mất mát.

Diamondoid hình thành tự nhiên trong

chất lỏng dầu khí, cấu tạo từ các khung

carbon lồng vào nhau và hydro. Trong nghiên

cứu này, các phân tử siêu nhỏ được trích xuất

và phân tách, một nguyên tử lưu huỳnh được

gắn liền với mỗi một phân tử đó. Trong một

dung dịch, các diamondoid gắn lưu huỳnh

liên kết với các ion đồng để tạo ra các khối

lắp ghép dây nano.

Trong dung dịch nói trên, các khối lắp

ghép kết cụm với nhau qua một hiện tượng gọi

là lực van der Waals, xác định những điều như

cách các phân tử nhất định đang hút hoặc đẩy

lẫn nhau và tại sao tắc kè có thể đi trên kính.

Cũng giống như các khối LEGO, chúng

chỉ khớp với nhau theo một số cách được xác

định bởi kích thước và hình dạng của chúng.

Các nguyên tử đồng và lưu huỳnh của mỗi

khối lắp ghép thu vào giữa, tạo thành cốt lõi

dẫn điện của dây, và các hạt diamondoids thô

bọc bên ngoài, tạo thành lớp vỏ cách điện.

Quy mô nguyên tử của các dây nano và

tính dẫn điện của chúng là một phần quan

trọng của tính hữu dụng của nó, do các vật

liệu được dựng với kích thước nhỏ hoạt động

rất khác với dây có kích thước bình thường,

đặc biệt là với những tác động cơ học lượng

tử có xu hướng để hạn chế dòng electron.

Dựa trên những nghiên cứu trước đó,

các nhà khoa học đã tạo ra một diode từ

diamondoid, họ cũng sử dụng diamondoid để

tạo ra các dây nano một chiều bằng catmi,

kẽm, sắt, và bạc.

Phương pháp này cung cấp một bộ công

cụ đa năng, có thể kết hợp với một số nguyên

liệu và điều kiện thực nghiệm để tạo ra vật

liệu mới với tính chất điện tử và vật lý tinh

chỉnh phù hợp.

Theo vista.gov.vn, 04/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Chế tạo thành công vật liệu gốc tơ tằm được lập trình sẵn các chức năng

Nguồn: Silklab, Khoa Kỹ thuật Y sinh, Trường Đại học Tufts

Theo một bài báo được công bố trong Kỷ

yếu của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia

Mỹ (PNAS) cho thấy, các kỹ sư Trường Đại

học Tufts đã tạo ra một dạng mới của các chất

rắn được làm từ protein tơ tằm (silk) có thể

được lập trình sẵn với các chức năng sinh

học, hóa học, hoặc quang học, chẳng hạn như

thành phần cơ học để làm thay đổi màu sắc

đối với các chủng, phân phối thuốc, hoặc

phản ứng với ánh sáng.

Page 11: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Bằng cách sử dụng phương pháp chế tạo

trong nước (water-based fabrication method)

dựa vào các protein tự sắp xếp, các nhà khoa

học đã tạo ra được các vật liệu tơ tằm fibroin

3D khối lớn. Sau đó họ đã chế tác vật liệu

khối lớn này bằng các phân tử hòa tan trong

nước để tạo ra nhiều dạng chất rắn kích cỡ

nano có các chức năng được lập trình sẵn và

hệ thống nhúng. Ví dụ, các nhà nghiên cứu có

thể chế tạo được một đinh ghim dùng cho

phẫu thuật có khả năng tự thay đổi màu sắc

khi nó hết hạn sử dụng hay bị hỏng và những

đinh ghim thiết thực này có thể gia nhiệt để

có thể đáp ứng được yêu cầu khi sử dụng ánh

sáng hồng ngoại, và các thành phần tương

hợp sinh học có khả năng chịu đựng các chất

hoạt tính sinh học, chẳng hạn như các enzym,

giải phóng ra.

Cấu trúc kết tinh duy nhất của tơ tằm đã

giúp nó trở thành một trong các vật liệu có độ

dai tự nhiên. Fibroin, là một protein không

thể hòa tan trong tơ tằm, có khả năng rất đặc

biệt đó là có thể bảo vệ các vật liệu khác.

“Khả năng nhúng các yếu tố phần tử chức

năng trong các polymer sinh học, kiểm soát

được quá trình tự sắp xếp và hiệu chỉnh hình

dạng cuối cùng mà chúng tạo ra đã mang lại

cơ hội có ý nghĩa lớn cho việc tạo ra các vật

liệu đa chức năng hiệu suất cao lấy từ cảm

hứng sinh học”, Tiến sỹ Fiorenzo G.

Omenetto, Khoa Kỹ thuật Y sinh, Trường Đại

học Kỹ thuật Tufts và là tác giả chính của

nghiên cứu, cho biết.

Theo vista.gov.vn, 05/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Robot mềm bắt chước chuyển động sinh học

Thiết kế một robot mềm có thể tự di

chuyển - uốn cong như một ngón tay hay

xoay như cổ tay - luôn luôn là quá trình thử

và lỗi. Hiện nay, các nhà nghiên cứu từ

Trường Kỹ thuật và Khoa học Ứng dụng John

A. Paulson Đại học Harvard và Viện Kỹ thuật

sinh học Wyss đã phát triển một phương pháp

để tự động thiết kế các bộ truyền động mềm

dựa trên những chuyển động mong muốn.

Thay vì thiết kế các thiết bị truyền động

theo kinh nghiệm, nhóm nghiên cứu muốn tạo

ra một công cụ mà bạn có thể đưa vào một

chuyển động và nó sẽ chỉ ra cách thiết kế các

thiết bị truyền động để đạt được chuyển động

đó.

Thiết kế một robot mềm có thể uốn cong

như một ngón tay hoặc đầu gối có thể có vẻ

đơn giản nhưng sự chuyển động thực sự là vô

cùng phức tạp.Thiết kế này quá phức tạp vì

Page 12: BẢN TIN THÁNG 01/2017

một loại thiết bị truyền động không đủ để tạo

ra chuyển động phức tạp, cần phài có một

chuỗi các đoạn thiết bị truyền động, từng

đoạn thực hiện một chuyển động khác nhau

và phải dẫn động chúng sử dụng một đầu vào

duy nhất.

Nhóm phát triển phương pháp này sử

dụng mô hình toán học của các thiết bị truyền

động thủy lực, gia cố sợi để tối ưu hóa việc

thiết kế một thiết bị truyền động để thực hiện

một chuyển động nhất định. Nhóm nghiên

cứu sử dụng mô hình này để thiết kế một

robot mềm có thể uốn cong như một ngón tay

và xoay như cổ tay khi được hỗ trợ bởi một

nguồn điện áp duy nhất.

Nghiên cứu này sắp xếp hợp lý quy trình

thiết kế robot mềm có thể thực hiện các động

tác phức tạp. Nó có thể được sử dụng để thiết

kế cánh tay robot di chuyển dọc theo một

đường nhất định hoặc một robot có thể đeo

được hỗ trợ chuyển động của tay hoặc chân.

Phương pháp mới sẽ được đưa vào Bộ

công cụ robot mềm, là một nguồn tài nguyên

mở trực tuyến, được phát triển tại SEAS để

hỗ trợ các nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục

và các nhà sáng tạo trẻ thiết kế, chế tạo, làm

mô hình, định rõ đặc điểm và điều khiển

robot mềm riêng của họ.

Theo vista.gov.vn, 05/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Làm sạch crom trong nước uống

Crom là một nguyên tố kim loại không

mùi không vị. Ở dạng crom-3, nó cần thiết

cho sức khỏe con người và có trong nhiều

loại rau, trái cây, thịt và các loại hạt và

thường được bao gồm trong thuốc đa vitamin.

Ở dạng crom-6, nó có thể gây ung thư, nó

hình thành tự nhiên đồng thời còn được sản

xuất với số lượng lớntrong công nghiệp, và có

thể làm ô nhiễm cả đất và nước ngầm.

Một kỹ sư tại Đại học Washington ở St.

Louis đã tìm ra một cách mới để chuyển đổi

crom-6 nguy hiểm thành crom-3 thường có

trong nước uống, làm cho nó an toàn hơn cho

người tiêu dùng. Nó rất độc khi ở dạng một

chất gây ô nhiễm không khí, nhưng trong

nước uống crom-6 chắc chắn có tác động tiêu

cực đến sức khỏe con người.

Trước đây các nhà khoa học đã chuyển

đổi crom-6 thành crom-3 trong một quy trình

hóa học sử dụng sắt. Trong nghiên cứu mới

các nhà khoa học sử dụng điện để thực hiện

việc chuyển đổi.

Điện đông là một phương pháp mà nhóm

sử dụng để đưa sắt vào trong nước. Phương

pháp hóa học trước đó sử dụng muối sắt cho

vào trong nước. Điện đông sử dụng hai miếng

sắt trong nước, đưa một điện áp vào giữa

chúng, và crom-6 sẽ chuyển đổi.

Hệ thống điện đông được phổ biến rộng

rãi, và nhóm nghiên cứu nhận thấy sử dụng

điện thay vì hóa học sẽ làm cho quá trình dễ

dàng hơn, chính xác hơn và có khả năng mở

rộng. Nó có thể được điều chỉnh liều lượng dễ

dàng. Điều khiển điện tử dễ hơn so với điều

chỉnh lượng hóa chất. Nó cũng cho phép áp

dụng nhiều hơn cho các hoạt động từ xa, do

không cần phải có nguồn cung cấp hóa chất.

Trước đây nhóm nghiên cứu đã sử dụng

phương pháp điện đông để loại bỏ asen trong

nước uống; đây là lần đầu tiên họ thực hiện

chuyển đổi crom trong nước uống thành một

dạng thức an toàn hơn. Trong bước nghiên

cứu tiếp theo các nhà khoa học hy vọng sẽ có

thể sử dụng kỹ thuật tương tự với selen, một

kim loại rất khó để loại bỏ khỏi nước.

Theo vista.gov.vn, 05/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 13: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Gen cây tần bì là cơ sở giúp ngăn chặn bệnh chết non ở cây

Các nhà nghiên cứu tại trường Queen

Mary, Đại học London (QMUL) đã giải mã

thành công các chuỗi gen của cây tần bì, đem

lại hy vọng trong cuộc chiến ngăn chặn vi

khuẩn nấm gây bệnh chết non ở cây tần bì.

Hàng chục triệu cây tần bì trên khắp khu

vực châu Âu đang bị tàn phá bởi loài nấm

Hymenoscyphus - fraxinea - thủ phạm gây ra

bệnh chết non ở loài cây này. Những biểu

hiện thường thấy ở cây tần bì mắc bệnh chết

non do nhiễm nấm là vỏ cây bị mục rữa, cành

lá khô héo dẫn đến cây dần dần chết.

TS. Richard Buggs - người đứng đầu

nghiên cứu, đến từ Khoa Khoa học sinh học

và hóa học, QMUL cho biết: "Trình tự gen

của cây tần bì là cơ sở cho việc gây giống

những cây tần bì có khả năng kháng nấm,

ngăn chặn dịch bệnh chết non xảy ra”.

Một số lượng nhỏ trong số quần thể cây

tần bì mắc bệnh tại Đan Mạch vẫn còn sống

sót đã cho thấy khả năng kháng nấm của

chúng và viện nghiên cứu các gen tham chiếu

là bước đầu tiên giúp xác định các gen quy

định khả năng kháng này.

Có rất nhiều điều bất ngờ về bộ gen của

cây tần bì. Một phần tư số gen chỉ được tìm

thấy ở cây tần bì không có chức năng rõ ràng

và chúng được biết đến với tên gọi là gen

Orphan (hay gen mồ côi). Các nhà nghiên cứu

cho biết gen này không có mặt trong chuỗi

gen của mười loài cây trồng khác.

TS. Buggs bổ sung: "gen orphan là một

khái niệm tuy hóc búa, tuy khó giải thích

nhưng cũng rất thú vị, và cho đến nay, chúng

tôi vẫn chưa tìm ra cách thức hoạt động của

gen này".

Bài báo về kết quả nghiên cứu được công

bố trên tạp chí Nature. Nghiên cứu được hợp

tác thực hiện bởi nhóm các nhà khoa học bao

gồm các chuyên gia đến từ QMUL; Viện

Earlham; Vườn Thực vật Hoàng gia Kew;

trường Đại học York, Canada; Đại học Exeter,

Anh; Đại học Warwick, Anh, Quỹ từ thiện

Môi trường Earth Trust, Anh; Đại học Oxford,

Anh; Viện Nghiên cứu rừng, Trung tâm thực

phẩm quốc gia Teagasc, Ai-len; Trung tâm

Nghiên cứu John Innes, Anh và Viện Quốc gia

Thực vật học nông nghiệp, Anh.

Bộ gen tham chiếu từ QMUL đã được sử

dụng bởi các nhà khoa học tại trường Đại học

York. Trước đó, các nhà nghiên cứu tại đại

học này đã phát hiện ra các gen có quy định

khả năng kháng bệnh cây chết non ở cây tần

bì. Họ đã sử dụng các gen này để dự đoán sự

xuất hiện của cây có sức chịu đựng cao hơn,

chưa bị dịch bệnh - vốn đang lây lan nhanh

chóng này - tấn công.

Trình tự gen cũng là yếu tố hỗ trợ cho mọi

nỗ lực trong việc chống lại loài sâu đục thân

thuộc bộ cánh cứng có tên gọi Emerald Ash

Borer - thủ phạm đã giết chết hàng trăm triệu

cây tần bì ở khu vực Bắc Mỹ.

Cây tần là một trong những loài cây trồng

phổ biến nhất ở Anh. Theo thống kê, hơn

1.000 loài bao gồm các loài hoa dại và bướm

chọn quần thể cây tần bì làm hệ sinh thái, làm

nơi trú ngụ và kiếm ăn. Bên cạnh đó, tần bì

đem đến những lợi ích về mặt kinh tế, xã hội

và môi trường do tần bì là cây cho gỗ rất giá

trị. Gỗ của chúng được sử dụng để sản xuất

Page 14: BẢN TIN THÁNG 01/2017

đồ gỗ, dụng cụ thể thao như: búa, gậy khúc

côn cầu và phổ biến nhất là đồ nội thất.

Nghiên cứu được tài trợ bởi Hội đồng

nghiên cứu môi trường tự nhiên (NERC), Hội

đồng nghiên cứu sinh học và công nghệ sinh

học của Anh (BBSRC), Bộ Môi trường, Thực

phẩm và Nông thôn (Defra), Tổ chức Nghiên

cứu Xã hội và Kinh tế (ESRC), Ủy ban Lâm

nghiệp, Chính phủ Scotland, Dự án Marie

Sklodowska-Curie Actions, Trung tâm thực

phẩm quốc gia Teagasc (NFC), Ai len và Cơ

quan Nông nghiệp và Phát triển Thực phẩm.

Theo vista.gov.vn, 05/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Phương pháp mới giúp phát hiện những hành tinh giống Trái đất

Các nhà nghiên cứu đến từ trường Đại học

Yale, Hoa Kỳ đã phát triển một phương pháp

mới giúp phát hiện các hành tinh xa xôi cũng

như giúp việc tìm kiếm những hành tinh

giống Trái đất trở nên dễ dàng hơn.

Nghiên cứu mới - được đăng tải trên tạp

chí The Astronomical Journal - dựa trên

phương pháp toán học có nền tảng bắt nguồn

từ nghiên cứu vật lý của các nhà khoa học.

Thay vì cố gắng để lọc ra các tín hiệu "tiếng

ồn" đến từ các ngôi sao có các ngoại hành

tinh quay xung quanh, các nhà khoa học đã

nghiên cứu tất cả các thông tin về tín hiệu để

tìm hiểu sự phức tạp trong cấu trúc của nó.

GS. John Wettlaufer, chuyên ngành Vật lý

địa cầu, Toán và Vật lý tại Đại học Yale đồng

thời là tác giả chính của nghiên cứu cho biết:

“Nó không yêu cầu gì cả ngoài chính bản

thân các dữ liệu, đó là một kẻ làm thay đổi

cuộc chơi. Hơn nữa, nó cho phép chúng tôi so

sánh kết quả nghiên cứu của mình với các

phương pháp tiếp cận thông thường khác

cũng như tận dụng bất cứ giả định mô hình

mà họ sử dụng".

Việc tìm kiếm những hành tinh ngoài Hệ

Mặt trời hay còn gọi là ngoại hành tinh đã

được thực hiện nhiều lần trong những năm

gần đây. Những nỗ lực tìm kiếm xuất phát và

được thúc đẩy một phần bởi khát vọng khám

phá những hành tinh có đặc điểm tương tự

Trái đất.

Trong nghiên cứu này, nhóm chuyên gia

áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật, bao gồm:

định giờ pulsar, vẽ hình ảnh trực tiếp và đo

tốc độ di chuyển theo hướng đến và đi của

các ngôi sao và thiên hà đối với Trái đất. Tuy

nhiên, việc thực hiện từng kỹ thuật một cách

riêng lẻ hay kết hợp đều phải đối mặt với rất

nhiều thách thức.

Thách thức chủ yếu là việc loại bỏ dữ liệu

tạp (tiếng ồn) không phù hợp với mô hình

hoạt động dự kiến của các hành tinh hiện

đang tồn tại. Theo cách giải thích thông

thường về tiếng ồn, việc tìm kiếm ngoại hành

tinh có thể bị cản trở bởi các trường hợp hành

tinh ẩn náu, không rõ ràng hoặc bắt chước các

ngoại hành tinh.

Wettlaufer và các đồng nghiệp đã quyết

định tìm kiếm những ngoại hành tinh theo

cách thức mà họ đã lựa chọn và sắp xếp thông

qua các dữ liệu vệ tinh nhằm phát hiện những

thay đổi phức tạp của biển băng ở Bắc Cực.

Tên gọi chính thức của phương pháp tiếp cận

này là "Phân tích biến động giảm khuynh

hướng trọng lượng tạm đa phân hình” (MF-

TWDFA). Phương pháp này giúp sàng lọc dữ

liệu tại nhiều giai đoạn, đồng thời, tìm ra quá

trình cơ bản liên kết với chúng.

Page 15: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Wettlaufer cho biết: "Ý tưởng chính là các

trường hợp hành tinh gần về thời gian hơn sẽ

có nhiều khả năng giống hơn so với những

trường hợp cách xa hơn về thời gian. Trong

trường hợp đó là các ngoại hành tinh, chúng

tôi sẽ nghiên cứu những biến động về cường

độ quang phổ của một ngôi sao".

Trước đó, hai nhà nghiên cứu là Benoit B.

Mandelbrot and Katepalli Sreenivasan thuộc

trường Đại học Yale đã từng sử dụng công cụ

multi-fractals trong khoa học và toán học.

Trong quá trình tìm kiếm các hành tinh ngoài

hệ Mặt trời, nhóm nghiên cứu đã tham khảo ý

kiến của nhà vật lý thiên văn Debra Fischer,

Yale vốn là người đi tiên phong trong việc

thực hiện nhiều phương pháp tiếp cận trong

lĩnh vực này.

Các nhà nghiên cứu đã xác nhận tính

chính xác của phương pháp luận của họ bằng

cách kiểm tra, đối chiếu nó với phương pháp

quan sát và các dữ liệu mô phỏng của một

hành tinh đang tồn tại và quay xung quanh

một ngôi sao trong chòm sao Hồ Ly cách Trái

đất khoảng 63 năm ánh sáng.

Nghiên cứu này được tài trợ và trao giải

thưởng Royal Society Wolfson Research

Merit bởi Cơ quan Hàng không và Vũ trụ

Hoa Kỳ (NASA) và Hội đồng Nghiên cứu

Thụy Điển.

Theo vista.gov.vn, 05/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Sản xuất vật liệu mới từ lốp ô tô bỏ đi

Khi nhắc đến lốp ô tô cũ được tái chế,

người ta chỉ quan tâm đến mủ và/hoặc sợi

thép từ các lốp xe cũ. Cấu tạo của lốp ô tô chủ

yếu từ vải, và những lớp vải này theo thời

gian, khi lốp xe không còn sử dụng được nữa

thì chúng cũng trở nên vô dụng. Tuy nhiên,

bây giờ, điều đó sẽ hoàn toàn thay đổi, vì các

nhà khoa học đến từ Tây Ban Nha đã chế tạo

thành công một loại vật liệu xây dựng sử

dụng vải lốp.

Nhóm nghiên cứu đến từ trường Đại học

Universitat Politecnica de Catalunya, Tây Ban

Nha đã hợp tác với các công ty COMSA và

GMN đã tiến hành thử nghiệm bằng cách trộn

các sợi vải với bột giấy tái chế và keo trắng.

Sản phẩm cuối cùng có thể được sản xuất

dưới nhiều hình thức tùy thuộc vào ứng dụng.

Ví dụ như dạng tấm được cho là đặc biệt phù

hợp sử dụng trong công trình và các dự án

đường sắt, do nó có tính chất cách nhiệt và

cách âm cách nhiệt tương tự như loại bông

cách nhiệt hay bông thủy tinh (sợi thủy tinh),

tuy nhiên, sản phẩm mới dự kiến sẽ có giá

thành ít tốn kém hơn.

Xavier Cañavate- thành viên nhóm nghiên

cứu cho biết: "Vật liệu của chúng tôi có thể

tái sử dụng hàng triệu tấn sợi mà trước kia

phải chuyển đến các bãi chôn lấp, nhờ đó,

góp phần tiết kiệm năng lượng và giảm thải

khí CO2 ra môi trường. Vật liệu còn kết hợp

với bột giấy tái chế nên rất khó khăn khi tái

sử dụng".

Theo vista.gov.vn, 06/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 16: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Khai thác năng lượng từ ngón tay để cung cấp cho thiết bị cảm ứng

Các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học

bang Penn đã phát triển được một công nghệ

mới khai thác chuyển động từ các ngón tay

của người sử dụng tác động lên màn hình cảm

ứng để sản xuất điện. Nghiên cứu được cấp

một phần tài trợ từ Công ty điện tử Samsung,

đơn vị đang tìm kiếm các nguồn năng lượng

thay thế để cung cấp điện cho các thiết bị điện

tử thế hệ mới.

Nghiên cứu là một bước tiến lớn trong

việc tìm kiếm những phương thức mới để sản

xuất điện từ "năng lượng cơ học" - những

chuyển động vốn có trong gió, sóng biển,

bánh xe và ngay cả những chuyển động

thường ngày của con người.

Cho đến nay, việc khai thác năng lượng cơ

học đã đạt một số thành công nhất định. Các

thiết bị chuyển đổi năng lượng cơ học thành

điện đã được sử dụng rộng rãi để cấp điện cho

các thiết bị điện tử, thiết bị y sinh và những

thiết bị trong Mạng lưới thiết bị kết nối

Internet đang phát triển. Thông thường, các

phát minh này dựa vào hiệu ứng áp điện - khả

năng một số vật liệu và chất sinh ra điện tích

để phản ứng với ứng suất cơ học như nén,

xoắn hoặc bóp méo.

Vấn đề đối với việc chuyển đổi năng

lượng áp điện là nó hoạt động tốt nhất ở tần

số cao hơn 10 rung động mỗi giây. Hiệu suất

có xu hướng giảm đi mạnh ở tần số thấp. Các

chuyển động ở tần số cao như vậy tương đối

khó diễn ra trong tự nhiên, mà phổ biến là các

chuyển động tần số thấp.

Qing Wang, Giáo sư kỹ thuật điện cho

rằng dự án nghiên cứu nhằm giải quyết thách

thức này thông qua thiết kế đặc biệt phương

thức biến đổi chuyển động tần số thấp thành

điện năng.

Nhóm nghiên cứu đã tìm cách điều chỉnh

hiệu suất vận hành của các bộ chuyển đổi

biến dạng năng lượng này thành dạng khác

sao cho phù hợp với các nguồn rung động để

chuyển đổi năng lượng hiệu quả. Nếu thành

công, phương pháp này có thể làm tăng đáng

kể mức năng lượng được khai thác từ môi

trường xung quanh.

Đối với giải pháp này, bộ chuyển đổi năng

lượng cơ học dựa vào một loại điốt ion, hữu

cơ, dẻo. Thiết bị được tạo thành từ hai điện

cực composite nano với các ion di động tích

điện trái dấu được phân tách bởi màng

polycarbonate. Các điện cực là một ma trận

polime chứa đầy với các ống nano cacbon và

chất lỏng ion. Các ống nano cải thiện tính dẫn

điện và độ bền cơ học của các điện cực.

Điều kỳ diệu đã xảy ra khi sử dụng lực cơ

học như ấn ngón tay. Các ion khuếch tán qua

màng, sinh ra dòng một chiều liên tục. Đồng

thời, điện thế bên trong được tạo thành chống

lại hiện tượng khuếch tán ion cho đến khi đạt

được sự cân bằng. Toàn bộ chu trình hoạt

động ở tần số 1/10 Hertz hoặc 10 giây mỗi lần.

Theo nhóm nghiên cứu, mật độ công suất

cao điểm của thiết bị nhìn chung lớn hơn

hoặc tương đương với mật độ công suất của

các máy phát điện áp hoạt động ở tần số hiệu

quả nhất.

Các nhà nghiên cứu tin rằng thiết bị mới

có thể mở đường cho ra đời máy khai thác

năng lượng quy mô lớn, giúp cấp điện cho

các thiết bị điện tử thế hệ mới. Bước tiếp theo

là cải tiến hơn nữa khái niệm và tích hợp nó

vào điện thoại thông minh và thiết bị máy

tính bảng.

Theo vista.gov.vn, 09/01/2017

Trở về đầu trang

Page 17: BẢN TIN THÁNG 01/2017

**************

Công nghệ biến khí thải nhà máy thành bột nở

Công ty CarbonClean chuyển đổi CO2 từ nhà máy nhiệt điện thành bột baking soda. Ảnh: Huffington Post.

Một công ty tại Ấn Độ tìm ra phương

pháp mới để giảm thiểu CO2 trong môi

trường bằng cách biến nó thành bột nở

(baking soda).

Công ty CarbonClean đang sử dụng công

nghệ mới để thu giữ hơn 66.000 tấn carbon

mỗi năm thải ra từ nồi hơi đốt than tại một

nhà máy nhiệt điện chạy bằng than ở thành

phố Tuticorin, Ấn Độ, và sử dụng nó để làm

baking soda (NaHCO3), hay còn gọi là bột nở,

Popular Mechanics hôm 5/1 đưa tin.

Giống như hầu hết công nghệ thu giữ CO2

khác, CarbonClean dùng một dung môi để bẫy

CO2 và chuyển nó thành dạng ít hoạt động

hơn. Loại dung môi công nghiệp phổ biến nhất

để thu giữ CO2 là amine. Trong khi đó, dung

môi CarbonClean dùng là một chất hóa học

mới hiệu quả hơn, rẻ hơn và ít bị hao tổn.

Hiệu quả kinh tế do dung môi mới mang

lại giúp CarbonClean xây dựng nhà máy thu

giữ CO2 đầu tiên trên thế giới hoạt động mà

không cần trợ cấp của chính phủ. Sản phẩm

baking soda tạo ra được ứng dụng trong nhiều

lĩnh vực như sản xuất chất tẩy rửa, thủy tinh

và dược phẩm.

CarbonClean ước tính khoảng 5-10%

lượng carbon thải ra từ nhà máy nhiệt điện có

thể được lưu trữ bằng công nghệ của họ. Nếu

các nhà máy nhiệt điện trên toàn thế giới áp

dụng công nghệ này, lượng CO2 phát thải vào

khí quyển trong tương lai sẽ giảm đáng kể.

Theo vnexpress.net, 09/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Sản xuất được chất dẻo sinh học từ nguồn nguyên liệu tái tạo

Các nhà hóa học ở Đại học Bath (Anh) đã

tổng hợp được loại chất dẻo sinh học bằng

cách sử dụng một chất được tìm thấy trong

nhựa cây lá kim.

Các nhà nghiên cứu hy vọng loại vật liệu

có nguồn gốc hoàn toàn từ các nguồn tái tạo

sẽ được sử dụng làm bao bì thực phẩm và sản

xuất các miếng cấy ghép y tế. Các nhà nghiên

cứu đã giới thiệu thành tựu của họ trên tạp chí

Polymer Chemistry.

Nguyên liệu để sản xuất các loại vật liệu

thân thiện với môi trường, chẳng hạn như

polylactide (PLA), là các nguồn tài nguyên tái

tạo như ngô và mía đường. Ngoài thế mạnh

này, polylactic cũng có tính tương thích sinh

học tốt, có thể được sử dụng như là miếng cấy

ghép y tế. Tuy nhiên, một trong những nhược

điểm đáng kể của polymer axit lactic là độ

bền thấp và độ uốn dẻo kém. Để làm

polylactic thêm tính đàn hồi, các nhà khoa

học đã bổ sung caprolactone có nguồn gốc từ

dầu mỏ. Nhưng sự bổ sung này làm cho nhựa

sinh học không hoàn toàn tái tạo.

Page 18: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Giờ đây các nhà hóa học Anh thay

caprolactone bằng pinen thu được từ nhựa của

cây lá kim có vị thơm của tinh dầu thông.

Theo các tác giả sáng chế, công trình nghiên

cứu của họ giúp sản xuất ra nhựa sinh học

hoàn toàn từ các nguồn nguyên liệu tái tạo.

Cho đến nay, các nhà khoa học chỉ có trong

tay một vài gram vật liệu thân thiện với môi

trường, nhưng họ đang phát triển công

nghệ cho phép chuyển việc tổng hợp chất dẻo

sinh học từ phòng thí nghiệm sang quy mô

sản xuất hàng loạt.

Theo motthegioi.vn, 09/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Tã thông minh tạo ra điện từ nước tiểu

Đại học Ritsumeikan đã phát triển "hệ

thống cảm biến không dây tiểu tùy tiện không

do chủ tâm" để thông báo cho người sử dụng

thời gian thay tã thông qua giao tiếp không

dây mà không cần sử dụng pin.

Trường Đại học Ritsumeikan hy vọng

rằng nghiên cứu này sẽ được sử dụng tại các

cơ sở điều dưỡng để chăm sóc cho các bệnh

nhân tiểu không tự chủ. Hệ thống thực hiện

truyền thông không dây bằng cách tạo ra điện

bởi nước tiểu. Lượng nước tiểu được lưu trữ

trong tã được ước tính từ khoảng thời gian

tiếp nhận tín hiệu và người dùng được thông

báo về thời điểm tối ưu thay thế tã.

Hệ thống này không đòi hỏi pin cho truyền

thông không dây và tã giấy kết hợp điện cực

dùng một lần. Phần mạch điện tử (cho truyền

thông không dây) gọi là "cảm biến" dự kiến sẽ

được sử dụng nhiều lần. Hệ thống được phát

triển bởi Takakuni Douseki đến từ Đại học

Ritsumeikan, đã chứng minh rằng loại tã giấy

dành cho trẻ sơ sinh đã được thay đổi. Nó

chứa than hoạt tính, với chiều dài là 320mm,

chiều rộng 5mm và một điện cực nhôm ở giữa

có chiều rộng là 1,8mm và một tấm chống

thấm nước. Dòng điện được tạo ra bởi hệ

thống tăng lên khi số lượng nước tiểu đầu vào

tăng lên. Ngoài ra, tại thời điểm đổ vào nước

tiểu, hiện tại nhanh chóng tăng lên.

Takakuni Douseki cho biết: “Tôi tin rằng

sự khác biệt trong hiện tại là do nước tiểu

ngấm vào trong lỗ chân lông mịn của than

hoạt tính, tạo ra độ nhạy cao”.

Điện tạo ra từ nước tiểu được lưu trữ trong

một tụ điện trong cảm biến. Khi lượng nước

tiểu đạt đến một mức độ nhất định, hệ thống

sẽ truyền tín hiệu không dây. Số lần tiểu tùy

tiện không do chủ tâm và và lượng nước tiểu

có thể được ước tính bởi khoảng thời gian

tiếp nhận rút ngắn tín hiệu phù hợp với lượng

nước tiểu đầu vào và đặc biệt rút ngắn tại thời

điểm nước tiểu được đổ vào.

Theo vista.gov.vn, 09/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 19: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Phần mềm mới giúp áp dụng kỹ thuật CRISPR dễ dàng hơn

Các nhà nghiên cứu tại Viện Karolinska

và Trường Đại học Gothenburg đã chế tạo

được một phần mềm dựa vào web có tên là

Green Listed, tạo điều kiện thuận lợi cho việc

sử dụng kỹ thuật chỉnh sửa gen (CRISPR).

Phần mềm đã được công bố trên Tạp chí

Bioinformatics và được cung cấp miễn phí

trên trang web greenlisted.cmm.ki.se.

Các tế bào rất nhỏ tạo nên một sinh vật.

Một người có lượng tế bào gấp khoảng 100

lần. Phần lớn tế bào này có chứa các chuỗi

ADN dài. Các chuỗi ADN ảnh hưởng đến

hình dạng và hành vi của các tế bào khác

nhau. CRISPR là công cụ dùng để nghiên cứu

nhanh cách các phần khác nhau của ADN ảnh

hưởng trực tiếp đến các tế bào. Nhờ có công

cụ CRISPR, các nhà nghiên cứu có thể tìm

hiểu nguyên nhân gây bệnh và đưa ra các gợi

ý về hướng điều trị.

Fredrik Wermeling, đồng tác giả nghiên

cứu tại Viện Karolinska cho biết: "Chúng tôi

đã áp dụng phương pháp CRISPR để nghiên

cứu cả tế bào miễn dịch và tế bào ung thư với

mục tiêu phát triển các liệu pháp mới cho

bệnh nhân mắc bệnh liên quan đến hệ miễn

dịch như viêm khớp và ung thư".

Kỹ thuật CRISPR dựa vào một hệ thống

xuất hiện tự nhiên trong nhiều loại vi khuẩn,

trong vài năm qua đã được chú ý nhiều. Một

phương thức rất hữu hiệu để sử dụng CRISPR

là nghiên cứu song song nhiều thành phần

khác nhau của ADN còn gọi là sàng lọc

CRISPR. Đặc biệt, phần mềm Green Listed

được sử dụng để thúc đẩy phát triển loại hình

nghiên cứu này trên quy mô lớn.

"Bằng cách áp dụng phương pháp

CRISPR trong nghiên cứu, hiện nay, chúng

tôi có thể giải thích hiện tượng mà chúng tôi

đã cố gắng tìm hiểu trong nhiều năm qua.

Điều này chủ yếu liên quan đến các thí

nghiệm sàng lọc CRISPR, trong đó, chúng tôi

phải chỉnh sửa đồng thời khối lượng lớn các

thành phần ADN được lựa chọn của các tế

bào phân tách. Phần mềm Green Listed đơn

giản hoá đáng kể quá trình này và rất quan

trọng cho tiến bộ của chúng tôi", Fredrik

Wermeling nói.

Theo vista.gov.vn, 10/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Tạo ra laser siêu nhỏ từ các hạt nano

Lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu tại

Trường Đại học Aalto, Phần Lan đã tạo ra

laser nano plasmon hoạt động ở tần số ánh

sáng nhìn thấy và sử dụng chế độ mạng lưới

tối.

Laser hoạt động ở tần số ánh sáng này có

kích thước nhỏ hơn 100 lần độ dày của sợi tóc.

Thời gian tồn tại của ánh sáng có kích thước

nhỏ như vậy quá ngắn để sóng ánh sáng có

thời gian rung động lên xuống chỉ vài chục

hoặc vài trăm lần. Phát hiện nghiên cứu mở ra

triển vọng mới cho các nguồn sáng kết hợp

trên chip cực nhỏ và siêu nhanh như laser.

Page 20: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Hoạt động của laser trong nghiên cứu dựa

vào các hạt nano bạc được sắp xếp theo dãy.

Trái ngược với laser thường ở đó phản hồi

của tín hiệu phát laser do các tấm gương bình

thường cung cấp, nhưng loại laser mới sử

dụng phương thức ghép bức xạ giữa các hạt

nano bạc. Các hạt kích thước 100 nm này

hoạt động như những ăng ten nhỏ. Để tạo ra

ánh sáng laser cường độ cao, khoảng cách

giữa các hạt phải phù hợp với bước sóng phát

laser để tất cả các hạt trong dãy đều phát xạ

đồng thời. Các phân tử huỳnh quang hữu cơ

được sử dụng để cung cấp năng lượng đầu

vào cần cho việc phát laser.

Ánh sáng từ bóng tối

Thách thức lớn để phát laser theo cách này

là ánh sáng không thể tồn tại ở kích thước

nhỏ này đủ lâu để nó trở nên có ích. Các nhà

nghiên cứu đã phát hiện ra một phương thức

thông minh để khắc phục hạn chế này, đó là

phát laser trong chế độ tối.

"Chế độ tối về mặt trực giác có thể được

tìm hiểu thông qua xem xét các ăng ten

thường: Một ăng ten duy nhất khi được điều

khiển bởi dòng điện, sẽ phát xạ mạnh. Trái

lại, hai ăng ten nếu được điều khiển bởi các

dòng đối nhau và nằm ở vị trí gần nhau, lại

phát xạ rất yếu", GS. Päivi torma, một trong

các tác giả nghiên cứu giải thích. "Chế độ tối

trong dãy hạt nano bao gồm các dòng điện

ngược pha giống nhau trong mỗi hạt nano,

nhưng hiện có tần số ánh sáng nhìn thấy”.

Tommi Hakala, đồng tác giả nghiên cứu

cho rằng: "Chế độ tối cần cho các ứng dụng

tiêu thụ ít điện năng. Nhưng nếu không có bất

cứ “thủ thuật” nào, chế độ tối sẽ khá vô ích

vì ánh sáng về bản chất bị mắc kẹt trong dãy

hạt nano và không thể di chuyển. Nhưng bằng

cách sử dụng dãy hạt quy mô nhỏ, chúng tôi

đã tìm ra lối thoát cho ánh sáng. Các hạt

nano hướng tới các cạnh của dãy để hành

động rất giống các ăng ten thường phát xạ ra

bên ngoài”.

Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên

tạp chí Nature Communications.

Theo vista.gov.vn, 11/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Biến đổi chip bộ nhớ thành bộ vi xử lý để tăng tốc độ tính toán

Một nhóm các nhà khoa học quốc tế bao

gồm Trường Đại học công nghệ Nanyang

(NUT, Singapo), Trường Đại học RWTH

Aachen (Đức) và Trung tâm nghiên cứu

Forschungszentrum Juelich đã tìm ra một

phương thức sản xuất chip bộ nhớ để thực

hiện các nhiệm vụ tính toán, mà trước đây là

do bộ vi xử lý máy tính của các hãng như

Intel và Qualcomm đảm nhiệm. Như vậy, dữ

liệu có thể được xử lý tại chính nơi nó được

lưu trữ, sẽ dẫn đến sự ra đời của các thiết bị di

động và máy tính tốc độ nhanh và mỏng hơn.

Mạch tính toán mới được chế tạo bằng

chip bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên biến đổi điện

trở dựa vào Redox (ReRAM). Loại chip này

do các nhà sản xuất chip toàn cầu như

SanDisk và Panasonic phát triển, là một trong

những mô-đun bộ nhớ nhanh nhất sẽ sớm

được thương mại hóa.

Tuy nhiên, PGS. Anupam Chattopadh tại

NUT đã phối hợp với GS. Rainer WASER đến

từ Trường Đại học Aachen RWTH và TS.

Vikas Rana tại Trung tâm Forschungszentrum

Juelich để chứng minh ReRAM cũng có thể

được sử dụng để xử lý dữ liệu thay vì lưu trữ

thông tin. Phát hiện này đã được công bố trên

tạp chí Scientific Reports.

Page 21: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Các thiết bị và máy tính hiện nay phải

chuyển đổi dữ liệu từ bộ nhớ lưu trữ sang bộ

vi xử lý để thực hiện tính toán, trong khi loại

mạch mới tiết kiệm thời gian và năng lượng

bằng cách loại bỏ hoạt động truyền dữ liệu.

Mạch còn có thể tăng ít nhất 2 lần tốc độ của

các bộ vi xử lý hiện có trong máy tính xách

tay và các thiết bị di động.

Việc chế tạo chip bộ nhớ để thực hiện

nhiệm vụ tính toán, có thể tiết kiệm không

gian do không cần đến bộ vi xử lý, làm cho

các thiết bị điện tử trở nên nhỏ gọn và nhẹ

hơn. Phát hiện này cũng có thể dẫn đến những

thiết kế mới cho thiết bị điện tử tiêu dùng và

công nghệ đeo trên người.

Hoạt động của mạch mới

Hiện nay, tất cả các bộ vi xử lý của máy

tính trên thị trường đang sử dụng hệ nhị phân,

bao gồm hai trạng thái 0 hoặc 1. Ví dụ, chữ A

sẽ được xử lý và lưu trữ dưới dạng 01000001,

một ký tự 8 bit. Tuy nhiên, mạch ReRAM xử

lý dữ liệu trong 4 trạng thái thay vì chỉ 2.

Chẳng hạn, mạch có thể lưu trữ và xử lý dữ

liệu dưới dạng 0, 1, 2 hoặc 3 được gọi là hệ

tam phân. Vì ReRAM sử dụng điện trở khác

nhau nên có thể lưu trữ dữ liệu trong nhiều

trạng thái. Nhờ vậy, tốc độ của các nhiệm vụ

tính toán tăng cao hơn những giới hạn hiện tại.

PGS. Chattopadhyay, đồng tác giả nghiên

cứu cho rằng trong các hệ thống máy tính

hiện nay, tất cả thông tin cần được chuyển đổi

thành chuỗi số 0 và 1 trước khi xử lý. "Đây

giống như cuộc trò chuyện dài với một ai đó

thông qua một thiết bị phiên dịch nhỏ, quá

trình này mất thời gian và cần nhiều nỗ lực",

PGS. Chattopadhyay giải thích. "Bây giờ,

chúng tôi có thể tăng công suất của máy dịch

để xử lý dữ liệu hiệu quả hơn".

Tìm cách xử lý dữ liệu nhanh hơn là một

trong những nhu cầu cấp thiết nhất đối với

các ngành công nghiệp trên toàn thế giới, vì

phần mềm máy tính đang ngày càng trở nên

phức tạp trong khi các trung tâm dữ liệu phải

xử lý nhiều thông tin hơn.

Các nhà nghiên cứu cho rằng sử dụng

ReRAM để tính toán sẽ mang lại chi phí-hiệu

quả cao hơn các công nghệ tính toán khác

trong tương lai vì ReRAM sẽ sớm có mặt trên

thị trường.

GS. WASER cho rằng: "ReRAM là một

khái niệm về bộ nhớ ổn định đa năng. Các

thiết bị này tiết kiệm năng lượng, có tốc độ

nhanh và có thể thu nhỏ rất nhiều. Việc sử

dụng chúng không chỉ để lưu trữ dữ liệu mà

còn cho tính toán, có thể mở ra một con đường

hoàn toàn mới hướng tới sử dụng hiệu quả

năng lượng trong ngành công nghệ thông tin".

Các tính chất tuyệt vời của ReRAM như

dung lượng lưu trữ lâu dài, sử dụng ít năng

lượng và khả năng sản xuất ở quy mô nano đã

thu hút nhiều công ty bán dẫn đầu tư nghiên

cứu. Bước tiếp theo, các nhà khoa học sẽ

nghiên cứu phát triển ReRAM để xử lý dữ

liệu nhiều hơn 4 trạng thái hiện tại, sẽ dẫn đến

những cải tiến lớn tốc độ tính toán cũng như

kiểm tra hiệu quả của nó trong các kịch bản

tính toán thực tế.

Theo vista.gov.vn, 11/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Mực làm từ dây nano cho phép in thiết bị điện tử trên giấy

Bằng cách cho các hạt nano kim loại nhỏ

lơ lửng trong chất lỏng, các nhà nghiên cứu

tại Trường Đại học Duke đã pha được mực

dẫn điện cho máy in phun để in các mô hình

mạch tùy biến, giá rẻ trên bất cứ bề mặt nào.

Các thiết bị điện tử in được sử dụng phổ

biến trong các thiết bị như thẻ nhận dạng tần

Page 22: BẢN TIN THÁNG 01/2017

số vô tuyến chống trộm (RFID) ở trên mặt

sau của các loại đĩa DVD mới, hiện có một

nhược điểm lớn. Đó là để các mạch hoạt

động, đầu tiên cần phải nung nóng chúng để

làm tan chảy tất cả các hạt nano thành một

dây dẫn duy nhất, nên không thể in các mạch

trên nhựa hoặc giấy rẻ tiền. Tuy nhiên, các

nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Duke đã

chứng minh việc tinh chỉnh hình dạng của các

hạt nano trong mực loại bỏ yêu cầu này.

Thông qua so sánh độ dẫn của các màng

được làm từ các cấu trúc nano bạc có hình

dạng khác nhau, các nhà nghiên cứu đã phát

hiện thấy các điện tử di chuyển qua các màng

làm bằng dây nano bạc dễ dàng hơn nhiều so

với các màng được làm từ hình dạng khác

như các quả cầu nano hoặc các tấm nhỏ. Trên

thực tế, các điện tử di chuyển dễ dàng qua các

màng dây nano nên chúng có thể hoạt động

trong các mạch in mà không cần làm làm tan

chảy toàn bộ màng.

Benjamin Wiley, PGS. hóa học tại Trường

Đại học Duke và là đồng tác giả nghiên cứu

cho rằng: "Các dây nano có độ dẫn điện cao

hơn 4.000 lần so với các hạt nano bạc được

sử dụng phổ biến mà bạn sẽ tìm thấy trong

các ăng ten in cho thẻ RFID. Vì vậy, nếu sử

dụng các dây nano, bạn không cần phải làm

nóng các mạch in đến mức nhiệt cao như vậy

và bạn có thể sử dụng nhựa hoặc giấy giá rẻ".

Các loại thiết bị điện tử in này có những

ứng dụng vượt trội hơn bao bì thông minh.

Các nhà nghiên cứu hy vọng công nghệ này

sẽ được áp dụng để sản xuất pin mặt trời, màn

hình in, đèn LED, màn hình cảm ứng, bộ

khuếch đại, pin và thậm chí một số thiết bị

điện tử sinh học cấy ghép. Kết quả nghiên

cứu đã được công bố trên Tạp chí Applied

Materials and Interfaces.

PGS. Wiley cho rằng bạc đã trở thành vật

liệu để sản xuất các thiết bị điện tử in và gần

đây, một số nghiên cứu đã đo độ dẫn của các

màng có các cấu trúc nano bạc với hình dạng

khác nhau. Tuy nhiên, những biến đổi trong

thí nghiệm gây khó khăn trong việc thực hiện

so sánh trực tiếp giữa các hình dạng và một

số báo cáo nghiên cứu đã xác định mối liên

hệ giữa độ dẫn điện của các màng với tổng

khối lượng bạc được sử dụng.

Ian Stewart, đồng tác giả nghiên cứu đã sử

dụng các công thức nổi tiếng tạo nên cấu trúc

nano bạc có hình dạng khác nhau, bao gồm

các hạt nano, các tấm nhỏ và các dây nano

dài, ngắn và trộn các cấu trúc nano với nước

cất để tạo thành mực. Sau đó, Stewart đã phát

minh ra phương thức tạo các màng mỏng một

cách nhanh chóng và dễ dàng bằng các công

cụ sẵn có trong phòng thí nghiệm gồm các

tấm kính và băng hai mặt.

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng máy đục

lỗ để cắt các lỗ từ băng hai mặt và dính lên

các tấm kính. Sau khi đổ khối lượng mực cụ

thể vào mỗi lỗ trên băng và làm nóng các lỗ ở

mức nhiệt tương đối thấp để làm bay hơi

nước hoặc ở mức nhiệt cao hơn để làm tan

chảy toàn bộ cấu trúc, Stewart đã tạo ra được

nhiều màng.

Nhóm nghiên cứu không ngạc nhiên khi

thấy các màng dây nano dài có độ dẫn điện

cao. Các điện tử thường di chuyển dễ dàng

qua các cấu trúc nano nhưng bị mắc lại khi

cần phải chuyển từ một cấu trúc sang cấu trúc

tiếp theo và các dây nano dài làm giảm đáng

kể số lần các điện tử phải thực hiện bước

chuyển này. Nhưng, các nhà khoa học rất

ngạc nhiên về mức độ thay đổi mạnh mẽ này.

"Điện trở suất của các màng dây nano bạc dài

thấp hơn vài bậc so với các hạt nano bạc và

chỉ gấp 10 lần bạc nguyên chất", Stewart nói.

Nhóm nghiên cứu hiện đang thử nghiệm

sử dụng vòi phun sol khí để in mực làm từ

dây nano bạc trong các mạch và mong muốn

tìm hiểu xem chi phí sản xuất dây nano đồng

tráng bạc có rẻ hơn nhiều so với dây nano bạc

nguyên chất hay không.

Theo vista.gov.vn, 11/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 23: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Phát triển được loại kính thủy tinh trong suốt trên cơ sở gỗ

Các nhà khoa học ở Viện Công nghệ

Hoàng gia Stockholm (Thụy Điển) vừa phát

triển được loại vật liệu mới trong suốt trên cơ

sở của gỗ. Có thể dùng loại vật liệu mới này

thay thế cho kính cửa sổ thông thường và các

tế bào năng lượng Mặt trời.

Theo nhà quản lý dự án Lars Berglund, lợi

thế của "gỗ trong suốt" so với thủy tinh là có

thể sử dụng được nguồn tài nguyên sẵn có và

tái tạo để làm nguyên liệu.

Để sản xuất được loại “gỗ thủy tinh” mà

thực chất là loại “gỗ dán” trong đó, trước hết,

người ta dùng phương pháp hóa học để loại

bỏ các thành tế bào - lignin và thứ hai, thực

hiện một số hoạt động ở cấp độ nano.

Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đã ngâm

phần trắng (không có lignin) của gỗ bằng loại

polymer trong suốt và cuối cùng thu được

một vật liệu trong suốt có thể được sử dụng

thay thế kính thông thường. Trong tương lai,

các nhà khoa học muốn nghiên cứu để tìm

cách tăng cường thuộc tính trong suốt cho

loại vật liệu mới và tiến hành sản xuất trên

quy mô công nghiệp.

Theo MK, bình luận về loại vật liệu mới,

giám đốc Viện vật liệu polymer tổng hợp

thuộc Viện hàn lâm khoa học Nga, ông

Alexander Ozerin cho rằng ở bước một của

công nghệ này là loại bỏ các thành phần

lignin trong gỗ cũng giống như sản xuất giấy

khăn ăn, giấy vệ sinh. Nhưng nếu trong sản

xuất giấy có thể có một dư lượng nhất định

lignin thì ở đây các nhà phát triển hứa hẹn sẽ

loại bỏ lignin hoàn toàn.

Ở bước thứ hai của công nghệ có liên

quan với tẩm loại “gỗ dán” đã tẩy trắng bằng

dung dịch thủy tinh hữu cơ và tiếp theo là

polimer hóa. Tất cả các bước này là hoàn toàn

có thể. Nhưng điều đáng chú ý là giá thành

sản xuất vật liệu mới khó có thể rẻ hơn thủy

tinh thông thường, đấy là chưa kể đến khả

năng chống cháy rất thấp của loại kính gỗ.

Theo motthegioi.vn, 15/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Lá nhân tạo mới biến đổi ánh nắng mặt trời thành nhiên liệu hydro

Một nhóm các nhà nghiên cứu đến từ Đức

và Hàn Quốc đã phát triển được loại lá nhân

tạo mới, hiệu quả hơn để biến đổi ánh nắng

mặt trời thành nhiên liệu hydro.

Thiết kế của lá mô phỏng quá trình quang

hợp dưới nước của các thực vật thủy sinh,

tách nước thành hydro và oxy. Ánh nắng mặt

trời được thu bằng các điện cực quang kép,

trong đó một cặp cực dương quang học hấp

thụ năng lượng mặt trời.

Các electron tự do bị kích thích bởi ánh

nắng mặt trời, được truyền qua chất bán dẫn

và được sử dụng để xúc tác phản ứng hóa học

tách nước. Kết quả cuối cùng tạo ra nhiên liệu

hydro giá rẻ và ổn định, có thể được đốt cháy

mà không phát thải khí CO2. Các nhà khoa

học tin rằng nhiên liệu hydro là chìa khóa để

giảm phát thải cacbon trên toàn cầu.

Loại lá mới và cực dương quang học kép

của nó được thiết kế để chỉ hấp thụ các bước

sóng ánh sáng cụ thể, năng lượng vùng cấm

(bandgap) đặc thù cho mỗi cực dương, cũng

giống như các thực vật thủy sinh tập trung nỗ

lực thu năng lượng chỉ riêng của bước sóng

quang phổ xuyên qua nước. Lá nhân tạo hiện

làm tăng 7,7% hiệu quả tách nước, vẫn còn

chưa đạt đến ngưỡng khả thi để sản xuất

hydro từ năng lượng mặt trời trên quy mô

thương mại.

Page 24: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Jae Sung Lee, kỹ sư hóa học tại Viện

Khoa học và Công nghệ quốc gia Ulsan và là

đồng tác giả nghiên cứu cho rằng: "Chúng tôi

đặt mục tiêu tăng 10% hiệu quả khai thác ánh

nắng mặt trời trong ba năm tới. Công nghệ

này sẽ góp phần vào việc hình thành các trạm

tiếp nhiên liệu hydro bằng cách cung cấp

nhiên liệu giá rẻ cho xe sử dụng pin nhiên

liệu hydro".

Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên

tạp chí Nature Communications.

Theo vista.gov.vn, 16/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Sản xuất túi mua hàng từ vỏ tôm

Các kỹ sư sinh học tại Trường Đại học

Nottingham đang thử nghiệm cách sử dụng

vỏ tôm để sản xuất túi phân hủy sinh học,

không chỉ là giải pháp "xanh" để thay thế túi

làm từ dầu mỏ, mà còn kéo dài thời hạn sử

dụng của thực phẩm.

Vật liệu vỏ tôm dùng để sản xuất túi mua

hàng thân thiện với sinh thái này đang được

tối ưu hóa trong các điều kiện ở Ai Cập, nơi

hoạt động quản lý chất thải hiệu quả là một

trong những thách thức lớn nhất của quốc gia.

TS. Nicola Everitt, trưởng nhóm nghiên

cứu giải thích: "Bao bì nhựa không phân hủy

đang gây ra các vấn đề môi trường và y tế

công cộng ở Ai Cập, như ô nhiễm nguồn nước

đặc biệt ảnh hưởng đến điều kiện sống của

người nghèo".

Các sản phẩm polyme sinh học tự nhiên

được tạo ra từ nguyên liệu thực vật, là lựa

chọn "xanh" ngày càng phổ biến, nhưng lại

cạnh tranh với cây lương thực về diện tích đất

trồng. Do đó, đây không phải là giải pháp khả

thi ở Ai Cập. Dự án nghiên cứu mới nhằm

mục đích biến đổi vỏ tôm, một phần của vấn

đề chất thải quốc gia thành một phần giải

pháp.

TS. Everitt cho rằng: "Việc sử dụng

polyme phân hủy sinh học làm từ vỏ tôm để

sản xuất túi mua hàng, sẽ làm giảm phát thải

cacbon, cũng như giảm khối lượng chất thải

thực phẩm và bao bì tích tụ trên các đường

phố hoặc tại các bãi chôn lấp chất thải bất

hợp pháp. Trong vòng từ 10-15 năm tới, sản

phẩm này cũng có thể được xuất khẩu ra thị

trường nước ngoài. Đây là những ưu tiên cấp

quốc gia ở Ai Cập".

Nghiên cứu đang được thực hiện để tạo ra

vật liệu nanocomposite polyme sinh học mới

có khả năng phân hủy, giá cả phải chăng và

phù hợp cho túi mua hàng và bao bì thực

phẩm.

Chitosan là polyme nhân tạo bắt nguồn từ

hợp chất hữu cơ chitin được chiết xuất từ vỏ

tôm, ban đầu là bằng cách sử dụng axit (để

loại bỏ "xương sống" cacbonat canxi của vỏ

giáp xác) và tiếp đến là kiềm (để tạo ra các

chuỗi phân tử dài cấu thành polyme sinh học).

Các tấm chitosan khô sau đó được hòa tan

vào dung dịch và màng polyme được hình

thành nhờ có các kỹ thuật xử lý thông thường.

Chitosan là polyme phân hủy sinh học đầy

triển vọng, nên đã được lựa chọn sử dụng

trong bao bì dược phẩm do nó có tính chất

chống vi trùng, kháng khuẩn và tương thích

sinh học.

Giai đoạn thứ hai của dự án là phát triển

màng polyme hoạt tính hấp thụ oxy. Loại bao

bì thực phẩm thế hệ mới này sẽ có khả năng

kéo dài thời hạn sử dụng của thực phẩm với

hiệu quả cao và tiêu thụ ít năng lượng, khắc

Page 25: BẢN TIN THÁNG 01/2017

phục tình trạng lãng phí thực phẩm ở nhiều

quốc gia. Nếu thành công, TS. Everitt dự kiến

sẽ đưa sản phẩm này đến với các nhà sản xuất

bao bì của Vương quốc Anh. Ngoài ra, nghiên

cứu còn đề ra mục tiêu xác định lộ trình sản

xuất vật liệu polyme phân hủy sinh học cho

túi mua hàng và bao bì thực phẩm.

Theo vista.gov.vn, 17/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Xác định tính chất quan trọng giúp màng của pin mặt trời perovskite chuyển đổi ánh nắng thành điện năng

Pin mặt trời được làm từ các màng mô

phỏng cấu trúc của khoáng vật perovskite, là

trọng tâm của nghiên cứu trên toàn thế giới.

Nhưng hiện nay, các nhà nghiên cứu tại

Trường Đại học Case Western Reserve, Hoa

Kỳ đã trực tiếp chứng minh các màng này có

tính chất quan trọng cho phép chuyển đổi

hiệu quả ánh nắng mặt trời thành điện năng,

có thể dẫn đến triển vọng sản xuất pin mặt

trời hiệu quả hơn.

Các electron sinh ra khi ánh sáng chiếu

vào màng bị hạn chế bởi ranh giới của hạt

(cạnh của những tiểu đơn vị tinh thể trong

màng) và di chuyển những quãng đường dài

mà không bị suy giảm. Nghĩa là các hạt tích

điện bị mắc kẹt và phân rã trong các vật liệu

khác thay vì phải ngắt dòng điện.

Lần đầu tiên, các nhà khoa học đã trực

tiếp đo quãng đường di chuyển gọi là độ dài

khuếch tán bằng kỹ thuật "kính hiển vi chụp

ảnh dòng quang điện quét không gian". Độ

dài khuếch tán trong màng perovskite định

hướng là 20 micromet.

Phát hiện này đã được công bố trên tạp

chí Nano Letters, cho thấy pin mặt trời có thể

được sản xuất dày hơn mà không gây ảnh

hưởng đến hiệu suất của pin. Xuan Gao, PGS

vật lý và là trưởng nhóm nghiên cứu cho

rằng: "Pin mặt trời dày hơn có thể hấp thụ

nhiều ánh sáng và có tiềm năng sản xuất pin

mặt trời hiệu quả hơn".

Các nhà nghiên cứu điện mặt trời tin rằng

màng perovskite có triển vọng lớn. Trong

vòng gần 5 năm, các màng này được tạo ra từ

cấu trúc tinh thể, đã đạt hiệu suất chuyển đổi

ánh nắng mặt trời thành điện cao hơn mức

20%, tỷ lệ mà pin mặt trời silicon hiện nay

phải mất hàng thập kỷ mới đạt được.

Nghiên cứu đã thực hiện các phép đo hình

ảnh quang điện quét không gian trên màng tại

phòng thí nghiệm của giáo sư hóa học

Clemens Burda tại Trường Đại học Case

Western Reserve.

Khoáng vật perovskite có trong tự nhiên,

là các oxit của một số kim loại, nhưng phòng

thí nghiệm của GS. Burda đã tạo ra các màng

hữu cơ - kim loại có cấu trúc tinh thể tương tự

nhau bằng cách sử dụng CH3NH3PBI3, một

halogen ba chiều bao quanh bởi các phân tử

metyl amoni hữu cơ nhỏ kết hợp thành cấu

trúc mạng tinh thể.

Độ dài khuếch tán là quãng đường một

electron hoặc lỗ trống di chuyển từ lúc sinh ra

cho đến khi nó tái kết hợp hoặc được tách ra

như dòng điện. Quãng đường đó cũng bằng

quãng đường di chuyển khi điện trường xuất

hiện.

Các phòng thí nghiệm đã thực hiện lặp lại

các phép đo bằng cách chiếu chấm laser vào

các màng cỡ 8mm2 và dày 300 nanomet. Các

màng này đã đạt được độ ổn định nhờ phủ lên

perovskite một lớp polime parylene.

Page 26: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Ánh sáng tạo ra các electron và lỗ trống và

dòng điện quang hoặc dòng điện tử được ghi

lại giữa các điện cực cách nhau khoảng 120

micron trong khi màng được quét dọc 2

hướng vuông góc. Thao tác quét tạo ra một

bản đồ không gian hai chiều về các đặc điểm

khuyếch tán và vận chuyển của hạt điện tích.

Các số đo chứng minh độ dài khuếch tán

trung bình đạt khoảng 10 micron. Trong một

số trường hợp, độ dài lên tới gần 20 micron,

cho thấy khu vực chức năng của màng dài ít

nhất 20 micron.

Trong một số vật liệu, các ranh giới của hạt

làm giảm độ dẫn điện, nhưng hình ảnh cho

thấy giao diện giữa các hạt trong màng không

gây ảnh hưởng đến sự di chuyển của electron.

Theo nhóm nghiên cứu, điều này có thể là do

các hạt trong màng được sắp xếp ngăn nắp,

không gây trở kháng hoặc các hiệu ứng tác

động xấu đến các điện tử hoặc lỗ trống.

Nhóm nghiên cứu hiện đang tìm cách sử

dụng kỹ thuật kính hiển vi để xác định khả

năng các kích thước hạt khác nhau, hướng,

thành phần của perovskite halogen, độ dày

của màng ... làm thay đổi mạnh mẽ hơn tính

chất của màng để thúc đẩy tốc độ nghiên cứu

trong lĩnh vực này.

Theo vista.gov.vn, 18/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Nấm men biến đổi đường thực vật thành dầu mỏ

Các kỹ sư hóa học tại Viện Công nghệ

Massachusetts (MIT) do GS. Gregory

Stephanopoulos dẫn đầu, đã biến đổi đường

thực vật thành dầu mỏ bằng cách thay đổi các

con đường trao đổi chất của nấm men.

Trong nghiên cứu, các kỹ sư đã tái lập

trình về mặt di truyền một chủng nấm men để

chuyển đổi đường thực vật thành chất béo

hiệu quả hơn, một bước tiến có thể dẫn đến

khả năng sản xuất nhiên liệu tái tạo năng

lượng cao như diesel.

Các nhà khoa học đã biến đổi các con

đường trao đổi chất của nấm men sản sinh tự

nhiên khối lượng lớn chất béo, làm tăng hơn

30% hiệu suất. Cải tiến này giúp hoạt động

sản xuất nhiên liệu tái tạo năng lượng cao trở

nên khả thi về mặt kinh tế. GS.

Stephanopoulos cho biết: “Chúng tôi đã đạt

được khoảng 75% tiềm năng của nấm men và

sẽ nghiên cứu tăng thêm 25% nữa”.

Các nhiên liệu tái tạo như ethanol làm từ

ngô, có thể được sử dụng làm chất phụ gia

cho xăng xe ô tô, nhưng đối với các phương

tiện lớn như máy bay, xe tải và tàu thủy, cần

có các nhiên liệu mạnh hơn như diesel.

GS. Stephanopoulos cho rằng: "Diesel là

nhiên liệu ưa thích vì mật độ năng lượng cao

và các động cơ hiệu suất cao chạy bằng

diesel. Vấn đề đối với diesel cho đến nay là

nhiên liệu này được sản xuất từ nhiên liệu

hóa thạch".

Những nỗ lực để chế tạo động cơ chạy

bằng diesel sinh học từ các loại dầu ăn đã qua

sử dụng, đã đạt được những thành công nhất

định, nhưng dầu ăn là một nguồn nhiên liệu

tương đối khan hiếm và đắt đỏ. Các loại tinh

bột như tinh bột mía và ngô rẻ hơn và phong

phú hơn, nhưng những carbohydrate đầu tiên

phải được chuyển đổi thành chất béo, sau đó

thành nhiên liệu mật độ cao như diesel.

Các nhà khoa học đã nghiên cứu loại nấm

men Yarrowia lipolytica có khả năng sản sinh

một cách tự nhiên khối lượng lớn chất béo và

tập trung sử dụng hoàn toàn các electron do

sự phân hủy glucose tạo ra. Để làm được điều

này, nhóm nghiên cứu đã biến đổi Yarrowia

bằng các con đường tổng hợp chuyển đổi

Page 27: BẢN TIN THÁNG 01/2017

NADH dư thừa, một sản phẩm của quá trình

phân hủy glucose thành NADPH, có thể được

sử dụng để tổng hợp chất béo. Cuối cùng, các

nhà khoa học đã thử nghiệm hơn 10 con

đường tổng hợp đã được biến đổi.

GS. Stephanopoulos cho biết: "Sự kết hợp

của 2 trong số các con đường tổng hợp này

cung cấp cho chúng tôi kết quả tốt nhất.

Nhưng, chúng tôi vẫn chưa hiểu rõ các cơ chế

thực tế làm cho một số con đường tổng hợp

hoạt động hiệu quả hơn nhiều so với các con

đường khác".

Nhờ có các con đường trao đổi chất cải

tiến, các tế bào nấm men chỉ cần 2/3 lượng

đường mà các tế bào nấm men chưa biến đổi

cần có để sản sinh cùng một lượng dầu mỏ.

Mặc dù quá trình mới biến đổi glucose

thành chất béo có thể khả thi về mặt kinh tế,

nhưng các nhà nghiên cứu đang hy vọng sẽ

tăng hơn nữa hiệu quả của quá trình này. Bên

cạnh đó, các nhà khoa học cũng đang tìm

cách sử dụng các nguồn nguyên liệu thực vật

rẻ hơn như cỏ và chất thải nông nghiệp, đòi

hỏi phải chuyển đổi xenlulô thành đường

glucose.

Theo vista.gov.vn, 20/01/2017

Trở về đầu trang

**************

Page 28: BẢN TIN THÁNG 01/2017

B. SÁNG CHẾ NƯỚC NGOÀI ĐƯỢC CẤP BẰNG ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM

1-0016020 Hợp chất N-(1,2,5-oxadiazol-3-yl)-, N-(tetrazol-5-yl)- và N-(triazol-5-yl)bixycloarylcarboxamit, chế phẩm chứa hợp chất này và

phương pháp phòng trừ cây trồng không mong muốn

Tác giả: Van Almsick Andreas, Ahrens

Hartmut, Kohn Arnim,…

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến hợp chất N-(1,2,5-

oxadiazol-3-yl)-, N-(tetrazol-5-yl)- và N-

(triazol-5-yl)bixycloarylcarboxamit có công

thức chung (I) để làm thuốc diệt cỏ. Trong

công thức (I) này, mỗi gốc R3, R4 và R5 là

các gốc như hydro, các gốc hữu cơ như alkyl,

và các gốc khác như halogen. Q là dị vòng.

Mỗi gốc X và Y là oxy và lưuhuỳnh.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp số

344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016086 Chế phẩm diệt trừ dịch hại chứa hợp chất anthranilamit và phương pháp phòng trừ loài gây hại

Tác giả: Koyanagi Toru, Morita

Masayuki, Yoneda Tetsuo,…

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chế phẩm diệt trừ

dịch hại chứa lượng hữu hiệu có tác dụng

hiệp đồng của ít nhất một hợp chất

anthranilamit có công thức (I) sau hoặc muối

của nó và thuốc trừ sâu và/hoặc thuốc trừ nấm

khác:

trong đó: mỗi R1a

và R1b

độc lập với nhau

là halogen; mỗi R2 và R3 là halogen, alkyl,

haloalkyl, alkoxy, haloalkoxy hoặc xyano; A

là alkyl được thế bằng Y; Y là C3-4 xycloalkyl

có thể được thế bằng ít nhất một phần tử thế

được chọn từ nhóm bao gồm halogen, alkyl

và haloalkyl; n bằng 0 hoặc 1; và q là số

nguyên nằm trong khoảng từ 0 đến 4; với

điều kiện R1a

và R1b

không đồng thời là clo

hay brom.

Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến

phương pháp phòng trừ loài gây hại bằng

cách sử dụng chế phẩm này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

Page 29: BẢN TIN THÁNG 01/2017

1-0016105 Hợp chất pyrazol carboxamit có hoạt tính diệt nấm, chế phẩm diệt nấm chứa hợp chất này và phương pháp phòng trừ nấm

gây bệnh cho thực vật ở cây trồng

Tác giả: Bartels Guenter, Becker Angela,

Benting Juergen,…

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến các hợp chất của

pyrazol carboxamit có công thức (1)

trong đó Y là CR5 hoặc N, T là S hoặc O,

X1 và X

2 là nguyên tử clo hoặc flo, và Z

1 là

xyclopropyl được thế hoặc không được thế;

quy trình điều chế chúng, sử dụng chúng làm

thuốc diệt nấm, và/hoặc các hoạt chất kháng

mycotoxin, và/hoặc thuốc trừ sâu, và/hoặc

thuốc diệt giun tròn, đặc biệt là dưới dạng chế

phẩm diệt nấm, và các phương pháp phòng

trừ nấm gây bệnh cho thực vật, đặc biệt là cây

trồng nhờ sử dụng các hợp chất hoặc chế

phẩm này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016107 Thuốc diệt cỏ dạng huyền phù đặc

Tác giả: Garipov Yury Aglyamovich,

Kiseleva Natalia Nikolaevna, Poltev Mikhail

Igorevich,…

Quốc gia: Nga

Sáng chế đề cập đến phương pháp hóa học

để chống cỏ dại, cụ thể là đề cập đến các

thuốc diệt cỏ dạng huyền phù trong nước trên

nền các chất dẫn xuất pyrimidin, ví dụ natri

2,6-bis-(4,6-đimetoxypyrimidin-2-yl)

oxybenzoat, các thuốc diệt cỏ này có thể được

sử dụng để xử lý cây lúa. Sáng chế đề cập đến

việc điều chế thuốc diệt cỏ dạng huyền phù

đặc trên nền các chất dẫn xuất pyrimidin,

thuốc diệt cỏ này có các đặc tính hoá lý và

hoạt tính cao, cụ thể là sức căng bề mặt thấp

và các giá trị góc ướt giới hạn thấp và hoạt

tính ăn mòn giảm đối với các vật liệu cấu

trúc. Kết quả kỹ thuật nêu trên đạt được bởi

thuốc diệt cỏ dạng huyền phù đặc chứa hỗn

hợp của hai thành phần hoạt tính hóa nông là

axit 2,6-bis-(4,6-đimetoxypyrimidin-2-yl)

oxybenzoic và natri 2,6- bis-(4,6-

đimetoxypyrimidin-2-yl) oxybenzoat với

cacbamit, trong đó tỷ lệ mol của cacbamit với

thành phần hoạt tính nằm trong khoảng từ

0,93 - 1,79. Thuốc diệt cỏ dạng huyền phù

đặc bao gồm muối phức với cacbamit với sự

có mặt của axit oxyetylidenđiphosphonic

và/hoặc muối đinatri của axit

etylenđiamintetraaxetic và ít nhất một hợp

phần hoạt tính hóa nông. Sức căng bề mặt là

32 N/m*10-3, góc ướt giới hạn: đầu: 540,

cuối: 300, tốc độ ăn mòn thép cacbon là

0,00152 g/m2 giờ, và độ thẩm thấu của thép

cacbon là 0,0011 mm/năm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

Page 30: BẢN TIN THÁNG 01/2017

1-0016144 Dụng cụ phòng trừ côn trùng và phương pháp sản xuất dụng cụ này

Tác giả: Schule Stephan, Letzner

Bernhard, Halls Geoffrey,…

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến dụng cụ phòng trừ

côn trùng, dụng cụ này bao gồm một giá giấy

cháy châm, khác biệt ở chỗ, ít nhất một hoạt

chất diệt côn trùng được đưa lên giá này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016048 Chế phẩm phủ hệ nước chứa hỗn hợp của nhựa alkyt cải biến bằng uretan, quy trình điều chế và phương pháp sử dụng

chế phẩm này

Tác giả: Reidlinger Gerhard

Quốc gia: Áo

Sáng chế đề cập đến chế phẩm phủ hệ

nước chứa hỗn hợp của nhựa alkyt cải biến

bằng uretan (A) có khối lượng phân tử gam

lớn và chất pha loãng hoạt tính (D), khác biệt

ở chỗ, nhựa alkyt (A) chứa gốc có dẫn xuất từ

các axit béo đã ghép (A1) là các sản phẩm

ghép của các axit béo (A11) có ít nhất một

olefin chưa bão hòa, tính trung bình trên mỗi

phân tử, với axit béo mạch thẳng hoặc mạch

nhánh có olefin chưa bão hòa (A12), tốt hơn

là, có từ 3 đến 10 nguyên tử cacbon, các rượu

béo polyhydric (A2), các axit béo (A3), các

isoxyanat đa chức (A4), và chất pha loãng

hoạt tính (D) có số hyđroxyl là 5 mg/g, và

chứa các gốc có dẫn xuất từ axit béo có olefin

chưa bão hòa (D1), và các polyoxyalkylen

glycol (D2) hoặc các monoete của chúng.

Ngoài ra, sáng chế cũng đề cập đến quy trình

điều chế chế phẩm phủ này và phương pháp

sử dụng chế phẩm phủ này để phủ gỗ, ván sợi

ép, nguyên liệu dệt, giấy, bìa các tông, da và

các vật liệu dẻo nhiệt.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016021 Phương pháp làm sạch da

Tác giả: Hirahara Mayuko, Katsuta Izumi.

Quốc gia: Nhật Bản

Sáng chế đề cập đến chế phẩm làm sạch

chứa các thành phần (A), (B), (C) và (D):

(A) polyoxyetylen alkyl ete sulfat với

lượng nằm trong khoảng từ 1 đến 20% trọng

lượng,

(B) polyme chứa nhóm cation có mật độ

điện tích cation từ 4,5 đến 7 meq/g với lượng

nằm trong khoảng từ 0,02 đến 5% trọng

lượng,

(C) hydroxypropyl xenluloza được cation

hóa có công thức (1) với lượng nằm trong

khoảng từ 0,02 đến 10% trọng lượng, trong

đó mỗi R1, R2 và R3 độc lập là nhóm có

nhóm etylenoxy được cation hóa và nhóm

propylenoxy, n là số từ 20 đến 5000 thể hiện

mức độ polyme hoá trung bình của

anhydroglucoza, và mức thế của nhóm

etylenoxy được cation hóa là nằm trong

khoảng từ 0,01 đến 3 và mức thế của nhóm

propylenoxy là nằm trong khoảng từ 0,01 đến

5, và (D) nước.

Page 31: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016025 Thể tiếp hợp miễn dịch kháng mesothelin và dược phẩm chứa thể tiếp hợp miễn dịch này

Tác giả: Kahnert Antje, Berhorster

Kerstin, Heisler Iring, …

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến thể tiếp hợp miễn

dịch chứa các kháng thể, ví dụ, các kháng thể

đơn dòng hoặc các đoạn kháng thể liên kết

với mesothelin, được tiếp hợp với các chất

gây độc tế bào, ví dụ, maytansin hoặc các dẫn

xuất của nó và/hoặc được dùng đồng thời

hoặc được bào chế bởi một hoặc nhiều chất

chống ung thư bổ sung. Các thể tiếp hợp miễn

dịch theo sáng chế có thể được sử dụng theo

các phương pháp theo sáng chế để điều trị

và/hoặc chẩn đoán và/hoặc theo dõi bệnh ung

thư, ví dụ, các khối u rắn, các vùng gắn kết

kháng nguyên tái tổ hợp và các kháng thể và

các đoạn chức năng chứa các vùng gắn kết

kháng nguyên này đặc hiệu với polypeptit

mesothelin có kích thước 40 kDa, được cố

định màng, được biểu hiện quá mức trong các

khối u khác nhau, như các khối u của tuyến

tụy và buồng trứng, các tế bào u trung biểu

mô và ung thư phổi. Ngoài ra, sáng chế còn

đề cập đến dược phẩm chứa thể tiếp hợp miễn

dịch này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016050 Chế phẩm giải phóng kéo dài, dược phẩm và thuốc chứa chế phẩm này

Tác giả: Tomomichi Futo, Kazuhiro

Saito, Tetsuo Hoshino, Masuhisa Hori.

Quốc gia: Nhật

Sáng chế đề cập đến chế phẩm giải phóng

kéo dài, trong đó peptit có hoạt tính sinh lý,

hòa tan trong nước hầu như được phân tán

đồng đều trong vi nang chứa polyme của axit

lactic hoặc muối của nó, và hợp chất có hoạt

tính sinh lý này được chứa với lượng nằm

trong khoảng từ 15 đến 35% trọng lượng so

với tổng trọng lượng vi nang và trọng lượng

phân tử trung bình trọng lượng (Mw) của

polyme của axit lactic nằm trong khoảng từ

11000 đến 27000, khác biệt ở chỗ, chế phẩm

theo sáng chế chứa hợp chất có hoạt tính sinh

lý với hàm lượng cao, và ngăn chặn sự giải

phóng quá mức ban đầu trong một ngày sau

khi sử dụng và giải phóng dược chất kéo dài

ổn định trong thời gian dài; và phương pháp

bào chế chế phẩm này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

Page 32: BẢN TIN THÁNG 01/2017

1-0016055 Hợp chất có tác dụng ức chế histon deaxetylaza và quy trình điều chế hợp chất này

Tác giả: Dickens Julius W.J, Stokbroekx

Sigrid Carl Maria, Houpis Ioannes Nicolaos,

Quốc gia: Bỉ

Sáng chế đề cập đến hợp chất có công

thức (XI) và quy trình điều chế hợp chất này

để sử dụng trong trị liệu, ví dụ, làm dược

phẩm ức chế các tình trạng tăng sinh, như

bệnh ung thư và bệnh bạch cầu.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016078 Chế phẩm sử dụng khu trú

Tác giả: Albrecht Martin

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến chế phẩm là dược

phẩm hoặc mỹ phẩm, được sử dụng khu trú,

chứa một pha ưa nước bên ngoài, ít nhất một

hoạt chất dược dụng và/hoặc được dùng trong

mỹ phẩm và ít nhất một chất mang cho hoạt

chất, trong đó chất mang tạo ra cấu trúc này

gồm ít nhất hai lớp màng kép mỏng, được sắp

xếp một lớp ở trên một lớp khác theo kiểu

bánh kẹp, trong đó giữa các lớp màng kép

liền kề, được xếp song song với nhau, lần

lượt xếp một lớp chứa pha bên trong, trong đó

hoạt chất được phân bố trong lớp màng kép

và trong lớp chứa pha bên trong sao cho lớp

chứa pha bên trong chứa hoạt chất với lượng

nằm trong khoảng từ 2% trọng lượng đến

98% trọng lượng và lớp màng kép chứa hoạt

chất với lượng nằm trong khoảng từ 98%

trọng lượng đến 2% trọng lượng, lần lượt tính

theo tổng lượng hoạt chất, và pha bên ngoài

không chứa hoặc gần như không chứa hoạt

chất.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

Số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016084 Hợp chất heterobiaryl-xyclohexyl-tetraazabenzo[e]azulen, quy trình điều chế hợp chất này và dược phẩm chứa nó

Tác giả: Dolente Cosimo, Schnider

Patrick.

Quốc gia: Ý

Sáng chế đề cập đến hợp chất

heterobiaryl-xyclohexyl

tetraazabenzo[e]azulen có công thức I

trong đó R1, R

2 và R

3 là như được xác

định trong bản mô tả. Hợp chất theo sáng chế

hoạt động như các chất điều biến thụ thể V1a,

và cụ thể là chất đối kháng thụ thể V1a.

Page 33: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Sáng chế còn đề cập đến quy trình điều

chế nó, và dược phẩm chứa nó. Hoạt chất

theo sáng chế có thể được sử dụng làm tác

nhân điều trị có tác dụng ngoại vi và trung

ương đối với tình trạng bệnh lý gồm chứng

thống kinh, rối loạn chức năng tình dục nam

hoặc nữ, bệnh cao huyết áp, bệnh suy tim

mạn tính, chứng tiết không phù hợp

vasopressin, bệnh xơ gan, hội chứng thận hư,

chứng lo âu, rối loạn trầm cảm, rối loạn ám

ảnh cưỡng bức, rối loạn phổ tự kỷ, bệnh tâm

thần phân liệt và hành vi hung hăng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016112 Hợp chất chứa Bo có phân tử nhỏ và dược phẩm chứa hợp chất này

Tác giả: Baker Stephen J, Hernandez

Vincent S, Sharma Rashmi

Quốc gia: Mỹ

Sáng chế đề cập đến hợp chất chứa Bo có

phân tử nhỏ hữu dụng để điều trị bệnh nhiễm

khuẩn, dược phẩm chứa hợp chất này, cũng

như dược phẩm kết hợp chứa hợp chất này và

ít nhất một dược chất khác.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016046 Phương pháp sản xuất giầy sử dụng dung dịch phủ lót đa năng

Tác giả: Huh Sung-Hwan.

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến phương pháp sản

xuất giày sử dụng dung dịch phủ lót đa năng,

bao gồm bước phủ đế ngoài bằng cao su

được làm bằng cao su chưa lưu hóa bằng

dung dịch phủ lót đa năng bao gồm thể phân

tán polyuretan, dung dịch cao su butađien, và

dung dịch cao su tự nhiên; lưu hóa đế ngoài

bằng cao su chưa lưu hóa được phủ dung

dịch phủ lót đa năng; hoạt hóa nhiệt đế ngoài

bằng cao su đã lưu hóa và đã phủ; phủ đế

ngoài bằng cao su đã hoạt hóa nhiệt bằng

chất kết dính; và liên kết đế ngoài bằng cao

su với các phần khác nhau của giày. Dung

dịch phủ lót có ích cho sáng chế được sản

xuất bằng cách điều chế dung dịch thứ nhất

bao gồm từ 15 đến 55 phần trọng lượng cao

su tự nhiên và từ 750 đến 1350 phần trọng

lượng dung môi hữu cơ; điều chế dung dịch

thứ hai từ 100 phần trọng lượng dung dịch

thứ nhất và ngoài ra, từ 45 đến 90 phần trọng

lượng thể phân tán polyuretan; và điều chế

dung dịch thứ ba mà tạo thành dung dịch phủ

lót đa năng từ 100 phần trọng lượng dung

dịch thứ hai và từ 100 đến 250 phần trọng

lượng dung dịch cao su trên cơ sở butadien

chứa từ 50 đến 200 phần trọng lượng cao su

butadien và từ 800 đến 950 phần trọng lượng

dung môi hữu cơ.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

Page 34: BẢN TIN THÁNG 01/2017

1-0016024 Miếng dính hạt giống

Tác giả: Tae Ha Woo, Jung Min Seo

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập tới miếng dính hạt giống

để gieo hạt và trồng các loại hoa hoặc các

loại cây mầm một cách dễ dàng và nhanh

chóng trong chậu nhỏ như chậu ở nhà hoặc

trong vườn hoa và phương pháp sản xuất

miếng dính này. Sáng chế khác biệt bởi

miếng dính hạt giống mà hạt giống được đặt

vào bên trong của nó, bao gồm: giấy can (10)

mà lớp phủ (11) được tạo trên bề mặt của

giấy can này; lớp dính (20) được tạo trên bề

mặt của lớp phủ (11); viên hạt giống (30)

được đặt trên bề mặt của lớp dính (20); tấm

làm bằng đất pha sét đỏ (40) được xếp chồng

lên phần trên của viên hạt giống (30); và tấm

làm bằng rượu polyvinylic (PVA) được xếp

chồng lên phần trên của tấm làm bằng đất

pha sét đỏ (40) và phủ cả viên hạt giống lẫn

tấm làm bằng đất pha sét đỏ và các mép của

nó được dính với lớp dính (20).

Có thể gieo các loại cây mong muốn

thành các dạng mong muốn bằng cách tạo

các hạt giống dưới dạng miếng dính như đã

mô tả trên đây. Ngoài ra, đất có độ dày phù

hợp đã xếp chồng ở phần trên trong miếng

dính hạt giống sao cho ngay cả khi người sử

dụng không bao giờ gieo hạt trước đó cũng

có thể gieo hạt cây một cách dễ dàng và

nhanh chóng bằng cách đặt miếng dính hạt

giống trong chậu và tưới nước cho miếng

dính hạt giống, sau đó cho phép hạt giống,

mà đã đóng gói trong miếng dính hạt giống,

nảy mầm.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016035 Chế phẩm để tạo ra tác nhân nghiền clinke xi măng và hỗn hợp clinke xi măng chứa tác nhân này

Tác giả: Joh Sung Hyung, Kim Jung Sun,

Park Kwang Young, Cha Cheol Yong .

Quốc gia: Hàn Quốc

Sáng chế đề cập đến chế phẩm để tạo ra

tác nhân nghiền clinke xi măng, chế phẩm

này chứa hợp chất có cấu trúc ion lưỡng cực

được thể hiện bằng công thức 1 sau đây:

trong đó, mỗi X, Y và Z độc lập là nhóm

chức không phân cực, và W- là nhóm chức

phân cực. Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến

hỗn hợp clinke xi măng bao gồm clinke xi

Page 35: BẢN TIN THÁNG 01/2017

măng và chế phẩm để tạo ra tác nhân nghiền

clinke xi măng; và hỗn hợp xi măng được tạo

ra bằng cách sử dụng hỗn hợp clinke xi

măng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016054 Ván khuôn dùng một lần lắp ghép được để dựng cốp pha theo mô đun để đổ móng bê tông

Tác giả: Martigli Massimo

Quốc gia: Ý

Sáng chế đề cập đến ván khuôn dùng một

lần lắp ghép được để dựng cốp pha theo mô

đun thích hợp cho việc đổ móng, ván khuôn

này về cơ bản được kết cấu như là bề mặt bên

của hình hộp, trên các mặt bên này có nhiều

lỗ thích hợp để trong quá trình đúc khuôn đổ

một phần hỗn hợp xi măng chảy vào trong hố

móng.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016117 Quy trình sản xuất vật đúc bằng bọt polyuretan và vật đúc bằng bọt polyuretan thu được bằng quy trình này

Tác giả: Kamm Andre, Lorusso Michele,

Cubukcu Erhan.

Quốc gia: Đức

Sáng chế đề cập đến quy trình sản xuất

vật đúc bằng bọt polyuretan, trong đó a)

polyisoxyanat hữu cơ được trộn với b) các

polyol bao gồm b1) polyesterol và b2)

polyme polyeterol có tỷ lệ nhóm OH bậc

một nhỏ hơn 50%, c) chất tạo xốp bao gồm

nước và tùy ý d) chất kéo dài mạch và/hoặc

chất tạo liên kết ngang, e) chất xúc tác và f)

các chất phụ trợ và/hoặc chất phụ gia khác để

tạo thành hỗn hợp phản ứng, hỗn hợp phản

ứng này được đưa vào khuôn đúc và thực

hiện phản ứng để tạo thành vật đúc bằng bọt

polyuretan. Sáng chế còn đề cập đến vật đúc

bằng bọt polyuretan sản xuất được bằng quy

trình này và đế giày bao gồm vật đúc bằng

bọt polyuretan này.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016148 Nhũ tương chứa scleroglucan, nhũ tương bitum và chế phẩm kết dính bitum

Tác giả: Filippini Lucio, Mormile Silvia,

Vazzola Matteo Santino, Gusmeroli

Marilena.

Quốc gia: Ý

Sáng chế đề cập đến nhũ tương chứa

scleroglucan chứa chất kết dính bitum và

scleroglucan không cải biến với lượng nằm

trong khoảng từ 0,005% đến 0,02% trọng

lượng, tính theo tổng trọng lượng của nhũ

tương, trong đó chất kết dính bitum này chứa

bitum có độ kim lún là 100x10-1mm hoặc

nhỏ hơn được xác định theo tiêu chuẩn

ASTM

D5-97, trong đó nhũ tương này có chỉ số

phân lớp nhân với độ ổn định khi bảo quản

nhỏ hơn 1,8, và trong đó giá trị tối đa của chỉ

số phân lớp nhỏ hơn hoặc bằng 120 và giá trị

tối đa của độ ổn định khi bảo quản nhỏ hơn

hoặc bằng 0,015.

Page 36: BẢN TIN THÁNG 01/2017

Ngoài ra, sáng chế còn đề cập đến chế

phẩm kết dính bitum chứa nhũ tương nêu trên

và nhũ tương bitum chứa scleroglucan.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************

1-0016245 Hạt phân phối chất hữu ích chứa polysacarit không ion, phương pháp sản xuất và chế phẩm chứa hạt này

Tác giả: Lommerts Bert Jan, Nederpel

Quirinus Adrianus, Sikkema Doetze Jakob.

Quốc gia: Hà Lan

Sáng chế đề cập đến chế phẩm chứa hạt

phân phối chất hữu ích chứa ít nhất một trong

số các hợp chất hydroxylpropyl metyl

xenluloza, hydroxyletyl metyl xenluloza,

hydroxylpropyl guar, hydroxyletyl ety

xenluloza hoặc metyl xenluloza. Hạt phân

phối chất hữu ích có thể còn chứa polyme

không polysacarit, tốt hơn là polyme

aminoplast.

Hạt phân phối chất hữu ích có thể chứa

hương liệu. Sáng chế còn đề cập đến quy

trình sản xuất các hạt này trong đó dầu hương

liệu được bao nang bằng cách sử dụng quá

trình polyme hoá nhũ tương để tạo thành các

hạt có lõi-vỏ, (theo một phương án khác,

hương liệu có thể được hấp thụ ở giai đoạn

sau) và, lớp polyme khác còn được tạo ra bên

ngoài bề mặt của các hạt có lõi-vỏ này với sự

có mặt của chất trợ giúp phân phối.

Theo Công báo Sở hữu Công nghiệp

số 344/2016

Trở về đầu trang

**************