Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 1/46 TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN BẢN TIN THÁNG 8/2018 A.THÔNG TIN THÀNH TỰU Máy scan 3D 'made in Vietnam' chụp ảnh như mắt người nhìn Ứng dụng Công nghệ thực tế ảo khám phá vùng sâm Ngọc Linh Việt Nam xây dựng cơ sở dữ liệu trực tuyến về sở hữu công nghiệp Ứng dụng công nghệ chế tạo dầm cầu bê tông dự ứng lực căng trước ở Việt Nam Thép cacbon siêu thấp ứng dụng trong công nghiệp Stent mạch vành "made in Vietnam" Máy chiếu tia plasma lạnh hỗ trợ lành vết thương Thiết bị quang đông cầm máu (APC) Chất chống ung thư từ rau dền Chất trị ung thư từ cây rừng Quảng Trị Hoạt chất diệt tế bào ung thư mạnh từ cây rừng Tây Nguyên Hai loài lan mới cho hệ thực vật Việt Nam Công nghệ sản xuất Polyme sinh học từ sinh khối, làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất túi ni lông phân hủy sinh học Máy gieo hạt tự động điều khiển từ xa Sử dụng đèn Led chong hoa cúc theo mô hình Esco Máy thu hoạch rau má bằng động cơ xăng Công nghệ nano ép tỏi chỉ đẻ một nhân Công nghệ xử lý nước thải bằng than hoạt tính sản xuất từ trấu Máy chặt, băm và phun xác cây bắp Giải pháp cải thiện môi trường nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng Máy lọc nước nhiễm phèn B.THÔNG TIN SÁNG CHẾ VIỆT NAM 2-0001769 Ổ cắm điện 1-0019332 Máy đào công sự cầm tay 1-0019361 Hệ thống phanh tự động dùng cho ôtô 1-0019455 Panen tường, hệ panen tường lắp ghép nhanh và phương pháp xây dựng nhà sử dụng các panen tường này 1-0019476 Phương pháp đánh giá chất lượng và cô lập lỗi dựa trên tính toán thông lượng xử lý vô tuyến của tuyến thu hệ thống enodeb 1-0019498 Thiết bị tập quần vợt 2-0001743 Gạch xi măng cốt liệu 2-0001754 Lan can bê tông lắp ghép
46
Embed
BẢN TIN THÁNG 8/2018 - lib.iuh.edu.vnlib.iuh.edu.vn/wp-content/uploads/2018/12/Bantin_thanhtuu_KHCNVN_08-2018.pdf · Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 1/46
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 1/46
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 8/2018
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Máy scan 3D 'made in Vietnam' chụp
ảnh như mắt người nhìn
Ứng dụng Công nghệ thực tế ảo khám
phá vùng sâm Ngọc Linh
Việt Nam xây dựng cơ sở dữ liệu trực
tuyến về sở hữu công nghiệp
Ứng dụng công nghệ chế tạo dầm cầu bê
tông dự ứng lực căng trước ở Việt Nam
Thép cacbon siêu thấp ứng dụng trong
công nghiệp
Stent mạch vành "made in Vietnam"
Máy chiếu tia plasma lạnh hỗ trợ lành
vết thương
Thiết bị quang đông cầm máu (APC)
Chất chống ung thư từ rau dền
Chất trị ung thư từ cây rừng Quảng Trị
Hoạt chất diệt tế bào ung thư mạnh từ
cây rừng Tây Nguyên
Hai loài lan mới cho hệ thực vật Việt
Nam
Công nghệ sản xuất Polyme sinh học từ
sinh khối, làm nguyên liệu cho quá trình
sản xuất túi ni lông phân hủy sinh học
Máy gieo hạt tự động điều khiển từ xa
Sử dụng đèn Led chong hoa cúc theo mô
hình Esco
Máy thu hoạch rau má bằng động cơ
xăng
Công nghệ nano ép tỏi chỉ đẻ một nhân
Công nghệ xử lý nước thải bằng than
hoạt tính sản xuất từ trấu
Máy chặt, băm và phun xác cây bắp
Giải pháp cải thiện môi trường nông
thôn vùng Đồng bằng sông Hồng
Máy lọc nước nhiễm phèn
B.THÔNG TIN SÁNG CHẾ VIỆT NAM
2-0001769 Ổ cắm điện
1-0019332 Máy đào công sự cầm tay
1-0019361 Hệ thống phanh tự động dùng
cho ôtô
1-0019455 Panen tường, hệ panen tường
lắp ghép nhanh và phương pháp xây
dựng nhà sử dụng các panen tường này
1-0019476 Phương pháp đánh giá chất
lượng và cô lập lỗi dựa trên tính toán
thông lượng xử lý vô tuyến của tuyến thu
hệ thống enodeb
1-0019498 Thiết bị tập quần vợt
2-0001743 Gạch xi măng cốt liệu
2-0001754 Lan can bê tông lắp ghép
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 2/46
2-0001765 Dụng cụ tập luyện vận động
khớp gối
2-0001766 Giá đỡ dùng cho xe côngtenơ
2-0001768 Vật liệu compozit nhựa gỗ và
phương pháp sản xuất vật liệu này
2-0001770 Môđun giàn khung mặt cầu
dùng cho cầu treo dây võng
2-0001771 Hệ thống neo cáp chủ dùng
cho cầu treo dây võng
2-0001774 Thanh ray hộp dẫn hướng
2-0001750 Phương pháp hoàn nguyên
chất xúc tác trong quá trình hydro hóa
liên tục glucoza thành sorbitol và quy
trình hydro hóa liên tục glucoza thành
sorbitol bằng cách hoàn nguyên chất xúc
tác
2-0001751 Quy trình sản xuất
vancomyxin hydroclorit
2-0001752 Chế phẩm sinh học dùng để
tái tạo thảm thực vật và quy trình sản
xuất chế phẩm này
2-0001767 Cơ cấu in trên quả dừa và
quy trình in trên quả dừa sử dụng cơ cấu
này
2-0001746 Quy trình sản xuất trà sinh
học từ gạo lức hữu cơ
2-0001747 Quy trình sản xuất trà sinh
học từ lá sen
2-0001749 Thực phẩm chứa tảo
Spirulina và quy trình sản xuất thực
phẩm này
2-0001761 Ngũ cốc dinh dưỡng và cà
phê hòa tan
2-0001763 Phương pháp sản xuất rượu
roi
2-0001764 Quy trình xác định mức độ
phân mảnh ADN của tinh trùng và kit
dùng cho quy trình này
1-0019428 Bộ khuôn dẫn hướng và cắt
cho máy cắt, tách, chẻ hạt điều tự động
2-0001744 Chậu trồng cây
2-0001745 Thùng trồng cây và hệ thống
thùng trồng cây
2-0001772 Hệ thống giám sát chất lượng
nước hồ nuôi thủy sản nhiều điểm đo
1-0019371 Chế phẩm vi sinh để xử lý
chất thải hữu cơ trong chăn nuôi
2-0001759 Hầm khí sinh học
2-0001762 Quy trình sản xuất phân hữu
cơ vi sinh từ rác thải và phế phụ phẩm
nông nghiệp
2-0001775 Hệ thống cấp nước ghép song
song dùng cho bồn rửa tay, bồn tiểu và
bồn cầu trong nhà vệ sinh
2-0001776 Phương pháp sản xuất nhiên
liệu diezen sinh học có chất lượng cao
C. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 3/46
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
Máy scan 3D 'made in Vietnam' chụp ảnh như mắt người nhìn
Tại phòng làm việc, Thạc sỹ Nguyễn
Ngọc Tú, Phòng Công Nghệ Quang cơ điện
tử, Trung tâm quang điện tử, Viện Ứng dụng
công nghệ đang chăm chú bên mẫu tượng gỗ
chạm khắc cầu kì được tạo bởi các nghệ nhân
làng nghề gỗ Phú Xuyên, Hà Nội. Tú dùng
máy scan 3D do Trung tâm chế tạo chụp ảnh
mẫu tượng gỗ để thiết kế ngược.
Từ ảnh chụp này, phần mềm sẽ dựng
bản vẽ thiết kế mẫu và lập trình chuyển cho
máy gia công điều khiển số (máy phay CNC)
thực hiện, hoàn thiện quy trình nhân bản các
sản phẩm có kích thước và hình dáng giống
hệt như vật mẫu đã được quét.
Ths Tú cho biết, máy scan này được
nhóm thiết kế dựa trên cơ sở lý thuyết hệ
thống thu nhận ảnh ba chiều dựa trên phương
pháp ánh sáng cấu trúc. Phương pháp này cho
phép thiết bị tìm điểm tương đồng trong
không gian mà không bị phụ thuộc vào màu
sắc của vật thể.
Khi đó nguồn sáng chủ động chiếu ánh
sáng lên mỗi điểm ảnh trên máy chiếu và mã
hóa từng điểm. Một lần đo, với thời gian một
giây thiết bị có thể ghi được một triệu điểm
ảnh. Máy có thể quét được cả mặt người, vân
tay.
Chính việc ghi nhận ảnh vật nhanh
giúp máy scan chụp lại ảnh vật giống như mắt
người nhìn thấy cho phép ứng dụng vào việc
thiết kế ngược các mẫu rất nhanh. Ví dụ trong
công nghiệp ô tô, có nhiều chi tiết tinh vi, cần
độ chính xác cao, song để thiết kế từ đầu sẽ
mất rất nhiều thời gian. Nay nhờ thiết bị này
chỉ cần chụp ảnh lại và thiết kế ngược ngay
lập tức bất kỳ một mẫu nào chỉ trong thời
gian rất ngắn.
“Máy scan 3D có thể ngay lập tức sao
chép mẫu vật, chi tiết cơ khí với nhiều chủng
loại kích thước và hình dáng phức tạp", Tú
nói và cho biết trước đây các doanh nghiệp
hoặc xưởng sản xuất đồ gỗ, gia công tượng
phải mất thời gian tới nhiều tuần cho việc
thiết kế các mẫu mới. Nhưng hiện nay giới
hạn về thời gian đã bị xóa bỏ khi máy có thể
chụp và tạo ra mẫu vật chỉ trong 3 đến 4 giờ
từ các mẫu có sẵn do các nghệ nhân tạo mẫu
thủ công.
TS Phạm Hồng Tuấn – Giám đốc
Trung tâm quang điện tử, chủ nhiệm đề tài
cho biết đây là phiên bản thứ năm, được nâng
cấp lên rất nhiều, thời gian ghi ảnh nhanh,
chất lượng ảnh 3D chính xác hơn. Thiết bị
được xây dựng với cấu hình hai camera hoạt
động như mắt người nên có thể tạo mẫu giống
y nguyên với độ chính xác gần như tuyệt đối.
Hiện loại máy tương tự của nước ngoài
bán với giá 15 đến 20 nghìn USD, nhưng máy
của Việt Nam giá chỉ bằng một nửa. Máy của
Việt Nam được đánh giá có độ chính xác
tương đương máy quét các nước tiên tiến
như: Hàn Quốc, Đức, Mỹ.
TS Tuấn cho biết, tùy theo yêu cầu của
khách hàng có thể thiết kế máy với giá thấp
hơn nữa. "Giá tiền khác nhau phụ thuộc vào
yêu cầu độ chính xác. Độ chính xác càng đòi
hỏi cao thì vật tư đầu vào thiết kế máy càng
phải tinh lọc", TS Tuấn nói.
Hiện nhóm nghiên cứu đã nắm được
công nghệ lõi nên khi có yêu cầu chỉ cần hai
tuần có thể chế tạo được chiếc máy scan 3D.
Đặc biệt do máy sản xuất ở trong nước nên có
thể bảo hành trọn đời cho sản phẩm.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 4/46
Ông Tuấn cho biết, một số doanh
nghiệp của Ninh Bình làm nghề chế tác tượng
đá đã đặt hàng muốn chuyển giao công nghệ
quét tượng đá để họ gia công. Ngoài ra có
nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước
ngoài cũng chuyển thiết kế để in thử mẫu,
mong muốn hợp tác.
Nền tảng công nghệ để thiết kế chế tạo
thành công máy scan 3D có được từ kết quả
của Đề tài Nghị định thư Việt Nam - Đài
Loan: “Nghiên cứu và phát triển hệ thống
phát hiện và nhận dạng đối tượng bằng công
nghệ 3D Vision” được thực hiện từ năm 2012-
2014. Trong năm 2017-2018, nhóm nghiên
cứu triển khai tiếp đề tài cấp bộ: "Nghiên cứu
phát triển hệ thống tự động kiểm tra chi tiết cơ
khí dựa trên ảnh 3D". Máy scan 3D có camera
với độ phân giải 20480x1552; Số điểm ảnh 3D
tối đa thu được 2.000.000; Khoảng cách từ đối
tượng tới thiết bị 250-350mm; Vùng thu nhận:
180x120 mm; Độ chính xác của phép đo:
0,01 mm~0.05 mm.
Nguồn: vnexpress.net, 03/08/2018 Trở về đầu trang
**************
Ứng dụng Công nghệ thực tế ảo khám phá vùng sâm Ngọc Linh
Cổng thông tin thực tế ảo du lịch vùng sâm Ngọc Linh.
Chiều 26/7, UBND huyện Nam Trà
My (Quảng Nam) khai trương cổng thông tin
thực tế ảo du lịch vùng sâm Ngọc Linh nhằm
quảng bá và phát triển du lịch Nam Trà My,
biến nó thành ngành kinh tế mũi nhọn và bền
vững cho địa phương.
Cổng thông tin do Viện Công nghệ
Thông tin và Truyền thông CDIT (Học viện
Công nghệ Bưu chính Viễn thông) xây dựng,
dựa trên công nghệ ảnh 360 độ hay còn gọi là
VR photo (Virtual Reality Photo).
Hình ảnh được thể hiện dưới hai dạng
chính là ảnh ảo trên cao - được thực hiện
bằng máy bay không người lái cho phép
người xem có cái nhìn toàn cảnh về mỗi địa
điểm. Ảnh ảo dưới mặt đất ghi lại chi tiết
cảnh vật xung quanh dưới góc nhìn tương tự
người trực tiếp tham quan.
Du khách truy cập vào
http://namtramy.gov.vn/web360 sẽ đến các
điểm để khám phá. Người xem sẽ có cảm giác
như đang đứng ở tại không gian đó và hoàn
toàn có thể quan sát xung quanh 360 độ ở bất
kỳ góc nhìn nào.
Ngoài ra, muốn kiểm tra sản phẩm
dược liệu của huyện Nam Trà My, du khách
có thể thực hiện bằng điện thoại thông minh.
Người mua chỉ cần quét mã vạch sẽ biết được
nguồn gốc xuất xứ cũng như cách sử dụng
sản phẩm.
Huyện miền núi Nam Trà My được
biết đến là thủ phủ của sâm Ngọc Linh.
Nghiên cứu đã chỉ ra thân và rễ củ sâm Ngọc
Linh chứa 52 saponin triterpen có tính kháng
khuẩn, kháng ung thư, axid béo… Giá trị này
của sâm Ngọc Linh gấp 3 lần sâm Triều Tiên;
hai lần sâm Mỹ và Trung Quốc.
Hiện vào mùng 1 hàng tháng, phiên
chợ sâm được mở tại trung tâm huyện, giá
loại 30 củ một kg khoảng 60-80 triệu đồng;
loại 10 củ một kg 80-100 triệu đồng. Riêng lá
sâm tươi 5,5-6,5 triệu đồng mỗi kg. Giá bán
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 5/46
tùy thuộc vào tuổi đời, sâm có nhiều năm tuổi
giá trị càng lớn.
Nguồn: vnexpress.net, 26/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Việt Nam xây dựng cơ sở dữ liệu trực tuyến về sở hữu công nghiệp
Giao diện cơ sở dữ liệu thông tin sở hữu công nghiệp
Với hệ thống cơ sở dữ liệu về sở hữu
công nghiệp, doanh nghiệp Việt sẽ chủ động
khi tiếp cận thông tin để nghiên cứu và
thương mại hóa tài sản trí tuệ.
Với mỗi doanh nghiệp, thông tin về sở
hữu công nghiệp có vai trò quan trọng trong
hoạt động sản xuất và kinh doanh, nhất là ở
môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Tuy nhiên tại Việt Nam, việc cung cấp
thông tin về sở hữu công nghiệp hiện còn hạn
chế, chưa kịp thời, mới phục vụ cho hoạt
động xác lập quyền, chưa đáp ứng được yêu
cầu của doanh nghiệp trong tiếp cận và khai
thác thông tin phục vụ nghiên cứu và triển
khai, đặc biệt là hoạt động nghiên cứu và khai
thác sáng chế.
Từ thực tế đó, Bộ Khoa học và Công
nghệ đã giao cho Viện Khoa học sở hữu trí
tuệ chủ trì dự án "Thiết lập, duy trì và phát
triển cơ sở dữ liệu thông tin trực tuyến về đối
tượng sở hữu công nghiệp và công cụ khai
thác phục vụ doanh nghiệp nhỏ và vừa".
Nghiên cứu thực hiện từ tháng 2/2017 đến
tháng 1/2019 với sự tham gia của đơn vị phối
hợp là Cục Sở hữu trí tuệ và Công ty MITEC.
Dự án sẽ cung cấp thông tin và tư vấn
cần thiết để doanh nghiệp đưa ra các quyết
định liên quan đến tài sản trí tuệ kịp thời,
đúng quy định; nghiên cứu giúp đưa thông
tin tin cậy về tình trạng pháp lý của tài sản trí
tuệ cho các doanh nghiệp Việt, giúp giảm
thiểu rủi ro khi tham gia thị trường khoa học
công nghệ.
Với dự án này, doanh nghiệp Việt sẽ
chủ động hơn khi tiếp cận thông tin sở hữu
công nghiệp phục vụ nghiên cứu và triển khai
thương mại hóa tài sản trí tuệ, nhất là sáng
chế, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội.
Ông Tạ Quang Minh, Viện trưởng
Viện Khoa học sở hữu trí tuệ cho biết nhóm
đã xây dựng được bản demo về Hệ thống cơ
sở dữ liệu và công cụ khai thác phục vụ
doanh nghiệp gồm bốn module là: Tra cứu cơ
sở dữ liệu, cập nhật thông tin, yêu cầu dịch vụ
và sàn giao dịch. Các module được thiết kế
với giao diện dễ sử dụng và hiện đại, dễ dàng
cho người sử dụng.
Trong giai đoạn tiếp theo, Viện cùng
đơn vị phối hợp sẽ vận hành thử nghiệm, hiệu
chỉnh và hoàn thành hệ thống cơ sở dữ liệu về
sở hữu công nghiệp. Sau đó hệ thống sẽ đi
vào hoạt động chính thức, phục vụ doanh
nghiệp trong việc bảo hộ, bảo vệ, quản trị và
phát triển các tài sản trí tuệ của mình.
Nguồn: vnexpress.net, 22/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 6/46
Ứng dụng công nghệ chế tạo dầm cầu bê tông dự ứng lực căng trước ở Việt Nam
Công nghệ chế tạo dầm bê tông dự ứng
lực (BTDƯL) căng trước được phát triển theo
hướng công xưởng hóa và cơ giới hóa do phù
hợp với việc chế tạo các cấu kiện định hình
trong nhà máy hoặc trên công trường.
Công nghệ chế tạo dầm bê tông dự ứng
lực (BTDƯL) căng trước được phát triển theo
hướng công xưởng hóa và cơ giới hóa do phù
hợp với việc chế tạo các cấu kiện định hình
trong nhà máy hoặc trên công trường. Ở Việt
Nam đã sử dụng nhiều công nghệ đúc trên bệ
đúc cố định và gần đây là các bệ đúc lưu động
lắp ghép và bán lắp ghép như đối với dầm I
cánh rộng, dầm chữ U và dầm chữ T ngược.
Tùy theo yêu cầu chế tạo và vận chuyển cụ
thể có thể áp dụng các phương án thiết kế bệ
đúc lưu động khác nhau cho các loại dầm trên
công trường.
Dầm BTDƯL căng trước thường sử
dụng các tao cốt thép đơn, lực căng trước
trong cốt thép được duy trì và truyền lên bê
tông dầm thông qua dính bám của cốt thép
với bê tông mà không cần kết cấu neo. Đối
với dầm sử dụng bê tông tính năng cao, các
bộ phận của dầm được giảm mỏng và áp dụng
hình thức bán lắp ghép như dầm I cánh rộng,
dầm chữ U và dầm chữ T ngược đều sử dụng
cốt thép tao đơn.
Công nghệ chế tạo dầm BTDƯL căng
trước, còn gọi là dầm tiền áp, được phát triển
theo hướng công xưởng hóa và cơ giới hóa do
những lý do sau:
- Yêu cầu phải có giá tạo lực chịu tải
trọng lớn;
- Hàng loạt dầm cùng được chế tạo
trên một bệ;
- Qui trình chế tạo dầm thực hiện theo
một dây chuyền sản xuất đồng bộ, rút ngắn
tối đa thời gian đúc một phiến dầm;
- Có thiết bị cẩu trục với sức nâng lớn
để hỗ trợ các công đoạn trong dây chuyền và
bốc xếp sản phẩm, giải phóng bệ đúc;
- Chủ động sản xuất, không phụ thuộc
thời tiết.
Tuy nhiên thực tế hiện nay, trong các
dự án việc sử dụng các dầm chế tạo tại bãi
đúc công trường vẫn chiếm ưu thế do giảm
được khâu vận chuyển dầm và vẫn sử dụng
dầm căng sau bằng các bó cáp dự ứng lực để
tránh chế tạo bệ căn.
Dầm bê tông thường được được chế
tạo trong nhà máy bê tông đúc sẵn hoặc trên
công trường theo một trong ba công nghệ sau:
Một số công nghệ chế tạo dầm
BTDƯL căng trước đã áp dụng ở Việt Nam
Công nghệ đúc trên bệ đúc cố định
BTCT, sử dụng cốt thép bó sợi song song
Đây là công nghệ của Liên Xô (cũ)
trang bị để sản xuất các dầm cầu cho các nhịp
dẫn cầu Thăng Long. Công nghệ này đúc các
dầm định hình chữ T chiều dài 24.5m và
33.7m sử dụng bó cốt thép gồm 24 sợi và 48
sợi đường kính ∅5mm cường độ cao và neo
quả trám. Bệ đúc dạng bể và bảo dưỡng bằng
hơi nước nóng nhiệt độ 70oC, thời gian gia
nhiệt kéo dài 36 giờ. Khi nguồn cốt thép tao
xoắn 7 sợi xuất hiện phổ biến, đồng thời công
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 7/46
nghệ kéo sau trên bãi đúc công trường được
triển khai rộng rãi công nghệ này không còn
được áp dụng.
Công nghệ đúc trên bệ đúc cố định
BTCT, sử dụng tao xoắn 7 sợi kéo đơn
Công nghệ này có trước năm 1975,
nhập khẩu từ Mỹ và phát triển mạnh cung cấp
nhiều loại dầm khẩu độ từ 12.7m đến 24.5m
cho các tỉnh từ Quảng Trị trở vào. Sau năm
1975, Nhà máy dầm Châu Thới, nay là Công
ty Cổ phần Bê tông 6 Châu Thới vẫn được
duy trì và phát triển. Bệ đúc dạng bể BTCT
nửa chìm, nửa nổi căng kéo cốt thép tao đơn
và bảo dưỡng gia nhiệt bằng hơi nước hoặc
ngâm nước nóng. Dầm đúc hiện nay là các
loại chữ I, chữ T, bản rỗng, chữ T ngược và
dầm SuperT.
Công nghệ đúc trên bệ cố định tại
công trường
Công nghệ này được triển khai sử
dụng cho các dự án có các nhịp dầm Super T.
Bệ đúc đồng thời là ván khuôn dầm và là bệ
căng cốt thép. Bệ neo là các dầm kích tựa vào
đầu bệ đúc. Bê tông dầm sử dụng phụ gia
cường độ sớm và được bảo dưỡng bằng tưới
nước. Chiều dài dầm đã đúc là 42m. Các bệ
đúc chỉ sử dụng một lần cho từng dự án cầu.
Sử dụng bệ đúc lưu động lắp ghép và
bán lắp ghép
Đối với các dầm bản rỗng khẩu độ 18m
thường được đúc trên công trường trên giá đúc
bằng thép. Giá đúc sử dụng ván khuôn thành
làm thanh chống cho bệ căng. Có thể ghép đôi,
ghép ba dầm trên một giá đúc hoặc chiều dài
giá đúc bằng hai lần chiều dài dầm để cùng lúc
căng cốt thép cho hai phiến dầm, sau đó dùng
máy cắt cốt thép ở vị trí tiếp giáp giữa hai
dầm. Đúc dầm chữ T ngược khẩu độ 15m trên
giá đúc bằng thép lưu động và bệ đúc bán lắp
ghép trên công trường.
Công nghệ chế tạo dầm BTDƯL căng
trước là một công nghệ phù hợp trong chế tạo
các cấu kiện định hình trong nhà máy hoặc
trên công trường. Ở Việt Nam đã sử dụng
nhiều công nghệ đúc trên bệ đúc cố định và
gần đây là các bệ đúc lưu động lắp ghép và
bán lắp ghép. Việc sử dụng bệ đúc lưu động
trên công trường cho phép sử dụng luân
chuyển, giảm chi phí bệ đúc, chi phí vận
chuyển và phù hợp với sản lượng dầm nhỏ và
vừa. Tùy theo yêu cầu chế tạo và vận chuyển
cụ thể có thể áp dụng các phương án thiết kế
bệ đúc lưu động khác nhau cho các loại dầm
trên công trường.
Nguồn: vista.gov.vn, 05/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Thép cacbon siêu thấp ứng dụng trong công nghiệp
Ở Việt Nam, nhu cầu về các loại thép
tấm các bon rất thấp (C < 0,02%) và các bon
siêu thấp (C < 0,005%) ở dạng cán nóng hay
cán nguội ngày càng tăng về số lượng và
chủng loại. Tuy nhiên, ngành thép Việt Nam
hiện chưa sử dụng công nghệ tinh luyện chân
không và không có thiết bị đúc phôi dẹt (hoặc
phôi tấm) nên vẫn chưa sản xuất được loại
thép cuộn này để cung cấp cho nhu cầu trong
nước. Trong trường hợp nhập khẩu để cung
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 8/46
cấp cho gia công chế tạo sản phẩm, cần có
chế độ gia công và tạo hình kết hợp với xử lý
nhiệt phù hợp thì mới nâng cao được cơ tính,
khai thác hiệu quả tính năng và đảm bảo tính
kinh tế.
Thép ULC bắt đầu được sản xuất rộng
rãi trên thế giới từ những năm 1970. Ban đầu,
hàm lượng các bon (C) trong thép ULC đạt
khoảng 200 ppm ( ͌ 0,02%); nhưng sau này, do
có sự xuất hiện của công nghệ tinh luyện chân
không nên hàm lượng C trong thép ULC
thường thấp hơn 50 ppm ( ͌ 0,005%) [1,2]. Nhờ
hàm lượng C siêu thấp nên thép ULC có tính
dẻo cao, tính dập sâu tốt, rất phù hợp cho chế
tạo các sản phẩm phải qua công đoạn gia công
tạo hình để ứng dụng trong công nghiệp ô tô,
thực phẩm, dầu khí, giao thông vận tải,…
Thép ULC có hàm lượng siêu thấp và
thường chứa một lượng nhỏ các nguyên tố
khác như mangan (Mn) và silic (Si) để tăng
độ bền; loại thép này được sử dụng phổ biến
trong chế tạo các chi tiết dập nguội cần độ
biến dạng lớn, yêu cầu ghép nối bằng công
nghệ hàn hoặc phải qua công đoạn sơn phủ bề
mặt. Do có hàm lượng C siêu thấp nên thép
có độ dẻo cao và có thể tiến hành gia công
biến dạng nguội; nhờ đó mà tiết kiệm được
năng lượng, tăng chất lượng bề mặt và tăng
độ bền cho sản phẩm mặc dù chỉ sử dụng một
lượng nhỏ các nguyên tố hợp kim.
Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu chế tạo
thép cacbon siêu thấp ứng dụng trong công
nghiệp” là một hướng đi mới, có ý nghĩa khoa
học và thực tiễn. Do Cơ quan chủ trì: Hội
KHKT Đúc Luyện kim Việt Nam phối hợp
cùng Chủ nhiệm đề tài: PGS. TS. Bùi Anh
Hòa để thực hiện. Mục đích và nội dung
nghiên cứu có tính cấp thiết đối với việc nấu
luyện được thép các bon siêu thấp ở trong
nước, sử dụng hiệu quả loại thép này trong
công nghiệp và góp phần vào sự phát triển
của ngành thép Việt Nam trong những năm
tới. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung
vào công nghệ nấu luyện thép các bon siêu
thấp, quy trình gia công biến dạng và chế độ
xử lý nhiệt để đạt được cơ tính phù hợp cho
mục đích dập sâu chế tạo sản phẩm.
Phương pháp nghiên cứu bao gồm
phân tích và tổng hợp tài liệu, lựa chọn quy
trình và tiến hành thí nghiệm, phân tích kiểm
tra thành phần, cơ tính và tổ chức tế vi của
mẫu thép. Trên cơ sở xử lý số liệu thí nghiệm
sẽ phân tích, so sánh và đánh giá khả năng
ứng dụng loại thép này vào thực tế Việt Nam.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
1) Đề tài đã chế tạo thép ULC với kết
quả như sau:
- Hàm lượng C: 0,0031÷0,0045 %;
- Cơ tính sau quá trình ủ kết tinh lại;
+ Giới hạn bền: 252÷351 MPa;
+ Giới hạn chảy: 164÷285 MPa;
+ Độ giãn dài: 42,9÷51,4 %;
2) Quy trình chế tạo thép ULC gồm
nấu luyện, tinh luyện chân không, gia công
biến dạng và xử lý nhiệt được mô tả như
trong hình 2.
3) Kết quả nghiên cứu đã công bố
trong Hội nghị khoa học cấp quốc gia “Luyện
kim và Công nghệ vật liệu tiên tiến” tổ chức
tại Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội vào
tháng 10/2016.
4) Tham gia đào tạo 01 nghiên cứu
sinh chuyên ngành Kỹ thuật vật liệu với đề tài
"Nghiên cứu chế tạo thép các bon siêu thấp
trong công nghiệp ô tô”.
Nguồn: vista.gov.vn, 10/7/2018 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 9/46
Stent mạch vành "made in Vietnam"
Stent mạch vành "made in Vietnam"
có chất lượng tương đương dòng nhập khẩu
nhưng giá thành chỉ bằng 70%.
"Nghiên cứu phát triển và làm chủ quy
trình công nghệ sản xuất bóng nong mạch và
stent phủ thuốc tại Việt Nam" thực hiện từ
năm 2013 của Công ty cổ phần nhà máy trang
thiết bị y tế USM Healthcare tạo ra bóng
nong động mạch vành, stent động mạch vành
phủ thuốc "made in Vietnam" đầu tiên.
Sản phẩm đã thử nghiệm lâm sàng
thành công và được các chuyên gia đánh giá là
niềm tự hào của ngành sản xuất thiết bị y tế kỹ
thuật cao của Việt Nam. Dự án thuộc Chương
trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến
năm 2020 của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Các chuyên gia nước ngoài chuyển giao công nghệ sản xuất stent tại nhà máy USM Healthcare
Đề án xuất phát từ thực tế gần 20 năm
qua thị trường thiết bị can thiệp tim mạch của
Việt Nam đều bị thống lĩnh bởi các sản phẩm
nhập khẩu, chủ yếu là Mỹ, Nhật Bản và châu
Âu. Những năm gần đây, sản phẩm của Ấn Độ
và Trung Quốc bắt đầu tràn ngập Việt Nam.
Với kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh
vực thiết bị y tế, bà Võ Xuân Bội Lâm, người
sáng lập công ty USM Healthcare mong muốn
tạo ra stent mạch vành "made in Việt Nam".
Năm 2013, bà mạnh dạn tìm đến Bộ
Khoa học và Công nghệ xin tham gia vào
chuỗi các dự án phát triển công nghệ cao. Sau
khi trình bày ý tưởng, lập đề án và chứng
minh được tính khả thi, bà Lâm được Bộ
khuyến khích và hỗ trợ một phần kinh phí
triển khai.
UBND TP HCM cũng đồng ý hỗ trợ
lãi suất thông qua chương trình kích cầu và
cho xây dựng nhà máy tại Khu công nghệ
cao, quận 9.
Sau 5 năm, trải qua nhiều khó khăn từ
xây dựng nhà máy, nghiên cứu và làm chủ
công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài,
tuân thủ đúng theo quy trình thử nghiệm của
Bộ Y tế, stent mạch vành và bóng nong mạch
của Việt Nam đã thành công sau khi thử
nghiệm trên động vật và người bệnh.
Việc thử nghiệm lâm sàng thực hiện
tại các bệnh viện lớn và uy tín như Chợ Rẫy,
Bệnh viện E, Nhân dân Gia định và Đa khoa
Trung Ương Huế… Sản phẩm được Bộ Y tế
và các bác sĩ đầu ngành về tim mạch ủng hộ
và tin tưởng.
"Tất cả kết quả thử nghiệm lâm sàng
trên bệnh nhân đều thành công, không bị các
biến cố bất lợi trong quá trình thực hiện thủ
thuật và theo dõi sau can thiệp đặt stent", báo
cáo khoa học của GS Nguyễn Thành Nhân,
Chủ tịch Hội tim mạch can thiệp TP HCM tại
Hội nghị Tim mạch can thiệp toàn quốc 2017
về stent do Việt Nam sản xuất.
Stent mạch vành.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 10/46
Các chuyên gia đánh giá, việc sản
xuất thành công sản phẩm của Việt Nam đã
mở ra thị trường vật tư can thiệp tim mạch
có chất lượng tương đương sản phẩm từ châu
Âu, Mỹ nhưng giá thành chỉ bằng 60-70%
giá nhập khẩu.
Điều này giúp các bệnh nhân điều kiện
khó khăn có cơ hội tiếp cận với các vật tư và
phương pháp điều trị hiện đại, giảm đáng kể
gánh nặng chi trả cho bảo hiểm y tế xã hội
Việt Nam. Ước tính hàng năm số tiền thanh
toán cho bảo hiểm y tế chi trả gần 1.000 tỷ
đồng cho sản phẩm stent và bóng nong mạch.
Với kết quả trên, USM Healhcare trở
thành nhà máy thứ hai ở Đông Nam Á sản
xuất được stent mạch vành và bóng nong
mạch vành. Nhà máy đạt được các chỉ tiêu
sản xuất trang thiết bị y tế như ISO 9001; ISO
13485; GMP- WHO. Hiện sản phẩm được
cấp phép lưu hành tại Việt Nam và xuất khẩu
châu Âu. Theo các chuyên gia đầu ngành về
tim mạch, stent của Việt Nam sẽ tìm được
chỗ đứng không chỉ trong khu vực mà còn ở
châu Âu và Mỹ.
Thời gian tới, các kỹ sư và nhà khoa
học của nhà máy sẽ tiếp tục theo dõi số lượng
lớn bệnh nhân tại nhiều trung tâm tim mạch
can thiệp trong và ngoài nước để có thêm dữ
liệu lâm sàng, từ đó khẳng định thêm chất
lượng của sản phẩm Việt Nam.
Nguồn: vnexpress.net, 19/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Máy chiếu tia plasma lạnh hỗ trợ lành vết thương
Tác động của plasma trong tiến trình liền vết thương.
Tiến sĩ Đỗ Hoàng Tùng, Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, tác giả
của máy chiếu tia plasma lạnh giải thích về cơ
chế này. Anh cho biết, để plasma lạnh giúp
liền thương có thể chia làm 3 tác động chính.
Thứ nhất, plasma tiêu diệt các vi sinh
vật cản trở quá trình liền vết thương như: vi
khuẩn, virus và nấm. Khi tiếp xúc với vi sinh
vật plasma có thể phá vỡ màng tế bào của
chúng nhờ sự bắn phá của ion và electron
cũng như sự ăn mòn của các gốc tự do, hoạt
chất. Các gốc tự do và tia cực tím còn có thể
xuyên qua màng tế bào của vi sinh vật để làm
mất hoạt tính của protein khiến cho vi sinh
vật không thể hoạt động.
Không chỉ tiêu diệt vi khuẩn đơn lẻ,
plasma còn phá hủy màng sinh học do vi
khuẩn tạo ra. Việc hình thành màng sinh học
giúp cho vi khuẩn chống chịu tốt hơn với điều
kiện bất lợi, khiến cho vết thương không thể
lành.
Không chỉ tiêu diệt vi khuẩn thường,
plasma còn tiêu diệt được vi khuẩn kháng
kháng sinh. Do plasma là tác nhân vật lý, và
đa tác nhân nên vi khuẩn cũng không thể biến
đổi để hình thành khả năng kháng plasma.
Đối với plasma, vi khuẩn thường hay vi
khuẩn kháng kháng sinh đều bị tiêu diệt.
Thứ hai, plasma có thể polime hoá
dịch cơ thể ở vết thương tạo nên một lớp
màng protein bảo vệ nền vết thương, chống vi
khuẩn tái xâm nhập.
Thứ ba, plasma giúp cơ thể giải phóng
các yếu tố tăng trưởng liền thương để vết
thương liền nhanh hơn. Có thể liệt kê các tác
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 11/46
động hỗ trợ đó là: tăng lưu thông máu, tăng
sinh tân mạch, tiêu diệt nội độc tố, giảm
viêm, giảm đau, tăng sinh tế bào, tăng sinh
collagen, kích thích tái tạo biểu bì.
Quá trình liền vết thương thường trải
qua ba pha chính là: pha viêm, pha tăng sinh
và pha tái tạo.
Trong quá trình này, plasma hỗ trợ rất
tốt cho hai pha đầu là pha viêm và pha tăng
sinh khiến cho các pha này diễn ra nhanh hơn
nên vết thương cũng liền nhanh hơn và diễn
tiến bình thường hơn, gián tiếp giúp pha tái tạo
thuận lợi, giảm hình thành co kéo tạo sẹo xấu.
Plasma là trạng thái ion hoá nên thành
phần của plasma luôn có chứa các hạt mang
điện là ion và electron tự do khiến cho plasma
có tính dẫn điện rất tốt. Bên cạnh các hạt
mang điện tích, là trạng thái có năng lượng
cao plasma còn phát sáng, chứa các gốc tự do
và hoạt chất. Các thành phần này khi tiếp xúc
với môi trường có thể biến đổi môi trường đó
tạo nên rất nhiều ứng dụng của plasma.
Plasma lạnh là plasma ở nhiệt độ
phòng nên có thể tác động trực tiếp lên vết
thương hở biến đổi môi trường vết thương để
giúp các vết thương hở liền nhanh hơn.
Nguồn: vnexpress.net, 21/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Thiết bị quang đông cầm máu (APC)
KS Lê Huy Tuấn giới thiệu các thiết bị tại Triển lãm thiết bị y tế tại Đà Nẵng tháng 7/2018
Những ngày cuối tháng 7, kỹ sư Lê
Huy Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm Công
nghệ laser thuộc Viện Ứng dụng Công nghệ,
đang chuẩn bị hoàn thiện thiết bị quang đông
cầm máu (APC) cho mô mềm, sẵn sàng cho
công tác nghiệm thu, bàn giao. Thiết bị này
được đưa vào ứng dụng sẽ giúp các bác sĩ
rảnh tay trong mỗi ca phẫu thuật vì sẽ hỗ trợ
tối đa cho việc cầm máu.
KS Tuấn mô tả, bản chất của kỹ thuật
là tạo ra luồng (dòng tia) plasma màu xanh
tím được ion hóa trong môi trường khí argon
- một nguyên tố hóa học có số thứ tự 18 trong
bảng tuần hoàn mà người ta vẫn gọi là khí trơ.
Bằng kỹ thuật điều khiển, với luồng
plasma sinh ra bởi điện, từ trường, nhưng
được khống chế, kiểm soát phương, hướng
chiếu chùm tia plasma giúp đạt thủ thuật tốt
nhất trong điều trị cầm máu. Đến nay các
tham số vật lý đã được tính toán tối ưu. Các
thí nghiệm cho thấy với những tia máu li ti ở
mô mềm đã được ngăn tối đa, thuận tiện cho
những ca phẫu thuật dạ dày, sản khoa...
Kể về quá trình thiết kế thiết bị cầm
máu, ông Tuấn cho biết đã đi đến các hãng để
mò mẫm, mua đủ loại van điều khiển áp suất
luồng khí của Đức, Mỹ và Hàn Quốc về làm
thử. Khi lựa chọn được các dòng thông số tối
ưu, KS Tuấn mới lắp đặt thành máy và thử
nghiệm cầm máu trên thịt động vật. Thấy thành
công ông mới vẽ, mô tả để chế tạo thiết bị.
“Đã có hàng trăm bản vẽ được hình
thành. Tôi cứ vẽ xong không ưng ý lại bỏ. Đến
giờ thì đã chọn được phương án tối ưu. Máy
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 12/46
có hình thức bắt mắt và dòng tia tạo màu laser
đẹp tôi mới cho lắp đặt”, ông Tuấn chia sẻ.
Ông luôn tâm niệm thứ theo đuổi trong
nghiên cứu ứng dụng phải chất lượng, an toàn
và hình thức phải đẹp. Đạt được những điều
này thì kết quả nghiên cứu sẽ được thị trường
đón nhận. Khi đó nhà khoa học, nhà nghiên
cứu sẽ có cơ hội tiếp tục theo đuổi đam mê.
Kỹ sư 60 tuổi tâm sự, sau khi hoàn
thiện và bàn giao thiết bị cầm máu sẽ thực
hiện tiếp khát vọng làm các thiết bị laser ứng
dụng trong công nghiệp. “Tôi muốn làm được
những chiếc máy cắt, hàn tự động bằng laser
của riêng mình”, KS Lê Huy Tuấn cho biết.
Nguồn: vnexpress.net, 26/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Chất chống ung thư từ rau dền
Trong rau dền cơm có hợp chất quý chống lại tế bào ung thư.
Cây rau dền cơm vốn được biết đến
với nhiều tác dụng như thanh nhiệt, lợi tiểu,
điều trị ong đốt, mụn nhọt. Ở các nước Ấn
Độ, Philippines, rau dền cơm được dùng điều
trị tiểu đường, thiếu máu. Các nghiên cứu về
sinh học, dược lý hiện đại đã chỉ ra dền cơm
có tác dụng chống ung thư, chống oxy hóa và
kháng khuẩn.
Đi tìm câu trả lời về các thành phần
hóa học có trong cây rau dền, nhóm nghiên
cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu và Phát
triển Thuốc, Viện Hóa sinh biển, Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã
thực hiện phân lập, tách chiết các hợp chất tự
nhiên trong cây rau dền cơm ở Việt Nam.
Trong hai năm nghiên cứu, từ mẫu rau
dền cơm thu được ngoài tự nhiên, các nhà
khoa học đã phát hiện hợp chất hiếm gặp có
thể gây độc lên tế bào ung thư.
TS Lê Nguyễn Thành, thành viên
nhóm nghiên cứu cho biết, hiện nhóm mới
dùng hoạt chất tách chiết từ rau dền gây độc
lên tế bào. Để kiểm nghiệm thực tế cũng như
xác định được cơ chế gây độc sẽ cần thêm
nhiều nghiên cứu. Đặc biệt, để tách chiết các
hoạt chất sạch có tính năng gây độc lên tế bào
ung thư với lượng lớn là khó khăn do lá rau
dền nhiều diệp lục và các chất khác.
Mặc dù vậy giới chuyên môn đánh giá,
kết quả nghiên cứu này góp phần bổ sung dữ
liệu về thành phần hóa học cũng như hoạt tính
sinh học của cây dền cơm ở Việt Nam. Từ đây
Việt Nam có thể định hướng cho các nghiên
cứu sâu hơn về hoạt tính sinh học của rau dền
cơm - loại rau xanh rất nhiều ngoài tự nhiên.
Cây rau dền cơm có tên khoa học là A.
lividus L. Hiện các nhà khoa học đã tiến hành
xác định thành phần acid béo gồm acid béo no
50,92% (myristic acid, pentadecanoic acid,
pamitic acid, stearic acid) và acid béo không
no 49,08% (linoleic acid, linolenic acid).
Có 7 hợp chất được phân lập và xác
định cấu trúc, gồm palmitic acid (AVH3),
triacontanol (AVH5), spinasterol (AVH2),
cycloeucalenol (AVH8), cholesterol (AVH9),
oleanolic acid (AVH4) và 3,4-seco-olean-12-
en-4-ol-3,28-dioic acid (AVE7). Ngoại trừ
7Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 13/46
hợp chất AVH2, các chất còn lại được báo cáo
phân lập lần đầu tiên từ cây dền cơm A. lividus
(A. viridis).
Đặc biệt, hợp chất 3,4-seco-olean-12-
en-4-ol-3,28-dioic acid (AVE7) là hợp chất ít
gặp, là sản phẩm chuyển hóa của oleanolic
acid bởi nấm hay mới chỉ được phân lập từ cây
Ligularia intermedia. Hợp chất AVE7 thể hiện
hoạt tính gây độc tế bào trung bình trên 4 dòng
tế bào ung thư KB, HepG2, SK-LU-1 và
MCF7với IC50 từ 32.03-43.45 μg/ml.
Nguồn: vnexpress.net, 27/06/2018 Trở về đầu trang
**************
Chất trị ung thư từ cây rừng Quảng Trị
Cây bù dẻ tía phân bố nhiều ở các khu rừng thứ sinh của Việt Nam.
PGS Nguyễn Thị Hoài, Trưởng khoa
Dược, Đại học Y Dược (Đại học Huế) biết
đến cây bù dẻ tía thật tình cờ. Chị kể, từ xưa
đã nghe chuyện những ông lang, bà mế vùng
dân tộc có bài thuốc chữa khỏi nhiều bệnh.
Để kiểm nghiệm, chị tìm về bản làng, thu
thập mẫu cây nghiên cứu. Chỉ có những bằng
chứng khoa học mới đủ thuyết phục về tác
dụng của cây dược liệu này.
Năm 2012, tại vùng núi Quảng Trị, chị
chọn lọc được 30 mẫu cây thuốc và mất hơn
một năm làm thí nghiệm phân tích, nghiên
cứu, sàng lọc các mẫu dịch chiết xuất từ cây.
Bằng nhiều phương pháp, đến nay
nhóm nghiên cứu công bố đã phân lập được
hai hợp chất quý có trong cây bù dẻ
tía. Chúng có hoạt tính mạnh, có thể ức chế
sự phát triển và diệt tế bào ung thư.
Chia sẻ với VnExpress, PGS Hoài cho
biết, nhóm nghiên cứu mới dừng ở mức thử
nghiệm lên tế bào ung thư trong ống nghiệm.
Để đến bước làm ra sản phẩm thuốc bán trên
thị trường còn một chặng đường rất dài, sẽ
phải qua các bước thử độc tính, làm trên
chuột thí nghiệm, các đánh giá lâm sàng.
“Các nghiên cứu trên ống nghiệm đã
cho kết quả rất tốt nhưng khi tác động lên cơ
thể sống cần thêm nhiều đánh giá. Phải xem
tác dụng của hoạt chất lên cơ thể sống ra sao?
Hoạt chất này chuyển hóa thế nào trong cơ
thể? Cơ thể có khả năng hấp thu được hay
gây ra độc tính...”, PGS Hoài nói và cho biết
hiện chưa có kinh phí để triển khai tiếp các
nghiên cứu này.
Chị lý giải, thông thường kinh phí nhà
nước cấp cho đề tài nghiên cứu sẽ là năm nay
cho đề tài này, năm sau đề tài khác. Vì thế
khó để nghiên cứu đến cùng ra sản phẩm có
thể thương mại. Mặc dù vậy chị vẫn mong
ước nhận được đầu tư để tìm ra bài thuốc quý
cho người dân sử dụng giá rẻ.
Đánh giá cao ý nghĩa của công trình
nghiên cứu này, Giải thưởng nghiên cứu khoa
học dành cho nữ giới L’Oreal - UNESCO vì
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 14/46
sự phát triển phụ nữ trong khoa học đã trao
giải thưởng Nhà khoa hoc nữ xuất sắc năm
2017 cho PGS Nguyễn Thị Hoài.
Chị hiện sở hữu 84 công trình nghiên
cứu đã công bố trên các tạp chí khoa học,
trong đó có 21 công trình công bố trên tạp chí
quốc tế chuyên ngành. Trong số này có nhiều
nghiên cứu về cây dược liệu có tác dụng ngăn
ngừa, ức chế các tế bào ung thư, oxy hóa.
Cây bù dẻ tía có tên khoa học là Uvaria
grandiflora Roxb. ex Hornem, thuộc
họ Annonaceae.
Bằng việc kết hợp các phương pháp sắc
ký, hai saponin glycosid thuộc nhóm tritecpen
là ardisiacrispin B (1) và sakurasosaponin (2)
đã được phân lập từ phân đoạn n-butanol của
cây bù dẻ tía. Cấu trúc của 2 saponin này được
xác định bằng phổ cộng hưởng từ hạt nhân
một chiều, hai chiều (1D, 2D-NMR), phổ khối
bụi điện tử (ESI-MS). Đây là lần đầu tiên hai
hợp chất này được phân lập từ chi bù dẻ
(Uvaria), họ na (Annonaceae).
Bù dẻ tía là cây dây leo thân gỗ, dài 8-
10m, cành non có lông tơ màu vàng nâu. Lá
lúc non có lông vàng, lúc già đổi màu nâu và
có màu ôliu lúc khô.
Cây có hoa thường mọc đơn độc, cuống
hoa dài 1-2 cm, có 2 lá dạng lớn. Cây ra hoa
vào tháng 4-6, có quả tháng 8-9 hàng năm. Bù
dẻ tía mọc trong rừng thứ sinh, ở độ cao dưới
300 m, phân bố tự nhiên ở nhiều nơi
như: Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam,
Khánh Hòa và Đồng Nai.
Ngoài ra, cây còn phân bố ở Ấn Độ,
Mianma, Trung Quốc, Xrilanka, Malaysia và
Indonesia.
.
Nguồn: vnexpress.net, 29/06/2018 Trở về đầu trang
**************
Hoạt chất diệt tế bào ung thư mạnh từ cây rừng Tây Nguyên
Cây đỉnh tùng trưởng thành đang được bảo vệ nghiêm ngặt tại Lâm Đồng.
Quá trình nghiên cứu 15 loài cây lá
kim ở Tây Nguyên, các nhà khoa học của Bảo
tàng Thiên nhiên Việt Nam và Viện Hóa học,
Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt
Nam đã phát hiện cây đỉnh tùng có hoạt tính
sinh học mạnh với các tế bào không có lợi
cho con người.
Nhóm nghiên cứu lựa chọn các cây:
đỉnh tùng, thông lá dẹt, kim giao núi đất và du
sam núi đất để phân lập, tìm kiếm hợp chất có
giá trị cho y học. Trong số 33 hợp chất từ bốn
loài cây này có hai chất galangnin và
isolariciresinol lần đầu tiên được phát hiện ở
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 15/46
cây thông lá dẹt và một chất mới
Norisoharringtonine từ vỏ cây đỉnh tùng.
Chất mới phát hiện từ cây đỉnh tùng có
khả năng ức chế mạnh khi thử nghiệm trong
phòng thí nghiệm lên các dòng tế bào ung
thư biểu mô (KB), ung thư gan (Hep-G2),
ung thư phổi (LU) và ung thư vú.
PGS Đinh Thị Phòng (Bảo tàng Thiên
nhiên Việt Nam, chủ nhiệm đề tài) cho
biết, nhiều loài cây trong tự nhiên có chất
kháng một số dòng tế bào ung thư nhưng hoạt
tính không mạnh và có thể suy yếu khi tác
động lên tế bào ung thư khi thử nghiệm
pilot. Riêng hoạt chất Norisoharringtonine có
tác dụng ức chế rất mạnh với bốn dòng tế bào
ung thư nêu trên.
Dẫu vậy để ứng dụng nghiên cứu vào
sản xuất thuốc là cả một chặng đường dài.
Sau kết quả ở phòng thí nghiệm, hoạt chất
mới cần qua các bước thử nghiệm trên chuột
và lâm sàng trên người.
Một khó khăn nữa là nguyên liệu đầu
vào vô cùng khan hiếm do hoạt chất mới chỉ
có hoạt tính mạnh khi tách chiết từ cây trưởng
thành từ 5-10 năm tuổi. Trong khi, cây đỉnh
tùng đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Tỉnh Lâm Đồng hiện chỉ còn 34 cây đỉnh
tùng, trong đó có năm cây trưởng thành.
Đây là kết quả đề tài nghiên cứu tính đa
dạng nguồn gen di truyền và thành phần hóa
học một số loài lá kim ở Tây Nguyên, đề xuất
giải pháp bảo tồn, sử dụng. Đề tài thuộc
chương trình khoa học và công nghệ phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên
(Chương trình Tây Nguyên 3) - đã nghiệm thu
đạt kết quả xuất sắc đầu năm 2017.
Cây đỉnh tùng - tên khoa
học Cephalotaxaceae - là một loài thực vật cổ.
Cây mọc rải rác trong tầng cây gỗ nhỏ
hay tầng cây bụi trong rừng rậm nhiệt đới
thường xanh mưa mùa ẩm, ở độ cao khoảng
600 - 1.500 m, nơi có ít ánh sáng, trên tầng đất
dày và ẩm.
Ở Việt Nam cây đỉnh tùng phân bố tại
Hà Tây (Ba Vì), Thanh Hóa (Lũng văn),
Quảng Trị (giữa Hòn Rao và A Dua), Thừa
Thiên Huế, Kontum (Đắc Glây, Đắc Tô: Ngọc
Pan, Sa Thầy), Gia Lai, Lâm Đồng (Di Linh:
núi Braian). Đảo Hải Nam (Trung Quốc) cũng
phát hiện có đỉnh tùng.
Gỗ đỉnh tùng có chất lượng cao, chịu
mối mọt, được sử dụng làm đồ mỹ nghệ cao
cấp. Hạt có dược tính, còn vỏ đỉnh tùng Hải
Nam dùng chữa sốt (Tripp, 1995).
Nguồn: vnexpress.net, 23/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Hai loài lan mới cho hệ thực vật Việt Nam
Loài mới được tìm thấy ở Lào Cai và
Khánh Hòa cho thấy hệ lan Việt Nam rất đa
dạng và phong phú.
Lan Gastrochilus setosus Aver. et
Vuong được tìm thấy ở rừng Si Ma Cai (Lào
Cai).
Thạc sĩ Trương Bá Vương, Viện sinh
học nhiệt đới (Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam), người công bố cho
biết, đây là loài lan nhỏ màu xanh vàng, đầu
môi hoa gần như tròn, cựa song song với bầu
noãn và có nhiều lông. Thân của chúng nhỏ
và được bao bọc bởi lá xếp gần sát chạm vào
nhau.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 16/46
Loài Gastrochilus setosus Aver. et Vuong.
Loài thứ hai là Podochilus truongtamii
Aver. et Vuong phát hiện ở Khu bảo tồn thiên
nhiên Hòn Bà (Khánh Hòa). Chúng có đặc
điểm như phát hoa dài khoảng 3,5 cm, gốc
môi có thành dựng thẳng, dày. Đây là loài thứ
hai của chi Podochilus ở khu vực này.
Podochilus truongtamii Aver. et Vuong
Việt Nam hiện có khoảng 1.243 loài lan.
Nguồn: vnexpress.net, 20/7/2018 Trở về đầu trang
**************
Công nghệ sản xuất Polyme sinh học từ sinh khối, làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất túi ni lông phân hủy sinh học
Túi nhựa (túi ni lông) là sản phẩm
được sử dụng phổ biến trên thế giới và tại
Việt Nam, nhưng đây lại là một trong những
nguồn ô nhiễm môi trường lớn và đặc biệt
nguy hại. Túi nhựa được làm từ nhựa PE, PP
không độc nhưng các chất phụ gia thêm vào
để làm túi nhựa mềm, dẻo, dai lại độc hại đối
với sức khỏe. Hơn nữa, nguyên liệu sản xuất
ra túi nhựa chủ yếu là hydrocacbon bắt nguồn
từ dầu mỏ, là nguồn nguyên liệu đang ngày
càng cạn kiệt. Vì những lý do trên, loại túi
nhựa có khả năng tự phân hủy, ít độc hại và
sản xuất từ nguồn nguyên liệu tái tạo là
polymer sinh học đã được sử dụng ở nhiều
nơi trên thế giới.
Polylactic acid (PLA) là loại polyme
sinh học được sử dụng để thay thế một phần
hoặc hoàn toàn PE trong quá trình sản xuất
nhựa, sản phẩm tạo thành có khả năng tự
phân hủy trong vòng từ 6 tháng đến 2 năm,
không gây ô nhiễm môi trường. Sau khi sử
dụng, PLA có thể được tái sinh bằng cách
thủy phân tạo ra các monomer sau đó tái tổng
hợp trở lại tạo thành PLA mới. Hơn nữa, PLA
không gây phát thải CO2 vì nó được sản xuất
từ nguồn nguyên liệu tái tạo.
Từ năm 2014 đến 2016, nhóm nghiên
cứu tại Phòng thí nghiệm trọng điểm Công
nghệ lọc, hóa dầu do KS. Đỗ Mạnh Hùng làm
chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
công nghệ sản xuất Polyme sinh học từ sinh
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 17/46
khối, làm nguyên liệu cho quá trình sản xuất
túi ni lông phân hủy sinh học”.
Đề tài đã thu được những kết quả sau:
- Đã nghiên cứu và xây dựng được qui
trình công nghệ tổng hợp xúc tác dị thể trên
cơ sở thiếc mang trên nhôm oxit, sử dụng
trong quá trình chuyển hóa sinh khối, tạo
thành lactic acid, với hàm lượng thiếc trong
xúc tác theo lý thuyết là 15% bằng phương
pháp tẩm ướt với dung môi nước. Xúc tác
được nung ở 500oC trong 3 giờ trong không
khí. Độ chọn lọc lactic acid của xúc tác xấp xỉ
30%, xúc tác có thể tái sử dụng sau ít nhất 3
vòng phản ứng.
- Đã nghiên cứu và xây dựng qui trình
công nghệ chuyển hóa sinh khối thành lactic
acid sử dụng xúc tác dị thể đã chế tạo với
điều kiện phản ứng trong hệ kín tại 190oC, áp
suất tự sinh 12 bar, trong 12 giờ, xúc tác
SnCl2/Al2O3, tỷ lệ xúc tác/nguyên liệu =
1/5,8.
- Đã nghiên cứu và xây dựng qui trình
công nghệ xử lý hiệu quả dịch lỏng sản phẩm
của quá trình chuyển hóa sinh khối làm
nguyên liệu cho quá trình tổng hợp PLA với 3
giai đoạn chính: chưng tách nước ở 70oC ở áp
suất chân không trong 1 giờ, hàm lượng lactic
acid tăng từ xấp xỉ 5% lên 50%; lactic acid
được chiết tách bằng dung môi 20% trioctyl
amine trong octanol-1 và hoàn nguyên bằng
nước nóng; lactic acid được tinh chế bằng
chưng cất ở 50oC, áp suất 1 kPa trong 4 giờ.
- Đã nghiên cứu và xây dựng qui trình
công nghệ tổng hợp PLA từ dung dịch lactic
acid 80% qua 3 giai đoạn: tổng hợp oligome
lactic aid, tổng hợp dilacton và trùng ngưng
mở vòng dilacton tạo PLA. Đã tổng hợp
9,975 kg PLA đạt yêu cầu với nhiệt độ chảy
mềm là 149,5oC, nhiệt độ hóa thủy tinh là
62,5oC.
- Đã nghiên cứu và chế tạo 11,34 kg
nhựa PLA đạt tiêu chuẩn làm nguyên liệu gia
công túi phân hủy sinh học với tỷ lệ trộn hỗn
hợp nóng chảy gồm 7,0 kg PLA; 3,0 kg PCL;
1,0 kg tinh bột sắn biến tính và 150 gam PEG.
Nhiệt độ chảy mềm là 149,5oC, nhiệt độ hóa
thủy tinh là 62,8oC. Đã nghiên cứu khả năng
phân hủy sinh học của mẫu nhựa chế tạo được,
kết quả cho thấy, vật liệu chế tạo được có khả
năng phân hủy sinh học sau 3 - 6 tháng.
Nguồn: vista.gov.vn, 10/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Máy gieo hạt tự động điều khiển từ xa
Máy gieo hạt tự động điều khiển từ xa
Máy gieo hạt tự động điều khiển từ xa
đã được 5 sinh viên Khoa Điện tử Trường CĐ
Kỹ thuật công nghiệp VN - Hàn Quốc (Nghệ
An) sáng chế và ứng dụng thành công vào
đầu năm 2018.
Điểm nổi bật của máy là có thể tự
động gieo hạt bằng phần mềm điều khiển từ
xa. Chia sẻ về ý tưởng sáng chế này, trưởng
nhóm Bùi Minh Bình cho biết máy sẽ giúp
người nông dân tất cả các công đoạn từ rạch
đất, gieo hạt, bón phân và lấp đất.
“Máy làm được đồng thời cả 4 chức
năng này. Tại mỗi chỗ mà hạt rơi xuống, máy
chỉ cho rơi từ 1 - 2 hạt giống. Đây là một
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 18/46
công đoạn vô cùng tỉ mỉ, nếu gieo hạt bằng
sức người sẽ mất nhiều thời gian. Thanh lấy
hạt có thể lấy được nhiều loại hạt giống như
ngô, đậu, lạc...”, Bình nói.
Theo nhóm sáng chế, với mô hình máy
hiện nay (2 hàng gieo hạt) thì năng suất đã
tăng tối thiểu 4 - 5 lần so với gieo bằng tay.
Nếu máy được sản xuất cỡ lớn (6 - 7 hàng
gieo) thì năng suất sẽ tăng cao hơn nhiều.
Đáng chú ý, máy được điều khiển từ
xa bằng phần mềm thông minh trên điện thoại
di động; đồng thời chạy bằng năng lượng điện
nên rất thân thiện với môi trường. Bình cũng
cho biết, để sản xuất được 1 chiếc máy, giá
thành đầu tư chỉ khoảng 7 - 10 triệu đồng,
trong khi giá thành các máy gieo hạt tự động
hiện có giá từ 25 - 30 triệu đồng. Đánh giá về
sáng chế này, thầy Nguyễn Trọng Nghĩa,
giảng viên khoa điện tử của trường, cho biết:
“Sáng chế đã được ứng dụng thành công trên
thực tiễn. Tiềm năng của sản phẩm còn rất
lớn nếu được đầu tư và sản xuất bài bản. Đặc
biệt sử dụng năng lượng điện và điều khiển từ
xa là một ứng dụng công nghệ mới, khác với
các sản phẩm hiện có trên thị trường”. Bình
cho biết thêm: “Hiện dự án đã hoàn thiện
nhưng nguồn kinh phí hạn chế. Chúng mình
mong phát triển dự án và đưa được sản phẩm
ra thị trường”. Hiện Bình đã gửi dự án tham
gia cuộc thi Ý tưởng khởi nghiệp trong thanh
niên Nghệ An do tỉnh tổ chức và Ý tưởng
khởi nghiệp sáng tạo trong thanh niên nông
thôn do T.Ư Đoàn tổ chức, với mong muốn
được hỗ trợ để khởi nghiệp.
Nguồn: vista.gov.vn, 26/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Sử dụng đèn Led chong hoa cúc theo mô hình Esco
Qua khảo sát và đánh giá mô hình sử
dụng đèn Led chong hoa cúc tại Lâm Đồng
theo mô hình Esco cho thấy, việc sử dụng đèn
Led giúp giảm đáng kể lượng điện tiêu thụ,
giúp nông dân giảm chi phí sản xuất, nâng
cao hiệu quả kinh tế.
Giảm đến 75% chi phí điện
Nông dân trồng hoa cúc ở khu vực
Thái Phiên, Trại Mát, TP. Đà Lạt từ lâu đã
thực hiện phương pháp chiếu sáng cho hoa
bằng bóng compact. Ông Nguyễn Hồng, nông
dân phường 12, cho biết, nếu không chong
đèn, khoảng 20 ngày hoa cúc sẽ cho nụ, cây
hoa ngắn, nụ bé, không bắt mắt, giá bán thấp.
Qua khảo sát tại Đà Lạt, có khoảng
3.000ha trồng hoa cúc các loại, hàng năm sử
dụng đèn compact loại 20W (tỷ lệ 1.000 bóng
đèn compact/ha) để thắp sáng 8 giờ mỗi đêm
và tiêu thụ lượng điện giá trị khoảng 30 tỷ
đồng/năm.
Gia đình ông Nguyễn Hoàng Thành,
làng hoa Thái Phiên, một vụ trồng hoa cúc sử
dụng đèn Led trên diện tích 1.000m², lắp đặt
mới 120 bóng đèn Led loại 10W, khoảng cách
giữa các bóng đèn là 3m x 3m, mỗi bóng đèn
được ráp thêm chóa phản quang, một rơle và bộ
hẹn giờ tự động với chu kỳ 15 phút sáng và 15
phút tắt; thời gian chiếu sáng 6 giờ/đêm. Kết
quả sau một vụ mùa sản xuất hoa cúc, gia đình
đã giảm chi phí tiền điện chiếu sáng trên cùng
diện tích từ 1,2 - 1,3 triệu đồng khi sử dụng đèn
compact xuống còn 300 - 500 ngàn đồng khi sử
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 19/46
dụng đèn Led. Đặc biệt chiều cao của cây cao
từ 1,2 - 1,3m và màu sắc, kích thước của đóa
hoa đều đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật đặt ra.
Bên cạnh đó, đèn LED có độ bền sử dụng từ
10-15 năm, nhưng đèn compact “tuổi thọ” tối
đa từ 3-5 năm.
Cần nhân rộng việc sử dụng đèn Led
vào trồng hoa cúc cắt cành
Ông Nguyễn Thế Nhuận, Giám đốc
Trung tâm nghiên cứu khoa tây rau hoa cho
biết: “Đèn Led (light-emitting diode) là một
công nghệ chiếu sáng bán dẫn, đang dần thay
thế cho các công nghệ chiếu sáng khác trong
sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Ưu điểm
vượt trội của đèn Led là có dải quang phổ
hẹp, cây có thể hấp thụ hầu hết lượng điện
năng ánh sáng phát ra. Do cấu tạo bằng các
chất liệu kim loại và plastic, nên đèn Led chịu
lực tác động khá tốt, không bị nứt, bể khi trời
mưa hoặc khi nhiệt độ thay đổi đột ngột như
các bóng đèn khác có vỏ bằng thủy tinh".
Theo thống kê của Trung tâm khuyến
nông, Sở Nông nghệp và Phát triển nông thôn
tỉnh Lâm Đồng, tổng số lượng đèn compact
loại 20W trên vùng chuyên canh hoa cúc Đà
Lạt hiện có khoảng 2,5 triệu bóng, với mỗi vụ
90 ngày sản xuất, có 30 ngày chiếu sáng,
chiếu sáng 8 giờ ban đêm, thành tổng điện
năng tiêu thụ là 12 triệu kWh. Với giá điện
trung bình 2.000 đồng/kWh, mỗi vụ sản xuất
hoa cúc, nông dân Đà Lạt phải chi trả 24 tỷ
đồng tiền điện. Nếu thay thế chiếu sáng tất cả
2.500ha diện tích hoa cúc Đà Lạt từ bóng đèn
compact loại 20W sang bóng đèn LED loại
5W thì mỗi vụ sản xuất, tổng chi phí tiền điện
sẽ giảm xuống 4 lần, chỉ còn 6 tỷ đồng.
Việc chuyển sang sử dụng bóng đèn
Led, thay thế đèn Compac để tiết kiệm điện
đang được các nhà vườn trồng hoa ở Đà Lạt
áp dụng, tuy đầu tư ban đầu là khá lớn nhưng
về lâu dài thì hiệu quả tiết kiệm vài chục lần
so với đèn compact.
Theo ông Nguyễn Phước Đức - Phó
Tổng giám đốc EVN SPC, ngay trong quý
III/2018 EVN SPC sẽ triển khai đề an hỗ trợ
nông dân sử dụng đèn Led chong hoa cúc tại
Lâm Đồng. Đây vừa là giải pháp tiết kiệm
điện rất cao vừa mang lại hiệu quả kinh tế, xã
hội, môi trường. Việc triển khai rộng đề án
cũng sẽ nâng cao nhận thức về tiết kiệm điện
của các hộ sản xuất hoa cúc cắt cành nói riêng
và người dân Lâm Đồng nói chung.
Nguồn: vista.gov.vn, 06/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Máy thu hoạch rau má bằng động cơ xăng
Máy thu hoạch rau má bằng động cơ xăng do nhóm giảng viên Trường Cao đẳng Công nghiệp
Huế chế tạo thành công.
Với mong muốn giúp bà con nông dân,
đặc biệt là người trồng rau má nâng cao năng
suất lao động và hiệu quả kinh tế, nhóm giảng
viên Trường Cao đẳng Công nghiệp (CĐCN)
Huế đã dày công thực hiện dự án nghiên cứu,
sáng chế ra máy thu hoạch rau má chạy bằng
động cơ xăng.
Giảng viên Nguyễn Hữu Chúc, Khoa
Cơ khí Trường CĐCN Huế, Chủ nhiệm đề tài
dự án máy thu hoạch rau má cho biết, tỉnh
Thừa Thiên- Huế là địa phương có hàng ngàn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 20/46
hộ dân tham gia sản xuất rau sạch theo tiêu
chuẩn VietGAP; trong đó nhiều nhất là diện
tích trồng rau má tập trung tại các xã thuộc
huyện Quảng Điền.
Trước khi thực hiện dự án, ông cùng
các cộng sự đã thực hiện khảo sát việc trồng
rau má ở xã Quảng Thọ (Quảng Điền). Xã
này có hơn 50ha rau má với sản lượng bình
quân mỗi năm thu hoạch 50 tấn/ha. “Nếu thu
hoạch bằng tay chỉ đạt sản lượng
150kg/người/ngày và chi phí thu hoạch tiêu
tốn hơn 2,5 tỷ đồng mỗi năm. Đó là chưa kể
đến việc cắt và thu gom rau sẽ dẫn đến việc
giẫm đạp luống rau, làm dập các gốc cây gây
hư hại. Để giúp người nông dân giảm bớt
kinh phí trong khâu thu hoạch rau má, hơn 2
năm qua, chúng tôi đã bắt tay nghiên cứu
thực hiện dự án chế tạo máy thu hoạch rau
má”, giảng viên Nguyễn Hữu Chúc bày tỏ.
Theo các giảng viên Trường CĐCN
Huế, ban đầu họ nghiên cứu và lắp ráp máy
cắt rau má chạy bằng năng lượng nguồn điện
từ bình ắcquy. Tuy nhiên qua quá trình thử
nghiệm, chiếc máy hoạt động cho năng suất
thấp, do xảy ra hiện tượng tồn ứ rau ở lưỡi cắt
nên buộc nhóm phải tiếp tục nghiên cứu cải
tiến các bộ phận của máy.
Qua nhiều lần thử nghiệm, cải tiến,
cuối cùng nhóm đã thành công khi chế tạo ra
máy thu hoạch rau má chạy bằng động cơ
xăng cho năng suất cao. Nói về chiếc máy
“đặc biệt” này, giảng viên Trần Đại Hiếu,
đồng tác giả thực hiện đề tài dự án cho hay:
“Máy thu hoạch rau má bằng động cơ xăng có
5 bộ phận chính gồm bộ phận cắt hai dao
chuyển động ngược chiều, bộ phận vơ gom
dùng rulo cuốn rau từ bộ phận cắt. Tiếp đó,
băng chuyền sẽ vận chuyển rau từ phần lên bộ
phận giỏ thu sản phẩm... Ngoài ra, máy còn
các bộ phận phụ trợ với khung máy, bộ phận
truyền động, bộ phận điều khiển và nguồn
động lực. Ưu điểm của máy là cho năng suất
gấp 8 đến 10 lần so với cắt thủ công, giải
phóng sức lao động con người. Nếu sử dụng
máy, chi phí khâu thu hoạch sẽ giảm còn
khoảng 45 triệu đồng cho 1ha rau má/năm”.
Lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ
tỉnh Thừa Thiên - Huế nhận xét, máy thu
hoạch rau má bằng động cơ xăng là dự án
khoa học công nghệ cấp tỉnh được các giảng
viên Trường CĐCN Huế thực hiện thành
công và bước đầu đã đem lại hiệu quả. Với
chi phí lắp ráp cho giá thành rẻ, gần 10 triệu
đồng/máy nên hiện có nhiều đơn vị, cá nhân ở
các tỉnh thành miền Trung và Tây Nguyên đặt
mua sản phẩm này.
Tin tưởng rằng sản phẩm công nghệ
này sẽ được sớm nhân rộng ra thị trường để
giúp ích cho bà con nông dân trồng rau má,
góp phần nâng cao năng suất lao động và hiệu
quả kinh tế đối với các hộ dân.
Nguồn: vista.gov.vn, 04/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 07/2018 21/46
Công nghệ nano ép tỏi chỉ đẻ một nhân
Từ giống tỏi tím truyền thống, nhờ kỹ thuật trồng thành tỏi một nhân
Tỏi một nhân thường chỉ có ở Lý Sơn
(Quảng Ngãi), nay các nhà khoa học Việt đã tìm
ra kỹ thuật trồng loại tỏi này ở nhiều vùng đất.
Tỏi một nhân hay còn gọi là tỏi cô đơn
vốn được người dân săn lùng vì nhiều dinh
dưỡng, mùi vị thơm ngon và rất dễ bóc vỏ. Ở
Lý Sơn do điều kiện tự nhiên có 30% lượng
tỏi trồng chỉ có một nhân. Để phục vụ cho
việc ủ làm tỏi đen, có thời điểm giá của loại
tỏi một nhân lên tới 1,2 triệu đồng một kg.
Nhận thấy nhu cầu của thị trường, thạc
sĩ Nguyễn Bình Phương, Giám đốc kỹ thuật
Công ty TNHH Công nghệ nano STV - đã có
ý tưởng tìm kỹ thuật trồng để tỏi chỉ sinh
trưởng một nhân.
Qua nghiên cứu, thạc sĩ Phương thấy
không có giống tỏi cô đơn mà do điều kiện tự
nhiên, sự "khuyết tật" trong quá trình sinh
trưởng khiến những củ tỏi vốn bình thường,
nay chỉ phát triển một nhân.
Để làm được chỉ có cách ức chế không
cho tỏi sinh trưởng theo đúng giai đoạn. Tức là
vào giai đoạn sinh đẻ (tỏi 5 đến 7 lá) chỉ cấp
lượng dinh dưỡng vừa đủ thay vì bón thúc
phân đạm như trước kia. Khoảng cách cây
trồng dày hơn, thường là 13 cm một gốc. Để
tỏi phát triển một nhân nên trồng khóm 2-3
cây.
Đặc biệt, ông cùng với các nhà khoa
học thuộc Viện Sinh học, Học viện Nông
nghiệp I nghiên cứu và sản xuất ra loại vi
lượng nano để cung cấp cho cây tỏi trong quá
trình sinh trưởng, giúp cây hấp thụ đúng
lượng dinh dưỡng cần thiết.
Kỹ thuật này được áp dụng trồng cho
sáu ha tỏi ở Gia Bình (Bắc Ninh) trong vụ
đông xuân 2017-2018. Nhóm nghiên cứu đã
sử dụng giống tỏi tía truyền thống của Việt
Nam, dựa trên nghiên cứu về tập tính sinh
trưởng và các giai đoạn phát triển của loại tỏi
này để có những tác động kịp thời bằng vi
lượng nano, ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, phân
bón… Kết quả cho thấy, tỷ lệ tỏi một nhân
đạt khoảng 76%, có khu vực đạt đến 86%.
Năng suất đạt bình quân 280 kg/sào.
Ông Phương tiết lộ, nhóm nghiên cứu
đã xây dựng được quy trình gồm các khâu:
chọn giống; xử lý diệt khuẩn và nấm bằng
nano bạc; chiếu xạ bằng ánh sáng bước sóng
ngắn; xử lý nhiệt cùng với nano vi lượng kích
thích tỏi phát triển mạnh; xử lý để diệt những
phôi yếu mới sinh; cung cấp ẩm phục hồi cho
sự phát triển của mầm.
Toàn bộ quy trình dựa trên cơ chế kích
thích sớm sự phát triển những phôi nhánh
trước khi trồng để củ tỏi thể hiện tính năng đẻ
nhánh sớm. "Khi những nhánh này vừa hình
thành, chưa kịp định hình thì điều kiện thay
đổi làm chúng thui chột, chỉ có một mầm phôi
chính khỏe có đủ sức sống để tồn tại qua điều
kiện này. Dinh dưỡng của củ tỏi sẽ được
chuyển sang để tập trung nuôi dưỡng phôi
này. Đây là thời điểm tốt nhất để mang đi
trồng", ông Phương chia sẻ.
Việc xử lý giống đã hạn chế được khá
nhiều, tuy nhiên trong quá trình sinh trưởng
tỏi vẫn có khả năng đẻ nhánh, do đó cần có
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 22/46
chế độ phun nano vi lượng hỗ trợ kìm chế kịp
thời. Điều kiện vi lượng của nano kèm theo
phân bón trung lượng và đa lượng sẽ không
phù hợp về mặt dinh dưỡng cho việc đẻ
nhánh mới, buộc cây thay đổi để thích nghi
qua giai đoạn này để tiếp tục phát triển mà
không cần đẻ nhánh.
Nguồn: vnexpress.net, 18/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Công nghệ xử lý nước thải bằng than hoạt tính sản xuất từ trấu
Vỏ trấu (RH) là một phế phẩm nông
nghiệp ít có tính kinh tế vì hàm lượng SiO2
cao trong RH không có nhiều lợi ích cho vật
nuôi cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe của
con người. Do đó, nguồn nguyên liệu này có
giá rất thấp khoảng 3000 đồng/kg. Tuy nhiên
RH lại có nhiều ứng dụng trong đời sống
hằng ngày như làm chất đốt, làm phân bón,
chất độn, sản xuất điện năng, làm vật liệu xây
dựng, sản xuất SiO2 - chất được sử dùng
nhiều trong lĩnh vực xây dựng, luyện thủy
tinh, lọc nước.
Trong những năm gần đây, không chỉ
RH mà than của nó cũng được dùng làm vật
liệu hấp phụ để tách các chất hữu cơ và vô cơ
như tách các chất màu hay kim loại nặng gây
ô nhiễm trong nước mang lại hiệu quả rất khả
quan. Chính vì lý do đó mà việc triển khai đề
tài - ”Nghiên cứu điều chế, biến tính than
hoạt tính từ vỏ trấu và ứng dụng trong xử lý
kim loại nặng và nước thải dệt nhuộm” do Cơ
quan chủ trì đề tài là Trường Đại học Tài
nguyên và Môi trường TPHCM phối hợp với
chủ nhiệm đề tài PGS.TS Phan Đình Tuấn
cùng thực hiện nhằm mục đích tận dụng
nguồn liệu rẻ tiền, dễ tìm và bảo vệ môi
trường. Đồng thời nâng cao giá trị kinh tế của
vỏ trấu (RH) là hết sức cần thiết. Đây là
nghiên cứu hứa hẹn sẽ tận dụng từ nông
nghiệp để sản xuất sản phẩm than hoạt tính
(AC) sử dụng cho xử lý môi trường một cách
hiệu quả nhất.
Qua thời gian nghiên cữu, đề tài đã
nghiên cứu thành công quy trình công nghệ
sản xuất than trấu, đồng thời hoạt hoá than
bằng phương pháp vật lý để tạo ra than trấu
hoạt tính có bề mặt riêng trên 700 m2/g.
Điều kiện than hóa:
Nhiệt độ than hóa: 500 độ C. Thời gian
than hóa: 60 phút. Khi đó khả năng hấp phụ
iodine và methylene blue đạt giá trị tương
ứng là 311.7 và 28.7 mg/g tương ứng.
Điều kiện hoạt hóa
Nhiệt độ: 800 độ C. Thời gian 30 phút.
Khi đó khả năng hấp phụ iodine và methylene
blue đạt giá trị tương ứng là 866 và 217.9
mg/g tương ứng
Điều kiện biến tính: Nồng độ HNO3 =
3 M Thời gian = 4 giờ.
Đề tài đã sử dụng than trấu hoạt tính
để nghiên cứu khả năng xử lý nước thải sinh
hoạt, nước thải có chứa kim loại nặng, nước
thải ngành sản xuất dược phẩm. Chế độ công
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 23/46
nghệ để xử lý các loại nước thải đặc trong này
như sau:
a1) Điều kiện xử lý Ni2+: pH = 6, hàm
lƣợng than = 14 g/l, thời gian = 100 phút,
Khi đó khả năng hấp phụ Ni2+ đạt
18.2 ±0.5 mg/g
a2) Điều kiện xử lý Cd2+: pH = 6, hàm
lƣợng than = 10 g/l, thời gian = 60 phút
Khi đó khả năng hấp phụ Cd2+ đạt
29.3± 0.4 mg/g.
a3) Điều kiện xử lý methylene blue:
pH = 8, hàm lượng than = 13 g/l, thời gian =
20 phút. Khi đó khả năng hấp phụ methylene
blue đạt 361.9±3.3 mg/g.
Xử lý nước thải sinh hoạt bằng than
hoạt tính:
Kết quả cho thấy khả năng xử lý TDS,
TSS trong nước thải của than hoạt tính từ vỏ
trấu đạt mức cho phép của quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về nước thải sinh hoạt QCVN14:
2008/BTNMT.
Xử lý chất nhuộm màu dược phẩm
erythrosin-b bằng than hoạt tính:
Than hoạt tính có hiệu quả trong việc
loại bỏ các Erythrosin-B từ thuốc nhuộm
trong dung dịch nước thải dược phẩm trong
giai đoạn nén viên, ép vỉ,... với điều kiện
trung tính. Các kết quả được thực nghiệm cho
thấy than hoạt tính này có thể dƣợc sử dụng
như một chất hấp phụ tốt tuy nhiên so với
than hoạt tính sản xuất từ cây Bael hay các
vật liệu aluminosilicat thì hiệu quả xử lý
Erythrosin B chưa bằng. Khảo sát cho thấy
liều lượng hấp phụ, nồng độ và thời gian có
ảnh hưởng về lượng thuốc nhuộm Erythrosin-
B được hấp phụ trên bề mặt than hoạt tính.
Xem xét các hệ số của các giá trị thu được
biểu diễn bằng các mô hình đường đẳng nhiệt
Freundlich, nồng độ Erythrosin-B sau hấp
phụ thấp hơn giá trị chuẩn cho thấy rằng quá
trình này có tính khả thi và tự phát, tỏa nhiệt
và giảm tính ngẫu nhiên tại giao diện chất rắn
- chất tan.
Khả năng hấp phụ ammonia của than
hoạt tính biến tính bằng acid nitric.
Khả năng xử lý ammonia của than biến
tính HNO3 không đạt hiệu quả cao, do đó
chúng tôi đề xuất điều kiện biến tính lần 2 để
tăng hiệu suất hấp phụ: sau khi đã biến tính
THT bằng HNO3 nồng độ 3M, ngâm than
bằng dung dịch KOH 0,5M trong vòng 4
tiếng, rửa than đến khi pH cân bằng và đem
sấy khô trong 24h. Tiến hành khảo sát tải
trọng hấp phụ ammonia cực đại của than biến
tính KOH đạt kết quả khá tốt, xấp xỉ 12,21
mg/L. Nghiên cứu diều kiện tối ưu để hấp
phụ ammonia, ta được nồng độ ammonia ban
đầu 40mg/L, thời gian hấp phụ 30 phút.
Quy trình công nghệ sản xuất than hoạt
tính từ trấu.
Nguồn: vista.gov.vn, 17/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 24/46
Máy chặt, băm và phun xác cây bắp
Sau thành công với sáng chế máy Lột
võ, tách hạt bắp; máy Hút bùn đa năng; máy
Dập rèn, ông Trần Công Nẻo, lại làm nên kỳ
tích khiến nông dân miền Tây khâm phục hơn
bởi có thêm máy chặt, băm và phun xác cây
bắp. Với sáng chế độc đáo này, ông Nẻo được
tôn vinh là Vua sáng chế máy nông nghiệp.
Phải mất gần 2 năm ông Trần Công
Nẻo ở xã Phước Hưng huyện An Phú tỉnh An
Giang mới hoàn chỉnh các công đoạn và cho
ra mắt chiếc máy Chặt, băm và phun xác cây
bắp để làm thức ăn nuôi bò sữa. Ông Võ Văn
Ché, nông dân huyện An Phú tỉnh An Giang
sau khí ngắm nhìn chiếc máy vừa sáng chế có
nhận xét “Máy này thay thế sức người quá
tưởng tượng. Trước đây người ta mua trái, bẻ
trái chặt đốt đồng gây khói ô nhiễm môi
trường mà tốn công sức nhiều. Từ khi thấy
máy Sáu Nẻo lên đây chặt, băm và cho vô bao
rất sạch sẽ tôi thấy mê quá”.
Trước đây nông dân huyện An Phú sau
khi thu hoạch bắp phải dùng tay chặt cây, mất
nhiều thời gian, cứ 6 người làm giỏi 1 ngày
vừa chặt vừa đem về cơ sở băm nhuyễn ra thì
một giờ chỉ được được 1 tấn thân bắp, từ khi
có máy thay thế nông dân đỡ tốn công hơn vì
sản phẩm “ba trong một” có thể ra đồng bất
cứ giờ nào chỉ cần nổ máy 01 giờ có thể nhai
nhuyễn 10 tấn nguyên liệu là thân cây bắp,
vừa nhanh chóng, vừa tiện lợi vì nông dân sau
khi bán bắp lại được máy dọn sạch ruộng,
không phải thuê nhân công đốn thân, hay đốt
đồng. “Thấy máy của Sáu Nẻo cắt cây bắp
rất tốt, đạt chỉ tiêu. Ở đây người ta tôn vinh
Sáu Nẻo là vua sáng chế các loại máy của
nhà nông, nhà nông cần máy gì thì đên Sáu
Nẻo đều làm được hết” - ông Nguyễn Ngọc
Xiêm ở Phước Hưng nói.
Với động cơ máy 65 mã lực, sáng chế
độc đáo này đã rút ngắn thời gian hơn so với
lao động thủ công khi nông dân phải chặt cây,
băm nhuyễn rồi vô bao vận chuyển vào nhà
máy làm nguyên liệu ủ chua. Ông Trần Công
Nẻo, Nhà sáng chế máy nông nghiệp huyện
An Phú tỉnh An Giang chia sẻ thêm "Ưu điểm
là nhanh, lẹ chặt sạch nhưng rất ít tốn công
nhân. Nếu khách hàng đặt số lượng bắp ủ
chua thì chúng tôi chạy thẳng bơm vào thùng
luôn khỏi vô bao”.
Với sáng chế đa năng này, ông Nẻo đã
ăn nên làm ra vì phế phẩm từ cây bắp được
ông thu mua, mặt khác vừa làm theo đơn đặt
hàng sản xuất máy phục vụ cho nền nông
nghiệp xanh, sạch, đẹp. Tuy nhiên không
bằng lòng với những gì đã có, ông đã thiết kế
và chuẩn bị cho ra đời thêm chiếc máy cải
tiến hơn với tốc độ nhanh hơn, ông Nẻo cho
biết thêm.
Nguồn: tuyengiaoangiang.vn,
15/05/2018 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 25/46
Giải pháp cải thiện môi trường nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng
Vùng đồng bằng sông Hồng (VĐBSH)
là một trong những vùng lãnh thổ quan trọng
nhất của Việt Nam, có mật độ dân số cao nhất
và có một vị trí chiến lược đối với việc phát
triển kinh tế-xã hội trong cả nước. Tính đến
năm 2016, VĐBSH bao gồm 11 tỉnh, thành
phố, có tổng diện tích 21.060 km2 với dân số
20,9 triệu người, trong đó khu vực nông thôn
VĐBSH chiếm phần lớn diện tích (92,21%
diện tích toàn vùng) với hơn 13,7 triệu người
(66,5% dân số toàn vùng).
Nông thôn VĐBSH có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình phấn đấu trở thành nước
công nghiệp hóa vào năm 2020 của Việt
Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích
cực như đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá với số
lượng khu công nghiệp, cụm công nghiệp,
khu đô thị mới tăng nhanh, gia tăng năng
suất, sản lượng cây trồng, gia tăng hoạt động
dịch vụ nông thôn… đã và sẽ làm nảy sinh
nhiều vấn đề tiêu cực,gây ảnh hưởng mạnh
mẽ đến các hệ sinh thái nông nghiệp và nông
thôn, ảnh hưởng đến tính năng sản xuất của
các thành phần môi trường, năng suất cây
trồng, vật nuôi, cản trở sự phát triển bền
vững. Vấn đề ô nhiễm môi trường sẽ phổ biến
rộng rãi, len lỏi trong mọi hoạt động sản xuất
và sinh hoạt thường nhật của người dân nông
thôn. Và quan trọng nhất sẽ ảnh hưởng xấu
đến sức khoẻ cộng đồng nông thôn và hậu
quả lâu dài, không những đối với thế hệ hiện
tại mà cả thế hệ mai sau. Trong đó: Vấn đề
đầu tiên cần quan tâm phải kể đến tình trạng
sử dụng không đúng kỹ thuật hóa chất trong
nông nghiệp như phân bón hóa học, thuốc bảo
vệ thực vật được sử dụng bừa bãi. Hiện trạng
sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp
cao hơn mức khuyến cáo và không tuân theo
định mức của khuyến nông địa phương là phổ
biến tại các địa phương nghiên cứu. Kết quả
cho thấy việc sử dụng phân bón cao hơn
khuyến cáo của khuyến nông. Trong đó, với
vụ xuân lượng với đạm tăng từ 0,4 đến 1,4
lần; lân tăng từ 0,2 đến 1,4 lần và ka li tăng từ
0,8 đến 1,4 lần; đối với vụ mùa với đạm tăng
từ 0,4 đến 1,3 lần; lân tăng từ 0,3 đến 2,9 lần
và ka li tăng từ 0,7 đến 1,3 lần.
Việc sử dụng không đúng liều lượng,
bón phân không cân đối, chất lượng phân bón
không đảm bảo sẽ gây sức ép đến môi trường
nông thôn, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi
trường đất và nước của khu vực, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sức khỏe của con người. Tuy
làng nghề có lịch sử hình thành và phát triển
hàng trăm năm qua nhưng đến nay vẫn mang
tính tự phát, nhỏ lẻ. Sản xuất tại các làng nghề
chủ yếu vẫn là sử dụng các thiết bị thủ công,
đơn giản, công nghệ lạc hậu, ý thức của người
dân trong bảo vệ môi trường và bảo vệ sức
khỏe còn hạn chế. Theo một khảo sát gần đây,
có đến 98% các làng nghề chế biến nông sản
thực phẩm ở vùng đồng bằng sông Hồng có
chỉ tiêu quan trắc chất lượng nước thải vượt
tiêu chuẩn cho phép rất nhiều lần. Do đó, môi
trường nông thôn đã, đang và sẽ nảy sinh
nhiều vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu tới
chất lượng môi trường đất, nước, không khí và
sức khoẻ của dân làng nghề. Chính vì vậy, cần
tiến hành đánh giá hiện trạng mức độ ô nhiễm
để có giải pháp phù hợp, bảo vệ môi trường và
con người nơi đây.
Hoạt động dịch vụ tại các chợ nông
thôn, trung bình mỗi ngày một người thải ra
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 26/46
0,3 - 0,5 kg chất thải. Với dân số khu vực
nông thôn là 13,7 triệu người thì lượng rác
thải ước đạt 4,11-6,85 triệu tấn/ngày, lượng
chất thải này nếu không được thu gom vận
chuyển tới nơi tập trung, xử lý hợp vệ sinh sẽ
là yếu tố gây ô nhiễm môi trường đất, nước
và không khí.
Tài nguyên đất bị suy thoái trầm trọng
(suy thoái vật lý; suy thoái hoá học; mất chất
dinh dưỡng khoáng và chất hữu cơ; đất bị
chua; ô nhiễm đất cục bộ do chất độc có
nguồn gốc hóa học, làng nghề), làm biến đổi
các tính chất đất và không còn tính năng sản
xuất. Nguồn tài nguyên nước bị ô nhiễm
nghiêm trọng. Hàng loạt những dòng sông
quê sẽ đổi mầu vì ô nhiễm, không còn bóng
dáng những loài vật thủy sinh như tôm, cua,
cá, ốc, ếch. Trên khắp các vùng nông thôn
mọc lên những làng ung thư, làng bệnh tật.
Vùng ĐBSH, vùng đất trù phú đang đứng
trước những thử thách lớn, đang phải đối mặt
với hàng loạt vấn đề môi trường cần giải
quyết. Tuy nhiên, nếu quá vội vàng trong việc
áp dụng các giải pháp chính sách đầu tư, đổi
mới thiếu quy hoạch kinh tế - xã hội và môi
trường trên cơ sở nghiên cứu khoa học chưa
thấu đáo và hệ thống thì tất yếu dẫn đến
những hậu quả đáng tiếc. Hậu quả đó có thể
có lợi cho kinh tế trước mắt nhưng lại có hại
lâu dài, nền kinh tế sẽ bị suy thoái và không
bền vững. Do vậy, việc đánh giá đúng hiện
trạng môi trường nông nghiệp, làng nghề và
dịch vụ của vùng ĐBSH để từ đó đề ra các
kiến nghị giải pháp để cải thiện môi trường
nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng là một
đòi hỏi bức thiết cần được quan tâm giải
quyết. Đó chính là lý do mà Cơ quan chủ
quản Viện nghiên cứu và phát triển Vùng
cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài: ThS.
Nguyễn Tùng Cương thực hiện đề tài
“Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và đề xuất
giải pháp cải thiện môi trường nông thôn
vùng Đồng bằng sông Hồng”.
Sau thời gian nghiên cứu, nhóm nghiên
cứu rút ra được những kết luận như sau:
- Vùng đồng bằng sông Hồng có điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội đặc thù đã hình
thành nên các khu vực nông thôn đặc trưng và
định hướng khác nhau. Đó là việc hình thành
nên các vùng nông thôn chuyên sản xuất cây
nông nghiệp như lúa tại Thái Bình, Hà Nam,
Nam Định; cây công nghiệp đậu tương tại Hà
Nội, Vĩnh Phúc, rau hoa quả tại Hà Nội, Hải
Dương, Hưng Yên; các sản phẩm nông
nghiệp đa dạng về chủng loại và có thế mạnh
của cả nước.
Với tổng diện tích tương đương hơn
70% diện tích toàn vùng, nông thôn vùng
ĐBSH giữ vai trò là vanh đai xanh, góp phần
giữ gìn cân bằng sinh thái giữa vùng nông
thôn và thành thị. Nông nghiệp nông thôn
vùng ĐBSH giữ vị trí trọng tâm, đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia và cung cấp nguyên
liệu, hàng hóa cho công nghiệp và xuất khẩu.
Vùng đồng bằng sông Hồng là vùng
đất chật, người đông, diện tích của vùng
chiếm 6,3% diện tích đất của cả nước và dân
số chiếm 22,8% dân số cả nước (20,9 triệu
người), mật độ dân số cao nhất cả nước 994
người/km2. Trong đó, khu vực nông thôn ở
vùng ĐBSH đóng vai trò rất quan trọng, với
dân số nông thôn chiếm 13,74 triệu người
(chiếm 14,98% dân số cả nước; 66,7% dân số
vùng ĐBSH), nông thôn là nơi cung cấp
nguồn lao động, lương thực, thực phẩm chủ
yếu cho vùng và cho cả nước.
Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm
2015 có sự chuyển dịch và biến động rõ rệt
dân số khu vực thành thị và nông thôn. Số
dân thành thị có xu hướng gia tăng và dao
động tăng từ 3,6% đến 24%, ngược lại ở khu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 27/46
vực nông thôn nhiều nơi số dân nông thôn có
xu hướng giảm từ 0,29% đến 15,38%.
Các vấn đề môi trường phát sinh từ
khu vực nông thôn vùng ĐBSH đến từ các
hoạt động dân sinh với tổng lượng CTR sinh
hoạt phát sinh từ 6,85 triệu tấn/ngày đến 9,59
triệu tấn/ngày. Các hoạt động trồng trọt làm
phát sinh lượng lớn phụ phế phẩm là hơn 7
triệu tấn rơm rạ; 4,2 triệu tấn thân và lõi ngô;
gần 200.000 tấn phụ phẩm từ khoai lang; gần
50.000 tấn phụ phẩm từ đậu tương và lạc và
lượng lớn bao bì phân bón, HCBVTV.
Tình trạng sử dụng phân bón chủ yếu
là phân hóa học cao hơn so với khuyến cáo
của khuyến nông vẫn là phổ biến. Việc sử
dụng các HCBVTV đã làm tích lũy một số
các nhóm HCBVTV trong đất nhưng vẫn ở
mức cho phép.
Trong hoạt động chăn nuôi, chăn nuôi
lợn với quy mô hộ gia đình và gia trại vẫn là
chủ đạo tại vùng ĐBSH. Trong 4 tỉnh điều
tra, loại hình chăn nuôi hộ gia đình vẫn là chủ
yếu, chiếm 76%, chăn nuôi trang trại chiếm
34% và chăn nuôi tập trung vẫn chiếm tỷ lệ
thấp 0,05% . Hoạt động chăn nuôi thải ra hơn
14 nghìn tấn CTR/ngày, kết quả nghiên cứu
cho thấy, đối với phân gia súc: xử lý bằng
biogas chiếm 28,25%, Ủ phân khô chiếm
13,5%; sử dụng trong nông nghiệp chiếm
8,75%; không xử lý thải vào môi trường
chiếm 52%. Đối với nước thải gia súc: xử lý
bằng biogas là biện pháp phổ biến chiếm
63,75%; không có công trình xử lý nước thải
tập trung; lượng nước thải không được xử lý
chiếm 36,25%. Hoạt động chăn nuôi là
nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất,
nước và không khí tại các khu vực này.
Vùng đồng bằng sông Hồng có 2.433
làng có nghề trên tổng số 4.575 làng nghề của
cả nước, chiếm tới 53,18%. Làng nghề phân
bố rộng khắp 11 tỉnh của đồng bằng sông
Hồng với các quy mô khác nhau. Kết quả
nghiên cứu tại một số loại hình làng nghề như
chế biến nông sản thực phẩm tại Cát Quế (Hà
Nội); Khắc Niệm (Bắc Ninh); Làng nghề tái
chế tại Minh Khai (Hưng Yên); Rùa Thượng
(Hà Nội); Làng nghề dệt nhuộm Vạn Phúc
(Hà Nội), Thái Phương (Thái Bình) cho thấy
các hoạt động sản xuất từ các làng nghề chủ
yếu vẫn là thủ công nên vẫn là các nguồn gây
ô nhiễm môi trường cục bộ, tùy thuộc vào
từng loại hình làng nghề mà mức độ và tác
động ô nhiễm tới môi trường khác nhau.
Về hiện trạng chất lượng môi trường
nông thôn vùng ĐBSH, dựa trên các số liệu
quan trắc từ 2011-2015 của các địa phương
vùng ĐBSH và một số kết quả quan trắc của
đề tài có thể có một số nhận xét như sau:
+ Chất lượng môi trường không khí
khu vực nông thôn còn khá tốt, nhiều vùng
chưa có dấu hiệu bị ô nhiễm. Hiện tượng ô
nhiễm cục bộ chỉ được ghi nhận tại một số
khu vực làng nghề và khu vực chăn nuôi.
+ Môi trường nước mặt tại hầu hết các
vùng nông thôn đều đáp ứng tiêu chuẩn sử
dụng cho tưới tiêu và các hoạt động khác.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
nguồn nước này nhiều nơi đang bị ô nhiễm
cục bộ bởi các chất hữu cơ có nguồn gốc từ
hoạt động dân sinh.
+ Môi trường đất tại một số địa
phương có dấu hiệu của sự tích lũy kim loại
nặng và HCBVTV trong đất do hoạt động
nông nghiệp, tuy nhiên về giá trị nồng độ
chúng đều nằm trong tiêu chuẩn cho phép.
Vê vấn đề cơ chế, chính sách trong
quản lý môi trường nông thôn: trong những
năm qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến
vấn đề này. Các cơ chế chính sách đã được
điều chỉnh thông qua nhiều văn bản quy phạm
pháp luật, thông qua việc lồng nghép vào các
văn bản quản lý môi trường TW và địa
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 28/46
phương. Tuy nhiên, các cơ chế chính sách
trong việc quản lý môi trường nông thôn vẫn
còn nhiều tồn tại, bất cập chưa được giải
quyết ở các mức độ và cấp độ quản lý khác
nhau. Văn bản quy phạm pháp luật chưa đầy
đủ, thiếu tính đồng bộ. Một số quy định pháp
luật có liên quan đến bảo vệ môi trường nông
thôn còn thiếu khả thi.
Các mô hình xử lý môi trường nông
thôn thực hiện trong đề tài không phải là mới
nhưng đã góp phần giải quyết được một số
vấn đề môi trường bức xúc tại địa phương, đó
là việc thu gom rác thải sinh hoạt cho 1 khu
chợ, mô hình xử lý phụ phế phẩm nông
nghiệp làm phân bón hữu cơ và mô hình xử lý
chất thải chăn nuôi bằng biogas dạng hẩm ủ
nhựa Composite. Các mô hình này như là một
mô hình mẫu để nhân rộng và triển khai ra
các địa phương khác có điều kiện tương tự..
Nguồn: vista.gov.vn, 10/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Máy lọc nước nhiễm phèn
Nữ sinh Nguyễn Chí Phương Thanh
(học sinh lớp 11D3, Trường THPT Lý Tự
Trọng, TP. Nha Trang) đã dành nhiều thời
gian để chế tạo máy lọc nước nhiễm phèn –
vừa đạt giải Tư cấp quốc gia Cuộc thi khoa
học kỹ thuật dành cho học sinh, để tinh gọn
và hoạt động hiệu quả.
Màu nước vàng nhạt lợn cợn cặn, các
đồ dùng sinh hoạt ám màu vàng sau một thời
gian sử dụng khiến em ấn tượng mạnh nên ấp
ủ ý tưởng sáng chế một hệ thống có thể làm
sạch nước giúp bà con vùng quê.
Đến năm học lớp 10, khi ý tưởng và sự
tự tin chín mùi cũng như được sự ủng hộ từ
gia đình, em bắt tay vào việc chế tạo máy lọc
nước.
Do thừa hưởng năng khiếu nghiên cứu
khoa học từ người cha – chủ một công ty chế
tạo các vật dụng từ Composite, cũng như được
sự giúp đỡ của các thầy cô, Phương Thanh
nhanh chóng triển khai ý tưởng của mình.
Với phương pháp thẩm thấu ngược,
Thanh đã thực hiện thành công hệ thống xử lý
nước nhiễm phèn. Cấu tạo của hệ thống đơn
giản với 3 bể lọc.
Nước được bơm lên rồi phun mưa
bằng vòi sen hoặc ống nhựa khoan lỗ để tăng
diện tích tiếp xúc với không khí và xảy ra các
phản ứng tạo thành cặn.
Các cặn này sẽ tách ra khỏi nước nhờ
vào bể lắng và hệ thống lọc phía dưới. Sau
đó, nước từ bể lắng được dẫn qua bể lọc thẩm
thấu ngược.
“Phương pháp thẩm thấu ngược có ưu
điểm giúp giữ ẩm bề mặt vật liệu lọc, tạo
màng xúc tác kể cả khi nguồn nước bị cạn
kiệt. Ngoài ra, nước lọc sẽ được đẩy tiếp xúc
đều trên toàn bộ bề mặt vật liệu lọc và dễ vệ
sinh vật liệu lọc… Hệ thống còn có bể lọc
trong và khử mùi (bể lọc thuận) giúp làm
sạch nước đến 95%”, Thanh giải thích.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 29/46
Theo cô nữ sinh trường THPT Lý Tự
Trọng, chi phí cho một hệ thống xử lý nước
nhiễm phèn chỉ khoảng 1,5 đến 2 triệu đồng,
công suất 1.000 lít/giờ, rẻ hơn nhiều so với
ngoài thị trường.
“Các vật dụng để chế tạo rất dễ kiếm
như thùng phuy, bồn chứa nước, cát, sỏi... Hệ
thống này còn có thể dùng để xử lý nước
sông, nước ao hồ và nước ngầm…”, cô nữ
sinh cười hiền.
Với chiếc máy lọc nước, Phương
Thanh đã đi dự thi và đạt giải Nhất cấp tỉnh
cùng giải Tư cấp quốc gia Cuộc thi khoa học
kỹ thuật dành cho học sinh; giải nhất cuộc thi
Sáng tạo các giải pháp bảo vệ môi trường
dành cho học sinh các trường THCS, THPT
tỉnh Khánh Hòa năm học 2017 - 2018.
Ban giám khảo cuộc thi đánh giá, hệ
thống có khả năng ứng dụng rộng rãi ở nhiều
vùng nông thôn chưa có nguồn nước máy.
Sau đó, em đã làm hệ thống bể lọc cho
một số hộ gia đình ở các huyện Vạn Ninh,
Cam Lâm, Diên Khánh…
Ông Hồ Xuân Bình (Suối Cát – Cam
Lâm – Khánh Hòa) cho biết, ở khu vực này
nước bị nhiễm phèn nặng nhưng từ ngày sử
dụng máy lọc của Phương Thanh thì có thể
uống nước từ đầu lọc ra.
“Nước khu vực này phèn nặng nên rất
tanh không sử dụng được trong sinh hoạt,
giặt đồ cũng không được. Nhưng qua hệ
thống của cháu Thanh gia đình chúng tôi có
thể uống được nguồn nước từ hệ thống lọc.
Chúng tôi thường xuyên đi kiểm tra
nước từ máy lọc nhưng chất lượng rất rốt.
Từ khi được lắp đặt hệ thống lọc của cháu
Thanh gia đình đã có nguồn nước tốt để
sinh hoạt và chia sẻ nguồn nước này cho
người dân trong vùng”.
Nguồn: vietnammoi.vn, 21/07/2018 Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018
30/46
B.THÔNG TIN SÁNG CHẾ VIỆT NAM
2-0001769 Ổ cắm điệnTác giả: Phạm Thế Vinh (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến ổ cắm điện
(1) bao gồm: đế nhựa (2), ít nhất một cặp
bộ tiếp điểm (3) được bố trí đối xứng nằm
trong đế nhựa (2), nắp (4) được lắp vào đế
nhựa (2). Mỗi tiếp điểm (3) được tạo kết
cấu bao gồm: đế trụ liên kết (31); tiếp điểm
thứ nhất (32) được gắn vào đế trụ liên kết
(31) và có hai phần nhánh (32b) được uốn
cong với phần cong lồi hướng song song
vào nhau tạo thành lỗ cắm (32c) mà chân
phích cắm tròn (210) được cắm vào đó; tiếp
điểm thứ hai (33) được bố trí ở phía bên
của tiếp điểm thứ nhất (32) để tạo ra khe
cắm (33c) mà chân phích cắm dẹt được
cắm vào đó; và vòng lò xo hở (34) được tạo
kết cấu gồm phần liên kết (34a) được lắp
lồng ngoài đế trụ liên kết (31) và hai nhánh
ép đàn hồi (34b) được lắp tỳ tương ứng vào
phía ngoài của hai phần nhánh (32b) của
tiếp điểm thứ nhất (32) luôn ở trạng thái ép
vào. Nhờ đó, lỗ cắm (32b) của tiếp điểm
thứ nhất (32) luôn ở trạng thái kích thước lỗ
ban đầu, tức là không bị biến dạng mở rộng
ra khi sử dụng nhiều loại phích cắm chân
tròn kích thước khác nhau.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019332 Máy đào công sự cầm tayTác giả: Lê Thành Quyết (VN).
Máy đào công sự cầm tay bao gồm
một khung đỡ được làm thích ứng gắn động
cơ dẫn động làm quay trục truyền động
trong đó bánh răng côn của trục truyền động
ăn khớp làm quay ngược chiều hai bánh
răng vòng, một bánh răng vòng lớn mà trục
của nó cũng là trục quay của cơ cấu đào đất
có tay đòn và lưỡi đào, một bánh răng vòng
nhỏ mà trục của nó cũng là trục làm quay
bánh răng thẳng ăn khớp làm quay ngược
chiều bánh răng thẳng kia mà trục của nó
cũng là trục quay của cơ cấu đĩa cắt có mâm
quay và lưỡi cắt, đồng thời một bánh răng
côn và một bánh răng thẳng của trục truyền
động cùng tác động vào hai bánh răng của
cơ cấu máy khoan búa xoay làm mũi khoan
vừa khoan xoay vừa va đập phá hủy vật liệu
rắn tác động vào đất đá để đào công sự.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019361 Hệ thống phanh tự động dùng cho ôtô
Tác giả: Nguyễn Trọng Bình (VN). Sáng chế đề cập đến hệ thống phanh
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 31/46
tự động dùng cho ôtô bao gồm: bản sắt, bản
sắt này được bắt chặt vào khung ô tô ở phía
trước; mặt cản được tạo ra có dạng hình
lưỡi liềm được bố trí ở phía trước ô tô, đầu
dưới của mặt cản được gắn vào bản sắt nêu
trên bằng hai trục xoay; cần gạt phanh; bộ
giảm chấn; bộ ngắt nối nguồn điện; dây cáp
mềm. Trong đó, ở giữa mặt cản có phần
dạng thanh, một đầu được tạo ra liền khối
với mặt cản nêu trên, đầu còn lại được nối
với cần gạt phanh thông qua trục xoay sao
cho có thể xoay được và hai đầu trên của
mặt cản được gắn vào hai bộ giảm chấn nêu
trên, đầu còn lại của bộ giảm chấn được nối
với bản sắt sao cho chúng có thể xoay
được, và trong đó cần gạt phanh là thanh
gạt xoay quanh trục, cần gạt phanh này có
một đầu được nối xoay được với mặt cản
thông qua phần dạng thanh nêu trên và đầu
còn lại được nối với dây cáp mềm, dây cáp
mềm này được nối cần gạt phanh với bàn
đạp phanh của ô tô, bộ ngắt nguồn điện bao
gồm dao cắt dây điện được tạo ra liền khối
với mặt cản, và khe nối dây điện để dây
điện từ cực dương của bình ăcquy vắt qua
khe này, khe nối dây điện này được tạo ra
trên bản sắt, khe nối dây điện là một rãnh
có dạng hình chữ U, khe nối dây điện này
được bắt cố định trên bản sắt.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019455 Panen tường, hệ panen tường lắp ghép nhanh và phương pháp xây dựng nhà sử dụng các panen tường này
Tác giả: Đỗ Đức Thắng (VN).
Sáng chế đề xuất panen tường, bao
gồm: lớp ngoài thứ nhất, lớp ngoài thứ hai
và lớp giữa, trong đó lớp giữa bằng vật liệu
cách nhiệt rắn, các rãnh nông theo chiều
dọc hoặc chiều ngang được tạo trên mặt
trước và sau, các lỗ thông liên kết được tạo
cách đều nhau theo phương ngang, mặt đáy
và mặt đỉnh của lớp giữa có các rãnh lõm
kéo dài theo phương ngang, hai mặt bên lần
lượt được tạo rãnh định vị và gân định vị
sao cho gân định vị của panen tường thứ
nhất được gài khớp với rãnh định vị của
panen tường thứ hai; lớp ngoài thứ nhất và
lớp ngoài thứ hai bằng vữa bê tông không
co ngót được phun lên mặt trước và mặt sau
của lớp giữa. Ngoài ra, sáng chế còn đề
xuất hệ panen tường lắp ghép nhanh và
phương pháp xây dựng nhà sử dụng các
panen tường này.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019476 Phương pháp đánh giá chất lượng và cô lập lỗi dựa trên tính toán thông lượng xử lý vô tuyến của tuyến thu hệ thống enodebTác giả: Nguyễn Trung Tiến (VN), Nguyễn Quốc Tuấn (VN), Nguyễn Quang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 32/46
Tuấn (VN), Hồ Thị Xuân Hòa (VN).
Sáng chế đề xuất phương pháp đánh
giá chất lượng xử lý của tuyến thu của khối
RRU hệ thống eNodeB, cũng như giúp việc
gỡ rối cô lập lỗi giữa phần thiết kế khối
RRU và phần xử lý tín hiệu trở nên dễ
dàng. Phương pháp theo sáng chế được
thực hiện nhờ kết quả đánh giá thông lượng
xử lý vô tuyến của tuyến thu eNodeB so
với nguồn dữ liệu tham khảo.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019498 Thiết bị tập quần vợtTác giả: Nguyễn Xuân Phương
(VN).
Sáng chế đề cập đến thiết bị tập
quần vợt bao gồm khung thiết bị (1); cơ
cấu bắn bóng (2); lồng thu hồi bóng và
khung lưới 4, trong đó hai bánh xe bắn
bóng (23) có thể xoay quanh trục nâng đỡ
(24) được gắn với máng dẫn bóng (21) của
cơ cấu bắn bóng nhờ trục xoay (27) dạng
hình trụ rỗng được gắn với khung nâng đỡ
môtơ; và khung lưới có thể xoay quanh hai
trục tròn được gắn ở hai bên của khung
lưới và đối diện nhau qua tâm của khung
lưới tiếp nhận để làm nảy bóng được bắn
từ cơ cấu bắn bóng (2).
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang **************
2-0001743 Gạch xi măng cốt liệu
Tác giả: Trần Trung Nghĩa (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến gạch
xi măng cốt liệu bao gồm cốt liệu, xi măng,
chất phụ gia polyme và hỗn hợp zeolit,
trong đó các thành phần này được định
lượng theo dạng phối liệu và được tạo hình
bằng cách sử dụng phương pháp ép khuôn
để tạo áp lực nén chặt hỗn hợp phối liệu đã
định lượng sau khi trộn với nước với lực ép
bằng hoặc lớn hơn 5MPa, và trong đó thành
phần phối liệu của gạch bao gồm (% khối
lượng): cốt liệu: 74-94%; xi măng: 5 đến
nhỏ hơn 20%; chất phụ gia polyme: 0-3%;
và hỗn hợp zeolit: 0,01-3%; trong đó cốt
liệu được chọn từ nhóm bao gồm cát, mạt
đá, tro bay, tro xỉ, và rác thải xây dựng (xà
bần) hoặc hỗn hợp của chúng.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 33/46
2-0001754 Lan can bê tông lắp ghép
Tác giả: Hoàng Đức Thảo (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến lan can
bê tông cốt thép, bê tông cốt sợi lắp ghép
ứng dụng trong các công trình đường giao
thông đô thị. Lan can được đúc sẵn thành
từng đốt có khả năng lắp ghép với nhau
bằng mối nối âm dương, thuận tiện chuyên
chở, bố trí lắp đặt phù hợp các hệ thống
trình hạ tầng kỹ thuật, phù hợp với từng địa
chất, địa hình khác nhau, lan can đúc sẵn có
mác bê tông lớn hơn hoặc bằng M250, một
đầu được bố trí mối nối âm, một đầu bố trí
mối nối dương, phía trên của mặt cắt ngang
phần thân có lỗ tròn để luồn cáp điện chiếu
sáng; đường kính lỗ luồn cáp to hay nhỏ
phụ thuộc vào yêu cầu thiết kế, phần thân
lan can được đổ bê tông trực tiếp với phần
tạo mỹ quan.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001765 Dụng cụ tập luyện vận động khớp gối
Tác giả: Vũ Nhất Định (VN),
Nguyễn Tiến Thành (VN).
Giải pháp hữu ích đề xuất dụng cụ
tập luyện vận động khớp gối (1) bao gồm
phần khung đứng thẳng (11) liên kết với hai
phần khung mang giá đỡ (12). Giá đỡ (14)
được lắp di chuyển trượt được trên các ống
ngang (12a) của phần khung mang (12). Bộ
phận thay đổi tải trọng (15) liên kết với hệ
thống truyền lực (16) ở một đầu. Đầu kia
của hệ thống truyền lực (16) được liên kết
với giá đỡ (14) hoặc bao gối (BG). Khi hệ
thống truyền lực (16) được liên kết với giá
đỡ (14), dụng cụ (1) giúp thực hiện tập
luyện gấp gối, và khi hệ thống truyền lực
(16) được liên kết với bao gối (BG), dụng
cụ (1) giúp thực hiện tập luyện duỗi gối.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001766 Giá đỡ dùng cho xe côngtenơ
Tác giả: Bùi Văn Hảo (VN).
Sáng chế đề cập đến giá đỡ dùng cho
xe côngtenơ bao gồm thanh góc (1), thanh
đỡ ngang (2), cầu đỡ bánh xe (3) và bộ
truyền động (4), trong đó thanh góc (1)
được chế tạo có các chi tiết định vị với trần
và sàn xe côngtenơ và trên mặt các thanh
góc (1) có các lỗ định vị được phân chia
thành hàng lỗ định vị thứ nhất (1.1), hàng
lỗ định vị thứ hai (1.2) và hàng lỗ định vị
thứ ba (1.3), thanh đỡ ngang (2) được liên
kết với thanh góc (1) nhờ bu lông đỡ (5) và
bu lông khóa (6), cầu đỡ bánh xe (3) được
đặt lên thanh đỡ ngang (2) và một đầu cầu
đỡ bánh xe (3) có thanh chặn bánh xe (3.1)
để tăng khả năng giữ xe ô tô trên cầu đỡ
bánh xe (3). Trong quá trình vận hành, bu
lông đỡ (5) được di chuyển liên tục theo
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 34/46
các lỗ định vị (1.1) và (1.2) khi thanh đỡ
ngang (2) được di chuyển lên trên và bu
lông khóa (6) gắn với đầu thanh đỡ ngang
(2) được xiết chặt khi ô tô thành phẩm được
nâng đến độ cao xác định.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang **************
2-0001768 Vật liệu compozit nhựa gỗ và phương pháp sản xuất vật liệu này
Tác giả: Nguyễn Vũ Giang (VN),
Thái Hoàng (VN), Mai Đức Huynh (VN),
Trần Hữu Trung (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến vật
liệu compozit nhựa gỗ chứa hỗn hợp
nhựa nhiệt dẻo polyvinyl clorua (PVC)
và bột gỗ, trong đó bột gỗ này được làm
biến tính bởi dung dịch tetraetyl
ortosilicat (TEOS) để tạo thành các hạt
nano SiO2 bám trên bề mặt, vật liệu
compozit nhựa gỗ này chứa các thành
phần sau (tính theo % khối lượng của
hỗn hợp nhựa nhiệt dẻo polyvinyl clorua
và bột gỗ biến tính): hỗn hợp nhựa PVC
với lượng nằm trong khoảng từ 40 đến
90%; và bột gỗ biến tính với lượng nằm
trong khoảng từ 10 đến 60%, trong đó
bột gỗ biến tính này thu được bằng cách
sử dụng tetraetyl ortosilicat (TEOS) với
lượng nằm trong khoảng từ 1 đến 10%
khối lượng (tính theo khối lượng của bột
gỗ cần được làm biến tính) để làm biến
tính bột gỗ, và sau khi đã được làm biến
tính bột gỗ này chứa các hạt nano SiO2
trên bề mặt. Vật liệu này được ứng dụng
để sản xuất các sản phẩm thay thế gỗ
được sử dụng trong xây dựng nh- tấm
ván lát sàn, kệ nâng hàng và các sản
phẩm trong các lĩnh vực khác. Ngoài ra,
giải pháp hữu ích còn đề cập đến phương
pháp sản xuất vật liệu compozit này.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001770 Môđun giàn khung mặt cầu dùng cho cầu treo dây võng
Tác giả: Nguyễn Tăng Cường (VN).
Giải pháp hữu ích đề xuất môđun
giàn khung mặt cầu dùng cho cầu treo
dây võng bao gồm dầm ngang (1) bằng
thép đúc dạng hộp có các tai treo (4, 7)
để nối các dầm dọc, dầm dọc biên (2)
bằng thép đúc dạng hộp có vị trí chốt
bulông ở hai đầu để nối với các tai treo
ngoài (4) của dầm ngang (1); dầm dọc
giữa (3) bằng thép đúc dạng hộp có vị trí
chốt bulông ở hai đầu để nối với các tai
cố định dầm dọc giữa (7) của dầm ngang
(1); và thanh giằng gió có các vị trí chốt
bulông ở hai đầu để nối vào các tai nối
thanh giằng gió trên dầm ngang (1).
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 35/46
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001771 Hệ thống neo cáp chủ dùng cho cầu treo dây võng
Tác giả: Nguyễn Tăng Cường (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến hệ
thống neo cáp chủ dùng cho cầu treo dây
võng dân sinh bao gồm cáp chủ (1),
thanh neo (2), tăng dơ neo cáp chủ (3),
bộ nối trung gian (4) và cụm cân bằng
cáp (5) đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật và có
độ bền và độ an toàn cao.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang **************
2-0001774 Thanh ray hộp dẫn hướng
Tác giả: Lê Mạnh Đức (VN).
Giải pháp hữu ích đề xuất thanh ray
hộp dẫn hướng (100) được tạo liền khối
bao gồm hai thành bên (101), thành đáy
(102) và vách gia cường đáy (103) được
gắn vào hai thanh bên (101) dưới dạng
song song với thành đáy (102) tạo thành
khoang rỗng ở đáy. Thanh ray dẫn hướng
(100) còn được tạo kết cấu gồm hai vách
gia cường thứ nhất (104) được bố trí nhô
ra hướng vào tâm và được bố trí ở phía
đầu của hai thành bên (101) tương ứng, và
ít nhất hai vách gia cường thứ hai (105)
mà mỗi vách được bố trí giữa vách gia
cường đáy (103) và các vách gia cường
thứ nhất (104) dưới dạng song song với hai
thành bên (101) tương ứng.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001750 Phương pháp hoàn nguyên chất xúc tác trong quá trình hydro hóa liên tục glucoza thành sorbitol và quy trình hydro hóa liên tục glucoza
thành sorbitol bằng cách hoàn nguyên chất xúc tác
Tác giả: Mai Ngọc Chúc (VN), Vũ
Thị Thu Hà (VN), Alain Perrard (FR), Trần
Văn Nam (VN), Nguyễn Thị Hà (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 36/46
phương pháp hoàn nguyên chất xúc tác
trong quá trình hydro hóa liên tục
glucoza thành sorbitol trên chất xúc tác
chứa ruteni trên chất mang bao gồm bước
cho dung dịch nước oxy già tiếp xúc với
chất xúc tác chứa ruteni trên chất mang
trong môi trường khí trơ hoặc không khí
ngay trong thiết bị phản ứng hydro hóa, ở
nhiệt độ nằm trong khoảng từ nhiệt độ
phòng đến 100°C. Đồng thời, giải pháp
hữu ích cũng đề cập đến quy trình hydro
hóa liên tục glucoza thành sorbitol bằng
cách hoàn nguyên chất xúc tác.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001751 Quy trình sản xuất vancomyxin hydroclorit
Tác giả: Nguyễn Phương Nhuệ
(VN), Đặng Tuyết Phương (VN), Lê Gia Hy
(VN), Vũ Thị Hạnh Nguyên (VN), Phạm
Thanh Huyền (VN), Hồ Tuyên (VN), Bạch
Thị Mai Hoa (VN), Phí Quyết Tiến (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến quy
trình sản xuất vancomyxin hydroclorit,
trong đó quy trình này bao gồm các bước:
a) hoạt hóa chủng giống gốc; b) thích nghi
chủng giống gốc; c) nhân giống sản xuất; d)
lên men sản xuất; và e) thu vancomyxin
hydroclorit. Bằng cách cải tiến môi trường
nuôi cấy, quy trình theo giải pháp hữu ích
cho phép lên men thu được vancomyxin
hydroclorit từ chủng xạ khuẩn
Streptomyces orientalis 4912 lên tới 4,16
mg/ml với thời gian lên men được rút ngắn.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001752 Chế phẩm sinh học dùng để tái tạo thảm thực vật và quy trình sản xuất chế phẩm này
Tác giả: Nguyễn Thị Minh (VN),
Nguyễn Thu Hà (VN), Phan Quốc Hưng
(VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến chế
phẩm sinh học dùng để tái tạo thảm thực
vật chứa các thành phần bao gồm hỗn
hợp gồm bào tử của các chủng nấm rễ
Gigaspora albida ASG1 và Dentiscutata
nigra DSB2 và sinh khối của các chủng
vi khuẩn nốt sần Shinorrhizobium fredi
DSM5 và Bradyrhizobium japonicum
ASS3, chất nền và các chất dinh dưỡng
bổ sung. Giải pháp hữu ích cũng đề cập
đến quy trình sản xuất chế phẩm này.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang **************
DPTer
Typewriter
Theo Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế Mỹ, trong số 68 quốc gia tham gia “Vành đai và Con đường”, đã có 23 nước có nguy cơ “mắc nợ” Trung Quốc, trong đó có 8 nước đã tăng rủi ro “nợ công”.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 37/46
2-0001767 Cơ cấu in trên quả dừa và quy trình in trên quả dừa sử dụng cơ cấu này
Tác giả: Huỳnh Thanh Tâm (VN).
Với mục đích của giải pháp hữu ích
là tạo ra cơ cấu in trên quả dừa giúp in chữ,
hình ảnh trên quả dừa đang phát triển trên
cây một cách tự nhiên, giải pháp hữu ích đề
xuất cơ cấu in trên quả dừa bao gồm đế
chịu lực, khuôn in và bộ phận cố định,
trong đó đế chịu lực là một tấm được uốn
thành cung tròn, khuôn in lắp ở khoảng
giữa mặt trong của đế chịu lực, có độ cong
như độ cong của đế chịu lực, chiều dày có
tỷ lệ kích thước so với dây cung của đế
chịu lực nằm trong khoảng 1/22 - 5/22, bộ
phận cố định giúp cố định đế chịu lực và
khuôn in trên quả dừa. Nhờ đó, sau khi lắp
cơ cấu khuôn in quả dừa vào quả dừa đang
phát triển ở trên cây, bề mặt của quả dừa ép
dần vào khuôn in để tạo ra chữ, hình ảnh
trên quả dừa một cách tự nhiên. Giải pháp
hữu ích cũng đề xuất quy trình in trên quả
dừa sử dụng cơ cấu in này.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001746 Quy trình sản xuất trà sinh học từ gạo lức hữu cơ
Tác giả: Lê Văn Tri (VN).
Giải pháp hữu ích đề xuất quy trình
sản xuất trà sinh học từ gạo lức hữu cơ bao
gồm các bước ngâm hạt gạo lức hữu cơ
trong nước sạch, rang gạo lức này trong lò
rang ở nhiệt độ 85°C ± 2°C trong thời gian
60 phút để thu được hạt gạo lức hữu cơ có
màu cánh gián, xay hạt gạo lức hữu cơ tới
kích thước ≤ 1mm, trộn gạo lức vụn thu
được với chất bảo quản tự nhiên là đường
Hải Tảo; và tạo sản phẩm.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001747 Quy trình sản xuất trà sinh học từ lá sen
Tác giả: Lê Văn Tri (VN).
Giải pháp hữu ích đề xuất quy
trình sản xuất trà sinh học từ lá sen bao
gồm các bước: Chuẩn bị lá sen, sấy lá
sen, nghiền và phối trộn với chất bảo
quản tự nhiên là đường Hải Tảo, và tạo
sản phẩm. Sản phẩm trà tạo ra được sử
dụng hàng ngày nhằm phòng ngừa và
điều trị các bệnh béo phì, cao huyết áp,
cao mỡ máu và xơ vữa động mạch.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001749 Thực phẩm chứa tảo Spirulina và quy trình sản xuất thực phẩm này
Tác giả: Lê Thị Kim Hoa (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến thực
phẩm chứa tảo Spirulina và quy trình sản
xuất thực phẩm này. Theo một phương án
được ưu tiên, thực phẩm theo giải pháp hữu
ích chứa tảo Spirulina với lượng nằm trong
khoảng từ 1 đến 5%, tốt hơn là khoảng 2%
khối lượng so với tổng khối lượng thực
phẩm này, tinh bột dong riềng và tùy ý các
phụ gia khác hoàn toàn từ nguyên liệu tự
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 38/46
nhiên. Thực phẩm theo giải pháp hữu ích là
rất bổ dưỡng, dễ sử dụng và có thể sử dụng
thường xuyên giúp nâng cao sức khỏe cho
người sử dụng.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018 Trở về đầu trang
**************
2-0001761 Ngũ cốc dinh dưỡng và cà phê hòa tan
Tác giả: Bùi Xuân Thoa (VN).
Giải pháp hữu ích đề xuất quy trình
chế biến sản phẩm dinh dưỡng có công
dụng kép từ ngũ cốc dinh dưỡng và cà
phê hòa tan bao gồm các bước: a) tạo vảy
ngũ cốc bằng cách trộn ướt hỗn hợp
nguyên liệu gồm bột mì, bột đậu tương,
bột gạo, bột ngô, đường, muối, mạch nha
với nước, nấu sơ bộ hỗn hợp này, sấy khô,
đập, sàng để tạo thành vảy ngũ cốc; b) tạo
hỗn hợp trộn khô bằng cách trộn vi lượng
canxi vi lượng, đường và bột kem thực
vật tạo thành hỗn hợp vi lượng; trộn khô
hỗn hợp vi lượng này với cà phê hòa tan
và các thành phần của ngũ cốc dinh
dưỡng (trừ vảy ngũ cốc) như đường, bột
kem thực vật tạo thành hỗn hợp trộn khô;
và c) đóng gói tạo sản phẩm: vảy ngũ cốc
và hỗn hợp trộn khô được đóng gói để tạo
thành sản phẩm. Sản phẩm tạo thành có
cả hai công dụng của hai loại sản phẩm
ngũ cốc dinh dưỡng và cà phê hòa tan.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
363/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001763 Phương pháp sản xuất rượu roiTác giả: Nguyễn Phú Tia (VN).
Sáng chế đề cập đến phương pháp
sản xuất rượu roi bao gồm các bước: a)
Tạo men cái; b) Tạo nguyên liệu (bã rượu)
và tạo hương roi; c) Chưng cất rượu; và d)
Lọc than hoạt tính. Rượu roi được tạo ra
theo phương pháp này đã qua chưng cất và
không sử dụng bất kỳ hóa chất, chất tạo
màu hoặc tạo mùi nào, nên việc bảo quản
đúng cách sẽ lưu giữ được trên bảy năm
mà vẫn đảm bảo được chất lượng.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang **************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 39/46
2-0001764 Quy trình xác định mức độ phân mảnh ADN của tinh trùng và kit dùng cho quy trình này
Tác giả: Nguyễn Thị Trang (VN),
Thân Thị Thùy Linh (VN), Trần Thị Oanh
(VN), Trần Đức Phấn (VN), Lương Thị
Lan Anh (VN), Triệu Tiến Sang (VN),
Nguyễn Minh Tuấn Anh (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến quy
trình xác định mức độ phân mảnh ADN
của tinh trùng và kit dùng cho quy trình
này. Quy trình xác định mức độ phân
mảnh ADN của tinh trùng theo giải pháp
hữu ích bao gồm các bước: a) chuẩn bị
tiêu bản, b) biến tính AND của tinh
trùng, c) ly giải màng nhân tế bào tinh
trùng, d) nhuộm tiêu bản; và e) xác định
mức độ phân mảnh ADN của tinh trùng.
Theo đó, quy trình theo giải pháp tối ưu
điều kiện cố định mẫu, điều kiện ly giải
màng nhân và điều kiện nhuộm giúp
giảm được hóa chất phá vỡ màng nhân và
sử dụng loại thuốc nhuộm thông thường
mà vẫn thu được hiệu quả tương đương
loại thuốc nhuộm đặc hiệu. Ngoài ra, giải
pháp hữu ích còn đề cập đến kit dùng cho
quy trình xác định mức độ phân mảnh
của tinh trùng theo giải pháp hữu ích.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
1-0019428 Bộ khuôn dẫn hướng và cắt cho máy cắt, tách, chẻ hạt điều tự động
Tác giả: Đỗ Cao Thắng (VN).
Sáng chế đề cập tới một bộ khuôn
cắt dẫn hướng hạt điều cho máy cắt, tách,
chẻ hạt điều tự động bao gồm bộ khuôn
trên gắn trên tấm đế khuôn trên, bộ khuôn
dưới gắn với tấm đế khuôn dưới, với các
rãnh dẫn hình chữ “V” trên mặt khuôn trên
và khuôn dưới có tác dụng dẫn h-ớng, định
vị và kẹp chặt hạt điều ngăn hạt điều không
bị đổ ngang. Bộ khuôn trên gồm các khuôn
nhỏ hơn vật liệu bằng sắt, mỗi khuôn nhỏ
này có một rãnh dẫn hình chữ “V”. Bộ
khuôn dưới là tấm sắt có các rãnh dẫn hình
chữ “V” tương ứng với các rãnh dẫn của
khuôn trên. Các rãnh dẫn chữ “V” trên bộ
khuôn được thiết kế nhỏ dần về phía cuối
bộ khuôn và có thể thay đổi số lượng các
đường rãnh dẫn trên bộ khuôn.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001744 Chậu trồng cây
Tác giả: Phan Thành Công (VN) .
Giải pháp hữu ích đề cập đến chậu
trồng cây có kết cấu bao gồm: thân chậu
(1) dạng liền khối, trong đó phần bên trong
của thân chậu có gờ nhỏ hình tròn chạy
quanh chu vi của chậu, có tác dụng làm bệ
đỡ cho tấm ngăn (2) của khoang chứa giá
thể thấm nước ngược, trên gân nổi liền
khối với chân đỡ ở bên hông của thân chậu
có ống (3) để cung cấp nước tưới cho cây,
xác định mực nước còn lại trong chậu,
đồng thời để nước chảy tràn qua khi cần
thiết, và dưới đáy thân chậu có lỗ xả đáy
(5); và khoang chứa giá thể thấm nước
ngược được gắn theo cách tháo ra lắp vào
được với thân chậu (1), khoang này có kết
cấu bao gồm tấm ngăn (2) là một tấm
phẳng hình tròn liền khối với ống hình trụ
(4) ở giữa, khoang này chia chậu cây thành
hai khoang: khoang trên để chứa giá thể và
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 40/46
trồng cây, khoang dưới để chứa nước hoặc
dung dịch dinh dưỡng, và ống hình trụ (4)
có đáy được khoét một số lỗ nhỏ, trong
ống chứa giá thể thấm nước ngược để hút
nước, và ống này được cắm xuống phần
nước hoặc dung dịch dinh dưỡng.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang **************
2-0001745 Thùng trồng cây và hệ thống thùng trồng cây
Tác giả: Nguyễn Quang Ngọc (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến thùng
trồng cây có kết cấu bao gồm: thùng (1),
tấm chặn (4) lắp vào khe đỡ (2) được tạo ra
trên vách thùng, cặp dây quai (10) nối cố
định vào mặt trên của tấm chặn (4), cụm cơ
cấu cấp nước cho đất bao gồm các ống đỡ
(3) và thanh hút nước (5), cụm cơ cấu cấp
thoát nước và thông khí bao gồm các cặp
ống nối (8) có nắp bịt (9), van tự động (6),
và van xả đáy (7); khác biệt ở chỗ, các ống
đỡ (3) có các rãnh, lỗ dọc thân ống, có
chiều cao bằng chiều cao từ đáy thùng đến
khe đỡ và lắp cố định vào tấm chặn (4)
bằng các khớp (3.1), tại vị trí các ống đỡ
gắn vào tấm chặn trên được khoét các lỗ
(4.1) có kích thước lớn hơn phần thân d-ới
(5.1) nh-ng nhỏ hơn phần đầu trên (5.2) của
thanh hút nước (5) sao cho phần đầu trên
(5.2) được giữ nằm ở trên tấm chặn (4),
trong khi phần thân dưới (5.1) có kích
thước nhỏ hơn ống đỡ để có thể được lồng
vào trong ống đỡ này; các cặp ống nối (8)
có nắp bịt (9) được bố trí ở các phía của
thành thùng hướng ra các phương để cấp
nước vào và thông khí, van tự động (6) điều
khiển việc cấp nước tự động vào thùng đến
mực nước yêu cầu, van xả đáy (7) có thể
mở dễ dàng bằng việc tháo thân van (7.1)
hay nắp van (7.2) đưa nước, đất, giá thể
chảy ra ngoài và chủ động vệ sinh làm sạch
phần chứa nước của thùng khi cần. Ngoài
ra, giải pháp hữu ích còn đề cập đến hệ
thống thùng trồng cây bao gồm các thùng
trồng cây nêu trên được kết nối với nhau.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001772 Hệ thống giám sát chất lượng nước hồ nuôi thủy sản nhiều điểm đo
Tác giả: Nguyễn Minh Hà (VN),
Phan Phước Lộc (VN), Lê Thanh Phong
(VN), Lê Đình Cẩn (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến hệ
thống giám sát chất lượng nước hồ nuôi
thủy sản nhiều điểm đo áp dụng cho một
hay nhiều hồ nuôi thủy sản bao gồm bộ
phận thu mẫu gồm tám đường ống hút
nước (1), bộ phận đo mẫu là để thực hiện
việc đo các thông số về chất lượng nước
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 41/46
bằng các bộ cảm biến (9) được đặt trong
tủ van (2), khác biệt ở chỗ vị trí đặt các
bộ cảm biến này được đặt ở phía trước
bơm (3) để tránh ảnh hưởng của bơm (3)
làm thay đổi nhiệt độ của mẫu đo và bộ
phận điều khiển trung tâm gồm mạch điện
tử PLC (14) để kết nối với máy tính (15)
thực hiện điều khiển đóng mở bơm nước
(3), các van điện từ (4) theo quy trình đo
đã định trước, ghi và gửi kết quả đo lên
mạng dữ liệu bằng đường truyền internet.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang **************
1-0019371 Chế phẩm vi sinh để xử lý chất thải hữu cơ trong chăn nuôi Tác giả: Phạm Thị Lý (VN),
Nguyễn Việt Anh (VN).
Sáng chế đề cập đến chế phẩm vi
sinh để xử lý chất thải hữu cơ trong chăn
nuôi, trong đó chế phẩm chứa ít nhất sáu
loài vi khuẩn bao gồm Bacillus subtilis,
Pseudomonas alcaligenes, Bifidobacterium
thermophilus, Clostridium pastenisium,
Nirosomonas europaea và Lactobacillus
casei. Bằng cách cải tiến môi trường nuôi,
chế phẩm vi sinh thu được ổn định, có khả
năng xử lý chất thải hữu cơ trong chăn nuôi
một cách triệt để, giảm được mùi hôi.
Ngoài ra, chế phẩm vi sinh theo sáng chế
theo sáng chế giữ được hoạt tính lâu dài
trong môi trường thực địa. Ngoài ra, chế
phẩm vi sinh theo sáng chế có thể được hấp
thụ lên chất mang rắn dùng làm đệm lót
sinh học trong chăn nuôi.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001759 Hầm khí sinh học
Tác giả: Đào Xuân Hữu (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến hầm
khí sinh học bao gồm hầm phân hủy yếm
khí (1), bể áp lực (2), bể nạp phân (3) và
ống dẫn phân (4) để dẫn phân vào hầm
phân hủy (1). Hầm phân hủy (1) được làm
bằng bê tông cốt thép và có dạng hình
phễu. Thành hầm phân hủy (1) có mặt cắt
đứng gần như dạng hình thang với đáy lớn
ở bên trên. Mặt trên (6) của hầm phân hủy
(1) được đổ bê tông liền với thành hầm.
Phân từ bể nạp phân (3) cùng với nước rửa
được cho chảy qua ống dẫn phân (4) vào
hầm phân hủy (1). Đáy của hầm phân hủy
(1) được làm dốc về phía bể áp lực (2). ống
dẫn khí ga (7) nối phần chứa khí ga (8) với
bộ phận sử dụng khí ga. Bể áp lực (2) gồm
ngăn chứa bã (2.1), ngăn lọc (2.2) và ngăn
chứa nước thải (2.3). Hầm phân hủy (1) có
cửa xả đáy (9) được bố trí ở sát đáy hầm
phân hủy (1) để nối thông với đáy của ngăn
chứa bã (2.1) của bể áp lực (2). Đáy của
ngăn chứa bã (2.1) được làm lõm xuống để
chứa đất cát, bã chìm (5) chảy sang từ hầm
phân hủy (1). Bã nổi (11) được nổi lên phía
trên ngăn chứa bã (2.1). Ngăn lọc (2.2) có
tác dụng giữ bã ở lại ngăn (2.1) để nước
thải chảy sang ngăn chứa nước thải (2.3)
trong hơn, và ngăn chứa nước thải (2.3) có
tác dụng lắng đọng thêm cặn của nước thải
để khi xả ra ngoài môi trường được trong
sạch hơn.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 42/46
Theo công báo sở hữu công nghiệp số
364/2018
Trở về đầu trang
**************
2-0001762 Quy trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ rác thải và phế phụ phẩm nông nghiệp
Tác giả: Tăng Thị Chính (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến quy
trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ rác
thải và phế phụ phẩm nông nghiệp sử dụng
các chủng vi sinh vật hữu ích bao gồm các
bước: (a) phân loại rác thải và phế phụ
phẩm nông nghiệp, (b) ủ đông (ủ compost)
các chất thải hữu cơ bằng chế phẩm vi sinh
vật ưa nhiệt phân giải bao gồm hỗn hợp của
các chủng vi khuẩn Bacillus ưa nhiệt và xạ
khuẩn Streptomyces ưa nhiệt để thu chất
mùn hữu cơ; và (c) phối trộn chất mùn hữu
cơ thu được với chế phẩm vi sinh vật đa
chức năng với tỷ lệ % khối lượng thích hợp
để thu được phân hữu cơ vi vi sinh.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang **************
2-0001775 Hệ thống cấp nước ghép song song dùng cho bồn rửa tay, bồn tiểu và bồn cầu trong nhà vệ sinh
Tác giả: Nguyễn Xuân Sáng (VN),
Lê Văn Hiệp (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến hệ
thống cấp nước ghép song song dùng cho
bồn rửa tay, bồn tiểu và bồn cầu trong
trong nhà vệ sinh bao gồm: van nhấn tự
động nhả (1) và van nước điện từ (2) được
ghép song song có chung đầu vào là ống
cấp nước (11) và có chung đầu ra là vòi
(9). Van ấn tự động nhả (1) và Van nước
điện từ (2) bình thường đóng; Khi có
người đến vùng cảm ứng, cảm biến vật cản
(3) thông qua bộ bảo vệ và kết nối hệ
thống (4) cấp cho van nước điện từ (2) một
dòng điện 24VDC để mở van trong một
khoảng thời gian nhất định. Trong trường
hợp van nước điện từ (2) không hoạt động,
người dùng ấn vào nút nhấn của van nhấn
tự động nhả (1) để cho nước từ ống cấp
(11) chảy qua van nhấn tự động nhả (1) rồi
qua ống dẫn (9) dẫn nước sạch vào để rửa.
Theo công báo sở hữu công nghiệp
số 364/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 43/46
2-0001776 Phương pháp sản xuất nhiên liệu diezen sinh học có chất lượng caoTác giả: Nguyễn Hoàng Vũ (VN), Vũ Thị Thu Hà (VN), Đỗ Mạnh Hùng (VN),
Nguyễn Thị Thu Trang (VN), Nguyễn Văn Chúc (VN), Nguyễn Trung Kiên (VN).
Giải pháp hữu ích đề cập đến phương pháp sản xuất nhiên liệu diezen sinh học bao
gồm bước: bổ sung polyalpha olefin (PAO) là chất phụ gia hạ điểm đông đặc, tert -
butylhydroquinon (TBHQ) là chất phụ gia chống oxy hóa, etylendiamin (EDA) là chất phụ
gia chống ăn mòn vào diezen sinh học gốc, ở nhiệt độ môi trường; khuấy trộn đều; sau đó
hỗn hợp thu được được pha trộn với diezen có nguồn gốc từ dầu mỏ để tạo ra nhiên liệu
diezen sinh học có độ ổn định cao.
Theo công báo sở hữu công nghiệp số 364/2018
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 44/46
C. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
TT Ngày Tên đề tài/ Dự án
Chủ nhiệm/ CQ chủ
trì
Ngành Kinh tế
1 28/06/2018
Một số giải pháp tăng cường quản lý đầu tư xây dựng
cơ bản nội ngành Kho bạc Nhà nước tại Kho bạc Nhà
nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Ths. Nguyễn Hữu
Viên - KBNN
Thanh Hóa
2 04/07/2018
Tăng cường kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua
KBNN cấp huyện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong
điều kiện thống nhất đầu mối kiểm soát chi NSNN.
Kho bạc Nhà nước
Thái Nguyên
3 05/07/2018 Phần mềm tin học kiểm soát chi cho cá nhân của đơn
vị sử dụng ngân sách qua KBNN Ninh Thuận.
Kho bạc Nhà nước
Ninh Thuận
4
12/07/2018 Giải pháp hoàn thiện công cụ khe hở thanh khoản
trong hoạt động quản lý rủi ro thanh khoản tại
Vietcombank.
Ths. Trần Thị Thu
Hà - Trụ sở chính
Vietcombank
5 12/07/2018
Dự báo khả năng chuyển nhóm nợ xấu của các khách
hàng doanh nghiệp thông thường tại Vietcombank
bằng phương pháp hồi quy logistic.
Cử nhân Vương
Minh Giang - Trụ
sở chính
Vietcombank
6 16/07/2018
Nghiên cứu, xây dựng phần mềm quản lý thuế thông
qua chỉ số đồng hồ (công tơ) tổng của các phương tiện
đo xăng, dầu trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Cục Thuế tỉnh Phú
Thọ
7 19/07/2018 Nâng cao năng lực quản trị tài chính của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở khu vực Đông Nam Bộ.
TS. Nguyễn Thị
Hoàng Anh -
Trường Đại học
Ngoại thương Cơ sở
2 tại Tp.HCM
8 31/07/2018 Một số giải pháp tăng cường giám sát việc kê khai tài
sản của cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý.
Ông Nguyễn Văn
Vinh - Ủy ban Kiểm
tra Trung ương
Ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật
9 28/06/2018 Nghiên cứu, đánh giá ô nhiễm kim loại nặng trong đất Ths. Lưu Hải Tùng -
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 45/46
huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh. Viện Địa lý Tài
nguyên TP. Hồ Chí
Minh
10 29/06/2018
Nghiên cứu bảo tồn, hoàn thiện quy trình nhân giống
và trồng thử nghiệm 02 loài lan kim tuyến
(Anoetochilus spp và loài bản địa) tại Phú Yên.
Ths. Nguyễn Trọng
Lực - Trung tâm
Ứng dụng và
Chuyển giao công
nghệ Phú Yên
11 29/06/2018
Nghiên cứu nhân giống vô tính và trồng thử nghiệm
cây cà gai leo (Solanum procumbens Lour) tại Phú
Yên.
Ths. Trương Hùng
Mỹ - - Trung tâm
Ứng dụng và
Chuyển giao công
nghệ Phú Yên
12 03/07/2018 Đánh giá hệ thống giám sát bệnh truyền nhiễm tại
Việt Nam và đề xuất các giải pháp.
Viện Chiến lược và
Chính sách Y tế;
Cục Y tế Dự phòng
– Bộ Y tế
13 11/07/2018
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất
một số loại thực phẩm và thức ăn chăn nuôi từ quả
mắc ca.
PGS.TS Nguyễn
Văn Lợi - Trường
Đại học Công
nghiệp Hà Nội
14 13/07/2018
Điều tra, nghiên cứu, đánh giá thực trạng đa dạng sinh
học và tài nguyên thiên nhiên làm cơ sở khoa học cho
việc mở rộng và nâng hạng cấp Quốc gia khu bảo tồn
loài – sinh cảnh Vượn Cao Vít Trùng Khánh.
GS.TSKH Đặng
Huy Huỳnh - Sở
Khoa học và Công
nghệ tỉnh Cao Bằng
15 16/07/2018 Nghiên cứu sử dụng bột đá Non Nước phế thải để sản
xuất vật liệu composite.
PGS.TS Đoàn Thị
Thu Loan - Trường
Đại học Bách khoa
Đà Nẵng
16 18/07/2018
Ứng dụng các sản phẩm nano kim loại (Cuo, Fe0,
Co0) trong quá trình xử lý hạt giống nhằm kích thích
tăng trưởng, tăng năng suất thu hoạch cho cây ngô
trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
Viện Khoa học vật
liệu
17 24/07/2018
Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng tại Trung tâm
Sản xuất-Dịch vụ phù hợp với bộ tiêu chuẩn ISO
9001:2008.
Ths. Dương Thị Tân
- Trường Đại học
Công nghiệp Dệt
May Hà Nội
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 08/2018 46/46
18 24/07/2018 Nghiên cứu, phát triển cây rau Bò khai tại xã Ân Tình,
huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn.
Phòng Nông nghiệp
và Phát triển nông
thôn huyện Na Rì
Ngành Giáo dục đào tạo
19 10/07/2018 Giáo trình Tiền lâm sàng 1.
Đơn vị Huấn luyện
kỹ năng - Trường
Đại học Y Dược
Cần Thơ
20 20/7/2018 Ứng dụng trường phái kinh tế học pháp luật trong
nghiên cứu, giảng dạy pháp luật cạnh tranh.
TS Phạm Trí Hùng -
Trường Đại học
Luật TP.HCM
Ngành văn hóa xã hội
21 09/07/2018 Lịch sử Đảng bộ Công an Trung ương (1945 – 2015). Đảng ủy Công an