Top Banner
1 BẢN TIN THỦY SẢN (Thứ Ba, ngày 1 tháng 11 năm 2016) CHÍNH SÁCH - QUẢN LÝ ............................................................................................ 2 1. Thừa Thiên-Huế đã bồi thƣờng 176 tỉ đồng do sƣ̣ cố môi trƣờng biển ................ 2 2. Đẩy nhanh bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời dân 4 tỉnh miền Trung ....................... 3 3. Hàng triệu ngƣ dân Việt lâm cảnh nghèo vì nƣớc biển dâng ................................ 5 4. Thuê mặt nƣớc biển phải chịu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ........................ 7 5. Quản lý hồ ở Hà Nội: Chồng chéo, khó quy trách nhiệm ..................................... 8 6. Phân biệt rõ nƣớc mắm và nƣớc chấm ................................................................ 10 7. Sẽ làm rõ khái niệm nƣớc mắm và nƣớc chấm ................................................... 11 VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM ............................................................................ 12 8. Thống nhất đề xuất miễn công bố hợp quy về an toàn thực phẩm...................... 12 9. TP. HCM phát hiện nhiều mẫu rau, thịt, thủy sản chứa chất cấm....................... 13 THƢƠNG MẠI .............................................................................................................. 15 10. Giá cá tra chững tại thị trƣờng Brazil .................................................................. 15 11. Khe cửa hẹp cho con tôm xuất khẩu.................................................................... 15 NUÔI TRỒNG THỦY SẢN.......................................................................................... 17 12. An Giang: Phát triển tôm càng xanh toàn đực .................................................... 17 13. Phú Yên: Nuôi trồng thủy sản - Tập trung phát triển các mô hình mới .............. 18 14. Hƣng Yên: Hiệu quả từ mô hình nuôi thả thủy sản ở Khoái Châu ..................... 19 15. Bà Rịa - Vũng Tàu: Diê ̣n ti ́ ch nuôi trồng thu ̉ y sa ̉ n VietGAP còn ít .................... 21 16. Ngƣời nuôi tôm lớn nhất xứ Quảng và giấc mơ thuê thêm đất mở rộng quy mô ............................................................................................................................. 21 17. Hải Dƣơng: Hiệu quả kinh tế từ mô hình nuôi thủy sản tập trung ...................... 24 18. I.D.I hình thành vùng nuôi cá tra ......................................................................... 24 KHAI THÁC THỦY SẢN............................................................................................. 26 19. Bình Định: Ngƣời lèo lái đội tàu cá của mình ăn nên làm ra suốt nhiều năm .... 26 20. Ngƣ dân trúng mùa ruốc ...................................................................................... 29 CỨU HỘ - CỨU NẠN................................................................................................... 29 21. Kiên Giang: Giáo viên bỏ tiền túi cứu rùa biển................................................... 29 22. Phú Yên: Cứu bốn ngƣ dân bị chìm tàu ở cửa biển............................................. 29 23. Bình Định: Hai tàu cá gặp sự cố trên biển........................................................... 30 THỊ TRƢỜNG ............................................................................................................... 31
36

Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

Jan 29, 2017

Download

Documents

vothien
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

1

BẢN TIN THỦY SẢN

(Thứ Ba, ngày 1 tháng 11 năm 2016)

CHÍNH SÁCH - QUẢN LÝ ............................................................................................ 2

1. Thừa Thiên-Huế đã bồi thƣờng 176 tỉ đồng do sƣ cô môi trƣờng biên ................ 2

2. Đẩy nhanh bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời dân 4 tỉnh miền Trung ....................... 3

3. Hàng triệu ngƣ dân Việt lâm cảnh nghèo vì nƣớc biển dâng ................................ 5

4. Thuê mặt nƣớc biển phải chịu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ........................ 7

5. Quản lý hồ ở Hà Nội: Chồng chéo, khó quy trách nhiệm ..................................... 8

6. Phân biệt rõ nƣớc mắm và nƣớc chấm ................................................................ 10

7. Sẽ làm rõ khái niệm nƣớc mắm và nƣớc chấm ................................................... 11

VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM ............................................................................ 12

8. Thống nhất đề xuất miễn công bố hợp quy về an toàn thực phẩm ...................... 12

9. TP. HCM phát hiện nhiều mẫu rau, thịt, thủy sản chứa chất cấm ....................... 13

THƢƠNG MẠI .............................................................................................................. 15

10. Giá cá tra chững tại thị trƣờng Brazil .................................................................. 15

11. Khe cửa hẹp cho con tôm xuất khẩu .................................................................... 15

NUÔI TRỒNG THỦY SẢN .......................................................................................... 17

12. An Giang: Phát triển tôm càng xanh toàn đực .................................................... 17

13. Phú Yên: Nuôi trồng thủy sản - Tập trung phát triển các mô hình mới .............. 18

14. Hƣng Yên: Hiệu quả từ mô hình nuôi thả thủy sản ở Khoái Châu ..................... 19

15. Bà Rịa - Vũng Tàu: Diên tich nuôi trông thuy san VietGAP còn ít .................... 21

16. Ngƣời nuôi tôm lớn nhất xứ Quảng và giấc mơ thuê thêm đất mở rộng quy mô

............................................................................................................................. 21

17. Hải Dƣơng: Hiệu quả kinh tế từ mô hình nuôi thủy sản tập trung ...................... 24

18. I.D.I hình thành vùng nuôi cá tra ......................................................................... 24

KHAI THÁC THỦY SẢN ............................................................................................. 26

19. Bình Định: Ngƣời lèo lái đội tàu cá của mình ăn nên làm ra suốt nhiều năm .... 26

20. Ngƣ dân trúng mùa ruốc ...................................................................................... 29

CỨU HỘ - CỨU NẠN................................................................................................... 29

21. Kiên Giang: Giáo viên bỏ tiền túi cứu rùa biển ................................................... 29

22. Phú Yên: Cứu bốn ngƣ dân bị chìm tàu ở cửa biển............................................. 29

23. Bình Định: Hai tàu cá gặp sự cố trên biển ........................................................... 30

THỊ TRƢỜNG ............................................................................................................... 31

Page 2: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

2

24. Ngƣời nuôi vẫn lo dù giá cá tra tăng cao ............................................................. 31

MÔI TRƢỜNG .............................................................................................................. 32

25. TP.HCM: Lắp vòi bơm, máy quạt giúp cá sống ở kênh Nhiêu Lộc.................... 32

XÃ HỘI .......................................................................................................................... 33

26. 131 ngƣ dân đầu tiên nộp đơn gia nhập nghiệp đoàn nghề cá ............................ 33

27. Quảng Ninh: Thu giữ số lƣợng lớn hàu nhập lậu từ Trung Quốc ....................... 33

TIN THẾ GIỚI ............................................................................................................... 34

28. Thủy sản nuôi ngày càng đƣợc ƣa chuộng ở Nhật Bản ....................................... 34

CHÍNH SÁCH - QUẢN LÝ

Thừa Thiên-Huế đã bồi thƣờng 176 tỉ đồng do sƣ cô môi trƣờng biên

Tính đến chiều 31/10, Thừa Thiên-Huế đã thực hiện chi trả tiền đợt 1 đền bù thiệt hại

do sự cố môi trƣờng biển cho 21/29 xã, thị trấn ven biển với tổng tiền đã chi trả 176 tỉ

đồng.

Chiều 31/10, UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế họp đánh giá tình hình chi trả tiền đợt 1 đền

bù thiệt hại do sự cố môi trƣờng biển.

Việc chi trả tiền bồi thƣờng tại các địa phƣơng của tỉnh Thừa Thiên-Huế đƣợc thực

hiện theo nguyên tắc chi trả cho những xã có ít đối tƣợng bị ảnh hƣởng trƣớc, sau đó

tiến hành chi trả ở những xã, thị trấn có nhiều đối tƣợng bị ảnh hƣởng.

Tính đến chiều 31/10, các huyện đã thực hiện chi trả đợt 1 gồm: Phú Lộc 11/11 xã với

tổng số tiền đã chi trả trên 63 tỉ đồng; huyện Phú Vang 8/8 xã, thị trấn với tổng số tiền

đã chi trả trên 58 tỉ đồng; Quảng Điền có 2/2 xã và thị xã Hƣơng Trà 2/2 xã đã đƣợc

chi trả tiền bồi thƣờng với tổng số tiền gần 26 tỉ đồng. Riêng huyện Phong Điền sẽ tiến

hành chi trả vào những ngày đầu tháng 11/2016.

Trong quá trình triển khai chi trả còn gặp một số vƣớng mắc trong việc xác định đối

tƣợng lao động đƣợc chi trả tiền đền bù nhƣ: Lao động biển trên 60 tuổi bị ảnh hƣởng

trực tiếp sự cố môi trƣờng biển, đối tƣợng không có việc làm sau sự cố môi trƣờng

biển nay làm việc ở địa phƣơng khác…

UBND tỉnh Thừa Thiên Huế yêu cầu các ngành, địa phƣơng tổ chức rà soát, thống kê

các đối tƣợng thực sự bị thiệt hại do ảnh hƣởng sự cố môi trƣờng biển nhƣng chƣa

đƣợc xác định, kê khai thiệt hại bởi vƣớng mắc, chƣa có cơ sở xác định thiệt hại để đề

xuất Trung ƣơng giải quyết.

Tiếp nhận, kiểm tra, nghiên cứu và trả lời các đơn kiến nghị, đề xuất, khiếu nại của

ngƣời dân liên quan đến việc đền bù thiệt hại do sự cố môi trƣờng biển. Đồng thời, tiếp

Page 3: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

3

tục tổ chức tốt công tác chi trả tiền đền bù thiệt hại cho ngƣời dân, bảo đảm thuận lợi,

an toàn, chính xác, không để xảy ra tiêu cực.

Hƣớng dẫn ngƣời dân sử dụng tiền bồi thƣờng để khôi phục sản xuất, chuyển đổi nghề,

phát triển nghề biển và nuôi trồng thủy sản trong vùng đầm phá nhằm ổn định cuộc

sống và sinh kế bền vững.

Trƣớc đó, Bí thƣ Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế Lê Trƣờng Lƣu chỉ đạo các địa phƣơng chi

trả tiền bồi thƣờng do sự cố môi trƣờng biển trực tiếp đến tận ngƣời dân bị thiệt hại kịp

thời, đúng đối tƣợng; không để xảy ra tiêu cực và khiếu kiện. Vận động nhân dân vùng

ven biển, đầm phá sử dụng nguồn tiền đƣợc đền bù vào phát triển sản xuất, kinh doanh

theo các ngành nghề phù hợp. Đẩy mạnh chuyển đổi nghề, tạo công ăn, việc làm cho

ngƣời dân. (Chính Phủ 31/10, Thế Phong) đầu trang

Đẩy nhanh bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời dân 4 tỉnh miền Trung

Phó Thủ tƣớng Thƣờng trực Trƣơng Hòa Bình yêu cầu 4 tỉnh miền Trung tập trung

quyết liệt để giải quyết các vấn đề liên quan đến bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời dân bị

ảnh hƣởng sự cố môi trƣờng biển, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến cuối năm

và sang năm sau.

Chiều 31/10, tại Hà Tĩnh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tƣớng Thƣờng trực Chính

phủ Trƣơng Hoà Bình đã làm việc với lãnh đạo 4 tỉnh miền Trung về bồi thƣờng, hỗ

trợ thiệt hại do sự cố môi trƣờng biển.

Theo ông Vũ Văn Tám, Thứ trƣởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

(NN&PTNT), Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phƣơng khẩn trƣơng khắc phục sự

cố và khôi phục sản xuất cho nhân dân. Đồng thời, thực hiện các chính sách hỗ trợ của

Nhà nƣớc, nhƣ hỗ trợ gạo (cấp không thu tiền cho 4 tỉnh bị ảnh hƣởng gần 25.000 tấn

gạo), hỗ trợ tiền với việc tạm ứng 70% số kinh phí Trung ƣơng cho ngƣ dân các tỉnh…

Đến nay các địa phƣơng đã cơ bản hoàn thành việc kê khai, niêm yết, xác định thiệt

hại; áp dụng định mức, tính toán giá trị thiệt hại, niêm yết công khai, hƣớng dẫn và giải

đáp các thắc mắc của nhân dân. Đến ngày 28/10/2016, đã có 3 tỉnh thực hiện việc báo

cáo áp giá/định mức bồi thƣờng để tính thiệt hại theo Quyết định số 1880/QĐ-TTg của

Thủ tƣớng Chính phủ.

Về xử lý hải sản tồn kho, Thủ tƣớng Chính phủ đã giao các bộ, ngành chỉ đạo, hƣớng

dẫn các địa phƣơng khẩn trƣơng giải quyết ngay hàng hải sản tồn kho trong các kho

lạnh, kho cấp đông tại 4 tỉnh miền Trung (khoảng 5.369 tấn). Tuy nhiên, việc này chƣa

có chuyển biến tích cực vì các chủ hàng chƣa nhất trí bồi thƣờng 70% giá trị hàng

không đạt yêu cầu chất lƣợng, an toàn thực phẩm, chƣa có định mức bồi thƣờng và

chƣa rõ biện pháp tiêu thụ.

Page 4: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

4

Bộ NN&PTNT đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng trình Thủ tƣớng Chính

phủ Đề án Xác định thiệt hại để bồi thƣờng và hỗ trợ cho ngƣời dân; thiết lập hệ thống

quan trắc, giám sát môi trƣờng biển tại 4 tỉnh; phục hồi tái tạo các hệ sinh thái thuỷ

sinh và nguồn lợi thuỷ sản; chính sách khôi phục và phát triển sản xuất nhƣ hỗ trợ

đóng mới tàu cá, vay vốn phát triển sản xuất, xử lý nợ và hỗ trợ tiền lãi suất vay ngân

hàng, hỗ trợ tạm trữ và tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản, khôi phục hoạt động du lịch; chính

sách hỗ trợ đào tạo nghề, tạo việc làm; bảo đảm an toàn thực phẩm và gỗ trợ y tế, giáo

dục cho ngƣời dân.

Bộ NN&PTNT kiến nghị nghiên cứu sửa đổi, bổ sung về định mức bồi thƣờng thiệt

hại đối với cơ sở ƣơng dƣỡng giống cá nƣớc mặn, nƣớc lợ, tàu dƣới 90 CV khai thác

trong đầm phá, cơ sở nuôi thuỷ sản siêu thâm canh, cơ sở nuôi thuỷ sản bị chết từ 30-

70% (đã có định mức bồi thƣờng cho cơ sở nuôi thuỷ sản chết trên 70%); định mức bồi

thƣờng thiệt hại đối với tàu cá có công suất máy chính từ 90 CV trở lên chƣa tách riêng

đƣợc phần bồi thƣờng thiệt hại của chủ tàu và ngƣời lao động.

Tại hội nghị, lãnh đạo các tỉnh nêu lên những thắc mắc lớn nhất của ngƣời dân chủ yếu

là mở rộng đối tƣợng, bổ sung định mức xem xét bồi thƣờng, hỗ trợ cho bà con, nhƣ

ngƣời nuôi tôm chân trắng, nuôi cá nƣớc ngọt dùng thuỷ sản làm thức ăn, nuôi trồng

thuỷ sản vùng đầm phá, cửa sông, cửa biển…

Các tỉnh đề nghị việc xác định giá trị bồi thƣờng cho ngƣời dân cần tích cực triển khai

để giải ngân ngay trong tháng 11/2016 giúp bà con có vốn khôi phục sản xuất, dịch vụ,

kinh doanh, ổn định sản xuất.

“Ngƣời dân bức xúc kiến nghị lên tỉnh, huyện liên tục trong việc xác định định mức

bồi thƣờng và đối tƣợng sao cho thoả đáng, khách quan, công bằng. Ngay nhà tôi, sáng

sớm đã có ngƣời đến trình bày, gửi kiến nghị rồi”, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh

Đặng Ngọc Sơn giải trình.

Kết luận cuộc làm việc, Phó Thủ tƣớng Thƣờng trực Chính phủ Trƣơng Hoà Bình biểu

dƣơng cố gắng, nỗ lực của các bộ, ngành, địa phƣơng trong quá trình thực hiện các chỉ

đạo của Chính phủ trong việc xác định bồi thƣờng, hỗ trợ ngƣời dân bị thiệt hại do sự

cố môi trƣờng biển tại 4 tỉnh miền Trung vừa qua.

"Hiện nay, bức xúc của ngƣời dân là chúng ta chƣa tiêu huỷ đƣợc cá không bán đƣợc,

đối với Hà Tĩnh còn 3 thôn ở huyện Kỳ Anh chƣa kê khai thiệt hại, thống kê đối tƣợng,

có tỉnh đã giải ngân (Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế), có tỉnh chƣa giải ngân, bà con đề nghị

hỗ trợ thêm cho đối tƣợng kinh doanh dịch vụ ven biển (cần xác định định mức để kê

khai), ngoài ra còn một số tồn tại trong công tác an ninh trật tự tại cơ sở".

Phó Thủ tƣớng yêu cầu các tỉnh tập trung quyết liệt để giải quyết các vấn đề này, coi

đây là nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh từ nay đến cuối năm và sang năm sau. Xác định

Page 5: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

5

trách nhiệm của Chủ tịch UBND tỉnh trƣớc Chính phủ về vấn đề này nếu để xảy ra

chậm trễ, gian dối trong kê khai…

Các tỉnh cần tăng cƣờng tuyên truyền, tạo sự đồng thuận của nhân dân với chủ trƣơng

của Chính phủ trong việc bồi thƣờng, hỗ trợ ngƣời dân bị thiệt hại, khẩn trƣơng tổ

chức chi trả cho ngƣời dân đúng đối tƣợng, khách quan, minh bạch, công bằng và thoả

đáng. Đối với việc bổ sung thêm định mức và đối tƣợng đƣợc bồi thƣờng, hỗ trợ thì

các địa phƣơng cần rà soát, cân nhắc kỹ lƣỡng, báo cáo Bộ NN&PTNT để trình Chính

phủ xem xét, quyết định.

Các bộ, ngành, địa phƣơng tập trung giải quyết dứt điểm hàng thuỷ sản còn tồn kho

đông lạnh không bán đƣợc theo chỉ đạo của Thủ tƣớng. Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng

phân loại, tiêu huỷ hay sử dụng nhu cầu khác đối với hàng thuỷ sản quá hạn sử dụng

bảo đảm an toàn, có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng.

Ngay trong tháng 11/2016, Bộ Công Thƣơng có trách nhiệm phân phối, tiêu thụ những

hàng hải sản đủ tiêu chuẩn sử dụng an toàn của các hộ kinh doanh trên địa bàn 4 tỉnh,

Nhà nƣớc hỗ trợ tiền điện và lãi vay ngân hàng cho các hộ kinh doanh nói trên.

Phó Thủ tƣớng cũng đã giao các bộ, ngành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình

cần tổ chức thực hiện tốt chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ đối với việc bồi

thƣờng, hỗ trợ cho ngƣời dân bị thiệt hại do sự cố môi trƣờng biển vừa qua.

Bộ Tài chính nghiên cứu các đề xuất của địa phƣơng về xác định bồi thƣờng, hỗ trợ

thiệt hại cho nhân dân.

Đặc biệt, Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức tuyên truyền rõ chủ trƣơng, chính

sách đúng đắn của Đảng, Nhà nƣớc về công tác bồi thƣờng, hỗ trợ cho bà con đúng đối

tƣợng, công khai, minh bạch, sớm nhất. Các cơ quan truyền thông cần tuyên truyền về

môi trƣờng biển đã an toàn, môi trƣờng đã sạch, gỡ bỏ tâm lý e ngại của ngƣời dân đối

với việc tiêu thụ thuỷ hải sản hiện nay.

Các địa phƣơng làm tốt công tác vận động quần chúng để giữ vững an ninh trật tự trên

địa bàn, tạo sự đồng thuận với các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc của

nhân dân, thực hiện tốt các chính sách đại đoàn kết trong quá trình thực hiện, không để

xảy ra các vấn đề bức xúc hay bị động, bất ngờ tại địa phƣơng. (Báo Chính Phủ 31/10,

Lê Sơn) đầu trang

Hàng triệu ngƣ dân Việt lâm cảnh nghèo vì nƣớc biên dâng

dựa vào nghề đánh bắt quy mô nhỏ vì sinh kế. Chỉ cần một thay đổi nhƣ nƣớc biển

dâng có thể làm giảm khả năng của ngƣời dân tiếp cận nguồn lợi thủy sản, và càng đẩy

họ tới tình trạng nghèo đói.

Page 6: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

6

Hội nghị "Tập huấn tuyên truyền về biển, đảo, bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa và Trƣờng

Sa” vừa đƣợc Bộ TT&TT tổ chức hôm nay, 31/10/2016, ở tỉnh Kiên Giang. Tham dự

Hội nghị có đại diện Sở TTT&TT, đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện, phòng

văn hóa - thông tin cấp huyện của 13 tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu

Long.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, bà Lê Hƣơng Giang, Phó Vụ trƣởng Vụ Thông tin cơ sở,

nêu rõ: "Việt Nam là một quốc gia biển, với tỉ lệ một phần đất hơn ba phần biển. Biển

đảo, thềm lục địa có vị trí chiến lƣợc to lớn đối với quốc phòng an ninh và sự phát triển

phồn vinh của đất nƣớc. Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nƣớc thì 28 tỉnh thành phố có

biển và gần một nửa dân số nƣớc ta sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển. Vùng biển

nƣớc ta có trên 3.000 đảo lớn nhỏ, trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa".

"Một trong những mục đích của hội nghị tập huấn tuyên truyền về biển, đảo lần là

cung cấp thông tin về biển, về tiềm năng, lợi thế của biển, các tác động bất lợi từ biển

trên các vùng biển Việt Nam và vùng biển quốc tế liền kề cho đội ngũ cán bộ thông tin

cơ sở để thông qua đội ngũ này xây dựng các nội dung thông tin tuyên truyền một cách

hiệu quả đến ngƣời dân trên cả nƣớc", bà Lê Hƣơng Giang cho biết.

Tham luận tại Hội nghị, PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng Cục trƣởng

Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng, Giảng viên cao

cấp Đại học Quốc gia Hà Nội đã giúp các cán bộ thông tin cơ sở của 13 tỉnh, thành phố

khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trang bị kỹ năng phổ biến kiến thức cho cộng

đồng dân cƣ ven biển, trên các đảo về biến đổi khí hậu (BĐKH) và kỹ năng thích nghi

để sống chung với BĐKH.

PGS.TS Nguyễn Chu Hồi đặc biệt lƣu ý tác động của BĐKH đến ngƣ dân và sinh kế

nghề cá quy mô nhỏ Việt Nam: "Các vùng ven bờ với 70% dân cƣ sinh sống và đƣợc

xác định là một trong các lợi thế của Việt Nam hiện đang đối mặt với các đe dọa không

dự báo đƣợc của mực nƣớc biển dâng cao và các thiên tai khác liên quan đến BĐKH.

Việt Nam có khoảng 20 triệu dân sống giáp biển với 28 tỉnh ven biển, đa số là cộng

đồng ngƣ dân sống chủ yếu bằng nghề khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản và các

hoạt động hậu cần dịch vụ khác phục vụ khai thác và nuôi trồng thủy sản. Nhƣ chúng

ta đã biết, thu nhập của cộng đồng ngƣ dân ven biển Việt Nam chủ yếu là từ hoạt động

khai thác và nuôi trồng thủy sản.

Nƣớc biển dâng cao thì ngƣời bị tác động đầu tiên là ngƣ dân ven biển. Họ sẽ bị mất

nơi cƣ trú, phải di chuyển, kèm theo đó là vấn đề kinh tế xã hội, an ninh lƣơng thực,

chỗ định cƣ. Điều này làm cho ngƣ dân vốn đã nghèo lại nghèo thêm".

Theo các chuyên gia, khoảng 50 năm qua, tại Việt Nam, nhiệt độ trung bình tăng

khoảng 0,70 C và mực nƣớc biển đã dâng khoảng 20 cm. Dự kiến sau 90 năm tới (năm

2100), mực nƣớc biển sẽ tăng lên tới 1m, nhiệt độ tăng khoảng 30C. Theo tính toán,

Page 7: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

7

nếu nƣớc biển dâng 1m sẽ có 10% dân số nƣớc ta bị ảnh hƣởng trực tiếp, tổn thất đối

với GDP khoảng 10%, và sẽ làm khoảng 40 ngàn km² đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ

bị ngập hàng năm.

Theo một tính toán khác của Cơ quan Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Ôxtralia

(CSIRO), ở Việt Nam, mực nƣớc biển dâng cao sẽ làm ngập phần lớn khu vực đông

dân cƣ thuộc các vùng cửa sông ven biển châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long vào

năm 2070, đe doạ nghiêm trọng sản xuất lúa và an ninh lƣơng thực.

Nếu mực nƣớc biển dâng cao 90cm vào năm 2070 thì khoảng 500.000 ha ở châu thổ

sông Hồng, 1.500.000 – 2.000.000 ha ở đồng bằng sông Cửu Long, và khoảng 400.000

ha rừng đƣớc và đầm lầy ở phía Nam bị ngập. Mặn xâm nhập và tác động tới khoảng

2.200.000 – 2.500.000 ha.

Theo kịch bản cao nhất tính cho Việt Nam thì mực nƣớc biển trung bình có thể dâng

đến 30 - 33cm vào năm 2050 và 74 - 100cm vào năm 2100 so với trung bình thời kỳ

1980 - 1999.

Ngoài ra, nếu mực nƣớc biển dâng cao 1m vào năm 2100 thì 14.520km 2 (4,4%) diện

tích của Việt Nam sẽ bị ngập vĩnh viễn; trên 60% (39 tỉnh) và 6/8 vùng kinh tế sẽ bị

ảnh hƣởng; khoảng 20% xã (2.057/10.511 xã) trên cả nƣớc sẽ bị ngập một phần hay

toàn bộ; khoảng 9.200km (4,3%) đƣờng bộ của cả nƣớc sẽ bị ngập vĩnh viễn.

"Hàng triệu ngƣời Việt Nam, phần lớn đang còn nghèo, vẫn phải dựa vào nghề đánh

bắt quy mô nhỏ vì sinh kế. Chỉ cần một thay đổi trong hình thái thời tiết có thể làm

giảm khả năng của ngƣời dân tiếp cận nguồn lợi thủy sản và làm cho họ trở nên dễ bị

tổn thƣơng vì thế càng đẩy họ tới tình trạng nghèo đói.

Hiểu biết của chúng ta về tác động của biến đổi và biến thiên khí hậu tới nghề cá quy

mô nhỏ vẫn còn hạn chế so với các lĩnh vực nông, lâm và năng lƣợng. Cần phải có nỗ

lực từ cấp quốc gia tới địa phƣơng trong việc đánh giá tác động của BĐKH đối với

ngành nông, lâm thuỷ sản và đƣa ra các biện pháp thích ứng mang tính khoa học",

PGS.TS Nguyễn Chu Hồi nhấn mạnh thêm. (Infonet 31/10, Bình Minh) đầu trang

Thuê mặt nƣớc biên phải chịu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

Theo quy định lại các văn bản pháp luật, phần diện tích thuê mặt nƣớc biển không

đƣợc xác định là mặt nƣớc chuyên dùng sẽ thuộc đối tƣợng chịu thuế sử dụng đất phi

nông nghiệp.

Theo Tổng cục Thuế, Luật Đất đai 2013 đã quy định cụ thể các loại đất thuộc nhóm

đất phi nông nghiệp, trong đó bao gồm: Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nƣớc

chuyên dùng…

Page 8: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

8

Cũng tại Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp số 48/2010/QH 12 quy định, đất sản

xuất, kinh doanh phi nông nghiệp bao gồm: Đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm

mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất khai thác, chế biến khoáng sản; đất

sản xuấ vật liệu xây dựng, làm đồ gốm.

Mặt khác, theo quy định của Thông tƣ số 28/2014/TT-BTNMT ngày 2-6-2014 của Bộ

Tài nguyên và Môi trƣờng quy định về thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện

trạng sử dụng đất thì đất có mặt nƣớc chuyên dùng thuộc loại đất phi nông nghiệp, là

đất có mặt nƣớc của các đối tƣợng thủy văn dạng ao, hồ, đầm có ranh giới khép kín để

hình thành thửa đất, thuộc phạm vi các đô thị và các khu dân cƣ nông thông hoặc ngoài

đô thị nhƣng không sử dụng chuyên vào mục đích chuyên nuôi trồng thủy sản, thủy

điện, thủy lợi.

Nhƣ vậy, Tổng cục Thuế cho rằng, những trƣờng hợp DN đang thuê sử dụng đất phi

nông nghiệp đối với phần diện tích thuê đất, thuê mặt nƣớc biển mà không thuộc các

đối tƣợng thủy văn dạng ao, hồ, đầm có ranh giới khép kín để hình thành thửa đất thì

không đƣợc xác định là đất có mặt nƣớc chuyên dùng và phải chịu thuế sử dụng đất

phi nông nghiệp.

Điển hình nhƣ tại trƣờng hợp của Công ty CP xi măng Công Thanh Khánh Hòa đƣợc

UBND tỉnh Khánh Hòa cho thuê đất, thuê mặt nƣớc biển để thực hiện dự án trạm

nghiền xi măng Công Thanh, từ thời điểm tính tiền thuê đất, thuê mặt nƣớc từ ngày 4-

11-2014 thì diện tích mặt nƣớc không đƣợc xác định là mặt nƣớc chuyên dùng nên

thuộc đối tƣợng chịu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. (Hải Quan 31/10, Thùy Linh)

đầu trang

Quản lý hồ ở Hà Nội: Chồng chéo, khó quy trách nhiệm

Sau các vụ cá chết xảy ra ở hồ Hoàng Cầu, hồ Tây, đến lƣợt cá hồ Linh Đàm (quận

Hoàng Mai) chịu chung sự cố.

Trƣớc đó, ngƣời dân quanh khu vực hồ Văn Quán (Hà Đông) cũng phải sống trong bầu

không khí ô nhiễm bốc lên từ mặt hồ do hiện tƣợng tảo chết. Các hồ có địa giới hành

chính rõ ràng, nhƣng việc quản lý hiện còn chồng chéo, dẫn đến khó xử lý khi có sự

cố.

Tối 26/10, ngƣời dân tại khu vực hồ Linh Đàm (phƣờng Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai)

phát hiện hàng loạt cá chết trôi dạt vào ven bờ đoạn phía tây hồ Linh Đàm. Chị

Phƣơng Liên, ngƣời dân tại khu BT4 Linh Đàm cho biết, sống ở đây gần chục năm

nhƣng lần đầu thấy cá chết nhiều nhƣ vậy. “Nhà tôi phải đóng hết các cửa sổ để ngăn

không cho mùi hôi xộc vào nhà”, chị Liên chia sẻ.

Ở hồ Văn Quán (quận Hà Đông), tình trạng ô nhiễm cũng diễn ra thời gian qua. Trƣa

27/10, cả hồ nƣớc đều có màu xanh rêu. Phía khu biệt thự BT1, mặt hồ xuất hiệu nhiều

Page 9: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

9

tảo, nổi váng dày đặc, kèm theo rác khiến cho khu vực này nồng nặc xú khí. Ông Phạm

Văn Quân, Tổ trƣởng tổ dân phố số 6, phƣờng Văn Quán thông tin: Đến thời điểm này

mùi hôi đã giảm đi nhiều so với những ngày trƣớc. Tuy nhiên, hồ không có đối lƣu

nƣớc, trong khi hàng ngày nƣớc hồ vẫn bị các hộ kinh doanh xả thải thì nƣớc hồ sẽ

ngày càng ô nhiễm hơn.

Theo đại diện Ban Quản lý (BQL) bảo trì khu đô thị Văn Quán, Tổng Công ty đầu tƣ

và phát triển đô thị (HUD), do nhiều ngƣời dân không ý thức, vứt rác xuống mặt hồ,

cùng mực nƣớc trong hồ thấp vì nắng nóng… khiến cho hồ bốc mùi hôi thối. “BQL đã

đề nghị phƣờng Văn Quán phối hợp xử lý những hộ kinh doanh xả rác ra hồ”, vị này

cho hay.

Trao đổi với PV Tiền Phong, đại diện Chi cục Môi trƣờng (Sở TN&MT Hà Nội) cho

biết, hai hồ Linh Đàm và Văn Quán đều thuộc sự quản lý của HUD, cho đến nay Chi

cục Môi trƣờng chƣa đƣợc chủ đầu tƣ bàn giao công trình nên đơn vị không thể tiến

hành kiểm tra, giám sát định kỳ để cảnh báo các sự cố môi trƣờng.

Đƣợc biết, giai đoạn 2009 - 2012, thành phố Hà Nội giao Sở TN&MT tiến hành

chƣơng trình thử nghiệm xử lý ô nhiễm nƣớc sông, mƣơng, hồ trên địa bàn. Sở

TN&MT đã tiến hành thử nghiệm xử lý đƣợc 12 hồ. Sở này cũng bàn giao cho Công ty

TNHH MTV Thoát nƣớc các hồ: Ngọc Khánh, Xã Đàn, Hai Bà Trƣng, Kim Liên,

Thanh Nhàn 1, Thanh Nhàn 2B, Đền Lừ, Trúc Bạch. Đối với hồ Văn Quán đã đƣợc

bàn giao cho HUD. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều hồ đã ở trong tình trạng ô

nhiễm cần cải tạo nhƣng chƣa đƣợc phê duyệt.

Theo thống kê, tại các quận nội thành hiện có hơn 30 hồ lớn, nhỏ. Tuy nhiên, Sở

TN&MT chỉ chịu trách nhiệm quản lý một số hồ lớn. Một số hồ có diện tích nhỏ đƣợc

bàn giao cho chính quyền địa phƣơng chịu trách nhiệm quản lý nhƣ hồ Ngọc Khánh,

Hoàng Cầu, Giảng Võ. Một số hồ điều hòa do chủ đầu tƣ khu đô thị quản lý nhƣ hồ

Linh Đàm, Văn Quán.

Có một số hồ lại thuộc công ty thoát nƣớc quản lý… Việc chƣa có một cơ quan chức

năng độc lập đảm nhận trách nhiệm quản lý các hồ tại khu vực nội thành đang khiến

cho việc giám sát, kiểm tra định kỳ, cảnh báo nguy cơ ô nhiễm, xử lý khi xảy ra sự cố

môi trƣờng hồ gặp nhiều khó khăn.

PGS.TS Trƣơng Mạnh Tiến, Chủ tịch Câu lạc bộ (CLB) hồ Hà Nội cho biết, những vụ

cá chết, ô nhiễm hồ liên tiếp trong thời gian gần đây cho thấy hồ Hà Nội đang bị ô

nhiễm nghiêm trọng. Trong đó, có những hồ đã bị “bức tử” hoàn toàn nhƣ hồ Linh

Quang, Văn Chƣơng… Ông Tiến cho biết, CLB đã đề nghị Sở TN&MT Hà Nội triển

khai các dự án để truy tìm các nguồn thải, đƣa nƣớc thải vào các khu xử lý nƣớc tập

trung, đảm bảo chất lƣợng nƣớc.

Page 10: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

10

Bà Nguyễn Ngọc Lý, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Môi trƣờng & Cộng đồng cho

biết, các hồ Hà Nội hiện nay phần lớn đều bị ô nhiễm các mức độ khác nhau. Chính

công tác quản lý hồ còn nhiều bất cập khiến chất lƣợng nƣớc hồ liên tục xuống cấp.

Một hồ đƣợc quản lý bởi quá nhiều cơ quan chức năng, bà Lý nêu ví dụ, một số hồ

điều hòa do Cty Thoát nƣớc quản lý chất lƣợng nƣớc, nhƣng việc giám sát chất lƣợng

nƣớc lại do Sở TN&MT phụ trách, nhƣ vậy nếu hồ bị ô nhiễm nặng, ngƣời dân cũng

không biết báo cho đơn vị nào.

Ngoài ra, theo Luật Bảo vệ môi trƣờng 2014, một điểm quan trọng là quy định cấm

nuôi cá. Nhƣng rất ít hồ ở Hà Nội thực hiện quy định này. Nuôi cá không thực sự

mang lại hiệu quả kinh tế mà gây hậu quả lớn về ô nhiễm hồ. Bà Lý khuyến nghị thành

phố cần lập riêng một cơ quan quản lý hồ Hà Nội độc lập, chịu trách nhiệm quản lý

chung về từng hồ. Cơ quan này có trách nhiệm về khôi phục, cải thiện chất lƣợng hồ,

bao gồm chất lƣợng nƣớc và chất lƣợng xung quanh, đảm bảo từng bƣớc khôi phục hồ

về chức năng của mình. (Tiền Phong 1/11, Ngọc Cương – Trần Hoàng) đầu trang

Phân biệt rõ nƣớc mắm và nƣớc chấm

Hôm qua, 31.10, Bộ NNPTNT đã có văn bản gửi Thủ tƣớng Chính phủ về việc thông

tin chất lƣợng nƣớc mắm. Đây là những thông tin thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ

tƣớng giao Bộ NNPTNT “chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế có ngay thông tin chính thức

tới ngƣời dân về loại và hàm lƣợng asen an toàn trong sản phẩm nƣớc mắm cũng nhƣ

các thông tin cần thiết khác liên quan, tránh gây hoang mang dƣ luận.

Sau khi có chỉ đạo của Thủ tƣớng Bộ NNPTNT, Bộ Y tế, Bộ Công thƣơng đã rà soát,

bổ sung thông tin về chất lƣợng, an toàn thực phẩm nƣớc mắm. Bộ NNPTNT một lần

nữa khẳng định asen có thể tồn tại dƣới dạng vô cơ và hữu cơ. Asen hữu cơ là kết quả

của quá trình trao đổi chất tự nhiên, do đó có trong thực phẩm. Vì vậy sản phẩm nƣớc

mắm lên men từ cá có asen hữu cơ, không gây độc cho ngƣời, không cần đánh giá mức

độ nguy hại và quy định tối đa trong thực phẩm. Trong khi đó, asen vô cơ gây độc, có

quy định giới hạn tối đa trong thực phẩm.

Bộ NNPTNT cũng chính thức đƣa ra những quy định về nƣớc mắm và nƣớc chấm.

Theo đó, nƣớc mắm là sản phẩm truyền thống, lâu đời của Việt Nam. Phƣơng pháp sản

xuất truyền thống là quá trình lên men tự nhiên hỗn hợp bao gồm cá và muối.

Tiêu chuẩn quốc tế CODEX STAN 302-2011 đƣa ra khái niệm nƣớc mắm “là dung

dịch đạm trong (không vẩn đục, với quá trình lên men hỗn hợp cá và muối”. Đối với

nƣớc chấm, văn bản Bộ NNPTNT nêu: Theo tiêu chuẩn TCVN 1763:1986 quy định “

nƣớc chấm lên men và nƣớc chấm hóa giải sản xuất từ nguyên liệu giàu protein có

nguồn gốc thực vật, theo phƣơng pháp vi sinh hoặc hóa học”.

Tuy nhiên tiêu chuẩn này đã đƣợc thay thế bằng tiêu chuẩn TCVN 1763:2008, khái

niệm nƣớc chấm đƣợc thay thế bằng khái niệm nƣớc tƣơng: “Nƣớc tƣơng là sản phẩm

Page 11: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

11

dạng lỏng thu đƣợc do quá trình lên men và/ hoặc quá trình thủy phân hạt đậu tƣơng

và/hoặc đậu tƣơng và ngũ cốc và/hoặc protein thực vật”. Do nguồn nguyên liệu sản

xuất nƣớc mắm và nƣớc chấm khác nhau, rủi ro về an toàn thực phẩm (nhƣ kim loại

nặng) khác nhau nên Bộ NNPTNT sẽ rà soát và xây dựng tiêu chuẩn riêng cho nƣớc

chấm, quy định danh mục chỉ tiêu, mức giới hạn an toàn thực phẩm dành riêng cho

nƣớc mắm và nƣớc chấm.

Bộ NNPTNT cũng cho biết, qua kết quả thanh kiểm tra, một số cơ sở sản xuất chỉ thể

hiện thông tin về hàm lƣợng đạm tổng trên nhãn, không công bố hàm lƣợng đạm axit

amin hay đạm amoniac hoặc không công bố trung thực hàm lƣợng đạm trên nhãn…

Điều này dẫn đến việc ngƣời tiêu dùng khó có khả năng phân biệt, nhận biết đầy đủ

thông tin cần thiết về loại nƣớc mắm, loại chất lƣợng, các loại phụ gia đã sử dụng

trong quá trình sản xuất để lựa chọn loại nƣớc mắm phù hợp.

Tới đây, Bộ NNPTNT sẽ rà soát lại toàn diện, quy định cụ thể để phù hợp hơn với thực

tiễn sản xuất nƣớc mắm đồng thời đảm bảo thông tin rõ ràng, minh bạch đảm bảo

quyền lợi cho ngƣời tiêu dùng. Dự kiến một hội nghị về nƣớc mắm sẽ đƣợc tổ chức tại

Kiên Giang vào ngày 2.11 do Bộ NNPTNT tổ chức. (Lao Động 1/10, A.K – H.Q) đầu

trang

Sẽ làm rõ khái niệm nƣớc mắm và nƣớc chấm

Báo cáo ngay 31-10 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn gửi Chính phủ về

chất lƣợng nƣớc mắm cho biết đã có tình trạng thiếu trung thực, lộn xộn trong ghi nhãn

sản phẩm nƣớc mắm.

Theo báo cáo này, qua thanh kiểm tra phát hiện một số cơ sở sản xuất chỉ ghi hàm

lƣợng đạm tổng trên nhãn, không công bố đạm axit amin (lƣợng đạm nằm dƣới dạng

axit amin), đạm amôniắc (loại đạm này càng nhiều thì nƣớc mắm càng kém chất

lƣợng) hoặc ghi không trung thực về hàm lƣợng đạm.

Kiêm tra cung cho thây việc ghi nhãn phụ gia đƣợc sử dụng trong nhiều loại nƣớc

mắm chƣa minh bạch: chỉ ghi mã ký hiệu phụ gia, ghi không đầy đủ số lƣợng phụ gia

đã sử dụng, thể hiện nội dung không đúng kích cỡ, vị trí khiến ngƣời tiêu dùng khó

nhận biết thông tin về chất lƣợng nƣớc mắm và lựa chọn.

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng cho biết hiện chƣa có quy định cụ thể

khái niệm nƣớc mắm truyền thống (nƣớc mắm cốt, nƣớc mắm nguyên chất) và nƣớc

mắm pha chế từ nƣớc mắm cốt, nƣớc mắm nguyên chất (loại nƣớc mắm hiện ngƣời

dân hiện hay gọi là nƣớc mắm công nghiệp).

“Để bảo vệ ngƣời tiêu dùng, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ rà soát tiêu

chuẩn VN về nƣớc mắm - tiêu chuẩn 5107:2003 để làm rõ khái niệm nƣớc mắm truyền

Page 12: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

12

thống, nƣớc mắm pha chế, quy định cụ thể về ghi nhãn…” - báo cáo này cho biết.

(Tuổi Trẻ 1/11, Lan Anh) đầu trang

VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM

Thông nhất đề xuất miễn công bô hợp quy về an toàn thực phẩm

Theo thông tin từ VASEP, ngày 30-10-2016, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

đã thống nhất với Bộ Y tế về đề xuất miễn công bố hợp quy, công bố phù hợp quy định

an toàn thực phẩm; miễn ghi nhãn phụ, nhãn tiếng Việt đối với thực phẩm nhập khẩu

(NK) là nguyên liệu để sản xuất, xuất khẩu (SXXK).

Theo phản ánh của các doanh nghiệp, quy định về dán nhãn sản phẩm theo Nghị định

38/2012/NĐ-CP và Thông tƣ liên tịch 34/2014/TTLT- BYT-BNNPTNT-BCT chỉ phù

hợp khi DN NK thực phẩm, nguyên liệu hoặc phụ gia thực phẩm để tiêu thụ trong

nƣớc, còn áp dụng đối với việc NK những mặt hàng này để SXXK hoặc làm nguyên

liệu SX tiếp thì không phù hợp và gây lãng phí lớn.

Trên thực tế, để hoàn thành công bố hợp chuẩn, hợp quy mất rất nhiều thời gian

(khoảng 1 tháng) dẫn tới hàng nhập khẩu về cảng phải chờ đợi rất lâu mới đƣợc thông

quan, làm mất đi nhiều cơ hội của doanh nghiệp do đình trệ trong sản xuất, mất đơn

hàng…

Về hồ sơ, theo quy định phải có kết quả kiểm nghiệm bản gốc về chỉ tiêu cảm quan, vi

sinh, hóa lý của lô hàng từ khách hàng. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không biết

chính xác chỉ tiêu kiểm nghiệm nhƣ thế nào phù hợp và đầy đủ vì không có hƣớng dẫn,

nếu chỉ tiêu kiểm nghiệm không đủ hồ sơ bị trả về và doanh nghiệp lại yêu cầu khách

kiểm bổ sung rồi gửi bản gốc về Việt Nam để nộp hồ sơ lại…

Với thực tế trên, các doanh nghiệp kiến nghị Bộ Y tế xem xét sớm sửa đổi quy định

này tại Nghị định 38/2012/NĐ-CP và các văn bản pháp luật khác có liên quan theo

hƣớng: hàng nhập khẩu cho SXXK, gia công hoặc nhập kinh doanh nhƣng làm nguyên

liệu sản xuất (bao gồm cả nguyên liệu chế biến,phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế

biến, gia vị, bao bì) thì không phải thực hiện thủ tục công bố hợp quy và công bố phù

hợp quy định ATTP.

Đối với việc quy định dán nhãn tiếng Việt, theo quy định hiện nay, khi NK nguyên

liệu SXXK, DN phải dán nhãn phụ tiếng Việt. Theo phản ánh của các DN, với nguyên

liệu thủy sản NK để SXXK hoặc gia công hàng XK (không lƣu thông, tiêu thụ trong

nƣớc) thì không thể có đƣợc nhãn phụ bằng tiếng Việt. Nhiều DN đã bị cơ quan Quản

lý thị trƣờng kiểm tra xử phạt do hàng hóa là nguyên liệu sản xuất thiếu nhãn phụ bằng

tiếng Việt.

Trong khi đó, theo quy định tại Điều 10, Nghị định 89/2006/NĐ-CP thì trách nhiệm

ghi nhãn hàng hóa là cho việc đƣa hàng hóa ra lƣu thông ở thị trƣờng trong nƣớc.

Page 13: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

13

Hàng hóa dùng để chế biến hàng XK, không lƣu thông trong nƣớc thì tổ chức, cá nhân

xuất khẩu hàng hoá phải chịu trách nhiệm về việc ghi nhãn. Từ thực tế trên, các DN

thủy sản kiến nghị Bộ Y tế chủ trì có Dự thảo sửa đổi Nghị định 89/2006/NĐ-CP nhằm

đảm bảo cho nguyên liệu, thực phẩm NK để SXXK, gia công XK và nhập kinh doanh

để SX tiếp hàng xuất khẩu (tức đều không tiêu thụ trong nƣớc) không phải thực hiện

ghi nhãn phụ…

Để tạo thuận lợi cho các DN thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có

văn bản thống nhất với Bộ Y tế về đề xuất miễn công bố hợp quy, công bố phù hợp

quy định an toàn thực phẩm; miễn ghi nhãn phụ, nhãn tiếng Việt đối với thực

phẩm NK là nguyên liệu để SXXK. (Hải Quan 1/11, Lê Thu) đầu trang

TP. HCM phát hiện nhiều mẫu rau, thịt, thủy sản chứa chất cấm

Qua quá trình kiểm tra, giám sát chất lƣợng ATVSTP trong 10 tháng, lực lƣợng chức

năng TPHCM đã phát hiện nhiều mẫu rau, thịt, thủy sản chứa chất cấm.

Trƣớc đó, UBND TP HCM đã có quyết định yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn chịu trách nhiệm kiểm tra cơ sở sản xuất, kinh doanh vật tƣ nông nghiệp và

kiểm tra, chứng nhận cơ sở sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản đủ điều kiện an

toàn thực phẩm đối với các cơ sở do cấp Thành phố cấp Giấy Chứng nhận đăng ký

kinh doanh, Giấy Chứng nhận đầu tƣ; Các cơ sở kinh doanh tại các chợ đầu mối.

Thực hiện sự chỉ đạo của UBND TP HCM, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

đã tiến hành lấy tổng cộng 2.641 mẫu, trong đó có 539 mẫu rau - củ - quả, 1.415 mẫu

thịt gia súc gia cầm và 687 mẫu thủy sản.

Kết quả kiểm tra cho thấy, có 214/2.635 mẫu vƣợt ngƣỡng cho phép. Cụ thể, 6/533

mẫu rau quả chứa thuốc bảo vệ thực vật vƣợt ngƣỡng cho phép; 129/1.415 mẫu chất

cấm trong chăn nuôi gia súc, gia cầm; và 79/687 mẫu thủy sản.

Trong quá trình thanh kiểm tra, cơ quan chức năng đã xử phạt 313 trƣờng hợp (trồng

trọt 8 trƣờng hợp, chăn nuôi 250 trƣờng hợp và thủy sản 55 trƣờng hợp) có hành vi cố

tình sử dụng chất nguy hại cho sức khỏe ngƣời tiêu dùng với số tiền khoảng 1,4 tỉ

đồng. Đáng lo ngại, các mẫu kiểm tra phát hiện có chất cấm chỉ có thể tiến hành xử lý

hậu kiểm.

Liên quan tới vấn đề này, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP HCM cho biết,

do còn gặp rất nhiều khó khăn trong công tác kiểm tra, xử lý chất lƣợng an toàn thực

phẩm, nhất là việc phát hiện các chất cấm chỉ bằng mắt thƣờng nên không thể nhận

biết đƣợc các mẫu thực phẩm sai phạm.

Khi nghi ngờ mặt hàng nào có chứa chất cấm, lực lƣợng kiểm tra đều phải lấy mẫu gửi

đi kiểm nghiệm, định tính và định lƣợng loại chất sai phạm tồn tại trong sản phẩm.

Page 14: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

14

Việc kiểm nghiệm tốn nhiều thời gian nên khi cho ra kết quả cuối cùng thì các mẫu

thực phẩm chứa chất cấm đã bị tiêu thụ hết.

Do đó, để ngăn chặn nguy cơ thực phẩm nhiễm chất cấm đến tay ngƣời tiêu dùng, Sở

Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thành phố cho biết, cùng với việc tăng cƣờng

kiểm tra tại chỗ ở các cơ sở trồng trọt, chăn nuôi, giết mổ, kinh doanh trên địa bàn, các

phƣơng án hợp tác truyền thông, thanh kiểm tra tại những địa phƣơng có nguồn hàng

cung cấp cho thành phố cũng cần đƣợc đẩy mạnh để ngăn chặn tận gốc nguy cơ nguồn

rau quả, gia súc gia cầm, thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi bằng thức ăn nguy hại, hóa

chất cấm.

Chuỗi thực phẩm an toàn đƣợc sản xuất theo tiêu chuẩn, quản lý là giải pháp mang tính

chiến lƣợc đang đƣợc thành phố triển khai với hy vọng sẽ cải thiện đƣợc chất lƣợng

thực phẩm cung cấp cho ngƣời dân.

Cũng liên quan tới khâu quản lý thực phẩm bẩn, vừa qua Sở Công thƣơng TP.HCM đã

chính thức công bố đề án quản lý, nhận diện và truy xuất nguồn gốc thịt heo tại các

chợ, siêu thị trên địa bàn giai đoạn 2016 – 2020 tại TP.HCM.

Đây là tiền đề hƣớng tới việc tăng cƣờng năng lực quản lý, kiểm soát chất lƣợng hoạt

động sản xuất, chế biến và phân phối thực phẩm của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc,

trên cơ sở quản lý, nhận diện và truy xuất nguồn gốc hàng hóa.

Theo Sở Công thƣơng TP.HCM, cho tới nay, đề án này đã nhận đƣợc sự tham gia nhiệt

tình của đông đảo doanh nghiệp, cơ sở chăn nuôi, cơ sở giết mổ, các trang trại trên địa

bàn, trong đó có rất nhiều đơn vị, doanh nghiệp lớn với quy trình sản xuất hiện đại và

khép kín. Bên cạnh đó còn có sự tham gia của các tiểu thƣơng tại các chợ, các kênh

phân phối hiện đại nhƣ siêu thị, cửa hàng...

Nội dung của đề án này thể hiện rõ, ngƣời tiêu dùng sẽ có thể tự kiểm tra mã sản phẩm

thịt heo mà mình đã mua (QR code), với đầy đủ các thông tin về sản phẩm, thông tin

về đơn vị tham gia đề án (trang trại, cơ sở giết mổ, cơ sở kinh doanh), các điểm bán

thịt heo có thể truy xuất nguồn gốc, ý kiến của ngƣời dùng.

Theo đó, đề án này đƣợc thực hiện qua 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu sẽ làm thí điểm tại

các đơn vị có đăng ký tham gia bắt đầu từ ngày 10/12/2016, triển khai rộng rãi hơn

trên toàn TP bắt đầu từ 1/3/2017.

Việc truy xuất nguồn gốc của thịt heo bắt đầu từ cổng trại chăn nuôi, xuất chuồng đƣa

đến các cơ sở giết mổ, rồi tới các chợ đầu mối, siêu thị hay các chợ bán lẻ.

Trong giai đoạn 2 sẽ triển khai theo một quy trình khép kín hơn trong hoạt động sản

xuất, bắt đầu tƣ khi chăn nuôi heo mới sinh cho khi tới tay với ngƣời tiêu dùng. Sau

khi thực hiện thành công với thịt heo, sẽ nhân rộng ra đối với các mặt hàng thịt gia súc,

Page 15: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

15

gia cầm, rau củ quả và nhiều sản phẩm thiết yếu khác. (VietQ 1/11, An Dương) đầu

trang

THƢƠNG MẠI

Giá cá tra chững tại thị trƣờng Brazil

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), đối ngƣợc với xu

hƣớng xuất khẩu (XK) cùng kỳ năm trƣớc, 8 tháng đầu năm nay, XK cá tra sang thị

trƣờng Brazil lại không ổn định.

Cụ thể, nếu 4 tháng đầu năm 2016, Brazil là điểm sáng nhất trong bức tranh XK với

tổng giá trị XK đạt trên 27.1 triệu USD, tăng 273.9% so với cùng kỳ năm trƣớc thì từ

tháng 5/2015, giá trị XK cá tra sang thị trƣờng này lại tụt dốc.

Hoạt động XK cá tra sang thị trƣờng này bị ngƣng trệ do Bộ Nghề cá và Nuôi trồng

thủy sản Brazil (MPA) thông báo tạm ngừng NK thủy sản và các sản phẩm chế biến từ

thủy sản hay/hoặc sản phẩm đánh bắt có xuất xứ từ Việt Nam. Đồng thời, sự giảm giá

đồng Real và cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài khiến cho hoạt động XNK của DN

nƣớc này gặp nhiều khó khăn.

Nền kinh tế Brazil đƣợc các chuyên gia kinh tế thế giới dự báo sẽ còn giảm sâu hơn

nữa trong 2 năm tới. Do đó, rất khó đƣa ra dự đoán cho hoạt động XK cá tra Việt Nam

sang thị trƣờng này trong thời gian tới, ngoài việc chắc chắn rằng, trong thời gian tới

giá XK cá tra sang thị trƣờng này vẫn quanh mức 1.55 USD/kg. (Vietstock 31/10) đầu

trang

Khe cửa hẹp cho con tôm xuất khẩu

Một khi tôm xuất khẩu của Việt Nam bị cảnh báo về chất lƣợng hoặc trả về thì không

chỉ thiệt hại cho doanh nghiệp xuất khẩu mà còn ảnh hƣởng lớn đến cả ngành. Và việc

đổi mới mô hình sản xuất tôm là câu chuyện không hề đơn giản.

Những cảnh báo dƣ lƣợng hóa chất, kháng sinh ở tôm xuất khẩu không là vấn đề mới

nhƣng cho đến nay vẫn cứ xảy ra đều đặn hàng năm.

Từ một hội nghị về phòng chống dịch bệnh tôm diễn ra ở Bến Tre hồi cuối năm 2012,

ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn Thủy sản Minh Phú, từng lên

tiếng rằng, để giải quyết vấn đề hàng rào kỹ thuật cho mặt hàng tôm xuất khẩu, nhất

thiết phải nghĩ tới giải pháp kiện, nếu không, thị trƣờng nhập khẩu sẽ ngày càng đƣa ra

những hàng rào kỹ thuật khắt khe hơn.

Mới đây, theo thông báo của Cục Quản lý chất lƣợng nông lâm sản và thủy sản

(Nafiqad) thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, từ ngày 5-9 đến cuối tháng

Page 16: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

16

12-2016, Hàn Quốc áp dụng kiểm tra 10% lô hàng đối với hoạt chất Nitrofurans thay

vì chỉ với chất Ethoxyquin nhƣ trƣớc đây.

Tƣơng tự, danh mục các loại kháng sinh bị Nhật Bản áp dụng kiểm tra cũng từ chỗ chỉ

có Ethoxyquin, Enrofloxacin trƣớc đây, nay đã có thêm Chloramphenicol,

Sulfadiazine, Sulfamethoxazole, Furazolidone.

Trao đổi với TBKTSG, ông Nguyễn Hữu Dũng, nguyên Phó chủ tịch Hiệp hội Chế

biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cho rằng đây là quyền của nhà nhập

khẩu. “Để bảo vệ ngƣời tiêu dùng và trong khuôn khổ luật pháp cho phép, họ có quyền

đƣa ra yêu cầu kiểm tra, miễn là những yêu cầu đó không quá đáng. Ở vị trí ngƣời xuất

khẩu, ta phải chấp nhận và đừng nghĩ đó là rào cản”, ông nói.

Cùng quan điểm, ông Trần Văn Phẩm, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản Sóc

Trăng (Stapimex), cho rằng mức sống của ngƣời dân ở những thị trƣờng nhập khẩu

càng cao thì chuẩn đảm bảo an toàn thực phẩm càng đƣợc nâng lên. Việc họ gia tăng

kiểm tra hóa chất trong tôm là điều dễ hiểu.

Tuy nhiên, vấn đề này thực sự gây khó khăn hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt

Nam nói riêng, ngành tôm trong nƣớc nói chung. “Để đáp ứng sự gia tăng kiểm tra của

các thị trƣờng nhập khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu buộc phải tăng cƣờng kiểm tra sản

phẩm trƣớc khi xuất đi, đồng nghĩa với gia tăng chi phí, trong khi vốn trong giá thành

đã rất cao rồi”, ông Phẩm cho biết.

Cũng theo ông Phẩm, chẳng hạn với thị trƣờng Nhật, nếu họ phát hiện sản phẩm không

đạt chuẩn theo quy định, họ sẽ áp dụng kiểm tra 10-15% lô hàng, nếu lại tiếp tục phát

hiện, họ gia tăng kiểm tra tới 30%, và nếu vẫn còn phát hiện nữa, họ có thể kiểm tra

100% lô hàng, thậm chí cấm nhập khẩu.

Nhƣ vậy, khi lô tôm bị cảnh báo hoặc bị trả về, nó chẳng những khiến doanh nghiệp bị

thiệt hại nặng về kinh tế mà còn dẫn đến khả năng bị đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị

trƣờng cũng nhƣ gây ra tâm lý dè chừng của đối tác khi ký kết hợp đồng mới

Theo ông Nguyễn Hữu Dũng, nguyên nhân dai dẳng của “câu chuyện con tôm” chủ

yếu do những vấn đề nội tại. “Hệ thống tổ chức sản xuất, chuỗi quản lý an toàn thực

phẩm và chất lƣợng con tôm từ khâu nuôi cho đến thu gom chế biến nhìn chung còn

rất yếu. Ta phải tự sửa mình, trƣớc khi đổ lỗi cho ngƣời khác”, ông nói.

Ông Nguyễn Văn Lâm, ngụ ở huyện Cái Nƣớc, tỉnh Cà Mau, một “chân rết” chuyên

thu mua tôm nguyên liệu cho doanh nghiệp xuất khẩu, cho biết: “Mỗi buổi sáng, doanh

nghiệp nhắn tin cho giá qua điện thoại và tôi sẽ căn cứ theo giá đó để thu mua, rồi

thông báo lại cho doanh nghiệp về việc giao tôm lúc nào, số lƣợng bao nhiêu... Còn

chuyện kiểm tra chất lƣợng thì doanh nghiệp chỉ cử một đại diện của nhà máy xuống

Page 17: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

17

kiểm tra, chủ yếu bằng cảm quan chứ không có thiết bị kiểm tra nên vấn đề kháng sinh

là không tránh khỏi...”.

Trong khi đó, theo ông Phẩm, vấn đề gốc rễ là do nền sản xuất của Việt Nam còn ở

trình độ thấp, dẫn tới chất lƣợng sản phẩm có vấn đề. Ông cho rằng cần phải thay đổi

mô hình nuôi sạch (nhƣ trồng rau sạch). “Muốn vậy, phải hình thành chuỗi liên kết,

phải có sự đầu tƣ mang tính chất lâu dài”, ông nói.

Và để đổi mới thành công, ông Phẩm cho rằng cần phải giải quyết một số “điểm

nghẽn”, nhƣ về vốn cho nông dân; vấn đề hạn điền; vấn đề sản xuất bằng công nghệ

cao thì là công nghệ gì, Việt Nam có công nghệ đó chƣa?...

Nhìn ra bên ngoài, theo ông Phẩm, các nƣớc họ dễ dàng hình thành chuỗi liên kết là do

doanh nghiệp của họ có vốn, dân có trình độ, luật pháp chặt chẽ, công bằng, sự hỗ trợ

của khoa học kỹ thuật là rất tốt. “Còn Việt Nam thì tùy theo doanh nghiệp, có ngƣời

làm đƣợc nhƣng đa số là làm không nổi. Cũng là dễ hiểu vì đã có khoa học công nghệ

đâu!”, ông nêu vấn đề.

Ông Phẩm cho rằng cơ chế chính sách thúc đẩy đổi mới thực ra không thiếu, nhƣng

ban hành chính sách là một vấn đề, còn tổ chức thực hiện lại là một vấn đề khác! Có

thể nói, đổi mới sản xuất là gốc rễ để giải quyết vấn đề con tôm, nhƣng chính sách lại

không thể đi vào cuộc sống; tƣ duy thực hiện không đổi mới khiến thực tế không có sự

chuyển biến tích cực, rất khó tạo ra đột phá. Diễn giải điều này theo cách dễ hình dung

nhất, ông Phẩm ví von: “Giống nhƣ anh có một cái quán ăn, anh nói quán tôi ngon, đã

làm đủ hết các thứ cần thiết.

Nhƣng thực tế là quán vẫn không có khách vô ăn. Dù vậy, đứng ở góc độ nào đó, anh

vẫn nói là anh đã làm tốt... Có thể bây giờ anh đã làm tốt hơn xƣa nhiều, nhƣng là anh

so sánh với anh trƣớc đây hay anh cần phải so với các quán khác?”, ông đặt câu hỏi.

Rõ ràng, việc cần giải quyết những “điểm nghẽn” chính là để nhắm tới mục tiêu đáp

ứng cho đƣợc yêu cầu ngày càng cao của khách hàng và nhằm tăng khả năng cạnh

tranh của sản phẩm trong nƣớc so với các đối thủ. (Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn 31/10,

Trung Chánh) đầu trang

NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

An Giang: Phát triên tôm càng xanh toàn đực

UBND tỉnh An Giang vừa phê duyệt dự án “Nuôi tôm càng xanh toàn đực trong ao đất

giai đoạn 2016 - 2020”, giao Trung tâm Giống thủy sản của tỉnh thực hiện tại huyện

Thoại Sơn, Châu Phú, Châu Thành và Phú Tân.

Theo đó, An Giang sẽ hình thành vùng chuyên canh nuôi tôm càng xanh toàn đực

trong ao đất theo công nghệ cao nhằm cung cấp nguồn nguyên liệu ổn định, đảm bảo

Page 18: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

18

đủ về số lƣợng; tôm thƣơng phẩm đạt chất lƣợng cao và có kích cỡ lớn, đáp ứng cho

thị trƣờng. Phấn đấu đến năm 2020, diện tích nuôi tôm càng xanh toàn đực theo công

nghệ cao đạt 300ha. (Nông Nghiệp Việt Nam 31/10, Hương Huệ) đầu trang

Phú Yên: Nuôi trồng thủy sản - Tập trung phát triên các mô hình mới

Thời gian qua, Phú Yên chú trọng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất

nông nghiệp, qua đó triển khai một số mô hình mang lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên,

việc làm này chƣa tạo đƣợc bƣớc đột phá lớn.

Theo Sở NN-PTNT, thời gian qua, việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản

xuất đƣợc tỉnh quan tâm, vì đây là hƣớng phát triển nhằm nâng cao giá trị gia tăng và

bền vững. Riêng lĩnh vực thủy sản có nhiều mô hình thành công, nhƣ: nuôi hàu thƣơng

phẩm, nuôi cá rô đầu vuông, nuôi ốc hƣơng thƣơng phẩm theo hƣớng an toàn sinh học,

sản xuất giống sò huyết, cá bớp, cá chẽm, tu hài, tôm thẻ chân trắng và nhiều mô hình

khai thác, chế biến thủy sản theo chuỗi giá trị gia tăng…

Ông Lê Hữu Phƣớc ở xã An Hải, huyện Tuy An, cho biết: Năm 2014, gia đình tôi

tham gia mô hình nuôi sò huyết ở đầm Ô Loan trên diện tích hơn 1ha, do Trung tâm

Giống và kỹ thuật thủy sản (Sở NN-PTNT) chuyển giao. Mặc dù trong quá trình nuôi,

thời tiết và môi trƣờng nƣớc không thuận lợi nhƣng sau 4 tháng, chúng tôi thu nhập

hơn 50 triệu đồng.

Năm 2015, gia đình tiếp tục tham gia mô hình này trên diện tích khoảng 0,5ha. Sau 5

tháng nuôi, sò đạt trọng lƣợng khoảng 70 con/kg, thu hơn 300kg, bán đƣợc với giá

200.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí còn lãi gần 50 triệu đồng.

Theo ông Trần Sáu, Trƣởng Phòng NN-PTNT huyện Tuy An, trƣớc đây, có thời điểm

nguồn sò huyến tự nhiên trong đầm Ô Loan bị cạn kiệt, nhiều năm không thấy xuất

hiện. Từ khi Trung tâm Giống và kỹ thuật thủy sản triển khai mô hình nuôi bảo vệ và

phát triển nguồn lợi sò huyết đầm Ô Loan đến nay, sò huyết đã xuất hiện trở lại.

Không những thế, đơn vị này còn hỗ trợ giống sò huyết, hàu cho ngƣ dân sống quanh

đầm để nuôi, giúp cải thiện thu nhập. Hiện địa phƣơng đã quy hoạch khoảng 40ha mặt

nƣớc ở khu vực đầm Ô Loan để nuôi sò huyết. Hai năm nay, nhiều hộ đã thành công

với mô hình nuôi loài thủy sản này.

Kỹ sƣ Võ Minh Hải, cán bộ kỹ thuật Trung tâm Giống và kỹ thuật thủy sản, cho biết:

Ngoài việc sản xuất thành công hơn 2,1 triệu con giống sò huyết và thả nuôi tái tạo

nguồn lợi ở đầm Ô Loan, trung tâm cũng đã sản xuất thử nghiệm thành công khoảng

80 vạn con giống hàu muỗng, trong đó thả khoảng 40 vạn con giống nuôi ở đầm Ô

Loan, số còn lại hỗ trợ cho các hộ nuôi tại huyện Tuy An và TX Sông Cầu.

Qua theo dõi, các hộ đƣợc hỗ trợ giống hàu muỗng đều nuôi thành công, đạt kết quả

cao… Ngoài ra, Trung tâm Giống và kỹ thuật thủy sản còn triển khai nhiều mô hình

Page 19: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

19

nhƣ ƣơng thử nghiệm cá bớp, cá chẽm, cá lăng đuôi đỏ…; đồng thời chuyển giao công

nghệ sản xuất giống tu hài cho hàng chục hộ nuôi ở huyện Đông Hòa và TP Tuy Hòa.

Đến nay, nhiều trại sản xuất giống thủy sản trên địa bàn tỉnh đã áp dụng và nhân nuôi

thành công tu hài giống.

Theo Sở NN-PTNT, việc phát triển các mô hình nông nghiệp mới và ứng dụng khoa

học kỹ thuật vào sản xuất trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh đã giúp nâng cao hiệu

quả sản xuất nông lâm thủy sản, tăng thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, việc ứng

dụng tiến bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp ở Phú Yên còn ít, chƣa tạo

đƣợc bƣớc đột phá.

Giá trị sản phẩm thu đƣợc trên đơn vị diện tích trồng trọt và nuôi trồng thủy sản chƣa

tƣơng xứng với tiềm năng, lợi thế của địa phƣơng. Hiện một số địa phƣơng trong tỉnh

chậm phổ biến các mô hình hiệu quả; sự phối hợp giữa các ngành và địa phƣơng trong

công tác này chƣa đồng bộ...

Ông Nguyễn Trọng Tùng, Giám đốc Sở NN-PTNT, cho biết: Phú Yên đã xây dựng đề

án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp nói chung, trong đó có đề án Tái cơ cấu ngành Thủy

sản. Đề án này tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản theo hƣớng bền vững, nâng cao

năng suất và chất lƣợng sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trƣờng, trong đó tập trung

nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú, tôm hùm, cá biển.

Ngoài ra, tỉnh tiếp tục ổn định diện tích nuôi trồng khoảng trên 11.000ha, trong đó diện

tích ao đìa nƣớc lợ gần 2.200ha, diện tích mặt nƣớc biển 1.650ha, diện tích ao đìa nƣớc

ngọt trên 188ha, diện tích sản xuất giống thủy sản 85ha và diện tích mặt nƣớc hồ thủy

điện, thủy lợi khoảng 7.000ha.

Đặc biệt, tỉnh chú trọng nâng cao năng lực chọn tạo và quản lý con giống thủy sản, bảo

đảm 90% nhu cầu giống thủy sản sạch bệnh; đẩy mạnh áp dụng thực hành nuôi trồng

thủy sản tốt, nuôi thủy sản có chứng nhận, phát triển các vùng nuôi thủy sản thâm canh

ứng dụng công nghệ cao, nuôi tiết kiệm nƣớc, nuôi an toàn sinh học, bảo vệ môi

trƣờng sinh thái. (Báo Phú Yên 1/11, Anh Ngọc) đầu trang

Hƣng Yên: Hiệu quả từ mô hình nuôi thả thủy sản ở Khoái Châu

Phát huy lợi thế về diện tích mặt nƣớc, nguồn phụ phẩm nông nghiệp phong phú, lao

động dồi dào, những năm gần đây huyện Khoái Châu đã phát triển mạnh nghề nuôi thả

thủy sản, trở thành một trong những địa phƣơng có hoạt động thâm canh thủy sản tốt

của tỉnh.

Theo tổng hợp của Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Khoái Châu, toàn huyện hiện

có khoảng 800 ha diện tích mặt nƣớc đang đƣợc sử dụng nuôi thả thủy sản. Mỗi năm,

hoạt động nuôi thả thủy sản đem lại cho nông dân trong huyện sản lƣợng thủy sản

Page 20: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

20

thƣơng phẩm đạt trên 4.500 tấn. Trong đó, trong huyện đã hình thành trên 100 trang

trại, gia trại quy mô chuyên nuôi thủy sản hoặc có hoạt động nuôi thả thủy sản.

Bà Đoàn Thị Lý, một hộ chuyên nuôi thâm canh thủy sản tại xã Đại Tập cho biết: “Gia

đình tôi thâm canh thủy sản trên diện tích hơn một mẫu ao đã đƣợc gần 5 năm nay.

Thời gian đầu tôi chủ yếu nuôi quảng canh, bán thâm canh các loại cá thông thƣờng.

Mặc dù hàng năm vẫn có cá thƣơng phẩm thu hoạch nhƣng năng suất, chất lƣợng

không cao.

Từ khi cải tạo lại ao, tập trung nuôi thâm canh cá rô phi đơn tính ghép với một số loại

cá khác nhƣ cá trắm, cá chép… sử dụng thức ăn công nghiệp phối hợp với thức ăn

nông nghiệp sẵn có, từ đó cho thu nhập khá cao, có thể thu hoạch mỗi năm 2 lứa cá,

sản lƣợng đạt 3 - 4 tấn cá/năm/lứa…”.

Ngoài việc nuôi thâm canh thủy sản theo hình thức mô hình thủy sản có thể kết hợp

với các hoạt động khác trong trang trại, gia trại nhƣ trồng cây ăn quả, trồng rau màu,

chăn nuôi… theo hình thức lấy ngắn nuôi dài, tận dụng thức ăn chăn nuôi thông qua

phụ phẩm nông nghiệp.

Ngoài nuôi thả cá, nhiều mô hình trang trại thủy sản trong huyện nông dân còn trồng

các loại cây ăn quả trên vƣờn và xung quanh bờ ao, kết hợp chăn nuôi gia súc, gia cầm.

Với mô hình này, ngƣời nuôi tận dụng đƣợc các loại cỏ trong vƣờn làm thức ăn cho cá,

phân hữu cơ từ chăn nuôi ủ hoại mục để bón xuống ao tạo môi trƣờng rong tảo tự

nhiên phong phú.

3 năm trở lại đây, huyện Khoái Châu chủ trƣơng khuyến khích các hộ dân phát triển

các mô hình nuôi thả thủy sản theo hƣớng an toàn nhƣ: Mô hình nuôi cá rô phi đơn

tính theo hƣớng Vietgap; Mô hình lúa - cá… Tập trung nhiều ở các xã: Phùng Hƣng,

Đại Hƣng, Liên Khê, Dạ Trạch. Đến nay tổng diện tích mặt nƣớc đƣợc nông dân trong

huyện áp dụng theo mô hình an toàn đã lên tới vài chục ha, đây là kết quả của việc

nhân rộng các mô hình điểm do tỉnh hỗ trợ.

Anh Trần Văn Hƣớng, một trong những hộ nuôi thâm canh thủy sản áp dụng quy trình

an toàn sinh học cho biết: “Gắn bó với nghề nuôi thủy sản, khi đƣợc tiếp cận với các

biện pháp nuôi an toàn, tôi nhận thấy mặc dù ban đầu phải đầu tƣ cao hơn: Xử lý môi

trƣờng nƣớc bằng chế phẩm sinh học, bảo đảm con giống đầu vào, mặt khác quá trình

nuôi cũng mất công, mất sức hơn: Sử dụng thức ăn chăn nuôi, thuốc thủy sản đạt tiêu

chuẩn, theo dõi tình hình sinh trƣởng của cá… nhƣng hiệu quả kinh tế bền vững, sản

phẩm làm ra đạt chất lƣợng cao, lãi thu đƣợc cũng tăng từ 15 – 20%”.

Ngoài diện tích mặt nƣớc là các ao, hồ, đầm… nông dân huyện Khoái Châu còn phát

triển nuôi thả thủy sản hàng hóa trên sông Hồng theo mô hình lồng bè. Phát triển nhất

tại xã Bình Minh với hàng chục lồng nuôi cá trắm bằng tre luồng. Bên cạnh đó nhiều

mô hình thâm canh thủy sản đang phát triển nuôi các loại cá đặc sản đƣợc ngƣời tiêu

Page 21: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

21

dùng ƣa chuộng hiện nay nhƣ: Cá lăng, cá diêu hồng, cá chép dòn… đem lại giá trị

kinh tế cao.

Ông Nguyễn Văn Đạt, Trƣởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Khoái Châu cho

biết: “Hàng năm, Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện thƣờng xuyên phối hợp với

ngành chuyên môn của tỉnh tổ chức chuyển giao kỹ thuật nuôi thủy sản, triển khai các

mô hình nuôi an toàn, đây là chìa khóa giúp ngƣời nuôi giải quyết các vấn đề nảy sinh

trong quá trình nuôi thả thủy sản. Thời gian tới, huyện tiếp tục khuyến khích nông dân

áp dụng biện pháp, quy trình mới, an toàn từ khi thả giống đến lúc thu hoạch, loại bỏ

thói quen nuôi thả quảng canh, tăng diện tích nuôi thâm canh an toàn, bảo đảm chất

lƣợng thủy sản thƣơng phẩm cũng nhƣ giải quyết vấn đề vệ sinh môi trƣờng”. (Báo

Hưng Yên 31/10) đầu trang

Bà Rịa - Vũng Tàu: Diên tich nuôi trông thuy san VietGAP còn ít

Đến nay, Chi cuc Thuy san – Sơ NN-PTNT đa phôi hơp vơi Công ty Tƣ vấn va chƣng

nhân tiêu chuẩn VietGAP hƣớng dẫn xây dựng và cấp giấy chứng nhận cho 4 cơ sở

nuôi trồng thủy sản đạt tiêu chuẩn VietGAP.

Trong đó, 3 cơ sơ tại vùng nuôi tôm xã Phƣơ c Thuân (huyên Xuyên Môc), 1 cơ sơ tại

xã An Ngãi (huyên Long Điên), với diện tích khoảng 43ha trên tổng diện tích 7.000ha

nuôi trồng thủy sản toan tỉnh.

Theo Chi cục Thủy sản , viêc ap dung VietGAP trong nuôi trồng thủy sản con ít là do

quá trình triển khai găp nhiều kho khăn . Hiện nay, đa sô cơ sơ nuôi trông thuy san trên

đia ban tinh đêu nho lẻ , cơ sơ ha tâng ao nuôi không bao đam , nguôn vôn con hạn chế

nên không bao đam cac tiêu chi cua bô tiêu chuân VietGAP.

Bên cạnh đó, thủ tục hồ sơ, sổ sách của VietGAP quá rƣờm rà, phí gia hạn chƣng nhân

VietGAP còn cao; giá bán sản phẩm VietGAP vẫn ngang bằng sản phẩm thông thƣờng,

trong khi chi phí nuôi tăng 20-25% nên ngƣơi nuôi không măn ma vơi viêc xây dƣng

mô hinh nuôi VietGAP. (Báo Bà Rịa - Vũng Tàu 31/10, Thanh Tuyền) đầu trang

Ngƣời nuôi tôm lớn nhất xứ Quảng và giấc mơ thuê thêm đất mở rộng quy mô

Sau hơn 1 năm chúng tôi trở lại gặp “cao thủ nuôi tôm xứ Quảng” Trần Công Thành

(53 tuổi, trú tại TP Tam Kỳ, Quảng Nam) mà NNVN đã đăng tải. Nghe chuyện ông

tích tụ đƣợc 10ha ao tôm, thật lắm gian nan. Ao hồ nằm rải rác, thời gian thuê đất ngắn

khiến dự định sản xuất lớn của ông chƣa thành...

Về đại bản doanh của “cao thủ nuôi tôm xứ Quảng” ở thôn An Hòa, xã Tam Hòa,

huyện Núi Thành, chúng tôi bắt gặp ông Thành đang kéo rớ lên kiểm tra tôm vừa thả

đƣợc hơn tuần. Ông bảo: “Nó lớn nhanh lắm, không có dịch bệnh nhƣ trƣớc đây. Đây

là thành quả bƣớc đầu mà tôi mới đƣa vào áp dụng”.

Page 22: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

22

Tôi hỏi: Ông tự tin vậy à? Ông đáp: “Thì đó, mới đầu tƣ hơn 1 tỷ đồng xây dựng nhà

ƣơng tôm giống. Con tôm giống mua về, tôi đƣa vào nhà nuôi 1 tháng để chăm sóc,

sau đó mới thả ra ao. Để có nhà ƣơng, tôi “cắt bớt” số tiền từ vụ nuôi đầu năm lời hơn

4 tỷ đồng để xây dựng”.

Đứng từ phía xa, một khu nhà ƣơng rộng hơn 1.000m2 đƣợc làm khá bài bản, phía

trong có bốn ao khoảng 800m2. Ông kể, trƣớc đây ông mua tôm giống về thả xuống ao

nuôi liền nên tỷ lệ hao hụt rất lớn, phần nữa tôm chậm lớn. Ông học hỏi từ nhiều nơi

và áp dụng xây nhà ƣơng. Ông mua 2 triệu con tôm giống thả xuống 4 ao, sau 1 tháng

đƣợc chăm sóc đặc biệt, lúc đó mới đƣa ra ao nuôi.

“Cách làm này mình đầu tƣ một số tiền xây dựng nhƣng lợi đƣợc nhiều đƣờng. Cụ thể,

tôm từ nhà ƣơng thả ra ao rất mạnh khỏe, tỷ lệ hao hụt ít, bệnh tật đƣợc kiểm soát ngay

từ đầu. Cứ đà này sau hơn 70 ngày nuôi sẽ thu hoạch với trọng lƣợng 40 con/kg. Sắp

tới, tôi tiếp tục nhập tôm giống về và đƣa vào nhà ƣơng chăm sóc, sau đó đƣa ra ao,

phƣơng pháp nuôi mới này rất hiệu quả”, ông Thành chia sẻ.

Hỏi về quy hoạch diện tích ao nuôi nhƣ thế nào? Ông Thành đáp: “So với năm trƣớc

gặp anh, diện tích vẫn giữ nguyên 10ha. Bởi muốn mở rộng thì không thuê ra đất.

Từng ấy diện tích nằm ở 4 nơi, mỗi nơi lại cách nhau cả cây số. Ao nuôi nằm rải rác

nên rất khó trong việc chăn nuôi và quản lý nhƣng biết làm sao, khi chỉ thuê và mua

đƣợc từng ấy đất. Tôi gặp rất nhiều cản trở trong đầu tƣ và SX, nhƣng phải chấp nhận

thôi”.

Trong 10ha đất, ông chỉ nuôi 5ha, số còn lại dùng để làm nơi chứa nƣớc cung cấp cho

ao nuôi. “Nguồn nƣớc cung cấp đƣợc loại bỏ các chất gây hại nên con tôm sinh trƣởng

phát triển nhanh, dịch bệnh không có. Mặc dù, diện tích giảm xuống so với trƣớc đây

nhƣng mật độ nuôi tăng lên. Trƣớc đây 200 con/m2 nay thả đến 250 con/m2. Nguồn

nƣớc đảm bảo, tôm giống khỏe mạnh, ăn nhiều, tăng trọng nhanh”, ông Thành nói.

Theo ông Thành, để có từng ấy đất, vào năm 2011, ông bỏ 200 triệu đồng mua đƣợc

3ha đất cát ven sông Trƣờng Giang, giáp biển ở thôn An Hòa, xã Tam Hòa, huyện Núi

Thành. Ông đầu tƣ khoảng 100 triệu đồng đắp bờ, trải bạt, bơm nƣớc vào thả tôm. Sau

nhiều vụ nuôi thắng lợi, có đƣợc đồng tiền lời, ông thuê 7ha đất của ngƣời dân. Mỗi

năm, ông chi trả 50 triệu đồng/ha.

“Riêng 3ha tôi làm chủ sở hữu thì mạnh dạn đầu tƣ xây dựng quy mô bài bản, còn đất

thuê chỉ làm tạm bợ. Tôi ký hợp đồng với bà con đƣợc có 5 năm, trên diện tích này, tôi

chỉ đắp bờ, trải bạt thả nuôi, không dám bỏ tiền đầu tƣ hạ tầng, vì thời gian thuê đất

ngắn quá, mình bỏ tiền ra làm khi hết thời hạn bà con lấy lại đất chỉ có trắng tay. Do

đó, để phát triển nuôi tôm lâu dài thì phải có đƣợc hợp đồng thuê đất 20 - 50 năm mới

dám đầu tƣ mạnh”, ông Thành bộc bạch.

Page 23: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

23

Hiện tất cả các ao ông Thành áp dụng nuôi tôm sạch, sản phẩm làm ra đều đƣợc DN

lớn thu mua xuất khẩu. Trƣớc khi thu hoạch, phía đối tác lấy mẫu kiểm tra rất chặt chẽ,

nếu không đạt chất lƣợng thì từ chối. “4 năm qua sản phẩm tôi làm ra chƣa vụ nào mà

khách hàng khó tính từ chối. Bởi trọng lƣợng lớn, tôm không có kháng sinh, đến kỳ

thu hoạch xuất bán đều có ngƣời đặt hàng. Tôm của tôi thƣờng bán cao hơn thị trƣờng

20.000 đồng/kg”, ông Thành tâm sự.

Tôi hỏi ông: Sao không làm chứng nhận VietGAP cho sản phẩm vậy? Ông đáp: “Để

có chứng nhận đó, khâu xây dựng ao nuôi phải quy mô bài bản nhƣng thuê đất ngắn

hạn nên không thể đầu tƣ để đạt đƣợc tiêu chuẩn đó. Còn để có đƣợc chứng nhận thì

đòi hỏi phải có đƣợc hợp đồng thuê đất lâu năm, tôi bỏ tiền đầu tƣ công nghệ, xây

dựng quy mô hồ nuôi theo quy chuẩn”, ông Thành cho biết.

Theo ông Thành, nuôi tôm thẻ chân trắng đối diện với rủi ro rất cao, nhƣng bản thân

ông lăn lộn nhiều năm, có những kinh nghiệm cho riêng mình nên thất bại hầu nhƣ

không xảy ra. Do vậy hiệu quả kinh tế đem lại rất cao đối với ông. “Mỗi vụ thả nuôi 3

tháng, trừ phí đầu tƣ, 1ha tôm cho lãi ròng trên 1 tỷ đồng. Một năm nuôi 4 vụ, nếu

thành công sẽ đƣa về 4 tỷ đồng/ha đất”, ông Thành tính toán.

Tại Quảng Nam, khu vực ven biển, ven sông có rất nhiều lợi thế về nuôi tôm thẻ chân

trắng, có nhiều vùng đất ven biển để không, nếu có tiền đầu tƣ rất thuận lợi cho loài

hải sản này phát triển. Để có đƣợc những vùng đất đó thì nhà nƣớc cần đứng ra cho

ngƣời dân, DN thuê đất, còn để những ngƣời nuôi tôm thuê ngắn hạn sẽ kìm hãm sự

phát triển về quy mô.

Mang nghiệp tôm thẻ chân trắng vào ngƣời hơn 5 năm nay, hiện ông Thành đã có

10ha, nhƣng vẫn chƣa hài lòng. Ông muốn có thêm diện tích tập trung để đầu tƣ. Tuy

nhiên, chạy khắp nơi thuê đất mà không ai gật đầu đồng ý. Ngƣời dân thà bỏ không ao

hồ chờ khi tôm có giá thì đua nhau thả nuôi, họ nhất quyết không cho thuê đất. Do đó,

giấc mộng có nhiều đất đối với ngƣời nuôi tôm có nhiều kinh nghiệm và luôn gặt hái

thành công nhƣ ông Thành bỏ dở.

“Giờ muốn có đƣợc khu đất tập trung để đầu tƣ công nghệ, xây dựng bài bản. Để làm

đƣợc cái này thì nhà nƣớc phải giúp đỡ, cho thuê đất trên 20 năm tôi mới mạnh dạn

làm. Còn đứng ra gom đất của dân, thời hạn ngắn, đất đai nằm rải rác không thể thành

công đƣợc”, ông Thành nói.

Các khu nuôi tôm của ông Thành thu hút 20 lao động, thu nhập 5 - 7 triệu

đồng/ngƣời/tháng. Còn lao động bán thời vụ có khi lên đến cả trăm ngƣời. Những mô

hình, kỹ thuật nuôi tôm thành công, ông Thành không ngần ngại chia sẻ với những ai

đến học hỏi. (Nông Nghiệp Việt Nam 31/10, Đắc Thành) đầu trang

Page 24: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

24

Hải Dƣơng: Hiệu quả kinh tế từ mô hình nuôi thủy sản tập trung

Nuôi thủy sản thành vùng tập trung đang là một trong những hƣớng tạo bƣớc đột phá

trong phát triển kinh tế ở xã Hồng Hƣng, huyện Gia Lộc. Tại địa phƣơng này, nuôi thả

thủy sản tập trung không chỉ mang lại thu nhập cao cho ngƣời dân, mà còn góp phần

tạo diện mạo nông thôn mới.

Với tổng diện tích gần 20ha mặt nƣớc, khu nuôi thả thủy sản tập trung ở xã Hồng

Hƣng, huyện Gia Lộc đƣợc quy hoạch xây dựng tổng thể, với hệ thống bờ ngăn cách

giữa các ao nuôi, hệ thống bờ bao, máng nổi dẫn nƣớc, kênh tiêu và máy bơm nƣớc.

Ngay khi khu nuôi thả thủy sản đi vào hoạt động năm 2010 đến nay, 30 hộ dân tham

gia mô hình kinh tế ở khu vực này tập trung nuôi các loại cá truyền thống, đặc biệt là

cá rô phi đơn tính, mang lại hiệu quả cao.

Mô hình nuôi thủy sản tập trung tại xã Hồng Hƣng nhanh chóng khẳng định những ƣu

điểm vƣợt trội và lợi ích kinh tế cao. Trƣớc đây, tại khu vực này là một khu đồng trũng

cấy lúa bấp bênh, điều kiện sản xuất rất khó khăn. Từ khi triển khai nuôi thủy sản tập

trung đã tạo ra mô hình phát triển kinh tế hiệu quả, không chỉ giúp nông dân thay đổi

tƣ duy làm kinh tế, từ sản xuất nhỏ lẻ manh mún sang mô hình phát triển kinh tế tập

trung và mang tính chuyên nghiệp.

Do chủ động đƣợc nguồn nƣớc, nên nƣớc tại các ao nuôi không bị ô nhiễm, tạo điều

kiện để cá sinh trƣởng tốt hơn và ít bị dịch bệnh; kết hợp với việc chủ động đƣợc

nguồn thức ăn đảm bảo chất lƣợng và hệ thống hạ tầng đồng bộ, tạo tiền đề để các hộ

dân đầu tƣ nuôi thả các loại cá hàng hóa chất lƣợng cao.

Mô hình nuôi thả thủy sản tập trung ở xã Hồng Hƣng không những mang lại hiệu quả

kinh tế cao, mà còn đảm bảo không gây ô nhiễm môi trƣờng và thu hút đƣợc lƣợng lớn

lao động địa phƣơng.

Tuy nhiên, do mô hình này đƣợc hình thành từ khu vực đồng ruộng trũng thấp, cấy lúa

năng suất thấp; nên hệ thống đƣờng giao thông và điện, nƣớc còn khó khăn; rất cần sự

quan tâm hỗ trợ về cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách khuyến khích từ phía chính

quyền các cấp để các hộ dân yên tâm đầu tƣ, tạo hiệu quả kinh tế cao hơn nữa từ

những mô hình nuôi thả thủy sản tập trung nhƣ thế này. (Đài Phát Thanh Và Truyền

Hình Hải Dương 31/10, Hoàng Huy) đầu trang

I.D.I hình thành vùng nuôi cá tra

Theo ông Võ Hùng Dũng, Giám đốc Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam

(VCCI) tại Cần Thơ, ngành cá tra của khu vực ĐBSCL hiện đang bộc lộ nhiều yếu

kém nhƣ chất lƣợng giống thấp; vùng nuôi quy hoạch chƣa ổn định...

Page 25: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

25

Khắc phục điểm yếu trên, CTCP Đầu tƣ và Phát triển đa quốc gia (gọi tắt là I.D.I) đã

hình thành vùng nuôi cá, một mặt để đảm bảo nguồn nguyên liệu cung cấp cho chuỗi

sản xuất, mặc khác đảm bảo chất lƣợng cá cũng nhƣ việc kiểm soát giá thành.

Theo Hiệp hội cá tra Việt Nam, quy trình sản xuất khép kín cá tra đƣợc gọi là “sự phát

triển ngƣợc trong chuỗi”. Bởi thay vì phát triển hội nhập dọc theo chuỗi để tăng năng

lực cạnh tranh, mở rộng hệ thống phân phối và thâm nhập sâu vào thị trƣờng thế giới,

ngành cá tra lại hội nhập ngƣợc trở lại, đó là quá trình sắp xếp, tổ chức lại con giống,

hình thành vùng nuôi, nhà máy sản xuất…

Sự phát triển ngƣợc đó sẽ giúp các doanh nghiệp chủ động kiểm soát chất lƣợng thức

ăn, ổn định giá thành, đảm bảo chất lƣợng sản phẩm xuất ra thị trƣờng, đáp ứng “luật

chơi” khó khăn của một số nƣớc trên thế giới.

Có thể nói, nhiều năm qua, vai trò của các bên trong chuỗi ngành hàng cá tra đã đƣợc

phân định rõ, trong đó nông dân là ngƣời nuôi cá tra, cung cấp nguyên liệu, còn doanh

nghiệp đảm nhận khâu chế biến và tìm thị thƣờng xuất khẩu.

Song, do ngƣời nông dân còn nhiều yếu kém trong kỹ thuật nuôi, khâu quản lý, sử

dụng thuốc kháng sinh tràn lan dẫn đến dịch bệnh, tỷ lệ hao hụt lớn… nên hiện nay,

các doanh nghiệp đua nhau liên kết với nông dân để hình thành vùng nuôi cá, nhằm

chủ động nguyên liệu, tiết giảm chi phí sản xuất và tăng chất lƣợng và lợi nhuận cho

con cá tra.

Hiệp hội Thủy sản tỉnh An Giang cho biết , tại khu vực ĐBSCL hiện đã có nhiều vùng

nuôi của doanh nghiệp . Đồng Tháp có 1.939ha nuôi cá tra ; trong đó , vùng nuôi của

doanh nghiệp chiếm hơn 66%. Tại Tiền Giang , tông diên tich nuôi ca tra hơn 122ha;

trong đó, 57,9ha là vùng nuôi của doanh nghiệp.

Riêng tại An Giang, diện tích nuôi cá tra cả tỉnh từ 820-830ha; trong đó, vùng nuôi của

doanh nghiệp trên 600ha, chiếm hơn 70%, ƣớc sản lƣợng đạt 200.000 tấn/năm. Trong

đó, diện tích nuôi đạt tiêu chuẩn an toàn chất lƣợng theo Global GAP, ASC... là 370ha,

chiếm 54% trên tổng diện tích vùng nuôi của doanh nghiệp và chiếm 44,32% tổng diện

tích nuôi cá tra toàn tỉnh.

Những con số này cho thấy việc các doanh nghiệp liên kết cùng nông dân hình thành

vùng nuôi cá tra ở các tỉnh ĐBSCL đang đƣợc lan rộng bởi tính thiết thực và cấp bách

trong giai đoạn ngành cá tra đang gặp khó khăn.

I.D.I đƣợc đánh giá là một trong những doanh nghiệp có tầm nhìn xa, chủ động trƣớc

những khó khăn của ngành cá tra đang diễn ra. Trong những năm gần đây, khi con cá

tra Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện đạo luật Farm Bill 2014, nhiều

doanh nghiệp mới thực hiện chuỗi quy trình sản xuất khép kín: Nâng cao chất lƣợng

Page 26: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

26

con giống, hình thành vùng nuôi cá... Để tung ra thị trƣờng những sản phẩm tốt hơn,

vùng nuôi cá tra của Công ty I.D.I đã đƣợc hình thành khá sớm từ năm 2008.

Hiện nay, diện tích tự nuôi cá và nuôi liên kết của công ty đã đạt gần 150ha và dự kiến

sẽ mở rộng vùng nuôi đến năm 2017, với diện tích vùng nuôi đạt khoảng 160ha, đạt

các tiêu chuẩn Global GAP, ASC, BAP. Với việc hình thành vùng nuôi liên kết quy

mô lớn nhƣ thế, I.D.I hoàn toàn chủ động trong việc cung ứng đến gần 80% nguyên

liệu so với nhu cầu cho nhà máy đông lạnh, tạo ra những thành phẩm có chất lƣợng

mang tính cạnh tranh.

Ngoài ra, công ty cũng đang thực hiện việc nuôi cá diêu hồng để bổ sung thêm sản

phẩm mới và đa dạng hóa sản phẩm của công ty để xuất khẩu. Tin vui là công ty đã

đƣợc UBND tỉnh Đồng Tháp giao diện tích mặt nƣớc của khu Cồn Quạ nằm trên sông

Hậu. Công ty đã thực hiện việc nuôi cá diêu hồng với tổng số 100 vèo. Với 100 vèo

này công ty sẽ nuôi thí điểm để rút ra quy trình áp dụng chung cho việc nuôi cá diêu

hồng, sau đó sẽ phát triển đại trà cho cả vùng nuôi của công ty.

Tuy nhiên, để đạt đƣợc hiệu quả trong quá trình nuôi, mỗi vùng nuôi cần có chính sách

đi kèm là hỗ trợ ngƣời nông dân gắn bó lâu dài, đồng hành cùng công ty trên tinh thần

hợp tác cả hai cùng có lợi, bố trí ngƣời quản lý, ghi chép cấp phát thức ăn, theo dõi sử

dụng thuốc.

Nâng cao chất lƣợng con giống, hình thành và mở rộng vùng nuôi là những bƣớc đầu

trong chuỗi sản xuất khép kín Công ty I.D.I đang áp dụng để từng bƣớc tự mình “gỡ

rối” trƣớc những khó khăn của ngành cá tra Việt Nam.

Có con giống tốt, có vùng nuôi đạt chuẩn Global GAP, ASC, BAP, bƣớc tiếp theo

I.D.I thực hiện để có đƣợc chiếc chìa khóa tháo gỡ trƣớc khó khăn của ngành cá tra,

chính là việc xây dựng nhà máy chế biến và thức ăn thủy sản theo đúng lời ông Lê Văn

Chung, Tổng Giám đốc Công ty I.D.I chia sẻ: “Những rào cản vừa qua đã làm cho con

cá tra gặp nhiều trở ngại. Tuy nhiên với tầm nhìn và kinh nghiệm trong ngành nuôi

trồng, chế biến và xuất khẩu cá tra, I.D.I đang đặt ra những mục tiêu phát triển bền

vững cho ngành. Chuỗi quy trình khép kín là một bƣớc đi đúng đắn giúp gỡ rối cho

con cá tra, một tín hiệu tích cực cho I.D.I và cho toàn ngành thủy sản Việt Nam”. (Sài

Gòn Đầu Tư Tài Chính 31/10, Như Ý – Đức Trung) đầu trang

KHAI THÁC THỦY SẢN

Bình Định: Ngƣời lèo lái đội tàu cá của mình ăn nên làm ra suôt nhiều năm

“Cầm chịch” 16 chiếc tàu cá công suất lớn chuyên đánh bắt xa bờ, tổ chức sao để cả

đội tàu đánh bắt hiệu quả là điều không dễ. Thế nhƣng với mô hình đoàn kết...

Page 27: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

27

Thế nhƣng với mô hình đoàn kết, ngƣ dân Bùi Thanh Ninh (SN 1957) ở thôn Thiện

Chánh 1, xã Tam Quan Bắc (huyện Hoài Nhơn, Bình Định) đã lèo lái đội tàu cá của

mình ăn nên làm ra suốt nhiều năm nay.

Nhắc lại thời niên thiếu của mình, ngƣ dân Bùi Thanh Ninh buông gọn 1 câu: “Úi chui

cha, tui khổ không kể xiết”!

Ông Ninh sinh ra trong 1 gia đình có truyền thống làm nghề biển, đông con, hàng ngày

ông phải theo bố ra vùng biển gần nhà giăng câu, thả lƣới kiếm con tôm con cá đổi gạo

chạy ăn từng bữa. Năm 1976, ông xung phong đi nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia.

Năm 1980 xuất ngũ, ngƣời lính trẻ về quê với tài sản duy nhất là chiếc ba lô cũ kỹ

đựng mấy bộ quân phục cũng đã sờn rách. Về nhà, ông Ninh lại phải gánh vác cuộc

sống của gia đình. Dân biển thì chỉ biết làm nghề biển, ông xin đi bạn cho 1 tàu cá ở

địa phƣơng.

Thời ấy, phƣơng tiện đánh bắt toàn công suất nhỏ, không thể đánh bắt xa bờ, nguồn lợi

thủy sản ven bờ thì cạn kiệt, làm ăn chẳng ra sao. Trong quá trình đi bạn, ông Ninh

nhận thấy mặt hàng cá chuồn đƣợc thị trƣờng miền Bắc ăn mạnh, ông mạnh dạn vay

của Ngân hàng NN-PTNT địa phƣơng 5 triệu đồng làm vốn. Thế là ông trở thành lái

buôn cá chuồn, nhƣng trong lòng ông luôn mơ ƣớc có 1 ngày mình sở hữu đƣợc chiếc

tàu cá công suất lớn để chinh phục khơi xa.

Chuyến hàng cá chuồn nào của ông Ninh cũng mang lại thắng lợi, xuất thân con nhà

nghèo nên từ sớm ông đã biết tiết kiệm, dành dụm. Khi đã tích cóp đƣợc số vốn kha

khá, ông Ninh liền thực hiện ƣớc mơ của mình, ông quyết định đóng chiếc tàu cá công

suất lớn và trở thành 1 chủ tàu khá trẻ.

Nhờ lộc biển, tàu cá của ông Ninh liên tục ăn nên làm ra, đến năm 2000 trong tay ông

đã có 3 chiếc tàu đánh bắt xa bờ. Khi ấy biển còn đầy cá, 3 chiếc tàu của ông Ninh

chuyến nào cập bờ cũng khẳm be. Cứ tích lũy thêm đƣợc vốn là ông Ninh lại tiếp tục

đóng tàu mới, 10 năm sau (năm 2010) ông Ninh đã làm chủ đến 10 chiếc tàu cá công

suất lớn chuyên hành nghề lƣới vây đánh bắt cá ngừ sọc dƣa.

Ngƣỡng mộ cách tổ chức đánh bắt hiệu quả của ông Ninh, nhiều chủ tàu trong vùng

muốn đƣợc góp tàu vào đội tàu của ông Ninh để cùng nhau làm ăn. Đến bây giờ, đội

tàu của ông Ninh đã có 16 chiếc với tổng công suất gần 8.000CV. Số lƣợng ngƣ dân

trực tiếp đánh bắt trên biển là 150 ngƣời. Ngoài ra, còn có 20 lao động khác làm việc

theo con trăng, khi tàu cập bờ thì đƣa cá lên bờ hoặc vá lƣới.

Thấy đội tàu cá tại địa phƣơng ngày càng tăng số lƣợng, ông Ninh làm thêm các dịch

vụ cung ứng nhiên liệu, lƣơng thực và đá lạnh, đồng thời bao tiêu sản phẩm của các tàu

cá trong vùng. Ông còn lập riêng 1 xƣởng chuyên đóng mới và sửa chữa tàu cá trong

đội tàu của mình.

Page 28: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

28

Ngay từ rất sớm, ông Ninh đã nghĩ đến việc lập tổ đoàn kết trên biển để hỗ trợ nhau

trong quá trình đánh bắt. “Năm 2000, khi đã sở hữu 3 tàu cá tui liền thành lập tổ đoàn

kết. Đến năm 2010, khi ấy đội tàu tăng lên 10 chiếc tui thành lập 3 tổ. Hiện nay, có

thêm 6 chiếc, tui thành lập 4 tổ đoàn kết trên biển”, ông Ninh cho hay.

Sớm thực hiện mô hình tổ đoàn kết trên biển nên đội tàu cá của ông Ninh liên tục ăn

nên làm ra và tránh đƣợc những rủi ro trên biển. Mặc dù ông Ninh không trực tiếp đi

biển, nhƣng tại “tổng hành dinh” ông Ninh nắm bắt hết tình hình đánh bắt các tàu cá

thông qua máy liên lạc tầm xa.

“Ngồi ở nhà nhƣng tui biết chiếc tàu mang số hiệu này đang đánh bắt tại tọa độ nào,

chiếc tàu mang số hiệu kia đánh bắt tại tọa độ nào; biết hôm này tàu này, tàu kia đánh

bắt ra sao; biết tình hình máy móc các con tàu, sức khỏe các thuyền viên nhƣ thế nào.

Khi có tàu nào gặp sự cố cần giúp đỡ, tui sẽ điều động những tàu đang đánh bắt gần đó

chạy tới hỗ trợ ngay. Nhờ có sự tƣơng trợ nên hoạt động đánh bắt của những tàu cá

trông đội tàu luôn suôn sẻ, mang lại hiệu quả cao”, ông Ninh chia sẻ.

Cũng theo ông Ninh, nếu tàu nào gặp luồng cá lớn, đánh bắt đã khẳm be mà cá vẫn còn

thì ông điều những tàu gần đó đến tiếp sức. Nếu gặp lúc biển đói, đánh bắt đã dài ngày

mà chƣa bức đá (cá chƣa đầy các hầm chứa) thì sẽ gom cá của các tàu lại để 1 tàu chở

về bờ, các tàu kia tiếp tục đánh bắt, bán cá xong tàu cá về bờ chở nhiên liệu, lƣơng

thực ra tiếp tế cho các tàu đang bám biển. “Làm cách này các tàu cá bớt đƣợc chi phí

nhiên liệu vì không phải chạy ra chạy vào, bám biển đƣợc dài ngày nên đánh bắt hiệu

quả”, ông Ninh giải thích.

Cách ăn chia của đội tàu ông Ninh rất minh bạch nên thuyền viên ai cũng dốc lực làm

việc. Ông Ninh ví dụ: “Nếu tàu có 15 ngƣời đi bạn, chuyến biển đó bán sản phẩm đƣợc

500 triệu, sau khi trừ phí tổn, số tiền còn lại đƣợc chia thành 26 phần, chiếc tàu đƣợc

hƣởng 11 phần, mỗi thuyền viên hƣởng 1 phần. Riêng tài công, chủ tàu sẽ trích ra 1

phần để trả thêm, thu nhập của tài công luôn đƣợc hƣởng gấp đôi thuyền viên”, ông

Ninh cho biết thêm.

“Trong quá trình làm việc, tui chọn ra những ngƣời giỏi việc, năng nổ, ƣu tiên những

ngƣời hoàn cảnh gia đình khó khăn, cho họ hùn vốn vào ¼ chiếc tàu. Vốn ở đây không

phải là tiền mặt mà chỉ góp bằng miệng, để họ có trách nhiệm quản lý con tàu khi đánh

bắt trên biển, số tiền này đƣợc trừ dần từng chuyến biển đến khi hết. Khi hoàn hết tiền

vốn trong ¼ chiếc tàu, nếu họ cần cất nhà, dựng vợ gả chồng cho con, tui ứng tiền lo

hết, rồi cũng thu hồi nợ dần dần. Nhờ vậy anh em thuyền viên đều một lòng tận tụy với

công việc”, ông Bùi Thanh Ninh chia sẻ. (Nông Nghiệp Việt Nam 1/11, Vũ Đình

Thung) đầu trang

Page 29: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

29

Ngƣ dân trúng mùa ruôc

Những ngày cuối tháng 10/2016, bà con ngƣ dân ven biển Cà Mau, Kiên Giang trúng

mùa ruốc. Nhiều tàu nhỏ khai thác ruốc bằng lƣới, đầy te có thể thu vài triệu đồng mỗi

ngày.

Ruốc tƣơi đƣợc sử dụng làm mắm hoặc phơi khô. Tại cửa biển Cái Đôi Vàm (Phú Tân,

Cà Mau) giá ruốc tƣơi từ 14.000 – 15.000 đồng/kg và ruốc khô trên 60.000 đồng/kg.

(Tiền Phong 1/11, Nguyên Hương) đầu trang

CỨU HỘ - CỨU NẠN

Kiên Giang: Giáo viên bỏ tiền túi cứu rùa biên

Ngày 31.10, tại cảng biển Bãi Vòng, xã Hàm Ninh, huyện Phú Quốc (Kiên Giang),

thầy giáo Trần Hùng Vƣơng - giáo viên Trƣờng Tiểu học - THCS Hàm Ninh cùng với

học sinh và ngƣời dân đã tổ chức thả con rùa quý cân nặng 12kg về với biển.

Trƣớc đó, thầy Vƣơng đi chơi ở thị trấn An Thới, bắt gặp một ngƣ dân đánh bắt đƣợc

con rùa. Là thành viên trong đội bảo tồn biển của trƣờng nên thầy biết loại rùa (đồi

mồi) là loại cấm khai thác và sử dụng. Thầy Vƣơng đã giải thích và vận động ngƣ dân

nên thả con rùa về với biển và ngƣ dân đã đồng ý. Thầy Vƣơng đã bỏ tiền túi ra hỗ trợ

ngƣ dân này 3 triệu đồng.

Trƣớc khi thả con rùa về với biển, thầy giáo Vƣơng đã đƣa con vật đến tận trƣờng học

cùng với nhiều thầy cô trong trƣờng truyền đạt những kiến thức về các loại động vật

biển cấm khai thác sử dụng, các loại động vật quý hiếm… Qua đó giúp các em hiểu

biết thêm kiến thức pháp luật về các loài động vật biển, vận động các em cùng gia đình

có trách nhiệm phải bảo tồn các loài vật biển đang đứng trƣớc nguy cấp.

Đồi mồi (Eretmochelys imbricate) là một trong những loại rùa biển có nguy cơ tuyệt

chủng, đƣợc tổ chức Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên quốc tế xếp loại nguy cấp. Công

ƣớc về thƣơng mại quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) cấm

khai thác. (Lao Động 1/11, Văn Ngọc Bé) đầu trang

Phú Yên: Cứu bôn ngƣ dân bị chìm tàu ở cửa biên

Trên đƣờng trở vào bến, một chiếc xuồng máy bị chìm ở cửa biển Phú Yên khiến bốn

ngƣ dân bị trôi dạt.

Đầu giờ chiều 31-10, tàu cá PY 61276 TS của anh Nguyễn Văn Long (31 tuổi, ngụ

phƣờng Phú Đông, TP Tuy Hòa, Phú Yên) đã cứu vớt bốn ngƣ dân đang trôi dạt tại

cửa biển Đà Diễn thuộc phƣờng 6, TP Tuy Hòa trong tình trạng kiệt sức. Ngay sau đó,

những ngƣ dân này đƣợc quân y Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Phú Yên cấp cứu,

chăm sóc sức khỏe.

Page 30: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

30

Thông tin từ trực ban tác chiến Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Phú Yên cho biết

trên đƣờng trở về bến, khi vào cửa biển Đà Diễn, bốn ngƣ dân trên xuồng nhựa gắn

máy do ông Huỳnh Văn Hội (49 tuổi, ngụ phƣờng Phú Đông) điều khiển bị sóng đánh

chìm. Đồn biên phòng Tuy Hòa thông báo khẩn đến các tàu cá của ngƣ dân đang hoạt

động gần đó đến ứng cứu. Nhận đƣợc thông tin, trên đƣờng về bến, tàu cá của anh

Long đã kịp thời cứu nạn.

Trƣớc đó, ngày 30-10, sáu công nhân đang thi công công trình cầu Bà Đài bắc qua

sông Bà Đài thuộc xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân (Phú Yên) cũng bị mắc kẹt, không

thể vào bờ do nƣớc dâng cao bất ngờ. Chính quyền huyện Đồng Xuân và Sở Giao

thông vận tải tỉnh Phú Yên đã khẩn cấp triển khai cứu nạn, đƣa sáu công nhân vào nơi

an toàn. (Pháp Luật TP.HCM 31/10, T.Lộc) đầu trang

Bình Định: Hai tàu cá gặp sự cô trên biên

Vào lúc 10 giờ 30 ngày 31/10, Đài Thông tin Duyên hải Nha Trang thông báo, tàu cá

BĐ 97105-TS đang hoạt động tại khu vực cách đảo Phan Vinh - quần đảo Trƣờng Sa

khoảng 157 hải lý.

Chiều tối 31/10, Văn phòng Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn

tỉnh Bình Định cho biết, vào lúc 10 giờ 30 ngày 31/10, Đài Thông tin Duyên hải Nha

Trang thông báo, tàu cá BĐ 97105-TS đang hoạt động tại khu vực cách đảo Phan Vinh

- quần đảo Trƣờng Sa khoảng 157 hải lý.

Trên tàu có ông Trần Châu 53 tuổi bị tê liệt tay chân bên trái.

Qua liên lạc điện thoại với chủ tàu BĐ 97105-TS là bà Trần Thị Cúc, quê ở Hoài

Hƣơng, Hoài Nhơn cho biết, chồng bà là thuyền trƣởng Trần Châu, có chân trái bị tai

nạn vào năm 2015 phải mổ và gắn inox vào chân nhƣng chƣa mổ lấy ra nên khả năng

gây tê liệt.

Bà Cúc cũng đã liên lạc với 6 thuyền viên trên tàu này và họ đều cho biết, tàu đang

đƣa ông Châu vào đảo Phan Vinh để cấp cứu, tuy nhiên do sóng to nên mỗi giờ chỉ đi

đƣợc đƣợc khoảng 3 hải lý.

Trong khi đó, một tàu cá khác là BĐ 97977-TS có công suất 800 CV bị hỏng máy thả

trôi trên biển vào lúc 7 giờ 30 ngày 27/10.

Tàu đang tiếp tục khắc phục sự cố, đến chiều tối 31/10 vẫn chƣa khắc phục đƣợc và

tiếp tục thả trôi trên biển. Chủ tàu là ông Lê Minh Bình, xã Hoài Hải huyện Hoài

Nhơn, trên tàu có tổng cộng 9 ngƣời.

Cơ quan chức năng đang tiếp tục liên lạc với 2 tàu trên và kêu gọi các tàu khác biết để

thực hiện công tác cứu hộ. (Bnews 31/10, Viết Ý) đầu trang

Page 31: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

31

THỊ TRƢỜNG

Ngƣời nuôi vẫn lo dù giá cá tra tăng cao

Trong khi giá thu mua nhiều loại thủy sản sụt giảm, giá cá tra tăng cao là điểm sáng

hiếm hoi của ngành thủy sản. Tuy nhiên, đầu ra cho cá tra vẫn đƣợc đánh giá còn khá

bấp bênh khiến ngƣời nuôi vẫn chƣa mạnh dạn đầu tƣ.

Mới bắt tay nuôi cá tra vụ đầu tiên, những ngày này gia đình chị Nguyễn Thị Sáu ở xã

Tân Phong, huyện Cai Lậy (tỉnh Tiền Giang) vui mừng vì sắp thu hoạch lứa cá này,

trong khi giá đang nhích dần lên, lại đƣợc thƣơng lái săn đón.

"Giá cá tra tăng và đang ở mức cao hơn so với trƣớc đó, từ 21.000 - 22.000 đồng/kg.

Chỉ tính riêng trong tuần này, giá cá đã tăng thêm từ 500 - 800 đồng/kg so với cuối

tuần trƣớc. Do tận dụng đƣợc lƣợng lao động nhàn rỗi và phế phẩm thủy sản, với giá

cả nhƣ vậy thì có lời nhiều rồi", chị Sáu cho hay.

Theo Hiệp hội Cá tra Việt Nam, giá cá tra tăng mạnh trở lại là do nguồn cung bị giảm

sút nặng nề, đặc biệt là nguồn cá nuôi trong dân. Ngoài ra, các doanh nghiệp đang bị

áp lực giao hàng phục vụ các ngày lễ lớn cuối năm trong khi nhiều đơn hàng từ các

nƣớc đang tăng mạnh ở hầu hết các thị trƣờng nhƣ Mỹ, EU, Mexico…

"Thời gian qua giá cá tra luôn ở mức thấp, ngƣời nuôi bị thua lỗ nên rất nhiều hộ đã bỏ

cá tra chuyển sang nuôi những loại thủy sản khác. Trong khi đó, hiện không ít doanh

nghiệp đã tăng đƣợc đơn hàng từ 10-20% so với 2 - 3 tháng trƣớc. Khi thấy nguồn

nguyên liệu trong nƣớc bị giảm mạnh, nhiều nhà nhập khẩu đã tăng giá mua, tranh

mua hàng đã làm cho thị trƣờng cá tra sôi động trở lại.

Với tình hình thị trƣờng có nhiều tích cực nhƣ hiện nay, kết thúc năm 2016, kim ngạch

xuất khẩu cá tra có thể sẽ tăng khoảng 5 - 7% so với kế hoạch, đạt doanh thu hơn 1,5 tỷ

USD", ông Trƣơng Đình Hòe, Tổng Thƣ ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản

Việt Nam (Vasep), nhận định.

Khảo sát của phóng viên cho thấy, mặc dù giá cá tra tăng mạnh nhƣng tình trạng bỏ

trống ao vẫn đang diễn ra mạnh. Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nhiều tỉnh có

tỷ lệ ao nuôi giảm cao nhƣ Trà Vinh (giảm hơn 50%), Đồng Tháp (khoảng 40%), An

Giang (20%)... Nguyên nhân đƣợc cho là do giá cá tra thời gian qua liên tục giảm,

trong khi giá nhiều loại nguyên liệu đầu vào lại tăng cao đã tác động không nhỏ đến

giá trị lợi nhuận của nhà nông.

Ông Dƣơng Ngọc Minh, Phó Chủ tịch Vasep, cho biết năm nay cá tra vẫn là mặt hàng

xuất khẩu có mức tăng trƣởng ấn tƣợng nhất trong ngành thủy sản về giá trị lẫn sản

lƣợng. Dù vậy, ngành cá tra vẫn đang phải đối mặt với việc thiếu nguyên liệu chế biến

và tình hình càng ngày càng trầm trọng hơn. 9 tháng đầu năm 2016 số liệu xuất khẩu

cá tra đã tăng trƣởng gần 7% về sản lƣợng và trị giá xuất khẩu đạt gần 1,2 tỷ USD.

Page 32: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

32

Thời gian tới nhu cầu nhập khẩu cá tra sẽ tăng ở hầu hết các thị trƣờng và kéo dài cho

đến quí I/2017 với mức tăng khoảng 20%.

"Nguồn cá giống năm nay đã giảm hơn 30% so với năm 2015 đã dẫn đến lƣợng cá

giống cung ứng ra thị trƣờng cũng giảm nhanh hơn so với dự kiến. Những năm trƣớc

lƣợng cá giống mới thƣờng gối đầu, kéo dài cho đến tháng 3 năm sau nhƣng năm nay

tình hình hoàn toàn khác. Ngay từ tháng 9 cá giống đã không còn và ngƣời nuôi cá

phải chạy đôn chạy đáo tìm cá giống. Hiện cá giống đã tăng thêm tới 7.000 đồng/kg,

lên 26.000 đồng/kg nhƣng ngƣời nuôi vẫn khó mua", ông Minh lo lắng.

Theo các chuyên gia kinh tế, con cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long đang nằm trong

thế bị động khi ngƣời nuôi lo ngại không dám mạnh dạn đầu tƣ, diện tích thả nuôi liên

tục sụt giảm. Trong khi đó, chất lƣợng con cá tra chƣa ổn định, chƣa xây dựng đƣợc

thƣơng hiệu, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra lại cao với

cùng một dạng sản phẩm fillet.

Trƣớc xu hƣớng các nƣớc tăng cƣờng bảo hộ sản xuất trong nƣớc cho nên dù đƣợc giá

xuất khẩu nhƣng hiện các doanh nghiệp vẫn nơm nớp lo ngại nguy cơ bị kiện chống

bán phá giá. Vì vậy dƣới tác động từ giá mua của các nhà nhập khẩu, giá thu mua có

tăng nhƣng về lâu dài ngƣời nuôi cá vẫn sẽ trong trạng thái lo âu khi chẳng biết giá cá

có thể lại giảm lúc nào. (Tin Tức 1/11, Lê Nghĩa) đầu trang

MÔI TRƢỜNG

TP.HCM: Lắp vòi bơm, máy quạt giúp cá sông ở kênh Nhiêu Lộc

Đây đƣợc xem là giải pháp nhằm phòng ngừa tình trạng cá chết trên kênh Nhiêu Lộc -

Thị Nghè, TP.HCM.

Giải pháp trên đƣợc phó chủ tịch UBND TP.HCM Lê Thành Liêm đồng ý giao Sở Tài

nguyên môi trƣờng chủ trì phối hợp với Sở Giao thông vận tải khảo sát nghiên cứu

thực hiện.

UBND TP lƣu ý việc lắp vòi bơm phun nƣớc, máy quạt bề mặt… không chỉ để tăng

cƣờng ôxy hòa tan mà còn nhằm tạo cảnh quan phù hợp.

Tại hội thảo “Cơ sở khoa học về sức tải thủy vực và chiến lƣợc quản lý đàn cá trên

kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè” tổ chức ngày 28-10, ông Trần Văn Sơn, phó chi cục

trƣởng Chi cục Quản lý chất lƣợng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản (Sở Nông nghiệp và

phát triển nông thôn), cho biết liên tục ba năm liền (từ năm 2014 đến nay) năm nào

cũng xảy ra hiện tƣợng cá chết trên kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè.

Mỗi lần cá chết, ít thì vài tấn, nhiều hàng chục tấn (số cá chết đƣợc cơ quan chức năng

công bố ngày 18 và 19-5-2016 là trên 70 tấn). Nguyên nhân cá chết do vấn đề ô nhiễm

do môi trƣờng nƣớc bị thay đổi đột ngột trong những cơn mƣa đầu mùa.

Page 33: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

33

Còn theo nghiên cứu của PGS-TS Vũ Cầm Lƣơng - trƣờng Đại học Nông lâm, kênh

Nhiêu Lộc - Thị Nghè có tới 84,2% là cá rô phi sinh sống. Ngoài giải pháp đƣợc

UBND TP chấp thuận, ông Lƣơng còn cho rằng cần phải thực hiện “tỉa” bớt cá rô phi

và kiểm soát chất lƣợng nƣớc thải xuống dòng kênh này. (Tuổi Trẻ 31/10, Quang

Khải) đầu trang

XÃ HỘI

131 ngƣ dân đầu tiên nộp đơn gia nhập nghiệp đoàn nghề cá

Ngày 31.10, LĐLĐ huyện Hoài Nhơn cho biết đã nhận đƣợc 131 đơn của ngƣ dân xã

Tam Quan Bắc tự nguyện tham gia tổ chức nghiệp đoàn nghề cá đầu tiên tại Bình

Định, dự kiến ra mắt ngày 15.11 tới.

Con số này vƣợt xa mục tiêu ban đầu - 50 ngƣ dân - do ban vận động thành lập Nghiệp

đoàn Nghề cá Tam Quan Bắc đề ra. Theo Phó Chủ tịch LĐLĐ huyện Hoài Nhơn -

Nguyễn Hồng Ngân, công tác chuẩn bị thành lập nghiệp đoàn đƣợc xúc tiến liên tục từ

đầu tháng 9 đến nay, gồm các đợt khảo sát thực trạng, nắm bắt số lƣợng tàu thuyền,

ngành nghề khai thác, sự vận hành, hiệu quả hoạt động của các tổ đoàn kết, tình trạng

tai nạn, rủi ro trên biển...

Tại các cuộc vận động, thắc mắc của ngƣ dân về vai trò nghiệp đoàn trong việc bảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của ngƣời lao động; khả năng tƣ vấn, hƣớng

dẫn, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, dịch vụ hậu cần, chia sẻ rủi ro... đƣợc giải đáp cụ thể, chi tiết.

Số đơn tham gia nghiệp đoàn liên tục tăng lên từ nhóm 53 ngƣ dân nòng cốt ban đầu.

Tam Quan Bắc là “thủ phủ” nghề đánh bắt cá ngừ đại dƣơng của Bình Định. Xã có 894

tàu cá với tổng công suất 352.080 CV, giải quyết việc làm thƣờng xuyên cho hơn

5.000 lao động.(Lao Động 1/11) đầu trang

Quảng Ninh: Thu giữ sô lƣợng lớn hàu nhập lậu từ Trung Quôc

Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Vạn Gia, tỉnh Quảng Ninh vừa phát hiện, xử lý 2 tàu

sắt vận chuyển 80.000 con hàu giống và 400 chiếc phao dùng để làm lồng bè nuôi hải

sản nhập lậu từ Trung Quốc.

Ngày 21-10, trong khi đang tuần tra kiểm soát tại khu vực biển Đầu Tán thuộc xã

Vĩnh Thực, Móng Cái, Quảng Ninh, Chi cục Hải quan cửa khẩu cảng Vạn Gia phát

hiện 1 tàu sắt biển kiểm soát QN-9066-TS vận chuyển 80.000 con hàu giống từ Trung

Quốc về Vân Đồn.

Qua khai thác, lái tàu khai nhận vận chuyển thuê cho một ngƣời đàn ông không rõ địa

chỉ, lai lịch. Chi cục Hải quan cảng cửa khẩu cảng Vạn Gia đã phối hợp với các cơ

quan chức năng tiến hành tiêu hủy 80.000 con hàu giống nêu trên và xử phạt vi phạm

hành chính 3,5 triệu đồng đối với lái tàu.

Page 34: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

34

Cùng ngày, tổ công tác cũng bắt giữ tàu biển kiểm soát QN-0988-TS vận chuyển 400

chiếc phao xốp dùng làm lồng bè nuôi hải sản, trị giá khoảng 32 triệu đồng không có

hóa đơn chứng từ hợp pháp.

Tổ công tác thu giữ toàn bộ số tang vật trên và tiến hành xử lý theo quy định. (An Ninh

Thủ Đô 31/10, Nhã Linh) đầu trang

TIN THẾ GIỚI

Thủy sản nuôi ngày càng đƣợc ƣa chuộng ở Nhật Bản

Ngành nuôi trồng thủy sản tại Nhật Bản đang đƣợc quan tâm nhiều hơn, áp dụng các

biện pháp công nghệ tiên tiến và dần trở thành lựa chọn đầu tiên của các nhà bán lẻ,

đặc biệt là các chuỗi siêu thị tại Nhật Bản.

Theo Niên giám thống kê của Cục Thống kê Nhật Bản, tổng sản lƣợng thủy sản nuôi

trồng của Nhật Bản năm 2015 là 1,06 triệu tấn, tăng 8% so với năm 2014. Sản lƣợng

thủy sản nuôi trồng đã chiếm 22,8% tổng sản lƣợng thủy sản của Nhật Bản.

Sự gia tăng sản lƣợng thủy sản nuôi trồng trong hệ thống siêu thị là một bằng chứng

cho thấy sự thay đổi trong cách bán hàng của các nhà bán lẻ và thay đổi trong thói

quen tiêu dùng của ngƣời dân. Với những biện pháp công nghệ hiện đại trong chăn

nuôi, nguồn thức ăn đƣợc đảm bảo, thủy sản nuôi ngày càng đƣợc ƣa chuộng hơn.

Thêm vào đó, sự thay đổi này càng đƣợc đẩy mạnh do sự phát triển của các chuỗi siêu

thị với các chƣơng trình khuyến mãi có quy mô lớn, yêu cầu số lƣợng hàng lớn hơn.

Bên cạnh đó, những công ty hoạt động trong ngành công nghiệp thực phẩm từ lâu đã

ƣa thích thủy sản nuôi vì giá cả và nguồn cung cấp ổn định hơn. Điều đó cho phép họ

chủ động hơn trong việc lên chiến lƣợc về giá đối với ngƣời tiêu dùng. “Giờ đã đến lúc

các nhà bán lẻ cũng mong muốn có đƣợc sự ổn định đó”, đại diện Seafood Source

nhấn mạnh.

Một số mặt hàng có giá thấp hơn nhƣ: cá mòi, cá thu, cá thu ngựa và cá thu đao, là

những loài thƣờng đƣợc trữ đông. Giá cả và sự rủi ro của thị trƣờng đầy biến động

khiến những mặt hàng này thƣờng bị mất giá. Vì vậy, một xu hƣớng mới mà các nhà

bán lẻ và chuỗi nhà hàng áp dụng là lƣu trữ số lƣợng các mặt hàng này ít hơn, ví dụ

nhƣ giảm số lƣợng từ 10 - 20% xuống còn 5%.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ thực phẩm cũng

đã “bắt tay” với các hợp tác xã nuôi trồng thủy sản để có nguồn cung sản phẩm ổn

định, giá thành đầu vào thấp và tăng lợi nhuận.

Trong nuôi trồng thủy sản, thức ăn cho vật nuôi chiếm phần chi phí lớn nhất. Do vậy,

kiểm soát chi phí cho thức ăn là chìa khóa để duy trì và gia tăng lợi nhuận. Trong khi

Page 35: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

35

đó, theo luật thủy sản của Nhật Bản, các hợp tác xã nuôi trồng thủy sản có quyền ƣu

tiên đầu tiên, trƣớc cả các tập đoàn, các trang web nuôi trồng thủy sản.

Cũng đã có một xu hƣớng để thay thế “văn hóa cá cam Nhật tự nhiên” bằng cá ngừ vây

xanh có lợi hơn, mặc dù cá ngừ Mexico nhập khẩu vẫn có lợi thế về giá trên thị trƣờng.

Theo The Fish Site, các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản ở Nhật Bản đang ngày

càng áp dụng công nghệ hiện đại vào chăn nuôi, trong đó có sử dụng các robot thông

minh.

Năm 2014, tại tỉnh Tottori miền Tây Nhật Bản - nơi ngành nuôi trồng cá hồi rất phát

triển, các hộ nuôi cá đã áp dụng công nghệ mới, sử dụng robot cho ăn tự động có tên

Nissui. Những con robot này sẽ cung cấp đủ lƣợng thức ăn cho cá nuôi ngay cả trong

điều kiện thời tiết xấu.

Chúng đƣợc gắn chip cảm biến để nhận biết xem cá đang ăn thức ăn hay không. Dựa

trên các kết quả thu đƣợc, lƣợng thức ăn cho cá đƣợc phân phối bởi những máy xay

của robot đƣợc điều chỉnh, giúp làm giảm lƣợng thức ăn dƣ thừa, nâng cao hiệu quả và

giảm thiểu tác động đối với môi trƣờng biển.

Ngoài ra, các robot này còn đƣợc gắn cảm biến để đo lƣợng oxy trong nƣớc, nhiệt độ

nƣớc và cả một chiếc máy ảnh, giúp ngƣời nuôi cá có thể kiểm tra thông tin về hồ

cá trên máy tính hoặc điện thoại thông minh một cách dễ dàng.

Gần đây, nhà điều hành viễn thông DoCoMo cũng phát triển thiết bị đo nhiệt độ nƣớc

biển với chiếc phao thông minh tại trang trại nuôi hàu và rong biển ở khu vực Tohoku,

khu vực bị ảnh hƣởng nặng nề bởi trận động đất sóng thần ngày 11/3/2011.

Mục đích của DoCoMo là cải thiện năng suất của các trang trại nuôi hàu và rong biển

bị ảnh hƣởng bởi thảm họa sóng thần và giúp họ sản xuất các sản phẩm chất lƣợng cao.

Tám chiếc phao thông minh đã đƣợc đặt tại các trang trại ở thành phố Higashi

Matsushima, tỉnh Miyagi. Ở độ sâu 1,5 - 2m, những chiếc phao này đo nhiệt độ nƣớc

mỗi giờ. Dữ liệu đƣợc chuyển tới một máy chủ, cung cấp thông tin đến điện thoại di

động của các chủ trang trại.

Các thử nghiệm trên phao thông minh đã đƣợc DoCoMo bắt đầu tiếng hành vào tháng

3/2016 và dự kiến sẽ kéo dài 1 năm. Nếu đạt kết quả tốt, công ty này sẽ chia sẻ và phát

triển công nghệ của họ với các trang trại nuôi cá trên khắp Nhật Bản, đồng thời sẽ

trang bị thêm nhiều cảm biến đo các thông số khác (nhƣ hƣớng gió, tốc độ gió, độ cao

sóng và thông tin thời tiết) để ngƣ dân có thể nâng cao năng suất thu hoạch hàu và

rong biển vào đúng thời điểm trong năm.

Hơn thế nữa, với xu hƣớng ƣa thích sử dụng thủy sản nuôi ngày càng gia tăng của

ngƣời Nhật, một số công ty nuôi trồng đang cố gắng tạo sự khác biệt cho thƣơng hiệu

Page 36: Bản tin điểm báo ngày 01/11/2016

36

sản phẩm của mình nhƣ tuyên bố công khai về nguồn gốc và thành phần thức ăn cho cá

của họ nhƣ: lá trà, cỏ chanh, thảo dƣợc hoặc thậm chí là vỏ cam, chanh để loại bỏ mùi

tanh. (Thế Giới Và Việt Nam 1/11, Dương Liễu) đầu trang./.