Top Banner
BAN TCHÚC TRUNG ƯƠNG ĐẢNG BÁO CÁO TNG KT ĐỀ TÀI VN ĐỀ PHÁT HUY DÂN CHĐOÀN KT THNG NHT TRONG NI BĐẢNG CNĐT : NGUYN ĐỨC HT 8160 HÀ NI – 2010
261

8160

Jul 20, 2015

Download

Data & Analytics

Thanh Thanh
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: 8160

BAN TỔ CHÚC TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI

VẤN ĐỀ PHÁT HUY DÂN CHỦ VÀ ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT TRONG NỘI BỘ ĐẢNG

CNĐT : NGUYỄN ĐỨC HẠT

8160

HÀ NỘI – 2010

Page 2: 8160

1

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết

Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm vấn đề phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh:

“Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” 1.

Lịch sử Đảng và sự nghiệp cách mạng Việt Nam gần 80 năm qua đã rút ra bài học quý báu về sức mạnh vô địch của đại đoàn kết toàn dân tộc mà hạt nhân là sự đoàn kết nhất trí trong Đảng.

Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng là đòi hỏi cấp thiết hiện nay, nhằm giữ vững vị trí cầm quyền của Đảng, nâng cao vai trò của Nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ xã hội. Một trong những điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng.

Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”. Để thực sự xây dựng và phát huy dân chủ của nhân dân, củng cố, tăng cường sự đồng thuận xã hội, trước hết phải bắt đầu từ việc phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong nội bộ của Đảng.

Đảng phải thực sự đi đầu và là tấm gương về dân chủ và đoàn kết trước toàn thể xã hội. Vấn đề phát huy dân chủ và đoàn kết trong Đảng luôn có ý nghĩa to lớn đối với việc tăng cường và phát huy dân chủ và đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ khi ra đời đến nay Đảng ta luôn quan tâm đến việc tăng cường đoàn kết thống nhất nội bộ nên đã phát huy được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, củng cố niềm tin của nhân dân. 1 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.CTQG, H,2001, tr.497-498.

Page 3: 8160

2

Tuy nhiên, tình hình, bối cảnh mới của đất nước và thế giới đang yêu cầu Đảng phải tiếp tục đổi mới tư duy và hành động. Dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng hiện nay phải phù hợp với các đòi hỏi, thách thức của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Về phương diện lý luận: đã có nhiều công trình nghiên cứu về dân chủ, dân chủ xã hội..., nhưng dân chủ trong Đảng chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện. Trong khi đó, nhiều vấn đề lý luận về dân chủ trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền đang cần được làm sáng tỏ trong mối quan hệ giữa đảng viên với tổ chức đảng, giữa các tổ chức đảng với nhau; trong sinh hoạt đảng; trong các mối quan hệ của Đảng với Nhà nước; Đảng với Dân; Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các Tổ chức chính trị -xã hội; Đảng với xã hội.

Về phương diện thực tiễn: trong thời gian vừa qua, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới đất nước, từ Đại hội VI đến nay, Đảng đã có nhiều quan điểm, chủ trương và giải pháp về phát huy dân chủ, củng cố, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng. Các quan điểm và giải pháp đó đã phát huy hiệu quả tích cực trong việc tăng cường năng lực, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Tuy vậy, thực tiễn sinh động và phức tạp về phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng vẫn chưa được tổng kết, nghiên cứu đầy đủ, nên nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.

Để có tư duy mới về dân chủ, về đoàn kết trong Đảng, cần thiết phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh giá đúng thực trạng thực hành dân chủ và đoàn kết trong hệ thống tổ chức đảng hiện nay, từ đó xây dựng các quan điểm và giải pháp thực sự phát huy được dân chủ và tăng cường đoàn kết trong nội bộ Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới.

Chính vì vậy, việc triển khai nghiên cứu và tổng kết: “Vấn đề phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng” đang là một nhiệm vụ nghiên cứu cấp bách đặt ra, nhằm đáp ứng tình hình đổi mới đất nước hiện nay.

Kết quả các nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần quan trọng vào quá trình tự đổi mới, tự chỉnh đốn của Đảng ta theo đúng tinh thần Đại hội X, đồng thời cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn để bổ sung, phát triển Cương lĩnh

Page 4: 8160

3

chính trị của Đảng về các vấn đề dân chủ và vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước.

2. Tình hình nghiên cứu

2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Dân chủ và đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng là một trong những vấn đề thuộc về bản chất của một Đảng Cộng sản, là biểu hiện tập trung của năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản cầm quyền. Đây là một trong những nội dung được giới nghiên cứu quan tâm.

* Trước hết là việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng về dân chủ và đoàn kết trong Đảng. Khái quát lại, các công trình nghiên cứu tập trung vào một số các nội dung sau:

- Về bản chất của dân chủ; sự khác nhau giữa dân chủ tư sản và dân chủ vô sản; các nhân tố tác động, các điều kiện bảo đảm cho dân chủ và đoàn kết; các hình thức dân chủ; các phương pháp thực hành dân chủ; cơ sở hiện thực cho sự hình thành và biến đổi của dân chủ; các biểu hiện và phương pháp khắc phục tình trạng mất dân chủ, mất đoàn kết trong Đảng Cộng sản và ngoài xã hội.

- Các báo cáo tổng kết của Đảng, của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội về thực hành dân chủ, đoàn kết. “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006). Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận. B|NxbCTQG, H,.2005”; “Báo cáo tổng kết thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” của Mặt trận Tổ quốc, các ban, bộ, ngành, tỉnh ủy, thành ủy sau 5 năm thực hiện.

- Nhiều công trình khoa học, bài viết đã nghiên cứu ở những lĩnh vực cụ thể, mối quan hệ cụ thể, các nội dung cụ thể của vấn đề dân chủ, đoàn kết trong Đảng: “Dân chủ trong nội bộ Đảng trong thời kỳ đổi mới” - Lê Đức Bình. Tạp chí Xây dựng Đảng, 2003, số 11; Lê Khả Phiêu “Đổi mới một Đảng cầm quyền, nguy cơ lớn nhất là nguy cơ “suy thoái về chính trị, suy thoái về đạo đức”, Tạp chí Dân vận, 2001, số 1; Phạm Ngọc Quang “Nước ta, dân chủ chỉ được bảo đảm trong một nền chính trị nhất nguyên”, Tạp chí Cộng sản, 2001, số 18; Phạm Ngọc Quang “Nhận thức sâu sắc quan điểm dân chủ hóa toàn bộ đời sống xã hội là mục tiêu và động lực trong sự nghiệp đổi mới đất nước”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 9/2005; Phạm Văn Tâm “Phong cách

Page 5: 8160

4

lãnh đạo - yếu tố quan trọng để thực hiện quy chế dân chủ cơ sở”, Tạp chí Dân vận, 2001, số 9; Bùi Văn Tiếng “Vấn đề tác phong dân chủ của bí thư cấp uỷ”, Tạp chí Cộng sản, 2004, số 20; Lưu Minh Trị “Cơ sở đảng lãnh đạo việc phát huy dân chủ, thực hiện pháp chế ở ngoại thành Hà Nội”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 1994, số 1; Lê Quang Thưởng “Vai trò của tổ chức đảng trong việc bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở”, Tạp Chí Cộng sản, 1998, số 2; Lương Gia Ban “Dân chủ và việc hệ thống quy chế dân chủ ở cơ sở”; Nxb CTQG, H,2003; Sách “Những văn bản pháp luật về dân chủ và quy định bảo đảm thực hiện dân chủ”; Nxb Lao động, H, 1999; Sách “Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay”, Nxb CTQG, H,2003; Sách “Vấn đề dân chủ và đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2003, số 2; “Tăng cường cơ sở pháp luật về dân chủ trực tiếp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2000, số 1; “Dân chủ làng xã: truyền thống và hiện đại”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2004, số 8, Sách “Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay”, Nxb CTQG, H,2003…

* Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và đoàn kết trong nội bộ Đảng đã được tập trung nghiên cứu trong một số công trình khoa học sau:

- Chương trình KHXH - 05, năm 1999 đã đi sâu nghiên cứu “Một Đảng lãnh đạo và chế độ dân chủ ở Việt Nam”, nhiều vấn đề được làm rõ trong chương trình như, khái niệm, thực trạng về chế độ dân chủ ở Việt Nam khi chỉ có một Đảng lãnh đạo; những nguyên nhân hạn chế và đề xuất những giải pháp nhằm phát huy chế độ dân chủ ở Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài mới đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng với các tổ chức chính trị - xã hội... nhằm phát huy dân chủ của từng tổ chức, mà chưa đi sâu nghiên cứu về vấn đề dân chủ và đoàn kết trong nội bộ Đảng.

- Ngô Đức Tính “Xây dựng Đảng về tổ chức”, Nxb CTQG, H,2003. Ở công trình này đã đề cập đến vấn đề dân chủ trong Đảng, sau khi làm rõ tính không thể phân chia của dân chủ và tập trung, tác giả đã nêu lên được những tiêu chuẩn cơ bản của tập trung dân chủ trong Đảng. Đó là, chế độ bầu cử, báo cáo, thông báo, tính chất công khai, tính tập thể trong sự lãnh đạo của Đảng, tính tự do thảo luận và phê bình, vấn đề phục tùng trong Đảng. Tác giả cũng đã nêu lên được một số thực trạng về việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ

Page 6: 8160

5

của Đảng thời kỳ trước và sau đổi mới, từ đó đề xuất một số giải pháp để tiếp tục thực hiện hiệu quả nguyên tắc này.

- Trong tài liệu “Đảng, Bác Hồ về tự phê bình và phê bình” của Ban Tổ chức Trung ương 62, 2005 đã trích dẫn nhiều lời chỉ dẫn của Bác và những nghị quyết của Trung ương về công tác phê và tự phê bình, đó là những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ của Đảng.

- Lê Đức Bình “Dân chủ trong nội bộ Đảng trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 11, 2003. Trong bài viết này, tác giả đã nhấn mạnh rằng, trong Đảng cần tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp chặt chẽ giữa tập trung với dân chủ xét trên bình diện chung của toàn Đảng. Trong tình hình hiện nay, bên cạnh tập trung nên hướng trọng tâm vào việc mở rộng dân chủ nội bộ, đấu tranh khắc phục chủ nghĩa quan liêu. Đồng thời tác giả đã đề xuất những giải pháp để mở rộng dân chủ, khắc phục quan liêu:

+ Trước hết từ quá trình xây dựng đường lối, chính sách của Đảng.

+ Mở rộng sinh hoạt dân chủ và nâng cao chất lượng lãnh đạo tập thể và hội nghị cấp ủy và Đại hội Đảng các cấp.

+ Có cơ chế với những hình thức tổ chức và phương pháp thích hợp tăng cường kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với cán bộ đảng viên, kể cả đối với những người lãnh đạo cấp cao.

+ Hoàn thiện các cơ chế bầu cử trong Đảng theo hướng thực hiện dân chủ đầy đủ hơn nữa.

+ Dân chủ hóa công tác cán bộ là một yêu cầu quan trọng hàng đầu của mở rộng dân chủ trong Đảng.

- GS, TS. Phùng Hữu Phú trong Báo cáo tại Hội thảo khoa học của Hội đồng lý luận Trung ương, năm 1999: “Một Đảng lãnh đạo và chế độ dân chủ ở Việt Nam” đã nêu lên một số nguyên nhân yếu kém về việc thực hiện dân chủ trong Đảng, đó là: 1. Là một nền dân chủ mới nhưng lại không qua nền dân chủ tư sản; 2. Một nền dân chủ chịu tác động của những mối quan hệ là sản phẩm của thời kỳ lịch sử, trong đó quan hệ giữa mệnh lệnh chỉ huy và phục tùng-chấp hành vốn là sản phẩm của thời kỳ chiến tranh; 3. Mặt bằng dân trí trong Đảng cũng có vấn đề, trình độ nhận thức chính trị trong Đảng cũng rất chênh nhau. Từ việc xác định nguyên nhân như trên, tác giả đã đề xuất một số

Page 7: 8160

6

giải pháp để khắc phục, đó là: 1. Muốn mở rộng dân chủ trong Đảng cần phải có cơ chế, quy định cụ thể, mọi vấn đề đều phải xuất phát từ cơ chế, quy chế và các quy định cụ thể; 2. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số trong cấp ủy; 3. Cần nghiên cứu để có quy định chế độ bãi nhiệm trong Đảng ngay trong nhiệm kỳ và song song với nó là chế độ bầu cử thật dân chủ; 4. Cần có bộ phận chăm lo phát huy vai trò của người đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo.

- Tác giả Trần Trọng Tân trong Báo cáo kỷ yếu Hội thảo khoa học, H, 1999: “Một Đảng lãnh đạo và chế độ dân chủ ở Việt Nam” đã nhấn mạnh đến vấn đề dân chủ trong Đảng hiện nay. Tuy số lượng đảng viên đông, nhưng rất thụ động và với sự phân cấp quyền lực như hiện nay giữa người đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo và người đảng viên không giữ chức vụ gì chưa thể có được dân chủ nội bộ, khó tạo sự bình đẳng trong Đảng. Việc cung cấp thông tin cũng thiếu bình đẳng giữa các đảng viên với nhau thì khó có được dân chủ trong Đảng. Cũng tại Hội thảo này, báo cáo của đồng chí Đào Duy Quát, Phó Trưởng ban Tư tưởng Trung ương đã nêu rõ, Đảng cầm quyền thì trong Đảng phải thật sự dân chủ. Mọi đảng viên đều được tham gia vào quá trình hình thành các quyết định của Đảng một cách thật sự dân chủ. Theo tác giả, hiện nay nhiều người băn khoăn thiếu tin tưởng vào sinh hoạt phê và tự phê bình trong Đảng, nếu không chặn đứng và đầy lùi tình hình này thì nguy cơ suy thoái của Đảng ngày càng trở nên rõ rệt.

- Ban Tổ chức Trung ương cũng đã có chuyên đề nghiên cứu tổng kết về “Củng cố và tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng” nhằm phục vụ cho Đại hội IX, trong chuyên đề đã tổng kết, đánh giá tình hình mất đoàn kết trong những năm qua và đã rút ra hai điểm cần lưu ý, đó là: 1. Sự mất đoàn kết ở một bộ phận tổ chức, cán bộ đảng viên; 2. Các dạng mất đoàn kết, từ đó chuyên đề đã tìm ra một số nguyên nhân gây ra mất đoàn kết trong nội bộ Đảng: 1. Nguyên nhân thường do chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cục bộ, gia trưởng độc đoán, thiếu dân chủ...; 2. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng chưa được thực hiện một cách nghiêm túc; 3. Công tác cán bộ còn nhiều bất cập, chậm đổi mới; 4. Một bộ phận cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt có năng lực yếu kém lại chủ quan, tự phụ, thiếu khiêm tốn, chạy theo lối sống thực dụng, ích kỷ, đặt lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích của tập thể... Từ những nguyên nhân yếu kém trên, chuyên đề đã đề xuất những giải pháp khắc phục tình trạng

Page 8: 8160

7

mất đoàn kết, đó là: 1. Đảng phải thường xuyên chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên; 2. Đoàn kết trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; 3. Xây dựng cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở mỗi cấp vững mạnh cả về chính trị lẫn chuyên môn và tư tưởng, đạo đức, tác phong. Coi trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; 4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng; 5. Xác định đúng nguyên nhân và tìm ra giải pháp phù hợp với từng trường hợp mất đoàn kết cụ thể.

- Đề tài độc lập cấp Nhà nước: “Vấn đề chính trị hiện nay trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng - Hiện trạng và giải pháp”, mã số: ĐTĐL 2006/16, do đồng chí Phạm Văn Thọ, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương làm chủ nhiệm. Đề tài đã nêu được một số thực trạng về việc thực hiện các nguyên tắc của Đảng trong sinh hoạt Đảng: nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc phê bình và tự phê bình, về đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đề tài cũng đã đề xuất một số giải pháp có liên quan đến phát huy dân chủ trong Đảng như: thực hiện dân chủ thật sự trong việc lựa chọn ban lãnh đạo, người đứng đầu các cấp, nhất là ở cấp chiến lược; Xác lập cơ chế, thiết chế đủ mạnh đề giám sát có hiệu quả việc thực thi quyền lực của tổ chức, cá nhân; Kiên quyết xử lý tình trạng thiếu dân chủ, mất dân chủ, gây chia rẽ bè phái trong ban lãnh đạo các cấp, các ngành, các địa phương; Gương mẫu thực hiện chế độ phê bình, tự phê bình; bảo vệ những người có ý kiến khác với động cơ trong sáng.

Nhìn chung, mức độ nghiên cứu của các chương trình, đề tài đã chú ý nhấn mạnh về dân chủ, đoàn kết, nguyên tắc tập trung trong tổ chức và sinh hoạt Đảng và sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng ; những đặc trưng cơ bản cùng các quy luật hình thành và phát triển dân chủ, đoàn kết... Các giải pháp nêu ra mới hướng tới những mục tiêu cụ thể là đề cao nguyên tắc tập trung dân chủ, tính đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Thực tế hiện nay chưa có đề tài cấp nhà nước nào nghiên cứu một cách hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng trong thời kỳ đổi mới.

2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Từ trước tới nay, có rất nhiều sách viết về dân chủ khá sâu cả về lý luận và thực tiễn, tuy vậy các sách thường đề cập đến các vấn đề dân chủ trong xã

Page 9: 8160

8

hội, hay trong các hoạt động của Nhà nước, hoạt động chính trị... Vì thế, các vấn đề nêu ra không sát với các nội dung nghiên cứu của đề tài này. Đề tài chọn cách tham khảo chủ yếu các tài liệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc vì Trung Quốc là nước có chế độ Đảng cầm quyền giống như ở Việt Nam. Thí dụ như, trong cuốn sách “Bàn về dân chủ”, Lý Thiết Anh với chuyên đề: “Lý luận dân chủ trong Đảng” đã đề cập khá toàn diện về vấn đề phát huy dân chủ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông đã nêu lên được quá trình phát triển lý luận dân chủ trong Đảng và làm rõ được nội hàm dân chủ trong Đảng. Theo tác giả, dân chủ trong Đảng là khái niệm lý luận, nó bao hàm những nguyên tắc đó là: 1. Nguyên tắc bình đẳng dân chủ trong Đảng; 2. Nguyên tắc thống nhất giữa dân chủ và tập trung; 3. Nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số; 4. Nguyên tắc bầu cử dân chủ; 5. Nguyên tắc kết hợp tập thể lãnh đạo và phân công phụ trách cá nhân; 6. Nguyên tắc giám sát dân chủ.

Điều đáng chú ý, trong " Đảng phải kiên trì và thực hiện dân chủ”, tác giả đã đề cập đến một số nội dung như sau:

- Kiên trì và thực hiện dân chủ trong Đảng là thể hiện tất yếu tính chất và tôn chỉ của Đảng.

- Kiên trì và thực hiện dân chủ trong Đảng là con đường tất yếu để kiên trì, tăng cường, cải thiện lãnh đạo của Đảng.

- Kiên trì và thực hiện dân chủ trong Đảng là bảo đảm quan trọng để tăng cường đoàn kết, nâng cao sức ngưng tụ và sức chiến đấu của Đảng.

- Kiên trì và thực hiện dân chủ trong Đảng là tổng kết khoa học kinh nghiệm lịch sử.

- Kiên trì và thực hiện dân chủ trong Đảng là đòi hỏi nội tại thúc đẩy dân chủ nhân dân.

Đặc biệt, tác giả đã xác định được các chế độ dân chủ trong Đảng, đây là điều chúng ta cũng nên quan tâm để có thể nghiên cứu áp dụng phát huy dân chủ trong Đảng. Đó là các chế độ: chế độ tập trung dân chủ trong Đảng; chế độ đại hội đại biểu của Đảng; chế độ bầu cử dân chủ trong Đảng; chế độ tập thể lãnh đạo; chế độ quyết sách khoa học dân chủ; chế độ bảo đảm quyền lợi của đảng viên; chế độ giám sát dân chủ trong Đảng. Ngoài ra, Trung Quốc còn có nhiều tài liệu khác có nội dung liên quan đến dân chủ trong Đảng để chúng ta có thể tham khảo và học hỏi.

Page 10: 8160

9

Nghiên cứu của giới khoa học Trung Quốc về dân chủ và đoàn kết rất được nhiều người quan tâm, như: “Về xây dựng thể chế chính đảng trong xây dựng văn minh chính trị”, Zhou Shuzhen, Viện Thông tin KHXH, Số TN 2005-13 “Thuyết dân chủ hóa trong Đảng nhìn từ giác độ phát triển chính trị”, Xiao Gongqin, Viện Thông tin KHXH, Số TN 2005-09.

Các nghiên cứu này song hành với các nghiên cứu về hệ thống lý luận cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc; nghiên cứu về lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng cầm quyền; nghiên cứu quy luật cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc…

Vấn đề dân chủ, đoàn kết cũng được giới nghiên cứu ở nhiều nước quan tâm, như: “Chính trị học so sánh - về các nền dân chủ Đức, Mỹ, Pháp, Anh, Ý”. Nxb Moutchrestien (Bản dịch của Viện khoa học chính trị - Học viện CTQG Hồ Chí Minh); “Dân chủ và lãnh đạo” (đánh giá nền dân chủ Thụy Điển) Peterson.O. Nxb CTQG, H, 1998…

Các kết quả này góp phần làm rõ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, nhất là các nghiên cứu ở Trung Quốc, một đất nước có nhiều điểm tương đồng về chính trị, xã hội, văn hóa, giúp cho chúng ta có một cái nhìn tổng thể và có thể nghiên cứu để vận dụng vào Việt Nam.

3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

- Làm rõ các cơ sở lý luận về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong tổ chức và hoạt động của Đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam hiện nay. (Nội hàm của dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, các điều kiện, yếu tố đảm bảo dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng cầm quyền).

- Phân tích làm rõ bối cảnh mới, yêu cầu mới, thách thức mới đang đặt ra đối với vấn đề phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng.

- Đánh giá khách quan thực trạng về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng ta hiện nay (cả về thành tựu, các tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của các hạn chế, bất cập trong thực hành dân chủ, đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng ta thời gian qua).

- Xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp phát huy dân chủ và tăng cường đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng phù hợp với nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước.

Page 11: 8160

10

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Về cách tiếp cận

- Cách tiếp cận của đề tài khi nghiên cứu vấn đề dân chủ và đoàn kết là cách tiếp cận hệ thống và lịch sử.

Vấn đề dân chủ và đoàn kết được nghiên cứu trong mối quan hệ biện chứng với các yếu tố khác của hệ thống, bị chi phối bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó yếu tố đạo đức (liên quan tới lợi ích nhóm và cá nhân), yếu tố pháp luật (cơ chế kiểm tra, giám sát) cần được xem xét.

Bên cạnh đó, dân chủ và đoàn kết là một phạm trù mang tính lịch sử cần được nghiên cứu trong những điều kiện cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn phát triển nhất định. Việc xem xét vấn đề dân chủ và đoàn kết phải đặt trong điều kiện thực tế hiện nay của Việt Nam đang trong quá trình dân chủ hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân.

- Nghiên cứu về dân chủ được tiến hành trong mối quan hệ mật thiết với nghiên cứu vấn đề đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng. Do vậy, đề tài tiếp cận hai nội dung này trong một chỉnh thể thống nhất.

4.2. Phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng

a/ Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về dân chủ và đoàn kết trong Đảng. Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp logic, lịch sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá, lý luận - thực tiễn, phỏng vấn chuyên gia...

b/ Khảo sát thực tiễn

Đề tài đã tiến hành khảo sát ở 3 tỉnh: Vĩnh Phúc, Hải Phòng và Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Tại tỉnh Vĩnh Phúc, đoàn công tác làm việc với các cơ quan, đơn vị sau: Thường trực Tỉnh ủy; Đại diện các Ban Đảng của Tỉnh ủy; Thành ủy Thành phố Vĩnh Yên; Huyện ủy huyện Bình Xuyên; Huyện ủy huyện Tam Đảo và Đảng ủy xã Tam Quan; Thị ủy thị trấn Gia Khánh.

Page 12: 8160

11

- Tại Thành phố Phòng Hải Phòng đoàn công tác làm việc với các cơ quan, đơn vị sau: Ban Tổ chức Thành ủy; Đại diện các Ban Đảng và Đảng ủy khối cơ quan và doanh nghiệp của Thành phố; Đại diện HĐND, UBND, Mặt trận và các doàn thể của Thành phố; Đảng ủy huyện Tiên Lãng; Đảng ủy xã Kiến Thiết huyện Tiên Lãng; Quận ủy quận Ngô Quyền; Đảng ủy phường Lạc Viên thuộc quận Ngô Quyền; Thường trực Thành ủy Hải Phòng.

- Tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đoàn công tác làm việc với các cơ quan, đơn vị sau: Đại diện các Ban Đảng của Tỉnh ủy; Đại diện HĐND, UBND, Mặt trận và các Đoàn thể chính trị - xã hội của tỉnh; Thị ủy thị xã Bà Rịa; Đảng ủy xã Long Phước - Bà Rịa; Thành ủy Thành phố Vũng Tàu; Thường trực Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu.

Phương pháp tiến hành khảo sát: trao đổi, thảo luận trực tiếp với các cơ quan, đơn vị .

Ngoài 3 tỉnh, thành phố trên, đề tài còn kết hợp với các đề tài khác (KX.10) để khảo sát ở các tỉnh: Thái Bình, Bình Định, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau, Hậu Giang, Đà Nẵng.

Sau mỗi lần đi địa phương, đề tài đều có báo cáo kết quả khảo sát.

c/ Điều tra bằng phiếu hỏi

Đề tài đã tiến hành điều tra bằng 2000 phiếu hỏi, tại nhiều tỉnh, thành trong cả nước.

Cách thức thực hiện theo 2 cách: đoàn cán bộ của đề tài điều tra trực tiếp hoặc nhờ các Ban Tổ chức Tỉnh ủy điều tra và gửi phiếu về Ban Chủ nhiệm đề tài.

Các phiếu hỏi đã được xử lý để đưa vào kết quả nghiên cứu của đề tài.

d/ Hội thảo khoa học:

Đề tài đã tổ chức một Hội thảo khoa học “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng” tại Hà Nội, ngày 24 tháng 10 năm 2008.

- Có 20 báo cáo tham dự Hội thảo.

- Sản phẩm của Hội thảo:

+ Kỷ yếu Hội thảo

+ Báo cáo tổng hợp các ý kiến của đại biểu dự Hội thảo.

Page 13: 8160

12

e/ Tọa đàm và sinh hoạt khoa học

Đã tổ chức hơn 20 buổi tọa đàm, sinh hoạt khoa học, trong đó có 8 cuộc tọa đàm với các đồng chí nguyên là lãnh đạo Đảng và Nhà nước (Nguyễn Văn An, Vũ Khoan, Việt Phương, Vũ Quốc Hùng, Nguyễn Đình Hương (2 cuộc), Lê Huy Ngọ, Nguyễn Khánh). Các cuộc tọa đàm này đều được ghi âm và cho gỡ băng để làm tài liệu tham khảo cho đề tài.

g/ Ký kết và thu về 71 hợp đồng viết chuyên đề

h/ Có 4 báo cáo định kỳ kết quả nghiên cứu gửi Hội đồng lý luận Trung ương.

5. Kết cấu, bố cục của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, đề tài gồm ba chương:

Chương I. Cơ sở lý luận về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Chương II. Tình hình dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng ta hiện nay.

Chương III. Các quan điểm, giải pháp về phát huy dân chủ và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Page 14: 8160

13

Chương I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ

VÀ ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG

I. LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG

1.1. Quan điểm, tư tưởng về dân chủ thời kỳ cổ và cận đại

1.1.1. Dân chủ phương Tây

Dân chủ và đoàn kết trong Đảng xuất phát từ bản chất của vấn đề dân chủ. Dân chủ là mối quan tâm lớn của toàn thể xã hội, không chỉ riêng của các nhà khoa học và chính trị. Dùng Google gõ vào từ “dân chủ” sẽ có ngay 1.950.000 mục từ chứa nội dung này bằng tiếng Việt hiện ra trong vòng 0,12 giây; gõ từ “democracy” (nghĩa là chế độ dân chủ) hiện ra 96.700.000 trong vòng 0,22 giây2.

Có hai câu hỏi liên quan đến dân chủ3:

Câu hỏi thứ nhất, “dân là ai?”. Trong lịch sử, dân có sự phát triển. Nấc đầu tiên, dân là công dân trong phạm vi rất hẹp. Thành bang Athens thời Hy lạp cổ đại có 250.000 dân, nhưng chỉ có 30.000 người có tư cách công dân; khi bàn công việc, chỉ cần 6.000 người có tư cách công dân có mặt là đủ.

Nấc thứ hai, dân là công dân với nghĩa được mở rộng hơn. Vương quốc Anh được xem là nước có truyền thống dân chủ, nhưng bầu cử Quốc hội đầu tiên vào năm 1265 chỉ có hơn 1% dân cư được đi bầu; năm 1870, Quốc hội Anh được bầu chỉ với 3% dân cư. Hiến pháp Mỹ 1788 quy định những người thuộc thành phần như nô lệ gốc châu Phi, nữ, người da đen tự do, người nhập cư không được bầu cử; đến năm 1860 mới cho phép nô lệ nam được trả tự do có quyền đi bầu. Nước được coi là văn minh như Pháp nhưng mãi đến năm 1945, sau Thế chiến lần thứ hai, phụ nữ mới có quyền đi bầu cử. Nghĩa là, khái niệm công dân đã được mở rộng hơn, nhưng chưa bao quát tuyệt đại bộ phận dân cư.

2Kết quả khảo sát bằng Google của các tác giả ngày 30-4-2010. 3 Trần Việt Phương - Tài liệu về : Dân chủ, Hà Nội, tháng 9 năm 2008

Page 15: 8160

14

Nấc thứ ba, dân là công dân. Họ là giai cấp tư sản, những đồng minh và những người ủng hộ giai cấp tư sản hoặc là giai cấp vô sản, công - nông - binh, những thành viên của xã hội tham gia vào nền dân chủ mang sắc thái giai cấp rõ rệt.

Nấc thứ tư, dân là nhân dân lao động. Ở nhiều nước, những người lao động khởi đầu là lao động chân tay, sau bao gồm cả lao động trí óc.

Nấc thứ năm, dân là nhân dân.

Nấc thứ sáu, dân là dân tộc, toàn dân tộc.

Câu hỏi hai, “Ai là chủ và làm chủ như thế nào?”. Lý tưởng dân chủ khi mới manh nha từ xa xưa, Dân là chủ và làm chủ trên nhiều phương diên: Dân hiểu biết; Dân khởi xướng; Dân chuẩn bị; Dân thảo luận; Dân quyết định; Dân thực hiện; Dân kiểm tra; Dân hưởng thụ, trong đó bao hàm cả nghĩa Dân phân phối. Với nghĩa đó, dân chủ là một công trình đầy bi tráng, cho đến nay chưa nơi nào thực hiện được đầy đủ.

Làm chủ như thế nào?

Có hai hình thức làm chủ: làm chủ trực tiếp và làm chủ đại diện. Ý tưởng kết hợp thỏa đáng giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp là thành quả của loài người, không ai phản đối cả. Nhưng vấn đề gì qua đại diện, vấn đề gì dân tự mình trực tiếp quyết định phải được đưa vào Hiến pháp.

Ngay từ trước Thiên chúa giáng sinh, người ta đã thấy được người uỷ quyền dễ tha hoá, không còn là người được uỷ quyền mà thành người thoán quyền. Nghĩa là biến quyền của dân thành quyền của bản thân anh ta, vì lợi ích của anh ta hoặc một nhóm nào đó. Vì vậy, có vấn đề đặt ra là làm thế nào thực hiện dân chủ đại diện mà dân không bị mất quyền tự do của từng cá nhân con người, tự do của từng công dân và tự do của cả cộng đồng quốc gia.

Về phân loại quyền: Có nhiều cách phân loại về quyền con người và quyền công dân, nhưng phổ biến hơn cả là:

1. Quyền về chính trị: là quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tổ chức, tự do biểu tình, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tự do đi bầu cử và không đi bầu cử...

2. Quyền kinh tế, gồm có: (1) quyền của người chủ (người có vốn) được tự do kinh doanh, tự do lập nghiệp, thuê người làm công, tổ chức và điều khiển

Page 16: 8160

15

các hoạt động kinh tế để thu lợi nhuận; (2) quyền của người lao động: được quyền lao động, được nhận lương theo mức đóng góp của mình.

Qua nhiều cơ chế thương thảo, người ta cố gắng để quyền kinh tế của người sử dụng lao động và của người lao động có thể dung hợp được với nhau.

3. Quyền văn hoá (ở đây chỉ hiểu theo nghĩa hẹp, vì theo nghĩa rộng văn hoá thấm vào và hiện ra ở cả chính trị, kinh tế, xã hội), là quyền được học tập để nâng cao khả năng và mở rộng cơ hội việc làm, quyền được tiếp cận và sử dụng thành quả khoa học công nghệ, quyền được sáng tạo và thưởng thức văn hoá, quyền giữ gìn và phát huy hệ giá trị văn hoá của mình.

4. Quyền xã hội, là quyền về an sinh xã hội, quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc, quyền được bảo đảm mức sống tối thiểu của con người theo khả năng của đất nước, của dân tộc, của gia đình, quyền bà mẹ và trẻ em được chăm sóc, quyền con người được giúp đỡ khi gặp khó khăn, khi tai nạn lao động, khi tuổi già.

Vị trí của bốn loại quyền trên được sắp xếp như sau: quyền chính trị là quyền quyết định; quyền kinh tế là quyền cơ bản, nền tảng; quyền văn hoá là quyền sâu rộng, bao trùm; quyền xã hội là quyền cao nhất, khó thực hiện nhất.

Có một cách chia khác cũng phổ biến để xem xét, đánh giá các quyền là: Quyền tự do, là quyền con người được chính là bản thân mình, là quyền không thể xâm phạm, quyền làm chủ để thực thi các quyền; Quyền đòi hỏi, phần lớn là quyền xã hội và quyền văn hoá (hiểu theo nghĩa rộng), người dân được quyền đòi hỏi nhà nước, đòi hỏi xã hội phải bảo đảm các lợi ích cho mình.

Khởi đầu từ thời cổ Hy Lạp, dân chủ được hiểu là “dân làm chủ” hay “quyền lực thuộc về nhân dân”. Nền dân chủ được gọi là democracy, tức là thể chế trong đó người công dân hay dân (demos) cai trị, nắm quyền (kratia).

Nền dân chủ Athens kéo dài khoảng 150 năm, từ năm 479 đến năm 323 trước công nguyên (TCN). Đây là thời kỳ được mệnh danh là thời kinh điển (classical period) đặt nền tảng cho tư tưởng phương Tây. Nhưng trước đó một thời gian rất dài, các hình thức gần với dân chủ đã trong quá trình hình thành. Trường ca Iliad, lưu truyền là của Homer và ra đời khoảng năm 800 TCN, cho ta suy đoán là chế độ dân chủ đã manh nha có mặt. Không có một nhà vua toàn quyền quyết định như ở phương Đông, dù là phương Đông của Ấn Độ, Trung Quốc hay Lưỡng Hà (ngày nay là Iraq). Ở truyện thơ Iliad, Agememnon là

Page 17: 8160

16

lãnh tụ (basileus), nhưng lại phải nghe ý kiến của hội đồng bô lão (council of elders) gồm thành phần thượng lưu giàu có và lãnh đạo quân sự, cũng như nghị viện nhân dân (assembly of the commons). Ba trăm năm sau, đến thời Aristotle, nhiều hình thức dân chủ đã có mặt. Chính vì thế mà ông đã thu thập tới 158 bản hiến pháp của các quốc gia thành phố ở Hy Lạp để phân loại, phân tách và phê phán các loại thể chế chính quyền, trong đó có các loại dân chủ.

Như vậy, ngay nghĩa ban đầu của nó, dân chủ đã là một thể chế để cho nhân dân thực hiện quyền quản lý xã hội của mình. Tại nền dân chủ cổ điển Hy Lạp, xã hội tôn trọng quyền làm chủ của dân và dân nắm quyền bằng nhiều hình thức và phương tiện khác nhau.

Theo Aristotle trong quyển The Athenian Constitution, thể chế chính trị của Athens gồm có 3 thiết chế hợp thành là (a)Hội đồng lập pháp, (b) Hội nghị công dân và (c) Toà án xét xử. Công dân nam của Hy Lạp có quyền tham gia vào các thiết chế quyền lực công cộng trên song quyền căn bản của họ là được nói công khai, được tự do tranh luận trong các cuộc họp của các cơ quan quyền lực trước khi ra quyết định quản lý4.

Hội đồng lập pháp (Aeropagus) có trách nhiệm viết hiến pháp, làm luật, chọn các chức vụ hành pháp và tư pháp mà mọi công dân trên 30 tuổi có tài sản ở mức do luật định đều có tư cách tham gia. Hội đồng này gồm 500 thành viên được chọn bằng cách rút thăm (lottery) từ 10 bộ lạc (tribes) mỗi bộ lạc chọn 50 người và có nhiệm kỳ là một năm. Chức vụ hành pháp cao nhất là 9 Archons. Hội nghị công dân (assembly) gồm các công dân nam, có quyền phủ quyết quyết định của Hội đồng Aeropagus và là cơ quan độc nhất có quyền tuyên bố chiến tranh. Một số loại án, toà án xử theo bồi thẩm (jury) thường khoảng 500 người. Bồi thẩm do 9 người đứng đầu hành pháp và thư ký toà án lựa chọn, theo lối bắt thăm từ công dân. Năm 487, Nghị hội lại có thêm quyền tước bỏ quyền công dân trong vòng 10 năm của cá nhân nhằm ngăn chặn các cá nhân có hành vi chiếm quyền. Nghị hội thường xuyên họp một tháng một lần. Dĩ nhiên không phải mọi công dân đều tham gia, một phần do bận rộn công việc, một phần không muốn tham gia. Nền dân chủ Athens vận hành sơ lược như thế, dù hiến pháp luôn thay đổi trong 150 năm, phản ánh cuộc đấu

4 Cao Huy Thuần: Dân chủ là gì và như thế nào trong hoàn cảnh Việt Nam, Tạp chí. Thời đại mới, số 8, tháng 7/ 2006.

Page 18: 8160

17

tranh quyền lực giữa cá nhân và giai cấp thượng lưu muốn nắm quyền và số đông dân chúng cho đến khi bị đại đế Alenxander tiêu diệt.

Dân chủ là đề tài của nhiều học thuyết nhưng tựu chung nói đến nguyên tắc về quyền ứng cử và bầu cử của tất cả mọi người dân đến tuổi trưởng thành nhằm tham gia chính quyền trực tiếp hoặc thông qua đại biểu được bầu chọn; về tương quan giữa thiểu số và đa số, về nhân quyền, về vai trò tối thượng của pháp luật không phân biệt đối xử về giai cấp, tầng lớp xã hội, mầu da, tôn giáo, người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.

Dân chủ là một chế độ trong đó công dân thực sự có quyền chỉ trích, chất vấn trực tiếp và tự do thiểu số nắm quyền trong thực tế. Tinh tuý của dân chủ ở Athenes là quyền nói ngang nhau và sử dụng tự do quyền đó trên thực tế. Giữa ông tướng lĩnh sáng chói Périclès và một người thường, không ai hơn ai trong quyền nói, ai cũng có thể đề nghị truất ông mà không chút sợ hãi gì5.

Tư tưởng của Aristotle về chính quyền là một nhà nước dân chủ hạn chế, thiết chế bằng hiến pháp và pháp luật cho tầng lớp trung lưu. Dân chủ hạn chế theo nghĩa chỉ có nam công dân, có tài sản, có kiến thức mới được tham gia và quyết định việc nước. Quan điểm về phụ nữ và nô lệ của Aristotle có thể bị đánh giá là lạc hậu với suy nghĩ ngày nay chỉ vì trong tất cả những phạm trù về đạo đức ông không bao giờ nêu vấn đề về nhân phẩm (human dignity) như là thuộc tính của con người.

Sau đêm trường Trung cổ, tư tưởng và thể chế dân chủ của người Hy Lạp cổ đại được phục hồi vào thời Phục hưng và phát triển mạnh vào thời kỳ Ánh sáng ở các nước phương Tây. Quan điểm dân chủ tư sản khởi đầu bằng luận thuyết của John Locke (1632-1704) về nguồn gốc của sở hữu là từ lao động, về tự do cá nhân là quyền tự nhiên của con người, đã gạt bỏ vai trò lãnh đạo tự nhiên của vua chúa và giới thượng lưu. Giai cấp trung lưu trong thời diễn ra cuộc cách mạng kỹ nghệ chính là giai cấp lao động: chủ, thợ và lao động trí thức. Sau đó, tư tưởng Aristotle đã có cơ hội ảnh hưởng sâu đậm đến Montesquieu và Rouseau. Montesquieu là nhà lý thuyết về quyền tự do chính trị, hiến pháp và pháp luật (1748) mà cống hiến quan trọng nhất là phân quyền tam lập (hành pháp, lập pháp và tư pháp) dù ông ta vẫn chưa chủ trương xoá bỏ quyền của vua chúa. Lý thuyết về khế ước xã hội của J.J. Rousseau (1762) 5 Cao Huy Thuần: Dân chủ là gì và như thế nào trong hoàn cảnh Việt Nam, Tạp chí. Thời đại mới, số 8, tháng 7/ 2006.

Page 19: 8160

18

coi xã hội là một khế ước giữa đông đảo nhân dân với bộ phận nhỏ cầm quyền. Rousseau là người đi trước Marx, phê phán thể chế dựa trên tư hữu, và cũng như Aristotle đặt câu hỏi về giả thuyết coi quyết định của đa số là đúng đắn, và coi mục đích của chính quyền là bảo đảm tự do, bình đẳng và công lý cho công dân bất chấp ý kiến của đám đông.

Từ sau Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân của Pháp (1789) và Tuyên ngôn Độc lập Mỹ (1776) dân chủ chủ yếu được hiểu là một cách thực hành quyền lực, thể thức cai trị đất nước (khác với thời quân chủ phong kiến). Từ đây có các hình thức dân chủ đại diện (qua quốc hội), dân chủ trực tiếp (bầu tổng thống) và dân chủ lập hiến (quy định các quyền dân chủ khác). Nước Mỹ tự hào với câu nói bất hủ của Lincoln "quyền của dân, do dân và vì dân" nhưng đâu là "quyền", đâu là "dân", quyền của ai, dân thế nào? Các nhà lập quốc Hoa Kỳ đã phải giải quyết vấn đề trong cả hai vế: người nắm quyền thực sự không phải là dân mà là đại diện của dân; đại diện đó không bị ràng buộc về pháp lý phải hỏi han ý kiến gì của dân giữa hai bầu cử.

Từ thế kỷ XVIII đến nay, dân chủ thường đi liền với khái niệm tự do, bình đẳng và cai trị bằng luật pháp. Từ đó đi đến phạm trù các quyền tự do cơ bản: Quyền sống; Quyền tự do; Quyền học tập; Quyền mưu cầu hạnh phúc. Ở Mỹ và sau này các cơ quan Liên hợp quốc thường hay nhấn mạnh các quyền này. Ở Pháp nói riêng, các nước khác nói chung (tất nhiên các nơi này đều theo cách xây dựng nhà nước pháp quyền) khi nói tới dân chủ, đều nói tới: Quyền phổ thông đầu phiếu; Quyền tự do công dân: mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; Mỗi người đều có quyền tự trách nhiệm với bản thân, đó cũng coi là tự do cá nhân.

Có nơi nhấn mạnh khía cạnh văn hoá của dân chủ, coi dân chủ như là một loại hình quan hệ văn hoá giữa con người và con người. Theo cách tiếp cận này, khi nói tới dân chủ là bao hàm nói luôn tới bình đẳng, tự do và phẩm giá nhân cách (người khác tôn trọng mình và mình tôn trọng người khác).

Dân chủ và trình độ phát triển dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế, dân trí và văn hoá, đồng thời chịu ảnh hưởng của truyền thống cộng đồng dân cư, dân tộc. Dân chủ không phải là đặc sản của phương Tây mà còn là một nội dung và giá trị cơ bản của văn hoá nhân loại, có cả ở phương Đông. Dân chủ phụ thuộc rất nhiều vào truyền thống văn hoá dân tộc. Kinh

Page 20: 8160

19

nghiệm lịch sử cho thấy, chưa bao giờ có thể đem áp dụng một mô hình dân chủ nào đó làm mô hình chung cho tất cả các quốc gia mà không tính đến các đặc điểm riêng của mỗi dân tộc.

Mặt khác, không nên nhấn mạnh tính đặc thù quá đáng của dân chủ để phủ nhận yếu tố thể chế và các giá trị, chuẩn mực chung giữa các nền dân chủ khác nhau. Cựu Tổng thống Nam Phi, Nelson Mandela, trong quyển sách tự truyện "Con đường dài đưa đến tự do" đã viết về hình thức thuần tuý và cơ bản nhất của dân chủ: "Bất cứ ai muốn phát biểu đều có thể nói. Đó là dân chủ trong hình thức thuần tuý nhất. Có thể không tránh khỏi tình trạng đẳng cấp giữa vị trí quan trọng của người phát biểu này với người kia, nhưng dù là lãnh tụ hay dân thường, tướng tá hay thầy thuốc, buôn bán hay nông dân, địa chủ hay tá điền, người nào cũng được nói... Chính đó là nền tảng của tự chủ: tất cả mọi người đều được tự do phát biểu ý kiến của mình và tất cả đều bình đẳng như là công dân". Đó là truyền thống dân chủ mà ông Mandela chứng kiến lúc còn nhỏ trong cộng đồng xã hội của ông. "Con đường dài đưa đến tự do" của ông đã bắt đầu, không phải từ quan niệm tự do của Tây phương, mà từ một quan niệm tự do của chính quê hương ông. Cũng như vậy khi soạn thảo Hiến pháp cho Ấn Độ vừa độc lập, Thủ tướng Nehru đã nhấn mạnh tầm quan trọng của khoan dung trong truyền thống của vua Ashoka và vua Mông Cổ Akbar.

Cũng cần phải xét dân chủ trong quan hệ với các khái niệm khác: dân chủ và tự do, dân chủ và pháp luật... Dân chủ với tính cách là một thiết chế nhà nước, dân chủ với tính cách là một giá trị; rồi dân chủ kinh tế, dân chủ chính trị, dân chủ xã hội, dân chủ văn hoá...

Khái niệm dân chủ có liên quan đến khái niệm tự do. Hai khái niệm này rất gần nhau nhưng lại có những điểm khác nhau. Tự do thường được hiểu là không bị hạn chế, ràng buộc, cấm đoán ở trong việc làm và ở trong hoạt động chính trị - xã hội. Còn tại Điều 4 của “Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền” của Cách mạng Tư sản Pháp năm 1789 có ghi: “Tự do có nghĩa là có thể làm mọi điều không gây hại cho người khác”. Như vậy, việc thực hành các quyền tự nhiên của mỗi người chỉ bị giới hạn trong sự đảm bảo các thành viên khác của xã hội được hưởng các quyền đó; các giới hạn này chỉ có thể do luật pháp quy định”. Theo Tuyên ngôn: “Tự do có nghĩa là có thể làm mọi điều mà pháp luật không cấm”.

Page 21: 8160

20

Như vậy, “dân chủ” và “tự do” là 2 khái niệm rất gần nhau, nhưng dẫu sao chúng cũng có nghĩa khác nhau: dân chủ là dân làm chủ, là mọi người dân đều được làm chủ cuộc sống của mình và của cộng đồng, được làm mọi điều mà pháp luật không cấm; mọi người đều được bình đẳng tham gia bàn bạc và quyết định những công việc chung của cộng đồng. Còn tự do là được làm mọi điều mà pháp luật không cấm. Khái niệm dân chủ rộng hơn khái niệm tự do, hàm chứa khái niệm tự do. Có thể vì thế mà nhiều khi hai khái niệm này được coi là đồng nhất.

Từ khoảng nửa thế kỷ trở lại đây, chính cuộc đấu tranh không ngừng của nhân dân và các tổ chức xã hội dân sự với các nhà cầm quyền và giới doanh nghiệp, các tập đoàn đa quốc gia đã dần dần hình thành nên một sự đồng thuận xã hội về chính trị, đạo đức và luật pháp mới dựa trên các giá trị: bảo vệ môi trường tự nhiên, phát triển bền vững, trách nhiệm xã hội, an sinh và phúc lợi xã hội... Trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển và mở rộng hội nhập quốc tế, dân chủ gắn liền với các giá trị và chuẩn mực chung về quản trị doanh nghiệp và quốc gia văn minh là công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.

Khái niệm dân chủ trong quan hệ với mặt đối lập của nó và với các khái niệm khác. Mặt đối lập của dân chủ là chuyên chế, độc tài. Nói đến dân chủ người ta còn phê phán những dạng tồn tại không chính đáng hoặc thiếu chuẩn mực của nó là dân chủ hình thức và dân chủ quá trớn. Dân chủ hình thức là giả dân chủ, là hình thức dân chủ thiếu hoặc không có nội dung. Dân chủ quá trớn thực ra là một khái niệm rất khó làm rõ nội hàm, có hàm ý chỉ hình thức dân chủ vượt quá mức độ cho phép của chủ thể quyền lực, nó không quản lý được hoặc không có sự tập trung.

1.1.2. Dân chủ phương Đông

Có nhà nghiên cứu cho rằng, có tư tưởng dân chủ phương Đông. Song do tính chất về quan hệ sở hữu và sự phân hoá giai cấp trong xã hội phương Đông không sâu sắc như ở phương Tây nên hình thức dân chủ sơ khai xuất hiện ở phương Đông sớm hơn, nhưng tồn tại dưới dạng sơ khai lâu hơn. Các nước phương Đông thời phong kiến, trong đó có Việt Nam, quần chúng lao động chủ yếu là nông dân, có kinh tế riêng nhưng hầu như không có quyền sở hữu ruộng đất. Điều đó ảnh hưởng lớn đến cuộc đấu tranh xã hội của nông dân và quá trình hình thành, phát triển tư tưởng dân chủ.

Page 22: 8160

21

Về chính trị, tư tưởng dân chủ cao nhất của nông dân là bạo động chống lại chế độ chuyên chế, lật đổ bọn bạo chúa, quan tham, cường hào với ước mơ một xã hội công bằng có vua sáng, tôi hiền. Tư tưởng đó được đúc kết trong những câu ca dao như: Được làm vua, thua làm giặc; Bao giờ dân nổi can qua, Con vua thất thế lại ra quét chùa; Thà rằng bao động bất lương, Còn hơn chết đói nằm đường thối thây... Tư tưởng dân chủ đó chỉ dừng lại yêu cầu bình đẳng xã hội, bình đẳng tài sản kiểu chủ nghĩa bình quân về kinh tế bằng bạo động chính trị. Nó có mặt chính đáng và tích cực trong cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế, chống những bất công của xã hội phong kiến, nhưng cũng bộc lộ sự bất lực của người nông dân trong sự nghiệp tự giải phóng mình trong các nước châu Á giai đoạn đầu.

Ở Việt Nam trong xã hội phong kiến, tư tưởng dân chủ ít nhiều phản ánh trong quan hệ “làng, xóm” mà nhiều khi phép vua còn phải thua. Đó là mối quan hệ tương đối bình đẳng giữa các thành viên trong việc chia ruộng đất công và trong các sinh hoạt cộng đồng, trong sự tôn trọng người già bất cứ thuộc đẳng cấp nào, trong việc thừa nhận vai trò to lớn của người mẹ và người phụ nữ trong đời sống gia đình và làng xã. Trong bộ luật Hồng Đức (thế kỷ XV và được áp dụng lâu dài đến cuối thế kỷ XVIII) đã luật pháp hoá một số nội dung mang tính chất dân chủ công xã: trừng trị nghiêm khắc những hành động vô cớ giết người, ức hiếp dân lành, hình thức tuyển quan lại qua thi cử...

Trong cuộc kháng chiến chống Bắc thuộc giữ nước (thời phong kiếnĐ, các vương triều tiến bộ đã nhận thấy vai trò của nhân dân, mối quan hệ gắn bó giữa lợi ích của mình với lợi ích chung của dân tộc. Trần Quốc Tuấn đã khẳng định, “chúng chí thành thành” (ý chí của dân chúng là bức thành giữ nước); nguyên nhân của thắng lợi là do vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, nước nhà chung sức. Nhà Trần đã mở Hội nghị Diên Hồng để cùng với các bô lão bàn kế đánh giặc; chủ trương “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Nguyễn Trãi đã ví dân như nước, có thể đẩy thuyền và lật thuyền...; mong muốn làm sao “nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than...”. Đây là những tư tưởng dân chủ gắn liền với sự nghiệp hào hùng bảo vệ đất nước, giữ gìn độc lập dân tộc dưới chế độ phong kiến.

1.2. Dân chủ Âu - Mỹ hiện đại

Trong các nước dân chủ Âu - Mỹ hiện đại có nhiều loại hình dân chủ khác nhau. Hiện nay, hai loại hình chính là dân chủ tân tự do và dân chủ xã hội.

Page 23: 8160

22

Dân chủ tân tự do phát triển từ dân chủ tự do của các thế kỷ XVII, XVIII, XIX và đầu thế kỷ XX, lan rộng ra từ nửa sau thế kỷ XX, với nguyên tắc tự do cá nhân, đặc biệt là tự do kinh doanh làm giàu, thu lợi về kinh tế, là quyền thiêng liêng không thể xâm phạm. Từ Âu - Mỹ, dân chủ tân tự do tràn ra nhiều nước, và vào các nước đang phát triển, với những nét nổi bật: thêm thị trường, bớt nhà nước, giải quy chế hoá, tư nhân hoá. Dân chủ tân tự do không thành công mà vẫn lấn tới, nó đào sâu, mở rộng khoảng cách giàu nghèo, mà không mang lại sự phát triển bền vững.

Dân chủ xã hội có thành tựu ở Bắc Âu và cũng đang lan rộng trong cánh tả ở châu Âu, gần đây trong cánh tả ở châu Mỹ La tinh, theo nguyên tắc kết hợp tự do cá nhân với đoàn kết xã hội.

Tuy có khác nhau, song dân chủ tân tự do và dân chủ xã hội có những điểm giống nhau. Hiện nay, hai loại dân chủ này đang lan rộng ra trên thế giới.

Cách tổ chức và vận hành của nền dân chủ Âu - Mỹ:

Cách tổ chức và vận hành của nền dân chủ này đã có hơn 300 năm, đến nay, về cơ bản vẫn giữ nguyên với 5 đặc trưng:

1. Bầu cử phổ thông, tự do và kín. Một số nước hạn chế người nhập cư (nhập cư sau thời gian từ 3-5 năm mới có thể được tham gia bầu cử). Trong bầu cử phổ thông, mỗi người một phiếu ngang nhau. Trước đây có thời có loại lá phiếu của một số người có giá trị gấp ba đến năm lần lá phiếu của người khác.

2. Lập các cơ quan nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập, cân bằng quyền lực, kiểm tra lẫn nhau, phối hợp cùng nhau, không có độc quyền.

Ba nhánh quyền lực phổ biến là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong thuyết tam dân của Tôn Dật Tiên nêu 5 nhánh quyền lực, thêm kiểm tra và giáo dục, nhưng không được chấp nhận rộng rãi, cuối cùng vẫn là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tư pháp là nhánh quyền lực ra đời muộn nhất, nhưng lại là nhánh quyền lực được lòng dân nhất, bởi vì nó bảo vệ dân, trị người nào vi phạm quyền của dân; và nhiều lúc, quyền lực tư pháp bênh dân, chống lại lập pháp và hành pháp. Tuy rằng đứng về quyền lực thực, tư pháp ít thực quyền hơn cả.

3. Nhà nước pháp quyền là nhà nước của pháp quyền; không phải pháp quyền của nhà nước. Rất tai hại nếu làm cho pháp quyền trở thành pháp quyền của nhà nước, mà nhà nước lại nằm trong tay một giai cấp thống trị hoặc một

Page 24: 8160

23

nhóm người. Khi đó không phải tôi ở dưới pháp quyền, tôi của pháp quyền mà là pháp quyền của tôi.

Theo tư tưởng dân chủ, hệ thống pháp luật tốt nhất là hệ thống luật pháp thể chế hoá và bảo vệ các quyền của công dân và các quyền của con người. Nền dân chủ Âu - Mỹ này không cần quy định quyền và nghĩa vụ, bảo đảm sự tương ứng giữa hai bên. Định rõ quyền thì nghĩa vụ từ đó mà ra. Định rõ quyền là đã định rõ nghĩa vụ (không phải vì tôi có nghĩa vụ thì tôi mới có quyền, như là sự đền bù, sự trả công cho nghĩa vụ). Quyền của người này là nghĩa vụ của người khác. Trong sự giới hạn ấy có lợi ích chung của cả cộng đồng, từng cá nhân tự do phải tự kiềm chế để trở thành công dân vì lợi ích của cả cộng đồng. Đây vừa là quyền của công dân, đồng thời cũng là nghĩa vụ của công dân.

Pháp luật thể chế hoá và bảo vệ các quyền của công dân và các quyền của con người, đó chính là nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên đã hơn 300 năm nhưng các nước Âu - Mỹ chưa thể hoàn chỉnh được hệ thống pháp luật dân chủ như thế.

Về luật pháp, co hai nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc đối với dân khác nguyên tắc đối với công chức và những người làm việc cho nhà nước. Dân được làm mọi việc pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm một số không nhiều những điều vi phạm trực tiếp đến lợi ích của cộng đồng. Quan chức, công chức chỉ được làm những điều pháp luật cho phép. Dân chỉ uỷ quyền một cách hạn chế, không uỷ toàn quyền cho bất cứ một tổ chức nào và chỉ uỷ quyền trong một thời gian ngắn thôi.

4. Đặc trưng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ Âu - Mỹ là đa đảng. Có đảng cầm quyền hoặc liên minh các đảng cầm quyền, có đảng đối lập hoặc các đảng đối lập. Đó là một thiết chế cơ bản để đảm bảo dân chủ thực sự và nhà nước pháp quyền, tránh độc quyền, độc đảng, bảo đảm tính chất luân phiên từ nhiệm kỳ này sang nhiệm kỳ khác; có sự mới mẻ, chống già cỗi, trì trệ... Đa đảng là một cơ chế để cho người thắng cử chỉ được làm đại diện ngắn hạn, có một lực lượng đối trọng khiến lực lượng cầm quyền không tha hoá hoàn toàn được. Phương Tây nhấn mạnh, không có đa nguyên đa đảng là không có dân chủ, không có nhà nước pháp quyền.

5. Muốn có dân chủ, có nhà nước pháp quyền thực sự thì ngoài đảng đối lập, còn phải có một lực lượng đối trọng, thậm chí đối quyền. Các đối quyền quan

Page 25: 8160

24

trọng nhất là: các phương tiện thông tin đại chúng (ở Mỹ gọi là nhánh quyền lực thứ tư, báo chí có khi lật đổ tổng thống); nhà nước phải phục vụ xã hội dân sự (xã hội dân sự phải độc lập với nhà nước, là đối tác bình đẳng với nhà nước); các nhóm lợi ích (không phải các đảng chính trị) trong xã hội Âu- Mỹ hoạt động theo luật công khai, vì thế có hoạt động lobby (là hoạt động vận động hành lang) đương nhiên cũng có nhiều hoạt động mờ ám, bí mật, trong vòng xã hội đen).

Phê phán khuyết tật thiết kế và những méo mó trong vận hành của nền dân chủ Âu - Mỹ:

1. Có những người có khả năng hơn người khác để được bầu làm đại diện, đó là: giàu có, có lực lượng kinh tế, có học thức, thành thạo trong các hoạt động chính trị, hoạt động cầm quyền; nhiều trường hợp, họ thuộc tầng lớp “danh gia vọng tộc”. Trong 12 nước cộng đồng châu Âu có 6 vương quốc. Những người trong hoàng tộc vẫn còn ánh hào quang và có lợi thế khi ứng cử. Tầng lớp này còn được gọi là “giai cấp chính trị”; họ nắm đảng cầm quyền và đảng đối lập. Muốn ứng cử phải có một số tiền lớn để có thể lấy được hàng nghìn chữ ký ủng hộ của cử tri (số lượng người ủng hộ tuỳ thuộc quy định của từng nước). Việc hình thành giai cấp chính trị đã phá tận gốc rễ nền dân chủ và hoạt động dân chủ.

2. Nhà nước pháp quyền ở dưới luật, quản lý xã hội theo pháp luật và bằng pháp luật. Nhưng trong nhiều trường hợp có sự đảo ngược: nhà nước pháp quyền trở thành pháp quyền của nhà nước. Tất cả hoạt động của nhà nước, cả đối nội, đối ngoại, cơ bản nhằm phục vụ một nhóm lợi ích lớn nào đó mang danh dân tộc. Nếu khôn khéo, sáng suốt thì có khi làm cho lợi ích của nhóm lợi ích gặp lợi ích của dân tộc. Khi đó, chính quyền được hoan nghênh và giành được sự ủng hộ; nhưng động cơ của họ lại không vì lợi ích dân tộc, mà vì nhóm lợi ích của họ. Sự đảo lộn này làm cho dân mất quyền.

3. Khuyết tật của tam quyền phân lập, phân quyền và tản quyền là không ở đâu thực hiện tốt và lâu dài được như thiết kế. Sau khi phân lập, không thực hiện được sự cân bằng và sự phối hợp cùng nhau. Việc kiểm tra lẫn nhau có tính chất giành giật để bành trướng thế lực của mình. Ở đây đã có những thiết kế khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Ví dụ, có thiết kế lập pháp là nhánh quyền lực quyết định. Ngược lại, có thiết kế lại coi người đứng đầu hành pháp là người quyết định. Sự kiểm tra lẫn nhau buộc lập pháp có thể không thông qua những

Page 26: 8160

25

đề nghị của hành pháp, hoặc có thể buộc hành pháp phải làm một số việc khiến cho hành pháp giảm bớt quyền lực. Đến khi nào giữa lập pháp và hành pháp mâu thuẫn gay gắt thì người đứng đầu hành pháp có quyền giải tán Quốc hội để bầu cử lại.

Từ những khuyết tật của thiết kế đòi hỏi chung ta tìm cách xử lý, nhưng cũng chưa đạt như kỳ vọng. Cả ba nhánh quyền lực đều không ít lần vi hiến. Hiến pháp là nguyện vọng của nhân dân, là tiếng nói của nhân dân. Cách tốt nhất là lập Toà án hiến pháp, có quyền giải thích và bảo vệ Hiến pháp. Nhưng trong Hội đồng Hiến pháp (hay Toà án Hiến pháp), các đảng chính trị lại mâu thuẫn, đấu tranh chống lại nhau.

4. Một khuyết tật nữa trong thiết kế là không kết hợp được dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Do không trung thành với dân chủ, không thực hiện các nguồn lực để đảm bảo dân chủ, nên đã hạn chế quyền dân chủ.

5. Về tản quyền và phân quyền. Trong các nước liên bang, luôn có mâu thuẫn giữa bang và liên bang. Hiến pháp Mỹ chú ý xử lý mối quan hệ giữa bang và liên bang. Các bang đều muốn quyền của mình lớn, còn quyền dành cho liên bang ít. Đến nay vẫn chưa thống nhất được vấn đề này.

6. “Khủng hoảng về hình thức đảng chính trị”. Các đảng chính trị hiện đại được chia theo nhiều cách, nhưng cách được chú ý hơn cả là chia làm hai loại đảng: Một là, đảng của tầng lớp tinh hoa. Trong đảng này, đảng viên chỉ là những người đi theo tầng lớp tinh hoa, ủng hộ, bảo vệ cho tầng lớp tinh hoa trong giai cấp chính trị cầm quyền; Hai là, đảng quần chúng, là đảng có đông đảng viên, ủng hộ, bỏ phiếu cho các ứng cử viên của đảng, đồng thời tích cực hoạt động vì đảng.

Các loại đảng này đều lâm vào tình trạng khủng hoảng, thể hiện việc mất dân chủ, vì “không làm được chức năng khai sinh ra mình”, chỉ đại diện cho lợi ích của một nhóm nắm thực quyền trong đảng; về mối quan hệ trong nội bộ đảng, tức là môi quan hệ giữa đảng viên và bộ phận tinh hoa, kể cả trong loại đảng quần chúng, thì bộ phận tinh hoa thường lấn át, tiếm quyền của đông đảo đảng viên.

Trước thực trạng ấy, gần đây một số Đảng Cộng sản và một số đảng tiến bộ ở phương Tây có ý định thành lập một hình thức mới đại diện chính trị hiện đại hơn hình thức đảng chính trị hiện nay. Đó là một tổ chức dân chủ đồng

Page 27: 8160

26

thuận liên tầng lớp, liên giai cấp, ưu tiên quan hệ ngang, không ưu tiên quan hệ dọc; là đảng chính trị đổi mới của thế kỷ XXI.

Tóm lại, nền dân chủ Âu - Mỹ hiện đại còn nhiều khuyết tật thiết kế. Những “thủ đoạn” trong vận hành hoạt động chính trị như mị dân, xảo trá, huyênh hoang... thì rất nhiều. Tất nhiên, họ không hoàn toàn giả dối, trên một số khía cạnh nào đó, họ đã thực hiện dân chủ rất tốt, ví dụ về an sinh xã hội. Việt Nam cần phải học tập. Vừa qua, các nước Âu - Mỹ có một số cải cách dân chủ, cải cách nhà nước:

Về kinh tế: Nhà nước đương đại không nắm trực tiếp về kinh tế và sản xuất, can thiệp bằng hành chính vào hoạt động của dân và doanh nghiệp; chú ý hơn đến chức năng tạo thuận lợi cho thị trường và giữ ổn định vĩ mô; hướng dẫn nền kinh tế hội nhập quốc tế mà vẫn giữ vững được độc lập tự chủ và định hướng quốc gia.

Đối với xã hội và các vấn đề xã hội: Nhà nước vẫn đảm nhận chức năng quan trọng là nhà nước phúc lợi chung, nhà nước “đấng cứu thế”; đồng thời chia sẻ nhiệm vụ xã hội ấy với khu vực tư nhân và với nhân dân bằng nhiều hình thức: Uỷ nhiệm cho tư nhân làm một số việc của nhà nước nhưng nhà nước vẫn chịu trách nhiệm trước dân; hợp đồng với tư nhân; huy động nguồn tư nhân bằng quan hệ đối tác; tự quản cộng đồng... Song hiện nay, tất cả các nước đương đại trên thế giới đều gặp khó khăn lớn về bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội; có nước đang đứng trước vấn đề nan giải, thậm chí có chính phủ đã sụp đổ, phần lớn vì vấn đề này (Đức).

Trực tiếp đối với dân: Nhà nước đương đại tuyên bố nhiều về thực thi dân chủ nhưng chỉ làm được ở chừng mực nào đó; làm đúng hơn dân chủ đại diện, đề cao hơn dân chủ trực tiếp; tăng cường vai trò của nhân dân trong hoạch định luật lệ của nhà nước; phát huy sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân đối với các cơ quan hành chính và công chức; thực hiện công khai , minh bạch trong hoạt động của chính quyền, đòi hỏi nghiêm ngặt trách nhiệm báo cáo, giải trình của cơ quan hành chính và công chức định kỳ hoặc bất thường trước nhân dân; đặt quan hệ đối tác bình đẳng được luật hoá với xã hội dân sự, với các tổ chức phi chính phủ, các đoàn thể, các hội.

Trong nội bộ nhà nước: có những cố gắng cải tiến, sửa đổi một số khuyết tật thiết kế cơ bản đã có từ hơn ba thế kỷ nay như, chế độ bầu cử, chế độ đảng

Page 28: 8160

27

cầm quyền và đảng đối lập; quan hệ giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp; tản quyền và phi tập trung hoá; vai trò thực sự của người dân... Tuy nhiên, trên các lĩnh vực này chưa có kết quả đáng kể. Nhiều chục năm nay, nổi lên vấn đề làm tinh gọn bộ máy nhà nước, đặc biệt là phòng chống tham nhũng được coi là một quốc nạn của từng nước.

1.3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng

1.3.1. Quan điểm của Mác và Ăngghen

Quan điểm cơ bản của Mác và Ăngghen là thực hiện một nền dân chủ đích thực, nền dân chủ của chủ nghĩa cộng đồng (chủ nghĩa cộng sản), khác với tất cả các loại hình dân chủ trước đó. Nếu đạt được nền dân chủ như thế là hết dân chủ, hết nhà nước, lúc đó không cần đến dân chủ nữa. Trong khi nghiên cứu, Mác bác bỏ tổng thể nền dân chủ phương Tây, nhưng có tham khảo từng điểm, từng phần của nền dân chủ đó. (Mác và Ăngghen sống trong nền dân chủ Tây Âu khoảng giữa và cuối thế kỷ XIX).

Hiểu biết sâu sắc sự vĩ đại của nền dân chủ và văn hoá Hy Lạp cổ đại, Mác và Ăngghen biết kế thừa những tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng Tây Âu cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX trong quá trình xây dựng và phát triển học thuyết của mình. Hai ông là những người đầu tiên nêu lên những tư tưởng cơ bản về những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản, trong đó có dân chủ. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Mác-Ăngghen, tổ chức "Đồng minh những người cộng sản" và "Hội Liên hiệp công nhân quốc tế (Quốc tế I)" được thành lập và đã thể hiện các nguyên tắc đó trong thực tiễn. Năm 1845, Ăngghen đã chỉ ra, dân chủ đã trở thành nguyên tắc của giai cấp vô sản, chính đảng của giai cấp vô sản các dân tộc khi liên kết với nhau hoàn toàn có quyền viết chữ “dân chủ” lên lá cờ của mình. Sau đó, khi nói đến “Đồng minh những người cộng sản”- chính đảng của giai cấp vô sản đầu tiên trên thế giới, Ăngghen nhấn mạnh tới biện pháp giám sát dân chủ: “Bản thân tổ chức đã hoàn toàn dân chủ, các uỷ viên do bầu ra và có thể bãi miễn bất cứ lúc nào”, điều lệ của Đảng chuyển cho các chi bộ thảo luận và do đại hội đại biểu của Đảng thông qua, đời sống trong Đảng “tất cả phải tiến thành theo chế độ dân chủ”.

Mác và Ăngghen đã đề xướng dân chủ trong đảng và quán triệt tư tưởng đó trong Điều lệ của "Đồng minh những người cộng sản". Đảng phải là một

Page 29: 8160

28

đội ngũ có tổ chức tập trung chặt chẽ; các cơ quan lãnh đạo của đảng phải được bầu cử một cách dân chủ và họ có thể bị bãi miễn bất kỳ lúc nào nếu họ không hoàn thành được nhiệm vụ của tổ chức trao cho; Đảng phải là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức... Về công tác tổ chức - cán bộ của Đảng, Mác- Ăngghen đánh giá cao một số quy định của Công xã Paris như: Chọn lựa cán bộ bằng phổ thông đầu phiếu và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào, không có trường hợp ngoại lệ; lương được trả ngang nhau, để phòng ngừa tình trạng chạy chọt chức vị và chủ nghĩa thăng quan phát tài; thi hành chế độ uỷ nhiệm tuyệt đối đối với các đại biểu được bầu vào các cơ quan đại biểu; xoá bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi thường gắn với chức vụ nhà nước khiến họ khỏi quan liêu hoá, biến chất...6

Mác-Ăngghen đã không ngừng đấu tranh để xây dựng và củng cố sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức đội ngũ đảng, coi đó là điều kiện để có dân chủ trong đảng. Đấu tranh kiên quyết chống lại những phần tử cơ hội và những người vi phạm kỷ luật của đảng, hai ông đã vạch trần quan điểm chống chủ nghĩa xã hội và bọn cơ hội thâm nhập vào Quốc tế cộng sản, không tôn trọng kỷ luật của đảng, mưu toan phá hoại đảng, xây dựng một tổ chức bí mật, đầy âm mưu trong Quốc tế cộng sản. Mác- Ăngghen cho rằng, những phần tử phá hoại từ bên trong mới cực kỳ nguy hiểm cho đảng, nguy hiểm hơn những phần tử bên ngoài đảng.

Mặc dù đã nói đến vai trò chiến lược của chuyên chính vô sản và bạo lực cách mạng song về cuối đời mình, cả Mác và Ăngghen đều nhấn mạnh tới hình thức chính trị dân chủ như một sách lược cách mạng không thể bỏ qua; phổ thông đầu phiếu không chỉ là một cách thức để bầu chọn được cán bộ xứng đáng trong nội bộ, mà còn là cái Đảng cộng sản cần tận dụng làm với xã hội để có thể giành chính quyền một cách hòa bình7.

Mác và Ăngghen đã chỉ rõ tầm quan trọng của đoàn kết. Giai cấp vô sản muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình phải đoàn kết. “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” năm 1848 đã viết: “Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại”. Tư tưởng đoàn kết được Mác và Ăngghen bổ sung qua tổng kết thực tiễn, đặc biệt là sự kiện Công xã Pari 1871. Giai cấp vô sản không chỉ đoàn kết trong nội bộ

6 C.Mác và Ph. Ăngnghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, H.1970, t1, tr.583. 7 Xem: GS Tương Lai: Với Các Mác, cuộc sống là dòng chảy luôn vận động, http://vietnamnet.vn/chinhtri/2006/05/567827/>

Page 30: 8160

29

giai cấp mình, mà còn phải đoàn kết, liên minh với các giai cấp, tầng lớp khác, nhất là giai cấp nông dân. Mác chỉ rõ, trong tất cả các quốc gia, nếu không có được sự đoàn kết liên minh với giai cấp nông dân thì bài “đơn ca” của giai cấp công nhân sẽ trở thành bài “ai điếu”.

Nhìn chung vào thời của Mác và Ăngghen, trong điều kiện các đảng cộng sản mới ra đời và chưa được cầm quyền, dân chủ, đoàn kết mới chỉ là một tư tưởng và biện pháp tổ chức, chưa thực sự trở thành một nguyên tắc và thể chế điều chỉnh trong sinh hoạt và hành động của đảng.

1.3.2. Quan điểm của V.I.Lênin

V.I.Lênin xuất phát từ hoàn cảnh, điều kiện của nước Nga đã nêu ra quan điểm giai cấp vô sản phải biết sử dụng chế độ dân chủ thực sự như một phương thức đấu tranh giành chính quyền và quản lý xã hội:

"Giai cấp vô sản không thể giành được thắng lợi bằng cách nào tốt hơn là thông qua chế độ dân chủ, nghĩa là bằng cách thực hiện chế độ dân chủ triệt để và đem những yêu sách dân chủ được đề ra một cách kiên quyết nhất mà gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh của họ"(1) .

Theo Lênin, dân chủ thực chất hay “dân chủ thuần tuý” không phải là chế độ cai trị, quản lý áp đặt mà chính là một chế độ hoà bình, tự do, bình đẳng xã hội:

"Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa"(3). Dân chủ nói một cách cụ thể, là: (1) Bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; (2) Tự do chính trị cho mọi công dân; (3) Quyết định theo đa số của mọi công dân; (4) Quyết định bằng cách biểu quyết, đó là thực chất của dân chủ hoà bình hoặc dân chủ thuần tuý v.v8..

Nói cách khác, dân chủ thực chất là một cách thức tổ chức xã hội, tôn trọng quyền và giá trị tự do, bình đẳng, hoà bình. Chúng tôi nhất trí với bình luận sau đây về chế độ dân chủ của Lênin:

“Quan niệm về dân chủ trên đây của V.I.Lênin không những không mâu thuẫn với các quan niệm tiến bộ về dân chủ trong lịch sử tư tưởng nhân loại mà còn là bước kế thừa và phát triển trong điều kiện mới, tức là trong điều kiện cần phải giáo dục cho giai cấp công nhân và đảng của nó hiểu được bản

8 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.CTQG, t.39, tr.515-517.

Page 31: 8160

30

chất của dân chủ và nhiệm vụ của mình trong quá trình thiết lập một nền dân chủ mới, nền dân chủ XHCN. Để có nền dân chủ XHCN, giai cấp công nhân và đảng của nó không chỉ giác ngộ về "dân chủ" mà phải xây dựng một "chế độ dân chủ". Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn, v.v.. Đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu tranh vì cách mạng xã hội”9.

Nhìn thấy những khiếm khuyết của thể chế dân chủ tư sản, Lênin trăn trở tìm tòi một mô hình mới thực sự dân chủ hơn do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Từ thực tế tồn tại ngắn ngủi của mô hình tổ chức Công xã Pari được Mác-Ăngghen đánh giá cao, Lênin tìm ra mô hình thể chế nhà nước dân chủ Xô-viết: công - nông - binh, sau này được áp dụng trong Cách mạng năm 1905 - 1907 và Cách mạng Tháng Mười Nga. V.I.Lênin cho rằng, Xô-viết, tựu trung là một hình thức và một kiểu chế độ dân chủ vô cùng cao hơn, chính là vì do chỗ nó tập hợp được quần chúng công nông và lôi cuốn họ tham gia sinh hoạt chính trị, nên đó là cơ quan gần dân nhất10.

Theo những phác thảo ban đầu về một nhà nước Cộng hoà Xô-viết, nhân dân trực tiếp tham gia vào công việc của nhà nước thông qua các Xô-viết. Ở trong các Xô-viết, nhân dân tự quyết định luật lệ, tự thi hành các luật lệ đó và tự xét xử những ai vi phạm luật lệ của Xô-viết. Muốn vậy, "Cần xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không có "sự giám sát" từ trên, không có quan lại"11. Các cấp trên của cơ sở sẽ là đại biểu các Xô-viết cho đến Xô-viết tối cao. Để cho hệ thống các Xô-viết hoạt động được phải thực hiện một số nguyên tắc như: Bầu cử và bãi miễn các cơ quan lãnh đạo các Xô viết (các đại biểu); thiểu số phục tùng đa số, nguyên tắc tập trung dân chủ... Thế nhưng, ý tưởng về một chính quyền cơ sở hoàn toàn tự quản, không có sự giám sát từ trên xuống chưa phù hợp với hoàn cảnh thực tế của nước Nga nên chưa thể xoá bỏ nguyên tắc tập trung, thống nhất của một nền hành chính công cùng thời.

Chế độ, thể chế dân chủ nhà nước vô sản - sau này gọi là nhà nước chuyên chính vô sản hay nhà nước XHCN, đã được xây dựng từ lý luận nhưng 9 Phan Xuân Sơn: Quan điểm của V.I Lênin về chế độ dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, Tạp chí Cộng sản điện tử, số 7(199), 2010. <http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&News_ID=12438450> 10 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.CTQG, t.35, tr.126-127. 11 V.I.Lênin: Sđd, t.31, tr. 336-337.

Page 32: 8160

31

trong thực tế, nó vẫn chưa đạt tới trạng thái mong muốn là “thực sự dân chủ” hay “dân chủ gấp triệu lần” nền dân chủ tư sản. Tại sao giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là những người cộng sản Nga chưa đi tới mục tiêu dân chủ của mình? Có nhiều nguyên nhân cản trở, kìm hãm họ trên con đường này, trong đó có những nguyên nhân chủ quan của giai cấp lãnh đạo như: năng lực và trình độ tổ chức, quản lý nhà nước yếu kém; bệnh “kiêu ngạo cộng sản”; bệnh quan liêu, giấy tờ; tham nhũng... Muốn sửa chữa những khiếm khuyết, yếu kém của bộ máy nhà nước theo mô hình Xô- viết và thực hiện thành công chế độ dân chủ thì giai cấp lãnh đạo phải được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Nguyên tắc tập trung dân chủ của V.I. Lênin

Kết hợp chế độ dân chủ với chế độ tổ chức tập trung, V.I. Lênin đã đề ra một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng đảng kiểu mới- nguyên tắc tập trung dân chủ (демократический централизм) - được nêu ra trong Hội nghị I của những người Bôn-sê-vich, năm 1905, và tại Đại hội IV của Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga, năm 1906. Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng Cộng sản Liên Xô, được ghi trong Điều lệ của Đảng và Điều lệ của Quốc tế cộng sản.

Tại Đại hội II Quốc tế cộng sản, khi nói về điều kiện để kết nạp vào Quốc tế cộng sản, V.I.Lênin nêu rõ: "Các đảng gia nhập Quốc tế cộng sản phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ”; đồng thời chỉ ra những nội dung chủ yếu của nguyên tắc đó. Nguyên tắc này đã trở thành điều lệ của Quốc tế cộng sản (Đại hội II năm 1920). Đến Đại hội IV (còn gọi là Đại hội thống nhất) của Đảng Công nhân dân chủ xã hội Nga, V.I.Lênin trình bày rõ nguyên tắc tập trung dân chủ và coi đây là "một nhiệm vụ quan trọng, nghiêm túc và vô cùng trọng đại"12. Nội dung của nguyên tắc đó như sau:

1- Tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân tổ chức cơ bản của Đảng;

2- Tất cả các cơ quan cấp trên đều thực sự được bầu ra, có trách nhiệm báo cáo công tác và có thể bị bãi miễn;

3- Tổ chức đảng là tổ chức của những công nhân dân chủ - xã hội giác ngộ và sinh hoạt độc lập;

12 V.I.Lênin: Sđd, t.13, tr.77.

Page 33: 8160

32

4- Phải thực hiện bằng được chế độ tự trị của mọi tổ chức đảng;

5- Cần xoá bỏ và xoá bỏ bằng được sự tranh giành địa bàn, sự lo sợ "phái" khác;

6- Thống nhất về tổ chức, đồng thời có sự đấu tranh thuần tuý về tư tưởng giữa các trào lưu tư tưởng dân chủ - xã hội khác nhau trong nội bộ các tổ chức đảng;

7- Xác định rõ nguyên nhân tranh luận giữa các trào lưu tư tưởng trong đảng là điều kiện cần thiết để phát triển đảng một cách lành mạnh, để giáo dục giai cấp công nhân và tránh được sự sai lầm về đường lối;

8- Trong sinh hoạt tư tưởng, phải chỉ ra vấn đề nào là đã thống nhất, vấn đề nào còn bất đồng và còn bất đồng đến mức nào. Bỏ thói quen sinh hoạt theo lối tiểu tổ cũ (tức là thích kêu gào, thích buộc tội mà không phân tích một cách thực sự cầu thị những ý kiến bất đồng);

9- Cung cấp cho đảng viên đầy đủ tài liệu về sinh hoạt của đảng, để đảng viên có thể độc lập nghiên cứu những sự bất đồng trong quá trình ra các nghị quyết của đảng;

10- Thảo luận hết sức rộng rãi những quyết định của Đại hội đảng, đảng viên phải có thái độ hoàn toàn tự giác và có tính chất phê phán đối với những nghị quyết của đảng. Thông qua thảo luận, báo chí, sinh hoạt ở tiểu tổ… tạo điều kiện cho đảng viên và các tổ chức công nhân hiểu mọi tình hình và nói lên sự đồng tình hay phản đối của mình đối với vấn đề này hay vấn đề kia.

Về mặt ngữ pháp, tập trung (danh từ) đứng trước dân chủ (tính từ) đã cho thấy một trật tự, thứ tự ưu tiên của nguyên tắc tập trung so với nguyên tắc dân chủ, mặc dù hai cái này không tách rời nhau mà hợp thành một nguyên tắc thống nhất trong công tác tổ chức. Nội hàm của nguyên tắc tập trung dân chủ trước hết phản ánh thực tiễn cách mạng của nước Nga bấy giờ, tình trạng chia rẽ trong những người cộng sản và ảnh hưởng của chủ nghĩa vô chính phủ trong phong trào cách mạng đã tạo ra nguy cơ phá vỡ sự thống nhất trong Đảng và việc giải quyết nhiệm vụ này đã trở nên cực kỳ quan trọng, cần được ưu tiên trước hết. Tập trung trong hành động là đảm bảo tính kỷ luật, trật tự Đảng, trước hết là sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đảm bảo sự phục tùng của cấp dưới với cấp trên, địa phương với trung ương... Tuy vậy, chế độ dân chủ và nguyên tắc dân chủ vẫn bao trùm và thấm vào trong nguyên tắc tập trung.

Page 34: 8160

33

Tập trung dân chủ và thảo luận, đấu tranh trong nội bộ đảng

Trong 10 nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ, V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh tới yêu cầu tự do tranh luận, đấu tranh trong nội bộ mà không sợ điều này làm giảm tính thống nhất của đảng. Chẳng hạn, nội dung 6 “thống nhất về tổ chức, đồng thời có sự đấu tranh thuần tuý về tư tưởng giữa các trào lưu tư tưởng dân chủ - xã hội khác nhau trong nội bộ các tổ chức đảng”; nội dung 7 “tranh luận giữa các trào lưu tư tưởng trong đảng là điều kiện cần thiết để phát triển đảng một cách lành mạnh...”; nội dung 8 “trong sinh hoạt tư tưởng, phải chỉ ra vấn đề nào là đã thống nhất, vấn đề nào còn bất đồng và còn bất đồng đến mức nào”; nội dung 10 “thảo luận hết sức rộng rãi những quyết định của Đại hội đảng, đảng viên phải có thái độ hoàn toàn tự giác và có tính chất phê phán đối với những nghị quyết của đảng. Thông qua thảo luận, báo chí, sinh hoạt ở tiểu tổ…tạo điều kiện cho đảng viên và các tổ chức công nhân hiểu mọi tình hình và nói lên sự đồng tình hay phản đối của mình đối với vấn đề này hay vấn đề kia”.

Như vậy, sự thống nhất về nhận thức và hành động trong đảng phải trải qua con đường đấu tranh tư tưởng và tranh luận giữa các trào lưu, bộ phận và đảng viên khác nhau. Một đảng phát triển lành mạnh không nhân danh sự thống nhất mà dẹp bỏ sự tranh luận và phê phán đối với các quyết định và trong quá trình làm nghị quyết của mình. Trước khi đi đến sự tập trung, thống nhất cần phải đi qua con đường thảo luận, tranh luận và “đấu tranh thuần tuý về tư tưởng” của các đảng viên, bộ phận và tổ chức khác nhau trong đảng một cách thực sự dân chủ và cầu thị.

V.I.Lênin chỉ ra giới hạn của "thống nhất hành động" và "tự do thảo luận". Người nói: "Ngoài những giới hạn của sự thống nhất hành động thì có thể thảo luận và lên án một cách rộng rãi và tự do nhất về những biện pháp, quyết định, khuynh hướng mà chúng ta cho là có hại. Chỉ trong những cuộc thảo luận, những nghị quyết và kháng nghị như thế mới có thể hình thành được dư luận thật sự của đảng ta. Chỉ trong điều kiện như thế mới có được một chính đảng thật sự biết luôn luôn nói lên ý kiến của mình và tìm ra những con đường đúng đắn để biến ý kiến đã được xác định thành quyết định của một đại hội mới"13.

13 V.I. Lênin: Sđd, t.31, tr.83.

Page 35: 8160

34

Nguyên tắc "thống nhất hành động" mà không qua con đường tranh luận dân chủ chỉ được Đảng sử dụng trong những tình huống đặc biệt, thường là trong hoàn cảnh chiến tranh. V.I.Lênin nêu ví dụ về thời kỳ khởi nghĩa. Trong thời kỳ ấy, thì thống nhất hành động là tuyệt đối cần thiết. Trong thời gian đấu tranh kịch liệt như thế thì không thể dung thứ bất cứ một sự phê bình nào. Người giải thích, trong thời kỳ nội chiến gay gắt hiện nay, Đảng cộng sản chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình nếu đảng được tổ chức một cách tập trung nhất, nếu trong đảng có một kỷ luật sắt, gần giống với kỷ luật quân sự, và nếu Trung ương đảng là một cơ quan có uy tín mạnh mẽ, có quyền lực rộng rãi, được toàn thể đảng viên tin cậy.

Như vậy, nội hàm của nguyên tắc tập trung dân chủ về cơ bản, tương đồng với nguyên tắc “dân chủ” trong khoa học chính trị hiện đại14. Có điều, nguyên tắc này, trong lúc coi tính dân chủ như là một nguyên tắc, người sáng tạo ra nó - V.I.Lênin, đã chú ý đến vấn đề “tập trung” - tính thống nhất, tính tổ chức và tính nguyên tắc… do bối cảnh xã hội nước Nga còn nặng tàn tích văn hoá tiểu nông và bị ảnh hưởng bởi CNXH vô chính phủ của phái Ba-cu-nin.

V.I.Lênin cho rằng, để phát huy và thực hành dân chủ, cần tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân, đẩy mạnh sự tham gia của quần chúng nhân dân vào các mặt công tác của bộ máy Xô-viết. "Quần chúng phải có quyền được tự mình cử ra những người lãnh đạo có trách nhiệm. Quần chúng phải có quyền thay đổi những người lãnh đạo của mình, phải có quyền được hiểu rõ và kiểm tra mỗi bước nhỏ nhặt nhất trong hoạt động của người đó. Quần chúng phải có quyền được đề bạt trong nội bộ của họ bất kỳ một công nhân nào lên phụ trách chức vụ lãnh đạo"15.

Thống nhất giữa hai mặt tập trung và dân chủ là vấn đề có tính nguyên tắc, trong các điều kiện khác nhau sẽ được vận dụng khác nhau, mặc dù vậy chỉ nên hiểu rằng đây là một nguyên tắc - nguyên tắc tập trung có tính dân chủ. Không thể có tập trung mà không có dân chủ, không qua dân chủ, không bằng cách thức dân chủ. Nói cách khác, đây là nguyên tắc “dân chủ được tập trung lại”. Không nên hiểu đây là hai nguyên tắc kết hợp với nhau đi đến tuỳ tiện tăng cường tính tập trung hoặc hạn chế dân chủ, làm như vậy sẽ tổn hại đến

14 Phan Xuân Sơn: Quan điểm của V.I Lênin về chế độ dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, Tạp chí Cộng sản điện tử, số 7(199), 2010. <http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&News_ID=12438450> 15 V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, t.36. tr. 192

Page 36: 8160

35

chất lượng hoạt động của Đảng cộng sản. Cũng không nên hiểu rằng dân chủ trong đảng kém quan trọng hơn so với yêu cầu tập trung, thống nhất của nó.

Theo Lênin, chính thực hiện dân chủ thực sự trong đảng - thứ dân chủ tôn trọng tự do tư tưởng, khuyến khích sự tranh luận nội bộ để tìm kiếm chân lý là điều kiện và con đường phổ biến để đi đến sự thống nhất và tập trung của toàn đảng. Thế nhưng sau khi Lênin mất, nguyên tắc tập trung dân chủ đã được những người lãnh đạo sử dụng không đúng với các nội dung và yêu cầu cơ bản của nó nữa; hoàn cảnh chiến tranh là môi trường thuận lợi cho sự điều chỉnh tập trung tăng lên, dân chủ trong nội bộ đảng bị giảm sút nghiêm trọng, chế độ dân chủ trong xã hội bị phai nhạt bản chất và không đạt được mục tiêu cao cả của chủ nghĩa Mác-Lênin.

V.I. Lênin đã đề ra những cách đặc biệt để hình thành chế độ dân chủ Xô-viết. Trong cuốn “Nhà nước và cách mạng”, Người chỉ ra, các Xô-viết tập trung quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không chia làm ba nhánh quyền lực; Hội đồng dân uỷ là cơ quan tư vấn của Xô-viết; Uỷ viên dân uỷ là người được dân uỷ quyền làm tham mưu tư vấn cho cơ quan quyền lực là Xô-viết; chế độ bầu cử Xô-viết... Sau một thời gian thực hiện có một số cách thức tỏ ra không phù hợp nên V.I.Lênin đã có những điều chỉnh (Ví dụ, đổi Hội đồng dân uỷ thành Chính phủ, Uỷ viên dân uỷ thành Bộ trưởng...) nhằm mục đích xây dựng chế độ dân chủ ưu việt, tất nhiên giữa mong muốn và thực tế còn có khoảng cách. Những người hậu duệ về sau vẫn tiếp tục tìm cách thực hiện, tuy vậy dân chủ mới “một triệu lần hơn” thì chưa tìm ra. Đó là một trong những nguyên nhân thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực, không tạo dựng được nền dân chủ mới, nói dân chủ nhưng làm thì thiếu và trái dân chủ, dẫn đến mất lòng dân. Đáng có và cần có một nền dân chủ mới, thực sự dân chủ. Song còn nhiều vấn đề mở, cần tiếp tục hoàn thiện.

V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng về đoàn kết, liên minh giai cấp lên tầm cao mới với khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Cách mạng Tháng Mười 1917 là một minh chứng hùng hồn không chỉ về đoàn kết trong đảng Bôn-sê-vích mà còn đoàn kết liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp khác (trí thức, binh lính); đoàn kết quốc tế. Nhờ có đoàn kết sâu rộng đó góp phần đưa lịch sử nhân loại sang một kỷ nguyên mới- chủ nghĩa xã hội, trong đó độc lập, dân chủ, đoàn kết thống nhất được đề cao hơn bao giờ hết.

Page 37: 8160

36

1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng

1.4.1. Tư tưởng dân chủ và chế độ dân chủ nhân dân

Tự nhận mình là “học trò nhỏ” của Mác và Lê nin, cùng các nhà dân chủ vĩ đại khác là Gandi, Tôn Dật Tiên, Hồ Chí Minh là một người cộng sản kiên trung đã cống hiến cả đời mình cho các mục tiêu dân chủ, độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc và Tổ quốc Việt Nam. Tư tưởng dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng của Người có cơ sở từ chế độ dân chủ nhân dân và nguyên tắc dân chủ tập trung trong Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là kiến trúc sư của chế độ dân chủ đầu tiên ở nước ta. Bản thiết kế về chế độ chính trị cộng hoà - chế độ dân chủ nhân dân có căn cứ trước hết vào đặc điểm riêng của xã hội Việt Nam (Người đã trình bày quan điểm này trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản năm 1924)1 và trên cơ sở học hỏi có chọn lọc, sáng tạo những tư tưởng chính trị của các nhà dân chủ phương Tây, chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Người coi Khổng Tử, Jêsu, Mác và Tôn Dật Tiên là những người bạn tốt của nhau, mỗi học thuyết đều có một ưu điểm nổi bật và tự nhận mình là học trò nhỏ của các vị đó). Trong thực tế, chế độ dân chủ cộng hoà do Người thiết kế và Đảng ta xây dựng đã khánh thành vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, trước chế độ Cộng hoà nhân dân của Trung Quốc 4 năm.

Triết lý cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi thiết kế và tổ chức xây dựng một chế độ chính trị cách mạng đầu tiên ở nước ta được tóm tắt trong hai từ Dân chủ. Hồ Chí Minh đã giải thích dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ; mặt khác, các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể... đều tồn tại vì dân, của dân, do dân; mọi quyền lực chính trị trong xã hội đều xuất phát từ dân. Tư tưởng này được trình bày trong đoạn văn sau:

“Nước ta là nước dân chủ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

16 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H,2002, t1, tr.464 - 465

Page 38: 8160

37

Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.2

Chế độ dân chủ thực chất là một hệ thống chính trị do nhân dân làm chủ. Cơ sở pháp lý của cơ bản chế độ mới là Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946. Các quyền cơ bản của công dân (dân quyền) được quy định tại Điều thứ 10 là: (1) Tự do ngôn luận, (2) Tự do xuất bản, (3) Tự do tổ chức và hội họp, (4) Tự do tín ngưỡng, (5) Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài. Điều thứ 11 quy định quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm nhà ở, thư tín của công dân. Điều thứ 12 quy định quyền tư hữu tài sản của công dân được đảm bảo.

Nhà nước và chế độ dân chủ nhân dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta sáng lập và lãnh đạo có yếu tố mang bản chất của hệ thống chuyên chính vô sản nhưng không phải là một hệ thống chính trị chuyên chính vô sản theo đúng như các tư tưởng của C.Mác và Lênin cũng không giống mô hình chính quyền Xô-viết của Nga và Liên Xô. Nó cũng không phải là bản sao của chế độ Cộng hoà tư sản hoặc chế độ Cộng hoà nhân dân của Trung Quốc cùng thời. Đó là kết quả của sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về xây dựng, phát triển Nhà nước và hệ thống chính trị mới trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của xã hội Việt Nam. Trong khi hầu hết các nước trong phe XHCN bấy giờ, đứng đầu là Liên Xô, tổ chức quyền lực chính trị và hệ thống chính trị theo mô hình chuyên chính vô sản thì Hồ Chí Minh vẫn kiên trì xây dựng và phát triển mô hình dân chủ cộng hoà - dân chủ nhân dân để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, để tiến tới mục tiêu xây dựng và phát huy nền dân chủ ở Việt Nam. Thể chế nhà nước dân chủ cộng hoà - cũng là tên nước của Việt Nam trong hơn 30 năm (1945 - 1976) - đã tạo ra một khung khổ lý luận chính trị và pháp lý cho nguyên tắc dân chủ và vấn đề đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Vấn đề dân chủ và thống nhất trong đảng phải có mục đích tạo điều kiện cho dân làm chủ nhà nước, phải có mục tiêu vì dân chủ, dân sinh, dân quyền và phải được thực hiện theo các quy định và chuẩn mực của một thể chế dân chủ.

17 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 5, Nxb.CTQG, H,2000, tr.698

Page 39: 8160

38

Mặc dù trong tình trạng mới thoát khỏi chế độ thực dân - phong kiến, đời sống kinh tế rất nghèo và dân trí thấp, song nước ta trong thời kỳ này vẫn là một nước có mức độ dân chủ, dân quyền thuộc loại cao nhất so với các nước trong khu vực, có một chế độ chính trị tiến bộ vượt bậc so với mức thu nhập bình quân đầu người. Và đây chính là một động lực mạnh mẽ và môi trường xã hội thuận lợi tạo nên “sức mạnh mềm” gộp trội của quốc gia, đưa đất nước vượt qua những thử thách ác liệt của cuộc kháng chiến chống Pháp và công cuộc kiến quốc, phát triển dân sinh.

Chế độ dân chủ nhân dân khác với thể chế chuyên chính vô sản. Trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập (gồm 12 tập), Người không một lần nào nói đến khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản ; 27 lần dùng khái niệm chuyên chính vô sản hoặc nền chuyên chính vô sản song chủ yếu để diễn tả tư tưởng chính trị của Mác, Lênin và mô hình chính trị của Liên Xô hoặc các nước XHCN khác; trong 27 lần dùng khái niệm chuyên chính vô sản đó, Hồ Chí Minh chỉ có 4 lần áp dụng vào xã hội nước ta để chỉ một hình thức tổ chức xã hội có chức năng chống lại các thế lực phản cách mạng và bọn tội phạm khi Người bàn đến nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang và ngành nội chính. Hồ Chí Minh rất ít dùng khái niệm chuyên chính vô sản như một hình thức, mô hình tổ chức quyền lực chính trị hoặc như một bộ máy, công cụ của Đảng để lãnh đạo quá trình xây dựng xã hội mới ở Việt Nam. Trái lại, vị trí, vai trò đó thuộc về hình thức tổ chức Nhà nước, tổ chức xã hội phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của nước ta là hình thức dân chủ cộng hoà hay dân chủ nhân dân. Trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập, Người đã dùng khái niệm dân chủ cộng hoà trong 733 tài liệu, khái niệm dân chủ nhân dân trong 169 tài liệu.

Trong Lời nói đầu của Hiến pháp 1946, tinh thần đoàn kết quốc tế, hội nhập quốc tế của nước ta đã được khẳng định: “Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà bình của nhân loại”.

Tính chất dân chủ nhân dân hay nhân dân làm chủ nhà nước được quy định tại Điều 6 của Hiến pháp 1959: “Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan Nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng

Page 40: 8160

39

hết sức phục vụ nhân dân”. Đây chính là sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị cơ bản và lâu dài của các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước cũng như của đội ngũ cán bộ, đảng viên nước ta.

Trên 60 năm xây dựng chế độ dân chủ và thực hành dân chủ, quan niệm về dân chủ và thực hành dân chủ ở nước ta cũng diễn biến cùng với những năm tháng đổi thay của đất nước18. Ngày nay, đọc lại Hiến pháp 1946, do Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo, tất cả những người nghiên cứu về dân chủ, dù khác nhau về tư tưởng và chính kiến, cũng đều phải thừa nhận rằng, từ giữa thế kỷ XX, Việt Nam đã đạt tới những quan niệm dân chủ, sánh ngang với bất cứ một thể chế dân chủ nào trên thế giới. Nổi bật nhất là việc xác nhận về mặt pháp lý quyền làm chủ của nhân dân: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1, Hiến pháp 1946). Để thực hành quyền bính ấy phải thông qua hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Nhân dân uỷ quyền quản lý đất nước cho các cơ quan đại diện đảm trách. Trong sự uỷ thác ấy có nguy cơ của sự lạm quyền và cả những sai lầm khi cơ quan đại diện của dân ra các quyết sách chính trị và ban hành các đạo luật. Do đó, nhân dân phải giữ lại một số quyền để quyết định trực tiếp và tối hậu. Đó là quyền phúc quyết mà trước hết và quan trọng nhất là xây dựng và sửa đổi Hiến pháp. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở Hiến pháp 1946 thì Quốc hội được uỷ thác quyền soạn thảo Hiến pháp, đặt ra pháp luật, sửa đổi Hiến pháp và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia. Nhưng “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia”; về sửa đổi Hiến pháp, “Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện phê chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết” (Điều 70, Hiến pháp 1946). Quyền phúc quyết không phải là việc đưa ra cho nhân dân tham gia, góp ý kiến hay đề nghị mà là quyền Hiến định, là điều bắt buộc các đạo luật và cơ quan đại diện cao nhất của dân phải tuân thủ. Quyền phúc quyết là thể chế hoá tư tưởng quan trọng nhất của Hồ Chí Minh về dân chủ: “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, … quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”19. Một khi quyền dân chủ đã được ghi nhận trong văn bản pháp lý cao nhất của quốc gia thì

18Trần Đình Huỳnh: Thực hành dân chủ theo Tư tưởng Hồ Chí Minh , Tạp chí Xây dựng Đảng hhttp://www.xaydungdang.org.vn/Home/tutuonghochiminh/2008/1104/Thuc-hanh-dan-chu-theo-Tu-tuong-Ho-Chi-Minh.aspx 19. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb.CTQG, H,2002, tr.698.

Page 41: 8160

40

không còn tranh cãi về “thu hẹp” hay “mở rộng”, ai có quyền “thu hẹp” hay “mở rộng” dân chủ, mà là tuân thủ theo luật định.

Thể chế dân chủ tuy là vấn đề cơ bản, quan trọng nhất nhưng việc thực hành dân chủ lại là điều cốt tử của thể chế dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, phải làm sao cho nhân dân biết hưởng và biết dùng quyền dân chủ. Trong quá trình xây dựng và thực hành dân chủ thì tổ chức đảng và đảng viên phải đi đầu để hiện thực hoá những điều tốt đẹp ấy. Dân chủ trong Đảng được điều chỉnh bởi Hiến pháp, pháp luật và nằm trong khuôn khổ của nền dân chủ xã hội, nó không có đặc quyền và ngoại lệ.

Dân chủ Phương Tây đề cao sự tự do ngôn luận, tranh luận, tự do lựa chọn trong bầu cử và ứng cử...Văn hoá nước ta lại đề cao giá trị đồng thuận, đoàn kết và thống nhất. Đoàn kết và thống nhất trong dân tộc, trong Đảng là giá trị của văn hoá Việt Nam. Liệu các giá trị này có mâu thuẫn với nội dung và nguyên tắc tranh luận công khai trong văn hoá dân chủ của thế giới hay không?

Thực ra không phải hoàn toàn như vậy. Hồ Chí Minh là người suốt đời đấu tranh vì độc lập, tự do dân tộc nên hiểu rất sâu sắc giá trị của tự do. Một chân lý của xã hội và đời sống mỗi con người được Người tổng kết: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Trong các loại tự do, Hồ Chí Minh đề cao tự do tư tưởng trong sinh hoạt Đảng và đời sống xã hội. Người viết:

“Chế độ ta là dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu, đã tìm thấy chân lý, lúc ấy quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”20.

1.4.2. Nguyên tắc dân chủ tập trung và sự đoàn kết thống nhất trong Đảng

Là người hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin và có khả năng đọc các tác phẩm kinh điển từ nguyên bản, nhưng Hồ Chí Minh không dùng khái niệm “nguyên tắc tập trung dân chủ” mà gọi là nguyên tắc dân chủ tập trung. Trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập (gồm 12 tập), Người dùng cụm từ “dân chủ tập trung” để nói đến một nguyên tắc, chế độ tổ chức của Đảng và Nhà nước tới 17 lần, chỉ 20 Hồ Chí Minh: Về vấn đề giáo dục, Nxb.Giáo dục, H,1990, tr.151.

Page 42: 8160

41

hai lần dùng cụm từ “tập trung dân chủ” khi nhắc lại ý kiến của người khác. “Dân chủ tập trung” là khái niệm do Hồ Chí Minh sáng tạo và được Đảng ta dùng trong các văn kiện Đại hội II. Từ Đại hội III đến nay, Đảng ta đã dùng khái niệm “tập trung dân chủ” của Lê nin thay thế khái niệm “dân chủ tập trung”, nhưng về cơ bản vẫn giữ nội hàm của nó theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nội hàm khái niệm dân chủ tập trung theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:

Một là, dân chủ tập trung (chứ không phải là tập trung dân chủ) là một nguyên tắc và chế độ tổ chức của Đảng và Nhà nước Việt Nam phù hợp với chế độ dân chủ nhân dân-dân chủ cộng hoà. Nguyên tắc này được xây dựng từ quan điểm đặt dân chủ trước tập trung (dân chủ là danh từ, tập trung là tính từ), dân chủ là gốc của tập trung, vì dân là gốc và là chủ thể tối cao của mọi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ” (Trích từ tác phẩm Thưởng thức chính trị).

Hai là, khi thực hành dân chủ cần có dân chủ trước, tập trung sau, không được làm ngược lại. Như vậy, trật tự giữa các từ trong câu, quan hệ giữa hai thành tố dân chủ và tập trung của Hồ Chí Minh khác với của Lê nin. Điều này không phải là sự ngẫu nhiên của nhận thức lý luận cũng không phải là phép tu từ hoặc sự khác nhau giữa ngữ pháp và ngôn ngữ giữa hai dân tộc Việt và Nga. Có thể giải thích, đối với Đảng cộng sản Việt Nam thì nguyên tắc tổ chức cơ bản gọi là dân chủ tập trung, trong đó dân chủ là cơ sở của tập trung, là cái ưu trội hơn so với tập trung; điều đó đúng hơn, thích hợp hơn gọi là tập trung dân chủ.

Ba là, nguyên tắc dân chủ tập trung là cơ chế hoạt động giữa các chủ thể lãnh đạo, quản lý đã được nhân dân uỷ quyền, trước hết là sự phối kết hợp giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, trong đó tập thể là biểu hiện của dân chủ, cá nhân là biểu hiện của tập trung quyền hạn và trách nhiệm; trong hai mặt đó, không thể bỏ đi mặt nào: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”.

1.4.3. Dân chủ, kỷ luật và đoàn kết thống nhất trong Đảng

Dân chủ trong Đảng bắt đầu từ việc cho đảng viên thường được phát biểu hết ý kiến của mình; phải xuất phát từ các ý kiến khác nhau mới đi đến sự thống nhất trong nhận thức, tư tưởng và hành động trong Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực chất của dân chủ là phải xây dựng được thể chế để hiện thực hoá

Page 43: 8160

42

quyền tự do bày tỏ ý kiến của dân. Thực chất dân chủ trong Đảng là thực hiện quyền làm chủ của đảng viên trong tất cả các hoạt động của Đảng, trong đó có quyền được tự do phát biểu trong quá trình làm nghị quyết và chính sách của Đảng; “để làm cho Đảng mạnh thì phải mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”. Người yêu cầu, mỗi đảng viên ở bất cứ địa vị nào cũng phải làm gương thực hành dân chủ. Đây là “cái chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn”21, mọi công việc của Đảng, nhà nước, đoàn thề nhân dân. Người đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế phát huy sáng kiến của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân: “ít sáng kiến, ít hăng hái vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì cách lãnh đạo của ta không được dân chủ”22.

Quyền dân chủ của đảng viên cũng là sự đảm bảo cho đảng viên có các quyền cơ bản của công dân trong một chế độ dân chủ đã được xác lập từ nền dân chủ Hy Lạp cổ đại: quyền tự do, bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được nói, được hỏi người cầm quyền...

Dân chủ của cán bộ, đảng viên là thực hiện sứ mạng và lý tưởng chính trị phục vụ nhân dân, trọng dân và học hỏi nhân dân. Người căn dặn cán bộ: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Người yêu cầu mọi cán bộ cơ quan quyền lực phải hết sức tôn trọng dân, có lỗi thì dũng cảm tự nhận lỗi và quyết tâm sửa chữa. Người phê phán bệnh quan liêu cửa quyền, hách dịch, coi thường dân chúng của cán bộ và chỉ rõ đó là “quan chủ” đâu còn là dân chủ nữa. Khi bàn về cách lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “người lãnh đạo không nên kiêu ngạo, mà nên thấu hiểu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình” ”phải lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người “không quan trọng”23 . Dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; thực hành dân chủ trong đảng phải thông qua phương thức tự phê bình và phê bình của đảng viên. Theo Hồ Chí Minh, phải hết sức chú ý vấn đề dân chủ và kỷ luật. Kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật. Muốn dân chủ tốt, kỷ luật cao, cán bộ phải gương mẫu phê bình và tự phê bình. Người yêu cầu: cán bộ, đảng viên phải đoàn kết chặt chẽ, bảo đảm dân chủ và kỷ luật trong Đảng. Trong 21 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.CTQG, H,2002, tập 12, tr.249. 22 Sđd, tập 5, tr.243. 23 Sđd, tập 5, tr 285.

Page 44: 8160

43

Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển đoàn kết và thống nhất của Đảng. Cấp trên phải tự phê bình, cấp dưới có quyền đòi hỏi dân chủ. Phê bình giúp cấp trên, đó là dân chủ đúng mức, không phải tự do quá trớn, tự do bừa bãi. Dân chủ phải thực hiện từ trên xuống dưới.

Kỷ luật chính là phương tiện để bảo vệ nền dân chủ, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: phải kiên quyết thực hành kỷ luật, tức là cá nhân phải tuyệt đối phục tùng tổ chức, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thái độ của Người không có sự thoả hiệp, lơi lỏng kỷ luật, kỷ cương dưới bất cứ danh nghĩa dân chủ nào. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân chủ và chuyên chính đi đôi với nhau. Muốn dân chủ thực sự phải chuyên chính thực sự vì không chuyên chính thực sự, bọn thù địch sẽ làm hại dân chủ của nhân dân”24.

Trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng Hồ Chí Minh cho rằng có hai cách: một là từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cách sửa chữa sai lầm đó. Kiểm tra không nên chỉ thông qua các chứng cứ trên báo chí mà phải xuống tận nơi và xem xét kỹ lưỡng để tránh sai sót.

Trong thi hành kỷ luật Đảng, Hồ Chí Minh cho rằng, phải thực hiện đúng phương châm: "công minh, chính xác, kịp thời". Kỷ luật Đảng phải công minh, công bằng đối với tất cả đảng viên và phải giữ kỷ luật nghiêm từ trên xuống dưới, không được vì "ông nọ, bà kia" mà xem nhẹ hình thức kỷ luật. Không được vì "tình cảm nể nang, chỉ phê bình, cảnh cáo qua loa cho xong chuyện. Thậm chí còn có nơi che đậy cho nhau, tha thứ lẫn nhau, lừa dối cấp trên, giấu diếm đoàn thể. Thi hành kỷ luật như vậy làm cho các đồng chí không những không biết sửa chữa lỗi mình mà còn khinh thường kỷ luật. Tai hại hơn nữa nếu kỷ luật của đoàn thể lỏng lẻo, những phần tử phản động sẽ có cơ hội chui vào hàng ngũ ta để phá hoại đoàn thể ta"25. "Về kỷ luật, phải thưởng phạt công minh, chớ vì ưa ai mà thưởng, ghét ai mà phạt, ai hẩu với mình thì dùng, ai trực tính nói ngay thì ghét bỏ"26.

24 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.CTQG, H,2002, tập 9, tr.230. 25 Sđd, tập 5, tr 73. 26 Sđd, tập 5, tr 480.

Page 45: 8160

44

Hồ Chí Minh đòi hỏi kỷ luật Đảng phải chính xác, hình thức kỷ luật phải phải đúng với nội dung, tính chất, mức độ vi phạm "phải phân tách rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng"27.

Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của đảng viên và nhân dân, Hồ Chí Minh đòi hỏi tổ chức Đảng có thẩm quyền phải có trách nhiệm giải quyết kịp thời, không chậm trễ, không để oan ức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người nói: "Đồng bào có oan ức mới khiếu nại hoặc chưa hiểu rõ chính sách của Đảng, của Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng, Chính phủ quan tâm, lo lắng đến quyền lợi của họ, do đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ càng được củng cố tốt hơn"28.

1.4.4. Đoàn kết, thống nhất là điều kiện cần cho sự tồn tại và phát triển của Đảng ta

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta bản Di chúc lịch sử. Người đã sớm dự cảm, sau khi đất nước được độc lập và thống nhất, tình hình có sự thay đổi rất căn bản tất phát sinh những vấn đề mới với các quan điểm, ý kiến khác nhau trong Đảng, vì vậy yêu cầu đoàn kết, thống nhất nội bộ càng trở nên quan trọng. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh nêu lên hai quan điểm lớn có ý nghĩa phương pháp luận về vấn đề đoàn kết trong Đảng.

Mở đầu Di chúc, Người viết: “Trước hết nói về Đảng - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta”. Theo Người, đoàn kết xã hội là một bài học thành công quý báu của Đảng và thực hành đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân.

Điều quan trọng hơn, là Hồ Chí Minh đặt ra những yêu cầu và giải pháp để có được khối đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, khi bước vào thời kỳ xây dựng đất nước sau chiến tranh: ''Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình''.

27 Sđd, tập 5, tr 286. 28 Sđd, tập 10, tr 81.

Page 46: 8160

45

Sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam không chỉ là phép tính giản đơn của sự đoàn kết trong Đảng cộng với khối đoàn kết của những người ngoài Đảng, mà chính là sức mạnh tổng hợp của sự đoàn kết, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. Chính truyền thống đoàn kết của dân tộc đã được những người cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển, tạo nên một truyền thống mới. Hồ Chí Minh viết: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta''. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã đặt trọn niềm tin vào truyền thống đó. Với Hồ Chí Minh, tương lai của đất nước, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được quyết định bởi chính truyền thống đoàn kết, những dòng Di chúc cuối cùng của Hồ Chí Minh được viết ra thể hiện tâm nguyện của Người: ''Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới''.

Hồ Chí Minh đã tổng kết thành một chân lý về sức mạnh, vai trò của đoàn kết trong Đảng và trong toàn thể xã hội: “Đoàn kết, Đoàn kết, Đại đoàn kết; Thành công, Thành công, Đại thành công”.

Người cũng chỉ ra phương thức, con đường thực hiện đoàn kết trong Đảng là, phải thực hành dân chủ rộng rãi và đối xử với nhau một cách nhân văn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”29.

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi, đoàn kết là "điểm mẹ". "Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt". Người nhấn mạnh: "Công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối". Người còn chủ trương đoàn kết với tất cả những ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trong xây dựng và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, Người chăm chú tìm kiếm, nâng niu, trân trọng những điểm tương đồng; hạn chế, giảm dần những điểm khác biệt. Năm 1946, Người nêu: "Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những

29 Sđd, tập 12, tr.497.

Page 47: 8160

46

đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang".

Sự thống nhất trong Đảng có cơ sở từ sự thống nhất về lý tưởng, sứ mệnh của toàn đảng và của mọi đảng viên là phụng sự nhân dân và Tổ quốc; cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ rất mực trung thành của nhân dân. Vị trí, vai trò của người cán bộ trong chế độ mới, được Người khẳng định rất rõ là người “cộng bộc của dân”, do đó “người công chức phải đem hết tất cả sức lực và tâm trí theo đúng đường lối của chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc”. Trong bản Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Thống nhất trong Đảng không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, chính trị và tổ chức mà còn trong công việc và cả trong đạo đức, tác phong làm việc của đảng viên. Nó đòi hỏi đảng viên phải có thái độ công tâm, khách quan và cầu tiến. Trong công tác cán bộ, Người chỉ ra những khuyết điểm của người lãnh đạo, quản lý hay mắc phải, đó là “ba ham”. “Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. Ham dùng những kẻ nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình”. Đồng thời, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ và thường xuyên luân chuyển cán bộ, chống bệnh ích kỷ, địa phương, kéo bè, chia rẽ phái này, phái kia “phải kết thành một khối không phân biệt, không kèn cựa và giúp đỡ nhau thì công việc mới chạy”.

Trong công tác xây dựng Đảng, có lúc Hồ Chí Minh phê bình “cách lãnh đạo của ta không được dân chủ”30 vẫn còn tình trạng quan liêu, cửa quyển, hách dịch với nhân dân, “lên mặt làm quan cách mạng” với nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Tác phong của những “ông quan liêu” là thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách”31.

Thực hành dân chủ phải đi đôi với chống lại những yếu tố phản dân chủ, chống lại thói cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo và những tệ nạn như 30 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb.CTQG, H,2002, tập 5, tr.243. 31 Sđd, tập 5, tr.243.

Page 48: 8160

47

tham ô, quan liêu, lãng phí, đó là kẻ thù của nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ”32 và để chữa căn bệnh đó, phương thuốc không gì khác hơn là thực hành dân chủ. Mặt khác, phải loại trừ ngay những kẻ quan liêu hoá, thoái hoá, những kẻ “miệng nói dân chủ nhưng làm việc theo lối quan chủ”33. Người nói: “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”34.

Hồ Chí Minh nói: việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với quần chúng, nhưng cán bộ, đảng viên tuyệt đối không được theo đuôi quần chúng vì “dân chúng không nhất luật như nhau. Trong dân chúng có nhiều tầng lớp khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiên tiến, có lớp lừng chừng, có lớp lạc hậu”35, không phải dẫn chứng nói gì ta cũng nhắm mắt nghe theo mà nên chọn ý kiến đúng. Do đó, dân chủ phải có tập trung, phải có lãnh đạo và đó là quá trình điều chỉnh tất yếu làm cho việc thực hành dân chủ được đúng hướng.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, muốn có được đoàn kết thống nhất trong Đảng cần quyết tâm thực hiện: 1- Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, đảm bảo nhân quyền cơ bản và quyền làm chủ Đảng của đảng viên, trong đó quan trọng nhất là quyền được trình bày ý kiến cá nhân của đảng viên để đi đến sự đồng thuận, nhất trí của tổ chức. 2- Thường xuyên và thực sự tự phê bình và phê bình và đấu tranh chống lại những cái hư hỏng, thoái hoá trong nội bộ, giữ cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh. 3- Phải có tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau, sống và đối xử với nhau có lý có tình.

1.5. Quan điểm của Đảng ta về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng

Quan điểm của Đảng ta về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng được trình bày trong các văn kiện của Đảng có cơ sở lý luận từ chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn khác nhau của lịch sử dân tộc, nó vẫn là một bộ phận không thể thiếu trong đường lối cách mạng Việt Nam và được kiểm nghiệm, đánh giá bởi thực tiễn nước ta. Nghiên cứu quá trình hình thành các quan điểm, thể chế dân chủ và việc thực hành dân chủ trong Đảng cho chúng ta những nhận thức và bài học quý để giải quyết vấn đề này trong hoàn cảnh và điều kiện hiện nay.

32 Sđd, tập 6, tr.494. 33 Sđd, tập 5, tr.641. 34 Sđd, tập 5, tr.296. 35 Sđd, tập 5, tr.296.

Page 49: 8160

48

Đại hội Đảng lần thứ I, năm 1935, khi Đảng Cộng sản Đông Dương còn đang hoạt động bí mật và vừa thoát ra từ cuộc khủng bố trắng của Thực dân Pháp.

Đánh giá về đường lối của tổ chức của Đại hội I nêu ra:

“ Đại hội công nhận rằng một sự thắng lợi rất lớn trong thời kỳ cải tạo khó khăn là Đảng đại khái đã khôi phục được hệ thống của Đảng khắp toàn Đông Dương, đã khôi phục được các tổ chức của cơ quan chỉ đạo bị đế quốc phá tan hồi năm 1931. Đảng đã đào tạo được cán bộ mới để thế cho chiến sĩ bị chém giết, tù đày. Đảng Đại hội cho rằng sự khôi phục hệ thống của Đảng là sự kết quả công tác có sáng kiến của các đảng bộ và các chiến sĩ hạ cấp, sự tranh đấu dũng cảm của quần chúng, sự chỉ đạo và giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, của ba Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Xiêm”36.

Thời kỳ này, về đường lối tổ chức Đảng ta có ảnh hưởng trực tiếp bởi mô hình Xô-viết của Liên Xô. Song mặc dù bị chính quyền thực dân Pháp thường xuyên truy bắt và khủng bố tàn bạo, nguyên tắc tổ chức và xây dựng Đảng của ta vẫn được nêu là dân chủ tập trung,không phải là nguyên tắc tập trung. Nguyên tắc tổ chức dân chủ tập trung trong Điều lệ của Đại hội I có các nội dung sau:

“Nguyên tắc tổ chức của Đảng là dân chủ tập trung, nghĩa là:

a) Các cơ quan chỉ đạo của Đảng từ thượng cấp cho tới hạ cấp đều do Đại hội đại biểu hội nghị và toàn thể hội nghị cấp bộ ấy cử ra.

b) Các cơ quan chỉ đạo của Đảng phải thường lệ báo cáo công tác của mình cho các đảng bộ và các cơ quan thượng cấp.

c) Các đảng viên có quyền thảo luận các vấn đề của Đảng trong đảng bộ mình trước khi những vấn đề ấy chưa giải quyết. Nhưng sau khi có nghị quyết rồi thì thiểu số phục tùng đa số; các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, của Đảng hoặc cơ quan chỉ đạo thì các đảng bộ hạ cấp nhất định phải chấp hành, dầu có một bộ phận đảng viên hay một vài địa phương không bằng lòng với các nghị quyết ấy thì có quyền khiếu nại với cơ quan thượng cấp cho tới Quốc tế Cộng sản, nhưng trong lúc cơ quan thượng cấp chưa quyết định thì cứ vẫn phải thi hành như cũ”37.

36 Dẫn theo nguồn của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=8&leader_topic=218&id=BT990534999. 37http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=8&leader_topic=218&id=BT990535532

Page 50: 8160

49

Trong điều kiện sự lãnh đạo của Đảng phải giữ nguyên tắc bí mật và tập trung cao độ, Điều lệ Đại hội 1 chưa có một điều riêng về quyền của đảng viên song trong mục c của nguyên tắc dân chủ ở trên đã thừa nhận “quyền thảo luận” và “quyền khiếu nại”.

Trong tôn chỉ của Đảng được nêu trong Điều lệ Đại hội I khẳng định Đảng “có kỷ luật sắt, thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành động, tuyệt đối không thoả hiệp với các xu hướng bè phái, các mầm cải lương, quốc gia eo hẹp, biệt phái và các xu hướng trái với chương trình của Đảng và của Quốc tế Cộng sản”. Điều này có nghĩa là sự thống nhất trong Đảng phải được duy trì như một khối thép thống nhất. Tuy nhiên trong điều kiện hồi đó sự thống nhất trong Đảng chưa thể đặt vấn đề phải qua con đường dân chủ và đảm bảo quyền cơ bản của đảng viên.

Tại Đại hội Đảng lần thứ II, năm 1951, sau khi nước ta giành được độc lập dân tộc trong thời gian ngắn ngủi lại phải tập trung cao độ mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược, song vấn đề dân chủ vẫn được đặt ra. Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam nói rõ sự thống nhất của vấn đề dân chủ với vấn đề đoàn kết trong Đảng và toàn thể dân tộc:

“Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin.

Nguyên tắc tổ chức của Đảng là dân chủ tập trung.

Kỷ luật của Đảng là kỷ luật nghiêm ngặt và tự giác

Chính sách của Đảng là chính sách ích quốc lợi dân.

Luật phát triển của Đảng là phê bình và tự phê bình.

Nhiệm vụ chính của Đảng Lao động Việt Nam hiện nay là:

Đoàn kết, lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc để tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược, đánh đổ bọn can thiệp Mỹ, đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, làm cho nước nhà độc lập và thống nhất thực sự.

Đảng Lao động Việt Nam hết sức ủng hộ Chính phủ Dân chủ Cộng hoà, đoàn kết và cộng tác chặt chẽ với các đảng phái, các đoàn thể trong Mặt trận Liên-Việt, để thực hiện dân chủ nhân dân về mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, vǎn hoá.

Page 51: 8160

50

Đảng Lao động Việt Nam chủ trương: đảm bảo quyền lợi chính đáng của các tầng lớp nhân dân”38.

Mặc dù trong hoàn cảnh kháng chiến rất ác liệt, khó khăn chồng chất, quyền dân chủ của đảng viên, nhất là quyền được phát biểu và chất vấn vẫn được ghi rõ trong Điều lệ Đảng II. Lần đầu tiên, Điều lệ Đảng có một điều riêng về quyền cơ bản của đảng viên:

“Điều thứ 3- Những đảng viên chính thức đều có quyền:

a) Bàn bạc và biểu quyết công việc Đảng.

b) Tuyển cử và ứng cử vào các cơ quan chỉ đạo của Đảng.

c) Đề nghị, giãi bày ý kiến với bất kỳ một cơ quan nào trong Đảng, cho đến Đại hội toàn quốc của Đảng.

d) Trong các cuộc hội nghị, được phê bình, chất vấn về chủ trương, chính sách của Đảng, được phê bình bất kỳ người nào, cấp bộ nào trong Đảng.

Những đảng viên dự bị không có quyền biểu quyết công việc Đảng, tuyển cử và ứng cử vào các cơ quan chỉ đạo của Đảng; còn các quyền khác thì đều được hưởng như đảng viên chính thức”39.

Thực tế thực hành dân chủ của Đảng nhiệm kỳ này mặc dù diễn ra trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của 9 năm kháng chiến chống Pháp nhưng có một thuận lợi rất cơ bản là được sự lãnh đạo, chỉ dẫn trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh – tấm gương sáng chói về nhân cách và đạo đức cánh mạng của nước ta. Đáng tiếc là những sai lầm trong sự chỉ đạo Cải cách ruộng đất, chịu ảnh hưởng trực tiếp cách làm của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã làm tổn hại tới dân chủ trong Đảng và nền dân chủ non trẻ của xã hội nước ta, tác động xấu tới tình đoàn kết thống nhất trong Đảng và ngoài xã hội. Đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã dũng cảm “tự chỉ trích”, rút ra bài học sâu sắc và xin chịu kỷ luật nghiêm khắc từ sai lầm này; Chủ tịch (Đảng và Nhà nước) Hồ Chí Minh đã đứng ra nhận lỗi trước nhân dân và quyết tâm sửa chữa, khắc phục, nên sớm lại niềm tin và sự thống nhất trong Đảng và giữa Đảng với dân tộc.

38 Dẫn theo nguồn của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=8&leader_topic=219&id=BT990536165. 39http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=8&leader_topic=219&id=BT990535997

Page 52: 8160

51

Đại hội III của Đảng diễn ra năm 1960 khi cách mạng nước ta bước vào thời kỳ thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chính trị: xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong phần Cương lĩnh chung của Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam đã trình bày một cách hệ thống và hàm súc vấn đề dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng:

“Đảng Lao động Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ và có kỷ luật rất nghiêm minh. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cǎn bản của Đảng. Nội dung của nó là tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Mục đích của nó một mặt là phát huy và nâng cao tính tích cực cách mạng, tính sáng tạo của đông đảo đảng viên và các tổ chức của Đảng, mặt khác là bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động và gìn giữ kỷ luật của Đảng. Đảng phải luôn luôn nắm vững lãnh đạo tập thể là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng thời kết hợp với phân công phụ trách. Đảng chống mọi hiện tượng phân tán, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, tự do vô kỷ luật cũng như chống mọi hiện tượng tập trung quan liêu, sự vụ, gia trưởng, độc đoán, coi thường tập thể, coi thường cấp dưới.

Đảng Lao động Việt Nam lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển của Đảng. Đảng luôn luôn khuyến khích và mở rộng tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên, và cấm ngặt những hành động trấn áp phê bình. Đảng đấu tranh không điều hoà chống mọi biểu hiện khuynh hữu hoặc khuynh "tả", chống mọi biểu hiện của những tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, phong kiến và tư tưởng không vô sản khác. Đảng yêu cầu mỗi đảng viên phải xác định nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Đảng khuyến khích và hoan nghênh việc quần chúng nhân dân phê bình công việc, cán bộ, đảng viên của Đảng và thành khẩn tiếp thu sự phê bình đúng đắn của quần chúng.

Đảng rất coi trọng việc tǎng cường đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng vì đó là sinh mệnh của Đảng. Đảng kiên quyết chống lại mọi hiện tượng chia rẽ, bè phái trong Đảng. Mỗi đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như "giữ gìn con ngươi của mắt". Sự đoàn kết nhất trí đó phải dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng và chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở đấu tranh nội bộ về tư tưởng một cách

Page 53: 8160

52

nghiêm chỉnh. Tự phê bình và phê bình thành khẩn, thẳng thắn và đúng mức là một bảo đảm cho sự đoàn kết nhất trí đó”40.

Như vậy, từ Đại hội III, nguyên tắc dân chủ tập trung đã đổi thành nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng ta không chỉ nhấn mạnh sự cần thiết của tự phê bình và phê bình mà còn không né tránh sự đấu tranh trong nội bộ Đảng để đi đến thống nhất. Sự đoàn kết nhất trí trong Đảng được đánh giá “chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở đấu tranh nội bộ về tư tưởng một cách nghiêm chỉnh”.

Đến Đại hội IV của Đảng năm 1976, quan điểm về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng đã được trình bày trong Điều lệ một cách đầy đủ, có hệ thống. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong Di chúc về đoàn kết nội bộ đã được ghi trong Điều lệ:

“Đảng cộng sản Việt Nam là một khối thống nhất về ý chí và hành động, được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy tự phê bình và phê bình làm một quy luật phát triển và có kỷ luật nghiêm minh.

Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Nguyên tắc ấy, một mặt, bảo đảm phát huy tính tích cực và tính sáng tạo của mọi tổ chức của Đảng và đảng viên trong việc tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; mặt khác, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng.

Đảng luôn luôn giữ vững lãnh đạo tập thể là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng thời kết hợp chặt chẽ lãnh đạo tập thể với cá nhân phụ trách, phát huy tinh thần trách nhiệm của cá nhân. Dân chủ và kỷ luật trong Đảng phải được xây dựng thành chế độ chặt chẽ. Đảng chống mọi biểu hiện tập trung quan liêu, độc đoán, dân chủ tập thể hình thức, cũng như chống mọi biểu hiện phân tán, cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa, tự do vô kỷ luật, bè phái.

Các tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở và mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; cấp trên phải tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức tốt việc phê bình từ dưới lên. Tự phê bình và phê bình phải thành thật, thẳng thắn, và nhằm mục đích hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, giúp đỡ nhau tiến bộ. Đảng nghiêm cấm những hành động trấn áp phê bình, trù dập cá nhân, và có thái độ nghiêm khắc đối với bất cứ cán bộ, đảng viên và tổ chức nào phạm các khuyết điểm ấy.

40http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=8&leader_topic=220&id=BT990536889

Page 54: 8160

53

Đảng coi việc giữ gìn đoàn kết nhất trí trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị và nguyên tắc tập trung dân chủ là sinh mệnh của Đảng, và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái trong Đảng. Giữa cán bộ, đảng viên phải xây dựng tình thương yêu đồng chí sâu sắc. "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình41".

Đại hội VI, năm 1986, đánh dấu thời kỳ đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo. Vấn đề dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng ngày càng trở nên quan trọng và phát triển thêm những nội dung mới.

Tại Đại hội Đảng VI, Đảng đã có được những quyết định quan trọng đổi mới về cơ bản đường lối phát triển đất nước. Có được thành tựu đó, trước hết là nhờ sự phát huy dân chủ, đấu tranh công khai, tranh luận thẳng thắn, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật về những sai lầm, khuyết điểm của Đảng, từ đó qua dân chủ thảo luận, bàn bạc để đi đến thống nhất về đường lối đổi mới đất nước. Đại hội đã thể hiện bài học quý giá về dân chủ, đó là: công khai, đánh giá đúng sự thật, bàn bạc, trao đổi thẳng thắn để đi đến nhất trí, tạo sự đồng thuận cao trong Đảng. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3 năm 1989) đã nêu ra 6 nguyên tắc đổi mới, trong đó nguyên tắc thứ 5 đã khẳng định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của phát huy dân chủ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội: "Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội".

Đại hội VII của Đảng đề ra Cương lĩnh mới, trong đó khẳng định bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam, coi sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Đại hội khẳng định "sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy" và đề ra chủ trương "coi thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã ghi nhận: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.

41http://123.30.49.74:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=8&leader_topic=221&id=BT990541346

Page 55: 8160

54

Đại hội VIII của Đảng, năm 1996, đã rút ra bài học “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị...Mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị là thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bài học lớn là dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Khắc phục những hiện tượng vi phạm dân chủ của nhân dân đồng thời chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích...”.

Đại hội VIII lần đầu tiên đề ra cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước;... thực hiện các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện là các cơ quan dân cử và các đoàn thể, làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp Nhà nước; Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra Nghị quyết và thi hành Nghị quyết; thực hiện thành nền nếp việc Đảng và Nhà nước cùng bàn bạc và tham khảo ý kiến của Mặt trận Tổ quốc về những quyết định và chủ trương lớn. Để thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” Ban Chấp Hành Trung ương đã ra Chỉ thị số 30/CT – TW ngày 18/2/1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở vì cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Tiếp đó tại Hội nghị lần thứ 6 (lần 2) ngày 2/2/1999, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Nghị quyết đã đề ra 10 nhiệm vụ cho toàn Đảng cũng như mỗi đảng viên, đặc biệt đã mở đợt tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.

Trong công tác xây dựng Đảng, thực hành dân chủ không thể không mở rộng tranh luận trong sinh hoạt đảng . Đại hội VIII có một kết luận quan trọng về dân chủ trong Đảng: “Không đồng nhất việc trong Đảng có những ý kiến khác nhau trong thảo luận, tranh luận trong tổ chức với tình trạng mất đoàn kết. Trước sự phát triển của cách mạng có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn phức tạp, chưa sáng tỏ, trong Đảng cần có sự thảo luận, tranh luận. Mọi cán bộ, đảng viên cần phải biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến khác nhau, thật sự vì chân lý, lẽ phải. Đồng thời không “đoàn kết” hình thức, một chiều, nể nang, không dám đấu tranh”.

Page 56: 8160

55

Đại hội IX của Đảng, năm 2001, khẳng định đường lối chính trị của Đảng ta trong Cương lĩnh 1991, được Đại hội VIII cụ thể hoá là đúng đắn và có sự bổ sung, phát triển một số nội dung về vấn đề dân chủ.

Đại hội IX đã có một bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng về dân chủ, điều đó được thể hiện qua việc Đảng đã đưa vấn đề dân chủ trở thành một tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu của đất nước trong giai đoạn mới “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội IX của Đảng chủ trương: “phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến Ban chấp hành Trung ương, trong công tác cán bộ và trong xây dựng, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng viên có quyền được bảo lưu ý kiến, nhưng phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Chống dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ, bản vị”42.

Nêu rõ chức năng giám sát cán bộ, đảng viên, các cơ quan công quyền của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; khắc phục tình trạng hành chính hoá, hình thức, quan liêu , xa dân của các cơ quan này.

Điều lệ được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định đảng viên có quyền:

- Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.

- Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban chấp hành Trung ương.

- Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức, báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.

- Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.

Như vậy là quyền dân chủ của đảng viên đã dần dần được mở rộng thêm: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V bổ sung quyền được phê bình, chất vấn đối với các hoạt động của mọi tổ chức Đảng và đảng viên ở bất cứ cấp nào, được báo cáo, kiến nghị và yêu cầu được trả lời; Đại hội đại biểu toàn quốc lần

42 Văn kiện Đại hội Đảng IX, NXBCTQG HCM, H, 2006, tr 143 - 144

Page 57: 8160

56

thứ VII bổ sung quyền được thông tin và quyền được bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số. Sự mở rộng đó và phù hợp với từng bước đổi mới, chỉnh đốn Đảng, với sự trưởng thành của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Nó cũng phù hợp với việc thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đã được Đảng ta đưa ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và ngày càng được bổ sung phát triển, đặc biệt là phù hợp với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đa phương đa dạng, với việc thông tin đã phát triển rộng khắp toàn cầu.

Về các quyền dân chủ của đảng viên đã được xác định trong Điều lệ được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, có thể tổng hợp lại trong 6 quyền sau: 1) quyền được thông tin; 2) quyền được thảo luận và biểu quyết; 3) quyền được ứng cử, đề cử và bầu cử; 4) quyền được phê bình, chất vấn, kiến nghị và yêu cầu được trả lời; 5) quyền được trình bày ý kiến về bản thân mình; 6) quyền được bảo lưu ý kiến khi ý kiến của mình thuộc về thiểu số.

Đại hội X của Đảng đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”43. Đến Đại hội X của Đảng, dân chủ và đoàn kết đã được xác định là cơ sở, điều kiện để đi lên CNXH ở nước ta: "Để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đẩy mạnh CNH, HĐH; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc...". Để thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, Nghị quyết Đại hội X chỉ rõ: "Phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ đảng viên có quyền tham gia quyết định công việc của Đảng; quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi Đảng đã có nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết. Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia các công việc của Đảng; khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân"44. Trong Báo cáo chính trị, khi đề cập tới vấn đề phát huy dân chủ và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN đã nhấn mạnh: “chúng ta chủ trương xây dựng một xã hội

43 Văn kiện Đại hội Đảng X, Nhà xuất bản Chính trị Quóc gia- Hà Nội-2006, tr 44 44 Văn kiện Đại hội Đảng X, tr 134, Nhà XBCTQG, Hà Nội 2006

Page 58: 8160

57

dân chủ, đặt mình dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân... Xây dựng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền"45.

Hệ thống giám sát cần được tăng cường ở trong và ngoài Đảng cùng với việc nêu cao nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của các đoàn thể và của nhân dân: “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, các chính sách, quyết định lớn của Đảng kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”.46

Tóm lại, quan điểm của Đảng ta về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng được trình bày trong các văn kiện của Đảng có cơ sở lý luận từ chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn khác nhau của lịch sử dân tộc, nó vẫn là một bộ phận không thể thiếu trong đường lối cách mạng Việt Nam và được kiểm nghiệm, đánh giá bởi thực tiễn nước ta. Nghiên cứu quá trình hình thành các quan điểm, thể chế dân chủ và việc thực hành dân chủ trong Đảng cho chúng ta những nhận thức và bài học quý để giải quyết vấn đề này trong hoàn cảnh và điều kiện hiện nay.

II. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT ĐẢNG DUY NHẤT CẦM QUYỀN

2.1. Cơ sở của dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng

Cơ sở chính trị của dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng là chế độ nhất nguyên chính trị và không đa nguyên đa đảng đối lập; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thực sự "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"

Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện cho lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân mà còn của nhân dân lao động, của toàn dân tộc. Thông qua các hạt nhân chính trị ở cơ sở là các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên mà Đảng gắn bó hữu cơ với nhân dân. Các chi bộ, đảng bộ cơ sở có vai trò lãnh đạo, thể hiện sự gương mẫu, cùng với nhân dân giải quyết những vấn đề trong sản xuất, công tác và đời sống, qua đó mà tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách 45 Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội X của Đảng, Nhân dân 19/4/ 2006. 46 Sdd, tr.135.

Page 59: 8160

58

của Đảng; bám sát nhu cầu, tiếp nhận và phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân trong công tác quản lý xã hội. Đồng thời, nhân dân thực hiện sự giám sát, phản biện thông qua các tổ chức cơ sở đảng, qua quá trình tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng. Mối quan hệ này trở thành một điều kiện quan trọng bảo đảm cho sức sống, sự năng động, cũng như vai trò của Đảng là người đại diện cho lợi ích, ý chí của nhân dân. Về nguyên tắc tổ chức sinh hoạt và thực tế hoạt động, Đảng là một bộ phận hữu cơ của nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, lấy nhân dân làm nguồn sống, đại diện cho lợi ích toàn diện của nhân dân. Mục đích hoạt động của Đảng không gì khác ngoài việc giải phóng con người trong sự phát triển chung của cả xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam duy nhất lãnh đạo xã hội nhưng vẫn bảo đảm tính dân chủ sâu rộng. Lịch sử cho thấy, bản chất của một nền dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay một đảng, mà lệ thuộc vào chỗ đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào những mục đích nào trên thực tế. Mỗi chế độ dân chủ là tổng thành của nhiều tiêu chí có tính lịch sử và tính nhân loại chung, trong đó quan trọng nhất là sự bảo đảm về quyền và lợi ích cho nhân dân phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể. Chế độ sẽ không dân chủ khi có nhiều đảng thay nhau lãnh đạo, nhưng chỉ đại diện lợi ích của một bộ phận dân cư chứ không phải của toàn xã hội; hoặc các đảng đó trong khi bảo vệ các quyền và lợi ích của dân tộc mình lại sẵn sàng can thiệp thô bạo, vì mục đích vụ lợi, áp đặt quyền lực, gây đau khổ cho các dân tộc khác.

Đảng là một tổ chức chính trị cao nhất trong xã hội. Tổ chức chính trị ấy được thành lập theo một đường lối chính trị nhất định, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa yêu nước và phong trào công nhân. Tổ chức chính trị ấy hoạt động bằng đường lối chính trị là đấu tranh giai cấp, xoá bỏ đi ách áp bức bóc lột giai cấp, dân tộc; xoá bỏ ách áp bức con người, xây dựng xã hội hoà bình, độc lập, phồn vinh, con người được tự do phát triển. Một đảng mác xít như vậy muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, theo Lê nin thì Đảng phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ và tuyệt đối. Đó là nguồn gốc của sức mạnh chủ yếu, vô địch và vô tận của Đảng; là điều kiện để phát huy dân chủ và đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc.

Là một tổ chức chính trị cao nhất, Đảng ta tập hợp trong mình những cá nhân, đơn vị có giác ngộ chính trị sâu sắc. Sự giác ngộ chính trị biểu hiện ở

Page 60: 8160

59

tinh thần tự nguyện, tự chủ rất cao của hàng triệu cán bộ, đảng viên cùng nguyện hy sinh phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng chung của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng gồm những đảng viên được Đảng tuyên truyền giáo dục, giác ngộ và họ tự thấy đi theo đường lối của Đảng để góp phần công sức nhỏ bé của mình làm cho cuộc sống của cuộc đời mình trở nên có ý nghĩa, có ích cho non sông đất nước; có ích đối với xã hội. Tính tự nguyện, tự giác thể hiện tính chủ động, tính dân chủ, tinh thần làm chủ của mỗi đảng viên cũng như của toàn Đảng.

Đảng hoạt động thông qua việc đề ra những cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị nhất định. Đường lối chính trị ấy được hình thành và thực hiện trên cơ sở những tri thức chính trị, tri thức lý luận của cán bộ đảng viên; khả năng làm chủ của Đảng trong việc nhận thức thế giới khách quan, phân tích đúng những mâu thuẫn của cuộc sống và đề ra các giải pháp giải quyết mâu thuẫn phù hợp. Cơ sở chính trị của thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng đã giúp cho con người củng cố và hoàn thiện cuộc sống; nâng cao khả năng tự đảm nhận trách nhiệm xã hội của đảng viên, củng cố lòng khát khao và niềm tin vào nhân dân, vào sự bình đẳng và quyền làm chủ xã hội của nhân dân.

Cơ sở chính trị thể hiện sự thống nhất giữa xây dựng đường lối và hiện thực hoá đường lối ấy vào cuộc sống; giữa lý luận với thực tiễn; giữa phân tích các hiện tượng xã hội phức tạp với kinh nghiệm xử lý và các sáng kiến chính trị; chống mọi sự tha hoá của cán bộ, đảng viên, chống sự phai nhạt lý tưởng của cán bộ, đảng viên.

Khi chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng làm sụp đổ một loạt nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu khiến cho Đảng ta phải nhận thức lại về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Trước thực tế hiểm nghèo một mất một còn của tình huống chính trị như vậy, những người cộng sản Việt Nam đã đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ, phát huy cao độ tính độc lập, tự chủ, chủ động, sáng tạo để tìm con đường đi lên cho đất nước.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 lại một lần nữa thể hiện vai trò lãnh đạo của tổ chức chính trị cao nhất trước những khúc quanh của lịch sử. Đại hội đề ra đường lối đổi mới đúng đắn và kịp thời. Đó là đổi mới toàn diện đất nước cả về kinh tế, chính trị và xã hội. Đổi mới kinh tế là trọng tâm, xây

Page 61: 8160

60

dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội. Đổi mới không đổi màu, vẫn kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đổi mới nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn mình.

Đường lối chính trị đúng đắn của công cuộc đổi mới ấy là trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân ta; phát huy tính chủ động trên cơ sở ý thức tự chủ và làm chủ rất cao của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhờ phát huy dân chủ, thực hiện dân chủ trong Đảng với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật và công khai, minh bạch đối với những việc cần làm ngay… mà Đảng ta có sức mạnh. Đảng nhận rõ những sai lầm thiếu sót của mình trong việc thực hiện các đường lối chính trị về kinh tế như giá, lương, tiền; về tính chủ quan duy ý chí của đường lối xây dựng CNXH theo mô hình hành chính quan liêu, bao cấp cần phải khắc phục.

Phương châm nhìn thẳng vào sự thật khách quan, thấy đúng bản chất của vấn đề, không giấu diếm, không che đậy, không sợ khuyết điểm, không ngại thiếu sót, đã giúp Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn. Đảng đã dũng cảm nói đúng, nói rõ sự thật, đặc biệt là những hạn chế, thiếu sót; từ đó đề ra phương hướng, biện pháp đúng đắn cải biến hạn chế, thiếu sót. Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng, nói rõ sự thật là biểu hiện dân chủ, công khai, minh bạch. Đảng ta là một Đảng cách mạng, chỉ có mục tiêu vì lợi ích của nhân dân nên dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng, nói rõ sự thật để dân tin (tất nhiên trừ những việc bí mật quốc gia). Dân không tin thì lòng dân ly tán. Được dân tin thì việc gì và việc khó đến mấy cũng vượt qua. Như vậy, dân chủ công khai, minh bạch tất yếu làm cho đoàn kết có cơ sở vững chắc hơn. Cán bộ, đảng viên đều được dân chủ tham gia xây dựng đường lối, nghị quyết nên tạo sự thống nhất trong nhận thức và hoạt động triển khai thực hiện đường lối, hiện thực hoá nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân được bảo đảm quyền lực thông qua các đại biểu của mình lựa chọn, bầu ra trong Quốc hội. Nhà nước đó hướng vào phục vụ nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng chung phổ biến của nhân dân, tạo mọi điều kiện thuận lợi để mỗi người dân có thể tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, tham gia quản lý xã hội. Quản lý nhà nước thông qua hệ thống pháp luật để mọi người dân được bình đẳng và công bằng. Nhà nước dựa trên cơ sở chính trị của chế độ dân chủ nhất nguyên. Chế độ đó

Page 62: 8160

61

có khả năng tạo ra đời sống dân chủ trình độ cao và bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội bền vững. Vì, nó khẳng định vai trò làm chủ của nhân dân, mục đích vì nhân dân của Nhà nước; dựa trên sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản.

Cơ sở tư tưởng của dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng là chủ nghiã Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện cao độ tính khoa học, cách mạng và nhân văn. Đó là học thuyết đầy sức sống, phản ánh đúng thực tiễn và luôn được bổ sung từ thực tiễn. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam hành động; nhờ đó Đảng là một đảng kiểu mới. Đảng được tổ chức khoa học, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất không chỉ trong nội bộ Đảng mà còn trong toàn xã hội.

Thống nhất về tư tưởng giúp Đảng có trí tuệ, niềm tin vững chắc, ý chí phấn đấu xây dựng CNXH; thực hiện dân chủ, đoàn kết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, thoái hoá biến chất, vi phạm dân chủ, chia rẽ, bè phái trong Đảng; đấu tranh không khoan nhượng với những luận điệu xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng. Đồng thời giúp đảng viên xây dựng phương pháp tư duy khoa học, chống quan liêu, độc đoán, chuyên quyền dưới mọi màu sắc; chống tư tưởng bàng quan chủ nghĩa, “mũ ni che tai”, an phận thủ thường, thói vô trách nhiệm; khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, chủ quan, nóng vội...có hại cho cách mạng, cho uy tín của Đảng.

Cơ sở tổ chức của thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng

Sứ mệnh lịch sử và địa vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản tất yếu phải có một tổ chức bộ máy chặt chẽ. Tổ chức Đảng là một bộ phận của xã hội, là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng là một tổ chức thống nhất, có cương lĩnh, điều lệ, có các tổ chức thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.

Sự thống nhất của Đảng không phải chỉ về mặt hình thức bộ máy mà thống nhất ở nội dung, ở mục tiêu, ở những nguyên tắc, ở phương châm, phương thức hoạt động. Đảng thống nhất về tổ chức bộ máy, thông qua hệ thống tổ chức bộ máy mà thực thi quyền lãnh đạo; theo đó cấp dưới phục tùng cấp trên; cá nhân phục tùng tổ chức. Cho nên, tổ chức Đảng sắp xếp tổ chức bộ máy tạo thành một chỉnh thể có tính ổn định, bền vững; đồng thời không biến các tổ

Page 63: 8160

62

chức thành những khung khổ cứng nhắc, khô cứng, bất biến. Thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng giúp tổ chức bộ máy linh hoạt, sáng tạo phù hợp với những biến đổi không ngừng của xã hội. Muốn vậy phải xây dựng một cơ chế hoạt động khoa học, trong đó quy định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức bộ máy và mối quan hệ giữa các tổ chức bộ máy ấy. Bảo đảm các tổ chức bộ máy ra đời, tồn tại đều do đòi hỏi của thực tiễn; không phải do ý chí của cá nhân con người, kể cả người đứng đầu tổ chức.

Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần kinh tế, chúng ta cần có sự nghiên cứu về tổ chức đảng cho thích hợp. Tổ chức đảng theo đơn vị hành chính, đơn vị kinh tế dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ địa phương đang là phổ biến, phát huy tác dụng. Tuy nhiên, còn nhiều mô hình tổ chức đảng đặc thù, đặc biệt là ở một số Tổng công ty, khu công nghiệp, tổ chức đảng ở các Bộ, ngành trên nhiều địa bàn khác nhau, tổ chức đảng ở nước ngoài... cần nghiên cứu để đảm bảo tính khoa học, thống nhất, chặt chẽ trong Đảng.

Bộ máy của Đảng gồm cơ quan lãnh đạo, cơ quan tham mưu các cấp của Đảng. Sự tồn tại và vận hành đúng đắn, đồng bộ của các bộ máy này bảo đảm cho năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng được nâng cao. Để thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất, các cơ quan, bộ máy này cần được nêu rõ, cụ thể, khoa học về chức năng, nhiệm vụ, quy chế hoạt động của tổ chức và của từng người, từng bộ phận; tránh chồng chéo, lẫn lộn hoặc bỏ trống chức năng, nhiệm vụ. Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên trong các cơ quan đảng cũng phải được đề cao.

Cơ sở kinh tế của thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng

Dân chủ là giá trị nhân văn của nhân loại, là biểu hiện những chuẩn mực văn minh của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của dân chủ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố của điều kiện lịch sử, trong đó sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quan trọng. Dân chủ luôn gắn với trình độ phát triển kinh tế-xã hội.

Thời kỳ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra có hiệu quả trong việc tập trung sức người sức của cho kháng chiến. Tuy nhiên, do kéo dài quá lâu cơ chế kinh tế này, nhất là khi đất nước thống nhất nên đã làm cho dân chủ bị biến dạng, tình trạng cào bằng, bình quân chủ nghĩa

Page 64: 8160

63

đã triệt tiêu động lực phấn đấu của cán bộ, đảng viên và nhân dân; không tạo sự đồng thuận, đoàn kết, thống nhất trong xã hội. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong Đảng và xã hội xuất hiện; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đứng trước nguy cơ đổ vỡ như đã diễn ra ở Liên Xô và Đông Âu.

Hiện nay, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế theo thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Đây là một trong những yếu tố hàng đầu cho sự phát triển chung của cả xã hội, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Thể chế thị trường với nhiều hình thức sở hữu là điều kiện để giải phóng và phát triển sức sản xuất, khuyến khích mọi công dân làm giàu chính đáng, phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng xã hội, góp phần đưa đất nước phát triển.

Với cơ sở này, tổ chức và hoạt động của Đảng phải tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường, bị quy định bởi tính chất và trình độ của sự phát triển kinh tế. Đồng thời cơ sở kinh tế này cũng luôn tạo ra xung lực để đổi mới, hoàn thiện Đảng, nâng cao khả năng lãnh đạo quá trình phát triển kinh tế, chủ động trước mọi tình huống xã hội trong cơ chế kinh tế mới, bảo đảm dân chủ, đoàn kết thống nhất.

Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường có tác động tiêu cực đến thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và xã hội. Sự phân hoá trong nội bộ Đảng và trong xã hội đang ngày càng rộng, thậm chí đã gây bức xúc trong xã hội. Đã xuất hiện những đảng viên đại gia, tỷ phú từ nguồn thu nhập “đen” bên cạnh những đảng viên, quần chúng có cuộc sống còn nhiều khó khăn. Đảng phải đủ trí tuệ, bản lĩnh và dũng cảm để lãnh đạo nền kinh tế, thực hiện tốt việc bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các thành phần kinh tế. Cán bộ, đảng viên cần có trình độ kinh tế để làm giàu chính đáng, tạo nhiều của cải cho xã hội; có đạo đức để không bị đồng tiền thao túng, làm tha hoá; khắc phục việc cấu kết giữa chính trị và kinh tế như đã từng xảy ra. Đảng phải dân chủ để kiểm soát các hoạt động của các thành phần kinh tế, kiểm soát nội bộ Đảng, đảm bảo thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất.

Tổ chức Đảng, cán bộ đảng viên đều là thực thể xã hội tồn tại và phát triển dựa trên nền tảng kinh tế nhất định. Kinh tế và lợi ích kinh tế gắn rất chặt với mỗi người cũng như những tổ chức, xã hội. Việc chăm lo phát triển kinh tế, bảo vệ lợi ích kinh tế là vấn đề cốt lõi của mọi xã hội, trong đó có xã hội ta. Sự nghiệp cách mạng mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, cho Tổ quốc,

Page 65: 8160

64

trong đó có lợi ích của đảng viên. Có lợi ích vật chất và tinh thần, nhưng xét đến cùng, lợi ích kinh tế vẫn là cơ bản, quyết định nhất. Thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở kinh tế thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau, song rõ nhất ở các điểm chính sau.

Một là: mọi yêu cầu tốt đẹp về dân chủ và đoàn kết thống nhất sẽ thiếu sức lôi cuốn, bền vững nếu không có sự bảo đảm về kinh tế. Tư tưởng, ý thức thường ngày của con người, trong đó có cán bộ, đảng viên thường bắt nguồn trực tiếp hay gián tiếp từ nhu cầu, lợi ích thiết thực. Nhu cầu và lợi ích của đảng viên rất đa dạng, phong phú nhưng lại gắn chặt với nhu cầu và lợi ích của Đảng. Để lãnh đạo đất nước, giữ vững độc lập tự chủ thì Đảng phải lãnh đạo phát triển nền kinh tế vững chắc, nâng cao đời sống nhân dân. Đảng viên cũng là con người, bên cạnh họ còn có gia đình, phải có trách nhiệm lo cho bố mẹ, vợ con, anh em...; họ bị chi phối bởi những ràng buộc kinh tế rất cụ thể, hàng ngày. Đời sống kinh tế nghèo túng, khó khăn thì đảng viên khó có thể hăng hái, một lòng một dạ phát huy tinh thần làm chủ, sáng tạo trong công tác, gắn bó lâu bền với tổ chức đảng. Ngược lại các lợi ích kinh tế được đảm bảo, đời sống kinh tế ổn định và không ngừng nâng cao thì người đảng viên có điều kiện thực hiện các hoạt động dân chủ của mình, chuyên tâm gắn bó với Đảng, đoàn kết thống nhất trong Đảng hơn. Đảng chăm lo đến những lợi ích kinh tế của xã hội, của đảng viên là chăm lo nền tảng phát huy dân chủ, xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng lâu dài.

Hai là, công khai, công bằng, bình đẳng về kinh tế là cơ sở thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đảng nỗ lực đem lại sự công bằng, bình đẳng cho xã hội và cho cán bộ đảng viên. Công khai, dân chủ, công bằng về kinh tế là yêu cầu cơ bản, lâu dài để đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Muốn dân chủ, đoàn kết thống nhất thực sự bền vững thì trong Đảng không được có những đặc quyền, đặc lợi về kinh tế; phân hoá giàu nghèo quá lớn về đời sống kinh tế. Sự khác biệt lớn về đời sống kinh tế trong Đảng cũng như trong xã hội dễ dẫn đến những suy nghĩ, hành động khác nhau trong thực hiện dân chủ, xây dựng khối đoàn kết thống nhất. Tất nhiên không yêu cầu và không thể thực hiện cào bằng về kinh tế giữa các cá nhân trong Đảng. Nhưng chúng ta cũng không chấp nhận sự chênh lệch quá lớn về sở hữu, thu nhập kinh tế giữa các đảng viên do có những đặc quyền, đặc lợi riêng biệt.

Page 66: 8160

65

Sự công khai, minh bạch về kinh tế và bảo đảm lợi ích kinh tế là cơ sở nền tảng, lâu dài bảo đảm thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ngược lại thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng là yếu tố quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, mạnh, bền vững. Chúng ta không xa vào chủ nghĩa kinh tế nhưng trong điều kiện kinh tế thị trường mọi hoạt động đều phụ thuộc vào kinh tế, đều dựa trên khả năng kinh tế.

Ba là, khắc phục những biểu hiện mất dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng từ lý do kinh tế.

Việc không công khai minh bạch, không rõ ràng trong sáng về kinh tế tạo nên sự khác biệt, chênh lệch quá lớn về kinh tế dẫn đến những tình huống phản dân chủ, phản đoàn kết thống nhất trong Đảng. Có nhiều khả năng xảy ra quanh vấn đề này. Người có quyền lực kinh tế sẽ chi phối những người khác dẫn đến mất dân chủ. Từ mất dân chủ dẫn đến mất đoàn kết thống nhất. Người bị thua thiệt về kinh tế, càng ngày càng khó khăn không vươn lên được cũng dẫn đến mất khả năng làm chủ, không phát huy được tinh thần làm chủ nên không có dân chủ bình đẳng trong quan hệ. Một số cán bộ, đảng viên làm ăn bất chính, giàu lên quá nhanh nhưng không được giải quyết, để kéo dài gây mất dân chủ và giảm sức quy tụ, thống nhất ý chí, niềm tin trong Đảng.

Bốn là, lãnh đạo phát triển kinh tế là một biện pháp quan trọng tổ chức thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đảng có trọng trách lãnh đạo đưa nền kinh tế đất nước phát triển. Đây là nhiệm vụ đầy khó khăn, phức tạp, với những thách thức gay gắt. Nó đòi hỏi toàn Đảng phát huy dân chủ, sáng tạo, tìm con đường đi phù hợp với đất nước. Công cuộc đổi mới vừa qua đã chứng minh điều đó. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng nhận rõ những sai lầm, thiếu sót khi duy trì quá lâu mô hình kinh tế tập trung, bao cấp. Đại hội chỉ ra đường lối đổi mới đất nước, trong đó trọng tâm là đường lối phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối phát triển kinh tế đó không ngừng được các Đại hội của Đảng VII, VIII, IX và X bổ sung, hoàn thiện.

Cơ sở văn hoá - xã hội thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng

Đảng ta đã xác định, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là một bộ phận hợp thành của mô hình xã hội XHCN. Chúng ta chủ trương, xây dựng và phát triển, nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

Page 67: 8160

66

sắc dân tộc, làm cho nền văn hóa ấy gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế - xã hội, trở thành động lực phát triển, góp phần bồi dưỡng, giáo dục, hoàn thiện nhân cách, lối sống, năng lực trí tuệ và bản lĩnh của con người Việt Nam. Phát triển văn hóa còn là điều kiện bảo đảm cho môi trường tự do, dân chủ trong hoạt động sáng tạo, nêu cao trách nhiệm công dân, khuyến khích và nuôi dưỡng nhân tài của đất nước xây dựng những giá trị văn hóa mới cho xã hội.

Cơ sở xã hội của nền dân chủ nước ta dựa trên nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc, liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức; không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, quá khứ lịch sử, trong nước và ngoài nước.

Dân chủ luôn gắn với dân trí và trình độ văn hoá xã hội. Dân chủ là một quá trình từ thấp đến cao, không phải bỗng chốc có ngay dân chủ một cách hoàn thiện! Đòi hỏi có ngay nền dân chủ hoàn thiện, ở trình độ cao chỉ là ảo tưởng. Khi chưa có mô hình dân chủ tối ưu, chúng ta phải vừa từng bước xây dựng chế độ dân chủ mới, vừa từng bước học để làm dân chủ.

Trong dịp kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:“Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất, độc lập, hoà bình, ấm no.”Đây là sự khái quát sâu sắc, đầy đủ, bản chất văn hoá - xã hội của Đảng ta. Văn hoá và xã hội là hai mặt hoà quyện vào nhau tạo nên chất nhân văn, nhân đạo của Đảng. Văn hoá Đảng là một nội dung cốt lõi bao trùm nhất của công tác xây dựng Đảng hiện nay. Văn hoá Đảng gắn liền với văn hoá dân tộc, nó phản ánh các lĩnh vực của đời sống xã hội.

2.2. Nội dung và hình thức của dân chủ trong Đảng

2.2.1 Nội dung dân chủ trong Đảng

Nội dung dân chủ trong Đảng đã được thể hiện trong Điều lệ Đảng và các văn bản của Đảng quy định đảng viên tham gia, quyết định và quản lý các công việc của Đảng. Dân chủ trong Đảng được quy định rõ ở nguyên tắc tập trung dân chủ và các quyền của đảng viên.

Tại điều 9 trong Điều lệ Đảng đã quy định những nội dung căn bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, đó là:

1/Bầu cử dân chủ.

Các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng đều do bầu cử dân chủ mà lập ra. Bầu cử là khởi điểm dân chủ trong đảng. Không có bầu cử dân chủ sẽ

Page 68: 8160

67

không có dân chủ trong đảng. Bầu cử dân chủ trong đảng vừa là quyền lợi của đảng viên, vừa là quy trình bảo đảm dân chủ trong Đảng. Là quyền lợi dân chủ của đảng viên, yêu cầu mỗi đảng viên đều có quyền ứng cử và bầu chọn theo Điều lệ đảng. Là một quy trình bảo đảm dân chủ trong Đảng, bầu cử dân chủ phải làm được trình tự hợp pháp, bao gồm chuẩn bị thảo luận đầy đủ, ứng cử viên, bầu cử chính thức, bỏ phiếu kín... đều phải phù hợp với yêu cầu của Điều lệ và các quy định khác của Đảng.

2/ Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc, của các cấp bộ Đảng là Đại hội đại biểu các cấp, của các tổ chức cơ sở Đảng là Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ Đại hội, cơ quan lãnh đạo mỗi cấp là Ban Chấp hành do Đại hội cùng cấp bầu ra.

Các Ban Chấp hành phải báo cáo và chịu trách nhiệm trước Đại hội cấp mình, trước cơ quan lãnh đạo cấp trên và đảng bộ cấp dưới.

3/ Kết hợp tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách.

Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng phải thực hiện đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể. Lãnh đạo tập thể phải đi đôi với cá nhân phụ trách, phát huy tinh thần trách nhiệm cá nhân. Kết hợp giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách là nguyên tắc và chế độ lãnh đạo cơ bản của Đảng. Lãnh đạo tập thể yêu cầu mọi chủ trương, đường lối, quyết sách, những vấn đề liên quan đến công tác cán bộ và quản lý cán bộ, như giới thiệu, bổ miễn nhiệm và thưởng phạt cán bộ đều phải do trung ương và tập thể đảng uỷ địa phương quyết định, không cho phép một người độc đoán; quyết định các vấn đề quan trọng phải chuẩn bị, hiệp thương thảo luận đầy đủ và biểu quyết theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Đối với quyết định của tập thể không bất cứ cá nhân nào được thay đổi, cá nhân và số ít người có ý kiến bất đồng được bảo lưu, nhưng phải phục tùng vô điều kiện, và chấp hành bằng hành động. Bất cứ đảng viên nào chức vụ thấp hay cao đều không được tự mình quyết định các vấn đề lớn, không cho phép bất cứ lãnh đạo nào chuyên quyền độc đoán vượt tổ chức. Kết hợp tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách là một chỉnh thể thống nhất, cùng trợ giúp cho nhau, không thể xoá bỏ.

4/ Các công việc của Đảng đều phải tùy theo tính chất quan trọng của từng vấn đề mà do những cơ quan có đủ thẩm quyền của Đảng giải quyết.

Page 69: 8160

68

Những vấn đề về đường lối, chính sách cơ bản của Đảng, những vấn đề có tầm quan trọng chung đối với toàn quốc đều phải do cơ quan lãnh đạo toàn quốc của Đảng (Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương) quyết định. Những vấn đề thuộc trách nhiệm và quyền hạn của địa phương thì các tổ chức Đảng có trách nhiệm ở địa phương phải chủ động giải quyết trong phạm vi không trái với đường lối, chính sách của Đảng và các quyết định của cấp trên.

5/ Thiểu số phục tùng đa số

Nghị quyết của các hội nghị của Đảng đều phải được biểu quyết theo đa số. Trước khi biểu quyết, các đảng viên đều được trình bày hết ý kiến của mình.

Các nghị quyết của Đảng phải được chấp hành không điều kiện. Cá nhân đảng viên phải phục tùng tổ chức và kỷ luật của Đảng, thiểu số phục tùng đa số, tổ chức cấp dưới phục tùng tổ chức có thẩm quyền ở cấp trên; các tổ chức Đảng trong toàn quốc phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. Trong Đảng, tuyệt đối không được bè phái.

Đây là nguyên tắc mà đại hội đại biểu và tổ chức đảng các cấp khi thảo luận và quyết định những vấn đề lớn. Hiện nay, thiểu số phục tùng đa số không chỉ là dân chủ, mà còn là kỷ luật trong Đảng. Trong khi thực hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, nhưng vẫn tôn trọng thiểu số, cho phép thiểu số phát biểu ý kiến bất đồng và phải xem xét nghiêm túc. Trong Đảng, thiểu số phục tùng đa số và tôn trọng thiểu số đi liền với nhau, chỉ nhấn mạnh đa số quyết định hay thiểu số phục tùng đều là phiến diện.

Tại điều 3 trong Điều lệ Đảng và trong một số văn bản của Đảng đã quy định các quyền của đảng viên, cụ thể là:

1/ Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.

2/ Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

3/ Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.

4/ Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình.

Page 70: 8160

69

2.2.2 Các hình thức biểu hiện của dân chủ trong Đảng

- Phát huy vai trò của mỗi đảng viên, xác định quyền và trách nhiệm của mỗi đảng viên trong công tác xây dựng Đảng

Dân chủ trong Đảng bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ chủ yếu của đảng viên. Vị trí chủ thể của đảng viên trong Đảng cần được coi trọng. Khắc phục tình trạng, ở nhiều đảng bộ, chi bộ chỉ coi đảng viên như đối tượng cần được giáo dục, quản lý, chứ ít chú ý tới việc phát huy vai trò chủ động, năng động sáng tạo của từng đảng viên; coi nhẹ việc đảng viên tham gia vào các công tác của Đảng; nhấn mạnh đảng viên phải chấp hành vô điều kiện các quyết sách của Đảng, mà chưa chú ý đầy đủ việc đảng viên tham gia ý kiến xây dựng các quyết sách đó. Hoạt động cầm quyền của Đảng không chỉ là của một số ít đảng viên tham gia cấp uỷ mà là sự đóng góp của toàn thể đảng viên. Mỗi đảng viên đều là thành viên của Đảng cầm quyền, cho nên phải xác định vững chắc vị trí chủ thể của đảng viên, mỗi đảng viên phải thực sự tham dự với tinh thần trách nhiệm cao vào các mặt công tác của Đảng.

Để phát huy dân chủ trong Đảng, việc đầu tiên của mỗi cấp uỷ là phải bảo đảm các quyền của đảng viên được thực thi trong thực tế. Bất cứ ai vi phạm các quyền đó đều phải bị lên án và xử lý nghiêm.

- Dân chủ trong tổ chức sinh hoạt Đảng, trong mối quan hệ tổ chức Đảng giữa Trung ương và cơ sở, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa các cơ cấu tổ chức của Đảng.

Điều 9 Điều lệ Đảng đã chỉ rõ các mối quan hệ trong sinh hoạt Đảng, giữa tổ chức Đảng trung ương và cơ sở, giữa cấp trên và cấp dưới và giữa các cơ cấu tổ chức của Đảng. Trong sinh hoạt Đảng, tất cả đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ và các quy định của Đảng, không có bất cứ ngoại lệ nào. Mọi đảng viên đều có quyền tham gia vào các công việc của Đảng, từ việc xây dựng nghị quyết, chủ trương, cương lĩnh đến công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát trong Đảng... Bất cứ đảng viên nào vi phạm Điều lệ và các quy định của Đảng đều bị xử lý nghiêm minh. Khi quyết định những vấn đề lớn của Đảng từ cấp trung ương đến cấp cơ sở, mỗi đảng viên được quyền phát biểu ý kiến của mình và khi biểu quyết phải thực hiện đúng nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Ý kiến thiểu số cần được tôn trọng và có quyền bảo lưu báo cáo lên cấp trên. Chế độ dân chủ trong Đảng, phục tùng đa số và tôn trọng thiểu số đi liền

Page 71: 8160

70

với nhau, chỉ nhấn mạnh đa số quyết định hay thiểu số phục tùng đều là phiến diện. Trong các quyết sách lớn như những vấn đề có tính toàn cục, công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo... đều phải do tập thể cấp uỷ quyết định, không cho phép một người độc đoán quyết định. Đối với quyết định của tập thể, không có bất cứ cá nhân nào được thay đổi, cá nhân và số ít người có ý kiến bất đồng được bảo lưu, nhưng phải phục tùng vô điều kiện và chấp hành bằng hành động.. Bất cứ đảng viên nào chức vụ cao hay thấp đều không được tự mình quyết định các vấn đề lớn, không cho phép bất cứ lãnh đạo nào chuyên quyền độc đoán vượt tổ chức.

Nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo. Báo cáo với cấp trên, với tập thể đã bầu ra mình là một yêu cầu không thể thiếu để bảo đảm sinh hoạt dân chủ. Ban chấp hành các cấp của Đảng phải thực hiện chế độ thông báo, thông tin, báo cáo từ trên xuống và từ dưới lên, làm cho toàn Đảng, toàn đảng bộ, toàn thể thành viên của cơ quan lãnh đạo các cấp hiểu được tình hình và kết quả công việc đã làm, những khó khăn, thuận lợi của mỗi tổ chức đảng. Tổ chức và người phụ trách cấp trên phải thật sự lắng nghe và tôn trọng ý kiến của cấp dưới, tập hợp ý kiến và kinh nghiệm của cán bộ, đảng viên và quần chúng, nêu các vấn đề mà toàn Đảng hay mỗi đảng bộ cần quan tâm để cho cấp dưới thảo luận, tham gia ý kiến.

Dân chủ trong các kỳ Đại hội Đảng. Bảo đảm cho các Hội nghị của Đảng từ trên xuống dưới phải được chuẩn bị chu đáo và được tiến hành một cách thật sự dân chủ; các quyết định của hội nghị phải phản ánh tập trung được ý chí và trí tuệ sáng tạo của tập thể, của những người am hiểu vấn đề, của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng, đề cập và giải quyết được những vấn đề then chốt nhất, cấp thiết nhất của cuộc sống, khắc phục mọi biểu hiện gia trưởng, độc đoán, hình thức trong Hội nghị của Đảng, cũng như những biểu hiện gò ép, dân chủ hình thức hoặc buông lỏng lãnh đạo.

Việc chuẩn bị Hội nghị phải chu đáo, đúng quy định, chú ý nghiên cứu, lấy ý kiến của các cơ quan có trách nhiệm và của đảng viên, bảo đảm hội nghị được tiến hành nhanh gọn, nhưng có chất lượng cao. Cơ quan lãnh đạo phải nắm vững tình hình thực tế, có thời gian suy nghĩ về các phương án và ý kiến khác nhau, việc thảo luận trong hội nghị phải thật sự dân chủ, cởi mở, và có kết luận rõ ràng, không bị ràng buộc bởi một áp lực nào. Việc kết luận, biểu quyết các vấn đề phải trên cơ sở phân tích rõ ý kiến đúng sai; nghị quyết của

Page 72: 8160

71

Hội nghị phải được tập thể thông qua một cách thật sự dân chủ, tránh chủ quan, phiến diện.

- Dân chủ trong bầu cử cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp.

Dân chủ trong bầu cử là biểu hiện tập trung của phát huy dân chủ trong Đảng. Vì thế, việc bầu cử cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp phải thực hiện đúng quy trình bầu cử của Đảng, bảo đảm đầy đủ tính chất dân chủ và phải được chuẩn bị chu đáo để việc lựa chọn các ứng viên được chính xác. Trước hết phải bảo đảm dân chủ trong đề cử và ứng cử. Danh sách bầu cử phải bảo đảm có số dư.

Người đi bầu cần được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và phải được trao đổi, thảo luận về các ứng viên. Người bầu cử có quyền nhận xét, chất vấn các vấn đề cần thiết về các ứng viên và được tự do bầu hay không bầu đối với mỗi người ứng cử, không một cơ quan hay một đảng viên nào được gò ép. Dân chủ trong bầu cử chỉ có thể thực hiện tốt trên cơ sở làm cho đại biểu hiểu rõ tiêu chuẩn của uỷ viên Ban chấp hành, hiểu rõ phẩm chất và năng lực của từng ứng viên, loại trừ các hành động bè phái, vô nguyên tắc làm cho các đại biểu hiểu sai lệch về các ứng viên. Bởi vậy, để thật sự phát huy dân chủ, phải có sự lãnh đạo đúng đắn.

Trên cơ sở báo cáo của cấp uỷ, đoàn chủ tịch của Đại hội phân tích ý kiến của các đại biểu, của cán bộ, đảng viên, trong trường hợp cần thiết có thể công khai giới thiệu những người ưu tú mà đại biểu chưa nắm được, trình bày rõ các thông tin về danh sách những người xét thấy xứng đáng. Việc giới thiệu đó không thể coi là gò ép hoặc bắt buộc. Các đại biểu tham khảo những ý kiến giới thiệu, cân nhắc, quyết định bỏ phiếu kín, mà không chịu bất cứ một áp lực nào. Đoàn chủ tịch phải ngăn chặn những hiện tượng lôi kéo, bè cánh trong các cuộc bầu cử và phải báo cáo kịp thời lên cấp trên nếu có.

Ở cấp trên, trước khi lựa chọn người để giới thiệu vào cấp uỷ phải lấy ý kiến của cán bộ, đảng viên. Ở các đơn vị cơ sở, trước khi bầu cử cấp uỷ, tổ chức Đảng còn phải lấy ý kiến của quần chúng về những người mà quần chúng xét thấy xứng đáng được bầu vào cấp uỷ.

- Dân chủ trong Đảng được thể hiện trong các nội dung công tác xây dựng Đảng: công tác xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng; công tác tư tưởng; công tác tổ chức cán bộ...

Page 73: 8160

72

Đảng lãnh đạo toàn dân tộc ta bằng chủ trương, đường lối của Đảng. Chủ trương đường lối đúng là yếu tố quyết định dẫn dắt toàn dân tộc trên con đường phát triển, từ đó nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng trước xã hội và quần chúng nhân dân. Trong công cuộc đổi mới hiện nay- xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế...Trước nhiều vấn đề lý luận còn chưa được làm sáng tỏ nên muốn có đường lối, chủ trương đúng, Đảng phải phát huy dân chủ và đoàn kết, lắng nghe, thu thập những ý kiến đóng góp của đảng viên, huy động sự tham gia tích cực của họ vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng. Cán bộ, đảng viên được dân chủ tham gia bàn bạc xây dựng đường lối, cương lĩnh, chủ trương, nghị quyết của Đảng, do đó sẽ tạo được sự thống nhất hành động trong suốt quá trình chỉ đạo triển khai thực hiện đường lối, thể hiện tính tiền phong của mỗi đảng viên trước quần chúng nhân dân.

Sự thống nhất về đường lối trong mỗi tổ chức Đảng và đảng viên được hình thành và củng cố ngay trong quá trình xây dựng, phát triển, cụ thể hoá đường lối một cách đúng đắn; hình thành vững chắc trong quán triệt, triển khai đường lối ấy trong thực tiễn, tránh những biểu hiện nhận thức lệch lạc về đường lối, góp phần loại trừ mọi âm mưu nhằm chia rẽ, gây mất đoàn kết nội bộ Đảng. Không chỉ tạo sự thống nhất cao về đường lối chung, mà còn không ngừng tăng cường thống nhất về chủ trương, đường lối thuộc từng lĩnh vực công tác, đặc biệt là sự thống nhất trong các các nghị quyết của tổ chức đảng các cấp.

Quá trình triển khai đường lối của Đảng, có thể nảy sinh trong cán bộ đảng viên những ý kiến khác nhau về một số vấn đề nào đó. Đó là việc bình thường. Việc trao đổi, thảo luận nghiêm túc có tổ chức để tìm ra những chủ trương, giải pháp và kết luận đúng đắn không thể coi là mất đoàn kết. Nhưng sẽ không tốt nếu để cho những ý kiến khác nhau ấy kéo dài làm ảnh hưởng đến sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng. Càng hết sức tránh để những quan điểm khác nhau ấy trở thành nguyên nhân gây chia rẽ, mất đoàn kết trong Đảng.

Để tạo sự thống nhất về đường lối, Đảng phải tập trung vào công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ cả về lý luận lẫn thực tiễn Thường xuyên nâng cao trình độ lý luận chính trị tư tưởng, phương pháp; tạo điều kiện cho cán bộ, đảng viên đi sâu đi sát thực tế sản xuất và đời sống, theo kịp tình hình và nhiệm vụ mới. Rút ngắn chênh lệch về trình độ lý luận, kiến thức và thực tiễn trong

Page 74: 8160

73

Đảng, bảo đảm sự nhất trí cao, trên cơ sở tự giác trên các vấn đề đường lối, chính sách, chủ trương công tác.

Tăng cường sự thống nhất về đường lối trong các cơ quan lãnh đạo, trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, nâng cao cảnh giác nhằm ngăn chặn những âm mưu và hành động chia rẽ ngay từ khi mới được nhen nhóm lên.

Dân chủ trong công tác tư tưởng. Nước ta đang trong công cuộc đổi mới, có rất nhiều vấn đề mới nảy sinh. Do đó, Đảng coi trọng công tác tư tưởng, quán triệt tình hình và nhiệm vụ mới, làm rõ thuận lợi và khó khăn, đánh giá đúng ưu điểm và khuyết điểm, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra bài học; kịp thời ngăn chặn những biểu hiện bi quan, dao động, thiếu tin tưởng và ảnh hưởng của những quan điểm lệch lạc, những nhận thức sai lệch về đường lối, chính sách của Đảng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Kiên quyết đấu tranh với những phần tử cơ hội, bất mãn, thoái hoá, chống lại đường lối của Đảng; đồng thời, tạo ra những diễn đàn cho cán bộ, đảng viên tranh luận, phát biểu, góp ý kiến về công việc, các quyết sách quan trọng của Đảng.

Dân chủ trong công tác cán bộ. Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng. Công tác cán bộ bảo đảm cho đảng có đội ngũ cán bộ đủ sức lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là trong bối cảnh mới, xây dựng một nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Tất cả các khâu của công tác cán bộ (tuyển chọn, đào tạo, quy hoạch, bố trí, sử dụng, đánh giá, quản lý, chính sách cán bộ...) cần được thực hiện nghiêm túc, khoa học. Dân chủ trong công tác cán bộ đòi hỏi thực hiện việc công khai, công bằng trong các mặt của công tác cán bộ, tránh các biểu hiện “khép kín”, “tù mù” trong công tác này. Vì, đó chính là nguyên nhân cho việc chạy chức, chạy quyền, làm giảm chất lượng của đội ngũ cán bộ, ảnh hưởng tới uy tín của Đảng. Phát huy dân chủ, công khai trong công tác cán bộ là tiền đề quan trọng để thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Dân chủ, công khai được thực hiện tốt phản ánh việc chấp hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của Đảng.

Page 75: 8160

74

Dân chủ và công khai trong công tác cán bộ là hai phạm trù khác nhau, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau và phải được thực hiện dựa trên cơ sở chấp hành đúng các quy định của Đảng. Dân chủ tốt là cơ sở và là điều kiện để công khai công tác cán bộ được thực hiện trên thực tế. Công khai là biện pháp quan trọng để thực hiện dân chủ trong công tác cán bộ.

Dân chủ, công khai đúng nguyên tắc trong công tác cán bộ hoàn toàn ngược lại với quan niệm coi công tác cán bộ là công việc bí mật và chỉ lấy ý kiến của một vài người trong phạm vi hẹp làm quyết định của tập thể. Thực hiện dân chủ, công khai trong công tác cán bộ phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời, có cơ chế bảo đảm cho dân chủ, công khai công tác cán bộ được thực hiện.

Tổng kết bài học kinh nghiệm của hơn 20 năm đổi mới và thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, đoàn kết và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ và thực hành dân chủ. Đảng ta không chỉ nhấn mạnh mà còn coi việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc phải gắn với phát huy và thực hiện dân chủ, đề cao pháp luật, kỷ cương trong toàn xã hội; không ngừng hoàn thiện và thực hiện tốt cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Dân chủ và đoàn kết đóng vai trò là động lực quan trọng, là một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới của nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Để giữ gìn sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng, cần đặc biệt coi trọng việc tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, phải nghiêm túc thi hành kỷ luật của Đảng. Quyền lực không bị giám sát sẽ nảy sinh nhiều tiêu cực. Trong hoạt động của Đảng, các tổ chức, cán bộ đảng viên, đặc biệt cán bộ lãnh đạo của Đảng đều phải chịu sự giám sát, chống tệ sùng bái cá nhân bất cứ hình thức nào. Để Đảng giữ được vị trí cầm quyền, mọi đảng viên đều toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, cần tăng cường giám sát dân chủ trong và ngoài Đảng. Vì thế thực hiện dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng có vị trí, vai trò quan trọng công tác xây dựng Đảng, góp phần thực hiện dân chủ, xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng. Để dân chủ trong Đảng được thực hiện nghiêm túc và ngày càng mở rộng thì hoạt động của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cũng phải thực sự dân chủ và có hiệu quả. Thực tiễn đã

Page 76: 8160

75

chứng tỏ, trong hoạt động của Đảng không tránh khỏi nảy sinh những mâu thuẫn, thiếu thống nhất trong cán bộ, đảng viên về nhận thức tư tưởng, bước đi, cách làm. Những mâu thuẫn đó nếu không được kiểm tra, giám sát phát hiện kịp thời sẽ là mầm mống nảy sinh mất đoàn kết. Công tác kiểm tra, giám sát sẽ giúp cấp uỷ, tổ chức đảng phát hiện kịp thời những khuyết điểm, hạn chế, vi phạm dân chủ trong Đảng.

Công tác kiểm tra phải nhằm vào việc chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, việc tuân thủ Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước, việc bảo đảm dân chủ và kỷ luật trong Đảng. Các cấp uỷ Đảng phải trực tiếp và thông qua các ban giúp việc và Uỷ ban kiểm tra mà tiến hành công tác kiểm tra một cách chu đáo, chặt chẽ nhất.

Kỷ luật của Đảng phải công minh, không cho phép đảng viên nào có đặc quyền đặc lợi. Cán bộ giữ chức vụ trọng yếu phạm sai lầm thường gây tác hại lớn, vì thế càng cần phải giữ vững kỷ luật nghiêm minh.

Trong quá trình kiểm tra phải nghiên cứu kỹ càng, tránh chỉ nhìn hiện tượng bên ngoài mà phải đi sâu nắm được bản chất, các kết luận phải căn cứ vào những bằng chứng xác thực. Phải chú ý lắng nghe người phạm kỷ luật hoặc người đại diện cho tổ chức bị thi hành kỷ luật trình bày ý kiến trước khi tập thể tổ chức có thẩm quyền quyết định kỷ luật. Đối với những đảng viên bị thi hành kỷ luật, nhưng sau một thời gian đã thật sự tiến bộ, tổ chức Đảng có trách nhiệm phải xem xét và kết luận về việc sửa chữa ấy; và trong việc sử dụng, cất nhắc, phải coi như kỷ luật đã được xoá bỏ, không định kiến. Trong công tác kiểm tra, giám sát dân chủ được phát huy sẽ bảo đảm thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng, phát huy trách nhiệm của các tổ chức đảng, quyền và trách nhiệm của đảng viên, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Việc thi hành kỷ luật của Đảng cần khách quan, kịp thời, tránh mọi biểu hiện tiêu cực. Nếu phát hiện cán bộ, đảng viên sai phạm thì tuỳ theo mức độ phải kiên quyết xử lý kỷ luật. Song không để cán bộ, đảng viên phải chịu oan trái hoặc bỏ lọt sai phạm do nể nang, bao che hoặc thành kiến vùi dập. Các khiếu nại, tố cáo của đảng viên cần được xem xét nghiêm túc, bảo đảm quyền của đảng viên không bị vi phạm.

Page 77: 8160

76

Phát huy dân chủ trong công tác dân vận của Đảng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là quyền lực của nhân dân, thuộc về nhân dân, do nhân dân tổ chức và thực hiện. Nhân dân là những người chủ thực sự của Nhà nước và xã hội. Nhân dân uỷ quyền cho Nhà nước, cho những người đại diện của mình do mình lựa chọn mà bầu ra, do đó chính nhân dân phải trực tiếp tham gia giám sát và kiểm soát quyền lực, từ những tổ chức thực hiện quyền lực cho đến hành vi của những người cầm quyền. Ý chí của dân phải được thể chế hoá thành luật. Đó là luật pháp dân chủ, quy định rành mạch và thực hiện nghiêm minh mối liên hệ và chế ước lẫn nhau giữa quyền và nghĩa vụ, giữa lợi ích và trách nhiệm. Dân chủ không chỉ khẳng định vị thế của nhân dân là người chủ mà còn được đảm bảo bởi năng lực làm chủ của mỗi người dân, của cộng đồng nhân dân trong xã hội. Có thực hiện và đảm bảo được dân chủ thì mới có điều kiện, tiền đề thực hiện đoàn kết. Mỗi bước tiến của dân chủ sẽ là bước tiến tương ứng của đoàn kết và đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết là tập hợp lực lượng rộng rãi và đông đảo quần chúng vào cuộc đấu tranh vì lợi ích và mục tiêu chung của cách mạng, của dân tộc. Đoàn kết dựa trên sự đồng tâm nhất trí của mọi người, nhờ đó tạo ra sự đồng thuận trong nhận thức và hành động.

Tổng kết bài học kinh nghiệm của hơn 20 năm đổi mới và thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, đoàn kết và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ và thực hành dân chủ. Đảng ta không chỉ nhấn mạnh mà còn coi việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc phải gắn với phát huy và thực hiện dân chủ, đề cao pháp luật, kỷ cương trong toàn xã hội; không ngừng hoàn thiện và thực hiện tốt cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Dân chủ và đoàn kết đóng vai trò là động lực quan trọng, là một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới của nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong quá trình lịch sử cách mạng Việt Nam, trong thời kỳ mới Đảng ta tiếp tục khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Nhân dân là lực lượng quyết định thành công sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại

Page 78: 8160

77

hoá đất nước. Bởi vậy, những mục tiêu quan trọng của công tác dân vận của Đảng là không ngừng tăng cường củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; tăng cường thực hiện dân chủ và đoàn kết toàn dân tộc để tạo thành sức mạnh; khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân, cửa quyền, nhũng nhiễu làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, xây dựng sự đồng thuận trong xã hội, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

2.3. Phương thức thực hành dân chủ trong Đảng

- Dân chủ được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó, dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp là các hình thức cơ bản nhất.

Dân chủ trực tiếp trong Đảng là hình thức dân chủ trong đó đảng viên trực tiếp tham gia một cách bình đẳng vào các quyết định liên quan các quyết sách của Đảng, đến quyền của đảng viên. Những hình thức phổ biến nhất của dân chủ trực tiếp là: tham gia góp ý kiến xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng, bầu cử trực tiếp cấp uỷ, Ban thường vụ cấp uỷ, Bí thư cấp uỷ (ở cơ sở). Dân chủ trực tiếp là phương thức quan trọng để phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy được tính cực, chủ động sáng tạo của từng đảng viên tham gia vào mọi mặt hoạt động của Đảng.

Dân chủ đại diện trong Đảng là hình thức dân chủ, trong đó quyền của người cán bộ, đảng viên tham gia vào các quyết sách của Đảng nhằm tạo ra và duy trì mọi hoạt động của Đảng theo những nguyên tắc tổ chức và những quy định của Đảng, thông qua việc bầu những người đại diện cho mình để tham gia vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên đều có quyền nhất định trong việc bầu ra những người đại biểu xứng đáng thay mặt mình, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mình trong việc bảo vệ các quyền của đảng viên đã được quy định trong Điều lệ Đảng.

Để thực hiện dân chủ đại diện, đảng viên sử dụng một phương pháp trao quyền có tính phổ biến trong chế độ dân chủ, đó là uỷ quyền. Đảng viên thực hiện sự uỷ quyền của mình cho Đại hội Đảng, chi uỷ, các cấp uỷ Đảng, Thường vụ Đảng uỷ, Bí thư cấp uỷ... để quyết định những vấn đề về chủ trương, đường lối, những quyết sách của Đảng nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với đất nước.

Page 79: 8160

78

- Dân chủ trong Đảng được thực hiện thông qua các quy chế bảo đảm phát huy dân chủ.

Vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền luôn gắn với vấn đề Đảng đã thực hiện quy chế hoá những nội hàm của dân chủ như thế nào. Tức là, mỗi chủ trương của Đảng về dân chủ, phải có cơ chế, quy chế đi kèm theo thì mới triển khai được vào trong thực tiễn.

Cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng được một loạt các quy chế nhằm phát huy dân chủ trong Đảng, chẳng hạn:

- Quy chế công khai: Cần tiếp tục hoàn thiện các quy chế, chế độ để thực hiện việc công khai hoá các hoạt động của Đảng, trong đó việc quan trọng hàng đầu là thực hiện công khai hoá kịp thời các đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng để mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân được biết để tổ chức thực hiện có hiệu quả và kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện ấy.

- Quy chế thảo luận dân chủ trong sinh hoạt Đảng: Phải tạo ra không khí thảo luận bình đẳng, khuyến khích đảng viên nói hết ý kiến suy nghĩ của mình, kể cả ý kiến "trái chiều", có quy định bảo vệ đảng viên nói thật mọi suy nghĩ của họ trong sinh hoạt Đảng.

- Quy chế thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình, tự phê bình cũng cần được cụ thể hoá thành các quy định có thể kiểm tra, giám sát được, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc thực hiện các nguyên tắc này trong đời sống của Đảng.

- Quy chế về quyết sách dân chủ: Mọi quyết sách của Đảng đều có sự tham gia rộng rãi của đông đảo đảng viên và tổ chức đảng các cấp, nhằm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, sao cho mỗi quyết sách của Đảng đều có cơ sở quần chúng xã hội rộng rãi, trước hết là quần chúng đảng viên.

- Quy chế bầu cử dân chủ: Làm cho bầu cử trong Đảng thể hiện tốt nhất ý chí, nguyện vọng của đảng viên, bảo đảm bầu ra được người lãnh đạo có đủ tầm trí tuệ và đạo đức, có trách nhiệm với sự nghiệp của Đảng, của nhân dân, thực sự được quần chúng đảng viên tín nhiệm.

- Quy chế tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách: Vừa ngăn chặn được tình trạng chuyên quyền, độc đoán của cá nhân hoặc một nhóm thiểu số người, lại

Page 80: 8160

79

vừa chống lại có hiệu quả thái độ chia rẽ, thiếu thống nhất, bất hợp tác trong công việc, đặc biệt thể hiện trong nhóm cán bộ lãnh đạo.

- Quy chế giám sát dân chủ: Bảo đảm quyền giám sát có hiệu quả của các tổ chức Đảng và đảng viên, để quyền lực của Đảng được sử dụng đúng đắn, thúc đẩy phát triển lành mạnh sự nghiệp chung của Đảng.

2.4. Bản chất của đoàn kết thống nhất trong Đảng

2.4.1. “Đảng kiểu mới” không có bè phái, trường phái, không có các xu hướng chính trị khác nhau

Đảng ta là “Đảng kiểu mới” - có sự thống nhất về chủ trương, đường lối, thể hiện trong Nghị quyết của Đảng. Đảng lãnh đạo đất nước dựa trên các chủ trương, đường lối ấy. Có thể còn ý kiến khác nhau, nhưng khi đã thành Nghị quyết của Đảng thì mọi đảng viên phải chấp hành, nói và làm theo Nghị quyết. Đảng kiểu mới không chấp nhận sự chia rẽ bè phái theo các trường phái quan điểm khác nhau, theo các xu hướng chính trị khác nhau. Nếu đảng viên nào có xu hướng chính trị đối lập, nói và làm trái với chủ trương, đường lối của Đảng sẽ phải rời khỏi hàng ngũ của Đảng, quyết không để những quan điểm khác nhau này len lỏi, ăn sâu vào hàng ngũ của Đảng, gây chia rẽ, mất đoàn kết, làm giảm sức chiến đấu của Đảng.

2.4.2. Các căn cứ của đoàn kết thống nhất trong Đảng

- Đoàn kết, thống nhất về tư tưởng: dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc và của Đảng ta. Lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ đều khẳng định ý nghĩa to lớn của bài học đại đoàn kết. Từ ngày ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế lên tầm cao mới, đặt trên một nền tảng vững chắc. Nền tảng đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là học thuyết khoa học, cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân kết hợp chặt chẽ với truyền thống yêu nước, ý thức cộng đồng của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Di chúc: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái phấn đấu tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác". Thắng lợi của đoàn kết, thống nhất trong Đảng là thắng lợi của công tác xây dựng Đảng được toàn Đảng thường xuyên chăm lo xây dựng cả ba mặt

Page 81: 8160

80

chính trị, tư tưởng và tổ chức theo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng "giữ gìn sự đoàn kết thống nhất như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Có phương pháp đúng đắn để giải quyết vấn đề mất đoàn kết, kiên trì bảo vệ cái đúng và kiên quyết đấu tranh với cái sai, thuyết phục giúp nhau tiến bộ vì lợi ích chung.

- Đoàn kết thống nhất dựa trên nguyên tắc tổ chức của Đảng. Đoàn kết trong Đảng là sự liên kết chặt chẽ thành một khối thống nhất về ý chí và hành động của toàn Đảng trên cơ sở Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và các nguyên tắc tổ chức của Đảng. Trong sinh hoạt, Đảng ta luôn luôn cố gắng phấn đấu giữ vững chế độ tập trung dân chủ mà nội dung cơ bản của nó đã được Điều lệ Đảng xác định cụ thể.

Coi trọng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, trước hết là trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị tạo sự nhất trí cao về xây dựng đường lối và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng.

Đảng không ngừng đấu tranh để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, cụ thể hoá nguyên tắc ấy bằng các chế độ công tác, sinh hoạt nhằm tăng cường thống nhất, khắc phục những biểu hiện gia trưởng, độc đoán, mất dân chủ, tự do chủ nghĩa... Đó là điều kiện tất yếu để tăng cường đoàn kết và sức chiến đấu của Đảng.

- Thống nhất về đường lối là cơ sở để tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Sự thống nhất thể hiện qua quá trình xây dựng, phát triển, cụ thể hoá đường lối một cách đúng đắn; quán triệt đường lối ấy trong thực tiễn; đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện nhận thức lệch lạc và loại trừ mọi âm mưu chống đối nhằm chia rẽ hàng ngũ của Đảng. Không ngừng làm cho đường lối của Đảng được thấm sâu vào đông đảo đảng viên và quần chúng, không chỉ tạo sự nhất trí cao về đường lối chung mà còn tăng cường thống nhất trên những nội dung đường lối, quan điểm thuộc từng lĩnh vực công tác.

Đảng chủ động chỉ ra cho cán bộ, đảng viên những quan điểm đúng đắn và sai trái trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, những luận điệu xuyên tạc của giai cấp thù địch trên mọi lĩnh vực, giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cho các cán bộ cao cấp và trung cấp, chủ động phân biệt được đúng sai trên các vấn đề về đường lối, quan điểm.

Page 82: 8160

81

- Đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn gắn bó với sự đoàn kết toàn dân tộc

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng gần 80 năm qua chứng minh cho sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”47.

Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng có vai trò cực kỳ quan trọng trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân, gắn nhân dân với Đảng, gắn các tầng lớp nhân dân, các dân tộc với nhau thành một khối thống nhất, cùng phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đảng phải là một khối thống nhất về ý chí và hành động, phải thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm, danh dự của dân tộc và thời đại. Nhờ có đoàn kết chặt chẽ một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh đạt từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

- Đoàn kết trong nội bộ Đảng là đoàn kết có tính chiến đấu cao, trên cơ sở dân chủ.

Đoàn kết thống nhất trong Đảng không phải thống nhất một chiều, mà trên cơ sở đấu tranh phê bình và tự phê bình, không dĩ hoà vi quý; thống nhất trên nền tảng dân chủ, tranh luận, trao đổi thẳng thắn mang tính xây dựng, không loại bỏ sự khác biệt. Sự tương tác giữa các ý kiến khác nhau nhằm đi đến chân lý và tạo ra sự đồng thuận. Chấp nhận, lắng nghe, bảo lưu các ý kiến khác nhau, nhưng khi đã thành Nghị quyết rồi thì phải tuân theo, thống nhất trong hành động, không được phép nói khác, hành động khác.

Trong một cấp uỷ, một đảng bộ có ý kiến khác nhau là việc bình thường. Tranh luận, đấu tranh với nhau, không phải là mất đoàn kết, đối lập và chống đối nhau. Có bàn cãi, tranh luận mới phát huy được trí tuệ tập thể, mới khẳng định được chân lý, tránh được những cách nhìn phiến diện, chủ quan. Thực tiễn chứng minh, để có đường lối, chủ trương đúng đắn, nhất là ở những bước ngoặt của cách mạng, Đảng ta thực hiện thảo luận dân chủ, thẳng thắn, làm rõ 47 Văn kiện Đại hội Đảng X, Nxb.CTQG, H,2006, tr.116.

Page 83: 8160

82

đúng - sai, đấu tranh và chờ đợi mới đạt đến sự thống nhất. Đó là cốt lõi của nguyên tắc tập trung dân chủ, thể hiện bản lĩnh chính trị, bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng ta.

2.4.3. Mối quan hệ giữa dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng

Dân chủ và đoàn kết thống nhất là biểu hiện của tính chất hai mặt của một vấn đề, có mối quan hệ biện chứng, chúng vừa là cơ sở tồn tại của nhau, vừa có vai trò làm tiền đề cho nhau, tạo điều kiện cho nhau tồn tại và phát triển. Trong đó, dân chủ giữ vai trò quyết định, còn đoàn kết thống nhất là sự biểu hiện kết quả của dân chủ. Tính chất, mức độ, phạm vi, hình thức dân chủ trong Đảng quyết định chất lượng của đoàn kết thống nhất trong Đảng. Dân chủ đến đâu, đoàn kết thống nhất đến đó. Dân chủ thực sự thì đoàn kết thống nhất thực sự. Dân chủ hình thức thì đoàn kết thống nhất hình thức. Mất dân chủ thì không có đoàn kết thống nhất.

Nếu mất dân chủ, hoặc dân chủ hình thức, không thực chất, không kích thích tính tích cực của đảng viên, thì đoàn kết thống nhất chỉ là hình thức, đoàn kết xuôi chiều; hoặc có trường hợp đoàn kết nhất thời vì mục đích đạt lợi ích của một nhóm, không vì sự phát triển chung của cả tổ chức và lớn hơn là sự phát triển của dân tộc. Vì vậy, có phát huy dân chủ thì mới có đoàn kết thống nhất, và ngược lại , không có đoàn kết thống nhất thì cũng không thể có dân chủ.

Dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời và tác động thúc đẩy lẫn nhau. Hồ Chí Minh đã nêu bật mối quan hệ tương hỗ này. “Trong Đảng, phải thực hành dân chủ rộng rãi, để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”48. Mặt khác, chỉ có đoàn kết thống nhất cao mới có dân chủ thật sự.

2.4.4. Vai trò của dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã luôn quan tâm phát huy dân chủ trong Đảng, hình thành nên tập thể đoàn kết nhất trí, có sức chiến đấu cao, dưới sự giúp đỡ của nhân dân, khắc phục mọi khó khăn để giành được thắng lợi có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đấu tranh giải phóng thống nhất đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, càng cần phát huy dân chủ trong Đảng nhằm tạo động lực cho toàn Đảng, toàn dân tích cực tham gia, đóng góp cho công cuộc đổi mới đất nước. 48 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb.Sự thật, H,1989, tr.834.

Page 84: 8160

83

Dân chủ và đoàn kết trong Đảng là sức mạnh của Đảng

Từ ngày thành lập đến nay, trải qua 4/5 thế kỷ, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thể hiện xứng đáng vai trò lãnh đạo, là người tổ chức và quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Có được những thành tựu đó là do Đảng ta luôn trung thành và phấn đấu không mệt mỏi vì lợi ích của dân tộc; luôn chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Nguồn sức mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó thực hiện và phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng có vai trò hết sức quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân"49 “có phát huy dân chủ cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”50 Về đoàn kết, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết!; Thành công! Thành công! Đại thành công! ”. Người còn căn dặn toàn Đảng và toàn dân, toàn quân ta “Đoàn kết là một truyền thống quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí trong Đảng, từ Trung ương đến chi bộ, phải giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Dân chủ và đoàn kết thống nhất là thuộc tính cơ bản, đặc trưng tiêu biểu của một Đảng cộng sản chân chính. Dân chủ, đoàn kết thống nhất còn là phương thức chủ yếu trong tổ chức và hoạt động của Đảng, là điều kiện thiết yếu bảo đảm cho Đảng vững mạnh và phát huy trí tuệ, năng lực sáng tạo và sức chiến đấu. Dân chủ và đoàn kết thống nhất là nguồn sức mạnh, nhân tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để Đảng làm tốt vai trò lãnh đạo của mình và xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo quá trình dân chủ hoá xã hội và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Dân chủ trong Đảng phải là bản chất của một Đảng kiểu mới

Dân chủ trong một Đảng kiểu mới khác với dân chủ kiểu "câu lạc bộ" (tự do chuyển dịch ra - vào, thích vào thì vào, thích ra thì ra, không có một quy định ràng buộc chặt chẽ; tự do trình bày chính kiến, thảo luận, tranh luận,

49 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb.Sự thật, H.1987, tr.548. 50 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb.Sự thật, H.1989, tr.566.

Page 85: 8160

84

không phụ thuộc vào những kết luận của số đông...). Dân chủ trong Đảng có tổ chức (không phải là phường, hội), có tính nguyên tắc, dựa trên nguyên tắc Đảng, được quy định cụ thể trong Điều lệ Đảng (nguyên tắc tổ chức; nguyên tắc sinh hoạt; nguyên tắc bầu cử...). Mọi đảng viên đều tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Đảng, chấp hành các quy định của Đảng và phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Trong Đảng, mọi quyền dân chủ của đảng viên được bảo đảm, thể hiện trong Điều lệ Đảng. Chẳng hạn như, mọi đảng viên đều có trách nhiệm đóng góp ý kiến xây dựng các quyết sách của Đảng. Nhưng khi đã thành Nghị quyết thì đảng viên phải chấp hành không chỉ trong ý thức mà phải thể hiện cả trong hành động thực tế.

Trong chế độ một Đảng duy nhất cầm quyền, dễ dẫn tới độc tài, quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân.. làm mất sức chiến đấu của Đảng. Chính vì thế, phát huy dân chủ trong Đảng là một yêu cầu cấp thiết, là bản chất của một Đảng kiểu mới, nhằm ngăn chặn những căn bệnh dễ mắc phải và phát huy mạnh mẽ tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đảng viên, để Đảng thực sự là tấm gương về trí tuệ, đạo đức, văn minh, đủ sức lãnh đạo đất nước phát triển, phồn vinh.

- Phát huy dân chủ trong Đảng là thể hiện tính chất và tôn chỉ của Đảng

Ngay từ khi ra đời (1848), những người cộng sản đã xác nhận trong tuyên ngôn của mình: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các Đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy dân chủ”51. Rõ ràng, dân chủ đã trở thành cái “cốt vật chất” bên trong, là mục tiêu, lý tưởng, là khuôn mẫu, mực thước của Đảng Cộng sản. Để thực hiện mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công và sự tha hoá, xây dựng một xã hội công bằng, tự do, dân chủ và văn minh, không ai khác, chính Đảng Cộng sản phải nêu gương sáng và đi tiên phong trong cuộc đấu tranh này. Tấm gương sáng về dân chủ trong Đảng, không chỉ được thể hiện bằng những cương lĩnh, mục tiêu, nội dung, khẩu hiệu dân chủ vô sản đã được vạch ra, mà đã trở thành những chương trình hành động cách mạng hàng ngày của những các Đảng Cộng sản.

Tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và xây dựng Đảng kiểu mới của chủ

51 C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 4, Nxb.CTQG, H,1995, tr.626.

Page 86: 8160

85

nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, Đảng ta mà người sáng lập là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức đúng: “Có phát huy dân chủ đến cao độ mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”52; và thường xuyên quan tâm “mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ ý kiến của mình”53. Tư tưởng và hành động thống nhất đó cho thấy, chỉ có một đảng, trong nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, tôn trọng và thực hành dân chủ trong mọi hoạt động mới có điều kiện lãnh đạo và xây dựng được một nền dân chủ thực sự của đất nước.

Nhờ luôn thực hành dân chủ rộng rãi, tôn trọng và phát huy trí tuệ của đảng viên mà trong suốt các cuộc trường trinh của dân tộc, Đảng luôn là tấm gương sáng về thực hành dân chủ trong xã hội, được nhân dân thừa nhận, tin theo, đem hết khả năng, sức mạnh của mình cùng toàn Đảng tiến hành thành công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thiết lập, xây dựng và bảo vệ vững chắc nền dân chủ cộng hoà, bảo đảm mọi quyền bính của đất nước đều thuộc về dân, dân là chủ và dân làm chủ. Đồng thời, làm cho nhân dân ngày càng nhận thức, hiểu biết sâu sắc hơn về dân chủ, biết phát huy dân chủ và biết hưởng thành quả do mình sáng tạo ra.

- Phát huy dân chủ trong Đảng là con đường tất yếu để tăng cường, hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng

Đảng muốn thực hiện nhiệm vụ lịch sử và mục tiêu phấn đấu thì phải kiên trì và phát huy dân chủ trong Đảng. Chỉ như vậy mới có thể phát huy đầy đủ tính tích cực, đồng tâm hiệp lực, đoàn kết nhất trí của toàn Đảng. Trong Đảng, toàn thể đảng viên là chủ thể tổ chức và sự nghiệp của đảng, phát huy tối đa tính tích cực, tính sáng tạo, tính chủ động của đảng viên là ngọn nguồn sức mạnh để sự nghiệp của Đảng giành được thắng lợi. Do vậy, cần phải thiết thực bảo đảm quyền lợi dân chủ của đảng viên, thực hiện bầu cử dân chủ, quyết sách, giám sát dân chủ, tăng cường sự hiểu biết và tham gia các công việc đảng vụ của đảng viên. Những vấn đề quan trọng trong công tác tổ chức cán bộ đều phải được toàn thể đảng viên thảo luận và trao đổi ý kiến.

Công tác lãnh đạo của Đảng đúng sai, có hiệu quả hay không, phần lớn quyết định bởi sự phát huy dân chủ trong Đảng. Phát huy có hiệu quả dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng đắn quyết sách dân chủ sẽ bảo đảm tốt hơn sự lãnh 52 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb.CTQG, H,2000, tr.593. 53 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb.CTQG, H,2000, tr.118.

Page 87: 8160

86

đạo của Đảng; thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ là cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo về tổ chức của Đảng.

Không ngừng mở rộng dân chủ trong Đảng là bước đi tất yếu củng cố và phát triển Đảng, là vũ khí quan trọng để vượt qua mọi trở ngại giành thắng lợi.

- Phát huy dân chủ trong Đảng là bảo đảm quan trọng để tăng cường đoàn kết, nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Sinh hoạt dân chủ trong Đảng lành mạnh sẽ làm hài hoà các mối quan hệ trong Đảng, xử lý đúng đắn những mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, và tăng cường đoàn kết trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng có ý nghĩa quyết định đến sự tồn vong của Đảng, là hạt nhân và mấu chốt đoàn kết các dân tộc trong toàn quốc. Sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng chỉ có thể hình thành trên nguyên tắc và cơ sở dân chủ trong Đảng; chỉ có trên nguyên tắc và cơ sở này mới có thể bảo đảm tính tự giác, phối hợp nhất trí của toàn thể đảng viên về tư tưởng, chính trị, tổ chức và hành động.

- Phát huy dân chủ trong Đảng là đòi hỏi nội tại thúc đẩy dân chủ ngoài xã hội

Trên quan điểm duy vật lịch sử, luận về trình độ phát triển các quyền con người trong xã hội, C. Mác đã đi đến nhận định: “Quyền không bao giờ cao hơn chế độ kinh tế; trình độ phát triển của dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế, văn hoá, phụ thuộc vào bản chất của chế độ dân chủ và quan hệ xã hội”. Không nằm ngoài quy luật đó, trình độ phát triển dân chủ trong Đảng cũng như trong xã hội luôn phụ thuộc vào mức độ phát triển của nền kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của nước ta. Mức độ phát triển của cơ sở hạ tầng đến đâu quyết định trình độ nhận thức và tổ chức thực hành dân chủ của kiến trúc thượng tầng đến đó. Nhưng với bản chất cách mạng, trí tuệ và văn minh, cùng một nền tảng tư tưởng mác-xít tiên tiến, Đảng ta và đại bộ phận các đảng viên ưu tú tất yếu nhận thức được các nguyên tắc, nội dung, hình thức phát huy dân chủ trong Đảng cùng con đường, biện pháp, cách thức, bước đi căn bản để thực hiện dân chủ trong xã hội.

Trên cơ sở lý luận đó, kết hợp với thực tiễn sinh động có thể thấy rõ vai trò dân chủ trong Đảng là chuẩn mực, thước đo trình độ phát triển dân chủ của xã hội và đất nước ta. Quá trình lãnh đạo cách mạng đã cho thấy, tuy ra đời ở một nước có nền kinh tế lạc hậu, phụ thuộc, trình độ dân trí của nhân dân và cả một bộ phận đảng viên còn rất thấp, nhưng với truyền thống văn hiến ngàn

Page 88: 8160

87

năm của một dân tộc luôn đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, được một hệ tư tưởng mác-xít chân chính soi đường, cộng với tinh thần nhiệt huyết cách mạng, luôn đề cao tư tưởng “trọng dân”, “dân là gốc”, nên trong mọi hoàn cảnh, dù là chiến tranh, gian khổ ác liệt nhất, Đảng ta vẫn phát huy được dân chủ trong Đảng, chỉ đường, mở lối dẫn dắt nhân dân ta tiến lên, gặt hái hết thành tựu dân chủ này đến thành tựu khác. Càng trong những lúc khó khăn, nhất là khi kẻ thù lợi dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá, Đảng ta càng đề cao, phát huy dân chủ nội bộ, thực hành nghiêm túc tự phê bình và phê bình, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, những tư tưởng và hành động quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, khơi dậy mọi tiềm năng, trí sáng tạo và tinh thần phụ trách của đảng viên, cán bộ, đưa cách mạng nước ta vững bước tiến lên trên con đường XHCN, tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Sự vận động, biến đổi tăng lên hay giảm đi của dân chủ trong Đảng không phải là cái gì khác hơn, chính là thể hiện vai trò thước đo trình độ phát triển dân chủ trong xã hội, đất nước ta. Song cần phải thấy, tỷ lệ biến thiên về nhịp điệu dân chủ trong Đảng không đồng nhất với tỷ lệ biến thiên về nhịp điệu dân chủ trong xã hội theo những quy luật tự nhiên, mà chúng tuân theo những quy luật xã hội, sự cộng hưởng, lan truyền bởi những tác động to lớn của xã hội khi Đảng là trung tâm, hạt nhân lãnh đạo hệ thống đó. Có khi chỉ cần chấn chỉnh một vài mắt khâu trọng yếu trong thực hành dân chủ trong Đảng sẽ tạo nên sự hưởng ứng nhiệt thành, phát huy dân chủ, tuân theo pháp luật của cả bộ máy công quyền, hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân. Song có khi chỉ là sự buông lỏng, xem nhẹ dân chủ ở một vài mắt khâu nhạy cảm nhất trong Đảng sẽ dẫn đến sự rối loạn trong toàn bộ hệ thống chính trị, sự bạo loạn trong xã hội, tăng thêm những nguy cơ tự đổ vỡ.

Thước đo trên cho thấy luận điểm sau đây của V.I. Lênin khi xác định vai trò của dân chủ trong Đảng, cũng như việc cảnh báo về việc kém phát huy vai trò này còn có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc cho các Đảng Cộng sản cầm quyền: “Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa! Nếu các anh, những người Bôn-sê-vích, các anh tách khỏi dân chủ và ngay cả khi làm như vậy, các anh lại trắng trợn nói rằng các anh cao hơn cả tự do, cả bình đẳng, cả quyết định của đa số, thì như vậy các anh đừng lấy làm lạ và đừng có than phiền rằng

Page 89: 8160

88

chúng tôi coi các anh là những kẻ chiếm đoạt, những kẻ cường bạo”54.

- Dân chủ trong Đảng là động lực thúc đẩy, mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội

Vai trò này trước hết thể hiện ở mục đích, lợi ích của Đảng và nhân dân là thống nhất, hoàn toàn không có sự tách biệt. Trong suốt quá trình tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ: “Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích nào khác”; mục đích của Đảng là: “làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”. Chính việc nhận thức được sự thống nhất về mục đích, lợi ích đó mà những đảng viên chân chính và toàn dân ta đã một lòng một dạ tin theo Đảng, đem hết khả năng và sức mạnh, tinh thần và vật chất của mình đấu tranh cho các mục tiêu dân chủ của cách mạng. Do vậy, để giữ vững và phát huy tốt vai trò này, hơn lúc nào hết mỗi đảng viên phải thấm nhuần và thực hiện tốt lợi căn dặn của Hồ Chí Minh: “Lợi ích của người đảng viên phải ở trong chứ không thể hiện ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp. Nếu rời khỏi Đảng, rời khỏi giai cấp, thì cá nhân dù có tài giỏi mấy, cũng nhất định không làm nên việc gì”.

Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, dân chủ trong Đảng là yếu tố quyết định dân chủ ngoài xã hội, nó ảnh hưởng, chi phối dân chủ ngoài xã hội. Dân chủ trong Đảng là điều kiện, là tiền đề để phát huy dân chủ ngoài xã hội. Với tư cách là một thiết chế, dân chủ trong Đảng được xem là một mô hình, một phương thức có hiệu quả nhất để phát huy sức mạnh chính trị của toàn dân trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị dân chủ. Thiết chế dân chủ trong Đảng có đủ mạnh, có hiệu quả thì mới tạo nên quyền lực mạnh, đủ sức lãnh đạo hệ thống chính trị, đủ sức bảo đảm các quyền dân chủ trên thực tế của nhân dân, mới khơi nguồn cảm hứng và phát huy hết sức mạnh của toàn dân tộc trên con đường tiến tới các mục tiêu dân chủ. Từ góc độ là một hình thức tổ chức sinh hoạt, dân chủ trong Đảng cũng được xem là một nếp sống, thói quen, tập quán, giá trị xã hội tốt đẹp nhất đã và đang thu hút, thúc đẩy sức mạnh của toàn dân xây dựng nên lối sống mới, phát huy dân chủ - tôn trọng kỷ cương, tăng cường pháp chế.

Dân chủ trong Đảng có sức lan tỏa ngoài xã hội. Có dân chủ trong Đảng

54 V.I.Lênin toàn tập, tập 38, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva,1978, tr.414.

Page 90: 8160

89

mới có lòng tin của nhân dân về dân chủ. Đoàn kết trong Đảng là cơ sở để phát huy đoàn kết ngoài xã hội. Đảng phải là thật sự là tấm gương về dân chủ và đoàn kết.

Phát huy dân chủ trong Đảng luôn gắn với việc tổng kết khoa học kinh nghiệm lịch sử của Đảng. Lịch sử Đảng từ khi thành lập đã chứng minh, khi nào dân chủ trong Đảng thực hiện tốt, phát huy đầy đủ, Đảng chúng ta sẽ lớn mạnh, sẽ có sức chiến đấu; khi nào dân chủ trong Đảng suy yếu và bị phá hoại thì Đảng chúng ta sẽ phạm sai lầm, sự nghiệp của Đảng sẽ bị tổn hại.

Theo dõi sự hưng suy của các chính đảng trên thế giới cho thấy, tiền đồ hay vận mệnh cuối cùng của một chính quyền hay một chính đảng quyết định bởi nhân tâm, không có được sự ủng hộ của quần chúng thì ắt sẽ thất bại.

Tóm lại, trong mọi giai đoạn cách mạng, dân chủ trong Đảng luôn có vai trò quyết định đến việc xây dựng và phát huy dân chủ trong xã hội và đất nước ta. “Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn”55 như Hồ Chí Minh đã từng tổng kết. Để đưa sự nghiệp đổi mới đến thành công, biến các mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thành hiện thực cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ do Đại hội Đảng X đã đặt ra: “Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật; thường xuyên tự phê bình và phê bình, nói thẳng, nói thật; giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đấu tranh kiên quyết đối với những phần tử cơ hội”56 .

III. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI, QUY ĐỊNH VIỆC THỰC HÀNH DÂN CHỦ VÀ ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG

3.1. Những yếu tố khách quan điển hình

Có nhiều yếu tố khách quan quy định chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tựu trung lại có những yếu tố khách quan điển hình sau đây:

Một là, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và đoàn kết của Đảng Cộng sản là cơ sở lý luận khoa học của việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Thực tiễn cho thấy muốn thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, các chủ thể phải nắm vững và vận 55 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb.CTQG, H,2000, tr.240. 56 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, H,2006, tr.276.

Page 91: 8160

90

dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Lý luận đó được Lê nin xác định là kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Thực tế lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, sự tan rã của một số Đảng Cộng sản cầm quyền cho thấy, vận mệnh của một Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào và được quyết định bởi việc nhận thức, thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất của Đảng Cộng sản cầm quyền. Nếu nội bộ của Đảng Cộng sản cầm quyền, trước hết là trong ban lãnh đạo cấp cao phân chia thành các phe nhóm, sẽ kéo theo sự phân hoá trong các tổ chức đảng cấp dưới, phân hoá giai cấp công nhân và nhân dân lao động thành những lực lượng riêng rẽ. Đó là những kẽ hở để kẻ thù phá hoại sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Suốt trong một thời gian dài, ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa và kể cả ở Việt Nam, vấn đề dân chủ được hiểu và thực hiện chưa đúng theo tư tưởng của các nhà kinh điển về dân chủ và đoàn kết cũng như mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ luật, dân chủ với tập trung. Trên thực tế đã nhấn mạnh một chiều đến tập trung và coi nhẹ việc thực hành dân chủ, dẫn tới vi phạm dân chủ trong Đảng. Những căn bệnh gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân đã dẫn đến dân chủ trong Đảng chỉ là hình thức. Phát hiện ra những căn bệnh nguy hiểm đó, các Đảng Cộng sản đã đề ra một số chủ trương biện pháp để mở rộng dân chủ xây dựng sự đoàn kết thống nhất. Nhưng từ chỗ chống tập trung quan liêu độc đoán chuyên quyền, ở nhiều Đảng Cộng sản đã lại rơi vào thái cực đề cao một chiều cực đoan vấn đề dân chủ, đã biến đảng thành “những câu lạc bộ tranh cãi” dẫn đến sự hỗn loạn, tan rã về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Trong giai đoạn hiện nay khi mà các thế lực thù địch đang tập trung mọi thủ đoạn phá hoại xuyên tạc vấn đề dân chủ và đoàn kết thống nhất của Đảng Cộng sản thì việc nắm vững và vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng Cộng sản càng có vai trò đặc biệt quan trọng.

Hai là, đặc điểm lịch sử, văn hoá, truyền thống dân tộc. Đây là đặc điểm không thể không nghiên cứu đặc điểm lịch sử, văn hoá, truyền thống dân tộc. Bởi lẽ, việc nhận thức cũng như thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng lại phụ thuộc vào cán bộ, đảng viên của từng Đảng Cộng sản ở mỗi

Page 92: 8160

91

nước. Những người cộng sản Việt Nam là con đẻ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam, mang trong mình những giá trị văn hoá, truyền thống của dân tộc. Đoàn kết, yêu nước, thương nòi, sống hoà thuận, thuỷ chung, lao động cần cù sáng tạo, đấu tranh anh dũng kiên cường bất khuất là những giá trị văn hoá, truyền thống được hun đúc trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Tuy nền văn minh nông nghiệp ở nước ta đã phát triển nhưng tính chất của nó vẫn là nông nghiệp cổ truyền, dựa trên nền tảng sản xuất thủ công cá thể, biểu thị ở tính bảo thủ, chậm tiến và trì trệ. Ra đời ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, vì vậy những tàn dư dấu vết thói quen của người sản xuất nhỏ trong ý thức, hành vi của người cộng sản Việt Nam là một thực tế. Trong nền văn minh lúa nước, người nông dân nước ta thường xuất hiện như một thành viên làng xã chứ chưa phải như một cá thể định hình. Tình cảm cộng đồng, “lệ làng” đã lấn át ý thức cá nhân, chủ thể bị hoà tan, chìm lấp bởi những hương ước. Đây chính là những thiếu hụt về ý thức dân chủ cần tính đến khi thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Một trở lực lớn của việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng là những tàn dư của tư tưởng phong kiến trong ý thức, hành vi của cán bộ, đảng viên. Chế độ phong kiến đã tồn tại ở nước ta hàng nghìn năm và bị xoá bỏ với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tuy có lúc thăng trầm, nhưng các triều đại phong kiến Việt Nam đều chung một ý chí xây dựng quốc gia dân tộc độc lập, thống nhất. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ở thời kỳ chế độ phong kiến với thắng lợi các cuộc kháng chiến chống xâm lược, chinh phục thiên nhiên, đắp đê phòng lụt, các thành tựu về văn hoá, quản lý xã hội đã khẳng định những đóng góp to lớn của giai cấp phong kiến Việt Nam trong tiến trình lịch sử phát triển của dân tộc. Tuy nhiên do hạn chế về thế giới quan và do lợi ích giai cấp chi phối, hệ tư tưởng phong kiến mà hạt nhân là những quan điểm Nho giáo về chính trị - xã hội, đạo đức, giáo dục…. Bên cạnh những hạt nhân hợp lý tiến bộ, hệ tư tưởng phong kiến cũng đã bộc lộ những hạn chế cản trở sự phát triển của xã hội. Nhà nước phong kiến là nhà nước quân chủ. Những biểu hiện của tư tưởng phong kiến được thể hiện ở quan điểm tư tưởng coi khinh lao động, địa vị, công thần thứ bậc, đầu óc gia trưởng, làm quan phát tài. Đó chính là những kẻ thù của dân chủ và đoàn kết thống nhất. Sự tồn tại hàng nghìn năm của chế độ phong tiến

Page 93: 8160

92

với những luật lệ, phép tắc hà khắc, không dân chủ đã tạo nên lối tư duy, nếp nghĩ cách làm thụ động, thừa hành. Thực tiễn cho thấy, do ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến nên có một số cán bộ, đảng viên mắc bệnh thu vén cá nhân, lợi dụng chức vụ để tham ô, hối lộ làm giàu bất chính; bệnh địa vị, kèn cựa, tranh giành địa vị với người khác không muốn người khác hơn mình về chức vụ, địa vị, tiền lương, từ đó đi dèm pha kích bác nói xấu sau lưng. Quan hệ đối xử mang theo quan hệ đẳng cấp, thứ bậc, cục bộ, bản vị, “một người làm quan cả họ được nhờ”.

Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiều yếu tố hiện đại, tuy nhiên phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ. Những cán bộ, đảng viên của Đảng mặc dù là những con người ưu tú trong giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động, nhưng ở trong một môi trường mà ở đó những tàn dư của tư tưởng phong kiến và thói quen của người sản xuất nhỏ chưa được khắc phục triệt để cho nên lối tư duy, nếp nghĩ, thói quen làm việc của người sản xuất nhỏ, tàn dư của tư tưởng phong kiến in đậm trong ý thức, hành vi là điều dễ hiểu.

Ba là, tình hình nhiệm vụ trong các thời kỳ cách mạng là một nhân tố khách quan điển hình quy định chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Dân chủ và đoàn kết thống nhất là vấn đề thuộc về bản chất của Đảng và phải luôn được thể hiện trong mọi hoạt động lãnh đạo và xây dựng Đảng. Tuy nhiên nội dung, hình thức thể hiện của nó không phải là bất biến mà luôn bị chi phối quy định bởi hoàn cảnh điều kiện cụ thể. Bởi lẽ, thực tiễn nhiệm vụ cách mạng luôn vận động biến đổi không ngừng. Nhìn lại lịch sử, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận về dân chủ và đoàn kết thống nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin để xác định nội dung hình thức, cơ chế thực hiện phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng.

Khi chưa giành được chính quyền trong hoàn cảnh phải tuyệt đối giữ bí mật, tổ chức Đảng và các cán bộ, đảng viên của Đảng bị kẻ thù truy lùng, khủng bố một cách gắt gao. Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn đó, Đảng đều đặc biệt coi trọng vấn đề dân chủ, thực hiện chế độ đại hội, bầu cử những cơ quan lãnh đạo của Đảng; quy định các đảng viên phải tham gia sinh hoạt Đảng. Do điều kiện hoạt động bí mật và chiến tranh, Đảng luôn giữ vững sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời luôn đòi hỏi các cán bộ, đảng

Page 94: 8160

93

viên của Đảng trên từng cương vị công tác, trong từng nhiệm vụ cụ thể của mình phải rất chủ động sáng tạo, linh hoạt chứ không thể thụ động ngồi chờ lệnh cấp trên. Chính nhờ thực hiện được dân chủ và đoàn kết thống nhất, Đảng ta vẫn phát huy được trí tuệ của cán bộ, đảng viên đề ra đường lối đúng đắn sáng tạo lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, đấu tranh anh dũng kiên cường trong sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Khi trở thành Đảng cầm quyền, thoạt nhìn, tưởng như vấn đề thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng có nhiều thuận lợi hơn. Nhưng thực tiễn cho thấy không phải như vậy. Khi trở thành Đảng cầm quyền, những hạn chế khách quan trong việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng ở thời kỳ hoạt động bí mật được khắc phục. Trong điều kiện đất nước có hoà bình, việc thực hiện dân chủ thể hiện trong sinh hoạt Đảng, trong các hình thức dân chủ trực tiếp và gián tiếp, trong chế độ bầu cử, báo cáo thảo luận biểu quyết nắm tình hình, tự phê bình và phê bình được thực hiện công khai.

Tuy nhiên trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều mối quan hệ phức tạp giữa tổ chức và tổ chức, giữa cá nhân và cá nhân, giữa phạm vi lãnh đạo của các cấp đòi hỏi phải xác định chính xác nội dung, hình thức, biện pháp cơ chế thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất một cách đúng đắn. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, những cán bộ, đảng viên của Đảng thường xuyên phải đối mặt với những căn bệnh về tham nhũng, quan liêu, tham ô, hối lộ, cửa quyền, chủ nghĩa thăng quan phát tài… mà Lê nin và Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo. Cùng với những yếu tố đó là những âm mưu phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng của các thế lực thù địch.

Trên đây là những yếu tố khách quan điển hình quy định chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Cũng còn có những yếu tố khách quan khác nữa, vì vậy, khi xác định những yếu tố khách quan điển hình quy định, chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng phải quán triệt quan điểm khách quan, toàn diện lịch sử cụ thể, trong những điều kiện không gian và thời gian xác định. Bởi lẽ trong một phạm vi, hoàn cảnh nhất định có nhiều nhân tố khách quan, nhiều mối liên hệ, nhiều khuynh hướng tác động chi phối đến việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Do đó, phải biết chọn lọc tìm ra những nhân tố khách quan điển hình nhất quy định chi phối đến khuynh hướng, khả năng thực hành dân

Page 95: 8160

94

chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ở đây, vai trò của nhân tố chủ quan giữ vị trí hết sức quan trọng.

3.2. Những yếu tố chủ quan điển hình

Đảng là chủ thể của quá trình thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất. Chính vì vậy, nhân tố chủ quan quy định chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất là toàn Đảng, các tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên của Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Với tư cách là chủ thể của việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất, Đảng phải có tư duy lý luận cao, phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và đoàn kết thống nhất của Đảng Cộng sản; phát hiện và giải quyết kịp thời có hiệu quả những vấn đề do thực tiễn dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng đặt ra; trên cơ sở đó đề ra nội dung, hình thức, biện pháp, cơ chế thực hiện phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và tình hình nhiệm vụ cách mạng và kiên quyết tổ chức thực hiện nó.

Một là, tính đúng đắn khoa học của việc xác định đường lối chủ trương nội dung, hình thức, cơ chế biện pháp thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đây là yếu tố đóng vai trò tiền đề định hướng cho việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ, sự thống nhất về nhận thức, hiệu quả của việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng có được thể hiện theo đúng ý nghĩa của nó hay không phải bắt nguồn đầu tiên từ việc xác định đúng đường lối chính trị, nội dung, hình thức, biện pháp, cơ chế thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Vì vậy, sự chính xác khoa học của nội dung, biện pháp, hình thức, cơ chế thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất là yếu tố chủ quan quan trọng quy định chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đảng phải quan tâm xây dựng một đường lối chính sách đúng, cơ chế tổ chức hợp lý, quy chế làm việc rõ ràng, phong cách làm việc dân chủ, đề phòng và kiên quyết chống bệnh quan liêu gia trưởng. Kinh nghiệm cho thấy, ở đâu và lúc nào các vấn đề đó không được xác định một cách đúng đắn, thì ở nơi đó lúc đó thiếu sự thống nhất về tư tưởng và tổ chức. Cơ chế thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất đúng đắn bảo đảm cho bộ máy tổ chức được vận hành thống nhất. Ngược lại, cơ chế không chính xác, thiếu khoa học sẽ tạo nên những kẽ hở cho căn bệnh quan liêu, gia trưởng, cá nhân chủ nghĩa lợi dụng, gây nên tình trạng mất dân chủ và đoàn kết trong tổ chức đảng.

Page 96: 8160

95

Thực tiễn sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa luôn đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ cần có lời giải đáp. Do trình độ nhận thức và năng lực trí tuệ của các cán bộ, đảng viên có những giới hạn nhất định, nên không tránh khỏi có những các ý kiến khác nhau ở trong Đảng. Vì vậy, việc xác định nội dung hình thức, biện pháp cơ chế thực hành dân chủ phải hướng vào cách thức giải quyết các ý kiến, không để cho những ý kiến khác nhau trở thành nguồn gốc tư tưởng của của tình trạng mất dân chủ gây mất đoàn kết dẫn đến chia rẽ về tổ chức.

Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên của Đảng hàng ngày, hàng giờ đối mặt với những căn bệnh quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, tham nhũng hối lộ, đặc quyền, đặc lợi, cá nhân chủ nghĩa. Vì vậy cần đề phòng tình trạng đặc quyền, đặc lợi về điều kiện sinh hoạt gây nên tình trạng bất bình đẳng về lợi ích trong Đảng. Điều này đã được Ph.Ăngghen chỉ rõ: Ở đâu không có sự thống nhất về lợi ích chung thì ở đó không có sự thống nhất về mục đích và càng không thể có sự thống nhất về hành động”57. Thực tiễn cho thấy, sự bất bình đẳng về lợi ích, sự phân hoá thu nhập giữa các cán bộ, đảng viên do tình trạng đặc quyền, đặc lợi và chế độ đãi ngộ không đúng thì sẽ dẫn đến phá vỡ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và việc thực hành dân chủ chỉ là hình thức. Thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng còn phải đặc biệt coi trọng đấu tranh chống bệnh cá nhân chủ nghĩa, kèn cựa, địa vị, cơ hội, bản vị, bè phái. Bởi vì, nếu để tình trạng đó tồn tại trong Đảng thì sớm muộn sẽ gây nên mất dân chủ và đoàn kết. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm của Đảng. Vì nó dẫn tới mất dân chủ, mất đoàn kết, lỏng lẻo rệu rã về tổ chức kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.Thực tiễn cho thấy, tình trạng mất dân chủ và đoàn kết nội bộ suy cho cùng là do chủ nghĩa cá nhân gây nên. Biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân rất đa dạng: Công thần, kèn cựa, địa vị, tự cao tự đại, coi thường tập thể, tham ô hối lộ, thu vén cá nhân, độc đoán chuyên quyền, cục bộ, bè phái, cơ hội về chính trị. Những căn bệnh ấy chính là trở lực của việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Nó càng cực kỳ nguy hiểm khi dựa vào quyền lực, nhân danh thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất để thực hiện những mưu đồ cá nhân. Vì vậy, để thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất, Đảng phải ra sức chống chủ nghĩa cá nhân coi đây là

57 C.Mác - Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb.CTQG, H,1993, t8, tr.21.

Page 97: 8160

96

nhân tố chủ quan then chốt của thành công. Đảng phải xử lý công minh và công bằng đúng người đúng tội đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Đồng thời phải thi hành kỷ luật nghiêm minh những cán bộ đảng viên gây mất đoàn kết trong nội bộ.

Hai là, sự trong sạch vững mạnh, năng lực lãnh đạo thực hành dân chủ và đoàn kết của các tổ chức cơ sở Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng là nơi tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng như giáo dục rèn luyện đảng viên, phân công công việc cho đảng viên, kiểm tra, quản lý đảng viên, kết nạp đảng viên và sàng lọc đảng viên. Tổ chức cơ sở Đảng còn là nơi kiểm nghiệm đường lối, khẳng định tính đúng đắn của nội dung, hình thức biện pháp, cơ chế thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng; đóng góp cho Đảng những sáng kiến kinh nghiệm để bổ sung hoàn thiện nội dung hình thức, cơ thế thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: Muốn làm nhà cho tốt thì phải xây dựng nền cho vững, muốn thực hiện kế hoạch tốt phải chăm lo củng cố chi bộ. Với ý nghĩa đó, việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng chỉ có hiệu quả khi các tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh. Việc thực hành tốt dân chủ và đoàn kết thống nhất ở tổ chức cơ sở Đảng là nhân tố cơ bản bảo đảm cho việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Thực hành dân chủ và đoàn kết ở chi bộ không tốt sẽ gây tác hại trực tiếp đến sức mạnh, uy tín của của Đảng. Khi tổ chức cơ sở đảng vi phạm dân chủ, mất đoàn kết, nhất là trong cấp uỷ và cán bộ chủ chốt thì thường bị phân chia thành cách phe cánh, gây rối loạn, chia rẽ về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Ba là, chất lượng lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Cấp uỷ Đảng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với hoạt động của tổ chức đảng ở mỗi cấp nói chung và thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng nói riêng. V.I.Lênin cho rằng, việc thực hành dân chủ và đoàn kết chặt chẽ, vững chắc của Ban Chấp hành Trung ương là điều kiện chủ yếu để bảo đảm khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Thực tế cho thấy, Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã sụp đổ, bắt đầu từ sự chia rẽ, mất dân chủ ngay ở Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, đảng viên trong ban lãnh đạo cấp cao mắc bệnh cơ hội, độc đoán chuyên quyền, sùng bái cá nhân. Chính vì vậy, việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong cấp uỷ là nhân tố then chốt quy định chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết

Page 98: 8160

97

thống nhất trong Đảng. Vì vậy phải thường xuyên coi trọng việc xây dựng và kiện toàn cấp uỷ. Cấp uỷ Đảng phải thật sự tiêu biểu cho năng lực trí tuệ, phẩm chất của Đảng. Coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, chất lượng sinh hoạt, đổi mới phong cách lãnh đạo, bảo đảm sự thống nhất về ý chí và hành động trong cấp uỷ Đảng đối với việc thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất. Đặc biệt coi trọng việc lựa chọn chính xác người đứng đầu cấp uỷ - bí thư cấp uỷ Đảng. Bởi lẽ, bí thư là người chủ trì toàn bộ công việc của cấp uỷ; trực tiếp nắm các vấn đề trọng yếu, các khâu trung tâm về thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Bốn là, chất lượng của đội ngũ cán bộ đảng viên. Trong các nhân tố chủ quan quy định chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, thì chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ vị trí quan trọng. Mặc dù có nhiều yếu tố giữ vị trí quy định, chi phối hoạt động thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất, nhưng suy cho cùng việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng chỉ được thực hiện thông qua hoạt động của cán bộ, đảng viên. Đây là yếu tố chủ quan cơ bản nhất, năng động nhất quy định chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bằng phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức và năng lực, đội ngũ cán bộ, đảng viên có thể phát huy những yếu tố tích cực và hạn chế ngăn chặn những tác động tiêu cực đến việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Nếu đội ngũ cán bộ, đảng viên mà thiếu phẩm chất chính trị đạo đức, năng lực thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất thì chẳng những làm cho việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng kém hiệu quả mà còn còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với sức mạnh lãnh đạo của Đảng. Đảng viên là người đóng góp ý kiến, góp phần trực tiếp hoàn thiện và thực hiện đường lối chính sách, các quy chế quy định của Đảng về thực hành dân chủ và đoàn kết. Trong quá trình thực hiện, đảng viên là người góp phần kiểm nghiệm khẳng định tính đúng đắn, phát hiện những điều chưa hợp lý của các quy chế, quy định về dân chủ và đoàn kết thống nhất để Đảng bổ sung làm cho những quy chế, quy định ấy ngày càng hoàn chỉnh. Chính vì vậy phải nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, xem đây là yếu tố cơ bản then chốt của việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối

Page 99: 8160

98

đúng đắn, các nguyên tắc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng mà còn thực hiện trên cơ sở tình cảm cách mạng trong sáng, chân thành, cởi mở, tin cậy giúp đỡ lẫn nhau của những người cùng chung lý tưởng cộng sản. Vì vậy, phải thường xuyên giáo dục tình thân ái đồng chí, sự thông cảm sâu sắc với điều kiện hoàn cảnh của từng đảng viên, coi đây vừa là yếu tố điển hình quy định chi phối, đồng thời là một biện pháp cơ bản để thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Thực tiễn của Đảng ta trong những năm gần đây và từ sự đổ vỡ của Đảng Cộng sản Liên Xô và các nước Đông Âu cho thấy, vai trò cực kỳ to lớn của những yếu tố trên đây, thuộc về những nhân tố chủ quan điển hình quy định, chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Do không nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối sai, mất dân chủ, thiếu đoàn kết, thiếu năng lực mà không sử dụng được những khả năng, phương tiện, điều kiện thuận lợi để thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất. Ngược lại trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, gian khổ, sinh mệnh của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa, của dân tộc trong tình trạng “ngàn cân treo trên sợi tóc”, nhưng nhờ thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất, với trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm, kiên quyết sửa chữa những sai lầm vấp váp, nên sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân lên gấp bội, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua những thử thách, khó khăn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng thuộc phạm trù nhân tố chủ quan. Nhưng nội dung, biện pháp, hình thức thực hiện chỉ mang lại hiệu quả khi nó phù hợp với bản chất khách quan của quá trình phát huy dân chủ và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng. Chính vì vậy phải nắm vững mối quan hệ vai trò của những yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan điển hình quy định chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Trong tình hình hiện nay phải làm cho mọi cán bộ đảng viên nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ , đoàn kết và thực hành dân chủ đoàn kết thống nhất trong Đảng. Hiểu rõ những đặc điểm về văn hoá, truyền thống, lịch sử tác động, quy định, chi phối đến việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Những điều kiện mới của đất nước, thời đại và nhiệm vụ xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, đất nước phát triển

Page 100: 8160

99

kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập quốc tế. Cùng với nhận thức đúng vai trò của những nhân tố khách quan phải hiểu rõ vai trò của nhân tố chủ quan điển hình chi phối việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Điều này được thể hiện ở việc các tổ chức đảng, cán bộ đảng viên của Đảng có nhận thức đúng bản chất, vận dụng đúng nội dung, hình thức, biện pháp cơ chế và ý chí mạnh mẽ để thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Với ý nghĩa đó, các nhân tố chủ quan điển hình có tác dụng to lớn quyết định đến thành công hay thất bại của việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Vai trò chi phối quyết định của nhân tố chủ quan điển hình đối với việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng còn được thể hiện ở chỗ không chờ cho mọi vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng được làm sáng tỏ rồi mới thực hành.

Vấn đề này có ý nghĩa lý luận thực tiễn cực kỳ quan trọng đối với việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng trong điều kiện lịch sử mới. Hiện nay có rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, đất nước phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập quốc tế cần được nghiên cứu giải quyết. Chẳng hạn, các vấn đề về dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp trong Đảng, các quy định chế độ bầu cử của Đảng, dân chủ trong Đảng với dân chủ trong hệ thống chính trị và xã hội; quyền và nghĩa vụ của đảng viên là cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước và các tổ chức xã hội; các quy định về những điều đảng viên được làm và không được làm, thực hành dân chủ trong Đảng trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và các phương tiện thông tin hiện đại. Tính năng động chủ quan không cho phép chúng ta “ngồi chờ” mà phải đi sâu nghiên cứu tìm hiểu để tìm ra nội dung, hình thức, biện pháp thực hiện phù hợp với thực tiễn dân chủ và đoàn kết thống nhất của Đảng trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới.

Page 101: 8160

100

Chương II

TÌNH HÌNH DÂN CHỦ VÀ ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG TA HIỆN NAY

I. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ DÂN CHỦ VÀ ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG

1. Đảng luôn phát huy truyền thống đoàn kết trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng

Bước vào thời kỳ đổi mới, đứng trước những khó khăn thử thách vô cùng to lớn: kinh tế - xã hội trong nước khủng hoảng trầm trọng, sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt; Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bước vào thời kỳ khó khăn, các đảng anh em mắc phải những sai lầm nghiêm trọng dẫn tới sự sụp đổ một loạt quốc gia xã hội chủ nghĩa; các thế lực thù địch điên cuồng chống phá ta từ nhiều phía; đất nước bị bao vây kinh tế, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; niềm tin bị giảm sút; nhiều tổ chức đảng giảm sút ý chí chiến đấu và năng lực lãnh đạo; nguy cơ chia rẽ mất đoàn kết về quan điểm chính trị đã có điều kiện để hình thành. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã trở thành điểm tựa vững chắc, là điểm hội tụ, là hạt nhân đoàn kết của toàn Đảng. Sự sáng suốt trong lãnh đạo, sự kiên định về đường lối, sự nghiêm túc duy trì kỷ luật, kỷ cương, kiên quyết đấu tranh chống lại các biểu hiện sai trái về quan điểm, tư tưởng, tổ chức, từng bước nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của từng tổ chức cơ sở đảng... đã bảo đảm cho khối đoàn kết trong Đảng được giữ vững, tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng để tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước.

Trong gần 25 năm đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giữ vững ổn định chính trị; phát huy cao độ tinh thần làm chủ nhân dân; đổi mới tư duy, phát triển kinh tế; giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, toàn dân một lòng xây dựng đất nước. Một trong những nguyên nhân quan trọng của những thành đó là do Đảng đã duy trì được sự đoàn kết, thống nhất ý chí, hành động trong đội ngũ đảng viên, nhất là trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng, thực hiện theo đúng Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “giữ gìn sự đoàn kết của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Page 102: 8160

101

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đoàn kết thống nhất trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, đặc biệt là đoàn kết thống nhất trong Đảng: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”58. “Là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, là bộ phận tích cực nhất và tiên tiến nhất của xã hội, Đảng là một ý chí và chỉ một mà thôi”, “Đảng coi sự chia rẽ bè phái trong Đảng là một trong những tội ác nặng nhất đối với cách mạng”59. “Đảng phải là một khối đoàn kết thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ chức. Đó là sinh mệnh của Đảng”60, “là vấn đề sống còn của cách mạng”61.

“Khối đoàn kết thống nhất của Đảng được củng cố là một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng”62; “Bài học lịch sử của Đảng ta và các Đảng anh em đều chỉ rõ rằng sức mạnh vô địch của Đảng Mác-Lênin là ở sự đoàn kết thống nhất trong Đảng”63.

Bước vào giai đoạn phát triển mới của đất nước, để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện thành công công cuộc đổi mới, Cương lĩnh phát triển đất nước năm 1991 đã chỉ rõ: Đảng ta cần phải “Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động bè phái, chia rẽ”.

Điều lệ Đảng đã ghi rõ, một trong các nguyên tắc tổ chức của Đảng là “đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng”.

Đại hội IX của Đảng, đại hội đầu tiên trong thế kỷ 21, đã nêu rõ: “Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phấn đấu để tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, Lấy mục tiêu độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xoá

58 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.11, tr.154. 59 Đảng cộng sản Việt Nam: Báo cáo của Ban chấp hànhTrung ương Đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.201. 60 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.703. 61 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1987, tr.143. 62 Đảng cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng (Tại đại hội IV), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.18. 63 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.62.

Page 103: 8160

102

bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng".

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX) đã ra các nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nghị quyết về công tác dân tộc, nghị quyết về công tác tôn giáo. Các nghị quyết đó đã cụ thể hoá tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân của đại hội IX, đồng thời làm sáng tỏ thêm bằng những luận điểm mới, cách luận giải mới và giải pháp mới. Nghị quyết Trung ương bảy là sự vận dụng, phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng yêu cầu vừa cơ bản, vừa cấp bách của sự nghiệp xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc “trường xuân bất lão” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cách đây hơn nửa thế kỷ.

Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đất nước, Đảng ta luôn coi trọng giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng như “giữ gìn con ngươi của mắt mình” và coi đó như một điều kiện cần thiết để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, giúp Đảng vượt qua mọi khó khăn thử thách để lãnh đạo đất nước giành những thắng lợi trong đấu tranh giải phóng đất nước và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

2. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong xây dựng và quyết định đường lối chính trị của Đảng.

- Dân chủ trong quá trình xây dựng các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng

Khi xây dựng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ở các cấp từ Trung ương đến địa phương, Đảng đều tổ chức các cuộc hội thảo lấy ý kiến rộng rãi các cơ quan, ban ngành và quần chúng nhân dân. Trước các kỳ đại hội Đảng toàn quốc, các bản dự thảo văn kiện đại hội Đảng, Điều lệ Đảng đã được đưa xuống các chi bộ thảo luận và nhiều vấn đề đã được lấy phiếu biểu quyết của đảng viên (như: vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân; vấn đề bóc lột; nhiệm kỳ đại hội cơ sở; sửa đổi Điều lệ Đảng...). Cách lấy ý kiến này một mặt thể hiện quyền dân chủ của đảng viên, mặt khác cũng tăng cường ý thức trách nhiệm của đảng viên trong việc tham gia đóng góp xây dựng các chủ trương, đường lối, chính sách

Page 104: 8160

103

của Đảng. Thông qua các cuộc thảo luận, góp ý kiến này, đảng viên cũng nắm được những nội dung cơ bản của văn kiện đại hội ngay từ lúc đang còn xây dựng dự thảo.

Các chủ trương, nghị quyết của tỉnh uỷ đều lấy ý kiến đến từng chi bộ, các vấn đề đặt ra trong nghị quyết đều được trao đổi, thảo luận tại các buổi sinh hoạt chi bộ. Đảng thực lòng muốn nghe ý kiến, kể cả ý kiến phản biện từ cơ sở để xây dựng nghị quyết cho sát thực với tình hình thực tế của địa phương, chẳng hạn như ở tỉnh Vĩnh Phúc: 7 giải pháp lớn trong nghị quyết của đại hội đều lấy ý kiến từ các cấp, các ngành, nên đã tạo được sự nhất trí cao.

- Dân chủ trong triển khai các nghị quyết của Đảng.

Do quá trình xây dựng nghị quyết của Đảng đã chú ý phát huy dân chủ, nên khi triển khai nghị quyết tạo được sự đồng thuận. Trong quá trình triển khai nghị quyết các tổ chức đảng đã tổ chức quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Nhiều cấp uỷ biết phát huy trí tuệ tập thể, năng động, sáng tạo, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị địa phương. Nhiều cấp uỷ đảng đã lãnh đạo chính quyền và đoàn thể cụ thể hoá nghị quyết, chủ trương đã đề ra; chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân; phát huy dân chủ, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất, kịp thời giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh.

Các cấp uỷ đảng cơ sở đã có nhiều cố gắng, chủ động đề ra các chủ trương, nghị quyết lãnh đạo trên tất cả các lĩnh vực sát với thực tiễn của địa phương, đơn vị mình. Về cơ bản đã nêu cao dân chủ, đoàn kết thống nhất thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Trong quá trình triển khai nghị quyết, các cấp uỷ đảng đã chú ý lắng nghe, tiếp thu ý kiến của cơ sở. Nếu có nội dung nào trong nghị quyết chưa thật phù hợp với thực tiễn, thì cũng được phản ánh lên để các cấp có thẩm quyền xem xét và có sự điều chỉnh. Các nghị quyết của đảng uỷ liên quan đến quyền lợi của dân đều hỏi ý kiến dân và bảo đảm những lợi ích trước mắt và lâu dài cho dân.

Phát huy dân chủ trong xây dựng đường lối chính trị đã tạo nên sự nhất trí về đường lối trong đội ngũ đảng viên và đó là cơ sở cho sự đoàn kết thống

Page 105: 8160

104

nhất trong Đảng, ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc về đường lối, loại trừ mọi âm mưu chia rẽ hàng ngũ của Đảng.

3. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong quá trình tiến hành đại hội đại biểu của Đảng

Dân chủ trong đại hội qua mỗi kỳ đại hội lại có những đổi mới và được thể hiện rõ trong đại hội X của Đảng. Từ những vấn đề thông qua quyết sách của Đảng đến bầu cử Ban Chấp hành Trung ương được công khai dân chủ, được bàn bạc thẳng thắn hơn. Những vấn đề hệ trọng đều được thông qua bằng phiếu kín. đại hội X đã không chia thành đại hội nội bộ và đại hội công khai, đại hội chỉ họp trước một ngày để làm các thủ tục mang tính chất thủ tục “hành chính” của Đảng, còn lại toàn bộ nội dung chính của đại hội, thảo luận thông qua văn kiện, thảo luận nhân sự bầu Ban Chấp hành Trung ương đều tiến hành công khai trong đại hội chính thức. Đây là một sự đổi mới cách thức tổ chức và hoạt động của đại hội để đại hội thực sự là sinh hoạt chính trị dân chủ, phát huy cao nhất trí tuệ và trách nhiệm của các đại biểu, mở rộng tính công khai một cách hợp lý để đảng viên và nhân dân có điều kiện hiểu biết rõ hơn nội dung sinh hoạt của đại hội và cũng là quan tâm rõ hơn công việc của Đảng (nhất là thông qua một số phiên họp được truyền hình tường thuật trực tiếp và hàng ngày đều có thông cáo báo chí không chỉ cho nhân dân trong nước biết mà cả thế giới biết).

Đại hội X không mời khách quốc tế, vì đại hội là công việc nội bộ của Đảng ta, điều đó đã tạo điều kiện để đại hội được tiến hành thực chất, dân chủ, công khai, thẳng thắn hơn, mọi vấn đề lớn của đại hội đều được đại biểu trực tiếp bàn thảo, tránh cảnh “diễn lại” đại hội nội bộ, các đại biểu bước vào đại hội chính thức khi nhiệm vụ đã được coi là cơ bản hoàn thành.

Về vấn đề bầu cử tại đại hội: Trong quá trình chuẩn bị nhân sự, Bộ Chính trị đã giao cho một số Ban Tổ chức, Văn phòng Trung ương, theo chức năng của mình đánh giá, nhận xét các đồng chí Trung ương, Bộ Chính trị. Sau đó tập thể Bộ Chính trị đã chính thức nhận xét, đánh giá 146 đồng chí uỷ viên Trung ương khoá IX; nhận xét đánh giá các đồng chí mới có triển vọng để dự kiến cơ cấu vào Ban Chấp hành Trung ương khoá X. Ban Chấp hành Trung ương cũng đã thảo luận yêu cầu, tiêu chuẩn, cơ cấu và quy trình giới thiệu nhân sự vào Ban Chấp hành Trung ương khoá X trình đại hội. Khác với đại hội

Page 106: 8160

105

trước, quy chế bầu cử được thảo luận ngay tại đại hội và nhiều vấn đề về bầu cử, nhân sự được nêu ra thẳng thắn, kể cả những khúc mắc về lý lịch, đại biểu ứng cử, đề cử.

Để phát huy hơn nữa dân chủ, trí tuệ của các đại biểu, quy chế đại hội ngay từ đầu đã xác định: danh sách bầu cử phải nhiều hơn so với số lượng cần bầu ít nhất 10%; các đồng chí uỷ viên Trung ương khoá IX không được Ban Chấp hành Trung ương khoá IX giới thiệu, ở đại hội vẫn có quyền ứng cử, được đề cử và xin rút (nếu được đề cử); từng đại biểu được cung cấp danh sách nhân sự Trung ương, cung cấp những thông tin cần thiết để xem xét quyết định và được Đoàn chủ tịch trả lời trực tiếp về những vấn đề chưa rõ về nhân sự với những đại biểu có yêu cầu trước khi ghi phiếu bầu cử. Đây là cách làm có những nét vừa kế thừa các đại hội trước, nhưng có những đổi mới cơ bản trong bầu cử Ban Chấp hành Trung ương tại đại hội Đảng toàn quốc.

Đại biểu nhất trí với danh sách nhân sự do Ban Chấp hành Trung ương khoá IX giới thiệu. Đồng thời thực hiện việc ứng cử, đề cử thêm. Đã có 2 đồng chí tự ứng cử: một là đại biểu dự đại hội và một đồng chí không là đại biểu. Tại đại hội một số đại biểu đã đề cử 80 đồng chí ứng cử uỷ viên Trung ương chính thức và 44 đồng chí uỷ viên Trung ương dự khuyết. đại hội cũng đã tiến hành thảo luận và cho 46 đồng chí trong danh sách đề cử uỷ viên Trung ương chính thức (trong đó có một đồng chí được Ban Chấp hành Trung ương khoá IX giới thiệu) và 28 đồng chí trong danh sách đề cử uỷ viên Trung ương dự khuyết… (có 1 đồng chí trong danh sách Trung ương giới thiệu xin rút khỏi danh sách bầu cử). Danh sách còn lại 207 đồng chí để bầu 160 đồng chí uỷ viên Trung ương chính thức và 46 đồng chí để bầu 25 uỷ viên Trung ương dự khuyết.

Cuộc bầu cử được tiến hành công khai, đúng quy chế và kết quả tốt đẹp. Bầu chỉ một lần là đủ số uỷ viên Trung ương chính thức và một lần được 21 Uỷ viên Trung ương dự khuyết với số phiếu tập trung. Kết quả này thể hiện sự nhất trí cao, sự đổi mới trong công tác bầu cử của Đảng ở cấp lãnh đạo cao nhất, không như những lần đại hội trước thường là tỷ lệ để cho Trung ương chọn thấp.

Về thảo luận nghị quyết tại đại hội: Có thể nói việc đổi mới cách báo cáo, nêu vấn đề thảo luận tại đại hội, tại các đoàn đại biểu đã tạo điều kiện cho nhiều đại biểu phát biểu ý kiến tỏ rõ quan điểm của mình về các vấn đề của đất nước

Page 107: 8160

106

(với 1553 lượt đại biểu phát biểu tại đoàn, 53 tham luận của đại biểu gửi đến Đoàn chủ tịch đại hội và 29 bản đã trình bày tại hội trường). Các tham luận, phát biểu trực tiếp ở hội trường cũng xoáy vào các vấn đề lớn. Một số phát biểu trực tiếp tại hội trường với nội dung sâu sắc, nêu ra ở đại hội đã gây không khí tranh luận sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ hơn.

Cách thức tổ chức tiến hành đại hội X của Đảng đã cho thấy có những đổi mới theo hướng dân chủ, bảo đảm các quyền và phát huy trách nhiệm của đại biểu dự đại hội Đảng.

4. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác bầu cử của Đảng

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: “Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Theo Điều lệ Đảng, việc bầu cử trong Đảng từ cấp cơ sở trở lên hiện nay được tiến hành theo quy trình: đại hội bầu cấp uỷ, cấp uỷ bầu ban thường vụ, bầu bí thư, phó bí thư trong số uỷ viên thường vụ.... Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương từng bước hoàn thiện hình thức dân chủ đại diện, mở rộng hình thức dân chủ trực tiếp. Việc này không chỉ áp dụng đối với bầu cử chính quyền nhà nước các cấp, mà đã và đang được mở rộng cả bầu cử trong Đảng. Điểm 4, Điều 24, Điều lệ Đảng và Quy định thi hành Điều lệ Đảng số 23-QĐ/TW ngày 31-10-2006 của Bộ Chính trị đã quy định: “Chi bộ trực tiếp bầu chi uỷ trước, sau đó bầu bí thư, bầu phó bí thư trong số chi uỷ viên”. nghị quyết Trung ương lần thứ 6 khoá X chủ trương “Thực hiện thí điểm từng bước việc đại hội đảng bộ cơ sở bầu cấp uỷ, ban thường vụ, bí thư và phó bí thư”. Trong công tác bầu cử đã có nhiều đổi mới để phát huy dân chủ, đó là việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh; công khai danh sách đề cử các ứng viên; dựa trên thảo luận công khai, lấy phiếu tín nhiệm thăm dò trước khi chốt lại danh sách (bảo đảm có số dư); thực hiện bỏ phiếu kín trong bầu cử. Trước đây thường giới thiệu “tròn”, còn từ 2 khoá gần đây đã có số dư, đó là một bước tiến mới về dân chủ. Do công tác bầu cử đã có nhiều đổi mới, cởi mở, dân chủ hơn và với quy trình bầu cử luôn từng bước được hoàn thiện nhằm phát huy dân chủ, dần dần chúng ta sẽ tìm được người cán bộ xứng đáng, đáp ứng với các yêu cầu của Đảng trong tình hình mới.

Page 108: 8160

107

Việc giới thiệu đảng viên tham gia ứng cử các vị trí lãnh đạo chính quyền đã có một số đổi mới nhằm phát huy dân chủ

Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, khi HĐND bầu ra các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch, các trưởng ban HĐND, chủ tịch UBND, các uỷ viên uỷ ban…thì phải có số lượng đủ để các đại biểu HĐND có sự lựa chọn. Tuy nhiên, mỗi cấp uỷ chỉ giới thiệu một ứng cử viên cho một chức danh. Nhưng khi đưa ra HĐND thì các đại biểu HĐND hay Mặt trận Tổ quốc có thể giới thiệu thêm ứng cử viên. Ứng cử viên được tổ chức, cá nhân giới thiệu, nếu được tập thể HĐND nhất trí thì có thể trở thành ứng cử viên cho chức danh đó và ứng cử viên do HĐND giới thiệu có thể “cạnh tranh” bình đẳng với người do cấp uỷ giới thiệu. Như vậy, khi bầu chức danh Chủ tịch HĐND, UBND thì đều có thể có từ hai ứng cử viên để đại biểu HĐND lựa chọn.

Chỉ thị thể hiện sự phát triển mới về dân chủ trong bầu cử của Đảng, đã sửa được một điểm gây tranh cãi bấy lâu nay trong “Quy định những điều đảng viên không được làm”, trong đó có điều quy định đảng viên không được tự ý ứng cử hoặc tự nhận đề cử. Theo chỉ thị này, ngoài người đảng viên được Đảng giới thiệu ra ứng cử, nếu một đảng viên khác được HĐND giới thiệu thì cũng được nhận đề cử và tham gia ứng cử cùng với người đảng viên kia vào các chức vụ của chính quyền.

5. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong sinh hoạt Đảng

- Bảo đảm việc cụ thể hoá và thực hiện các quyền của đảng viên.

Trong những năm vừa qua, cách thức tổ chức, nội dung sinh hoạt chi bộ Đảng đã có những đổi mới, đặc biệt đã chú ý bảo đảm các quyền của đảng viên như đã ghi trong Điều lệ Đảng. Đây là điều kiện rất quan trọng để tiến tới bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng, vì về bản chất, dân chủ trong Đảng là bảo đảm các quyền của đảng viên. Mức độ cụ thể hoá, hiện thực hoá các quyền của đảng viên là thước đo quan trọng về trình độ phát triển dân chủ trong Đảng. Vì thế phát triển dân chủ trong Đảng luôn phải đặt việc bảo đảm các quyền của đảng viên lên vị trí hàng đầu.

Trong sinh hoạt đảng ở một số tổ chức đảng đã thể hiện được nguyên tắc tập trung dân chủ, đảng viên có quyền bình đẳng tham gia tranh luận, thảo luận dân chủ các vấn đề đặt ra, nhưng khi đã có nghị quyết thì phải nói và làm theo

Page 109: 8160

108

nghị quyết. Trong tổ chức điều hành bảo đảm nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Ban chấp hành các đảng bộ các cấp luôn thể hiện sự đoàn kết thống nhất cao, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đề ra được quy chế và thực hiện đúng quy chế làm việc. Trong sinh hoạt, luôn phát huy dân chủ, nêu cao trách nhiệm trong thảo luận, xây dựng các chủ trương, nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ. Trong chỉ đạo thực tiễn luôn quan tâm xây dựng củng cố chính quyền, các đoàn thể, nêu cao đoàn kết thống nhất để thực hiện tốt các nhiệm vụ đề ra.

- Đổi mới nội dung sinh hoạt đảng

Trong những năm vừa qua Đảng ta đã đặc biệt chú ý tới việc đổi mới và phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng nhằm phát huy vai trò chủ thể của đảng viên trong mọi mặt công tác của Đảng. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 30/3/2007 về “đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”; Ban Tổ chức Trung ương đã có Hướng dẫn số 05-HD/BTCTW ngày 25/5/2007, trong đó, yêu cầu đổi mới nội dung sinh hoạt cần đặc biệt chú ý tới việc phát huy đầy đủ các quyền của đảng viên đã được ghi trong Điều lệ Đảng. Nhận thức đúng ý nghĩa, mục đích của sinh hoạt chi bộ Đảng, các cấp uỷ đã tiến hành đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng theo hướng phát huy dân chủ và đoàn kết trong nội bộ Đảng.

Thảo luận dân chủ về các công việc của Đảng trong các cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương, của cấp uỷ các cấp ngày càng được đẩy mạnh hơn. Quyền tiếp cận thông tin của đảng viên ngày càng được thực hiện tốt hơn, đảng viên được biết nhiều hơn và được phát biểu ý kiến tham gia vào các công việc của Đảng. Mối quan hệ giữa các cấp uỷ đảng ngày càng bảo đảm sự thống nhất do sự phân cấp giữa Trung ương và địa phương ngày một rõ ràng hơn.

Nhiều chi bộ đảng đã duy trì đúng chế độ sinh hoạt. Trong sinh hoạt đã quan tâm phổ biến, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến đảng viên; đã chú trọng thảo luận, đề ra các chủ trương, giải pháp thực hiện các nhiệm vụ của địa phương, đơn vị; bàn giải quyết các vấn đề còn khó khăn vướng mắc, phân công nhiệm vụ cho đảng viên, kiểm điểm đánh giá phân loại đảng viên v.v...

Page 110: 8160

109

- Tăng cường công tác tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng.

Tự phê bình và phê bình đã được thực hiện thường xuyên trong sinh hoạt đảng. Đảng luôn coi đây là nguyên tắc quan trọng để rèn luyện, nâng cao phẩm chất và năng lực của cán bộ đảng viên. Trong sinh hoạt của Bộ Chính trị, Ban bí thư, Ban Chấp hành Trung ương luôn thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm điểm hàng năm và giữa nhiệm kỳ. Cấp uỷ và cán bộ chủ trì các cấp đã nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của dân chủ, thực hiện công khai minh bạch trong công tác cán bộ; việc tổ chức góp ý, phê bình, lấy phiếu tín nhiệm đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt được tiến hành nghiêm túc, đúng quy chế dân chủ ở cơ sở.

Các chi bộ phát huy được tinh thần tự phê bình và phê bình thẳng thắn, khách quan, dân chủ; nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp trong triển khai thực hiện nhiệm vụ, những vướng mắc của quần chúng nhân dân, những va vấp của đảng viên đã được chi bộ thảo luận, đấu tranh và có giải pháp thực hiện có hiệu quả tốt, góp phần củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của chi bộ.

Nhằm tiếp tục phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, vừa qua, Đảng đã có đề án nghiên cứu để thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao chất lượng công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng.

6. Thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác tư tưởng của Đảng

- Chế độ thông tin đã được mở rộng hơn.

Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng trước khi triển khai đã được công khai thông báo cho toàn thể đảng viên được biết và có ý kiến. Đặc biệt từ khi có Báo điện tử của Đảng cộng sản các thông tin về Đảng được cập nhật kịp thời và đó cũng là nơi đảng viên có thể phản ánh những ý kiến, nguyện vọng của mình với Đảng về mọi mặt hoạt động của Đảng ở cơ sở. Hàng tháng Đảng có những bản tin ngắn gọn về tình hình triển khai các công việc của Đảng, tình hình thế giới và trong nước, đề chi bộ thông báo tới từng đảng viên, vì thế đảng viên luôn theo dõi sát được các hoạt động của Đảng.

- Tự do về tư tưởng đã có nhiều đổi mới

Trong các buổi sinh hoạt chi bộ, đảng viên có quyền được nói, được phát biểu ý kiến về các vấn đề của Đảng. Đảng chấp nhận những ý kiến khác nhau,

Page 111: 8160

110

những ý kiến "trái chiều". Đảng viên có thể tranh luận, thảo luận về các ý kiến khác nhau để đi tới thống nhất. Còn nếu không thống nhất được, thì có thể chuyển các ý kiến lên cấp trên để cấp trên xem xét và cho ý kiến. Như vậy, đảng viên có quyền bảo lưu ý kiến của mình về các mặt công tác của Đảng. Nói chung, các tổ chức đảng tôn trọng ý kiến của từng đảng viên, không ngăn cản, trù dập các ý kiến "trái chiều".

7. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác tổ chức, cán bộ.

a/ Trong công tác tổ chức

- Về tổ chức của các cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp

Sự phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban thường vụ, Đảng uỷ các cấp thể hiện trong việc xây dựng quy chế làm việc và chương trình hoạt động trong toàn khoá. Việc xây dựng quy chế làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư qua mỗi nhiệm kỳ từ đại hội VI đến nay ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Có thể thấy rõ từ đại hội IX, sang đại hội X, đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Chính trị, của Ban Bí thư, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và đồng chí Tổng bí thư. Việc quy định đồng chí Tổng Bí thư giữ chức vụ Tổng bí thư không quá hai nhiệm kỳ liên tiếp tại đại hội X của Đảng đã được ghi vào Điều lệ Đảng là một bước tiến về dân chủ trong Đảng. Chính làm việc dựa trên những nguyên tắc, quy chế rõ ràng đã giúp cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư có được sự thống nhất, đoàn kết và tăng hiệu quả công việc.

Các cấp uỷ đều xây dựng chương trình làm việc và đặc biệt chú trọng xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa cấp uỷ với chính quyền và các đoàn thể, vì thế đã phát huy được dân chủ, đoàn kết thống nhất để cùng hướng tới mục tiêu thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng.

- Đảng ta đã chú trọng và xây dựng được khá nhiều các quy định nhằm phát huy dân chủ trong Đảng

Trong những năm vừa qua, Đảng ta đã xây dựng được nhiều quy chế trong công tác xây dựng Đảng, như quy chế đánh giá đảng viên, đánh giá tổ chức cơ sở đảng; quy chế xây dựng nghị quyết đại hội Đảng; quy chế tiến hành đại hội Đảng các cấp; quy chế về bầu cử trong Đảng; quy chế đề bạt, bổ nhiệm, bãi nhiệm; quy trình quy hoạch, luân chuyển cán bộ; quy trình kiểm

Page 112: 8160

111

tra, giám sát... Các quy định này đều đã thể hiện sự quan tâm của Đảng đến việc phát huy dân chủ trong mọi mặt công tác của Đảng.

Đảng ta đã tập trung làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị và các mối quan hệ, cơ chế phối hợp hoạt động giữa các tổ chức này, nhằm khắc phục dần khuynh hướng Đảng bao biện làm thay, cũng như buông lỏng, xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục tăng cường dân chủ trong Đảng và trong quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội, từ đó tăng cường dân chủ trong toàn xã hội.

- Về một số chủ trương của Đảng nhằm phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng

Hiện nay Đảng ta đang thực hiện chủ trương thí điểm nhất thể hoá chức danh bí thư cấp uỷ và chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Đó là một chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và đề cao trách nhiệm cá nhân. Từ trước tới nay, tuy đã có sự xác định rạch ròi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hai vị trí bí thư và chủ tịch UBND, nhưng qua khảo sát thực tế cho thấy sự mất đoàn kết thường phát sinh từ sự xung đột về chức năng, nhiệm vụ giữa hai vị trí lãnh đạo này. Bí thư có trách nhiệm chính trị lớn, có thực quyền lớn, nhưng quy phạm chính thức không đầy đủ, chế độ trách nhiệm cá nhân trước cấp uỷ (trước nhân dân, nhà nước. luật pháp…) không rõ. Đây chính là một nguyên nhân của tình trạng cấp uỷ bao biện làm thay hoặc buông lỏng, không quy được trách nhiệm pháp lý. Xét về mặt khoa học, sự xung đột giữa bí thư và chủ tịch là tất yếu vì một người thực hiện nhiệm vụ triển khai công việc, còn người kia thực hiện việc chỉ đạo, cho phép hay không cho phép thực hiện nhiệm vụ này hay nhiệm vụ kia. Do đó, sự nhất thể hoá chức danh bí thư và chủ tịch UBND sẽ tạo điều kiện thống nhất quyền lực, tăng cường quyền hạn và trách nhiệm cho người đứng đầu một địa phương tỉnh, huyện và xã. Một số ý kiến lo ngại rằng, sự nhất thể hoá như thế tạo sự tập trung quyền lực vào một người và như thế sẽ dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán, mất dân chủ. Theo chúng tôi, sự lo ngại này là có cơ sở thực tế, nhưng nếu cùng với việc thực hiện nhất thể hoá hai chức danh bí thư và chủ tịch UBND, chúng ta tiếp tục hoàn thiện, đổi mới cơ cấu tổ chức và cán bộ, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ cho phù hợp với điều kiện mới, thì vẫn bảo đảm phát huy được dân chủ, tránh được sự chuyên quyền độc đoán. Trong giai

Page 113: 8160

112

đoạn sắp tới, Đảng ta cũng nên nghiên cứu để nhất thể hoá hai chức danh Tổng Bí thư và Chủ tịch nước.

Tại Hội nghị Trung ương 9 khoá X, Đảng ta đã có chủ trương “Mở rộng việc bố trí bí thư cấp uỷ, chủ tịch UBND, chánh án TAND, viện trưởng VKSND, chánh thanh tra cấp tỉnh, cấp huyện và cán bộ lãnh đạo cấp trưởng các ngành công an, tài chính, thuế, hải quan... không phải là người địa phương”64. Đây là chủ trương nhằm nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu nhằm ngăn chặn tình trạng cục bộ địa phương, ảnh hưởng tới sự phát huy dân chủ và cũng là nguyên nhân gây mất đoàn kết đang xảy ra ở một số nơi.

Nước ta tiến lên từ một xã hội nửa thuộc địa phong kiến, với một nền sản xuất nhỏ tiểu thủ công, nên tư tưởng "khép kín" cục bộ địa phương đã và đang còn chi phối, ảnh hưởng rất nặng nề trong đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói riêng. Trong những năm 2003 - 2006, Đảng ta đã thực hiện thí điểm luân chuyển 6 chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý ở tỉnh Hà Tây, để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, tổng kết lý luận và thực tiễn về việc bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt không phải là người của địa phương. Lần đầu tiên Trung ương thí điểm luân chuyển cả một “ê kíp” lãnh đạo bao gồm bí thư tỉnh uỷ, chủ tịch UBND tỉnh, viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân, giám đốc sở Tài chính, giám đốc sở Kế hoạch - đầu tư và giám đốc sở Công an tỉnh với mục tiêu nhằm xoay chuyển tình hình khó khăn ở Hà Tây. Qua nghiên cứu về kết quả đợt thí điểm này65 cho thấy, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt được luân chuyển về Hà Tây đều không phải người địa phương nên không bị ràng buộc, chi phối bởi dòng họ, cục bộ địa phương, phe phái... nên xử lý mọi công việc công tâm, công bằng và hiệu quả, đã tạo dựng được sự đoàn kết nhất trí, chỉ đạo thông suốt, thống nhất từ việc đề ra đến việc tổ chức, triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của tỉnh trong hai lĩnh vực quan trọng nhất, đó là phát triển kinh tế và ổn định an ninh trật tự xã hội.

Bố trí nhiều chức danh là hướng tới mục tiêu lâu dài là bố trí những cán bộ chủ chốt không phải là người địa phương. Hiện nay chúng ta mới thực hiện thí điểm luân chuyển 6 chức danh ở một tỉnh nằm ngay cạnh Trung ương, vì thế, chưa thể rút ra được ngay những kết luận đúng đắn, khoa học về công tác này. Vì thế, cần phải tiếp tục triển khai mở rộng diện thí điểm ra thêm một số tỉnh,

64 Văn kiện Hội nghị lần thứ chín ban chấp hành Trung ương khóa X, tr 274 65 Nguyễn Phương Hồng, Đề tài cấp Bộ KHBĐ (2006) - 02

Page 114: 8160

113

huyện, bộ ngành Trung ương để từ đó có thể rút ra những kết luận xác đáng, thật sự khoa học về công tác luân chuyển đồng thời nhiều chức danh nhằm tiến tới mở rộng diện ứng dụng triển khai chủ trương của Đảng ra trên phạm vi khắp cả nước.

b/ Trong công tác cán bộ

Đảng ta đã kiên trì thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ và quyết định tập thể về công tác cán bộ. Vai trò của Đảng trong công tác cán bộ được nhận thức và thực hiện thống nhất, nghiêm túc hơn. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ dần dần được bảo đảm bằng tổ chức, bằng quy chế nên đã góp phần đổi mới cách nghĩ, cách làm và từng bước khắc phục những hạn chế, tồn tại trong công tác cán bộ. Đảng ta đã xây dựng được một hệ thống các quy chế, quy trình công tác cán bộ, đó là một bước tiến đáng kể để phát huy dân chủ trong công tác này; đã triển khai đồng bộ và thực hiện một bước về công khai, minh bạch trong các khâu của công tác cán bộ: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, tuyển chọn, bổ nhiệm, chính sách, quản lý cán bộ, vì thế đã tạo một bước chuyển biến đồng bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.

Phát huy dân chủ là một khâu then chốt của việc đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ. Đảng ta đã chỉ rõ: Phải đảm bảo chế độ tập thể, dân chủ trong việc đánh giá cán bộ; những nhận xét, đánh giá cán bộ nhất thiết phải do tập thể có thẩm quyền quyết định; các cấp quản lý cán bộ phải tiếp cận với cán bộ, trực tiếp nghe cán bộ nói về mình; đồng thời phải có cơ chế lấy ý kiến nhận xét của tổ chức Đảng và quần chúng ở cơ sở, nơi cán bộ công tác và nơi cư trú. Các tổ chức Đảng đã thực hiện nghiêm túc công tác đánh giá cán bộ, thảo luận rất kỹ những mặt được và những mặt còn hạn chế, vì thế việc đề bạt và sử dụng cán bộ làm tương đối tốt. Hàng năm Đảng uỷ có kế hoạch chỉ đạo các cơ sở đánh giá cán bộ theo đúng quy trình: Cá nhân tự kiểm điểm, tập thể chi bộ và cán bộ, công chức góp ý kiến đối với cán bộ. Cấp uỷ cơ sở tham khảo ý kiến của cấp uỷ nơi cư trú và thống nhất nhận xét, đánh giá, phân loại cán bộ. Công tác đánh giá cán bộ đảm bảo khách quan, dân chủ, đoàn kết, đã đánh giá đúng chất lượng của mỗi cán bộ giúp cho việc sắp xếp, bố trí, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ hợp lý, phát huy được năng lực sở trường của cán bộ, đồng thời giúp cho mỗi cán bộ thấy

Page 115: 8160

114

được mạnh, yếu của mình để rèn luyện, phấn đấu vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

Công tác đánh giá cán bộ cũng đã có nhiều đổi mới bảo đảm dân chủ và công khai thể hiện ở quy trình đánh giá cán bộ. Trước khi bước vào đại hội X, Bộ Chính trị đã có chỉ đạo thực hiện nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá công khai từng đồng chí Uỷ viên Trung ương. Thường vụ cấp uỷ các cấp công khai đánh giá các đồng chí trong cấp uỷ, đó là một bước tiến về dân chủ, bảo đảm việc lựa chọn đúng cán bộ giữ các cương vị cao nhất của Đảng. Ngoài ra Đảng cũng chú trọng thu thập, tiếp thu ý kiến của quần chúng về cán bộ, đảng viên để làm tốt hơn công tác cán bộ.

Công tác đánh giá cán bộ đã góp phần quan trọng để lựa chọn đúng cán bộ đưa vào quy hoạch, luân chuyển và làm tiền đề bổ nhiệm, bố trí và sử dụng đúng cán bộ. Công tác quy hoạch cán bộ được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan và công khai. Công tác quy hoạch cán bộ đã được các cấp uỷ tổ chức thực hiện theo đúng quy trình, thực hiện mở rộng dân chủ, lấy ý kiến giới thiệu rộng rãi của cán bộ, công chức về nguồn quy hoạch. Tổ chức tốt việc lấy phiếu tín nhiệm tại Hội nghị cán bộ chủ chốt; gắn công tác quy hoạch với các khâu khác của công tác cán bộ, nhất là công tác đánh giá cán bộ. Đã chú trọng thảo luận dân chủ, xem xét toàn diện đảm bảo tiêu chuẩn chức danh cán bộ, quan tâm cơ cấu cán bộ trẻ và cán bộ nữ, những nhân tố mới. Hằng năm đều tiến hành rà soát lại quy hoạch, đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn và bổ sung những nhân tố mới vào quy hoạch, bảo đảm nguyên tắc "động" và "mở".

Nhờ có luân chuyển cán bộ đã phá vỡ thế khép kín trong công tác cán bộ, tạo ra một động lực mới, một phương pháp, phong cách làm việc mới; thực trạng khép kín, địa phương chủ nghĩa, mất đoàn kết diễn ra ở một số nơi đã dần dần được giải quyết, đưa không khí dân chủ vào trong mọi sinh hoạt và cải tổ lề lối làm việc tại địa phương.

Công tác tuyển dụng và bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ đã được thực hiện theo đúng các quy chế, quy trình, phương pháp vì thế đã có tác dụng tích cực. Tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ bảo đảm tính công khai, minh bạch và công bằng. Công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ ngày càng không còn "bí mật", mà được công khai để cán bộ, đảng viên, quần chúng được biết và tham gia ý kiến đóng

Page 116: 8160

115

góp, nên đã củng cố được lòng tin của đảng viên, quần chúng đối với Đảng. Công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ đã thể hiện được tính khách quan, dân chủ. Căn cứ vào nhu cầu công tác và đề nghị của cơ quan sử dụng cán bộ; về dự kiến nhân sự các chức danh, Thường trực Tỉnh, Thành uỷ thống nhất về chủ trương và giao cho cơ quan Tổ chức thẩm định hồ sơ, thực hiện đúng quy trình đề bạt, bổ nhiệm: Thăm dò tín nhiệm của cán bộ, đảng viên tại nơi công tác, lấy ý kiến bằng văn bản của cấp uỷ nơi cư trú… Ban thường vụ thảo luận và bỏ phiếu kín về đề bạt, bổ nhiệm từng chức danh cán bộ. Cán bộ được Tỉnh, Thành uỷ đề bạt, bổ nhiệm những năm qua đã dần bảo đảm được tiêu chuẩn, chất lượng và phát huy được vai trò trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã có những đóng góp đáng kể giúp cán bộ các cấp tiếp thu đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, đổi mới tư duy, bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm về lãnh đạo, quản lý theo các cơ chế mới, nhằm hướng tới việc phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết thống nhất nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý. Hiện nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được Đảng và Nhà nước quan tâm nhiều hơn. Hàng năm, Đảng đã có sự chỉ đạo xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; thực hiện việc chọn lọc dân chủ để cử nhiều cán bộ đủ tiêu chuẩn đi học các lớp đào tạo dài hạn, đào tạo tại chức về chính trị, chuyên môn; chỉ đạo các Trung tâm Bồi dưỡng chính trị - hành chính mở nhiều lớp bồi dưỡng để nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng yêu cầu công tác.

Công tác khen thưởng, kỷ luật cũng dần đi vào nền nếp dựa trên những quy chế được công bố công khai. Những cán bộ có thành tích trong công tác đã được tôn vinh và những cán bộ có sai phạm đã chịu các hình thức kỷ luật tương xứng theo quy chế.

Trong những năm qua, việc thực hiện dân chủ, công khai trong công tác cán bộ đã có nhiều tiến bộ. Cấp uỷ và cán bộ chủ trì các cấp đã nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của dân chủ, công khai trong công tác cán bộ; việc tổ chức góp ý, phê bình, lấy phiếu tín nhiệm đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt được tiến hành nghiêm túc, đúng quy chế dân chủ ở đơn vị. Các tổ chức đảng đã đẩy mạnh thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, nên đã tiếp tục củng cố lòng tin của đảng viên, quần chúng đối với Đảng. Do chuẩn bị kỹ lưỡng, phát huy dân chủ ở các khâu trong công tác cán bộ, nên sự thống nhất trong công tác cán bộ ngày càng được nâng cao.

Page 117: 8160

116

8. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác kiểm tra, giám sát

- Đổi mới quy trình và phương pháp kiểm tra, giám sát trong nội bộ Đảng

Đảng ta đã xây dựng và công khai quy trình, kế hoạch kiểm tra giám sát trong nội bộ Đảng. Quy trình kiểm tra giám sát trong nội bộ Đảng đã thể hiện ở các quy định và hướng dẫn khá tốt, bảo đảm phát huy dân chủ trong công tác này.

Quy trình kiểm tra, giám sát đã được phổ biến công khai để mọi tổ chức đảng và đảng viên biết và thực hiện. Trong quá trình tổ chức kiểm tra, các cấp uỷ đều nâng cao tinh thần trách nhiệm, tìm hiểu kỹ các nội dung cần kiểm tra, thực hiện đối thoại với các đối tượng có liên quan và chú ý lắng nghe những ý kiến giải trình. Các kết luận kiểm tra đều được thông báo cho đối tượng cần kiểm tra được biết và lắng nghe ý kiến trao đổi lại. Công tác kiểm tra, giám sát đã chú ý đến việc tiếp thu những ý kiến, những thông tin từ phía quần chúng nhân dân liên quan đến vấn đề cần kiểm tra. Công tác xử lý kỷ luật đối với cán bộ vi phạm được thực hiện dân chủ, công khai, đúng quy trình và đúng quy định của Điều lệ Đảng, Pháp lệnh cán bộ công chức Nhà nước.

Các phương tiện thông tin đại chúng đang trở thành một vũ khí có sức mạnh và rất hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát. Một số vụ việc đã được phát hiện không xuất phát từ các tổ chức cơ sở đảng, mà từ các phương tiện thông tin báo chí. Hiện nay nhiều báo, đài truyền hình đã có “đường dây nóng” giúp cho việc cung cấp thông tin được nhanh chóng, kịp thời và thường xuyên.

- Các cấp uỷ đều nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác kiểm tra, giám sát

Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã dựa vào tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác của tổ chức đảng và đảng viên. Cấp uỷ, tổ chức đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp khi tiến hành kiểm tra, giám sát đã nắm chắc tình hình cũng như hoàn cảnh xảy ra thiếu sót, khuyết điểm vi phạm của đối tượng kiểm tra để có cơ sở xem xét kết luận, đánh giá một cách khách quan, chính xác về đối tượng kiểm tra phù hợp với từng lịch sử cụ thể, không kết luận kiểm tra một cách áp đặt, thiếu khách quan, mất dân chủ. Trong quá trình tổ chức kiểm tra, các cấp uỷ đều nâng cao tinh thần trách nhiệm, tìm hiểu kỹ các nội dung cần kiểm tra, thực hiện đúng quy trình kiểm tra, gặp gỡ, trao đổi với từng đối tượng

Page 118: 8160

117

có liên quan để tìm ra đúng sự thật, từ đó có kết luận chính xác về những yêu cầu cần kiểm tra. Các kết luận kiểm tra đều được thông báo cho đối tượng cần kiểm tra được biết và lắng nghe ý kiến trao đổi lại. Tránh việc rút ra những kết luận chủ quan, áp đặt, thiếu căn cứ.

- Công tác kiểm tra, giám sát đã chú ý đến việc tiếp thu những ý kiến, những thông tin từ phía quần chúng nhân dân

Công tác kiểm tra, giám sát đã chú ý đến việc tiếp thu những ý kiến, những thông tin từ phía quần chúng nhân dân liên quan đến vấn đề cần kiểm tra. Thực tế cho thấy, đây là kênh thông tin quan trọng, đóng góp cho quá trình kiểm tra đạt kết quả.

- Công tác xử lý kỷ luật đối với cán bộ vi phạm được thực hiện dân chủ, công khai, đúng quy trình và đúng quy định của Điều lệ Đảng, Pháp lệnh cán bộ công chức Nhà nước.

Công tác xử lý kỷ luật đối với cán bộ vi phạm được thực hiện dân chủ, công khai, đúng quy trình và đúng quy định của Điều lệ Đảng, Pháp lệnh cán bộ công chức Nhà nước. Hầu hết các trường hợp cán bộ bị xử lý kỷ luật đều thấy rõ khuyết điểm của mình, chấp hành nghiêm chỉnh và có ý thức sửa chữa.

Do làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, nên trong nhiều năm qua, các đảng bộ, chi bộ từ Trung ương đến cơ sở đều có sự đoàn kết, thống nhất cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung đều có lập trường tư tưởng kiên định vững vàng, gương mẫu chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự giác học tập, rèn luyện, có trình độ, năng lực, phẩm chất, đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, đoàn kết, kỷ luật, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

9. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác dân vận

- Nâng cao nhận thức về dân chủ trong cán bộ, đảng viên, công chức và quần chúng nhân dân.

Nhận thức sâu sắc vai trò của quần chúng nhân dân, Đảng đã chủ động tuyên truyền để cán bộ, đảng viên, công chức trong toàn bộ hệ thống chính trị nhận thức sâu sắc hơn về quyền làm chủ và vai trò của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới. Từ nhận thức, các cấp chính quyền ở nhiều nơi đã chủ động, tích cực

Page 119: 8160

118

hơn trong việc đối thoại và lắng nghe ý kiến, kiến nghị của nhân dân, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả.

- Thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác dân vận của Đảng làm cho sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy.

Thực hành Quy chế dân chủ ở cơ sở đã tác động tích cực trong việc xây dựng đời sống văn hoá - xã hội, thực sự trở thành động lực cho quá trình phát triển tất cả các mặt kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, góp phần vào sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Thực tế cho thấy, nơi nào cấp uỷ phát huy dân chủ, chỉ đạo làm tốt công tác dân vận, thực hiện nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở, thì mọi việc đều triển khai thuận lợi, chẳng hạn, như vấn đề đất đai, giải phóng mặt bằng rất khó nhưng nếu biết huy động mọi lực lượng cùng tham gia thì sẽ đạt hiệu quả cao. Nơi nào cán bộ biết thu hút, tập hợp được ý kiến của quần chúng thì tổ chức ở đó mạnh.

- Thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác dân vận của Đảng gắn với kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh đối với những vụ việc tiêu cực, sai phạm.

Thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác dân vận của Đảng gắn với kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh đối với những vụ việc tiêu cực, sai phạm đã phát hiện, đồng thời xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng dân chủ, mất đoàn kết để làm mất ổn định an ninh, trật tự. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước từ cơ sở.

Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ về chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống. Đấu tranh chống bảo thủ, trì trệ; chống cục bộ, chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết; chống chủ nghĩa cơ hội, sự thoái hoá, biến chất; tổ chức tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

10. Tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng

Trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, điều đó thể hiện qua một số điểm sau:

Page 120: 8160

119

Trước hết, qua sự thống nhất về đường lối chính trị.

Đảng đề ra đường lối chính trị đúng đắn là cơ sở để đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đường lối đúng đắn là sự kiên định lý tưởng cách mạng “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội”, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đường lối của Đảng đã đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của đảng viên và đông đảo quần chúng nhân dân nên đã tạo được sự đoàn kết thống nhất không chỉ trong Đảng, mà còn tập hợp mọi lực lượng trong xã hội cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung.

Thứ hai, qua sự thống nhất về các nguyên tắc và chế độ sinh hoạt trong tổ chức và hoạt động của Đảng.

- Thống nhất nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, mọi đảng viên đều thực hiện, chấp hành nghiêm nguyên tắc này và đó cũng là cơ sở để tăng cường đoàn kết trong Đảng. Thực hiện nguyên tắc này, tức là bảo đảm sự đoàn kết giữa người lãnh đạo và bị lãnh đạo trong Đảng; giữa tổ chức cấp trên và tổ chức cấp dưới; giữa cá nhân đảng viên với tổ chức Đảng; giữa Trung ương Đảng, cấp uỷ đảng các cấp với quần chúng đảng viên. Nguyên tắc cũng phòng chống dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan và độc đoán cá nhân... vì thế thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ đem lại sự đoàn kết nhất trí trong Đảng.

- Thống nhất thực hiện chế độ bình đẳng, thiểu số phục tùng đa số, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Mọi đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng, không tồn tại bất cứ một đảng viên đặc biệt nào không tuân thủ Điều lệ và các quy định của Đảng. Mọi đảng viên đều bảo đảm sự hiểu biết, tham gia quyết định đối các công việc của Đảng, thể hiện đầy đủ tinh thần dân chủ đa số quyết định, tôn trọng thiểu số. Các ý kiến bất đồng của thiểu số được tôn trọng và xem xét cẩn thận. Chính vì thế trong thời gian vừa qua, thống nhất thực hiện nghiêm các chế độ quy định của Đảng là cơ sở để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng.

II. NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM

1. Trong một số tổ chức đảng, đảng viên chưa nhận thức thật sâu sắc về nội dung dân chủ trong Đảng, chưa thấy rõ tầm quan trọng của việc phát huy dân chủ và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Tuy chúng ta đã có quy chế về phát huy dân chủ ở cơ sở, nhưng trên thực tế vẫn chưa có nhận thức thống nhất một số nội dung về dân chủ trong Đảng. Vì thế, ngay trong đội ngũ đảng viên đã có nhiều cách hiểu khác nhau

Page 121: 8160

120

về dân chủ, làm ảnh hưởng tới hiệu quả của việc triển khai các quan điểm, chủ trương của Đảng về dân chủ ở các tổ chức cơ sở Đảng. Do không nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết thống nhất, nên có một số tổ chức cơ sở Đảng chưa thật quan tâm tổ chức quán triệt và có kế hoạch triển khai các chủ trương về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong mọi mặt sinh hoạt và hoạt động của Đảng, làm giảm sút tính chiến đấu và uy tín của Đảng trước quần chúng nhân dân.

2. Dân chủ trong xây dựng và thực hiện các quyết sách, chủ trương, nghị quyết của Đảng còn hạn chế

Để xứng đáng là Đảng cầm quyền thì trong Đảng phải thật sự dân chủ. Mọi đảng viên đều được tham gia vào quá trình hình thành các quyết định của Đảng một cách thật sự dân chủ. Mỗi quyết định của Đảng phải thật sự tập hợp được trí tuệ của toàn Đảng. Như vậy mới là Đảng của trí tuệ, xứng đáng là Đảng cầm quyền.

- Đảng chưa thật chú ý lắng nghe ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân

Văn kiện đại hội X (tr.270) đã nêu: “Một số cấp uỷ, tổ chức Đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới”. Trong quá trình phát triển của đất nước, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi Đảng phải có đủ tầm trí tuệ, đủ thông tin để tìm ra giải pháp thích hợp đưa đất nước tiến lên phía trước. Để có thông tin từ thực tiễn, nhiều chiều, Đảng phải chú ý lắng nghe các ý kiến phản hồi từ phía những cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Thực tế trong những năm vừa qua, có nhiều ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân (thông qua thư từ, báo chí...) chưa được Đảng thật sự lắng nghe, thậm chí có thư đóng góp của những đồng chí nguyên là lãnh đạo Đảng và Nhà nước về các vấn đề về môi trường, văn hoá, an ninh quốc phòng... cũng không cho phép đăng trên các báo chí. Chính vì thế, có người cho rằng, ngay đến những vị nguyên là lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước nói, Đảng còn không lắng nghe, thì làm sao Đảng lắng nghe người dân được.

Trong các kỳ đại hội Đảng, việc lắng nghe ý kiến của đại biểu góp ý cho văn kiện đại hội cũng rất hạn chế. Với lý do, văn kiện đã được lấy ý kiến trước đại hội rồi, nên đến đại hội dành thời gian vào một số công việc khác. Nhưng thực ra đại biểu đến đại hội là những người tiêu biểu cho tầm trí tuệ của Đảng ở

Page 122: 8160

121

địa phương, ban ngành, đoàn thể, vì thế những ý kiến tranh luận, thảo luận tại đại hội của các đại biểu về các chủ trương, đường lối của Đảng là rất cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng của văn kiện đại hội.

Kết quả điều tra xã hội học, khi được hỏi về quyền của đảng viên trong thảo luận các vấn đề về chủ trương, đường lối và các công việc của Đảng cho thấy: Trong số 1977 người được hỏi, ý kiến đánh giá “Rất tốt” chỉ chiếm 11.2%, “Tốt” chiếm 32.3% trong khi số đánh giá “Bình thường” là 41.9% và “Chưa tốt” chiếm 12.3%. Như vậy ý kiến đáng giá “Bình thường” trở xuống chiếm tới 54.2% (trên 50%), đó là chưa kể tới 2.3% không bày tỏ quan điểm (Xem bảng dưới).

Đánh giá Tần suất %

Không ý kiến 45 2.3

Rất tốt 222 11.2

Tốt 639 32.3

Bình thường 828 41.9

Chưa tốt 243 12.3

Tổng 1977 100.0

Quyền trong thảo luận các vấn đề về chủ trương, đường lối

C©u 1-1Ch−a tètB×nh th−êngTètRÊt tètKh«ng ý kiÕn

Per

cent

50

40

30

20

10

0

Page 123: 8160

122

Còn có những cán bộ lãnh đạo thiếu sâu sát thực tế, xa cách cán bộ, ít lắng nghe ý kiến của quần chúng và cấp dưới, đi tới những nhận định chủ quan, những chủ trương quyết định không phù hợp với đòi hỏi khách quan của cuộc sống. Trong trường hợp đó, dân chủ có khi bị lợi dụng, trở thành phương tiện hợp thức hoá cho những quyết định quan liêu, chủ quan của cá nhân người lãnh đạo. Nhiều khi trong quá trình lấy ý kiến đóng góp, do không được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và không được tìm hiểu thấu đáo các vấn đề có liên quan, nên việc lấy ý kiến, biểu quyết nhiều khi chỉ là hình thức, không chuẩn xác.

Bên cạnh đó, có nhiều chủ trương, chính sách không xuất phát từ thực tiễn mà áp đặt từ trên xuống, không phù hợp với mục tiêu, lợi ích của dân, nhất là vấn đề đền bù khi thu hồi đất đai, giải phóng mặt bằng. Nhiều vấn đề bức xúc trong dân chưa được giải quyết kịp thời, dân kêu mặc dân, cứ ra chính sách.

Nhiều ý kiến cho rằng, Đảng còn chưa thật sự tiếp thu các ý kiến đóng góp khác nhau của quần chúng nhân dân. Vừa qua có một số chủ trương của Đảng (xây lại nhà Quốc hội, khai thác Bôxit ở Tây Nguyên...) trước khi thực hiện có đưa ra để lấy ý kiến của các nhà khoa học, nhà hoạt động chính trị - xã hội, quần chúng nhân dân, nhưng Đảng ít tiếp thu các ý kiến đóng góp và cũng không công khai tranh luận, trao đổi lại, trong khi vẫn thực hiện theo kế hoạch đã được định trước. Như thế, người dân dễ cho rằng, việc lấy ý kiến chỉ mang tính hình thức (dân chủ hình thức), dân “nói thì cứ nói”, còn “việc ta, ta cứ làm”.

Có không ít cấp uỷ đưa dự thảo nghị quyết ra thảo luận rộng rãi, xin ý kiến đảng viên, nhưng cách thức tổ chức xin ý kiến nhiều khi còn hình thức, cấp ủy ít khi tiếp thu các ý kiến phản biện để hoàn thiện nghị quyết. Trước các kỳ đại hội Đảng, Đảng có lấy ý kiến góp ý từ các tổ chức cơ sở đảng và quần chúng nhân dân, nhưng những ý kiến đó ít được Đảng xem xét cẩn thận, có trách nhiệm để chắt lọc ra những “tinh túy” đóng góp cho văn kiện đại hội. Có ý kiến nhận xét rằng, khi nhận được các ý kiến đóng góp thì văn kiện đã viết xong rồi, cho nên các ý kiến chỉ thu lại không có người đọc và do đó, cũng không có ai tổng hợp để điều chỉnh văn kiện.

Vấn đề được đặt ra là làm sao để một đảng độc quyền lãnh đạo có cơ chế để kịp thời khẳng định những yếu tố mới xuất hiện trong xã hội, trong nhân dân để tránh khỏi sự trì trệ. Trong lịch sử Đảng ta, cơ chế khoán (Chỉ thị 100) phải từ 1966 đến 1981, tức là mất 15 năm mới kết luận được. Cơ chế xác định hộ nông dân

Page 124: 8160

123

là hộ tự chủ từ 1966 - 1988 (Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị) phải mất 22 năm. Từ khi nghiên cứu vai trò của kinh tế tư nhân (Nghị quyết đại hội VI) đến lúc xác định cơ chế hoạt động của nó phải mất 13 năm. Nếu Đảng có cơ chế tiếp thu các ý kiến của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, thì sẽ sớm khẳng định những nhân tố mới trong xã hội, đưa đất nước mau chóng phát triển.

- Các hình thức tập hợp, xin ý kiến quần chúng chưa đa dạng linh hoạt

Để thu hút sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân, cần tổ chức nhiều hình thức thu thập thông tin một cách linh hoạt. Hiện nay chúng ta mới chỉ làm theo một cách là cho quần chúng nhân dân thảo luận, góp ý kiến, sau đó thu thập các ý kiến về để xử lý. Ngoài ra, nên bổ sung thêm nhiều hình thức khác như: phỏng vấn cá nhân, điều tra bằng phiếu hỏi, đặt hòm thư xin ý kiến, trao đổi qua mạng v.v...Với cách thu thập thông tin đa dạng, chúng ta sẽ thu được các ý kiến khác nhau để nâng cao chất lượng của nghị quyết.

- Thiếu sự phản hồi, trả lời kịp thời, thỏa đáng trước các đơn thư, ý kiến đóng góp

Trong Điều lệ Đảng đã ghi rõ: “đảng viên có quyền kiến nghị các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời” nhưng trên thực tế, công tác trả lời các ý kiến đóng góp của đảng viên vẫn chưa có chuyển biến đáng kể nào. Nhiều đơn thư gửi đến các cơ quan có trách nhiệm nhưng không nhận được sự phản hồi và giải thích. Ngay cả những đồng chí nguyên là lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng phải nói rằng, thư của mình gửi đi nhưng không nhận được sự hồi âm. Sự thiếu tôn trọng các ý kiến đóng góp của đảng viên, Đảng sẽ mất đi một nguồn thông tin rất quan trọng từ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, làm Đảng sẽ ngày càng xa dân và không nhận được sự ủng hộ, tín nhiệm của quần chúng nhân dân.

- Những quyết sách lớn có liên quan trực tiếp tới lợi ích cuộc sống của người dân còn ít được đưa ra thảo luận, xin ý kiến đóng góp rộng rãi

Gần đây một số quyết sách lớn của Đảng như sát nhập Hà Tây vào Hà Nội, Đảng đã không lấy ý kiến từ người dân, không đưa ra thảo luận, nên đã gây ra dư luận không tốt về sự lãnh đạo độc đoán, thiếu tôn trọng dân của Đảng. Sát nhập Hà Nội và Hà Tây là một dự án lớn, liên quan trực tiếp đến lợi ích của hàng triệu người dân, nhưng người dân không hề được hỏi ý kiến. Cách làm chủ quan, áp đặt như thế đã gây ra những phản ứng khác nhau trong nhân

Page 125: 8160

124

dân và trong xã hội. Đây có thể được coi là một ví dụ điển hình về mất dân chủ trong Đảng và trong xã hội.

- Công tác tổ chức triển khai nghị quyết còn thụ động, đối phó

Xây dựng nghị quyết trước đại hội Đảng được tổ chức triển khai làm khá tốt, lấy ý kiến rộng rãi của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nhưng các chủ trương, các nghị quyết chuyên đề sau đại hội thì có nơi, có đơn vị còn ít lấy ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, vì thế còn có những chủ trương, quyết định không phù hợp, không sát với thực tế. Một số cấp uỷ cơ sở chưa thật sự bám sát các chủ trương, nghị quyết của cấp trên, chưa phát huy trí tuệ để đề ra những chủ trương, nghị quyết của cấp mình để lãnh đạo các nhiệm vụ chính trị sát hợp với thực tiễn địa phương, đơn vị. Có những nhiệm vụ đã được cấp trên đề ra nhưng cấp dưới chưa triển khai kịp thời hoặc có đề ra các chủ trương, nghị quyết nhưng không sát với yêu cầu thực tiễn, nhất là về lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội liên quan trực tiếp đến người dân.

Do không nghiên cứu kỹ lưỡng nên có nhiều chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế hoạch do cấp uỷ, chính quyền cơ sở đề ra không bảo đảm nội dung, chỉ nêu được nhiệm vụ mà thiếu các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể hoặc thiếu giải pháp, lộ trình và phân công trách nhiệm thực hiện. Một số cơ sở khi dự thảo nghị quyết, quyết định, kế hoạch… chưa thực hiện tốt dân chủ, chưa nghiên cứu toàn diện nên khi ban hành có điểm trái với nghị quyết cấp trên hoặc không được nhân dân đồng tình thực hiện.

Trong tổ chức thực hiện, một số cấp uỷ, chính quyền cơ sở chưa thật tích cực, chủ động triển khai các chủ trương, nghị quyết đã đề ra; trong quản lý và điều hành còn lúng túng, thụ động, hiệu quả chưa cao.

Công tác tổ chức triển khai nghị quyết còn chưa tốt, chưa kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình tổ chức thực hiện. Triển khai nghị quyết lúc đầu rầm rộ, sau cứ nhạt dần, nhạt dần, rồi quên lãng. Sau một vài năm mới nhận thức được nhưng lại vội vàng tiến hành sơ kết, tổng kết mang tính đối phó, hình thức.

Page 126: 8160

125

3. Một số hạn chế trong việc phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong quá trình tiến hành đại hội Đảng

- Việc cung cấp thông tin cho đại biểu còn biểu hiện dân chủ hình thức.

Đại hội Đảng toàn quốc và đại hội đảng bộ các cấp phải thật sự là nơi kết tinh cao nhất trí tuệ của toàn Đảng và từng đảng bộ. Muốn vậy phải phát huy dân chủ thật sự trong sinh hoạt đại hội. Một số đồng chí từng là uỷ viên Trung ương Đảng cho biết, việc cung cấp thông tin cho đại biểu còn biểu hiện dân chủ hình thức. Theo quy trình tiến hành đại hội, đại biểu được cung cấp các thông tin về đại hội với một cặp tài liệu, nhưng trên thực tế, do không có đủ thời gian để đọc và nghiên cứu nên đại biểu không thể nắm bắt được đầy đủ các thông tin đó.

- Việc thảo luận, tranh luận tại đại hội còn chưa được coi trọng.

Lâu nay, việc thảo luận, tranh luận phần nhiều chỉ tiến hành ở từng tổ, từng đoàn đại biểu mà còn ít được tiến hành ở phiên họp toàn thể, vì vậy, các đại biểu ít có điều kiện được trao đổi ý kiến rộng rãi. Không ít đại biểu còn ngại phát biểu ý kiến, nhất là những ý kiến mang tính “phản biện” vì ngại va chạm và đặc biệt tâm lý lo ngại bị “chụp mũ”. Cái khó ở đây là chúng ta chưa ban hành quy chế về dân chủ trong Đảng nên nhiều đại biểu còn phân vân, nêu vấn đề ra như thế nào là vừa và như thế nào là vi phạm kỷ cương. Do đó, các quy định ở đại hội vừa thể hiện tính tập trung, kỷ cương, song không nên quá cứng nhắc làm cho dân chủ trong đại hội không thể được phát huy.

d- Không nên coi việc giới thiệu những người vào Trung ương là “Tuyệt mật”

Không nên coi việc giới thiệu những người vào Trung ương là “Tuyệt mật” chỉ có lãnh đạo cấp cao nhất trong Đảng mới được biết, mà nên để đảng viên, nhân dân cũng được tham gia ngay từ đầu để Đảng tham khảo. Có vậy mới tránh được tình trạng “chạy trên, chạy dưới”.

Trong đại hội đảng các cấp, tuy đã thực hiện đúng quy chế bầu cử: số đề cử phải nhiều hơn số lượng cần bầu 10 %, nhưng do đại biểu không có đầy đủ thông tin về từng nhân sự được bầu, không có tham luận tranh cử, lại thêm những quy định không chính thức về cơ cấu (như bí thư tỉnh uỷ phải là uỷ viên trung ương, vào Bộ Chính trị ít nhất phải có 2 khoá là uỷ viên chính thức…) nên đại biểu thường đành đặt niềm tin vào công tác chuẩn bị nhân sự do các

Page 127: 8160

126

ban tham mưu của Đảng chuẩn bị. Như thế, về thực chất, dân chủ trong công tác bầu cử nhân sự tại đại hội chưa thể được coi là đã được phát huy tốt.

- Trách nhiệm của đại biểu dự đại hội Đảng sau đại hội chưa được phát huy đầy đủ.

Theo Điều lệ Đảng, “Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên”. Như thế, đại biểu dự đại hội Đảng không chỉ nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thời gian tiến hành đại hội mà còn phải có trách nhiệm đối với tổ chức, đơn vị bầu mình làm đại biểu trong suốt nhiệm kỳ đại hội (5 năm). Đại biểu của đại hội là người đại diện cho các tổ chức đảng ở Trung ương và địa phương nên họ cần có trách nhiệm trước Đảng trong việc lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân triển khai các nghị quyết của đại hội. Thực tế hiện nay, đại biểu dự đại hội xong là hết trách nhiệm, giao lại mọi quyền hạn cho Ban Chấp hành Trung ương, cho các cấp ủy đảng. Theo cách làm này, đại biểu đại hội Đảng chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình trước đại hội và các tổ chức đảng.

4. Một số hạn chế trong công tác bầu cử của Đảng

- Bầu cử cấp uỷ còn quá chú trọng vào cơ cấu, vị trí công tác

Bầu cử cấp uỷ trước hết phải căn cứ vào tiêu chuẩn của từng vị trí trong cấp uỷ, vào năng lực thực tiễn của cán bộ. Nhưng trong thực tế, bầu cử cấp uỷ vẫn còn có hiện tượng “sáng suốt lựa chọn theo cơ cấu vùng, miền; theo các cương vị công tác...” (phải là lãnh đạo của các tỉnh, bộ, sở; phải bảo đảm tỷ lệ cán bộ nữ...). Ở cương vị này thì đương nhiên phải được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, vào ban thường vụ hoặc cấp uỷ tương ứng. Như thế việc bầu cử trở thành dân chủ hình thức, không căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh để chọn người.

- Quy trình giới thiệu danh sách ứng cử viên cũng cần tiếp tục phải hoàn thiện để phát huy dân chủ

Điều lệ Đảng ghi nhận quyền đảng viên được ứng cử, đề cử nhưng chưa tạo những điều kiện để quyền đó được thực hiện một cách thuận lợi trên thực tế. Có nơi, có lúc dân chủ trong Đảng vẫn còn mang tính khiên cưỡng, áp đặt. Dân chủ có lúc bị lợi dụng, bỏ phiếu bổ nhiệm cán bộ có khi còn bị áp đặt theo định hướng, ý muốn của cấp trên hay lãnh đạo đơn vị.

Page 128: 8160

127

Trong đại hội Đảng việc chuẩn bị bầu cấp uỷ khoá mới là một nhiệm vụ trọng tâm. Tuy cấp uỷ khoá sắp hết hạn có trách nhiệm chuẩn bị nhân sự cho khoá sau, nhưng đó cũng chỉ là một kênh để tham khảo, chứ không phải là kênh quyết định. Đại hội mới có quyền đề cử và sáng suốt lựa chọn người tiêu biểu vào cấp uỷ khoá mới. Nhưng ở nhiều đại hội, nhiều khi đại biểu đã bỏ mất quyền lựa chọn của mình vì cách giới thiệu áp đặt của cấp uỷ khoá trước hay Đoàn chủ tịch đại hội.

Theo quy định của Điều lệ Đảng và Quy chế bầu cử, đảng viên hay đại biểu giới thiệu các ứng viên trước, sau đó mới báo cáo danh sách chuẩn bị của cấp uỷ khoá trước. Nhưng thực tế ở không ít đại hội, quy trình đó bị đảo ngược lại, Đoàn chủ tịch lại đưa ra danh sách giới thiệu của cấp uỷ khoá cũ, trước khi giới thiệu đại biểu ứng cử hoặc đề cử. Cách làm này làm nhiều người muốn ứng cử cũng ngại, vì thấy rằng như thế cũng sẽ rất khó trúng cử. Một số đại biểu muốn giới thiệu người mình chọn, nhưng lại sợ trái với ý muốn của cấp trên.

Việc chuẩn bị nhân sự khoá mới của cấp uỷ khoá cũ nhiều khi cũng còn dân chủ hình thức, còn phụ thuộc vào sự giới thiệu của một số cán bộ chủ chốt, các đại biểu không dám giới thiệu thêm.

Quy trình bầu cử tuy đã mở hơn (có số dư), nhưng vẫn bị bó lại ở giai đoạn cuối: thường chỉ còn lại một người, hoặc nếu có hai người, thì cũng đã có chỉ đạo chọn một người đã định sẵn. Cách làm theo kiểu áp đặt ấy đã dẫn đến sự thiếu tin tưởng của quần chúng nhân dân vào việc bầu cử.

Từ đại hội IX, Trung ương hướng dẫn việc chuẩn bị cấp uỷ các cấp có số dư 15 %. Nhưng có một số nơi đã biến chủ trương đúng đắn này thành dân chủ hình thức, bằng cách chọn nhân sự theo cách bố trí “quân xanh, quân đỏ”. Thêm nữa, càng lên cấp cao thì số dư trong bầu cử càng ít đi và có khi đến lúc bầu bí thư thì không còn số dư nữa (hầu hết là bầu tròn).

Như vậy, việc bầu cử có số dư chưa trở thành một chủ trương nhất quán và có khi cũng bị biến dạng thành dân chủ hình thức.

Trong bầu cử cấp uỷ cơ sở, còn có nơi có biểu hiện vận động, chia rẽ, bè phái, cục bộ và thậm chí có cả hiện tượng “mua phiếu” trước bầu cử.

Thực tế hiện nay, chỉ có Đảng giới thiệu đề cử thì mới được đưa ra để bầu, như thế là không dân chủ. Người ngoài Đảng cũng có rất nhiều người tài, nhưng không được tham gia đề cử vào cơ cấu lãnh đạo trong các cơ quan Nhà nước.

Page 129: 8160

128

- Đảng viên chưa được cung cấp đầy đủ thông tin về các ứng cử viên

Việc bầu cử các cấp uỷ đảng, các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy Đảng và Nhà nước trong nhiều trường hợp còn mang tính dân chủ hình thức, các đại biểu không có điều kiện hiểu rõ những người được cấp trên đề cử. Đại biểu nhiều khi chỉ biết được một số thông tin rất khái quát về các ứng viên nên việc lựa chọn người để bầu thường chỉ chú ý tới vị trí công việc của người đó đang đảm nhiệm và sự giới thiệu của tổ chức, không thể dựa vào năng lực công tác và phẩm chất đạo đức của các ứng viên đó (vì không có thông tin).

- Trong bầu cử chưa tạo điều kiện đề các ứng viên thể hiện năng lực của mình, chưa thực hiện tranh cử công khai

Đại hội Đảng chưa tạo điều kiện để các ứng viên, đặc biệt là các ứng viên vào các vị trí lãnh đạo cấp cao của Đảng, thể hiện năng lực của mình thông qua việc tổ chức cho các ứng viên đối thoại tranh cử công khai. Qua cách trình bày những đề án tranh cử và đối thoại giữa các ứng viên với nhau, giữa các ứng viên với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, người đi bầu hiểu rõ phẩm chất, năng lực và những kế hoạch sẽ thực hiện nếu trúng cử của các ứng cử viên, để từ đó mỗi người tự tìm ra người xứng đáng nhất.

- Những ứng viên vào các vị trí lãnh đạo của Đảng chưa lấy ý kiến tham khảo của quần chúng nhân dân

Hiện nay, chúng ta vẫn cho rằng việc bầu cử là công việc nội bộ của Đảng, chỉ đảng viên mới được tham gia bầu cấp uỷ, ban thường vụ và bí thư. Nhưng Đảng ta là Đảng cầm quyền, là Đảng của dân tộc, nên Đảng phải thể hiện vai trò lãnh đạo đất nước trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao...và như thế, sự lãnh đạo của Đảng có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển đất nước, tới sự ấm no, hạnh phúc của quảng đại quần chúng nhân dân. Do vậy, việc bầu ra người lãnh đạo của Đảng có đủ năng lực và phẩm chất không chỉ liên quan đến công việc nội bộ của Đảng, mà còn liên quan đến từng người dân. Người dân sẽ có cuộc sống tốt hơn hay kém đi có sự phụ thuộc vào tài năng của người lãnh đạo của Đảng. Vì thế, việc lựa chọn người lãnh đạo của Đảng, cần có sự tham gia của người dân. Những ý kiến của người dân, tuy là ý kiến tham khảo, nhưng cũng cần được trân trọng và xem xét khi lựa chọn ứng viên vào các vị trí lãnh đạo của Đảng.

Page 130: 8160

129

- Một số hạn chế trong quy trình tiến hành bầu cử

Bí thư là người có trách nhiệm cao nhất trong tổ chức đảng, vì thế cần phải được lựa chọn kỹ lưỡng, nhưng thực tế lại chưa được toàn thể đại hội bầu trực tiếp ở các kỳ đại hội Đảng cấp Trung ương, tỉnh, huyện. Các đại biểu đến dự đại hội Đảng là những người đã được lựa chọn, có đủ tầm trí tuệ để có thể phân tích, xem xét và bầu ra người lãnh đạo của Đảng có đủ năng lực lãnh đạo Đảng và đất nước. Vì thế, để đại hội bầu bí thư sẽ tăng thêm sự chính xác và uy tín của người trúng cử, đồng thời cũng là một bước tiến về dân chủ (thực hiện dân chủ trực tiếp) trong Đảng.

Trong bầu cử cấp uỷ cơ sở, còn có nơi có biểu hiện vận động, chia rẽ, bè phái, cục bộ và cả mua phiếu trước bầu cử. Ở những nơi có sự mất đoàn kết nghiêm trọng, trước các kỳ đại hội Đảng, thường có hiện tượng lợi dụng dân chủ để bôi nhọ, khiếu kiện người này, người kia, làm cho công tác nhân sự gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định sự đúng, sai.

5. Một số hạn chế trong công tác tư tưởng

- Quyền được thông tin

Đảng viên có quyền được thông tin đã được ghi trong Điều lệ Đảng, nhưng trong thực tế quyền này vẫn còn bị vi phạm. Đảng viên nhiều khi còn bị thiếu thông tin khi tham gia biểu quyết các nghị quyết, chủ trương của Đảng hay trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Đại biểu phải bỏ phiếu về một chủ trương của Đảng, nhưng lại không được cung cấp đầy đủ thông tin, nên việc bỏ phiếu không có cơ sở, chỉ dựa trên cảm tính cá nhân, vì thế nhiều khi thiếu chính xác. Trong bổ nhiệm cán bộ cũng như vậy: bỏ phiếu cho cán bộ được bổ nhiệm nhưng không có đủ thông tin về cán bộ đó nên nhiều khi bỏ phiếu sai, dẫn đến bổ nhiệm nhầm cán bộ.

Có những cán bộ, đảng viên vi phạm được báo chí nêu ra, được xã hội rất quan tâm, ví dụ trường hợp Nguyễn Việt Tiến, Đảng cũng còn chậm đưa ra những thông tin chính thức để giải thích tại sao Nguyễn Việt Tiến lại được giới thiệu ứng cử vào Ban Chấp hành Trung ương? Tại sao lại được ra tù? Công, tội đến đâu?... tất cả những điều đó vì thiếu thông tin nên ngay trong đội ngũ đảng viên cũng bán tin, bán nghi, không phân biệt được đúng sai. Vì thế việc thông tin kịp thời là vô cùng quan trọng, giải quyết nhanh những khúc mắc về tư tưởng trong cán bộ đảng viên và nhân dân.

Page 131: 8160

130

Trong tình hình hiện nay, những thông tin chống phá, nói xấu Đảng ta xuất hiện rất nhiều trên mạng, nhưng Đảng lại không có những thông tin phản bác lại những luận điểm đó, làm cho người dân cũng dễ bị lung lạc, không biết “trắng, đen” thế nào, và do đó cũng ảnh hưởng tới niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

- Tự do về tư tưởng trong Đảng chưa thật được cởi mở.

Nhiều ý kiến cho rằng, trong 19 điều cấm đảng viên không được làm, có những điều, ví dụ điều “đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết” đã hạn chế tới quyền tự do tư tưởng, phát huy sáng tạo của đảng viên. Đảng viên chỉ có thể nói và làm theo nghị quyết mà không có quyền nói và làm trái với nghị quyết. Đây là một nguyên tắc tổ chức đúng của Đảng, nhưng đồng thời cần bổ sung thêm là cho phép đảng viên đề xuất với Đảng những ý tưởng, những cách làm mới phù hợp với thực tiễn khách quan, nhưng có thể trái với nghị quyết của Đảng. Thực tiễn cho thấy, trong quá trình phát triển có thể có những vấn đề mới phát sinh mà nghị quyết chưa theo kịp (như trường hợp quan điểm khoán của đồng chí Kim Ngọc), thì đảng viên có quyền kiến nghị với Đảng để nghiên cứu và thay đổi. Nếu chỉ “nói và làm theo nghị quyết” thì không thể có sự sáng tạo, phát hiện vấn đề nảy sinh từ thực tiễn của đảng viên. Như vậy là đảng viên còn bị “bao cấp” về tư tưởng, đảng viên phải nói theo, không được nói khác nghị quyết. Đây cũng chính là nguyên nhân một số viện nghiên cứu về khoa học xã hội trong những năm vừa qua ít đề xuất được những vấn đề mới giúp cho Đảng phát triển, vì họ chỉ được giao nhiệm vụ tập trung nghiên cứu để minh hoạ cho những chủ trương đường lối của Đảng mà thôi.

- Hạn chế về quyền được trình bày ý kiến, đối thoại

Do chưa có quy chế dân chủ trong sinh hoạt lý luận và tư tưởng, nên quyền sáng tạo trong tư tưởng cũng có những hạn chế. Vì sợ bị quy chụp, nên trong nghiên cứu khoa học xã hội thường có tình trạng nghiên cứu một chiều, minh hoạ cho những chủ trương có sẵn. Chưa tạo ra không khí thật sự cởi mở, tổ chức những diễn đàn để tranh luận về những quyết sách, chủ trương lớn của Đảng trước khi được ban hành chính thức. Thông qua những cuộc tranh luận như thế, chắc chắn Đảng sẽ có thêm thông tin để làm cơ sở cho việc xây dựng những quyết sách của mình một cách đúng đắn.

Page 132: 8160

131

Khi phát sinh những ý kiến khác nhau, kể cả những ý kiến trái chiều, đảng viên không biết được trình bày ý kiến, tranh luận ở đâu. Chẳng hạn, đảng viên muốn tranh luận, đối thoại về một chủ trương của Đảng (như xây Hội trường Ba Đình, khai thác bôxis ở Tây Nguyên, sát nhập Hà Tây vào Hà Nội...) thì sẽ phải làm như thế nào? Đối thoại với ai và đối thoại ở đâu? Cách thức tiến hành đối thoại, tranh luận như thế nào? Có cho phép đảng viên nói hết những suy nghĩ của mình không? Kết quả đối thoại có được Đảng chú ý lắng nghe hay không? Việc tạo diễn đàn để đảng viên được nói, được trình bày ý kiến, phản ánh những bức xúc của người dân vừa tránh được việc truyền tay nhau những thông tin không chính thức, vừa thông qua các diễn đàn này mà Đảng có thể thu thập được những sáng kiến hay từ phía quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên.

Đánh giá về việc thực hiện quyền của đảng viên được trình bày ý kiến của mình, chúng tôi có kết quả được cho ở bảng sau:

Đánh giá Tần suất %

Không ý kiến 186 9.4

Rất tốt 120 6.1

Tốt 726 36.7

Bình thường 867 43.9

Chưa tốt 78 3.9

Tổng 1977 100.0

Đánh giá quyền của đảng viên được trình bày ý kiến

Ngoài 9.4% không có ý kiến, chỉ có 6.1% đánh giá “Rất tốt”, 36.7% đánh giá “Tốt” trong khi có tới 43.9% đánh giá “Trung bình” và còn 3.9% đánh giá “Chưa tốt”. Nghĩa là số đánh giá “Trung bình” trở lại vẫn chiếm quá nửa số người được hỏi (chúng tôi cho rằng, số “Không có ý kiến” có xu hướng lựa chọn 2 phương án sau).

- Ở một số tổ chức cơ sở đảng, vẫn còn tình trạng áp đặt về tư tưởng.

Cách thức tuyên truyền của Đảng ta còn ảnh hưởng của cách tuyên truyền trong chiến tranh “ta tốt, địch xấu”, chỉ thấy có thắng lợi mà không thấy thất bại,

Page 133: 8160

132

không thấy những khó khăn thực sự mà toàn Đảng và nhân dân ta phải vượt qua trong từng giai đoạn. Cách tuyên truyền theo lối áp đặt một chiều ấy không còn phù hợp với thời đại ngày nay, khi mà các nguồn thông tin và các cách tiếp cận thông tin đã có những thay đổi nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Chính vì thế nếu không có cách tiếp cận thông tin nhiều chiều, đảng viên sẽ tự tìm hiểu thêm những nguồn thông tin khác để bổ sung thêm, và như thế Đảng sẽ tự hạn chế hiệu quả công tác tuyên truyền của mình.

Ở một số tổ chức đảng, vẫn còn tình trạng cán bộ, đảng viên thường nói theo, bàn theo ý của cấp trên, người lãnh đạo (ban chấp hành thuận theo ý của thường vụ, thường vụ thuận theo ý kiến của thường trực, thường trực thuận theo bí thư). Cách áp đặt về tư tưởng như thế không thể phát huy được trí tuệ của cá nhân và tập thể. Tạo ra tình trạng “đồng ý nhưng không đồng thuận” trong đội ngũ đảng viên.

6. Một số hạn chế trong việc phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong sinh hoạt Đảng

- Sinh hoạt của Ban Chấp hành Trung ương

Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo chính trị cao nhất giữa hai kỳ đại hội của Đảng. Trong sinh hoạt của Ban Chấp hành Trung ương có nhiệm vụ đánh giá việc triển khai nghị quyết đại hội Đảng vào thực tiễn. Tuy vậy, công việc này còn ít được bàn bạc, kiểm điểm tại các hội nghị Trung ương. Chính vì thế có nghị quyết của Đảng triển khai đã lâu, nhưng việc tổng kết đánh giá thường chậm, hạn chế đến việc khắc phục, điều chỉnh kịp thời những điểm chưa phù hợp với thực tiễn của nghị quyết.

Trong một nhiệm kỳ đại hội Đảng, do mỗi kỳ họp Trung ương phải thông qua một, hai, thậm chí là ba nghị quyết của Đảng, nên các đồng chí ủy viên Trung ương cũng khó có thể nắm vững các vấn đề ở từng nghị quyết, vì thế việc tham gia góp ý để nâng cao chất lượng của nghị quyết cũng còn nhiều vấn đề phải được quan tâm hơn nữa.

Các đề án, chủ trương, chính sách của Đảng, thường được giao cho bộ phận tham mưu, các bộ, ngành xây dựng. Tuy vậy, trong quá trình xây dựng các đề án, chủ trương, chính sách, các đồng chí Ủy viên Trung ương chưa thể hiện rõ vai trò chỉ đạo, trách nhiệm cá nhân, nên sự tham gia đóng góp trí tuệ, sáng tạo cho các chủ trương, chính sách của Đảng chưa được nhiều.

Page 134: 8160

133

Trong quá trình thảo luận và thực hiện một số chủ trương lớn của Đảng, do chưa được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết, nên một số đồng chí Ủy viên Trung ương chưa phát huy được hết sự đóng góp của mình, do vậy một số đề án tuy được Ban Chấp hành Trung ương thông qua, nhưng chưa nhận được sự đồng thuận của Quốc hội.

Việc chuẩn bị nhân sự khóa mới của ban chấp hành khóa cũ nhiều khi cũng còn dân chủ hình thức, còn phụ thuộc vào sự chuẩn bị của bộ phận tham mưu về công tác tổ chức cán bộ, vào sự giới thiệu của một số cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng chứ chưa có sự bàn bạc, trao đổi kỹ lưỡng của các đồng chí Ủy viên Trung ương.

- Sinh hoạt của Bộ Chính trị, Ban Bí thư

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã đóng vai trò hạt nhân của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Nếu trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư mất đoàn kết thì nguy cơ trong Đảng sẽ có “bè phái” chia rẽ. Mất dân chủ trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng sẽ dễ dẫn đến mất dân chủ trong Ban Chấp hành Trung ương, trong toàn Đảng.

Tuy đã xây dựng quy chế làm việc của Bộ Chính trị, Ban bí thư, nhưng trong sinh hoạt của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, việc thể hiện vai trò tập thể thì tốt, nhưng vai trò và trách nhiệm cá nhân chưa đủ rõ. Trong các hội nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư, có đồng chí ít tham gia đóng góp ý kiến và có một số ý kiến trong hội nghị còn chưa ngang tầm. Bộ chính trị có chủ trương phát huy dân chủ, tập trung được trí tuệ của các đồng chí Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng trong thảo luận các đề án. Tuy vậy, do các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng phải đảm nhiệm quá nhiều công việc, nên một số đồng chí đến hội nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa nghiên cứu sâu các đề án, các vấn đề cần đưa ra thảo luận, nên ảnh hưởng đến chất lượng thảo luận, kết luận. Thêm vào đó, bộ máy tham mưu giúp việc lại yếu, nên đã ảnh hưởng đến chất lượng của một số đề án.

Tuy được tự do bày tỏ chứng kiến, song trong các hội nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư những ý kiến “phản biện”, đặt ngược các vấn đề chưa nhiều. Những vấn đề “gai góc”, vấn đề nhân sự còn ít được tranh luận, thảo luận để làm sáng tỏ. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng có một số biểu hiện chưa thật tốt, ngại đấu tranh thẳng thắn. Nhiều vấn đề hệ trọng về đường lối phải làm rõ, nhưng thấy gay

Page 135: 8160

134

gắt, còn nhiều ý kiến khác nhau thì dừng lại, ngại tìm cách khắc phục. Trong quan hệ cá nhân thì chan hoà, không xa cách, song lại né tránh những vấn đề gai góc trong công việc, trong thảo luận, tranh luận, dễ dàng thoả hiệp những vấn đề về chủ trương, đường lối của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ có lúc đã không được thể hiện đầy đủ, tập thể đã dân chủ bàn bạc, nhưng người đứng đầu lại không quyết, làm chậm việc ra quyết định, ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả công việc.

Đánh giá về việc phát huy dân chủ ở cấp Trung ương, chúng tôi có kết quả sau:

Đánh giá Tần suất %

Không ý kiến 360 18.2

Rất tốt 105 5.3

Tốt 570 28.8

Bình thường 792 40.1

Chưa tốt 150 7.6

Cộng 1977 100.0

Đánh giá việc phát huy dân chủ ở cấp Trung ương

Ngoài số 18.2% không có ý kiến (do không phải ai cũng có thể nghe và biết được việc sinh hoạt đảng ở các cơ quan cấp Trung ương), chỉ có 5.3% đánh giá “Rất tốt”, 28.8% đánh giá “Tốt”, ý kiến đánh giá “Bình thường” chiếm tới 40.1% và còn 7.6% cho rằng “Chưa tốt”.

So sánh với đánh giá vấn đề này ở cấp tỉnh và cấp cơ sở, ta có các kết quả tương ứng (xem bảng).

Đánh giá Tần suất Tỷ lệ (%)

Không ý kiến 231 11.7

Rất tốt 72 3.6

Tốt 783 39.6

Bình thường 834 42.2

Chưa tốt 57 2.9

Tổng 1977 100.0

Page 136: 8160

135

Đánh giá việc phát huy dân chủ ở cấp tỉnh

Đánh giá Tần suất Tỷ lệ (%)

Không ý kiến 87 4.4

Rất tốt 135 6.8

Tốt 867 43.9

Bình thường 801 40.5

Chưa tốt 87 4.4

Tổng 1977 100.0

Đánh giá việc phát huy dân chủ ở cấp cơ sở

Có 28.8% đánh giá “Tốt” cho cấp Trung ương, trong khi với cấp tỉnh và cơ sở thì đánh giá tương ứng là 39% và 43%. Kết quả kiểm định cho thấy có sự khác biệt của những người được hỏi khi đánh giá về vấn đề phát huy dân chủ trong Đảng ở các cấp theo xu hướng cấp Trung ương kém cấp tỉnh, cấp tỉnh kém cấp cơ sở.

- Trong sinh hoạt đảng ở cơ sở

Nội dung sinh hoạt đảng còn chưa chú trọng để đảng viên trao đổi thảo luận về những vấn đề liên quan tới công tác xây dựng Đảng

Tuy đã có hướng dẫn của Trung ương về đổi mới nội dung sinh hoạt Đảng, nhưng nói chung, nội dung sinh hoạt chi bộ còn nghèo nàn, chủ yếu bàn công tác chuyên môn, thông tin thời sự, chính sách mới. Trong sinh hoạt chủ yếu lãnh đạo đơn vị phổ biến kế hoạch công tác chuyên môn để thực hiện, chứ ít chú ý đến việc bàn bạc, trao đổi, góp ý kiến về nội dung công việc.

Sinh hoạt tư tưởng là nội dung hết sức quan trọng trong sinh hoạt đảng, là biểu hiện dân chủ của tổ chức đảng. Thông qua các cuộc tranh luận như thế, Đảng sẽ nắm được tâm tư nguyện vọng, những ý kiến của đảng viên đóng góp cho các chủ trương, chính sách mới của Đảng. Đồng thời đảng viên cũng nắm vững chắc hơn các chủ trương, đường lối của Đảng. Nhưng đáng tiếc là còn nhiều chi bộ chưa thật coi trọng vũ khí này. Trong sinh hoạt chi bộ, đảng viên có rất ít cơ hội tìm hiểu, tranh luận, thảo luận về những chủ trương, đường lối của Đảng đã hay sắp ban hành.

Page 137: 8160

136

Trong sinh hoạt đảng, ở nhiều tổ chức đảng, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động tham gia đóng góp của đảng viên vào công tác xây dựng Đảng. Ở một số nơi khi thảo luận các chủ trương của Đảng còn có biểu hiện chưa thật nghiêm túc, còn qua loa chiếu lệ, chủ yếu nói theo người đứng đầu.

Bí thư đảng bộ, chi bộ các cấp có vai trò rất lớn tới trong việc phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng. Mở rộng dân chủ giúp cho lãnh đạo có chất lượng và hiệu quả cao hơn. Nhưng một số cán bộ, khi đã ở vị trí lãnh đạo lại cố tìm cách né tránh việc mở rộng dân chủ, cho rằng như vậy là hạn chế quyền lực của mình. Do đó, người nắm quyền thường dễ lạm quyền, lộng quyền. Trong khi đó, nhiều đảng viên và cán bộ cấp dưới không dám nói và làm trái ý cấp trên, sợ bị thành kiến, không được lên chức, lên lương, ảnh hưởng đến mình, không dám thẳng thắn sử dụng quyền dân chủ mà Điều lệ Đảng đã trao cho, thậm chí có thái độ xu nịnh, cơ hội. Điều đó càng nuôi dưỡng bệnh chủ quan và quan liêu của người lãnh đạo. Tình cảm đồng chí, đồng đội giữa những người cùng chung lý tưởng cách mạng bị phai nhạt. Mối quan hệ đồng chí đã bị hành chính hoá, chỉ còn là quan hệ lãnh đạo và bị lãnh đạo, có sự cách biệt trong mức sống, lối sống, cách nghĩ giữa người có chức có quyền và người dưới quyền.

Dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, vẫn còn tình trạng dân chủ hình thức. Tình trạng thiếu dân chủ trong Đảng, thường đi đôi với việc lãnh đạo, quản lý độc đoán, chuyên quyền, thậm chí gia trưởng. Có tình trạng nói năng vô tổ chức là do trong sinh hoạt nội bộ thiếu dân chủ, không được nói hoặc không dám nói, bị thành kiến, quy chụp về tư tưởng, cho nên đã "xì" ra ngoài tổ chức. Vì sao có hiện tượng "khoán chui" trong nông nghiệp ngày trước? Đó là bởi cấp trên quan liêu không sát thực tế, đã phê phán chụp mũ cấm đoán cấp dưới. Tại sao nơi này nơi kia có hiện tượng "xé rào", tự đặt ra chế độ chính sách? Đó là vì cơ chế chính sách cũ không còn phù hợp nhưng lãnh đạo quan liêu hoặc bảo thủ chậm sửa đổi, cấp dưới do thúc bách của thực tiễn, của quần chúng đã buộc phải tìm cách "lách luật"...

Ngược lại, có tình trạng dân chủ không đi đôi với kỷ luật, kỷ cương: nói và làm tuỳ tiện; nói không đi đôi với làm; chấp hành nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị của cấp trên không nghiêm…. Còn nhiều vi phạm trong việc thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Một số nơi, bí thư hoặc thường trực cấp uỷ quyết định những vấn đề quan trọng, những chủ trương lớn...

Page 138: 8160

137

thuộc thẩm quyền của Ban thường vụ. Mặt khác không ít nơi lại quá nhấn mạnh “dân chủ tập thể” nên từng thành viên lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm cá nhân. Thành tựu là của cá nhân, còn sai lầm gây hậu quả nghiêm trọng thì cả tập thể phải chịu trách nhiệm và trên thực tế sẽ không có ai phải chịu trách nhiệm, từ đó dẫn đến bệnh vô trách nhiệm cá nhân của người lãnh đạo.

Còn có nơi, các cấp lãnh đạo chưa có kế hoạch định kỳ trực tiếp lắng nghe và giải quyết kịp thời những ý kiến phản ánh của cấp dưới, đặc biệt là những ý kiến “trái chiều”.

Nguyên tắc lãnh đạo tập thể ở một số tổ chức đảng còn bị vi phạm. Ở không ít cấp uỷ, ban thường vụ trong thực tế biến thành cấp trên của ban chấp hành, uỷ viên ban chấp hành trong thực tế chủ yếu là người tiếp thu và truyền đạt ý kiến của ban thường vụ. Ban thường vụ không tôn trọng và lắng nghe ý kiến của các uỷ viên ban chấp hành, không thường xuyên nghiêm túc báo cáo công việc đã làm trước ban chấp hành, còn các uỷ viên ban chấp hành thì ngoài các kỳ sinh hoạt tập thể, không phản ánh những ý kiến và kinh nghiệm của mình cho các cơ quan thường trực cấp uỷ.

Về phương pháp công tác, nhiều khi không coi trọng giáo dục, thuyết phục, nặng về dùng mệnh lệnh, biện pháp hành chính. Có những cán bộ lãnh đạo mang nặng bệnh quan liêu, gia trưởng, độc đoán, đặt mình lên trên tập thể, không chịu sự kiểm soát của tổ chức. Dân chủ có khi trở thành hình thức hợp thức hoá cho những quyết định quan liêu, chủ quan của cá nhân người đứng đầu. Chưa tạo điều kiện đầy đủ cho các cấp uỷ viên, cho đảng viên, cán bộ nắm được thông tin, được nghiên cứu thấu đáo vấn đề cho nên việc lấy ý kiến, biểu quyết nhiều khi chỉ là chiếu lệ, không chuẩn xác.

Thực tế cho thấy, còn có tổ chức Đảng chưa thật sự tôn trọng quyền bảo lưu ý kiến của thiểu số, đặc biệt những ý kiến trái chiều, không bảo đảm định kỳ xem xét lại các ý kiến của thiểu số dưới ánh sáng của thực tiễn mới.

Đã có không ít ý kiến của thiểu số nhưng đúng và rất đáng trân trọng. Cần nghiên cứu kịp thời, tránh kéo dài như trường hợp "khoán hộ" của Vĩnh Phú thực hiện từ năm 1966, nhưng phải đến năm 1981 Ban Bí thư mới thảo luận và từ đó ra đời Chỉ thị 100. Trước đó là ý kiến thiểu số có thể là thực tiễn lúc đó có thể chưa chín muồi nên phải có thời gian. Vấn đề là không được định

Page 139: 8160

138

kiến với ý kiến thiểu số, phải coi trọng quyền bảo lưu ý kiến của thiểu số và phải bảo đảm định kỳ xem xét lại ý kiến đó.

Hạn chế trong phê bình và tự phê bình trong sinh hoạt Đảng

Qua trao đổi với nhiều tổ chức Đảng, từ Trung ương tới cơ sở đều có một nhận định khá thống nhất là hiện nay, trong sinh hoạt Đảng, ý thức tự phê bình và phê bình của nhiều đảng viên, tổ chức đảng giảm sút, thậm chí bị tê liệt. Tình trạng xuê xoa, thoả hiệp, né tránh, ngại đấu tranh với những sai lầm, khuyết điểm của đảng viên. Thái độ “dĩ hoà vi quý”, “anh không động đến tôi, tôi không động đến anh”… nhiều khi làm tê liệt cả một tổ chức đảng. Hiện tượng có quá nhiều tổ chức đảng đạt danh hiệu trong sạch, vững mạnh đã cho thấy tính chiến đấu trong Đảng bị giảm sút, đảng viên không dám đấu tranh với những hiện tượng sai trái làm ảnh hưởng tới uy tín của Đảng. Các vụ tiêu cực trong nội bộ Đảng, nhất là đối với đảng viên có chức, có quyền chủ yếu do nhân dân hay báo chí nêu ra, có quá ít vụ việc tiêu cực được phát hiện do đấu tranh phê, tự phê bình trong các tổ chức Đảng.

Là Đảng nắm chính quyền, trong Đảng thường có những tổ chức và đảng viên chỉ thích nghe ưu điểm, thành tích, không thích nghe phê bình khuyết điểm, không chịu sự kiểm tra của tập thể cấp dưới, thậm chí trấn áp cấp dưới, xu nịnh, luồn cúi cấp trên, báo cáo không trung thực thành tích để mưu lợi ích riêng hay lợi ích cục bộ. Lại có những đảng viên sợ bị đụng chạm đến quyền lợi, địa vị, cấp bậc, sợ bị truy chụp, bị thành kiến nên ngại đấu tranh phê bình.

Có những biểu hiện hình thức chủ nghĩa và sai trái trong tự phê bình và phê bình: tự phê bình và phê bình không căn cứ vào tình hình thực tế, không nhằm thúc đẩy công việc, mà lại nhằm đả kích cá nhân; không nhằm nâng cao chất lượng chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết, cải tiến lãnh đạo, giữ gìn phẩm chất cách mạng của đảng viên, mà lại đi vào những vấn đề vụn vặt thuộc về sinh hoạt.

Cũng chính vì đấu tranh yếu, mà ở không ít tổ chức đảng khi tiến hành giới thiệu nhân sự, lúc thăm dò ý kiến thì nhất trí cao, nhưng khi bỏ khiếu kín thì trái ngược lại ý kiến ban đầu, làm cho cấp trên không có cơ sở để đánh giá cán bộ, dẫn đến bị động trong khâu chuẩn bị nhân sự cấp uỷ.

Trước các kỳ đại hội hay kỳ bổ nhiệm cán bộ, thường xảy ra hiện tượng vì lợi ích cá nhân hay lợi ích cục bộ mà đã có một số đảng viên lợi dụng dân

Page 140: 8160

139

chủ để bôi nhọ, tố cáo, phê phán, đả kích nhau. Hiện tượng đơn thư nặc danh, mạo danh đã xảy ra khá nhiều. Các cơ quan chức năng mất rất nhiều thời gian để xem xét, giải quyết. Có trường hợp, vì thời gian quá ngắn chưa thể làm rõ được sự đúng sai, nên đã làm mất đi cơ hội tham gia cấp uỷ của cán bộ (mà sau đó đã xác minh những tố cáo cán bộ đó trước đại hội là sai) .

7. Trong công tác tổ chức, cán bộ của Đảng

a/ Trong công tác tổ chức

Theo Điều lệ Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, ban chấp hành đảng bộ, chi bộ là cơ quan lãnh đạo của Đảng giữa hai nhiệm kỳ đại hội. Nhưng trong thực tế, có ý kiến cho rằng, trong một số trường hợp, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Thường vụ đã vượt quyền của Ban Chấp hành Trung ương, Ban chấp hành Đảng bộ.

Các ban của Đảng, với chức năng chính là tham mưu về các chủ trương, đường lối của Đảng, nên nhiệm vụ trọng tâm của các ban Đảng là nghiên cứu khoa học để có cơ sở xây dựng các nghị quyết của Đảng, do đó phải tập trung sức lực để thực hiện tốt công việc này. Tránh tình trạng các ban Đảng quá tập trung cho những công việc quản lý mà coi nhẹ công tác nghiên cứu khoa học.

Một số nơi, một số cơ quan, đơn vị, tổ chức đảng đoàn, ban cán sự hoạt động rất hình thức, không có hiệu lực và hiệu quả thực tế, tăng thêm các hình thức trung gian, ảnh hưởng không nhỏ trong hoạt động của các cơ quan chỉ đạo, lãnh đạo và cơ quan thực hiện.

b/ Trong công tác cán bộ

- Nhận thức, quan niệm về những chuẩn mực giá trị trong công tác cán bộ còn chưa thật chuẩn xác, ảnh hưởng tới việc phát huy dân chủ trong đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ.

Trong đánh giá cán bộ nhiều khi chưa thực sự coi trọng hiệu quả công tác; đề cao quan hệ cá nhân và thành phần xuất thân; quan niệm máy móc, khắt khe về lối sống, cách sinh hoạt của cá nhân. Trong sử dụng cán bộ, còn quá đề cao bằng cấp mà chưa coi trọng năng lực thực tiễn; chú trọng cán bộ lãnh đạo, quản lý, coi nhẹ chuyên gia, cán bộ nghiên cứu; coi trọng kinh nghiệm hơn tri thức khoa học; quá chú trọng về cơ cấu thành phần trong cơ quan lãnh đạo.

Page 141: 8160

140

Quan niệm không rõ về giữ gìn đoàn kết nội bộ và thảo luận, tranh luận dân chủ, thẳng thắn trong tổ chức...

Trong dùng người vẫn theo cơ chế “tuần tự thăng tiến”, “sống lâu lên lão làng”, chưa thực sự căn cứ vào năng lực thực tế và công tác đào tạo cán bộ kế cận, nên cán bộ trẻ tài năng khó có cơ hội sớm giữ các cương vị lãnh đạo. Chưa thật bám sát tiêu chuẩn trong đánh giá, quy hoạch, sử dụng và bố trí cán bộ, mà còn phụ thuộc nhiều vào người lãnh đạo, vào sự thoả hiệp, dàn xếp giữa các nhóm với nhau. Vẫn còn tình trạng vì người mà xếp việc; Chưa làm tốt công tác công khai minh bạch trong công tác cán bộ, nên tạo ra sự dị nghị trong cán bộ, đảng viên và tạo cơ hội cho những kẻ xấu lợi dụng.

Công tác đánh giá cán bộ còn nhiều yếu kém chậm được khắc phục; đánh giá cán bộ còn mang tính hình thức, chủ quan và làm theo lối cũ; đánh giá cán bộ sơ sài, chung chung, chủ yếu chỉ nêu ưu điểm, né tránh khuyết điểm, thiếu khách quan, chưa lấy chất lượng, hiệu quả công tác làm thước đo chủ yếu.

Nguyên nhân của thực trạng trên do tâm lý cục bộ, nể nang, né tránh, xuôi chiều còn khá phổ biến trong sinh hoạt Đảng và trong công tác cán bộ, chưa thật sự dân chủ và công khai trong đánh giá; thiếu quy định rõ ràng về trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ. Một số đơn vị chưa thực hiện nghiêm túc việc tổ chức đánh giá theo quy trình đã quy định, còn xuê xoa, nể nang nhau trong nhận xét, đánh giá; tình trạng mất đoàn kết ở một số đơn vị làm cho công tác đánh giá cán bộ hoàn toàn bị sai lệch, không dựa trên các tiêu chí đánh giá mà dựa trên tình cảm bè phái, thân quen. Việc công khai kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ tại nhiều cơ quan, đơn vị mới chỉ công khai kết quả đánh giá cán bộ được đưa vào quy hoạch, luân chuyển hay bổ nhiệm đề bạt; còn kết quả đánh giá cán bộ hằng năm thường chỉ được công khai trong ban thường vụ, cấp uỷ; chưa tạo ra được cơ chế kiểm tra, giám sát và chưa thực sự coi trọng việc tham khảo ý kiến, nhận xét từ phía quần chúng nhân dân để có thêm các cứ liệu đánh giá đúng cán bộ.

Đánh giá cán bộ được thực hiện chủ yếu trong nội bộ nhóm lãnh đạo, chưa thu thập ý kiến của số đông đảng viên trong đơn vị. Theo quy trình đánh giá cán bộ hiện nay, nếu cấp uỷ lành mạnh thì tốt, nhưng nếu cấp uỷ “có vấn đề” thì người đứng đầu sẽ lấn át hết, sẽ làm hỏng cả quy trình và làm sai lệch kết quả đánh giá.

Page 142: 8160

141

Đánh giá cán bộ dựa trên các tiêu chí hiện nay chưa chọn ra được người thực tài, xuất sắc nhất, mà chỉ được người trung bình. Có ý kiến cho rằng, theo cách đánh giá này, thì ai cũng có thể làm cán bộ lãnh đạo được, vì chỉ cần người trung bình cũng có thể đưa địa phương phát triển lên được từ 20% đến 30%, trong khi thực tế nó có thể phát triển lên đến 100%, nếu có người xuất sắc lãnh đạo.

Trong quy trình luân chuyển cán bộ có khâu còn chưa bảo đảm dân chủ. Lựa chọn cán bộ luân chuyển còn thiếu sự bàn bạc công khai dân chủ, thường chỉ bàn trong nhóm lãnh đạo, nhiều khi không thật chính xác. Đánh giá cán bộ trong thời gian luân chuyển còn chủ quan, chỉ trong cấp lãnh đạo, mà chưa lấy ý kiến tham gia của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Công tác quy hoạch chưa tạo cơ hội cạnh tranh bình đẳng cho mọi cán bộ có đủ tiêu chuẩn.

Một trong những yêu cầu của công tác quy hoạch là “mở” và “động”, nhưng trong thực tế nhiều cơ quan, đơn vị chưa thực hiện “mở” hoàn toàn, mà mới “nửa kín, nửa mở”, không công khai cho toàn thể cán bộ được biết danh sách cán bộ trong quy hoạch, mà chỉ thông báo cho một số cán bộ chủ chốt, vì thế cán bộ chỉ biết và suy đoán người này hay người kia trong quy hoạch qua các nguồn thông tin không chính thức, chứ không biết được chính xác những ai ở trong quy hoạch. Cách làm như thế đã không tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các cán bộ trong quy hoạch và cũng không tạo điều kiện để cán bộ, quần chúng giám sát quá trình phấn đấu của cán bộ trong quy hoạch.

Quy hoạch cán bộ vẫn còn bị khép kín, chưa tạo ra sự liên thông cán bộ giữa các cấp Trung ương - tỉnh - huyện - xã. Thực trạng hiện nay, mỗi cấp chỉ làm quy hoạch cán bộ trong phạm vi cấp của mình, cấp Trung ương làm quy hoạch chỉ chú ý đến cán bộ ở cấp Trung ương mà chưa chú ý tới cán bộ cấp tỉnh, huyện. Tương tự như vậy, trong quy hoạch cán bộ cấp tỉnh chưa chú ý đưa vào cán bộ cấp huyện, xã, hay ngược lại, trong quy hoạch cán bộ cấp huyện, xã chưa có cán bộ cấp tỉnh. Chính vì cách làm quy hoạch chưa tạo ra sự liên thông cán bộ giữa các cấp đã làm hạn chế sự “cạnh tranh” chức vụ, làm mất đi cơ hội phấn đấu vươn lên của cán bộ.

Một điểm hạn chế nữa trong công tác quy hoạch là vì có nguyên tắc “chỉ bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch”, điều đó làm cho cán bộ trong quy hoạch

Page 143: 8160

142

luôn bị một số cán bộ không tốt tìm cách gièm pha, nói xấu, bôi nhọ, vu khống (đặc biệt ở những nơi có sự mất đoàn kết nội bộ) làm ảnh hưởng tới uy tín của cán bộ, cản trở tới việc phấn đấu của cán bộ. Mặt khác, việc “chỉ bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch” cũng có hạn chế là làm mất đi cơ hội thăng tiến của nhiều cán bộ không trong quy hoạch, làm giảm sút ý chí phấn đấu của họ, khó sớm đưa cán bộ trẻ vào các vị trí lãnh đạo.

Chưa có quy hoạch cán bộ cấp chiến lược.

Hiện nay các cấp đã xây dựng được quy hoạch cán bộ, nhưng riêng đối với cán bộ cấp chiến lược lại chưa có quy hoạch. Chính vì thế cứ đến các kỳ đại hội Đảng chúng ta lại gặp khó khăn trong công tác chuẩn bị nhân sự. Trình độ, năng lực, phẩm chất của cán bộ cấp chiến lược có vai trò quyết định tới vận mệnh phát triển của đất nước, do đó đội ngũ này cần phải được quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cẩn thận, theo một quy trình đặc biệt. Cán bộ cấp chiến lược trong quy hoạch cần được sớm công khai để mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân được biết, để theo dõi và giám sát.

Công tác quản lý cán bộ còn nhiều yếu kém

Chế độ trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa được quy định rõ, hoặc chưa hợp lý. Chưa làm tốt quy trình dân chủ hoá, công khai hoá và minh bạch hoá công tác cán bộ. Công tác bổ nhiệm đề bạt cán bộ chưa thực sự coi trọng, chưa lấy tiêu chuẩn của vị trí lãnh đạo cần bổ nhiệm làm yêu cầu chủ yếu để lựa chọn cán bộ, mà chủ yếu vẫn dựa vào thành tích công tác hay uy tín cá nhân qua thăm dò ý kiến quần chúng.

Hiện tượng tuyển dụng những cán bộ không đủ năng lực và trình độ đảm đương các công việc của Nhà nước, của Đảng hay trong các đoàn thể chính trị - xã hội đang gây nên sự bất bình trong xã hội, giảm lòng tin của nhân dân.

Cấp uỷ nắm công tác tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, nhưng lại không chịu trách nhiệm về hiệu quả công tác của cán bộ. Trong khi đó người đứng đầu - người sử dụng cán bộ lại chưa được coi trọng đúng mức.

Người đứng đầu một tổ chức là người sử dụng cán bộ, chịu trách nhiệm về hiệu quả công tác của cán bộ, nhưng lại không phải là người được trực tiếp tuyển chọn cán bộ, mà công việc đó lại giao cho cấp uỷ. Như thế sẽ xảy ra trường hợp người cán bộ được tuyển chọn có khi lại không thật đáp ứng được các yêu cầu của công việc do người đứng đầu quản lý (kể cả sự không hoà hợp về tính cách,

Page 144: 8160

143

tâm lý, phong cách ứng xử...). Nhưng một điều thật không hợp lý là nếu như người cán bộ được tuyển chọn lại không hoàn thành nhiệm vụ hay mắc khuyết điểm thì cấp uỷ lại không chịu trách nhiệm, mà tất cả tội lỗi đổ hết lên người đứng đầu. Thực tế đã có nhiều trường hợp như vậy, khi cán bộ bị kỷ luật thì người đứng đầu cũng chịu trách nhiệm liên đới, trong khi cấp uỷ thì vô can.

Vẫn còn tình trạng xuôi chiều theo ý kiến của cấp trên

Hiện nay, dân chủ trong công tác tổ chức vẫn còn hạn chế. Nhiều nơi, quyền lực thường tập trung vào người đứng đầu cấp uỷ, còn cấp uỷ có khi chỉ là bình phong, là nơi hợp thức hoá ý kiến chủ quan của một người, nên dễ rơi vào duy ý chí, xa rời thực tế, dẫn đến những quyết định vội vã sai lầm trong công tác tổ chức và cán bộ. Theo thực tế phản ánh của nhiều địa phương, trong công tác cán bộ hiện nay có tình trạng cấp uỷ nghe theo thường vụ, thường vụ nghe theo thường trực và cuối cùng thường trực nghe theo bí thư. Như vậy, về mặt hình thức là cấp uỷ quyết định công tác cán bộ, nhưng trên thực tế quyết định về công tác cán bộ chỉ thuộc về một bộ phận rất nhỏ trong cấp uỷ hay thậm chí chỉ là một mình người đứng đầu cấp uỷ. Đây cũng là một biểu hiện của dân chủ hình thức trong công tác cán bộ. Một số nơi làm công tác cán bộ, khi đưa ra bàn thường có định hướng trước và mọi người hầu như đều theo định hướng đó. Đó là cách làm không dân chủ.

Do cách xây dựng chính sách cán bộ chưa thật dân chủ, chưa xuất phát từ thực tiễn, lợi ích và nhu cầu của nhân dân, nên còn nhiều chính sách khi triển khai còn chưa sát, chưa phù hợp với thực tế. Thực tiễn biến đổi rất nhanh, nên chính sách thường không theo kịp, bị lạc hậu, không góp phần tạo được động lực cho cán bộ làm việc và không thu hút được người giỏi vào các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.

Cách lấy phiếu thăm dò cán bộ chưa đạt được mục đích đề ra.

Lấy phiếu tín nhiệm cán bộ hiện nay được coi như là một biện pháp, một tiêu chí chủ yếu để đề bạt, sử dụng, đánh giá, quy hoạch cán bộ..., vì thế nhiều khi để lọt những cán bộ giỏi, có tài, nhưng không được lòng số đông. Cách lấy phiếu thăm dò trong đánh giá cán bộ hiện nay đang gây một số khó khăn cho cán bộ dám đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực và tích cực trong đổi mới.

Cách lấy phiếu thăm dò trong đánh giá cán bộ hiện nay cũng gây một số khó khăn cho cán bộ dám đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực và tích cực

Page 145: 8160

144

trong đổi mới. Một số cán bộ cấp tỉnh cho biết là nếu cứ dựa vào số phiếu tín nhiệm để làm căn cứ đánh giá, bổ nhiệm cán bộ thì sẽ làm chùn tay những cán bộ tích cực, tiên phong trong đổi mới. Những người này thường không được lòng số đông cán bộ quen làm theo cách cũ và không muốn đổi mới.

Chưa có cách để điều tra dư luận thăm dò thường xuyên uy tín của cán bộ lãnh đạo (sau 100 ngày, sau 1 năm...), nhằm mục đích chủ yếu giúp cán bộ thấy rõ được khuyết điểm để tìm cách sửa chữa.

Lấy phiếu tín nhiệm để làm căn cứ bổ nhiệm cán bộ nhiều khi không thật chính xác, đặc biệt ở những nơi có sự mất đoàn kết nội bộ.

- Đảng vẫn còn có những việc bao biện, làm thay Nhà nước, nhất là cấp dưới

Trong công tác cán bộ, chúng ta vẫn thực hiện nguyên tắc "Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu tổ chức". Do nguyên tắc này chưa được cụ thể hoá, nên trên thực tế công tác xét duyệt, bổ nhiệm cán bộ cấp chiến lược vẫn do bên Đảng thực hiện. Khi đó bên Nhà nước chỉ làm các thủ tục bổ nhiệm. Cách làm này, nhiều người cho rằng Đảng đã bao biện làm thay Nhà nước.

- Thiếu sự liên thông giữa cán bộ trong hệ thống chính trị với nhau và cán bộ trong hệ thống chính trị với cán bộ ngoài hệ thống chính trị.

Hiện nay mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị chủ yếu chỉ bảo đảm sự liên thông cán bộ trong nội bộ tổ chức mình. Sự liên thông cán bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị với nhau còn ít và sự chuyển dịch cán bộ từ tổ chức này sang tổ chức kia cũng còn không ít khó khăn. Tuy vậy, sự liên thông cán bộ giữa các tổ chức đó vẫn còn thuận lợi về mặt quy chế, do họ đều là cán bộ công chức nhà nước. Nhưng sự lưu thông giữa cán bộ trong và ngoài hệ thống chính trị ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn, vì đó là sự lưu thông giữa cán bộ công chức nhà nước với cán bộ không phải là công chức. Chính vì chưa có quy chế để bảo đảm sự lưu thông này, nên nhiều cán bộ tài năng đang làm ở các doanh nghiệp tư nhân muốn chuyển vào các cơ quan Nhà nước cũng sẽ khó. Đây cũng là một hạn chế trong công tác cán bộ.

Khi được hỏi về việc phân loại mức độ vi phạm dân chủ trong Đảng trong một số hoạt động của Đảng: xây dựng đường lối, chính sách; công tác tổ chức, cán bộ; sinh hoạt đảng; công tác kiểm tra, giám sát; công tác bầu cử của

Page 146: 8160

145

Đảng..., đa số người được hỏi đều cho rằng vi phạm trong công tác tổ chức và cán bộ là nghiêm trọng nhất với 43.6%, tiếp đến là vi phạm trong sinh hoạt đảng (23.4%) và công tác bầu cử trong đảng (12.9%).

Phân bố đánh giá vi phạm trong công tác tổ chức, cán bộ khá tập trung:

Đánh giá Tần suất Tỷ lệ (%)

Không ý kiến 612 31.0

Thứ nhất 861 43.6

Thứ hai 312 15.8

Thứ ba 129 6.5

Thứ tư 36 1.8

Thứ năm 24 1.2

Thứ sáu 3 .2

Tổng 1977 100.0

Kết quả đánh giá mức độ vi phạm của công tác tổ chức, cán bộ.

Có tới 43.6% cho rằng vi phạm trong công tác tổ chức cán bộ xếp hàng thứ nhất, 15.8% xếp thứ hai, các thứ bậc sau chiếm số nhỏ hơn khá nhiều theo hướng càng thấp càng ít người lựa chọn66.

So sánh với công tác tổ chức cán bộ thì phân bố đánh giá mức độ vi phạm trong sinh hoạt đảng phân tán hơn (xem bảng).

66 Nghiên cứu dư luận xã hội về dân chủ trong Đảng, do Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội, thuộc Ban tư tưởng - văn hóa Trung ương thực hiện tháng 12 năm 2003 đã đưa ra kết quả như sau: sau 20 năm đổi mới, dân chủ trong Đảng đã có bước phát triển quan trọng, nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh, công cuộc đổi mới và sự mong đợi của đa số cán bộ, đảng viên. Trong số các quyền dân chủ của đảng viên, chuyển biến mạnh nhất là "quyền tham gia ý kiến vào các văn kiện (dự thảo) của các cấp ủy Đảng": chiếm 63%. Chuyển biến ít nhất, chậm nhất là "quyền tham gia ý kiến đối với công tác tổ chức, cán bộ của Đảng", chiếm 30 %.

Page 147: 8160

146

Đánh giá Tần suất Tỷ lệ (%)

Không ý kiến 744 37.6

Thứ nhất 462 23.4

Thứ hai 303 15.3

Thứ ba 237 12.0

Thứ tư 153 7.7

Thứ năm 72 3.6

Thứ sáu 6 .3

Tổng 1977 100.0

Đánh giá mức độ vi phạm trong sinh hoạt đảng

Một điều rất đáng chú ý là có khá nhiều đảng viên, cán bộ thấy khó trả lời câu hỏi này. Số người không có ý kiến đánh giá vi phạm trong xây dựng đường lối, chính sách là 64.6%; Công tác tổ chức cán bộ là 31%; Vi phạm trong sinh hoạt đảng là 37.6%; trong kiểm tra, giám sát là 44.6%; 49% không có ý kiến đánh giá vi phạm trong công tác bầu cử của Đảng.

8. Trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng

- Về quan điểm, mọi đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng, nhưng trong thực tế, do nhiều nguyên nhân, vẫn còn có hiện tượng người đứng đầu cấp ủy đứng ngoài sự kiểm tra của Uỷ ban kiểm tra cùng cấp và trong thi hành kỷ luật cũng còn có biểu hiện "nhẹ trên, nặng dưới".

Uỷ ban kiểm tra do cấp uỷ cùng cấp bầu ra, vì thế Uỷ ban kiểm tra chịu sự chỉ đạo của Thường vụ, mà trực tiếp là người đứng đầu cấp uỷ cùng cấp. Vì thế Uỷ ban kiểm tra không có quyền kiểm tra bí thư, cấp uỷ cùng cấp. Trong khi đó, chúng ta trao quá nhiều quyền cho cán bộ chủ chốt mà lại không có một cơ chế kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, chính vì vậy, đẻ ra sự lộng hành, độc đoán, chuyên quyền. Đó là nguyên nhân của tình trạng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

Page 148: 8160

147

- Một số hạn chế trong phương pháp kiểm tra

Công tác kiểm tra giám sát vẫn chỉ mới là công việc của các Uỷ ban kiểm tra các cấp. Chưa thật sự trở thành công việc của toàn Đảng, lôi cuốn đảng viên tham gia. Việc kiểm tra, giám sát mới tập trung vào các vụ việc mà chưa trở thành công việc thường xuyên ở một số tổ chức đảng.

Trong quá trình kiểm tra, còn chưa thật sự coi trọng tới quyền được giải trình, quyền được nói lại của người trong cuộc; chưa thật chú ý lắng nghe và công khai kết quả kiểm tra.

Qua xem xét, phân tích các bằng chứng thu thập trong thẩm tra, xác minh, một số cuộc kiểm tra thực hiện chưa khoa học, nhiều lúc còn làm nhanh, làm lướt dẫn đến để lọt vi phạm hay chưa có bằng chứng xác thực, khách quan đã đề nghị đối tượng kiểm tra kiểm điểm, nhận hình thức kỷ luật. Cá biệt có cán bộ kiểm tra bị chi phối bởi quyền uy, hoặc lợi ích vật chất làm sai lệch kết quả kiểm tra, xác minh. Đây là sự vi phạm dân chủ, vi phạm nguyên tắc và phương pháp kiểm tra.

Một số cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra trong quá trình thực hiện công tác kiểm tra còn thiếu dân chủ, thể hiện là trước và sau khi kiểm tra không có sự bàn bạc với đơn vị được kiểm tra. Sau khi kết thúc điều tra, chỉ có thông báo kết quả kiểm tra, chứ chưa có thông tin đầy đủ xung quanh những kết luận đó. Việc áp dụng các hình thức kỷ luật vẫn còn tình trạng “nhẹ trên, nặng dưới”.

- Một số hạn chế về phát huy dân chủ trong công tác kiểm tra ở cấp cơ sở.

Một số cấp uỷ ở cơ sở chưa xây dựng được chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát cụ thể. Một số uỷ ban kiểm tra ở cơ sở thiếu chủ động trong phát hiện và kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, chưa coi trọng việc sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm trong công tác kiểm tra, giám sát.

Trong một số vụ việc, khi xem xét giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý kỷ luật chưa đảm bảo khách quan, chưa đúng quy trình dẫn đến phát sinh hiện tượng tái khiếu, tái tố đến nhiều cấp, phải tập trung nhiều thời gian, công việc để giải quyết.

Một số cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra trong quá trình thực hiện còn thiếu dân chủ, trước và sau khi kiểm tra không có sự bàn bạc với đơn vị được kiểm tra.

Page 149: 8160

148

Việc xử lý các kết quả kiểm tra chưa thật tốt, chưa có những quy định chặt chẽ trong công tác này.

Việc thi hành kỷ luật cán bộ vi phạm ở thông thường gặp nhiều khó khăn, do mức đề xuất kỷ luật ở đảng uỷ, chi bộ ở xã, thôn thường không chính xác, thấp hơn mức mà cán bộ phải nhận (có sự bao che của địa phương, dòng họ).

- Chưa coi trọng ý kiến đóng góp của quần chúng nhân dân

Nhiều ý kiến đóng góp của nhân dân còn bị xem nhẹ, bỏ qua. Một số cán bộ kiểm tra chưa chú trọng công tác phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của nhân dân, vì thế, còn để xảy ra trường hợp, những ý kiến đúng đắn không được trân trọng tiếp thu, những ý kiến chưa đúng chưa được giải thích đến nơi đến chốn, nên không tạo được sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Thực tế cho thấy nhiều trường hợp nhờ nhân dân phát hiện, mà chúng ta đã đưa ra được những vụ vi phạm của cán bộ. Mọi hành vi của cán bộ khó qua được mắt của người dân, vì thế công tác kiểm tra cần coi trọng những thông tin từ phía quần chúng nhân dân.

9. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác dân vận của Đảng

- Chưa nhận thức đầy đủ những tác động to lớn của việc thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác dân vận của Đảng.

Công tác dân vận còn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa thực sự phát huy được vai trò trong việc phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong xã hội. Chưa bao giờ công tác dân vận lại khó khăn như hiện nay. Các cấp uỷ Đảng thường quan tâm nhiều đến công tác kinh tế, còn công tác dân vận chưa được chú ý đúng mức. Việc nắm bắt tình hình dư luận có lúc chưa kịp thời, chính xác ; đội ngũ cán bộ dân vận cơ sở còn nhiều hạn chế (nghiệp vụ về công tác dân vận còn yếu; chưa có nhiều kinh nghiệm trong xử lý các vụ việc, trong vận động quần chúng nhân dân, như chưa nhanh nhạy để tham gia cùng chính quyền giải quyết các vụ việc như thu hồi đất đai, giải phóng mặt bằng, bãi công, dân khiếu kiện vượt cấp kéo dài...)

Ở một số nơi người đứng đầu các cấp uỷ đảng, chính quyền, các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chưa thể hiện được tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, trước dân; ngại khó, né tránh trách nhiệm, chưa tổ chức

Page 150: 8160

149

thực hiện tốt dân chủ, đoàn kết thống nhất, giải quyết và trả lời kiến nghị của nhân dân.

Ở các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, công nhân lao động chưa mạnh dạn đóng góp ý kiến xây dựng quy chế, xây dựng cơ quan, còn ngại va chạm, né tránh đóng góp ý kiến phê bình cán bộ lãnh đạo, quản lý làm ăn kém hiệu quả.

- Trong các nội dung của phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” thì việc tổ chức để nhân dân giám sát, kiểm tra là khâu yếu nhất.

Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp hoạt động còn hình thức, hiệu quả thấp. Ở một số nơi những vấn đề dân cần, dân bức xúc chưa được chính quyền quan tâm, giải quyết dứt điểm dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp có xu hướng gia tăng. Việc xây dựng Quy chế dân chủ ở cơ quan chủ yếu mới thực hiện trong nội bộ, còn khi tiếp xúc với dân để giải quyết các công việc của dân thì việc thực hiện Quy chế dân chủ mang nặng tính hành chính, máy móc. Quy chế dân chủ ở cơ sở triển khai nửa vời, kém hiệu quả... Mối quan hệ giữa Đảng và Dân ở một số nơi bị rạn nứt và tan vỡ. Có những nơi, các tổ chức trong hệ thống chính trị hầu như bị vô hiệu hoá, mất tác dụng.

Cán bộ ở cơ sở xã, phường còn chưa thực sự sát dân, gần dân, vì thế việc tiếp nhận ý kiến từ dân còn hạn chế. Có biểu hiện ngầm sự thiếu tin tưởng của người dân do: sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn, một số quan chức đã trở thành những người quá giàu có.

Công tác phản biện, giám sát chưa thực sự triển khai có hiệu quả, do còn thiếu các quy chế, quy định, hướng dẫn cụ thể.

- Chưa thường xuyên duy trì được chế độ kiểm tra, giám sát từ trên xuống dưới một cách chặt chẽ dẫn đến việc động viên, khen thưởng, xử lý kỷ luật chưa được kịp thời, thoả đáng.

Hiện nay, bên cạnh việc thực hiện chưa tốt các Quy chế dân chủ lại đang có tình hình trật tự, kỷ cương không nghiêm, thiếu tôn trọng pháp luật. Đã có nhiều hiện tượng lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền dân chủ của số đông nhân dân. Việc giữ vững kỷ cương, pháp luật ngay trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, thực hiện thống nhất trong cả nước, từ trên xuống dưới, từ trong Đảng ra ngoài xã hội nhiều khi thực hiện không nghiêm. Khen thưởng không đúng người đúng việc, kỷ luật thường để lọt

Page 151: 8160

150

người có tội và làm giảm, sai lệch mức sai phạm gây dư luận xấu trong xã hội, làm giảm hiệu quả công tác dân vận của Đảng.

- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội cũng chưa có nhiều đổi mới nhằm phát huy dân chủ, tăng cường tính độc lập, sáng tạo của các tổ chức này.

Hiện nay, có nhiều người có cảm nhận Mặt trận, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ… chỉ là những chậu hoa, những phù điêu để tôn Đảng lên. Các tổ chức này mặc dù được xác định có tính độc lập tương đối, nhưng sự độc lập, dù chỉ là tương đối cũng khó thực hiện được. Nếu để những người đứng đầu các tổ chức ấy nói thực lòng, thì họ đều nói họ là cái đuôi của Đảng, nói là chậu hoa, cây cảnh còn là “oai”. Trong các tổ chức chính trị - xã hội: Hội Cựu chiến binh là phát huy được vai trò, còn các tổ chức khác vẫn còn tình trạng “nói theo”, không thể hiện chính kiến.

10. Thực trạng về tình hình mất đoàn kết trong Đảng

1/ Về tính chất mất đoàn kết

- Mất đoàn kết trong Đảng chỉ là hiện tượng có tính cục bộ, không phản ánh tình trạng chung của Đảng.

Mất đoàn kết xảy ra ở một số cấp uỷ, một số tổ chức Đảng, một số địa phương, một số ngành ở những thời điểm nhất định, trong một thời hạn nhất định.Mất đoàn kết thường tập trung bộc lộ ra trước các kỳ đại hội Đảng các cấp. Sử dụng thư tố cáo nặc danh để bôi nhọ, hạ bệ những đối tượng không cùng phe cánh, làm cho tình hình nội bộ bị rối ren, nghi kỵ lẫn nhau, ảnh hưởng tới kết quả bầu cử của đại hội.

- Mất đoàn kết không xuất phát từ đường lối, mà thường xảy ra trong quá trình triển khai đường lối của Đảng

Sự thiếu thống nhất trong quá trình triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng thường là một nguyên nhân dẫn đến sự chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ Đảng. Trong quá trình triển khai các quyết sách của Đảng vào thực tế, thường nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau. Nếu cấp uỷ nào không phát huy dân chủ, không tập hợp, tiếp thu mọi ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên, tạo sự đồng thuận cao trong quá trình tổ chức thực hiện, thì ở đó dễ xảy ra mất đoàn kết, dẫn đến tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", ảnh hưởng tới hiệu quả công việc.

Page 152: 8160

151

2/ Biểu hiện mất đoàn kết

Mất đoàn kết trong cấp uỷ: biểu hiện ở những xung đột giữa các thành viên trong cấp uỷ (cấp cơ sở, cấp huyện và cấp tỉnh).

Mất đoàn kết giữa những cán bộ lãnh đạo trong cấp uỷ, đặc biệt giữa bí thư và chủ tịch UBND cùng cấp.

Biểu hiện mất đoàn kết dưới dạng một số hoạt động sau:

- Trong sinh hoạt Đảng

Khi thảo luận về các chủ trương, biện pháp thực hiện có thể có trường hợp khó đi đến thống nhất (do cách tiếp cận vấn đề khác nhau, trình độ nhận thức khác nhau, không bên nào chịu bên nào). Từ đó dẫn đến tình trạng có chủ trương bị vô hiệu hoá hoặc thoả hiệp với nhau, không đem lại hiệu quả thực tế, làm cho tính thống nhất bị phân tán, thông qua chủ trương bị nửa vời.

- Trong công tác tổ chức cán bộ

Thiếu sự công tâm trong đánh giá cán bộ. Do mâu thuẫn nội bộ, nên đánh giá cán bộ không còn khách quan, mà mang nặng tính chủ quan, cảm tính "yêu nên tốt, ghét nên xấu" từ đó đánh giá không đúng, phiến diện.

Trong bổ nhiệm và sử dụng cán bộ: mất tính khách quan trong giới thiệu nhân sự. Do giới thiệu không theo quy trình bổ nhiệm, thiếu sự công khai, minh bạch dễ làm cho cán bộ nảy sinh nghi ngờ, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của cấp uỷ.

- Trong công tác kiểm tra, giám sát

Hiện tượng bao che cho những người thuộc cùng phe nhóm làm lệch lạc kết quả kiểm tra. Đây cũng là hiện tượng diễn ra khá phổ biến ở nhiều tổ chức Đảng.

Hiện tượng “bới lông tìm vết”, phóng to khuyết điểm, không phản ánh thực chất vấn đề, xử lý không nghiêm để tình trạng mất đoàn kết kéo dài.

- Trong công tác dân vận.

Sự mất đoàn kết trong Đảng cũng kéo theo sự mất đoàn kết trong quần chúng và làm cho tổ chức, cơ quan bị chia rẽ thành những phe nhóm đối nghịch, đả phá lẫn nhau.

Page 153: 8160

152

3/ Thực trạng về tình hình mất đoàn kết

Tình trạng mất đoàn kết trong đội ngũ lãnh đạo các cấp chậm được khắc phục. Trong văn kiện Đại hội Đảng X đã nêu rõ: “Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp ủy còn yếu”67. Hiện tượng mất đoàn kết nội bộ diễn ra khá gay gắt ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị68 (Hà Nam, Bình thuận, Hoà Bình, Long An, Đồng Tháp, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Quảng Trị...) và qua khảo sát thực tế cho thấy, mất đoàn kết trong nội bộ Đảng chủ yếu bắt nguồn từ sự mất đoàn kết, sự thiếu gương mẫu của các cán bộ lãnh đạo trong Thường vụ và nhất là mối quan hệ bất hoà giữa bí thư cấp uỷ và chủ tịch UBND cùng cấp.

Hiện tượng mất đoàn kết nội bộ cũng diễn ra khá gay gắt ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị.

Mất đoàn kết đã gây ra hậu quả từ thấp đến cao, có khi rất nghiêm trọng:

+ Làm mất sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, phá vỡ các nguyên tắc, kỷ cương, làm mất cán bộ, đảng viên; nội bộ chán chường, nghi ngờ nhau, làm tổn thương tình đồng chí, tổn thương đến quan hệ giữa Đảng với nhân dân.

- Khi nội bộ Đảng mất đoàn kết, quần chúng sẽ không còn chỗ dựa, mất định hướng, tâm trạng bất an, lòng tin giảm sút. Ở những địa phương, đơn vị mất đoàn kết, cán bộ chủ chốt chỉ lo đấu đá, tranh giành địa vị, quyền lợi, không còn tâm trí và sức lực để lo công việc cho dân, cho Đảng, không tập trung để lo phát triển kinh tế, có nơi đã làm cho đời sống cán bộ, nhân viên và nhân dân khó khăn.

- Mất đoàn kết nội bộ hiện nay chính là "tự diễn biến hoà bình", tạo lợi thế cho sự tiến công của kẻ thù. Đây là một trong những nguy cơ đe doạ Đảng ta và chế độ ta.

Những thiếu sót, khuyết điểm trên đây về phát huy dân chủ nội bộ đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự đoàn kết thống nhất của từng tổ chức đảng cũng như toàn Đảng. Đó là một nguy cơ, thách thức đối với sự trưởng thành và vai trò lãnh đạo xã hội của Đảng ta.

67 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, tr. 262, Nxb.CTQG, H, 2006 68 Báo cáo tổng hợp đề tài khoa học cấp nhà nước "Vấn đề chính trị hiện nay trong công tác bảo về chính trị nội bộ của Đảng - Hiện trạng và giải pháp", mã số: ĐTĐL 2006/16.

Page 154: 8160

153

11. Hạn chế trong phát huy dân chủ ở cấp: tỉnh - huyện - xã

1/ Trong xây dựng nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng

- Tỉnh chỉ đạo làm khá tốt việc phát huy dân chủ trong xây dựng nghị quyết trước đại hội Đảng, đã tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nhưng các chủ trương, chuyên đề sau đại hội thì ít lấy ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, vì thế có những quyết sách của Đảng vênh với thực tế, không sát với thực tế.

- Xin ý kiến đóng góp cho dự thảo nghị quyết ở một số tổ chức đảng nhiều khi còn mạng tính hình thức, ít tiếp thu các ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, đặc biệt là các ý kiến phản biện.

- Báo cáo nghị quyết thường đề ra những chủ trương rất hay, rất đúng, nhưng công tác tổ chức triển khai nghị quyết còn chưa được tốt, chưa có kế hoạch kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Có ý kiến cho rằng: "Triển khai nghị quyết lúc đầu rầm rộ, sau cứ nhạt dần, nhạt dần, rồi quên lãng. Sau một vài năm mới giật mình, rồi vội vàng tiến hành sơ kết, tổng kết mang tính đối phó, hình thức" (có nghị quyết phải sau 9,10 năm mới tổng kết). Chưa có điều kiện khảo sát, điều tra dư luận để tham mưu, xây dựng kế hoạch tuyên truyền nghị quyết.

- Còn có những chính sách áp đặt từ trên xuống, không phù hợp với mục tiêu, lợi ích của dân, nhất là vấn đề thu hồi đất đai, giải phóng mặt bằng.

- Một số tổ chức Đảng còn chưa sâu sát thực tiễn, ít chú ý lắng nghe ý kiến của nhân dân, vì thế, nhiều vấn đề bức xúc trong dân chưa được giải quyết kịp thời.

Đối với tổ chức Đảng ở xã, phường: Trong xây dựng dự thảo nghị quyết, có một số tổ chức cơ sở Đảng chưa thực hiện tốt việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, nên khi ban hành có điểm trái với nghị quyết cấp trên hoặc không được nhân dân đồng tình , ủng hộ.

Một số cấp uỷ, chính quyền cơ sở chưa thật tích cực, chủ động triển khai các chủ trương, nghị quyết đã đề ra; trong quản lý và điều hành còn lúng túng, thụ động, hiệu quả chưa cao.

Công tác tuyên truyền chủ trương, nghị quyết của Đảng còn hạn chế, vì thế ở một số nơi, người dân hầu như không nắm được.

Page 155: 8160

154

2/ Trong công tác cán bộ

- Về công tác đánh giá cán bộ

Công tác đánh giá cán bộ còn chung chung, chưa cụ thể hoá các tiêu chi đánh giá cho phù hợp từng cơ quan đơn vị, từng công việc cụ thể. Đánh giá không làm nổi bật được mặt mạnh, mặt yếu của từng người. Các tiêu chí về tuổi, về bằng cấp... nhiều khi không đồng nghĩa với xuất sắc nhất. Phải nghiên cứu, xem lại hệ thống các tiêu chí đánh giá cán bộ.

Ý kiến của một số cấp uỷ cho rằng: Đánh giá cán bộ dựa trên các tiêu chí hiện nay khó chọn ra được người xuất sắc nhất, mà thường chỉ được người trung bình. Theo cách đánh giá hiện nay, thì ai cũng có thể làm cán bộ lãnh đạo được, vì chỉ cần người trung bình cũng có thể đưa địa phương phát triển lên được từ 20% đến 30 %, trong khi thực tế nó có thể phát triển lên đến 100%, nếu có người xuất sắc lãnh đạo. GDP của nước ta vẫn tăng, nhưng chưa đạt loại cao.

Đánh giá cán bộ chỉ chủ yếu trong nội bộ nhóm lãnh đạo, chưa thu thập ý kiến của đảng viên và tham khảo ý kiến của nhân dân, nên có những trường hợp chưa thật đúng, chưa thật chính xác. Như thế, theo quy trình đánh giá cán bộ hiện nay, nếu cấp uỷ lành mạnh thì tốt, nhưng nếu cấp uỷ có vấn đề, thì nguy cơ mất dân chủ sẽ lộ rõ, người đứng đầu sẽ lấn át hết, sẽ làm hỏng cả quy trình.

- Về công tác bầu cử

Trước các kỳ đại hội Đảng, có đảng viên lợi dụng dân chủ để bôi nhọ, khiếu kiện người này, người kia, làm cho công tác nhân sự gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định sự đúng, sai. Hiện tượng này đang lây sang các đoàn thể. Có đồng chí dự kiến làm chủ tịch công đoàn, khi thăm dò thì được, nhưng khi bầu chính thức lại không trúng vào Ban chấp hành.

Trong quy trình bầu cử tuy đã mở hơn (có số dư), nhưng thường chỉ còn một người, hoặc nếu có hai người, thì cũng đã có chỉ đạo chọn một người đã định sẵn. Cách làm ấy đã dẫn đến sự không tin tưởng của quần chúng nhân dân vào việc bầu cử.

Có những cán bộ đưa về một quận bầu không được, lại đưa về ứng cử ở một quận khác và bầu cũng vẫn không được. Vấn đề đặt ra ở đây là, cấp có

Page 156: 8160

155

trách nhiệm đã chưa thật sự chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, nên không nắm được người dân đã đánh giá cán bộ đó như thế nào.

Đôi khi có nơi có chỗ, dân chủ trong Đảng vẫn còn mang tính khiên cưỡng, áp đặt. Dân chủ có lúc bị lợi dụng, bỏ phiếu bổ nhiệm cán bộ bị áp đặt theo định hướng, ý muốn của cấp trên hay lãnh đạo đơn vị.

Trong bầu cử vẫn còn nặng về tính cục bộ địa phương, vì thế trong hồ sơ bầu cử rất chú ý đến quê quán, chỗ ở. Chuyện vận động bổ nhiệm, ưu ái người đồng hương trong mọi công việc đang là vấn đề cần đặt ra trong công tác cán bộ.

Quan điểm của Đảng đề ra rất đúng: sử dụng người có đức, có tài, không kể người đó là người trong Đảng hay ngoài Đảng. Nhưng trong thực tế, người ngoài Đảng có tài, cũng không được tham gia bầu cử vào cơ cấu lãnh đạo chính quyền.

- Công tác luân chuyển cán bộ

Quy trình luân chuyển cán bộ có khâu còn chưa bảo đảm dân chủ. Lựa chọn cán bộ luân chuyển còn thiếu sự bàn bạc công khai dân chủ, thường chỉ bàn trong nhóm lãnh đạo, nhiều khi không thật chính xác.

Theo phản ánh của dư luận, đã bắt đầu có hiện tượng chạy để được vào diện luân chuyển và chạy chỗ luân chuyển.

- Công tác bố trí, sử dụng cán bộ

Cách tổ chức lấy phiếu tín nhiệm, để qua đó đánh giá cán bộ chưa chắc đã đúng, nhiều khi không chính xác.

Một số nơi khi làm công tác cán bộ, thường cấp uỷ đưa ra định hướng trước và mọi người hầu như đều đồng ý theo định hướng đó. Cách làm như thế là không dân chủ. Đáng nhẽ ra phải bàn trước rồi mới định hướng, tập trung lại.

Trong đề bạt sử dụng cán bộ, Ban Tổ chức tỉnh (thành) uỷ cần có sự phối hợp với các ban khác như Uỷ ban kiểm tra, Ban tuyên giáo... và lắng nghe ý kiến của quần chúng thì mới sử dụng đúng được cán bộ. Vì thực tế có cán bộ được đề bạt cấp lãnh đạo nhưng dân phát hiện chưa có bằng Trung học cơ sở.

Có trường hợp làm đúng quy trình cán bộ, lấy phiếu tín nhiệm, nhưng khi bổ nhiệm lại bổ nhiệm một đồng chí khác. Cán bộ cảm thấy không dân chủ, cấp trên quá coi thường cơ sở, cứ áp đặt xuống.

Page 157: 8160

156

- Công tác quy hoạch cán bộ

Trong công tác quy hoạch, nhiều khi "quy" một đằng, sử dụng một nẻo, có khi người tài không được trọng dụng.

Công khai trong công tác quy hoạch có hai mặt: một là, để mọi người có thể theo dõi, đánh giá đúng cán bộ trong quy hoạch, mặt khác, công khai cũng dễ dẫn đến có đơn thư nặc danh, khiếu kiện làm mất uy tín của cán bộ.

Trong công tác quy hoạch cán bộ, việc bổ sung cán bộ vào quy hoạch còn chậm, nhiều cán bộ trẻ đột xuất nổi lên, nhưng khó sớm đưa vào vị trí lãnh đạo (do chưa ở trong quy hoạch)

Cách làm quy hoạch hiện nay trong khối Dân chính Đảng thường bị phá vỡ do tỉnh (thành phố) có quy hoạch riêng. Quy hoạch của cấp trên không tôn trọng quy hoạch của cấp dưới. Đây cũng là vấn đề dân chủ, cần phải được quan tâm.

Trong công tác quy hoạch cán bộ nếu không thận trọng dễ gây mất đoàn kết và hạn chế dân chủ trong việc đề bạt, sử dụng cán bộ.

3/ Trong sinh hoạt Đảng

- Hiện nay ở cơ sở, người đứng đầu thường chi phối lớn tới toàn bộ cấp uỷ, đó là điều trái với nguyên tắc tập thể cấp uỷ lãnh đạo.

- Công tác phê bình và tự phê bình trong Đảng còn nhiều hạn chế. Các cán bộ, đảng viên đương chức thường ngại nói thẳng, nói thật những suy nghĩ của mình, nhất là khi phát biểu đụng chạm đến những vấn đề "nhạy cảm". (chính vì thế có một số cán bộ lãnh đạo sau khi nghỉ hưu mới phát biểu chính kiến của mình) . Các ý kiến “trái chiều” chưa thật sự được tôn trọng và nhiều khi còn bị người đứng đầu và cấp uỷ đánh giá không tốt. Tình trạng xuôi chiều, ngại đấu tranh là khá phổ biến. Nguyên tắc phê bình và tự phê bình chưa được phát huy tốt (tự phê bình thì còn được, nhưng phê bình người khác thì rất ngại).

- Một số tổ chức cơ sở Đảng còn yếu kém, có biểu hiện tham nhũng, thiếu dân chủ, mất đoàn kết, làm giảm sút lòng tin của dân đối với sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế, có ý kiến cho rằng, dân tin Đảng bộ cấp trên, nhưng Đảng cụ thể ở cơ sở thì họ thiếu tin tưởng.

- Nội dung sinh hoạt chi bộ còn nghèo nàn, không phát huy được tính tích cực của đảng viên.

Page 158: 8160

157

- Dân chủ trong công tác Đảng ở các doanh nghiệp còn rất hạn chế. Trong doanh nghiệp chỉ chú ý đến làm kinh tế, nên sinh hoạt Đảng thường gặp nhiều khó khăn. Cơ sở Đảng trong doanh nghiệp là một mảng còn bị trống.

Đối với tổ chức đảng ở xã, phường

Chất lượng sinh hoạt chi bộ ở cơ sở xã, phường ở nhiều nơi còn thấp, sức chiến đấu giảm sút. Nội dung sinh hoạt chi bộ còn tẻ nhạt, đảng viên ít phát biểu, ít đóng góp ý kiến. Đảng viên không quan tâm đến sinh hoạt Đảng. (Một số đồng chí cán bộ hưu ở xã cho rằng: nếu cứ tiếp tục sinh hoạt Đảng như thế này thì Đảng sẽ mất uy tín).

Phát huy dân chủ ở các Đảng bộ, chi bộ ở cơ sở trong đấu tranh bảo vệ Đảng còn hạn chế, chủ yếu là "xuôi chiều" theo ý kiến của người lãnh đạo. Một số Đảng bộ chưa phát huy được vai trò lãnh đạo, thậm chí còn theo đuôi quần chúng, thoả mãn những nhu cầu không chính đáng của quần chúng.

Sinh hoạt chi bộ ở nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng tới việc phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng:

+ Do trong cùng một chi bộ có nhiều thế hệ, trình độ không đồng đều, nhiều đảng viên già có nhiều kinh nghiệm nhưng không am hiểu về sản xuất, kinh doanh trong cơ chế thị trường. Các bác nói được, nhưng lại không chỉ đạo làm trực tiếp được nên uy tín cũng hạn chế. Trong khi đó ý kiến của các bác về hưu có ảnh hưởng lớn tới việc xây dựng nghị quyết của Đảng bộ, chi bộ xã, thôn.

+ Đảng viên trẻ ít phát biểu tham gia ý kiến tại các sinh hoạt chi bộ (vì trong chi bộ toàn các bậc cha, chú, ông bà...) và các ý kiến của đảng viên trẻ cũng ít được chi bộ quan tâm, chú ý.

+ Trình độ, năng lực cán bộ ở xã còn thấp, lại bị lệ làng, phong tục tập quán, dòng họ chi phối nên việc phát huy dân chủ ở xã gặp nhiều khó khăn.

+ Trong công tác bầu cử cấp uỷ cơ sở, còn có nơi có biểu hiện vận động, chia rẽ, bè phái, cục bộ và cả mua phiếu trước bầu cử.

4/ Trong công tác kiểm tra, giám sát

- Công tác kiểm tra, giám sát còn nhiều hạn chế, vì chỉ khi có dấu hiệu vi phạm mới vào cuộc.

Page 159: 8160

158

- Có cơ quan luôn để khiếu kiện kéo dài, có cơ quan lợi dụng chuyện đó để làm cho tình hình cơ quan thêm rối, diễn biến phức tạp trong nội bộ. Có ý kiến cho rằng: "Mất đoàn kết chủ yếu trong nội bộ cấp lãnh đạo, còn anh em nhiều khi ít quan tâm". Hầu như nhiều đơn vị, cấp lãnh đạo dùng nhiều thủ đoạn để “chơi nhau”: diễn ra khá phổ biến chứ không còn lẻ tẻ như trước đây nữa. Đoàn kết xuôi chiều, thủ tiêu đấu tranh, chiều theo lãnh đạo đang khá phổ biến hiện nay. Nhiều buổi họp góp ý kiến xây dựng nghị quyết, trong cuộc họp không ai phát biểu nhưng ra ngoài cuộc họp lại nói khác, như vậy tính trung thực của đảng viên giảm sút.

- Một số việc xem xét giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý kỷ luật chưa đảm bảo khách quan, chưa đúng quy trình dẫn đến phát sinh hiện tượng tái khiếu, tái tố đến nhiều cấp, phải tập trung nhiều thời gian, công việc để giải quyết.

- Việc thi hành kỷ luật cán bộ vi phạm ở thôn thường gặp nhiều khó khăn, do mức đề xuất kỷ luật ở đảng uỷ, chi bộ ở xã, thông thường thấp hơn mức mà cán bộ phải nhận (có sự bao che của địa phương, dòng họ).

5/ Trong công tác dân vận

- Chưa bao giờ công tác dân vận lại khó khăn như hiện nay. Các cấp uỷ Đảng thường quan tâm nhiều đến công tác kinh tế, còn công tác dân vận chưa được chú ý. (Khởi công các công trình kinh tế thì mọi cán bộ lãnh đạo dự đầy đủ, nhưng họp đoàn thể thì rất ít cán bộ đến dự).

- Việc nắm bắt tình hình dư luận có lúc chưa kịp thời, chính xác ; đội ngũ cán bộ dân vận cơ sở còn hạn chế (nhiệt tình, nhưng chưa mạnh dạn…, tính chủ động có lúc chưa cao, chủ yếu theo chỉ đạo cấp trên). Công tác dân vận chưa nhanh nhạy, kịp thời phát hiện vấn đề và đề xuất phương án giải quyết, chẳng hạn như trong chuyện thu hồi đất đai, giải phóng mặt bằng, bãi công, dẫn đến tình trạng dân khiếu kiện vượt cấp kéo dài.

- Nhiều ý kiến ở cơ sở cho rằng, hiện nay, trong các tổ chức chính trị –xã hội, Hội Cựu chiến binh là phát huy được vai trò rõ rệt, còn các tổ chức khác thường “ăn theo, nói leo”, ít thể hiện chính kiến.

- Mối liên hệ giữa Đảng và Dân ở một số nơi bị bị rạn nứt và tan vỡ. Có những nơi, các tổ chức trong hệ thống chính trị hầu như bị vô hiệu hoá, mất tác dụng. Một bộ phận quan chức trở thành quan dân.

Page 160: 8160

159

- Có biểu hiện ngầm sự thiếu tin tưởng của dân do: sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn, nhiều quan chức quá giàu. Trong khi việc phán xét các vụ tiêu cực chưa thật chính xác, khách quan .

- Quy chế dân chủ ở cơ sở đã có, nhưng nhiều nơi triển khai nửa vời, chưa thật hiệu quả, tiếp dân còn hình thức.

- Công tác phản biện, giám sát được giao cho Mặt trận, nhưng vì chưa có cơ chế để thực hiện nên chưa triển khai được. Nhiều vấn đề đặt ra, chưa có câu trả lời, như chính quyền nắm tài chính thì giám sát thế nào? Đảng lãnh đạo, thì giám sát Đảng như thế nào?

III. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM

1. Nguyên nhân khách quan

- Mặt trái của những di sản văn hóa truyền thống

Trong lịch sử, nước ta giao lưu với nhiều nền văn hoá lớn, bị nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, tiến lên từ một nước nửa thuộc địa phong kiến với nền sản xuất nhỏ, nên một số tàn dư về tập quán, thói quen, tật xấu... của những xã hội trước đây cũng còn có ảnh hưởng ít nhiều tới cách tư duy, nếp nghĩ, phong cách sinh hoạt, lối sống và hành động của mỗi người cán bộ trong xã hội hiện nay.

Ảnh hưởng của Đạo Khổng: mỗi người Việt Nam khi lớn lên thường vẫn được dạy dỗ về cách sống, cách cư xử ở đời: “thôi thì chín bỏ làm mười, một sự nhịn chín sự lành, thôi thì đóng cửa bảo nhau, thôi thì dĩ hoà vi quý”, tất thảy đều mang tấm lòng khoan dung, nhường nhịn. Nhưng những tính tốt ấy có phải lúc nào cũng là một cách sống tích cực.

Tàn dư của tư tưởng phong kiến để lại là tư tưởng hiếu danh, đẳng cấp, quan liêu gia trưởng, độc tài, quan liêu hách dịch, xa rời quần chúng.

Nền sản xuất nhỏ để lại dấu ấn khá đậm nét về tập quán, tâm lý, lề lối làm việc của người sản xuất nhỏ. Nền sản xuất đó là nguồn gốc đẻ ra chủ nghĩa kinh nghiệm, tư tưởng tự do vô chính phủ, thiếu tính hợp tác, khép kín, cục bộ địa phương, nhỏ nhen, kèn cựa, ganh tỵ, mê tín dị đoan ... dùng người nặng về tình, nhẹ về lý, thích khoa trương hình thức hơn là hành động.

Chúng ta đi từ nền dân chủ làng xã lên nền dân chủ mới, không qua nền dân chủ tư sản, nên cái dấu ấn của các quan hệ phương Đông còn để lại rất nặng trong

Page 161: 8160

160

đầu mỗi người. Trong những quan hệ phương Đông ấy, có các vấn đề: trọng lão, trọng công, trọng sĩ, quan hệ dòng họ, quan hệ địa phương.

Sản phẩm của thời kỳ chiến tranh để lại cho chúng ta đó là các quy luật của thời chiến: mệnh lệnh chỉ huy và phục tùng - chấp hành, bàn bạc dân chủ thì ít thôi, sau đó chấp hành mệnh lệnh là chính. Thói quen chấp hành này dẫn đến việc cán bộ có chỉ quen phục tùng, ngại đấu tranh , mất đi tính chủ động, sáng tạo.

Rồi cái dấu ấn của thời kỳ bao cấp, của cơ chế xin - cho, cấp phát, giao nộp... chi phối các mối quan hệ. Cơ chế bao cấp đã tạo ra một bộ phận cán bộ có đặc quyền ban phát lợi ích và số đông cán bộ còn lại phải cạy cục chạy chọt để dành lấy cái mà họ đáng nhẽ được hưởng một cách công khai, chính đáng. Sự lạm quyền của một bộ phận cán bộ do cơ chế bao cấp, đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới phát huy dân chủ trong Đảng.

Mặt trái của cơ chế thị trường, đó là cơ chế lợi ích. Các bộ, ngành vẫn cứ “ôm”, cứ “nắm” quyền quản lý sản xuất kinh doanh. Vì đó là lợi ích, cho nên, cơ chế đó tác động vào các quan hệ xã hội, ảnh hưởng đến việc thực hiện dân chủ.

Một số căn bệnh về phẩm chất của cán bộ, đảng viên trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay, đang làm ảnh hưởng tới việc phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, như bệnh "thành tích"; đề cao cá nhân; không chịu trách nhiệm cá nhân, thành tích thì có người nhận, còn sai thì đổ cho tập thể; thiếu năng động sáng tạo, lười biếng, bảo thủ, rập khuôn, không muốn đổi mới; giáo điều; đặc quyền, đặc lợi; đạo đức giả; tuỳ tiện; vô cảm; nói nhiều, làm ít...

- Tính mới mẻ, tính phức tạp của quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế, ảnh hưởng tới sự quyết tâm, quyết liệt phát huy dân chủ (ngại mất ổn định, tư tưởng duy trì ổn định bằng mọi giá)

Chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng phải tập trung lãnh đạo, xử lý rất rất nhiều vấn đề mới mẻ đặt ra. Trước tình hình mới, yêu cầu ổn định đất nước để phát triển, đang trở thành một nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Chính vì thế, việc phát huy dân

Page 162: 8160

161

chủ trong Đảng và ngoài xã hội cũng bị hạn chế, vì sợ đó là một trong các nguy cơ gây mất ổn định.

- Sự sụp đổ của mô hình XHCN, của Liên Xô, cùng với sự tấn công của kẻ thù cũng ảnh hưởng tới sự phát huy dân chủ

Trong tình hình quốc tế có nhiều biến động phức tạp hiện nay, kẻ thù chưa từ bỏ dã tâm chống phá nước ta, lợi dụng khó khăn, khuyết điểm để bôi nhọ, nói xấu Đảng, Nhà nước, chế độ ta. Chúng dùng nhiều âm mưu, thủ đoạn, lợi dụng, mua chuộc, kích động, nói xấu, gây nghi kỵ, chia rẽ đội ngũ cán bộ, đảng viên, kêu gọi tự do dân chủ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, làm giảm uy tín của Đảng. Trước chiến lược “diễn biến hoà bình” của kẻ thù, thì trong Đảng cũng đã xuất hiện tư tưởng phải "co lại phòng thủ", ngăn chặn mọi tư tưởng chống phá cách mạng. Sự thái quá của tư tưởng này, là không chấp nhận những ý kiến "trái chiều", phản bác mọi ý kiến không đúng với các chủ trương, đường lối của Đảng, yêu cầu mọi đảng viên chỉ được nói và làm theo Nghị quyết của Đảng. Chính điều này đã làm hạn chế đến quyền tự do tư tưởng, tự do phát biểu ý kiến của đảng viên, hạn chế sự đóng góp của đảng viên về mọi mặt hoạt động của Đảng.

2. Nguyên nhân chủ quan

2.1. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về dân chủ trong Đảng còn hạn chế

- Trong Đảng còn có những cách hiểu khác nhau về dân chủ

Nước ta đi lên từ một xã hội phong kiến nửa thuộc địa, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, mà ở đó bắt đầu hình thành nên nền dân chủ tư sản, và tiến thẳng lên CNXH, vì thế nhân dân ta chưa có ý thức và năng lực thực hành dân chủ, chưa có một nền văn hoá dân chủ ở mức cần thiết, chưa có thói quen tuân thủ pháp luật nên dễ rơi vào cực đoan này hay cực đoan kia. Do đó, chúng ta buộc phải tự thiết kế cho mình từ nội dung cho đến các bước triển khai dân chủ cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nước ta. Đây là công việc hết sức khó khăn và phải thực hiện nó trong một thời gian dài với các bước đi thích hợp.

Thực tế lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, sự tan rã của một số đảng cộng sản cầm quyền cho thấy, vận mệnh của một đảng cộng sản

Page 163: 8160

162

và chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào và được quyết định bởi việc nhận thức, thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất của đảng cộng sản cầm quyền. Nếu nội bộ của đảng cộng sản cầm quyền, trước hết là trong ban lãnh đạo cấp cao phân chia thành các phe nhóm, sẽ kéo theo sự phân hoá trong các tổ chức đảng cấp dưới, phân hoá giai cấp công nhân và nhân dân lao động thành những lực lượng riêng rẽ. Đó là những kẽ hở để kẻ thù phá hoại sự lãnh đạo của đảng cộng sản cầm quyền. Suốt trong một thời gian dài, ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa và kể cả ở Việt Nam, vấn đề dân chủ được hiểu và thực hiện chưa đúng theo tư tưởng của các nhà kinh điển về dân chủ và đoàn kết cũng như mối quan hệ giữa dân chủ với kỷ luật, dân chủ với tập trung. Trên thực tế đã nhấn mạnh một chiều đến tập trung và coi nhẹ việc thực hành dân chủ, dẫn tới vi phạm dân chủ trong Đảng. Những căn bệnh gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân đã dẫn đến dân chủ trong Đảng chỉ là hình thức. Phát hiện ra những căn bệnh nguy hiểm đó, các đảng cộng sản đã đề ra một số chủ trương biện pháp để mở rộng dân chủ xây dựng sự đoàn kết thống nhất. Nhưng từ chỗ chống tập trung quan liêu độc đoán chuyên quyền, ở nhiều đảng cộng sản đã lại rơi vào thái cực đề cao một chiều cực đoan vấn đề dân chủ, đã biến đảng thành “những câu lạc bộ tranh cãi” dẫn đến sự hỗn loạn, tan rã về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Tuy trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng đã đề cập nhiều đến việc cần phải phát huy dân chủ trong các mặt công tác của Đảng và đã có một số đề tài nghiên cứu, bài báo, sách viết về dân chủ trong Đảng, Nhà nước và trong hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội; chúng ta cũng đã có quy chế về phát huy dân chủ ở cơ sở, nhưng trên thực tế vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu cặn kẽ, đầy đủ những vấn đề lý luận về dân chủ trong Đảng. Vì thế đã nảy sinh nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất về khái niệm, về nguyên tắc, về giải pháp phát huy dân chủ trong Đảng. Từ cách hiểu khác nhau dẫn đến việc triển khai các quan điểm, chủ trương về dân chủ của Đảng ở các tổ chức Đảng cũng không thống nhất. Sự tập trung cao quyền lực, cản trở những ý kiến đóng góp của đảng viên, không chịu lắng nghe, tiếp thu ý kiến của quần chúng nhân dân ... là những biểu hiện của mất dân chủ, nhưng lại đang được một số người lãnh đạo tổ chức Đảng sử dụng như một biện pháp để củng cố vị trí lãnh đạo của mình. Một số đảng viên lại tự cho mình có quyền tự do phát ngôn, không phát biểu trong tổ chức đảng mà lại tung những ý kiến cá nhân lên mạng, làm ảnh hưởng tới uy tín và sự đoàn kết

Page 164: 8160

163

thống nhất trong Đảng. Do đó, để có thể triển khai có hiệu quả các chủ trương của Đảng về dân chủ trước hết cần làm rõ các vấn đề lý luận về dân chủ trong Đảng và hình thành các quy chế dân chủ trong các mặt công tác của Đảng, để mọi đảng viên hiểu và thực hiện cho đúng.

- Chưa thấy rõ tầm quan trọng của phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng có vai trò quyết định đến việc tăng cường dân chủ trong hoạt động của nhà nước và toàn xã hội, vì thế chưa được chú ý thích đáng

Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, các cán bộ của Đảng nắm giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, vì thế nếu ngay trong Đảng không phát huy được dân chủ, cán bộ của Đảng không biết cách thực hành dân chủ, thì làm sao có thể triển khai thực hiện dân chủ ở Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội và toàn xã hội được. Chính vì thế, dân chủ trong Đảng giữ một vị trí quan trọng, nó phải được thực hiện trước, làm mẫu để triển khai có hiệu quả dân chủ trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Do chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc phát huy dân chủ trong Đảng, nên Đảng ta chưa có sự đầu tư thích đáng cho công tác này và nhiều khi còn rất ngại bàn về công tác này, cho đây là vấn đề "nhạy cảm" trong tình hình hiện nay.

Có một số ý kiến cho rằng, Đảng đã có nhiều nghị quyết, trong đó nói rất đúng về dân chủ, đã có nhiều giải pháp để phát huy dân chủ, nhưng vấn đề là ở chỗ, Đảng có thực bụng muốn làm không? có dám làm không? và có quyết tâm làm không?

- Công tác tuyên truyền về dân chủ trong Đảng còn nhiều hạn chế

Công tác tuyên truyền về dân chủ hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc nêu một số vụ việc cụ thể, nơi này, nơi kia, người này, người kia đã vi phạm dân chủ như trù dập cán bộ có ý kiến trái ngược với lãnh đạo; cô lập cán bộ dám đấu tranh; không công khai minh bạch trong công tác cán bộ ... chứ chưa đi sâu tuyên truyền để mọi người dân hiểu về dân chủ, muốn thực hành dân chủ thì phải làm thế nào. Nói cách khác, công tác tuyên truyền phải hướng dẫn dạy cách làm dân chủ. Nước ta tiến thẳng từ chế độ nửa phong kiến lên một xã hội mới không qua phát triển tư bản nên chưa có kiến thức và kinh nghiệm về dân chủ, vì thế chúng ta phải có giai đoạn học và thực hành về dân chủ. Để chuyển từ một chế độ độc tài (Pak Chung Hy) sang một chế độ dân chủ, Hàn Quốc phải

Page 165: 8160

164

mất 10 năm để chuẩn bị, đó là thời gian để cho người dân được học và thực hành dân chủ. Thực hiện công tác tuyên truyền và tổ chức thực hành về dân chủ có mục đích, có kế hoạch và liên tục, ngày nay chính phủ và người dân Hàn Quốc đã tự hào được sống trong một chế độ bảo đảm được các quyền tự do dân chủ cơ bản của người dân.

2.2. Mặt trái của cơ chế một Đảng duy nhất cầm quyền cũng có ảnh hưởng tới việc phát huy dân chủ trong Đảng

Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền, đó là tất yếu khách quan lịch sử, là sứ mệnh nặng nề của Đảng được nhân dân giao phó. Điều đó chứng tỏ sức mạnh và uy tín của Đảng, tạo ra những điều kiện mới, những phương tiện mới, công cụ mới để Đảng thực hiện mục tiêu, lý tưởng và những điều hứa hẹn với nhân dân. Chúng ta không chấp nhận đa nguyên đa đảng đối lập. Nhưng trong điều kiện đó, những nguy cơ của một Đảng duy nhất cầm quyền dễ xảy ra, cản trở sự phát huy dân chủ, như sự độc quyền, lạm quyền, chủ quan, duy ý chí... Không ít cán bộ, đảng viên dễ mắc nhiều tật bệnh, nhất là quan liêu, xa rời nhân dân, chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, đặc quyền đặc lợi.

Bệnh quan liêu trong quản lý nhà nước, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân với quan liêu trong nội bộ Đảng gắn liền với nhau, trên thực tế là một. Đã quan liêu, mất dân chủ ngay trong nội bộ đội ngũ tiên phong cách mạng thì làm sao có thể dân chủ với nhân dân. Đây chính là nguy cơ thoái hoá biến chất lớn nhất của Đảng duy nhất cầm quyền, nhất là đối với những người được giao nắm quyền lực.

2.3 Tổ chức chưa hợp lý

- Chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức còn chồng chéo

Một trong những nguyên nhân làm hạn chế dân chủ và gây mất đoàn kết nội bộ là do sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các tổ chức. Sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, dẫn đến việc cùng một công việc lại có hai hay nhiều tổ chức cùng thực hiện. Trong những trường hợp như thế, nếu không có sự phân định rõ ranh giới công việc dễ làm cho tổ chức này lấn quyền của tổ chức kia hay có công việc lại không có tổ chức nào thực hiện. Từ đó dễ dẫn đến sự tranh giành, mất đoàn kết giữa các tổ chức và hậu quả của nó là làm giảm hiệu quả của công việc. Một biểu hiện rõ nhất về chồng chéo chức năng, nhiệm vụ mà lâu nay được nhiều người đề cập tới, đó là mối quan hệ giữa

Page 166: 8160

165

Đảng và Nhà nước. Nếu mối quan hệ này không được phân định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ thì đó sẽ là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu dân chủ và mất đoàn kết, làm giảm hiệu quả quản lý của Nhà nước, giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

- Phân cấp, phân quyền chưa rõ ràng

Sự phân cấp, phân quyền chưa rõ ràng giữa các tổ chức cũng là một nguyên nhân dẫn đến mất đoàn kết, do sự tranh giành quyền của nhau. Một bên giữ quyền, một bên đòi quyền nên gây mất đoàn kết. Đảng nắm giữ quyền xét duyệt và tuyển chọn cán bộ, nhưng Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội cũng có lý khi họ muốn được quyền tuyển chọn cán bộ cho tổ chức mình, chứ không bị áp đặt, buộc phải nhận những cán bộ không do mình tuyển chọn. Có đồng chí Thủ tướng bức xúc than rằng, mình chỉ có quyền ký bổ nhiệm hay kỷ luật cán bộ bên chính phủ, chứ có được tham gia vào quá trình xem xét đâu. Như thế nếu không có sự phân định quyền rõ ràng và hợp lý thì cũng sẽ dễ gây những bức xúc trong mỗi tổ chức và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự mất đoàn kết.

- Cơ chế "xin - cho"

Cơ chế "xin - cho" đã xuất hiện trong thời kỳ của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nó tiếp tục tồn tại đến nay, khi chúng ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Cơ chế "xin - cho" đã tạo ra sự mất dân chủ, phát sinh nhiều thói hư, tật xấu trong đội ngũ cán bộ ở các cơ quan công quyền, giữ các trọng tránh, những nhiệm vụ có liên quan tới những nhu cầu cần giải quyết công việc của người dân. Đảng và Nhà nước ta luôn tuân chỉ mục tiêu phấn đấu để trở thành một nhà nước phục vụ nhân dân, một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhưng cơ chế "xin - cho" đã đi ngược lại với mục tiêu cao đẹp này. Người dân phải chạy vạy, xin xỏ hết cửa này đến cửa khác ở các cơ quan công quyền mới được giải quyết công việc. Các doanh nghiệp thi nhau đi "cửa trước, cửa sau" để mong giành được quyền ưu đãi hay cấp phép triển khai một dự án. Rồi hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy án đang gây nhức nhối trong dư luận.... đều xuất phát từ cơ chế "xin - cho". Những mặt trái của cơ chế "xin - cho" đang trực tiếp tác động, kìm hãm sự phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong xã hội.

Page 167: 8160

166

- Cơ chế lợi ích

Chuyển sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đang bị cơ chế lợi ích chi phối khá nặng nề. Hiện tượng có nhiều tổ chức, cơ quan, đơn vị cứ cố đòi giữ một số các chức năng, nhiệm vụ mà đúng ra nó phải được trao cho các tổ chức, cơ quan, đơn vị khác thực hiện. Vì lợi ích, họ cần phải giữ lại những chức năng, nhiệm vụ để tăng cường quyền lực, từ đó bảo đảm quyền và lợi. Tại sao các Bộ biết là sai nguyên tắc vẫn cứ "ôm", cứ "nắm" quyền sản xuất kinh doanh vì đó là lợi ích. Một bên giữ, một bên đòi chức năng nhiệm vụ, dẫn đến sự mất dân chủ và mất đoàn kết.

- Thiếu cơ chế xây dựng đội ngũ chuyên gia

Hiện nay có thực trạng, Đảng chỉ chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và chưa thật chú ý tới đội ngũ nhân tài, chuyên gia. Có ý kiến cho rằng: Đảng "lùa" hết đảng viên vào quan trường mà không chú ý đào tạo chuyên gia. Các nghị quyết của Đảng như nghị quyết về luân chuyển, nghị quyết về quy hoạch cán bộ, nghị quyết về đào tạo, bồi dưỡng ... và các chính sách đối với cán bộ đều chỉ hướng tới cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển đất nước lại hầu như không được quan tâm. Sự thiếu dân chủ trong các chính sách như thế (chỉ coi trọng cán bộ lãnh đạo, quản lý), dẫn đến hiện tượng nhiều cán bộ, đảng viên chỉ tập trung hướng phấn đấu để được thăng quan, tiến chức, chứ không coi trọng rèn luyện chuyên môn, nên chúng ta ngày càng thiếu đi những chuyên gia giỏi, chuyên môn sâu trong từng lĩnh vực công tác.

2.4. Các quy chế, chế độ để phát huy dân chủ trong Đảng chưa cụ thể, nên chưa phát huy được đầy đủ trong thực tế

- Không thể phát huy dân chủ nếu không có cơ chế để thực hiện.

Khi đoàn khảo sát của đề tài này về các địa phương, các tổ chức Đảng đều cho biết, vì vấn đề nêu ra của đề tài quá "nhạy cảm", nên cho phép chỉ trao đổi trong phạm vi hẹp. Một đồng chí bí thư của một tỉnh thì nói rằng: "nếu cho tôi gặp riêng với đoàn khảo sát thì tôi mới nói hết được, còn ngồi với Thường trực thì tôi cũng chỉ nói với mức độ thế thôi". Như vậy, rõ ràng, do chưa có quy chế về dân chủ trong Đảng nên ngay cả những đồng chí lãnh đạo trong Đảng còn ngại nói thẳng ra các vấn đề dân chủ trong Đảng. Chưa có quy chế về dân chủ, nên mọi người khi bàn về vấn đề này luôn e ngại, sợ bị quy chụp khép vào tội

Page 168: 8160

167

này, tội kia. Do đó, chỉ khi có quy chế về dân chủ, mọi người mới dám nói, dám bàn về dân chủ theo đúng những điều luật đã quy định trong quy chế.

- Hệ thống các quy chế về dân chủ hiện nay còn thiếu

Văn kiện đại hội Đảng X đã nêu rõ: "Còn thiếu những quy chế cụ thể bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ". Trong nhiều nghị quyết của Đảng đã nêu những chủ trương về phát huy dân chủ trong Đảng. Nhưng trên thực tế trong số các chủ trương ấy vẫn còn nhiều chủ trương chưa được triển khai vào thực tiễn. Nguyên nhân cơ bản của hạn chế này chính là ở chỗ, tuy Đảng đã có chủ trương, nhưng lại chưa có cơ chế để hiện thực hoá chủ trương ấy, nên các tổ chức Đảng bị lúng túng, chưa biết cách triển khai dân chủ trong Đảng như thế nào, dựa trên cơ chế nào để thực hiện. Chính vì thế, nhiều chủ trương của Đảng về dân chủ vẫn chỉ nằm trên văn bản nghị quyết mà không vào được thực tiễn.

Trong những năm vừa qua, một số cơ quan đơn vị đã xây dựng quy chế dân chủ cho các hoạt động của tổ chức mình, nhưng có những quy chế cho đến nay vẫn chưa được cho phép thực hiện, chẳng hạn như "Quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội" đã có dự thảo, nhưng gần 20 năm qua, vẫn chưa được thông qua. Vì thế Khoa học xã hội ở nước ta chỉ chủ yếu làm công tác "minh hoạ ", "phụ hoạ ".

Để có thể phát huy dân chủ trong Đảng và toàn xã hội, Đảng cần phải xây dựng và thông qua các quy chế về dân chủ, chẳng hạn như: Quy chế về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, và các tổ chức chính trị xã hội; quy chế dân chủ trong bầu cử; quy chế dân chủ trong đề bạt, bổ nhiệm; quy chế dân chủ trong kiểm tra... Dựa vào các quy chế ấy, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân mới có cơ sở về mặt pháp lý để phát huy được dân chủ trong mọi mặt hoạt động của mình.

- Tính công khai còn hạn chế.

Dân chủ đi liền với công khai mọi công việc của Đảng, nói cách khác công khai là phương tiện. là biện pháp để phát triển dân chủ trong Đảng. Công khai các hoạt động của Đảng và minh bạch trong công tác tổ chức và cán bộ của Đảng đang là những đòi hỏi bức thiết của mọi cán bộ đảng viên trong giai đoạn đổi mới của đất nước hiện nay. Đảng viên phải được biết các chủ trương lớn của Đảng, thì mới tổ chức thực hiện đúng và có điều kiện để kiểm tra,

Page 169: 8160

168

giám sát chặt chẽ việc thực hiện các chủ trương ấy. Hiện nay, còn nhiều văn bản đóng dấu "mật" hay "chỉ lưu hành nội bộ", một số công việc lớn, quyết sách quan trọng của Đảng và Nhà nước chưa được công khai, thảo luận rộng rãi trong các tổ chức đảng, vì thế chưa thu hút sự tham gia và giám sát có hiệu quả của tổ chức đảng cơ sở, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

2.5. Sự yếu kém ở một số cấp uỷ trong tổ chức thực hiện các chế độ, nguyên tắc tổ chức của Đảng

Còn một số cấp uỷ chưa thực sự quan tâm, chưa coi nhiệm vụ triển khai các nguyên tắc, quy định của Đảng nhằm phát huy dân chủ là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác của mình, dẫn đến tình trạng thiếu dân chủ, mất đoàn kết ở một số nơi. Năng lực, phẩm chất của cấp uỷ, nhất là người bí thư, có ảnh hưởng tới sự phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng. Trong bất kỳ tổ chức nào, nếu cấp uỷ, người lãnh đạo gương mẫu, chú trọng phát huy dân chủ trong mọi mặt công tác, thì ở đó tạo nên sự đoàn kết thống nhất, phát huy được sức mạnh của tập thể để hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng ngược lại, nếu cấp uỷ thiếu gương mẫu, không tạo điều kiện để phát huy dân chủ thì ở đó sẽ không có dân chủ, nội bộ mất đoàn kết, cán bộ chán nản ảnh hưởng tới hiệu quả của công việc.

2.6. Hạn chế trên một số mặt trong công tác xây dựng Đảng

1/ Trong xây dựng các chủ trương, nghị quyết của Đảng

Do bận quá nhiều công việc nên sự đóng góp của các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng trong xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng còn hạn chế

Một số đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng do phải đảm nhiệm quá nhiều công việc, lại mất nhiều thời gian tham dự các buổi họp, dự hội nghị, dự các lễ hội, lễ khánh thành... nên chưa dành nhiều thời gian cho việc tham gia đóng góp xây dựng các đề án của Đảng. Thêm vào đó là việc không được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết có liên quan, đã hạn chế việc phát huy trí tuệ của tập thể Ban chấp hành Trung ương đóng góp cho các chủ trương, chính sách của Đảng..

- Trong quy trình xây dựng nghị quyết vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức

Các khâu trong quy trình xây dựng nghị quyết cho đại hội đã được công khai, rõ ràng và xét về hình thức đã có nhiều đổi mới, thể hiện dân chủ. Đảng

Page 170: 8160

169

viên được quyền tham gia thảo luận, góp ý kiến từ cấp cơ sở đến cấp trung ương dự thảo nghị quyết. Ban dự thảo tiếp thu và hoàn chỉnh nghị quyết để trình đại hội và sau đó các đại biểu góp ý kiến và thông qua nghị quyết. Nhưng thực tế trong từng khâu của quy trình này vẫn còn thể hiện dân chủ hình thức.

Trong xây dựng nghị quyết của Đảng, quá trình thu thập và chất lượng xử lý thông tin từ các nguồn khác nhau chưa thật tốt. Việc tổ chức xin ý kiến nhiều khi còn hình thức, bộ phận có trách nhiệm ít khi tiếp thu các ý kiến phản biện để hoàn thiện nghị quyết. Vì nghị quyết cơ bản đã viết xong, nên ban biên tập chỉ chỉnh sửa một số lỗi nhỏ (chỉ trừ nghị quyết đại hội VI là phải viết lại). Có ý kiến cho rằng, Bộ Chính trị cũng chỉ chọn một số điểm chưa thống nhất để giải trình, nhưng cũng chỉ làm hình thức thôi. Câu chữ trong nghị quyết, vì phải dung hoà các ý kiến khác nhau, nên thường chung chung, do đó khó triển khai vào cuộc sống. Đến đại hội, thời gian dành cho đại biểu thảo luận nghị quyết cũng ít (chỉ chủ yếu làm công tác nhân sự), nên khi biểu quyết, đại biểu đều muốn thông qua cho nhanh, vì thế thường là 100% đồng ý.

- Quy trình cụ thể hoá, triển khai nghị quyết chưa thật sự phát huy dân chủ

Quy trình xây dựng nghị quyết trước đại hội Đảng về mặt hình thức được tổ chức triển khai khá tốt, lấy ý kiến rộng rãi của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Nhưng sau đại hội, khi triển khai nghị quyết của Đảng, đi vào những vấn đề cụ thể ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương thì thường lại xuất hiện những ý kiến khác nhau, nhiều khi gây ra những cuộc tranh cãi khá gay gắt. Các chuyên đề cụ thể hoá nghị quyết sau đại hội , có ý nghĩa rất quan trọng, vì nó là đường lối chính trị chỉ đạo trực tiếp mọi hoạt động ở cơ sở, nhưng thường lại ít lấy ý kiến góp ý của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, vì thế còn có những quyết định vênh với thực tế, không sát với thực tế.

- Trong một số trường hợp, Đảng chưa nhìn thẳng vào sự thật để chỉnh sửa những quyết sách chưa thật phù hợp với thực tiễn.

Đảng phải chú ý lắng nghe những ý kiến từ phía quần chúng nhân dân và với mục tiêu cao nhất là phấn đấu vì sự ấm no hạnh phúc của nhân dân, nên Đảng phải sẵn sàng chỉnh sửa các quyết định của mình nếu thấy nó chưa thật phù hợp với thực tiễn. Vừa qua, có ý kiến cho rằng, có một số quyết định của Đảng và Nhà nước, về một số vụ việc còn chủ quan, chưa thật sự lắng nghe các ý kiến khác nhau. Đảng phải dám nhìn vào sự thật, thấy sai thì sửa, chỉ có

Page 171: 8160

170

như thế mới nâng cao uy tín của Đảng trước quần chúng nhân dân, mới thúc đẩy phát triển dân chủ trong Đảng.

- Chưa có quy chế giám sát việc thực hiện từng công đoạn trong quy trình xây dựng đường lối chính trị của Đảng

Trong quy trình xây dựng đường lối chính trị của Đảng còn có khâu chưa bảo đảm phát huy dân chủ hay dân chủ hình thức là do chưa tổ chức tốt khâu giám sát. Nếu có quy chế giám sát chặt chẽ, thì bộ phận có trách nhiệm tiếp thu ý kiến của đảng viên không thể làm qua loa, đại khái, thiếu trách nhiệm; ban biên tập không thể bỏ qua những ý kiến đóng góp xác đảng để chỉnh sửa nghị quyết... Thực tế cho thấy bất cứ một công việc gì nếu không có sự giám sát, đều dễ dẫn tới sự gian dối, thiếu trách nhiệm ảnh hưởng tới hiệu quả của công việc.

2/ Trong công tác tư tưởng

- Chưa có những quy định về tự do tư tưởng.

Trong nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí có nêu "Trong Đảng đã xuất hiện các ý kiến khác nhau về một số vấn đề cơ bản liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ảnh hưởng tới sự thống nhất tư tưởng". Trong quá trình phát triển của đất nước, phải coi việc tồn tại những ý kiến khác nhau trong Đảng là chuyện bình thường (nếu các ý kiến luôn thống nhất mới là lạ). Nhưng do chúng ta chưa có những quy định cụ thể về việc phát ngôn, truyền bá những ý kiến đó, dẫn đến tình trạng tự phát tán tài liệu, đưa tin lên mạng... những ý kiến của cá nhân về các công việc của Đảng, làm cho quần chúng nhân dân nghi ngờ, thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo, đoàn kết thống nhất trong Đảng.

- Chưa tạo diễn đàn để thảo luận, tranh luận.

Nhiều cán bộ, đảng viên có những suy nghĩ khác nhau về các mặt công tác của Đảng, họ muốn góp ý kiến cho Đảng, nhưng không có chỗ để nói, mà nói không đúng chỗ là phạm nguyên tắc của Đảng. Vì thế, các ý kiến đó cứ bị tích tụ, dồn nén, đến một lúc nào đó nó "nổ bung" ra, thì hậu quả thật khó lường. Đảng ta chưa tạo ra những diễn đàn, để những đảng viên, quần chúng nhân dân đến đó để "xả", tranh luận, thảo luận những ý kiến khác nhau. Thông qua các diễn đàn này,

Page 172: 8160

171

Đảng nắm được những ý kiến đóng góp, diễn biến tư tưởng của đảng viên để có sự điều chỉnh thích hợp trong công tác tư tưởng của Đảng.

3/ Trong sinh hoạt Đảng

- Nguyên tắc tập trung dân chủ chưa được mọi cán bộ, đảng viên quán triệt một cách đầy đủ

Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc tổ chức quan trọng nhất của Đảng. Nhưng trong thực tế, việc quán triệt nguyên tắc này trong sinh hoạt Đảng ở một số Đảng bộ, chi bộ còn nhiều hạn chế, dẫn đến tình trạng mỗi đảng viên không phát huy hết những quyền của mình hay có khi lại vi phạm những quyền đó. Trong sinh hoạt Đảng, nhiều khi quá đề cao tập trung, còn phát huy dân chủ lại chưa được coi trọng đúng mức, dẫn đến sự quan liêu, độc đoán, chuyên quyền của một bộ phận, cá nhân cán bộ giữ cương vị lãnh đạo, làm giảm sức chiến đấu của Đảng. Trong trường hợp khác, có đảng viên lại tự cho mình có quyền làm trái với nghị quyết của Đảng, phát ngôn tuỳ tiện những chính kiến của mình khi chưa được phép, làm ảnh hưởng tới uy tín của Đảng. Qua điều tra khảo sát, còn không ít đảng viên chưa nắm vững các quyền của đảng viên trong Điều lệ Đảng và chưa hiểu một cách thấu đáo nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

- Chưa xây dựng được quy chế dân chủ trong sinh hoạt Đảng

Trong Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam đã quy định rõ các quyền của đảng viên. Tuy vậy, các quyền đó còn chung chung, chưa cụ thể, vì thế việc ứng dụng các quyền đó trong nhiều trường hợp còn vướng mắc, ảnh hưởng đến phát huy dân chủ trong Đảng. Trong Điều lệ Đảng quy định"Đảng viên có quyền phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức". Nhưng do chưa có quy định cụ thể về việc nếu ai vi phạm quyền này sẽ bị xử lý như thế nào, nên trong thực tế, có những đảng viên đã bị trù dập, không ai bảo vệ sau khi có những phát biểu phê bình lãnh đạo cấp trên. Nguyên nhân của tình trạng trên là do trong Đảng chưa xây dựng quy chế dân chủ trong sinh hoạt Đảng, nên khi có hiện tượng vi phạm dân chủ, chúng ta không có chỗ dựa có tính pháp lý để xử lý vụ việc. Xây dựng quy chế dân chủ trong Đảng là điều kiện cần thiết, là cơ sở để phát huy dân chủ trong Đảng.

- Nội dung sinh hoạt Đảng còn chưa thực sự thu hút được đảng viên tích cực tham gia, chưa nêu ra những vấn đề chi bộ phải bàn luận, trao đổi. Nội

Page 173: 8160

172

dung và các vấn đề đặt ra trong sinh hoạt Đảng còn bị áp đặt theo ý kiến chủ quan của người lãnh đạo. Cấp uỷ chưa khơi dậy được tinh thần và ý thức dân chủ của mỗi đảng viên; mặt khác còn do năng lực, trình độ của người đứng đầu chi bộ hạn chế.

- Chế độ cung cấp thông tin còn hạn chế cũng ảnh hưởng tới phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng. Thông tin không đầy đủ, kịp thời là nguyên nhân dẫn đến tình trạng làm hạn chế quyền của đảng viên trong việc đóng góp có hiệu quả vào các chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng. Đảng viên cần được cung cấp đầy đủ thông tin về các hoạt động chủ yếu của Đảng, cần được thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận và thực tiễn để đáp ứng những yêu cầu luôn đổi mới của thực tiễn. Trong một môi trường đầy đủ thông tin, đảng viên sẽ có những ý kiến đóng góp xác đáng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn cho các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng.

Vấn đề dân chủ trong nội bộ Đảng có quan hệ rất nhiều với chế độ thông tin. Nếu không được thông tin đầy đủ, nhất là những thông tin về bản chất thực sự bên trong vấn đề, thì đảng viên rất khó có thể tranh luận, trao đổi và như vậy, nhiều khi đa số đảng viên đành chỉ biết nghe theo người nắm bắt được thông tin và chỉ biết tin vào người đó mà thôi. Tình hình đó dẫn đến thực trạng trong sinh hoạt Đảng, nhiều khi bàn bạc dân chủ chỉ là hình thức, biểu quyết theo đa số nhưng thực chất là phục tùng một số ít thiểu số, thậm chí theo một người. Không khắc phục tình trạng này thì khó có thể phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng.

4/ Trong công tác cán bộ

- Quyền hạn và trách nhiệm của tập thể và cá nhân chưa rõ.

Đảng thực hiện nguyên tắc: "Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách", nhưng do chưa làm rõ mối quan hệ này, nói cách khác chưa làm rõ quyền hạn và trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân. Văn kiện đại hội Đảng X (tr 270) đã nêu rõ: "Mối quan hệ về trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu chưa được quy định cụ thể; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân và tập thể; khó đánh giá được kết quả công tác và quy rõ trách nhiệm cá nhân khi có sai phạm". Nhiều địa phương cho rằng hiện nay thành tích thì có cá nhân nhận, còn sai sót thì cả tập thể cùng chịu (đồng nghĩa với không ai chịu cả). Tình trạng cá nhân núp bóng tập thể để thực hiện một số công việc sai trái cũng đang

Page 174: 8160

173

bị dư luận lên án.Tình trạng lạm quyền, lộng quyền, đứng trên tập thể của một vài cá nhân trong quyết định một số công việc của Đảng, đặc biệt trong công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, đang gây bức xúc trong nội bộ Đảng và ngoài xã hội. Chính điều này đòi hỏi cần phải sớm xây dựng quy chế về: tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

- Các quy trình trong công tác cán bộ (quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, tuyển dụng, bầu cử...) chưa tạo ra sự cạnh tranh.

Nguyên tắc công khai, minh bạch trong các khâu của công tác cán bộ và nguyên tắc cạnh tranh trong các công tác quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, tuyển dụng... đều nhằm hướng tới bảo đảm phát huy dân chủ và nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Thực tế cho thấy các quy trình để thực hiện các khâu trên của công tác cán bộ chưa thực sự tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, chưa tạo ra sân chơi bình đẳng, tạo cơ hội để nhiều người có thể tham gia, thi thố tài năng, từ đó chọn lựa được người thích hợp nhất cho những yêu cầu cần tuyển chọn.Như trong quy trình bầu cử, chưa công khai tiêu chuẩn chức danh, chưa tổ chức tranh cử giữa các ứng cử viên trước đông đảo quần chúng nhân dân, trong khi thông tin về các ứng viên lại không đầy đủ, có khi lại còn có sự định hướng của cấp trên, thế thì làm sao đại biểu có thể lựa chọn đúng được người mình cần bầu.

- Nhiều khâu trong công tác cán bộ còn chưa thực sự phát huy được dân chủ, chẳng hạn, như việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ hiện nay được coi như là một biện pháp, một tiêu chí chủ yếu để đề bạt, sử dụng, đánh giá, quy hoạch cán bộ..., vì thế nhiều khi để lọt những cán bộ giỏi, có tài, nhưng không được lòng số đông. Hay trong công tác quy hoạch cán bộ, theo quy định chỉ xét bổ nhiệm đề bạt chức vụ khi cán bộ trước đó đã nằm trong quy hoạch, điều đó đã làm mất đi cơ hội phấn đấu, phát triển của số đông cán bộ khác trong cơ quan, đơn vị.

Trong công tác bầu cử, người đi bầu không được cung cấp đầy đủ thông tin, nên thường bầu theo định hướng của cấp trên.

Công tác đánh giá cán bộ hiện nay còn phụ thuộc nhiều vào người đứng đầu, vì thế trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của người lãnh đạo có ý nghĩa quyết định tới việc đánh giá cán bộ có dân chủ, chính xác hay không.

Page 175: 8160

174

Thực tế cho thấy ở một số tổ chức, kết quả đánh giá cán bộ của một nhóm lãnh đạo nhiều khi khác với số đông tập thể.

5/ Trong công tác kiểm tra

- Chưa huy động được tính tích cực của đảng viên.

Hiện nay công tác kiểm tra, giám sát chủ yếu được thực hiện bởi Uỷ ban Kiểm tra các cấp. Nhiều cấp uỷ chưa coi công tác kiểm tra là một nhiệm vụ của mình mà khoán trắng cho Uỷ ban Kiểm tra cùng cấp. Chính vì thế mà công tác kiểm tra chưa thu hút được sự tham gia tích cực của đông đảo đảng viên, nên nhiều vụ vi phạm không được phát hiện từ chi bộ cơ sở, mà từ quần chúng nhân dân. Đảng viên không tích cực đấu tranh với những biểu hiện vi phạm điều lệ Đảng, không cùng với Uỷ ban Kiểm tra thực hiện việc giám sát, phát hiện, ngăn chặn từ xa những sai phạm... nên đã làm hạn chế đến hiệu quả của công tác kiểm tra. Trách nhiệm này trước hết thuộc về cấp uỷ, nhưng đồng thời cũng cho thấy cần tiếp tục hoàn thiện các quy chế về công tác kiểm tra, giám sát.

- Người tố cáo đúng không được bảo vệ.

Tại sao hiện nay, tinh thần đấu tranh của cán bộ, đảng viên bảo vệ cái đúng, chống lại cái sai đang giảm sút. Một nguyên nhân của hiện tượng đó là chúng ta chưa có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ những người dám đấu tranh. Thực tế, có những cán bộ đứng ra tố cáo những hiện tượng tiêu cực trong đơn vị, nhưng sau đó họ bị trù dập, nhiều khi mất cả việc làm, trong khi đó, không có một quy chế nào bảo vệ họ. Người tố cáo không được bảo vệ, như thế thử hỏi còn ai dám đấu tranh nữa không? Không có người dám đứng ra đấu tranh, phanh phui những hiện tượng tiêu cực, sẽ làm cho công tác kiểm tra, giám sát thêm khó khăn.

- Bệnh thành kiến cá nhân.

Bệnh thành kiến cá nhân cũng đang là một nguyên nhân làm hạn chế phát huy dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát. Trong quá trình công tác, người cán bộ có thể mắc một khuyết điểm nào đó, nhưng nếu cứ đến mỗi dịp đề bạt, khen thưởng cán bộ, Uỷ ban Kiểm tra lại đem khuyết điểm đó ra để xem xét và thành kiến với cán bộ, thì chúng ta sẽ làm mất đi nhiều cán bộ giỏi. Uỷ ban Kiểm tra đã không đánh giá cán bộ theo chiều hướng phát triển, theo hiệu quả công tác của cán bộ lúc đó, mà lại đeo một cái gông khuyết điểm vào cổ của cán bộ suốt đời, không cho cán bộ có cơ hội sửa chữa. Bệnh thành kiến

Page 176: 8160

175

với cá nhân như thế là thiếu dân chủ và làm cho cán bộ chán nản, không còn động lực để phấn đấu.

- Công tác kiểm tra giám sát cũng có những yếu kém.

Công tác kiểm tra, giám sát còn yếu, một mặt do cơ chế, mặt khác do trình độ nghiệp vụ, tác phong và phẩm chất cần thiết của cán bộ làm công tác kiểm tra chưa đạt yêu cầu. Ngoài ra cũng phải kể đến ý thức tự giác kém của đảng viên trong kiểm điểm các hành vi vi phạm. Theo quy trình xem xét kiểm tra, khó có thể trông chờ vào mức độ tự giác của cán bộ, đảng viên.

Một số cấp uỷ cơ sở chưa thật sự quan tâm củng cố tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra; chưa thường xuyên chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của uỷ ban kiểm tra. Chưa có cơ chế để uỷ ban kiểm tra có quyền kiểm tra người đứng đầu cấp uỷ cùng cấp, mà đây cũng là đối tượng cần được kiểm tra, giám sát.

Một số quy định của Đảng về công tác kiểm tra còn chồng chéo, chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ nên khó thực hiện, ảnh hưởng tới phát huy dân chủ trong công tác này.

Do công tác phê và tự phê bình hiện nay rất yếu nên ảnh hưởng rất nhiều đến công tác kiểm tra, giám sát. Có cán bộ bị vi phạm kỷ luật, nhưng cơ sở chỉ đề nghị khiển trách. Sau đó khi cơ quan điều tra làm việc thì cán bộ đó mắc khuyết điểm tới mức phải vào tù.

Nhận thức trong đánh giá khuyết điểm của cán bộ còn khác nhau, không thống nhất: khuyết điểm do cơ chế hay khuyết điểm của cá nhân.

6/ Trong công tác dân vận

- Công tác dân vận mới chú ý thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, mà chưa thật sự quan tâm tới quyền lợi của quần chúng

Công tác dân vận vừa qua đã chú trọng nhiệm vụ vận động quần chúng nhân dân để thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng. Nhưng một nhiệm vụ khác cũng không kém phần quan trọng mà công tác dân vận chưa thật chú ý, đó là phải đấu tranh để bảo vệ các quyền lợi chính đáng của quần chúng nhân dân. Chỉ có như vậy nhân dân mới gắn bó với Đảng, với Nhà nước, sẵn sàng cùng với Đảng và Nhà nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được các mục tiêu của Đảng. Thực tế cho thấy, công tác dân vận chưa vì lợi ích

Page 177: 8160

176

của quần chúng nhân dân, chưa tạo điều kiện để họ nói nên chưa tập hợp và phản ánh được nguyện vọng của họ (chưa phản ánh được nguyện vọng của thanh niên, phụ nữ....). Nếu chỉ chú ý thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, không quan tâm tới quyền lợi của quần chúng nhân dân, thì công tác dân vận sẽ khó đạt được hiệu quả.

- Hành chính hoá công tác dân vận

Công tác dân vận phải gắn bó với quần chúng, đi sâu, đi sát quần chúng để nắm chắc tâm tư nguyện vọng của họ, cùng họ giải quyết những khó khăn vướng mắc, từ đó gây được niềm tin của quần chúng vào Đảng và chế độ. Vì thế, công tác dân vận không thể làm theo kiểu hành chính được. Nhiều khi công tác dân vận làm ngoài giờ hành chính lại có hiệu quả hơn, vì khi đó cán bộ mới có điều kiện tiếp xúc với người dân (sau giờ lao động, làm việc), tổ chức cán buổi sinh hoạt theo các chủ để khác nhau, để từ đó nắm được dân và tuyên truyền để dân nắm được đường lối chính sách của Đảng.

- Công tác dân vận còn gặp nhiều khó khăn. Hệ thống làm công tác dân vận còn khó khăn, chưa được quan tâm. Các đoàn thể chính trị – xã hội có biểu hiện hành chính hoá như cơ quan nhà nước, nên dẫn đến tình trạng: một số đồng chí lãnh đạo quên dân, xa dân.

Công tác dân vận còn gặp nhiều lúng túng trong việc phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất do việc xác định các chức năng, nhiệm vụ của công tác dân vận không thật rõ ràng; nhận thức của chính quyền và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về công tác dân vận chưa đúng, chưa đủ.

Dân vận được giao nhiệm vụ phản biện nhưng chưa có cơ chế và hướng dẫn thực hiện nên trên thực tế chưa triển khai được công việc này. Công tác giám sát thực hiện chưa có hiệu quả vì thiếu thông tin, không được cung cấp thông tin một cách đầy đủ.

- Khó khăn giữa ý muốn thực hiện mục tiêu mở rộng và tăng cường dân chủ với cách tổ chức thực hiện còn quá cũ nên chưa tạo ra bước đổi mới có tính cách mạng.

- Thể chế dân chủ và người đứng đầu cấp uỷ có ảnh hưởng rất lớn đến phát huy dân chủ trong Đảng. Chưa quy định rõ chế độ trách nhiệm đối với từng vị trí công tác.

Page 178: 8160

177

2.7. Một số nguyên nhân gây mất đoàn kết trong Đảng

- Mất dân chủ thì sẽ mất đoàn kết, ở đâu thiếu dân chủ thì ở đó thiếu sự đoàn kết

Từ mất dân chủ dẫn đến: đồng ý nhưng không đồng thuận; đoàn kết hình thức: bằng mặt mà không bằng lòng; không dám nói trái ý người đứng đầu, trái ý Thường vụ.

Do đối thoại ít, nên các ý kiến khác nhau không được thảo luận, trao đổi, nên trong cuộc họp nói khác, ngoài cuộc họp lại nói khác.

- Sự thiếu gương mẫu của những cán bộ lãnh đạo cấp uỷ

Khi người đứng đầu cấp uỷ và một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức sa sút sẽ dẫn đến mất đoàn kết nội bộ và dân chủ bị hạn chế. Tình hình mất đoàn kết, thậm chí mất đoàn kết nghiêm trọng ở một số tổ chức của Đảng nhiều khi chỉ là do chủ nghĩa cá nhân, bệnh công thần, địa vị, nhỏ nhen và ích kỷ, tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa hoặc do những nhận thức không đúng đắn về vấn đề dân tộc; tình cảm địa phương, họ hàng, thôn xóm gây nên.

Người lãnh đạo, cấp uỷ không thực hiện theo các quy định, quy chế đã đề ra trong Đảng. Dựa vào cái gọi là “sự đoàn kết nhất trí”, một số tổ chức cơ sở đảng đã tạo dựng ở cơ sở sự chuyên quyền độc đoán, mất dân chủ, không lắng nghe những ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên, không chấp nhận những ý kiến trái chiều.

- Năng lực, phẩm chất của cán bộ, nhất là người đứng đầu, có ảnh hưởng tới sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng

Mất đoàn kết trong Đảng thường bắt đầu từ sự mất đoàn kết trong nội bộ cấp uỷ, trong Ban lãnh đạo của các cơ quan, đơn vị. Trong một số cơ quan đơn vị người đứng đầu còn chuyên quyền, độc đoán thiếu dân chủ dẫn đến sự mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ. Năng lực người đứng đầu thể hiện trước hết ở khả năng đề xuất những ý tưởng mới, khả năng lôi cuốn, thuyết phục, cảm hoá quần chúng nhân dân nhằm thực hiện tốt nhất các mục tiêu của cơ quan, đơn vị. Ngược lại, nếu người đứng đầu yếu về năng lực sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo, từ đó dễ nảy sinh cách nghĩ, cách làm không đúng, làm ảnh hưởng tới sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Người cán bộ đứng đầu phải là tấm gương sáng về đạo đức, về phẩm chất tính cách và tác phong. Một sự

Page 179: 8160

178

“vẩn đục” nào của người đứng đầu về phẩm chất đạo đức sẽ ảnh hưởng rất lớn tới uy tín của Đảng và sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ.

Đánh giá về nguyên nhân gây mất đoàn kết, làm suy yếu kỷ luật trong Đảng do thiếu sự gương mẫu của người đứng đầu tổ chức, chúng tôi thu được kết quả cho ở bảng sau:

Đánh giá Tần suất Tỷ lệ (%)

Không ý kiến 510 25.8

Thứ nhất 1248 63.1

Thứ hai 93 4.7

Thứ ba 54 2.7

Thứ tư 39 2.0

Thứ năm 33 1.7

Tổng 1977 100.0

Nguyên nhân mất đoàn kết do người đứng đầu tổ chức

Có tới 63.1% trong số 1977 cán bộ, đảng viên được hỏi đánh giá đây là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất. Điều này cho thấy vai trò cũng như trách nhiệm của cá nhân những người đứng đầu của tổ chức đối với tình trạng mất đoàn kết hiện nay trong các tổ chức đảng các cấp.

Phân tích kết quả trả lời vấn đề này trên cơ sở tách riêng trình độ lý luận, chúng ta có thể thấy rằng trình độ lý luận chính trị càng cao thì nhìn nhận nguyên nhân liên quan tới trách nhiệm của người đứng đầu đối với tình hình đoàn kết trong đảng càng quan trọng.

Số ý kiến cho rằng đây là nguyên nhân quan trọng nhất là 35% ở người có trình độ lý luận sơ cấp; 58% ở người có trình độ lý luận trung cấp và tới 71.3% ở người có trình độ lý luận cao cấp. Điều này có nghĩa là, hiểu biết về Đảng càng sâu thì đánh giá vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu càng lớn đối với vấn đề xây dựng sự đoàn kết trong Đảng ở mỗi tổ chức, đơn vị. (Xem kết quả ở bảng dưới).

Page 180: 8160

179

Lý luận

0 Sơ cấpTrung

cấp Cao cấp

Tổng

Không ý kiến

Số lượng 63 75 189 183 510

% 53.8%

62.5% 31.5% 16.1% 25.8%

Thứ nhất Số lượng 45 42 348 813 1248

% 38.5%

35.0% 58.0% 71.3% 63.1%

Thứ hai Số lượng 3 0 30 60 93

% 2.6% .0% 5.0% 5.3% 4.7%

Thứ ba Số lượng 3 0 15 36 54

% 2.6% .0% 2.5% 3.2% 2.7%

Thứ tư Số lượng 3 3 9 24 39

% 2.6% 2.5% 1.5% 2.1% 2.0%

Thứ năm Số lượng 0 0 9 24 33

% .0% .0% 1.5% 2.1% 1.7%

Tổng Số lượng 117 120 600 1140 1977

% 100.0%

100.0% 100.0% 100.0

% 100.0

%

- Kỷ luật không nghiêm, không công bằng, không công khai minh bạch, thiên vị, bao che...

Vừa qua, có một số vụ việc xử lý cán bộ chưa nghiêm, chưa đúng người đúng tội. Hiện tượng xử lý kỷ luật “nặng trên, nhẹ dưới”, không công bằng, không công khai minh bạch, bao che... đang gây ra sự bất bình trong xã hội. Nhiều ý kiến đang yêu cầu phải có sự công bằng trước pháp luật, điều lệ Đảng trong xử lý kỷ luật, không phân biệt chức vụ, xử đúng người, đúng tội. Tội đến đâu, xử đến đó, không được bao che, thiên vị.

Page 181: 8160

180

Kết quả điều tra xã hội học của chúng tôi cũng cho thấy đây là nguyên nhân xếp thứ hạng thứ hai - sau vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức. Có 53.6% coi đây là một trong nhưng nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng mất đoàn kết trong Đảng.

Đánh giá Tần suất Tỷ lệ (%)

Không ý kiến 528 26.7

Thứ nhất 1059 53.6

Thứ hai 204 10.3

Thứ ba 132 6.7

Thứ tư 48 2.4

Thứ năm 6 .3

Tổng 1977 100.0

Nguyên nhân do kỷ luật không nghiêm, không công bằng

- Chi phối lợi ích giữa các nhóm, sự điều hoà lợi ích không minh bạch.

Hiện nay, những vấn đề thường dẫn đến thiếu dân chủ, đoàn kết là do có sự khác nhau về quyền lợi, địa vị, nếu không biết điều hoà phối hợp tốt sẽ khó giải quyết được. Sự khác biệt về lợi ích dễ dẫn đến sự mất đoàn kết trong nội bộ Đảng. Đấu tranh trong nội bộ Đảng thường có hai xu hướng: xu hướng thứ nhất là đấu tranh tích cực, với động cơ trong sáng, góp phần xây dựng tổ chức và đoàn kết thống nhất trong cơ quan, đơn vị. Xu hướng thứ hai là đấu tranh bè phái, vì lợi ích của một nhóm người, không vì lợi ích chung.

Trong cơ chế thị trường, đã và đang xuất hiện nhiều những nhóm lợi ích khác nhau. Những nhóm lợi ích này đang có sự chi phối nhất định đến những chủ trương, chính sách và sự điều hành của Đảng và Nhà nước ta, Do đó, nếu quá ưu ái nhóm lợi này và thiếu sự quan tâm đến những nhóm lợi ích khác sẽ dễ dẫn đến sự mất đoàn kết giữa các nhóm lợi ích với nhau và sự phản ứng của từng nhóm đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Vì thế cần có sự công

Page 182: 8160

181

khai, minh bạch và điều hoà lợi ích giữa các nhóm, không nên quá thiên lệch đối với một nhóm lợi ích nào.

- Quan hệ trách nhiệm không rõ ràng giữa bí thư - chủ tịch UBND.

Qua khảo sát ở địa phương, nhiều ý kiến cho rằng sự mất đoàn kết thường xảy ra giữa bí thư và chủ tịch UBND, mà nguyên nhân chủ yếu do sự không phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn giữa hai chức danh này. Cơ chế tổ chức không cho phép một tỉnh lại có 2 người đứng đầu. Do đó nếu giữa một trong hai người: Bí thư, chủ tịch UBND, một người thuận người kia, thì sẽ đoàn kết, còn ngược lại dễ gây mất đoàn kết, do lợi ích khác nhau.

- Đặc quyền, đặc lợi cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự mất đoàn kết trong nội bộ Đảng

Do cơ chế về tổ chức của chúng ta chưa thật hợp lý, đã tạo ra một số đặc quyền, đặc lợi cho một số tổ chức, cá nhân dựa trên vị trí công tác mà họ đảm nhiệm. Cán bộ nào ngồi vào vị trí công việc đó đều được hưởng nhiều lợi ích, nhiều khi không phải do tài năng, mức độ đóng góp cho xã hội của họ, mà do chính “chiếc ghế” của họ đang đảm nhiệm đem lại. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự chạy chức, chạy quyền, làm cho công tác tổ chức bị rối loạn, người có đức, có tài chưa chắc đã được sử dụng, bổ nhiệm, mà thay vào đó là những kẻ xấu, kém năng lực. Có ý kiến khá cực đoan cho rằng, công tác nhân sự hiện nay còn ít gắn liền đức-tài, mà nhiều khi gắn liền "quyền" với "lợi". Những người tham gia cạnh tranh chức quyền chưa hẳn vì muốn đóng góp cho đất nước, phục vụ nhân dân, mà sâu thẳm ở phía sau những màn che ấy là "quyền" và "lợi". Sự đấu đá, tranh giành "quyền" và "lợi" ấy, tất yếu sẽ dẫn đến sự mất đoàn kết trong Đảng.

Page 183: 8160

182

Chương III

CÁC QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP VỀ PHÁT HUY DÂN CHỦ VÀ TĂNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG

I. CÁC QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VỀ PHÁT HUY DÂN CHỦ, ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG

1.1. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng để giữ vững bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng kiểu mới

Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ bản chất của Đảng: "Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc". Trong điều kiện đổi mới đất nước hiện nay, để giữ vững được bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng thì nhất thiết phải thực hiện phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng. Đảng lãnh đạo đất nước bằng chủ trương, đường lối, nên Đảng phải luôn xứng đáng là đầu tàu về trí tuệ để sáng suốt đưa ra những quyết định đúng đắn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Phát huy dân chủ là điều kiện để khơi nguồn sáng tạo, huy động được trí tuệ của đông đảo đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân, chống lại những tư tưởng giáo điều, bảo thủ, trì trệ. Đảng luôn phấn đấu hướng tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", vì thế, phát huy dân chủ mới bảo đảm cho Đảng gắn bó với giai cấp công nhân, quần chúng nhân dân, với dân tộc. Đảng phải thường xuyên sâu sát cơ sở, lắng nghe, tiếp thu những ý kiến đóng góp của nhân dân để các quyết định của Đảng có cơ sở thực tiễn, bám sát và phù hợp với thực tiễn luôn biến động. Nếu Đảng xa rời với bản chất của mình, không phát huy dân chủ, xa dân, không lắng nghe ý kiến của dân, thì Đảng sẽ tự suy thoái, không giữ được tính tiên phong và không được nhân dân ủng hộ nữa. Như vậy, phát huy dân chủ mới bảo đảm cho Đảng vượt ra ngoài phạm vi của mình, tạo sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân, phát huy thực sự quyền làm chủ của nhân dân.

Phát huy dân chủ mới khắc phục được chủ nghĩa bè phái, cục bộ, cá nhân chủ nghĩa, mới tạo được sự đồng thuận trong Đảng, nâng cao sức chiến đấu, giữ vững tính tiên phong của Đảng. Dân chủ trong Đảng sẽ tạo cơ hội cho

Page 184: 8160

183

mọi ý kiến khác biệt được chia sẻ, được đưa ra bàn bạc, tranh luận thẳng thắn để đi tới thống nhất, từ đó tạo ra sự đồng thuận trong Đảng. Những ý kiến chưa được chấp nhận có quyền được bảo lưu. Mọi đảng viên đều bình đẳng tham gia đóng góp các ý kiến trong Đảng và các ý kiến đều được các cấp uỷ Đảng tôn trọng lắng nghe. Những ý kiến đúng được Đảng tiếp thu và các ý kiến chưa rõ, được Đảng trao đổi lại. Phát huy dân chủ sẽ tạo cơ hội để chống lại những tư tưởng sai trái, chủ nghĩa cá nhân, sự lãnh đạo chuyên quyền, độc đoán, sự chia rẽ, bè phái, cục bộ, để hướng tới sự đoàn kết nhất trí trong Đảng.

Phát huy dân chủ mới thu hút, hấp dẫn mọi người phấn đấu gia nhập vào tổ chức Đảng. Trong một thế giới đang có sự biến đổi mạnh mẽ, sự hợp tác, trao đổi về mọi mặt giữa các nước ngày càng được gia tăng, hoạt động giao lưu văn hoá giữa các dân tộc ngày càng được mở rộng, thì vấn đề tự do, dân chủ đang trở thành nhu cầu thiết yếu không thể thiếu trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của mỗi người dân. Người dân sẽ không ủng hộ bất cứ tổ chức nào, nếu ở đó không tạo điều kiện để người dân được hưởng những quyền tự do, dân chủ chính đáng của mình. Chính vì thế, nếu trong Đảng thiếu dân chủ, thì Đảng sẽ mất đi sức hấp dẫn, sẽ khó thu hút được đông đảo lực lượng quần chúng gia nhập vào tổ chức Đảng.

1.2. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng gắn với phát huy dân chủ trong xã hội

Dân chủ và đoàn kết thống nhất không chỉ là nguồn sức mạnh của Đảng mà còn là điều kiện, là cơ sở để phát huy dân chủ và đoàn kết trong xã hội.

Đảng lãnh đạo cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.

Phát huy dân chủ, tăng cường quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu hàng đầu, cũng là động lực to lớn của cách mạng. Vì thế dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đồng thời đó cũng là điều kiện, là tiền đề để phát huy dân chủ và đoàn kết trong xã hội. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo xã hội, nên dân chủ trong Đảng phải đi trước một bước dân chủ trong xã hội.

Đảng phải làm trước, làm mẫu, từ đó tổng kết rút kinh nghiệm để nhân rộng trong xã hội, lãnh đạo xã hội thực hiện dân chủ. Với tư cách là một thiết chế, dân chủ trong Đảng được xem là một mô hình, một phương thức có hiệu

Page 185: 8160

184

quả nhất để phát huy sức mạnh chính trị của toàn dân trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị dân chủ. Thiết chế dân chủ trong Đảng có đủ mạnh, có hiệu quả thì mới tạo nên quyền lực mạnh, đủ sức lãnh đạo hệ thống chính trị, đủ sức bảo đảm các quyền dân chủ trên thực tế của nhân dân, mới khơi nguồn cảm hứng và phát huy hết sức mạnh của toàn dân tộc trên con đường tiến tới các mục tiêu dân chủ.

Để phát huy vai trò lãnh đạo đất nước, Đảng là tấm gương mẫu mực về dân chủ đối với xã hội. Bằng tấm gương dân chủ của mình để thuyết phục, tạo niềm tin về dân chủ trong xã hội. Với việc phát huy dân chủ trong từng mặt công tác của Đảng, như trong quyết định các đường lối, chủ trương của Đảng, trong sinh hoạt Đảng, trong công tác bầu cử, trong công tác cán bộ, trong kiểm tra, giám sát...là những bài học tốt để lãnh đạo dân chủ trong xã hội. Dân chủ trong Đảng được xem là một nếp sống, thói quen, tập quán, giá trị xã hội tốt đẹp đã và đang thu hút, thúc đẩy sức mạnh của toàn dân xây dựng nên lối sống mới, phát huy dân chủ - tôn trọng kỷ cương, tăng cường pháp chế.

Đảng không tự tách mình ra khỏi xã hội, mà nhận sự tác động trở lại của xã hội. Đảng phải lắng nghe, phải nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm của xã hội để tiếp tục phát huy dân chủ. Đảng phải học hỏi rất nhiều kinh nghiệm quý báu từ thực tiễn phong phú triển khai thực hiện dân chủ trong xã hội để tăng cường dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đương nhiên, trên nền tảng tăng cường quyền làm chủ của nhân dân, phát huy dân chủ trong xã hội, thì dân chủ nội bộ Đảng càng thêm sức sống, phản ánh được hoạt động thực tiễn và tập trung trí tuệ của dân tộc, nhờ đó Đảng càng được củng cố vững mạnh.

1.3. Dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng phải được tiến hành một cách sâu rộng, toàn diện và có bước đi thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm

Dân chủ trong Đảng không phải được tiến hành theo kiểu tuần tự ở cấp này trước, cấp kia sau, lĩnh vực công tác này trước, lĩnh vực công tác kia sau mà cần được tiến hành đồng bộ trong từng lĩnh vực công tác, từng cấp, từng ngành trong mọi mặt của đời sống Đảng. Trong Đảng không có vùng cấm, vùng tối, dân chủ và đoàn kết thống nhất cần được phát huy trong mọi tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở.

Page 186: 8160

185

Tuy vậy, quá trình triển khai thực hành dân chủ phải quan tâm tới tính đặc thù ở từng lĩnh vực, từng cấp, từng địa phương. Dân chủ là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của một xã hội văn minh, có tính chung và có tính đặc thù, là sản phẩm của sự phát triển về chính trị và xã hội của một chế độ, là sản phẩm của một nền kinh tế, đồng thời là sản phẩm của văn hoá của mỗi dân tộc, địa phương. Nước ta tiến lên từ một xã hội nửa thuộc địa, phong kiến, dựa trên nền sản xuất nhỏ, vì thế, những tư tưởng phong kiến (gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền...) còn ảnh hưởng khá nặng nề trong ý thức của quần chúng nhân dân và một bộ phận cán bộ, đảng viên, đó là lực cản lớn đối với việc nâng cao nhận thức về dân chủ trong Đảng. Đảng ta xác định phát huy dân chủ trong Đảng là công việc cấp thiết, nhưng cũng không thể nóng vội. Để nâng cao nhận thức của đảng viên về dân chủ phải là một quá trình giáo dục lâu dài có chủ đích, có kế hoạch và thường xuyên. Dân chủ chỉ có thể trở thành động lực của sự phát triển khi mọi đảng viên và quần chúng nhân dân nhận thức rõ ràng về những nội dung cơ bản của dân chủ và các cách thức thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, đồng thời dân chủ trở thành ý thức tự giác, thành nhu cầu không thể thiếu trong hoạt động của mỗi tổ chức và cá nhân. Chính vì thế, thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất không thể tiến hành như nhau ở tất cả các cấp, các lĩnh vực, mà phải tính tới tính đặc thù của từng địa phương, đơn vị để có bước đi, cách làm phù hợp.

Triển khai dân chủ phải có lộ trình, bước đi thích hợp, có làm thí điểm, có tổng kết, đánh giá, triển khai mở rộng. Tránh việc triển khai đại trà mà chưa thông qua nghiên cứu tổng kết, rút kinh nghiệm. Dân chủ như con dao hai lưỡi, nếu phát huy đúng sẽ nâng cao sức mạnh của Đảng, ngược lại, sẽ là nguy cơ phá Đảng từ trong chính nội bộ của Đảng ra, nên triển khai dân chủ cần phải được tiến hành thận trọng và kiểm soát được. Trong quá trình thực hành dân chủ phải kiên quyết chống dân chủ hình thức, dân chủ giả hiệu, dân chủ vô tổ chức, kỷ luật, dân chủ "quân bình, vô phèng", giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

Không làm dân chủ tràn lan, mà phải có trọng tâm, trọng điểm. Hiện nay cần ưu tiên làm trước dân chủ trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức cán bộ. Đây là hai mặt công tác quan trọng của Đảng, thể hiện rõ nhất tính ưu việt của dân chủ, ảnh hưởng trực tiếp tới dân chủ ngoài xã hội. Nói như thế không có nghĩa là các mặt khác của Đảng không thực hiện dân chủ, mà vẫn

Page 187: 8160

186

phải tiếp tục triển khai. Nhưng để giải quyết những vấn đề "nóng" đang được Đảng và xã hội đặc biệt quan tâm, chờ đợi trong thời điểm hiện nay, Đảng cần tập trung trí tuệ để đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trước hết trong hai lĩnh vực quan trọng nhất, khó nhất, đó là công tác tư tưởng và tổ chức, cán bộ. Đảng không thể tập trung triển khai cùng một lúc phát huy dân chủ ở nhiều lĩnh vực khác nhau, mà trước hết chọn làm điểm ở hai lĩnh vực, như thế mới tổ chức được chu đáo và đặc biệt là kiểm soát được quá trình triển khai này.

1.4. Để phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng cần cương quyết xử lý vi phạm công khai, công bằng, giữ vững nguyên tắc, Điều lệ Đảng.

Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở giữ vững kỷ luật của Đảng, đồng thời cương quyết xử lý mọi biểu hiện mất dân chủ và mất đoàn kết trong tổ chức Đảng. Đảng phải nêu cao tính nghiêm minh trong xử lý kỷ luật cán bộ đảng viên. Mọi lộn xộn, làm các quy định của Đảng, luật pháp không được tôn trọng đầy đủ, có nguyên nhân từ chỗ xử lý kỷ luật trong Đảng chưa nghiêm. Phải bảo đảm sự công bằng, công khai, giữ vững nguyên tắc, Điều lệ Đảng và pháp luật trong việc xử lý các vụ vi phạm. Chống việc tuỳ tiện "xử lý nội bộ" nhằm bao che, dung túng cho nhau, nể nang, thiên vị cá nhân, hoặc tổ chức Đảng. Không có bất cứ tổ chức, cá nhân nào được vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.

Mọi cuộc kiểm tra cần có kết luận đúng, sai rõ ràng và công khai kết quả điều tra. Tránh việc để tồn đọng những vụ việc không được xử lý, không có kết luận rõ ràng, để quá lâu, hay "yếm nhẹ" đi, gây bất bình trong dư luận. Thực tế có một số vụ kiểm tra vi phạm, lúc đầu điều tra rất tích cực, kiên quyết, sau cứ lắng dần theo thời gian, cũng ít ai theo dõi được vụ vi phạm đó có được xử lý hay không và được xử lý thế nào.

Kiên quyết ngăn chặn tình trạng xử lý sai các vi phạm. Các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ điều tra xử lý vi phạm, cần phát huy dân chủ thực hiện xem xét nghiêm túc, kết luận rõ ràng về mức độ vi phạm và đề xuất hình thức kỷ luật tương ứng. Tránh tình trạng xem xét qua loa các chứng cứ vi phạm hay bị một sức ép nào đó từ bên ngoài, để đưa ra kết luận thiếu chính

Page 188: 8160

187

xác về mức độ vi phạm. Xử lý vi phạm sai do trình độ chuyên môn, nghiệp vụ yếu còn có thể tha thứ, nhưng xử lý vi phạm sai do yếu kém về đạo đức nghề nghiệp, vi phạm dân chủ thì cần phải được xử lý nghiêm minh. Mọi trường hợp bị xử lý oan sai, đều phải được các cơ quan chức năng thực hiện việc minh oan, khôi phục danh dự và uy tín cho cán bộ.

Mọi khiếu nại tố cáo của cán bộ cần được tiếp nhận và xử lý nghiêm túc. Tránh tình trạng nhận đơn khiếu nại tố cáo xong để đấy, không xử lý và cũng không trả lời cho người tố cáo được biết. Bộ phận nhận đơn tố cáo phải có trách nhiệm thực hiện xử lý đơn tố cáo theo đúng các quy định và phải thông báo cho người tố cáo về vụ việc đó đã được xử lý như thế nào.

Cần nghiên cứu, tổng kết về những hành vi mất dân chủ, những kết luận thiếu dân chủ trong thời gian vừa qua, để có những biện pháp ngăn chặn kịp thời.

1.5. Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất là trách nhiệm trước hết của cấp uỷ và người đứng đầu

Dân chủ đi đôi với trách nhiệm. Lâu nay, ta thường chỉ chú ý nhiều đến quyền hạn, không nhấn mạnh trách nhiệm. Nếu dân chủ chỉ nói tới quyền không thôi thì sẽ đi tới xu hướng lạm quyền, mất dân chủ. Do đó nói đến dân chủ, là phải nói đến trách nhiệm, đặc biệt trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu có vai trò rất quan trọng.

Cấp uỷ có nhiệm vụ đề ra và lãnh đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của cơ quan, đơn vị. Nếu cấp uỷ không phát huy dân chủ, từ việc xây dựng, cho đến quá trình triển khai các chủ trương, đường lối của cơ quan, đơn vị thì tất yếu sẽ dẫn đến nguy cơ chuyên quyền độc đoán, không tôn trọng, bảo đảm các quyền của cán bộ, đảng viên, từ đó gây mất đoàn kết nội bộ, thiếu sự đồng thuận trong xây dựng và thực hiện các chủ trương của cơ quan, đơn vị. Do vậy, có phát huy được dân chủ và đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng hay không, phụ thuộc rất lớn vào sự lãnh đạo của cấp uỷ. Cấp uỷ nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, đồng thời nâng cao trách nhiệm hiện thực hoá các mục tiêu về dân chủ trong hành động thực tế, thì dân chủ sẽ được đề cao, sẽ trở thành động lực phát huy tính chủ động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên, tạo sự đồng thuận trong Đảng và trong xã hội.

Page 189: 8160

188

Để triển khai có hiệu quả việc phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng cần đưa vấn đề dân chủ và đoàn kết thống nhất thành một tiêu chí đánh giá tổ chức cơ sở đảng. Các tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm thường xuyên kiểm điểm xem tổ chức của mình đã thực sự phát huy được dân chủ hay chưa, cần phải bổ khuyết những vấn đề gì để bảo đảm các quyền của đảng viên và sự đoàn kết trong nội bộ cơ quan, đơn vị.

Nguyên tắc xây dựng cơ chế dân chủ là phải khép chặt dân chủ và trách nhiệm. Lãnh đạo tập thể không bao giờ được biến thành sự dựa dẫm, đùn đẩy trách nhiệm lẫn cho nhau, do đó phải gắn liền với trách nhiệm rõ ràng. Cá nhân phụ trách, có chức trách, thẩm quyền rõ ràng và chịu trách nhiệm một cách công minh, đề cao trách nhiệm cá nhân, dám quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Lênin đã xác định: Thảo luận thì chung, trách nhiệm thì riêng, riêng đến từng người một. Quyền cao chức trọng phải bị ràng buộc bởi trách nhiệm nặng nề nhất, cao nhất.

Trong mọi chế độ, khi thay đổi người đứng đầu đất nước, sẽ kéo theo nhiều sự thay đổi, kể cả thay đổi về dân chủ đối với xã hội. Điều đó cho thấy, ngoài sự chi phối của thể chế, thì phẩm chất, năng lực và phong cách của người lãnh đạo cũng có ảnh hưởng rất lớn tới những biến đổi xã hội. Người lãnh đạo giỏi luôn biết sử dụng thể chế, hay điều chỉnh thể chế làm phương tiện để phát huy dân chủ, thực hiện có hiệu quả nhất những mục tiêu phát triển đất nước. Ngược lại, những người lãnh đạo có tính chuyên quyền, độc đoán sẵn sàng bỏ qua, đứng trên cả thể chế để đạt được danh vọng của mình, trong khi những quyền tự do cơ bản của người dân bị chà đạp, tước bỏ. Trong một xã hội, một người đứng đầu có thể chi phối lớn tới xã hội như vậy, huống chi là một Đảng duy nhất cầm quyền từ trên xuống dưới, mà không có thể chế tốt, không có những người đứng đầu tốt, thì nguy cơ sẽ lớn hơn rất nhiều. Vì thế, cần có những quy định trong Đảng về quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu trong phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, đồng thời có quy chế giám sát chặt chẽ và các hình thức kỷ luật thích đáng đối với người đứng đầu nếu để xảy ra những hành vi vi phạm dân chủ và mất đoàn kết trong nội bộ cơ quan, đơn vị.

Page 190: 8160

189

II. MỘT SỐ DỰ BÁO VỀ XU HƯỚNG PHÁT HUY DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG

Sự phát triển của đất nước và tình hình quốc tế, luôn đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực của Đảng cầm quyền. Đảng phải luôn tự đổi mới, phát huy dân chủ để phát triển, giữ vững vai trò lãnh đạo, đáp ứng niềm tin của quần chúng nhân dân. Trước tình hình thế giới và trong nước thay đổi mạnh mẽ, khó lường, sẽ có một số khả năng về xu hướng phát huy dân chủ trong Đảng trong thời gian sắp tới như sau:

2.1. Vai trò tác động của dân chủ đối với tình hình phát triển đất nước

Nếu dân chủ không được phát huy đầy đủ, nhiều khuyết tật sẽ chậm được khắc phục, không tạo được động lực cho phát triển, từ đó khó đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội, giảm sút niềm tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Chính vì thế, cần phải tiếp tục phát huy dân chủ mạnh mẽ hơn, dân chủ thực chất hơn, để khơi dậy năng lực sáng tạo, tập hợp mọi lực lượng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng và toàn xã hội, từ đó, tạo nên không khí phấn khởi, tin tưởng, tăng cường sự đồng thuận trong tư tưởng và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, cùng hướng tới mục đích chung xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là xu hướng chủ đạo, để nước ta tiếp tục phát triển, ngăn chặn có hiệu quả các khuyết tật, đẩy lùi các nguy cơ chống phá của các thế lực thù địch.

2.2. Dân chủ là sản phẩm của diễn biến tình hình phát triển đất nước

- Nếu đất nước phát triển theo hình thái đi lên, ổn định, nghĩa là tình hình tăng trưởng kinh tế được duy trì, xã hội ổn định, tình hình thế giới không có biến động lớn, ảnh hưởng tới Việt Nam thì dân chủ sẽ tiếp tục được phát huy và ngày càng mở rộng, đáp ứng nhu cầu dân chủ của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

- Nếu đất nước gặp khủng hoảng, kinh tế ngừng trệ, xã hội mất ổn định, nguy cơ chiến tranh...thì phát huy dân chủ trong Đảng phải được tính toán, cân nhắc. Khi đó, Đảng phải có lộ trình, bước đi thích hợp trong phát huy dân chủ để giữ vững ổn định chính trị, chỉ đạo tập trung để vượt qua khủng hoảng.

Page 191: 8160

190

III. CÁC GIẢI PHÁP VỀ PHÁT HUY DÂN CHỦ, TĂNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG

3.1. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng

Dân chủ là quy luật tồn tại của Đảng, không có dân chủ thì Đảng sẽ trở thành một tổ chức phi chính trị. Phát huy dân chủ trong Đảng là cơ sở để phát huy tính tích cực, sáng tạo của đảng viên, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Do đó, Đảng cần tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận và thường xuyên tổng kết thực tiễn, để dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được phát huy và trở thành nguồn động lực nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới.

Để phát huy dân chủ trong Đảng, trước hết, Đảng phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ những nội dung, nội hàm và phương thức phát huy dân chủ..., dự báo xu hướng phát triển về dân chủ trong Đảng. Cần làm rõ nguyên tắc tập trung dân chủ và vận dụng nguyên tắc này trong công tác tổ chức và sinh hoạt Đảng. Nghiên cứu các quan niệm về dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, quyền hạn và trách nhiệm của đảng viên... Chỉ khi chúng ta đã làm rõ được khái niệm về dân chủ trong Đảng, thì mới có thể triển khai thuận lợi các bước tiếp theo, hướng tới việc thật sự phát huy dân chủ trong Đảng.

Cùng với việc làm rõ những vấn đề lý luận về dân chủ, cần tiếp tục làm tốt công tác tổng kết thực tiễn về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, để từ nghiên cứu thực tiễn, tìm ra những giải pháp phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của đất nước. Phát triển dân chủ trong Đảng cũng như trong xã hội là một vấn đề không dễ dàng, có thể thực hiện trong ngày một, ngày hai, mà nó phải có bước đi, cách thức tiến hành triển khai phù hợp. Một số nước trên thế giới được cho là đã xây dựng được chế độ dân chủ, nhưng thực tế họ vẫn đang gặp phải rất nhiều vấn đề về dân chủ liên quan đến việc giải quyết các quyền của người dân. Đất nước ta đi sau có thể học hỏi kinh nghiệm, nhưng không thể dập khuôn như họ, mà phải lựa chọn những cách thức, giải pháp phù hợp với chế độ chính trị, hoàn cảnh đất nước. Vì thế, tổng kết thực tiễn về dân chủ giữ một vị trí rất quan trọng, là cơ sở thực tiễn để phát triển dân chủ ở nước ta.

Thực tiễn công cuộc đổi mới đang không ngừng vận động và phát triển, nhiều vấn đề mới đang đặt ra đòi hỏi có nhận định và kết luận đúng đắn. Tăng

Page 192: 8160

191

cường những cuộc điều tra nghiên cứu thực tế, tiếp xúc đối thoại với đảng viên và quần chúng, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của họ, phát hiện những điển hình tốt, những nhân tố mới, tổng kết kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện đường lối chính sách cũng như bồi bổ kiến thức cho lãnh đạo. Khắc phục lối lãnh đạo theo cảm tính, chủ quan, duy ý chí. Lâu nay cán bộ lãnh đạo xuống địa phương và đi cơ sở không ít, nhưng thật sự kiểm tra, nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm thì chưa nhiều. Sau mỗi lần đi thực tiễn chưa rút ra được vấn đề cần thiết từ thực tiễn để giúp cho cơ sở, địa phương phát triển.

Trong thời gian sắp tới, để tiếp tục phát huy dân chủ, cần tập trung nghiên cứu tổng kết thực tiễn các hình thức thực hành dân chủ ở từng cấp, từng địa phương; tổng kết công tác của cấp uỷ các cấp về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng; tổng kết về phát huy dân chủ trong từng mặt công tác của Đảng: tư tưởng; tổ chức, cán bộ; xây dựng nghị quyết; sinh hoạt Đảng; kiểm tra, giám sát... Từ kết quả nghiên cứu tổng kết thực tiễn về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, cần đề ra những giải pháp để phát huy những thành tựu đã đạt được và kiên quyết khắc phục những hạn chế, tồn tại. Chỉ có như vậy , Đảng mới giữ được vai trò lãnh đạo, chiếm được sự tin yêu của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

3.2. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ và nâng cao năng lực làm chủ của đảng viên

Dân chủ không phải là một món quà tặng, tự nhiên có được, mà nó phải trải qua một quá trình đi từ nhận thức, tới hành động và trở thành ý thức, nhu cầu của mỗi cá nhân. Để phát huy dân chủ trong Đảng, không thể ngày một ngày hai, đảng viên có thể hiểu rõ ngay về dân chủ, về các quyền và nghĩa vụ, từ đó nâng cao năng lực thực hành dân chủ thể hiện trong từng hoạt động của mỗi tổ chức Đảng, ở từng cấp uỷ và ở mỗi đảng viên .

Sau khi xây dựng được một hệ thống lý luận về dân chủ và các chế độ để thực hành dân chủ trong Đảng, thì việc làm tiếp theo rất khó khăn và rất cần thiết là tổ chức tuyên truyền để dân chủ và thực hành dân chủ trở thành ý thức tự giác, nhu cầu thường trực, thành hành vi, phong cách, lối sống, thói quen ứng xử tự nhiên của mỗi cán bộ, đảng viên. Cần phải tác động đồng thời, thường xuyên và trong thời gian dài về dân chủ dưới nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau, thông qua các phương tiện truyền thông như phát thanh,

Page 193: 8160

192

truyền hình, sách, báo, tranh ảnh, các hình thức văn hoá, nghệ thuật.. và đặc biệt phải đưa cán bộ, đảng viên vào các cuộc trải nghiệm, thực hành về dân chủ trong thực tế. Phải tăng cường đả kích những thói quen, tật xấu ảnh hưởng tới phát huy dân chủ như: chuyên quyền, độc đoán; không chấp hành nguyên tắc, Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước; không tạo điều kiện để phát huy các quyền của đảng viên... Đồng thời, phải chú trọng nêu gương điển hình những tổ chức, tập thể cấp uỷ, đảng viên đã phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết nội bộ, góp phần xây dựng tổ chức, cơ quan, đơn vị vững mạnh. Cách thức tuyên truyền, vận động dân chủ phải phù hợp với trình độ dân trí, văn hoá truyền thống, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của từng địa phương. Có địa phương (trình độ dân trí cao) có thể dùng biện pháp tuyên truyền miệng, nhưng có nơi do trình độ dân trí còn hạn chế có thể phải dùng biện pháp "cầm tay, chỉ việc", hướng dẫn từng việc cụ thể, nâng dần nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Trong công tác tuyên truyền kiên quyết chống dân chủ hình thức, phản dân chủ, dân chủ cực đoan vô nguyên tắc, vô tổ chức, vô kỷ luật, không chấp hành kỷ cương, phép nước, gây mất đoàn kết nội bộ, làm rối loạn tổ chức.

Dân chủ trong Đảng đòi hỏi phát huy vai trò của mỗi đảng viên, xác định quyền và trách nhiệm của mỗi đảng viên trong công tác xây dựng Đảng.

Nói đến dân chủ trong Đảng là nói đến việc bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ chủ yếu của đảng viên. Vị trí chủ thể của đảng viên trong Đảng cần được coi trọng. Khắc phục tình trạng, ở nhiều đảng bộ, chi bộ chỉ coi đảng viên như đối tượng cần được giáo dục, quản lý, chứ ít chú ý tới việc phát huy vai trò chủ động, năng động sáng tạo của từng đảng viên; coi nhẹ quyền lợi bình đẳng của đảng viên tham gia vào các công tác của Đảng; chỉ nhấn mạnh đảng viên phải chấp hành vô điều kiện các quyết sách của Đảng, trong khi chưa thật chú ý tới việc đảng viên phải tích cực tham gia ý kiến xây dựng các quyết sách đó. Để phát huy dân chủ trong Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao ý thức tự giác và trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, luôn trau dồi kiến thức để nâng cao trình độ, hiểu biết lý luận và am hiểu thực tiễn; có khả năng đề xuất, vận dụng sáng tạo và thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; cán bộ đảng ở tất cả các cấp phải mạnh dạn và thẳng thắn bày tỏ chính kiến của mình góp phần xây dựng Đảng, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Page 194: 8160

193

Một số tổ chức Đảng và đảng viên nhận thức không đầy đủ về vị trí chủ thể của đảng viên trong Đảng. Vì thế, trong các hoạt động của Đảng thường chỉ tập trung phát huy trách nhiệm của một số ít đảng viên tham gia cấp uỷ mà chưa huy động được sự đóng góp tích cực của toàn thể đảng viên. Mỗi đảng viên đều là thành viên của Đảng cầm quyền, cho nên phải xác định vững chắc vị trí chủ thể của đảng viên, để mỗi đảng viên phải thực sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao vào các mặt công tác, các quyết định của Đảng.

Trong Điều lệ Đảng đã quy định rõ các quyền của đảng viên, nên để phát huy dân chủ trong Đảng thì việc đầu tiên của mỗi cấp uỷ là phải bảo đảm các quyền đó được thực thi trong thực tế. Bất cứ ai vi phạm các quyền đó của đảng viên đều phải bị lên án và xử lý nghiêm khắc.

3.3. Thể chế hoá, quy chế hoá thành chế độ nguyên tắc tập trung dân chủ trong từng lĩnh vực hoạt động của Đảng

Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng được thể hiện tập trung ở 6 nội hàm tại Điều 9 (những nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ), 4 nội hàm tại Điều 3 (các quyền của đảng viên) trong Điều lệ Đảng và ở một số quy định khác của Đảng. Tuy vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ như con dao hai lưỡi, tuỳ theo điều kiện, môi trường, con người cụ thể, nguyên tắc có thể phát huy tác dụng, hoặc ngược lại có thể gây hậu quả không tốt. Chẳng hạn, nếu trong một tập thể, cán bộ xấu chiếm số đông, thì nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức sẽ đem lại hậu quả khôn lường, ảnh hưởng đến sự phát triển của tổ chức. Ngược lại, nếu số đông là cán bộ tốt thì nguyên tắc này sẽ rất có giá trị. Hay một ví dụ khác, nếu người lãnh đạo là cán bộ chuyên quyền, độc đoán, có thể lợi dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, bằng cách dùng biện pháp dân chủ hình thức, thực hiện sự tập trung quan liêu để hiện thực hoá ý đồ của mình, dựa trên nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Như vậy, để nguyên tắc tập trung dân chủ phát huy được hiệu quả cần xây dựng các chế độ nhằm quy định chặt chẽ việc thực hành nguyên tắc này trong từng lĩnh vực hoạt động của Đảng. Đúng như Lênin từng nhấn mạnh, khi vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ phải tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, môi trường cụ thể và cần có quy chế cụ thể.

Trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, nếu không xây dựng các quy chế, quy tắc để phát huy dân chủ trong Đảng thì sẽ dễ dẫn đến độc đoán,

Page 195: 8160

194

chuyên quyền của một nhóm hay một cá nhân cán bộ lãnh đạo. Nhất là trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước sang kinh tế thị trường, nếu không có những quy chế về dân chủ sẽ không có cơ sở để ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực, vi phạm dân chủ trong Đảng và ngoài xã hội, đồng thời khó có thể triển khai thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Như thế, việc thể chế hoá, quy chế hoá thành các chế độ nguyên tắc tập trung dân chủ là việc làm cần thiết, không thể không có, để triển khai các hoạt động phát huy dân chủ trong Đảng.

Để triển khai nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, cùng việc phát huy năng lực lãnh đạo của đảng viên, tổ chức đảng, cần tiếp tục thể chế hoá các nội dung của nguyên tắc tập trung trong Đảng thành một hệ thống các quy chế, quy tắc, quy trình để vận hành các hoạt động dân chủ trong Đảng.

- Về quy chế dân chủ trong Đảng

Trước hết cần nghiên cứu và ban hành ngay "Quy chế dân chủ trong Đảng", và yêu cầu các cấp uỷ triển khai thực hiện nghiêm quy chế trong các Hội nghị, sinh hoạt Đảng và trong mọi hoạt động của Đảng từ Trung ương đến cơ sở. "Quy chế dân chủ trong Đảng" là cơ sở pháp lý để nâng cao nhận thức và thực hành dân chủ trong Đảng. Mọi đảng viên có thể dựa trên "Quy chế dân chủ trong Đảng" để phát huy tối đa các quyền của mình, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, đóng góp cho Đảng, đồng thời đấu tranh với những hiện tượng lạm quyền, độc đoán, làm hạn chế phát huy dân chủ, gây mất đoàn kết trong Đảng. Cùng với việc ban hành “Quy chế dân chủ trong Đảng”, cần xây dựng một loạt các chế độ dân chủ trong từng lĩnh vực hoạt động của Đảng.

- Chế độ dân chủ trong xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng

Chế độ dân chủ trong xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng, phải bảo đảm các điều kiện để mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng đều có sự tham gia rộng rãi của đông đảo đảng viên và tổ chức đảng các cấp một cách trực tiếp hoặc thông qua đại diện của mình, nhằm phát huy trí tuệ của toàn Đảng. Sao cho mỗi quyết định của Đảng đều có cơ sở quần chúng xã hội rộng rãi, trước hết là quần chúng đảng viên. Mọi đảng viên được quyền bàn bạc, thảo luận và quyết định mọi vấn đề, mọi công việc của Đảng, từ những chủ trương, công việc cụ thể của một tổ chức cơ sở Đảng đến vấn đề lớn như xây dựng đường lối, cương lĩnh của Đảng.

Page 196: 8160

195

Trong chế độ cần quy định rõ, đảng viên có quyền tranh luận, nêu ý kiến riêng của mình và có quyền bảo lưu ý kiến lên tới cấp lãnh đạo cao nhất, nhưng khi đã thành Nghị quyết thì phải tôn trọng sự quyết định tập trung, mọi đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết. Cấp lãnh đạo, người lãnh đạo của Đảng phải thật sự lắng nghe ý kiến của cấp dưới và đảng viên, biết tổng hợp những sáng kiến, những kinh nghiệm phong phú của đảng viên để bổ sung vào các chủ trương, đường lối của Đảng.

Đặc biệt cần quy định rõ, mọi rào cản đối với việc phát huy các quyền của đảng viên trong tham gia các chủ trương, đường lối của Đảng cần được dỡ bỏ và những người vi phạm các quyền đó đều phải nhận kỷ luật thích đáng.

- Cần có chế độ bảo đảm phát huy tự do tư tưởng, tôn trọng những ý kiến khác biệt.

Phải xây dựng chế độ dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng của Đảng; chế độ dân chủ trong đối thoại giữa lãnh đạo cấp uỷ với đảng viên, để mọi đảng viên có thể nói chân thành và thẳng thắn những suy nghĩ của mình về mọi mặt công tác của Đảng. Cần có thái độ tôn trọng những ý kiến khác nhau, và tạo ra không khí tranh luận, thảo luận thẳng thắn mọi vấn đề để tìm ra sự thật, tiếp cận tới chân lý, từ đó tạo sự thống nhất, đoàn kết trong Đảng. Cần có những quy định về việc tôn trọng những ý kiến khác biệt, tránh việc trù úm, "chụp mũ" những cán bộ có ý kiến "trái chiều". Không phải tất cả những ý kiến "trái chiều" đều với động cơ xấu, mà đó có khi là những ý kiến phản biện, giúp Đảng nhận ra những điểm mình còn thiếu sót, để có biện pháp điều chỉnh, hoàn thiện, làm cho Đảng ngày càng phát triển, vững mạnh, đáp ứng các nguyện vọng, nhu cầu ngày càng tăng của quần chúng nhân dân. Chế độ dân chủ trong công tác tư tưởng một mặt phải bảo đảm phát huy dân chủ, nhưng mặt khác phải kiên quyết ngăn chặn hiện tượng thiếu dân chủ, độc đoán, gia trưởng, quan liêu hoặc thiếu tập trung, buông lỏng tổ chức kỷ luật để cho những hành động, phát ngôn, tuyên truyền.. tự do, bừa bãi.

Điều vừa nói trên đều liên quan đến quy định của nguyên tắc tập trung dân chủ: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, ý kiến thiểu số được bảo lưu nhưng phải chấp hành quyết định của tổ chức. Thực hiện quy định này là cần thiết để Đảng có sức mạnh của tổ chức và là một Đảng hành động chứ không phải hỗn loạn vô chính phủ. Song ở đây, Đảng và cán bộ đảng

Page 197: 8160

196

viên phải có sự trau dồi năng lực văn hoá và đạt đến độ trưởng thành về văn hoá dân chủ nhất định để việc thực hiện này trở nên lành mạnh.

- Xây dựng chế độ dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ

Để thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tổ chức của Đảng, trước hết phải quy chế hoá chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng. Phải bảo đảm thực hiện đúng quy định của Điều lệ Đảng: Ban chấp hành Trung ương, Ban chấp hành Đảng bộ (cấp uỷ) các cấp là cơ quan cao nhất giữa hai kỳ Đại hội. Vì thế, cần đặc biệt chú ý xây dựng chế độ để phát huy dân chủ trong mối quan hệ: Ban chấp hành Trung ương - Tổng bí thư - Bộ Chính trị ; đảng uỷ các cấp - bí thư - ban thường vụ cấp uỷ. (Nếu sau này Đảng có quy định, Đại hội đại biểu của Đảng bầu trực tiếp Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và Tổng Bí thư, thì càng cần thiết xây dựng sự hợp tác, xác định rõ chế độ trách nhiệm và quyền hạn giữa vị trí ba tổ chức này).

Để bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc tổ chức "thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội Đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương", cần xây dựng chế độ phân cấp, phân quyền và chế độ chịu trách nhiệm giữa các tổ chức đảng, các cấp uỷ đảng ở các cấp. Tránh sự chồng chéo, lấn quyền, lạm quyền, vi phạm dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ Đảng.

Để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ, cần xây dựng chế độ công khai hoá, minh bạch hoá trong mọi khâu của công tác này. Đó là một biện pháp quan trọng nhằm phát huy dân chủ, ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực trong công tác cán bộ. Công khai, minh bạch trong công tác cán bộ là rất cần thiết nhằm tạo điều kiện để mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có thể tham gia theo dõi, giám sát mọi khâu của công tác cán bộ (đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, tuyển dụng, đề bạt, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, chính sách, khen thưởng, kỷ luật.. cán bộ). Công tác cán bộ không còn là công việc "tuyệt mật" của một vài cơ quan "độc quyền", mà cần được công khai để mọi người được biết và tham gia ý kiến. Cần quy định chế độ công khai tiêu chuẩn, quy trình đánh giá, tuyển chọn, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ để mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân được biết và giám sát

Page 198: 8160

197

việc thực hiện các công tác này. Nhờ công khai minh bạch trong công tác cán bộ sẽ giúp cho các cơ quan có trách nhiệm đánh giá đúng và bố trí, sử dụng đúng cán bộ.

- Chế độ dân chủ trong công tác bầu cử của Đảng

Xây dựng chế độ dân chủ trong bầu cử nhằm làm cho công tác bầu cử trong Đảng thể hiện tốt nhất ý chí, nguyện vọng của đảng viên, bảo đảm bầu ra được người lãnh đạo có đủ tầm trí tuệ và đạo đức, có trách nhiệm với sự nghiệp của Đảng, của nhân dân, thực sự được quần chúng, đảng viên tín nhiệm.

Chế độ dân chủ trong bầu cử bao gồm chế độ dân chủ trong đề cử, ứng cử; chế độ bầu cử có số dư; chế độ được cung cấp đầy đủ thông tin về tiêu chuẩn, yêu cầu của các chức danh được bầu; về tiểu sử, thành tích công tác của các ứng viên; chế độ trao đổi, tranh luận giữa các ứng viên với cử tri và giữa các ứng viên với nhau; chế độ thảo luận các đề xuất của các ứng viên; chế độ bầu cử trực tiếp các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng (có nghiên cứu, thử nghiệm, có lộ trình, bước đi); chế độ về trách nhiệm liên đới của người tiến cử... Các chế độ đều hướng tới bảo đảm các quyền dân chủ của đảng viên trong công tác bầu cử.

- Chế độ dân chủ trong sinh hoạt Đảng

Nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho mọi đảng viên trong sinh hoạt Đảng đều có quyền được biết, thảo luận và biểu quyết các công việc của Đảng; được phê bình, chất vấn về hoạt động của các tổ chức và đảng viên ở mọi cấp; đề xuất kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm ... Bất cứ đảng viên nào vi phạm Điều lệ và các quy định của Đảng đều bị xử lý nghiêm minh.

Cần xây dựng chế độ bảo đảm quyền phát biểu ý kiến của đảng viên trong sinh hoạt Đảng. Mọi đảng viên được quyền phát biểu ý kiến của mình về những vấn đề lớn của Đảng từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở. Mỗi ý kiến của đảng viên đều được tôn trọng, nhưng khi biểu quyết phải thực hiện đúng nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Ý kiến thiểu số cần được tôn trọng và có quyền bảo lưu báo cáo lên cấp trên. Trong chế độ dân chủ trong Đảng, phục tùng đa số và tôn trọng thiểu số đi liền với nhau, tuyệt đối hóa đa số quyết định hay thiểu số phục tùng đều là phiến diện.

Cần xây dựng chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Các quyết định lớn, quan trọng của Đảng đều phải do Trung ương và tập thể cấp uỷ địa

Page 199: 8160

198

phương quyết định, không cho phép một cá nhân độc đoán quyết định. Đối với quyết định của tập thể, không có bất cứ cá nhân nào được thay đổi, cá nhân và số ít người có ý kiến bất đồng được bảo lưu, nhưng phải phục tùng vô điều kiện và chấp hành bằng hành động... Bất cứ đảng viên nào chức vụ cao hay thấp đều không được tự mình quyết định các vấn đề lớn, không cho phép bất cứ lãnh đạo nào chuyên quyền độc đoán vượt tổ chức. Cần có những quy định để ngăn chặn tập trung quan liêu, mở đường cho những thói chuyên quyền, độc đoán, độc tài, chỉ một số người, thậm chí là một người có thể quyết định tất cả - quyết định cả một chủ trương hoặc quyết định số phận của một tập thể hay một cá nhân đảng viên.

Cần xây dựng chế độ dân chủ trong công tác phê bình, tự phê bình trong Đảng. Cần có quy định để bảo đảm cho mọi đảng viên đều có quyền và trách nhiệm tham gia góp ý kiến đóng góp cho tổ chức và cá nhân nhận thức rõ ưu điểm và những mặt còn hạn chế, yếu kém để từ đó phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, không ngừng xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh. Cần quy định rõ các hình thức xử lý kỷ luật nếu ai lợi dụng phê bình, tự phê bình để nói xấu, bôi nhọ, mỉa mai, bới móc người khác hay có những hành vi trả thù, trù dập khi người khác góp ý kiến phê bình mình.

Cần có quy định bảo đảm thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo trước tập thể, trước cấp dưới đã bầu ra mình. Cấp uỷ các cấp phải bảo đảm việc thực hiện chế độ báo cáo, thông tin từ trên xuống và từ dưới lên, làm cho toàn Đảng từ Trung ương đến đến địa phương nắm được tình hình chung trong toàn Đảng, những thuận lợi khó khăn của mỗi đảng bộ. Tổ chức và người phụ trách cấp trên phải thật sự lắng nghe và tôn trọng ý kiến của cấp dưới. Các ý kiến cần được tập hợp và phân loại, có ý kiến có thể tiếp thu và trả lời được ngay, có ý kiến và kinh nghiệm của cán bộ, đảng viên và quần chúng ở cơ sở chưa có lời giải đáp thì có thể nêu thành những vấn đề để các tổ chức Đảng tham gia thảo luận, tìm ra những giải pháp để xử lý.

- Chế độ dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng; phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên,

Page 200: 8160

199

bảo vệ các quan điểm của Đảng, tránh các nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân của Đảng cầm quyền, góp phần thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng.

Để bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát, cần xây dựng chế độ công khai, minh bạch. Trước hết, cần thực hiện minh bạch, công khai hoá các tiêu chuẩn, chế độ, chính sách để cán bộ, đảng viên và nhân dân giám sát, kiểm tra tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Tiếp theo, công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng.

Cần có chế độ về sự tham gia của các cấp uỷ Đảng và đảng viên trong công tác kiểm tra, giám sát. Kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo của Đảng, là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, trước hết là nhiệm vụ của cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ, do cấp uỷ trực tiếp tiến hành, đồng thời có sự tham gia của toàn thể đảng viên. Cấp uỷ các cấp, nhất là chi bộ cần tăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm hoặc không để tái phạm, góp phần chủ động thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.

Cần có chế độ bảo đảm sự tham gia giám sát của quần chúng nhân dân. Tổ chức Đảng và đảng viên ngoài việc chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng, còn phải chịu sự giám sát của nhân dân. Cần có quy định để quần chúng nhân dân có thể giám sát và góp ý kiến với Đảng về các biểu hiện mất dân chủ, quan liêu, xa rời quần chúng, vô tổ chức, vô kỷ luật, suy thoái về tư tưởng, đạo đức... của cán bộ, đảng viên, để Đảng kịp thời có biện pháp ngăn chặn, sửa chữa.

Cần có chế độ xử lý kỷ luật nghiêm minh với các vi phạm của cán bộ, đảng viên. Kỷ luật phải dựa trên các chứng cứ, không phân biệt đảng viên có chức quyền hay không có chức quyền. Bất cứ người đảng viên nào vi phạm, đều phải căn cứ vào các quy định kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước để xem xét và tuỳ theo mức độ vi phạm có các hình thức kỷ luật thích đáng.

3.4. Xây dựng văn hoá dân chủ trong Đảng

Để dân chủ trở thành nhu cầu, thói quen của mỗi tổ chức đảng và đảng viên thể hiện trong mọi mặt công tác của Đảng, cùng với việc hình thành các chế độ dân chủ, thì việc xây dựng văn hoá dân chủ trong Đảng là rất cần thiết.

Page 201: 8160

200

Văn hoá dân chủ trong Đảng là quan niệm tư tưởng, chuẩn tắc hành vi, giá trị vừa phù hợp với tinh thần cơ bản của dân chủ lại thống nhất với nguyên tắc cơ bản của Đảng mà đảng viên phải tuân thủ, từ đó phản ánh quan hệ và không khí giữa đảng viên và quần chúng.

Văn hoá dân chủ trong Đảng biến quan niệm dân chủ thành hành động cụ thể chứ không phải dừng lại ở nhu cầu nhận thức. Thực chất văn hoá dân chủ trong Đảng là quá trình cụ thể hoá các mục tiêu dân chủ trong Đảng thành một hệ thống các hành động và tổ chức thực hiện các hành động đó thông qua một loạt các thao tác được sắp xếp trật tự theo tuyến tính thời gian, nhằm nâng cao hiệu quả đời sống dân chủ trong Đảng. Việc hình thành các hành động để đạt mục tiêu dân chủ phụ thuộc vào các phương tiện, điều kiện để đạt mục tiêu ấy. Sự phù hợp giữa phương tiện, điều kiện với các hành động là yếu tố cần thiết để mục tiêu dân chủ trong Đảng được hiện thực hoá. Để xây dựng văn hoá dân chủ trong Đảng phải xây dựng mô hình vận hành có trật tự và được kiểm soát để thực hiện dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung và tập trung trên cơ sở dân chủ. Xây dựng văn hóa dân chủ cần có thời gian nhất định để dân chủ được quy phạm hoá, trình tự hoá và tổ chức cho mọi đảng viên thực hành trong thực tế.

Một số điểm cần lưu ý trong xây dựng văn hoá dân chủ trong Đảng:

- Xây dựng văn hoá dân chủ trong Đảng là xác lập quan niệm giá trị dân chủ phù hợp với tình hình đất nước, thế giới và tình hình của Đảng. Quan niệm giá trị văn hoá dân chủ trong Đảng vừa tôn trọng lịch sử, truyền thống văn hoá dân tộc, vừa kế thừa, chọn lọc những tinh hoa giá trị dân chủ của thế giới.

- Mục tiêu cơ bản của xây dựng văn hoá dân chủ trong Đảng là nâng cao ý thức dân chủ của đảng viên và tạo điều kiện cho đảng viên thực hiện dân chủ. Việc hình thành ý thức dân chủ thông qua giáo dục về khái niệm của dân chủ và nội dung cơ bản của dân chủ. Mặt khác, đòi hỏi mỗi đảng viên phải tự giác phân tích và tổng kết thực tiễn dân chủ để hình thành nên nhận thức dân chủ một cách sâu sắc và toàn diện. Dân chủ sẽ chỉ ăn sâu vào mỗi đảng viên, trở thành nhu cầu, ý thức tự giác của họ, nếu họ nắm vững những quan niệm về dân chủ và được trải nghiệm, được "tắm mình" trong thực tiễn dân chủ. Trong thời gian trước mắt cần tăng cường nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những quan điểm dân chủ của Đảng, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm

Page 202: 8160

201

chủ đạo, làm rõ hình thức vận hành của nguyên tắc này và xây dựng các chế độ bảo đảm các quyền của đảng viên đã được quy định trong Điều lệ Đảng.

- Xây dựng văn hoá dân chủ trong Đảng cần có có nhiều hình thức thực hiện dân chủ mang tính đa dạng và sáng tạo. Cùng với việc xây dựng các chế độ dân chủ trong Đảng, cần tạo ra nhiều hình thức dân chủ để đạt được mục tiêu dân chủ. Hình thức thực hiện dân chủ cần bảo đảm sự thống nhất giữa tính đặc thù của văn hoá Việt Nam với tính phổ biến của dân chủ. Truyền thống văn hoá của Việt Nam, tính chất nhà nước XHCN của Việt Nam sẽ quyết định mô hình dân chủ ở Việt Nam, đó là mô hình dân chủ phù hợp với lợi ích căn bản của nhân dân Việt Nam.

- Xây dựng văn hoá dân chủ trong Đảng phải tôn trọng đầy đủ vị thế chủ thể của đảng viên, phát huy tính tích cực của đảng viên. Đảng viên phải có quyền được thông tin, quyền được tham gia bày tỏ ý kiến, quyền giám sát... Có như vậy, mới gắn trách nhiệm của đảng viên với sự nghiệp của Đảng, mỗi đảng viên coi mình là chủ nhân góp phần tạo nên sự nghiệp của Đảng, tự giác cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho Đảng.

3.5. Đổi mới công tác tư tưởng trong Đảng

- Cần tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên được tiếp cận với những thông tin về các hoạt động, các chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng.

Trong Đảng hiện nay có tình trạng, một số chủ trương, đường lối, quyết định của Đảng chỉ phổ biến trong phạm vi hẹp (đóng dấu mật), vì thế số đông đảng viên không được biết. Trong khi đó có những quyết định liên quan trực tiếp tới các hoạt động, tới công tác tư tưởng của các đảng bộ, chi bộ ở cơ sở. Từ việc tiếp cận không đầy đủ thông tin ở các văn bản của Đảng, có thể dẫn đến những hiểu biết, suy nghĩ lệch lạc, không đầy đủ và hành động không đúng đắn của cán bộ, đảng viên. Thực tế cho thấy, nhiều ý kiến đóng góp cho Đảng qua nhiều kênh khác nhau (báo in, truyền hình, đơn thư...) còn nhiều hạn chế, mà nguyên nhân cơ bản do người đóng góp thiếu thông tin, thiếu những hiểu biết cần thiết về các lĩnh vực mà họ góp ý. Đảng cần tạo mọi điều kiện để toàn thể cán bộ, đảng viên được tiếp cận với những thông tin cần thiết về một chủ trương, đường lối hay một quyết định mới của Đảng, để đảng viên nắm vững, từ đó thông suốt tư tưởng và hành động đúng đắn, không bị những thông tin sai lệch, gây nhiễu ảnh hưởng tới công tác tư tưởng.

Page 203: 8160

202

- Phải tạo những diễn đàn cho đảng viên đối thoại, thảo luận, phát biểu về công việc của Đảng.

Khuyến khích mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân phát huy tự do tư tưởng, dám nghĩ, dám nói, động viên tính tích cực, năng động sáng tạo của mỗi người, góp phần xây dựng đường lối chính sách của Đảng. Qua tự do tư tưởng, cùng nhau thảo luận tìm ra chân lý, sẽ đạt tới sự nhất trí cao dựa trên sự tự nguyện, tự giác của mọi người. Tự do tư tưởng của những người cùng chung lý tưởng, trên cơ sở nhất trí với Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, vì vậy không sợ đi đến hỗn loạn về tư tưởng và tổ chức.

Vấn đề là ở chỗ, phải đảm bảo cho được tự do thảo luận, tranh luận, biết lắng nghe, biết tôn trọng những ý kiến khác biệt, không áp đặt chủ quan, không đồng nhất quyền lực với chân lý, không đàn áp phê bình. Chỉ có dân chủ thực sự khi thực sự tự do tư tưởng và thực sự tôn trọng nhân cách của nhau. Không phải lúc nào, ở đâu lẽ phải cũng thuộc về số đông, không phải số đông nào đương nhiên, tự nhiên cũng đồng nhất với chân lý.Vả lại tính chân lý phải được kiểm chứng trong thực tiễn. Qua kiểm chứng của thực tiễn thì cái đúng phải được khẳng định, tôn trọng và bảo vệ, cái sai phải sửa và kiên quyết sửa.

Trong sinh hoạt đảng ở cơ sở, một số hội nghị còn mang tính dân chủ hình thức, xuôi chiều, những ý kiến khác nhau không được thẳng thắn đưa ra thảo luận, tranh luận và kết luận rõ ràng. Thảo luận xuôi chiều chưa hẳn là đoàn kết nhất trí. Tôn trọng những ý kiến khác nhau, cùng thảo luận một cách dân chủ thì mới có thể tìm ra chân lý và đi tới nhất trí thật sự.

Cần tạo những diễn đàn để cán bộ, đảng viên được nói, được đối thoại, trao đổi về các công việc của Đảng, được bày tỏ những tâm tư nguyện vọng của họ. Diễn đàn được tổ chức có trách nhiệm, bảo đảm cho việc đối thoại, lắng nghe, giải thích và tiếp thu những ý kiến đóng góp. Đảng viên được tự do trình bày ý kiến và mọi ý kiến đều được lắng nghe và được trao đổi, giải thích trở lại. Thông qua diễn đàn, Đảng sẽ nắm được tình hình tư tưởng của đảng viên tốt hơn và có cơ hội để giải thích cho đảng viên hiểu và nắm được chính xác hơn các đường lối, chủ trương của Đảng, đồng thời tiếp thu những ý kiến có giá trị đóng góp cho Đảng.

Page 204: 8160

203

- Bảo đảm phát huy tự do tư tưởng trong thảo luận, tranh luận thông qua các quyết định của Đảng.

Phát huy dân chủ, khắc phục quan liêu, trước hết từ quá trình xây dựng đường lối, chính sách của Đảng. Thực tiễn công cuộc đổi mới đang không ngừng vận động và phát triển, nhiều vấn đề mới đang đặt ra đòi hỏi có nhận định và kết luận đúng đắn. Tăng cường những cuộc điều tra nghiên cứu thực tế, tiếp xúc đối thoại với đảng viên và quần chúng, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của họ, phát hiện những điển hình tốt, những nhân tố mới, tổng kết kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện đường lối chính sách cũng như bồi bổ kiến thức cho lãnh đạo. Khắc phục lối lãnh đạo theo cảm tính, chủ quan, duy ý chí. Lâu nay cán bộ lãnh đạo xuống địa phương và đi cơ sở không ít, nhưng thật sự kiểm tra, nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm thì chưa nhiều. Cán bộ lãnh đạo vừa phải nâng cao trình độ nghiên cứu, vừa bồi dưỡng phong cách làm việc sâu sát thực tế. Nên giảm bớt các cuộc đi thăm hỏi động viên mang tính tuyên truyền hình thức, phô trương, lãng phí.

Trong Đảng ta đã từng có trường hợp, ở trong Hội nghị thì nhất trí với Nghị quyết, nhưng trong quá trình triển khai thì lại chỉ đạo làm khác, làm “chui”. Vì tuy biết nghị quyết có điều chưa đúng, không thể áp dụng vào địa phương, nhưng do trong thảo luận còn thiếu các quy chế để phát huy dân chủ, nên không có cơ hội tranh luận để đi đến những kết luận đúng đắn, phù hợp với thực tiễn. Như trường hợp ở Thành uỷ Hải Phòng, trước khi có Nghị quyết khoán 10 của Bộ Chính trị, đã ra một nghị quyết rất sách lược với Trung ương, rất phù hợp với thực tiễn. Tinh thần của nghị quyết là: "Cho phép khoán hộ cũng được, mà không cũng được". Thành uỷ Hải Phòng đã nhận thấy khoán hộ đem lại hiệu quả kinh tế cao, thúc đẩy sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Nhưng trong nghị quyết không thể nói thẳng ra là phải khoán hộ, vì như thế trái với tinh thần chỉ đạo của Trung ương. Thực tế, sau khi có nghị quyết, ở Hải Phòng đã khoán hộ hết trước khi Nghị quyết khoán 10 của Bộ Chính trị ra đời.

Còn việc nâng cao dân trí nói chung, cần phải tìm ra phương thức, nội dung để quy tụ, khai thác được trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng viên, đội ngũ trí thức, để các ý kiến khác nhau có thể được trình bày thẳng thắn. Ngay trong Hội đồng Lý luận Trung ương, một số đồng chí khi phát biểu ý kiến cũng còn rất ngại ngùng, không dám nói hết, không dám nói thực, thì làm sao phát huy được dân chủ ở các nơi khác.

Page 205: 8160

204

Cho nên, điều cực kỳ quan trọng là phải có tự do tư tưởng, tự do tranh luận, thảo luận. Đảng đề ra các chủ trương, chính sách để lãnh đạo đất nước, nên Đảng phải ở tầm cao trí tuệ. Tiêu chuẩn hàng đầu của lãnh đạo là tiêu chuẩn trí tuệ. Trong các tiêu chuẩn Lênin nói về người cộng sản là trí tuệ, danh dự, lương tâm, thì trí tuệ là tiêu chuẩn hàng đầu. Để có trí tuệ nhất định phải tự do tư tưởng, phải được thảo luận, phải được phát biểu. Thảo luận phát biểu xong rồi, nói hết rồi, thậm chí, cả trong trường hợp thực tiễn cục bộ ở nơi nào đó là phù hợp, nhưng chưa thuyết phục được đa số thì cũng đành phải chấp nhận chờ đợi. Nói chung, trong nội bộ Đảng, phải tạo điều kiện cho đảng viên nói hết những suy nghĩ của mình, có như vậy, đảng viên mới tích cực phát huy trí tuệ, đóng góp vì sự phát triển của Đảng. Cho nên, điểm mấu chốt quan trọng là tự do tư tưởng, tự do thảo luận thông qua các quyết định của Đảng từ cấp dưới cho đến cấp cao nhất. Thực hiện được điều này chúng ta có nhiều khả năng nhất để chọn lọc được quyết định sáng suốt nhất, đúng đắn nhất, mà chính cái đó là ưu thế của sự lãnh đạo tập thể, của cơ chế lãnh đạo của Đảng.

- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phản biện, cơ chế thu nhận và phản hồi thông tin

Đối với mỗi quốc gia và đối với sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền, vấn đề hệ trọng nhất là có được đường lối, chiến lược phát triển đúng đắn, xác định đúng mục tiêu, con đường, các bước đi, các nguồn lực, các phương hướng trọng tâm, các ưu tiên, các giải pháp… Đường lối ấy phải đạt được sự nhất trí cao trong nội bộ Đảng và của toàn dân. Muốn vậy, trước đó, để có được một đường lối, chiến lược như thế, phải mở rộng dân chủ tối đa, khơi động được tất cả trí tuệ, tâm huyết của mọi tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp, thảo luận. Phải có rất nhiều kênh, nhiều hình thức, nhiều diễn đàn, sử dụng mọi phương tiện có thể được để vừa trực tiếp, vừa gián tiếp thu thập ý kiến của nhân dân. Nếu trí tuệ, nguyện vọng của dân được phản ánh đầy đủ, trung thực (dĩ nhiên là có chọn lọc trên cơ sở khoa học) trong đường lối của Đảng, thì tức là đã đạt được nội dung quan trọng của dân chủ.

Đường lối đúng sẽ quy định phương thức hoạt động, tổ chức bộ máy và việc lựa chọn con người đảm bảo thực hiện được dân chủ. Đảng phải tìm ra những hình thức, biện pháp thu hút cho được trí tuệ của dân, ý chí nguyện vọng của dân, kết hợp trí tuệ, ý chí của dân với trí tuệ, ý chí của Đảng mà xây dựng nên đường lối, chính sách của Đảng. Trong điều kiện không có đảng đối

Page 206: 8160

205

lập, Đảng cầm quyền phải chân thành lắng nghe ý kiến của nhân dân, của những người ngoài Đảng, cả những ý kiến khác với chủ trương của lãnh đạo. Đây là biểu hiện tinh thần dân chủ và năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền

Trong chế độ đa đảng thì người phản biện có thể là đảng kia. Còn người phản biện trong điều kiện có một Đảng cầm quyền duy nhất chính là nhân dân và thông qua các tổ chức chính trị - xã hội sẽ phản biện cho Đảng, cho Nhà nước những chính sách, những vấn đề đặt ra. Cần phải làm như thế nào để nhân dân, các tổ chức này có thể phản biện được. Cũng vẫn những tổ chức đó tồn tại, nhưng không phản biện được, thậm chí là không có tác dụng, nếu như cấp uỷ đảng không thực sự muốn sử dụng những tổ chức này, nếu như về mặt cơ cấu tổ chức, những tổ chức này bị quan liêu hoá, bị hành chính hoá, hoàn toàn không có một vai trò độc lập nào cả. Cho nên, phải làm như thế nào để những tổ chức đó vẫn do Đảng lãnh đạo, nhưng phải có sự độc lập nhất định và được đổi mới thì mới có thể phát huy vai trò phản biện cho Đảng.

Báo chí, thông tin đại chúng cũng là người phản biện rất quan trọng cho Đảng, cho Nhà nước. Mặc dù, Đảng lãnh đạo báo chí, nhưng ngược lại báo chí cũng là kênh giám sát, phản biện. Trong thời gian vừa qua báo chí đóng vai trò tích cực trong việc chống tham nhũng, tiêu cực, bên cạnh đó hoạt động báo chí còn bộc lộ một số thiếu sót. Cải tiến và phát huy vai trò của báo chí là một nhiệm vụ quan trọng để phát huy, đảm bảo dân chủ trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền.

Cũng có ý kiến cho rằng: Phải có đảng đối lập làm đối trọng để thúc đẩy ta phải tự điều chỉnh. Vậy tại sao Đảng không lấy dân làm đối trọng, mà cứ phải có một đảng khác làm đối trọng thì Đảng mới tự điều chỉnh được? “Đảng lãnh đạo để dân làm chủ”. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Nhân dân lao động là mục đích, là đối tượng phục vụ của Đảng. Lấy đối tượng phục vụ, yêu cầu của đối tượng làm điều kiện điều chỉnh, hoàn chỉnh mình. Dân sẽ kiểm tra công việc làm của Đảng, đề xuất ý kiến, phê bình sai trái của Đảng để theo ý nguyện của dân mà Đảng điều chỉnh lại. Lấy dân làm đối trọng có nghĩa là căn cứ vào ý kiến, nguyện vọng, đòi hỏi của dân để xem xét điều chỉnh lại đường lối, chủ trương của Đảng sao cho ngày càng hoàn thiện, bảo đảm thực hiện được quyền lợi và lợi ích của dân. Vậy là trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng phải luôn tự đổi mới, tự hoàn chỉnh, nhằm hướng tới mục tiêu phấn đấu tất cả vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Page 207: 8160

206

- Cần xây dựng quy chế, chính sách, khuyến khích những công trình nghiên cứu khoa học, những ý kiến đóng góp cho công tác xây dựng Đảng.

Nghiên cứu khoa học để cung cấp những cứ liệu khoa học góp phần tham mưu cho Đảng xây dựng các quyết định đúng đắn trong công tác xây dựng Đảng. Chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học được đánh giá bằng sự phản ánh trung thực, khách quan tình hình thực tiễn và đề xuất những giải pháp có tính khả thi cao. Trong những năm vừa qua, theo đánh giá chung, chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học xã hội chưa cao, chủ yếu tập trung minh hoạ cho các chủ trương, đường lối của Đảng, còn ít những đề tài có tính phản biện, "nói ngược" với các quyết định của Đảng. Nguyên của tình trạng trên do trong Đảng chưa có quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội, vì thế, cán bộ còn e dè, còn ngại khi đề xuất những vấn đề đối lập với nghị quyết của Đảng. Đảng cần được nghe, cần được phản ánh những thông tin trung thực để từ đó Đảng có những quyết định đúng đắn về đường lối phát triển đất nước. Chính vì thế, Đảng cần xây dựng quy chế, chính sách khuyến khích các ý kiến đóng góp cho Đảng. Các ý kiến đóng góp được tiến hành trong nội bộ Đảng, đặc biệt, những ý kiến "trái chiều", khi chưa có sự kiểm định đánh giá đúng sai, thì không được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi. Các ý kiến "trái chiều" cần được các cấp uỷ xem xét và nghiên cứu nghiêm túc và nếu chưa được chấp nhận thì cũng bảo đảm quyền bảo lưu các ý kiến đó.

Cần có chính sách động viên, khen thưởng và công khai những ý kiến đóng góp có giá trị thực tiễn cao, để khuyến khích cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực tham gia đóng góp xây dựng Đảng vững mạnh. Trong quy chế cũng cần quy định rõ các hình thức xử lý nghiêm khắc những hành động trù dập những người dám nói lên sự thật, đấu tranh với những hiện tượng sai trái.

3.6. Dân chủ trong xây dựng Nghị quyết của Đảng

Hồ Chí Minh đã từng nói: "Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt"69. Đảng lãnh đạo toàn dân tộc ta bằng chủ trương, đường lối của Đảng. Chủ trương đường lối đúng sẽ là yếu tố quyết định dẫn dắt toàn dân tộc trên con đường phát triển, từ đó nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng trước xã hội và quần chúng nhân dân. Trong công cuộc

69 Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H,2002, tập 10, trang 118.

Page 208: 8160

207

đổi mới hiện nay - xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế Đảng ta đang đứng trước nhiều vấn đề lý luận còn chưa được làm sáng tỏ. Bởi vậy muốn có đường lối, chủ trương đúng, Đảng phải phát huy dân chủ và tăng cường đoàn kết trong nội bộ Đảng để tập trung lắng nghe, thu thập những ý kiến đóng góp của đảng viên, huy động sự tham gia tích cực của họ vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng. Cán bộ, đảng viên đều được dân chủ tham gia bàn bạc xây dựng đường lối, cương lĩnh, chủ trương, nghị quyết của Đảng một cách công khai và do đó sẽ tạo được sự thống nhất trong suốt quá trình chỉ đạo triển khai thực hiện đường lối, thống nhất trong hành động và thể hiện tính tiền phong của mỗi đảng viên trước quần chúng nhân dân.

- Để phát huy dân chủ cần đổi mới cách xây dựng Nghị quyết của Đảng

Từ trước tới nay, việc xây dựng nghị quyết Đại hội Đảng thường giao cho một bộ phận soạn thảo. Sau đó mới gửi bản dự thảo để xin ý kiến đóng góp rộng rãi của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Vì thế, có ý kiến cho rằng, nghị quyết Đại hội ít nêu được những vấn đề mới, những vấn đề đang bức xúc trong xã hội, chưa thật sát với tình hình thực tiễn hiện nay.

Để phát huy dân chủ, phát huy trí tuệ của các chuyên gia, đảng viên, cần đổi mới quy trình xây dựng Nghị quyết Đại hội, bắt đầu từ việc lấy ý kiến từ cơ sở, từ chi bộ và các chuyên gia, đề xuất những vấn đề cấp bách cần phải thực hiện trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng sắp tới.

Dựa trên cơ sở những ý kiến đóng góp, bộ phận xây dựng nghị quyết có nhiệm vụ thẩm định và tổng hợp thành Nghị quyết của Đảng. Sau đó bản dự thảo Nghị quyết được đưa ra xin ý kiến rộng rãi và trên cơ sở ấy mới hoàn thiện Nghị quyết, trước khi đưa ra Trung ương thảo luận và quyết định.

Nâng cao trách nhiệm của bộ phận tiếp thu các ý kiến phản biện, góp ý kiến cho dự thảo Nghị quyết. Để việc xin ý kiến có hiệu quả, cần quy định rõ quy trình tiếp thu, quy trình xử lý ý kiến đóng góp. Trong quy trình này, cần yêu cầu bộ phận tiếp thu ý kiến không chỉ làm nhiệm vụ tiếp thu, mà phải có giải trình các ý kiến tiếp nhận được: tiếp thu ý kiến nào, không tiếp thu ý kiến nào, vì sao. Nếu cần, có thể tổ chức đối thoại trực tiếp để có thể lắng nghe, trao đổi, tranh luận, làm sáng tỏ những vấn đề còn chưa rõ. Tránh tình trạng để

Page 209: 8160

208

việc lấy ý kiến đóng góp trở thành dân chủ hình thức (nghị quyết đã viết xong, các ý kiến đóng góp thu về để đấy, không đọc và không cần tiếp thu gì nữa).

- Đổi mới cách đưa các quyết định của Đảng sang Quốc hội.

Cần thống nhất nguyên tắc chung, nhân dân phải được tham gia vào các quyết định về chủ trương, đường lối của Đảng. Mọi quyết định của Đảng phải được dân bàn trước, rồi Đảng mới xem xét và thông qua. Trên cơ sở các ý kiến đóng góp của dân, Đảng điều chỉnh lại các ý kiến của mình, sao cho ý Đảng phải hợp với lòng dân. Nếu có ý kiến chưa thống nhất, Đảng phải có sự giải thích, tranh luận để tạo ra sự đồng thuận.

Với nguyên tắc như vậy, Đảng cần đổi mới cách ra các quyết định của mình. Lâu nay, trước những vấn đề trọng đại mà Quốc hội có chức năng quyết định đã được ghi trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, Đảng thường quyết định trước, rồi đưa sang ép Quốc hội phải thông qua. Cách làm ấy gây ra những phản ứng không hay trong dư luận về dân chủ hình thức, Đảng lấn quyền của Quốc hội, làm cho Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện cho dân chỉ quyết định hình thức, chỉ làm một thủ tục pháp lý đơn thuần (như trường hợp sáp nhập Hà Nội - Hà Tây hay trường hợp bô-xít ở Tây Nguyên). Để đổi mới cách làm này, những vấn đề trọng đại của đất nước cần phải được đưa ra Quốc hội thảo luận thực sự dân chủ, trước khi Đảng quyết định. Đảng không nên quyết định trước các vấn đề, trước khi đưa sang Quốc hội. Đảng chỉ đưa ra định hướng về chủ trương để Quốc hội thảo luận. Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, trên cơ sở những nguồn thông tin đầy đủ, phát huy trí tuệ, đầu tư công sức, thảo luận dân chủ, tìm ra phương án tối ưu, quyết định một cách thực chất hơn các vấn đề trọng đại của đất nước. Đảng lắng nghe ý kiến của Quốc hội phải giải trình để thuyết phục Quốc hội. Chỉ sau khi có sự đồng thuận, Đảng mới ra các quyết định chính thức.

Vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có quyết định đúng đắn khi đưa dự án "Đường sắt cao tốc Bắc - Nam" ra Quốc hội để bàn, trước khi có quyết định chính thức. Về cách làm đổi mới này, đúng như ông Vũ Mão, người có 20 năm là uỷ viên Thường vụ Quốc hội, cho rằng, có hai sự đổi mới trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội: Bộ Chính trị không quyết trước mà để Quốc hội thảo luận, quyết định; và không có chỉ đạo nào về mặt Đảng với các đảng viên trong Quốc hội là phải thông qua dự án mà Chính phủ

Page 210: 8160

209

trình ngay cả khi thăm dò ý kiến cho thấy tỉ lệ ủng hộ quá bán rất mong manh. Cái “hai không” mới mẻ này đã khiến cho “các đại biểu thoải mái nói lên suy nghĩ của mình và cuối cùng Quốc hội quyết định không thông qua dự án “Đường sắt cao tốc Bắc - Nam”.

Nói chung các Nghị quyết, quyết định của Đảng tránh đi vào những vấn đề cụ thể, chỉ mang tính định hướng và trao quyền cụ thể hoá cho Nhà nước.

- Tăng cường vai trò của thăm dò dư luận xã hội, nhất là thăm dò kết quả triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Lâu nay, một số Nghị quyết của Đảng, sau nhiều năm triển khai, nhưng không được tổ chức đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm, để có những quyết định phù hợp về việc tiếp tục triển khai Nghị quyết. Mỗi Nghị quyết của Đảng đều có liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới mọi mặt của đời sống xã hội, vì thế, để kiểm chứng hiệu quả của Nghị quyết cần tăng cường vai trò của điều tra thăm dò dư luận xã hội. Việc tổ chức thăm dò dư luận cần được triển khai nghiêm túc và có bộ phận xử lý các kết quả điều tra để đưa ra những nhận xét đánh giá khách quan về những mặt ưu điểm, những mặt còn tồn tại, nguyên nhân của những tồn tại và từ đó đề xuất những giải pháp để triển khai có hiệu quả nghị quyết trong thời gian tiếp theo.

Cùng với cách điều tra dư luận có tính đại trà như trên, có thể thành lập một bộ phận hay tổ chức chuyên làm công tác phản biện, có tiếng nói độc lập giúp Trung ương, Bộ Chính trị có thêm những ý kiến để tham khảo về các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, như lâu nay, các Ban của Đảng vừa là nơi chuẩn bị đề án, nghị quyết trình Trung ương, Bộ Chính trị, đồng thời cũng là cơ quan phản biện các nghị quyết ấy. Cần có quy định rõ ràng về việc lấy ý kiến nhân dân, ý kiến các nhà khoa học về các quyết định quan trọng của Đảng.

3.7. Đổi mới chế độ bầu cử trong Đảng

- Cần đổi mới nhận thức để phát huy dân chủ trong bầu cử của Đảng

Bầu cử là cách chọn lựa người cầm quyền, xét về thực chất là cách đánh giá lựa chọn cán bộ từ dưới lên. Đảng Cộng sản coi bầu cử cơ quan lãnh đạo là nội dung cơ bản đầu tiên của nguyên tắc tập trung dân chủ.

Bầu cử phải trở thành một sinh hoạt chính trị trong Đảng. Quyền bầu cử là quyền cơ bản của đảng viên, quyền quản lý và quyết định cán bộ của ban lãnh đạo các cấp phải đặt trong khuôn khổ nguyên tắc bầu cử các cơ quan lãnh

Page 211: 8160

210

đạo của Đảng và quy định của Điều lệ Đảng. Đổi mới chế độ bầu cử trong Đảng theo hướng thực sự dân chủ, đảm bảo cả quyền ứng cử và quyền dân chủ lựa chọn của người bỏ phiếu trong Đại hội Đảng các cấp và trong hội nghị các Ban Chấp hành là yêu cầu có tính khách quan.

Trong điều kiện mới phải đổi mới nhận thức, đảm bảo quyền chủ động quyết định của Đại hội trong việc bầu những người tham gia cấp uỷ, quyền chủ động quyết định của cấp uỷ trong việc bầu và bãi miễn bí thư, phó bí thư, uỷ viên ban thường vụ. Việc giới thiệu của cấp uỷ cũ và kiểm tra của cấp uỷ cấp trên trong mọi trường hợp không dẫn tới hạn chế quyền chủ động quyết định của Đại hội và cấp uỷ cấp dưới. Đã đến lúc thực hiện một cách trực tiếp và đơn giản hơn quyền hạn và chế độ trách nhiệm của đại hội và cấp uỷ cấp trên trong bầu cử theo đúng tinh thần Điều lệ Đảng. Bầu ra cơ quan và chức danh lãnh đạo là quyền và trách nhiệm của cấp đó (đại hội, cấp uỷ cấp đó...). Quyền của cấp trên là chuẩn y. Cấp trên hướng dẫn, kiểm tra giúp cho cấp dưới làm tốt bầu cử dân chủ, không được vi phạm quyền dân chủ bầu cử của cấp dưới.

- Phải bảo đảm dân chủ trong giới thiệu các ứng cử viên

Dân chủ trong bầu cử là biểu hiện tập trung của phát huy dân chủ trong Đảng. Vì thế, việc bầu cử cơ quan lãnh đạo Đảng các cấp phải bảo đảm đầy đủ tính chất dân chủ và phải được chuẩn bị chu đáo để việc lựa chọn các ứng viên được chính xác.

Phải bảo đảm quyền của đại biểu Đại hội giới thiệu, đề cử danh sách các ứng viên để bầu vào cấp uỷ. Những người giới thiệu phải phân tích để Đại hội thấy rõ người được đề cử bảo đảm đủ các tiêu chuẩn, xứng đáng giữ chức danh được bầu. Ngay từ lúc giới thiệu đề cử, các ứng viên có thể thực hiện quyền của mình trao đổi thêm với Đại hội, để Đại hội hiểu rõ hơn về mình và trên cơ sở đó Đại hội sẽ có được danh sách những ứng viên xứng đáng nhất.

Về danh sách đề cử do Đoàn chủ tịch Đại hội giới thiệu. Cấp uỷ khoá trước đề cử danh sách cấp uỷ khoá mới, sau khi đã lấy ý kiến tham khảo của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Trong Đại hội Đảng, Đoàn chủ tịch Đại hội sau khi tổng hợp các ý kiến đề cử của các đại biểu, sẽ công khai danh sách đề cử do Đoàn chủ tịch giới thiệu (dựa trên sự giới thiệu của cấp uỷ khoá trước). Các đại biểu coi danh sách đề cử do Đoàn chủ tịch giới thiệu là một phương án để tham khảo, chứ không phải là ý kiến áp đặt phải bầu theo danh

Page 212: 8160

211

sách đề cử này. Đại biểu cân nhắc, sử dụng quyền bỏ phiếu của mình để bầu người xứng đáng nhất, không chịu bất cứ một áp lực nào từ việc giới thiệu đó.

Để phát huy dân chủ trong bầu cử, bên cạnh danh sách đề cử, nên khuyến khích những cán bộ có đức có tài ra ứng cử với ý thức sẵn sàng gánh vác trách nhiệm chung. Phải coi tự ứng cử như một khâu cần thiết trong công tác bầu cử, tránh việc chỉ coi trọng những người được Đại hội hay cấp trên giới thiệu, đề cử còn những người tự ứng cử ít được để ý, xem trọng. Cần phê phán những nhận thức và hành vi kỳ thị người ra ứng cử; chống mọi biểu hiện thiếu thiện chí của người đã được chuẩn bị đề cử với các ứng cử viên khác.

Trong quy chế bầu cử, cần bỏ những quy định hạn chế ứng cử, đề cử. Chẳng hạn, cần có quy định về các đồng chí trúng cử vào Ban Chấp hành Trung ương (Ban chấp hành Đảng bộ) đều có quyền ứng cử vào Bộ Chính trị (Ban Thường vụ) và chức vụ Tổng Bí thư (Bí thư). Tránh việc có những quy ước "ngầm", cứ phải hai khoá tham gia Ban Chấp hành Trung ương (Ban Chấp hành Đảng bộ) mới được ứng cử vào Bộ Chính trị (Ban Thường vụ).

- Khuyến khích tranh cử công khai trong Đảng

Tiếp tục nghiên cứu để thời gian tới có thể quy định công tác nhân sự được tiến hành trao đổi tại phiên họp toàn thể của Đại hội. Các ứng viên được đề cử vào các chức vụ lãnh đạo cao nhất của Đảng (Tổng Bí thư, Bí thư Đảng bộ các cấp) phải tham luận tranh cử để thể hiện những ý tưởng, kế hoạch và khả năng lãnh đạo của mình. Các đồng chí được đề cử bầu vào chức vụ Tổng Bí thư (Bí thư) phải trình bày đề án tranh cử (nếu trúng cử thì trong nhiệm kỳ tới tôi sẽ làm gì) để đại biểu Đại hội xem xét, đánh giá và quyết định sẽ bỏ phiếu cho ai. Đại hội phải tổ chức thảo luận về những đề xuất của những người ra ứng cử. Cần thực hiện chất vấn, trả lời chất vấn công khai tại Đại hội, để từ đó có thể chọn ra người giỏi nhất đủ cả đức và tài vào các chức danh lãnh đạo cao nhất của Đảng..

Cán bộ được đề cử vào Trung ương, phải tiến hành tranh cử từ cấp dưới. Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan quyền lực cao nhất giữa hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Các đồng chí được bầu vào Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải là những người có đức độ, tâm huyết vì sự nghiệp chung, song phải là người có nhận thức cao, có tầm tư duy chiến lược, có tư tưởng đổi mới, có kinh nghiệm thực tiễn đóng góp được nhiều ý kiến vào việc hoạch định các

Page 213: 8160

212

chủ trương, chính sách của Đảng, góp phần mình vào sự nghiệp lãnh đạo chung của Đảng, tránh tình trạng vào Trung ương nhưng cả khoá không thấy tham gia ý kiến gì, trong cuộc họp hoặc có phát biểu thì cũng rất chung chung, kể lể thành tích của ngành mình, địa phương mình, xa với trọng tâm cần thảo luận. Chính vì thế việc lựa chọn đề cử vào Ban Chấp hành Trung ương cần được tiến hành nghiêm túc từ Đại hội Đảng ở cấp dưới, thông qua việc tổ chức tranh cử giữa các ứng cử viên. Thông qua đối thoại, tranh luận, đại biểu Đại hội cấp dưới sẽ bầu ra được người xứng đáng nhất để đề cử tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương.

- Danh sách đề cử phải bảo đảm có số dư

Để bảo đảm dân chủ trong đề cử và ứng cử, danh sách bầu cử phải bảo đảm có số dư (nhưng không được sắp xếp "quân xanh, quân đỏ")

Lâu nay ở trong Đảng, danh sách đề cử, ứng cử bầu Ban Chấp hành, Ban Thường vụ thường có số dư so với số lượng được bầu, tạo điều kiện để các đại biểu có cơ hội xem xét và lựa chọn. Nhưng, bầu Bí thư cấp uỷ thì chỉ giới thiệu một người duy nhất, vì vậy cơ hội lựa chọn của các uỷ viên Ban Chấp hành không còn, thì buộc phải bỏ phiếu cho người đó, dù đại biểu không đồng tình, bởi nếu bỏ phiếu trắng thì bị coi là không hợp lệ. Cho nên bầu tròn thì người được cấp trên giới thiệu luôn luôn đạt 100% số phiếu hợp lệ. Tỉ lệ đó không phản ánh đúng tín nhiệm của người trúng cử, có thể gây cho người trúng cử tâm lý chủ quan, thoả mãn. Nói chung, trình độ cán bộ hiện nay không chênh lệch nhau nhiều, vì thế bầu có số dư thì mới đánh giá đúng mức độ tín nhiệm của người trúng cử. Cũng cần hết sức tránh trường hợp có số dư, nhưng lại sắp xếp "quân xanh, quân đỏ" (dân chủ hình thức). Các ứng viên được đề cử phải có trình độ đồng đều, có điều kiện tương đương nhau, chỉ khi đó việc lựa chọn mới thật sự dân chủ.

Danh sách đề cử phải có số dư kể cả khi bầu các chức vụ cao nhất của Đảng. Từ trước tới nay, tại các Đại hội Đảng, hầu như khi đề cử bầu chức danh bí thư, thì Đại hội chỉ đề xuất một người, vì thế quyền lựa chọn của đại biểu không còn. Nên có quy định để danh sách bầu cử vào chức danh Tổng Bí thư (Bí thư), có không ít hơn hai người, được Đại hội tín nhiệm đề cử.

Page 214: 8160

213

- Người đi bầu cần được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết và phải được trao đổi, thảo luận về các ứng viên

Đại biểu đại hội trở thành nhân vật trung tâm trong bầu cử cơ quan lãnh đạo. Một mặt, mỗi đại biểu cần thực sự đề cao trách nhiệm, mặt khác đại biểu cần được thông tin đầy đủ, chính xác về các ứng cử viên, hình thành chủ kiến của mình để bỏ phiếu. Người bầu cử có quyền nhận xét, chất vấn các vấn đề cần thiết về các ứng viên. Dân chủ trong bầu cử chỉ có thể thực hiện tốt trên cơ sở làm cho đại biểu hiểu rõ tiêu chuẩn của uỷ viên Ban Chấp hành, hiểu rõ phẩm chất và năng lực của từng ứng viên, loại trừ các hành động bè phái, vô nguyên tắc làm cho các đại biểu hiểu sai lệch về các ứng viên.

Ở Đại hội Đảng, đối với những người được đề cử vào Ban Chấp hành mới, lâu nay thường chỉ có bản tự phê bình trước chi bộ và trước cấp uỷ mà cán bộ đó là thành viên, ghi kèm ý kiến của một số đồng chí dự cuộc họp đó. Không hề có bản nhận xét của cơ quan lãnh đạo và Tiểu ban nhân sự đã đề cử đồng chí đó. Như vậy là cơ quan lãnh đạo chưa làm tròn trách nhiệm với người cán bộ đó cũng như đối với các đại biểu Đại hội.

Để đại biểu hiểu rõ về năng lực trình độ của các ứng viên, cần sớm xây dựng quy hoạch những cán bộ dự kiến được đề cử giữ chức vụ cao nhất của Đảng và công khai để toàn thể nhân dân được biết, theo dõi, đánh giá và góp ý. Với cách làm như vậy việc lựa chọn bầu tại Đại hội sẽ chính xác, người thực sự có đức, có tài sẽ được đại biểu tín nhiệm cao.

- Quy chế bầu cử phải cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ

Trong quy định hiện hành cho phép giới thiệu nhân sự có thể biểu quyết công khai hay bỏ phiếu kín, người lãnh đạo sẽ vận dụng như thế nào để có lợi cho mình và không có lợi cho người khác, nếu như người đó có mục đích, động cơ không trong sáng, không vô tư. Số phiếu trúng cử chưa được quy định rõ trong từng trường hợp cụ thể như thế nào là hợp lý: 51%, 3/4 hay 4/5? Vì thế quy chế bầu cử phải chặt chẽ, cụ thể với từng trường hợp, tránh ra quy chế chung chung, không rõ ràng, dễ bị lợi dụng hiểu sai, vận dụng thực hiện không đúng.

- Hoàn thiện chế độ bầu cử trực tiếp, có lộ trình, bước đi, thử nghiệm bầu cử ở từng cấp và tiến tới bầu ở Trung ương

Đổi mới công tác bầu cử Ban Thường vụ và Bí thư Đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở nhằm phát huy quyền dân chủ của đảng viên. Các đảng

Page 215: 8160

214

viên đến dự Đại hội Đảng đều là những người đã được chọn lọc từ cấp dưới lên, nên nói chung đều có đủ đức, đủ tài để chọn ra được những người xứng đáng đủ uy tín và trình độ nhận sự uỷ quyền của đảng viên để lãnh đạo Đảng. Do đó cần tiếp tục nghiên cứu để có thể thực hiện việc Đại hội bầu trực tiếp Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương. Nhân sự để bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư không nên quá chú ý vào cơ cấu vùng, miền, vì tiêu chuẩn hàng đầu của các đồng chí giữ các vị trí này là phải "có tâm và xứng tầm". Trong những năm trước mắt, cần tiến hành thử nghiệm đại hội bầu trực tiếp bí thư đảng bộ các cấp để qua đó nghiên cứu rút kinh nghiệm, chuẩn bị cho Đại hội XII của Đảng có thể thực hiện chủ trương trên.

- Cần phải nghiên cứu để quy định chế độ bãi nhiệm trong Đảng ngay trong nhiệm kỳ. Thực hiện chế độ bãi nhiệm trong Đảng song song với chế độ bầu cử thật dân chủ. Cần có quy định để những đảng viên chuyển công tác, không đảm đương được vị trí chức vụ, hay vi phạm kỷ luật Đảng.. được thôi giữ chức vụ ngay trong nhiệm kỳ. Phải coi việc bãi nhiệm trong Đảng là công việc rất bình thường, phải làm thường xuyên để không ngừng nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng.

- Giới thiệu đảng viên tham gia công tác bên Nhà nước, nên chuyển dần từ hình thức giới thiệu trực tiếp nhân sự sang hình thức giới thiệu theo tiêu chuẩn. Đảng nắm cán bộ trong việc định tiêu chuẩn của cán bộ lãnh đạo từng cấp, còn con người cán bộ cụ thể trong cơ quan nhà nước, nên để cho cơ quan nhà nước và cử tri có thẩm quyền tự lựa chọn và quyết định.

- Cần có cơ chế để nhân dân tham gia đóng góp vào việc lựa chọn cán bộ của Đảng.

Cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong bầu cử của Đảng. Những người được đề cử vào những vị trí lãnh đạo của Đảng phải tham khảo ý kiến của quần chúng nhân dân (chứ không phải chỉ bầu khép kín trong Đảng).

Trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền thì cán bộ lãnh đạo của Đảng không chỉ chịu trách nhiệm trực tiếp trước Đảng mà còn chịu trách nhiệm trực tiếp trước dân. Do đó, cần sớm nghiên cứu đề ra những phương thức thích hợp để thực hiện việc nhân dân tham gia lựa chọn cán bộ lãnh đạo của Đảng.

Page 216: 8160

215

3.8. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng

- Cần nhận thức rõ, thực hành tự phê bình và phê bình thường xuyên là nội dung quan trọng để phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng.

Tự phê bình và phê bình nghiêm túc nhằm làm cho tổ chức Đảng trong sạch, đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời đó còn là một phương pháp cơ bản để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng về chính trị và tư tưởng. Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, do đó đòi hỏi phải không ngừng nâng cao trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên. Nhưng trong thực tế, do trình độ chuyển biến nhận thức của cán bộ, đảng viên không đồng đều, lại có một số cán bộ, đảng viên quen với nếp suy nghĩ và cách làm cũ, vì thế, cuộc đấu tranh tư tưởng giữa cái tiến bộ và lạc hậu cũng tất yếu thường xuyên diễn ra, do đó tự phê bình và phê bình cùng với việc thường xuyên nâng cao trình độ nhận thức trong cán bộ đảng viên là phương pháp cơ bản để giải quyết mâu thuẫn đó. Ngoài ra, trong sinh hoạt Đảng còn có những tổ chức và cá nhân đảng viên không chịu sự kiểm tra của tập thể cấp dưới, thậm chí trấn áp phê bình đối với cấp dưới, xu nịnh, luồn cúi với cấp trên, báo cáo láo thành tích để mưu lợi ích riêng hay lợi ích cục bộ. Lại có những đảng viên sợ bị đụng chạm đến quyền lợi, địa vị, cấp bậc, sợ bị truy chụp, bị thành kiến nên tự tước bỏ quyền dân chủ của mình. Như vậy, có phát huy dân chủ trong phê bình, tự phê bình, thì Đảng mới rèn luyện, giáo dục được cán bộ, đảng viên, mới phát huy được sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong xã hội.

- Cần thực hiện nghiêm túc và có chất lượng chế độ tự phê bình và phê bình từ trên xuống và từ dưới lên. Đó là một yêu cầu bức thiết để nâng cao chất lượng lãnh đạo tập thể, tăng cường sinh hoạt dân chủ và đoàn kết, nhất trí trong Đảng, bảo đảm cho quyền kiểm tra của mỗi đảng viên đối với công việc của Đảng được tôn trọng một cách đầy đủ. Các tổ chức Đảng phải tiến hành nghiêm túc và thường xuyên công tác phê bình, tự phê bình, tránh làm theo kiểu hình thức, chiếu lệ. Trong tự phê bình và phê bình phải đề cao tính tự giác, mọi cán bộ, đảng viên phải chủ động và nghiêm túc tự phê bình và phê bình. Có như vậy mới tạo ra được một bầu không khí dân chủ để khuyến khích cán bộ, đảng viên thực hiện tự phê bình và phê bình một cách thẳng thắn, cởi mở.

Page 217: 8160

216

Thực hiện phê bình và tự phê bình không chỉ bảo đảm từ trên xuống (cán bộ lãnh đạo phê bình cấp dưới), mà cần rất chú trọng cả chiều phê bình từ dưới lên (cấp dưới phê bình cán bộ lãnh đạo). Đối với những đảng viên giữ chức vụ, thì cương vị lãnh đạo càng cao, càng phải gương mẫu, nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình. Đảng viên giữ chức vụ phải lắng nghe và tiếp thu các ý kiến phê bình từ cấp dưới để tránh mắc phải những sai lầm trong công tác lãnh đạo. Còn đảng viên phải có trách nhiệm thẳng thắn nêu những ưu điểm và thiếu sót của cán bộ lãnh đạo, để cán bộ lãnh đạo biết và sửa chữa. Cần tránh tình trạng khi phê bình cán bộ lãnh đạo chỉ thấy nêu ưu điểm mà không chỉ ra những khuyết điểm thiếu sót.

-Tổ chức Đảng phải có sức chiến đấu để bảo vệ cái đúng, phê phán, vạch trần cái sai, có quyết tâm sửa sai. Là Đảng nắm chính quyền, trong Đảng thường có những tổ chức và đảng viên chỉ thích nghe ưu điểm, thành tích, không thích nghe phê bình khuyết điểm. Bản lĩnh của Đảng là dũng cảm thừa nhận khuyết điểm sai lầm và quyết tâm sửa chữa theo đúng tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó. Xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính"2. Tự phê bình và phê bình phải thành thật, nêu cả ưu điểm và khuyết điểm về việc thực hiện nhiệm vụ được giao; về quan điểm và tác phong công tác. Đối với khuyết điểm phải nói hết, không né tránh, không đổ lỗi cho khách quan.

- Trong công tác phê bình, tự phê bình cần kiên quyết chống những biểu hiện hình thức chủ nghĩa và sai trái trong tự phê bình và phê bình: tự phê bình và phê bình không căn cứ vào tình hình thực tế, không nhằm thúc đẩy công việc, mà lại nhằm đả kích cá nhân; không nhằm nâng cao chất lượng chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết, cải tiến lãnh đạo, giữ gìn phẩm chất cách mạng của đảng viên, mà lại đi vào những vấn đề vụn vặt thuộc về sinh hoạt. Mục đích chủ yếu của phê bình là giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, cho nên thái độ của người phê bình phải chân thành, đúng mực, phân tích có tình, có lý. Tránh lợi dụng phê bình để bới móc, nói xấu nhau, hạ bệ nhau gây mất đoàn kết nội bộ. Việc phê bình người khác phải nhớ lời Bác dạy: "Nghiêm túc 2 Hồ Chí Minh, Sđd, Nxb.CTQG, t.5, H,1995, tr.261.

Page 218: 8160

217

nhưng phải có tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau". Qua tự phê bình và phê bình, phải rút ra những kinh nghiệm để quy định thành chế độ, biện pháp nhằm phát huy ưu điểm, khắc phục, ngăn ngừa các thiếu sót.

- Cán bộ lãnh đạo cấp uỷ và người đứng đầu cơ quan đơn vị cần thực hiện sinh hoạt phê bình và tự phê bình ở hai tổ chức

Thực hiện phê bình và tự phê bình như thế nào để bảo đảm phát huy dân chủ, đặc biệt đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị đang là vấn đề đặt ra ở nhiều tổ chức cơ sở Đảng.

Thực tế hiện nay, người cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị thường được bố trí về sinh hoạt chi bộ với các phòng, ban. Cách bố trí như vậy có một ưu điểm rất lớn là giúp người lãnh đạo sâu sát thực tiễn, nắm được tình hình tư tưởng, công tác của đơn vị, đảng viên. Nhưng trong phê bình đối với cán bộ lãnh đạo thì sẽ gặp một số khó khăn, vì do cán bộ, nhân viên trong chi bộ không nắm được công việc, nên không thể đánh giá được hiệu quả công tác của cán bộ lãnh đạo và cũng khó có thể góp ý kiến giúp cho cán bộ lãnh đạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, tác phong công tác. Đó là chưa kể, nếu gặp cán bộ lãnh đạo chỉ thích khen mà không thích chê, trù dập cán bộ, thì việc góp ý phê bình sẽ không thể thực hiện nghiêm túc được. Do đó, cần phải xem xét lại cách bố trí sinh hoạt đối với cán bộ lãnh đạo, sao cho công tác phê bình và tự phê bình có hiệu quả. Cán bộ lãnh đạo có thể tham dự sinh hoạt chi bộ chỉ để nắm tình hình và lắng nghe ý kiến cấp dưới, còn trong kiểm điểm công tác, thực hiện phê bình và tự phê bình phải tham gia cùng với các đồng chí Đảng uỷ, cán bộ lãnh đạo cấp trên trực tiếp của chi bộ, cơ quan, đơn vị.

- Tăng cường hình thức chất vấn công khai trong Đảng

Hiện nay dân chủ trong Quốc hội đã có những chuyển biến đột phá. Những phiên chất vấn công khai của Quốc hội được toàn dân theo dõi, tạo nên không khí cởi mở, dân chủ. Vậy trong Đảng có cần làm như vậy không? Trong thực tế, Đảng đã cử cán bộ của mình sang giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt bên Nhà nước, thì phải có kiểm tra. Đảng yêu cầu cán bộ của mình phải định kỳ báo cáo trước Đảng theo hình thức chất vấn, về những công việc bên nhà nước. Trung ương nên yêu cầu những đồng chí bí thư tỉnh uỷ, bộ trưởng... trả lời chất vấn về công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở địa phương, ở các Bộ, ngành.

Page 219: 8160

218

Nếu nội dung các cuộc chất vấn đó có liên quan đến quốc kế dân sinh, đến công tác lãnh đạo quần chúng thì có thể tiến hành công khai để quần chúng nhân dân được biết. Bởi suy cho cùng, việc Đảng cũng là việc dân, cái gì liên quan đến dân thì dân cần được biết. Bác Hồ đã nói: Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác, cũng là nói điều đó.

Hiện nay, về mặt hình thức, trong các buổi họp, sinh hoạt trong Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, Đảng bộ, chi bộ, Đảng vẫn cho phép, khuyến khích đảng viên chất vấn về các vấn đề liên quan đến sự lãnh đạo của Đảng. Tuy vậy, các ý kiến chất vấn còn ít và chất lượng nội dung các chất vấn còn chưa cao, đảng viên còn e ngại, chưa dám nêu thẳng những tâm tư suy nghĩ thật của mình. Lý do chủ yếu của hiện tượng trên do cách thức tổ chức các buổi chất vấn chưa tạo ra không khí thật sự dân chủ, cởi mở, những người có trách nhiệm chưa thật sự muốn lắng nghe và trả lời thẳng thắn những ý kiến chất vấn. Đảng viên cảm thấy những ý kiến chất vấn của mình không được tôn trọng, không được chú ý tiếp nhận và trả lời thoả đáng, vì thế dần dần không chất vấn nữa. Để các buổi chất vấn có hiệu quả, cần xây dựng quy chế dân chủ, nhằm khuyến khích đảng viên thẳng thắn chất vấn và nghiêm túc trả lời chất vấn, coi đó như những sinh hoạt thường xuyên, không thể thiếu trong các buổi sinh hoạt Đảng.

- Mở rộng sinh hoạt dân chủ và nâng cao chất lượng lãnh đạo tập thể ở Hội nghị cấp uỷ và Đại hội Đảng các cấp

Ở một số Hội nghị cấp uỷ và Đại hội Đảng các cấp còn mang tính dân chủ hình thức, xuôi chiều, những ý kiến khác nhau không được thẳng thắn đưa ra thảo luận, tranh luận và kết luận rõ ràng. Có khi do nể nang, ngại va chạm, sợ bị thành kiến truy chụp, cũng có khi do các cấp uỷ viên không có thông tin đầy đủ, không được tạo điều kiện nghiên cứu tìm hiểu vấn đề thấu đáo. Thảo luận xuôi chiều chưa hẳn là đoàn kết nhất trí. Tôn trọng những ý kiến khác nhau, cùng thảo luận một cách dân chủ thì mới có thể tìm ra chân lý và đi tới nhất trí thật sự. Ý kiến đa số nói chung là đúng, nhưng cũng có những trường hợp ý kiến thiểu số lại đúng. Không thành kiến, truy chụp đối với ý kiến của thiểu số. Tôn trọng quyền bảo lưu ý kiến và đến một thời gian thích hợp khi thực tiễn đã cho thấy rõ vấn đề nên tổ chức thảo luận lại vấn đề đó để đạt tới sự nhất trí.

Các Hội nghị cấp uỷ từ Trung ương đến cơ sở phải là mẫu mực về sinh hoạt dân chủ nội bộ và về chất lượng lãnh đạo tập thể, phát huy vai trò của cá

Page 220: 8160

219

nhân. Vừa qua, hiện tưởng gia trưởng độc đoán tuy có xảy ra nhưng không nhiều. Cái phổ biến hơn là dân chủ tập thể một cách hình thức. Nhiều việc danh nghĩa là đưa ra tập thể cấp uỷ bàn bạc quyết định, nhưng nhiều khi chủ yếu chỉ cốt để hợp thức hoá ý định cá nhân của người đứng đầu. Nếu người đứng đầu không thực sự mở rộng dân chủ, không tôn trọng lắng nghe những ý kiến trái chiều với mình, thậm chí thành kiến trù dập một cách khôn khéo, thì các thành viên không dám nói thẳng, nói thật. Cũng có khi các thành viên không được tạo điều kiện hiểu rõ vấn đề, nên không thể thảo luận có thực chất.

Cần cung cấp đầy đủ thông tin cho các thành viên và có đủ thời gian cho họ chuẩn bị suy nghĩ, nghiên cứu. Các đề án đưa ra đều phải qua điều tra, nghiên cứu thực tế, tổ chức lấy ý kiến của cấp dưới và những cơ quan có liên quan, trong trường hợp cần thiết, cần lấy ý kiến của cả quần chúng. Cần chăm lo bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý kinh tế, quản lý nhà nước cho cán bộ, cho các cấp uỷ viên là rất cần thiết để họ có thể tham gia ý kiến có chất lượng trong các hội nghị của lãnh đạo.

Các cấp uỷ viên chỉ hoạt động trong những ngày hội nghị cấp uỷ mà 3 - 6 tháng mới họp một lần, còn thường ngày làm công tác chuyên môn ở từng lĩnh vực khác nhau. Nên chăng nghiên cứu các hình thức tổ chức thu hút các cấp uỷ viên tham gia vào hoạt động nghiên cứu, tư vấn, thẩm định trên từng lĩnh vực công tác của cấp uỷ, hoạt động nghiệp dư, không phải bộ máy chuyên trách, không phải cơ quan chỉ đạo.

- Tiếp tục đổi mới nội dung sinh hoạt chi bộ

Thực tế hiện nay cho thấy, có những đảng viên không ở trong cương vị lãnh đạo, quản lý thường có thái độ thờ ơ, bàng quan, ý thức chính trị mờ nhạt.. Vì sao lại có hiện tượng này? Chính là vì các đồng chí đó có mặc cảm bị bỏ rơi, ít được quan tâm, ít được tham gia vào các quyết sách của Đảng. Nên cần có cơ chế như thế nào để đảng viên được tham gia thường xuyên vào các công việc của Đảng, được đóng góp vào những chủ trương, đường lối quan trọng của Đảng được phát huy vai trò làm chủ Đảng của mình.

Cần mở rộng các hình thức sinh hoạt dân chủ trong Đảng; nên thay thế dần các hình thức sinh hoạt quán triệt nghị quyết của cấp trên đối với cấp dưới bằng hình thức thảo luận dân chủ lấy ý kiến của cấp dưới nhiều hơn nữa. Hiện nay nếu quan tâm theo dõi tình hình sinh hoạt trong Đảng ta thì chủ yếu là loại

Page 221: 8160

220

hình sinh hoạt quán triệt chủ trương của trên xuống dưới, còn loại hình sinh hoạt lấy ý kiến từ dưới lên thì vẫn còn ít. Nếu bây giờ mở rộng hình thức sinh hoạt thứ hai, làm tốt hình thức sinh hoạt thứ hai thì hình thức sinh hoạt thứ nhất sẽ trở nên nhẹ nhàng. Khi đã được tham gia dân chủ thảo luận, đóng góp ý kiến vào việc hình thành các quyết định rồi, thì lúc tổ chức quán triệt sẽ rất nhẹ nhàng, nhanh chóng. Bởi vì nghị quyết của Đảng chính là do các đảng viên đã thảo luận xây dựng nên.

- Dân chủ trong sinh hoạt của Ban chấp hành Trung ương

Cần có quy định trách nhiệm của các đồng chí uỷ viên Trung ương, trong một quý cần báo cáo với Trung ương những vấn đề lớn của ngành, địa phương mình và kiến nghị với Trung ương những vấn đề phải giải quyết.

Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương cần được thực sự bàn bạc và quyết định những vấn đề lớn của đất nước về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Trong Hội nghị Trung ương cần tạo điều kiện để nhiều đồng chí Trung ương phát biểu ý kiến bày tỏ chính kiến của mình, cũng như góp phần vào những vấn đề mang tính tổng kết lý luận và thực tiễn.

Trung ương một năm có thể họp 3 lần, mỗi lần họp ngắn, tập trung bàn theo chuyên đề hoặc một số chính sách quan trọng. Những vấn đề đã rõ cần quyết ngay cả chủ trương và giải pháp thực hiện. Không nhất thiết Hội nghị Trung ương nào cũng ra nghị quyết mới. Nên tăng cường các kỳ họp Trung ương nhằm kiểm điểm nghị quyết cũ, có kết luận về những việc đã làm và những biện pháp mới để thực hiện nghị quyết (và có thể điều chỉnh những vấn đề chưa hợp lý trong nghị quyết).

Để tạo điều kiện cho các đồng chí Uỷ viên Trung ương tham gia có hiệu quả ngay từ đầu các đề án, các chủ trương của Đảng, cần tổ chức, sắp xếp lại và nâng cao chất lượng các tiểu ban tham mưu, giúp việc của Ban chấp hành Trung ương. Các tiểu ban này có nhiệm vụ chuẩn bị sẵn sàng các vấn đề trình, cũng như thẩm định những vấn đề mà Ban chấp hành Trung ương sẽ bàn, phục vụ cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết cho từng đồng chí Uỷ viên Trung ương về những vấn đề có liên quan. Về phía các đồng chí Uỷ viên Trung ương cần bố trí thời gian để nghiên cứu tài liệu, tìm hiểu thực tế, để phát huy trí tuệ, đóng góp thiết thực cho các đề án, các chủ trương, chính sách của Đảng.

Page 222: 8160

221

- Phát huy dân chủ trong sinh hoạt chi bộ ở cơ sở

Trong sinh hoạt cần bảo đảm quyền được thông tin đối với đảng viên. Đảng cần có những quy định cụ thể về những tài liệu nào thực sự được coi là “mật”, để cố gắng tối đa cho đảng viên được tiếp cận nhiều nhất với những quyết sách liên quan đến những chủ trương, đường lối quan trọng của Đảng.

Trong nội dung sinh hoạt Đảng cần chú trọng để đảng viên trao đổi, phát hiện những vấn đề từ thực tiễn có ảnh hưởng tới vai trò lãnh đạo của Đảng, từ đó đề xuất với Đảng những giải pháp khắc phục. Đảng viên cần đi sâu, đi sát quần chúng nhân dân, để thông qua những buổi sinh hoạt Đảng, giúp Đảng phát hiện, nắm bắt về tư tưởng, nhu cầu của quần chúng nhân dân.

3.9. Phát huy dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ

3.9.1. Về công tác tổ chức

- Cần phải tiếp tục hoàn thiện thiết chế

Bình thường, thiết chế chính trị như mô hình kim tự tháp, nhưng thật đáng buồn, trên thực tế nó lại là một kim tự tháp lộn ngược! Vậy phải xoay lại như thế nào để nó trở về cái nguyên dạng. Các cấp chính quyền, các cấp bộ Đảng càng đi xuống dưới càng yếu dần. Mạnh là ở cấp Trung ương, xuống cấp tỉnh yếu hơn một chút, xuống cấp huyện lại yếu hơn nữa, xuống đến cơ sở thì lại càng yếu, thậm chí còn có nơi để trống. Phải tập trung nghiên cứu để đổi mới cải tổ lại thiết chế này.

- Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, tránh sự chồng chéo

Mỗi tổ chức chỉ hoạt động có hiệu quả, phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất khi làm rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi bộ phận trong tổ chức và giải quyết tốt phần nhiệm vụ giao nhau giữa các bộ phận.

Để các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả, thì việc đầu tiên là phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, tránh sự chồng chéo, đặc biệt mối quan hệ giữa tổ chức Đảng với tổ chức Nhà nước. Việc xác định không rõ ràng, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ là nguyên nhân gây nên mất dân chủ, mất đoàn kết nội bộ khá trầm trọng và kéo dài ở một số địa phương trong thời gian vừa qua. Đảng phải tiếp tục nghiên cứu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, để mỗi tổ chức phải trở thành chính mình, không bị "lấn sân" và cũng

Page 223: 8160

222

không "lấn sân" sang các tổ chức khác. Mỗi tổ chức sẽ hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, cùng hướng tới mục tiêu chung xây dựng đất nước do Đảng đề ra. Chỉ như vậy, mỗi tổ chức mới phát huy hết trí tuệ của mình, tích cực tham gia xây dựng tổ chức vững mạnh, tăng cường mối quan hệ đoàn kết nhất trí.

Cần sớm thực hiện nhất thể hoá chức danh Bí thư Đảng với chức danh lãnh đạo chính quyền cùng cấp (Tổng Bí thư giữ chức Chủ tịch nước và Bí thư giữ chức Chủ tịch UBND cùng cấp). Nên có những nghiên cứu để một số Ban của Đảng nhập với các Bộ bên Nhà nước (Thí dụ: Uỷ ban Kiểm tra nên nhập với Ban Thanh tra Chính phủ; Ban Tổ chức Trung ương nhập với Bộ Nội vụ...). Như vậy, Đảng cầm quyền mới thực quyền, tránh tình trạng tổ chức bộ máy cồng kềnh, chức năng nhiệm vụ chồng chéo, kém hiệu lực, hiệu quả, dễ gây mất đoàn kết.

- Thực hiện phân cấp, phần quyền rõ ràng giữa các tổ chức

Cần thực hiện phân cấp, phân quyền rõ ràng giữa các tổ chức để chấm dứt tình trạng cấp trên không chấp hành quy định của Điều lệ Đảng về chế độ báo cáo trước cấp dưới, không chịu sự kiểm tra của các tổ chức đã bầu ra mình, cán bộ chủ chốt không chịu lắng nghe những ý kiến trái với ý kiến của mình, thậm chí đàn áp những ý kiến đó.

Theo Điều lệ Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ, Chi bộ là cơ quan lãnh đạo của Đảng giữa hai nhiệm kỳ Đại hội. Nhưng trong thực tế, có ý kiến cho rằng, trong một số trường hợp, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Thường vụ đã vượt quyền của Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ. Uỷ viên Ban Chấp hành trong thực tế chủ yếu là người tiếp thu và truyền đạt ý kiến của Ban Thường vụ, Ban Thường vụ còn ít tôn trọng và lắng nghe ý kiến của các uỷ viên Ban chấp hành, không thường xuyên nghiêm túc báo cáo công việc đã làm trước Ban chấp hành, còn các uỷ viên Ban Chấp hành thì ngoài các kỳ sinh hoạt tập thể, ít phản ánh những ý kiến và kinh nghiệm của mình cho các cơ quan thường trực cấp uỷ. Để khắc phục tình trạng trên cần có quy định rõ về sự phân cấp, phân quyền và xây dựng quy chế quan hệ, phối hợp công tác giữa cấp uỷ cấp trên và cấp dưới, nhằm hướng tới đề cao trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp.

Page 224: 8160

223

Nên quy định thành chế độ tại hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị báo cáo những công việc mình đã giải quyết, những chủ trương, nghị quyết mình đã đưa ra giữa hai kỳ hội nghị Ban Chấp hành trung ương để Ban Chấp hành Trung ương xem xét, chất vấn và phê chuẩn.

Hạn chế những việc Bộ Chính trị quyết định mà Ban Chấp hành Trung ương không được biết. Dù là những việc cơ mật về mặt an ninh, đối ngoại chăng nữa, thì sau một thời gian nhất định, Bộ Chính trị phải báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương, hoặc các uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương có quyền chất vấn và Bộ Chính trị có trách nhiệm giải trình.

Có ý kiến cho rằng, các Ban của Đảng là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ, nhưng trong một số trường hợp đã thoán quyền quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, cấp uỷ. Vì thế, cần phải có sự phân cấp, phân quyền rõ ràng, không để tình trạng lấn quyền, lạm quyền của các Ban Đảng đối với Ban Chấp hành Trung ương và cấp uỷ.

- Dân chủ phải gắn với hoàn thiện chế độ trách nhiệm trong công tác tổ chức cán bộ

Xét về mặt lý luận, quyền hạn phải gắn liền với trách nhiệm, quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn. Tránh tình trạng quyền thì tập trung vào cá nhân còn trách nhiệm thì đổ cho tập thể. Cần tiếp tục nghiên cứu để thể chế chế hoá trách nhiệm của từng vị trí công tác, sao cho các chức vụ càng cao thì càng phải xử lý nghiêm hơn khi có vụ việc xảy ra. Nếu không gắn trách nhiệm với quyền hạn thì dân chủ sẽ khó được phát huy, tình trạng lộng quyền, độc đoán sẽ cơ cơ hội phát triển.

Để đề cao trách nhiệm trong tổ chức, hiện nay đang có nhiều ý kiến cho rằng: bí thư và chủ tịch UBND có nên là một người. Hệ thống tổ chức Đảng và Nhà nước thì là hai; nhưng bí thư và chủ tịch UBND thì nên là một người. Nếu bí thư và chủ tịch là một người thì qui chế hoạt động sẽ rất khác. Có ý kiến sợ để một người đảm nhiệm sẽ không hết việc, sợ chuyên quyền, sợ không ai kiểm tra, v.v.. Nhưng cũng có ý kiến ngược lại: hai người làm mà vẫn không hết việc chính là vì chồng chéo lẫn nhau. Nếu bí thư và chủ tịch chỉ là một người, quyền hạn và trách nhiệm gắn với nhau. Trao trách nhiệm cho cán bộ phụ trách một tỉnh, một huyện. Nếu tỉnh ấy, huyện ấy yếu, kém thì cách chức

Page 225: 8160

224

cả chức bí thư và chức chủ tịch. Tự cơ chế đó nó ràng buộc kiểm tra, thanh lọc cán bộ. Cán bộ muốn giữ được chức vụ thì phải làm tốt, tự mình phải tăng cường kiểm tra, phải uốn nắn những cái lệch lạc trong nội bộ.

- Cần xác định rõ mối quan hệ giữa thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp uỷ và thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức, đơn vị về công tác cán bộ.

Để phân định thẩm quyền và trách nhiệm giữa tập thể cấp uỷ và người đứng đầu tổ chức, đơn vị trong công tác cán bộ cần phân biệt hai quyền cơ bản: quyền đề xuất phương án nhân sự và quyền thảo luận quyết định nhân sự.

Quyền đề xuất phương án nhân sự cần được giao cho người đứng đầu tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý và sử dụng cán bộ. Quyền này bao gồm: quyền nhận xét, đánh giá cán bộ; quyền đề xuất các ứng viên vào các chức vụ bổ nhiệm và quyền đề xuất cách chức miễn nhiệm. Quyền đề xuất phương án nhân sự gắn liền với trách nhiệm của người đứng đầu về các đề xuất tiến cử cán bộ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý (đề xuất đúng cán bộ được xem là thành tích của người đứng đầu. Còn đề xuất sai, gây hậu quả nghiêm trọng, thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm liên đới).

Quyền thảo luận, quyết định các vấn đề về cán bộ là thẩm quyền của tập thể cấp uỷ. Quyền này bao gồm: quyền thảo luận dân chủ về các phương án đề xuất nhân sự do người đứng đầu tổ chức, đơn vị đệ trình; quyền quyết định về nhân sự dựa trên kết quả thảo luận theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.

Nếu các phương án nhân sự do người đứng đầu tổ chức, đơn vị đề xuất để tập thể thảo luận và quyết định không được chấp thuận và thông qua, thì người đứng đầu được quyền hoàn chỉnh, sửa đổi, bổ sung phương án nhân sự hoặc đề xuất phương án nhân sự khác để tập thể cấp uỷ thảo luận và quyết định. Sau hai lần đề xuất mà không được tập thể cấp uỷ thông qua, thì người đứng đầu mất quyền đề xuất phương án nhân sự, giao quyền đó cho tập thể cấp uỷ.

Trước mắt, việc giới thiệu, xem xét, bổ nhiệm cán bộ bên Nhà nước như bộ trưởng, thứ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh... phải giao lại cho Thủ tướng chịu trách nhiệm, vì đó là những cán bộ cấp dưới trực tiếp của Thủ tướng. Bên Đảng chỉ nên đóng vai trò thẩm định, chứ không can thiệp quá sâu vào công tác giới thiệu, tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ như hiện nay.

Page 226: 8160

225

- Cần tăng cường sức mạnh cho các Ban Đảng

Các Ban của Đảng với chức năng chính là tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, cấp uỷ về các chủ trương, đường lối của Đảng, nên nhiệm vụ trọng tâm của các Ban Đảng là nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để có cơ sở tham mưu xây dựng các Nghị quyết của Đảng, do đó phải tập trung sức lực để thực hiện tốt công việc này. Tránh tình trạng các Ban Đảng quá tập trung cho những công việc quản lý mà coi nhẹ công tác nghiên cứu lý luận. Để đảm trách nhiệm vụ đó, đòi hỏi cán bộ ở các Ban Đảng phải là những cán bộ tham mưu giỏi. Cán bộ Ban Đảng có thể không chuyên sâu bằng cán bộ bên Bộ, ngành về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý điều hành tác nghiệp, nhưng phải chuyên sâu hơn về mặt tham mưu chiến lược, đường lối chính trị cho Đảng. Lâu nay, người ta thường nói “tiến vi Bộ, thoát vi Ban”; đó là dấu hiệu của sự sa sút. Nếu được phân công làm phó chủ tịch UBND thì dù chỉ là tỉnh uỷ viên vẫn hơn là được tham gia thường vụ tỉnh uỷ và làm trưởng ban bên Đảng. Không muốn về làm công tác Đảng đó là một tín hiệu rất không vui. Đã từng có một thời vai trò, vị trí các cơ quan Đảng được đánh giá cao, rất thiêng liêng, và có uy tín. Nhưng bây giờ thì không phải như vậy. Đó là dấu hiệu đáng lo ngại của sự sa sút, không chỉ là sự sa sút về tư tưởng của đảng viên, một biểu hiện của trạng thái tâm lý “nhạt Đảng” mà còn là sự sa sút về vai trò của Đảng. Đây là vấn đề mà chúng ta không được xem thường.

Trong thời gian sắp tới để tăng cường sức mạnh cho các Ban Đảng, cần phải tuyển chọn cho được những cán bộ có trình độ tham mưu giỏi về đây. Để làm được việc đó, điều quan trọng là phải có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công tác ở các Ban Đảng, từ đó có chính sách đãi ngộ cho phù hợp. Cán bộ Ban Đảng có trách nhiệm rất nặng, làm nhiệm vụ tham mưu về các chủ trương, đường lối của Đảng cho Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, cấp uỷ, vì thế, nếu bộ phận này tham mưu sai, có thể sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường cho đất nước, địa phương. Trong khi đó, cán bộ ở các Ban Đảng không được hưởng bất cứ một chế độ phụ cấp trách nhiệm nào, điều đó là bất hợp lý, không khuyến khích được cán bộ ở các Ban Đảng và đó cũng là lý do khó có thể thu hút được cán bộ giỏi về công tác tại nơi này. Để tăng cường sức mạnh cho các Ban Đảng, cần đổi mới nhận thức và tạo những điều kiện môi trường công tác thích hợp để cán bộ phát huy được hết khả năng của mình và thu hút được cán bộ có tài về công tác.

Page 227: 8160

226

- Cần có cơ chế xây dựng đội ngũ chuyên gia

Trong tâm lý, văn hoá truyền thống con người Việt Nam từ trước tới nay, thường chỉ trọng địa vị, chức vụ lãnh đạo quản lý. Cả một đời phấn đấu, công tác, người cán bộ, công chức chỉ hướng tới mục tiêu hàng đầu là thăng quan, tiến chức. Có chức vụ, họ được xã hội tôn trọng, nể vị và kèm theo đó là những lợi ích khác, do chính "chiếc ghế" mà họ đang ngồi đem lại. Chính vì thế, chúng ta đã từng để mất đi những chuyên gia, những nhà khoa học, những bác sĩ, những nhà giáo giỏi.. để đổi lấy những nhà lãnh đạo, quản lý trung bình và nhiều khi còn kém cỏi nữa. Hiện nay có thực trạng, Đảng mới tập trung chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và chưa thật chú ý tới đội ngũ nhân tài, chuyên gia. Các Nghị quyết của Đảng như nghị quyết về luân chuyển, nghị quyết về quy hoạch cán bộ, nghị quyết về đào tạo, bồi dưỡng.. và các chính sách đối với cán bộ đều chỉ hướng tới cán bộ lãnh đạo, quản lý. Vấn đề mấu chốt ở đây là trong cơ cấu tổ chức chúng ta chưa thực sự coi trọng những người làm công tác chuyên môn. Sự đóng góp của cán bộ chuyên môn đối với xã hội là rất to lớn, nhưng họ ít được quan tâm. Mọi chính sách đãi ngộ thường hướng tới cán bộ lãnh đạo, quản lý. Vì thế, trong thời gian sắp tới, để phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, cần chú ý sự quan tâm đúng mức hơn tới những cán bộ làm công tác chuyên môn. Sự thiếu dân chủ trong các chính sách như thế (chỉ coi trọng cán bộ lãnh đạo, quản lý), dẫn đến hiện tượng nhiều cán bộ, đảng viên chỉ tập trung hướng phấn đấu để được thăng quan, tiến chức, chứ không coi trọng rèn luyện chuyên môn, nên chúng ta ngày càng thiếu đi những chuyên gia giỏi, chuyên môn sâu trong từng lĩnh vực công tác.

- Để phát huy dân chủ và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, cần giải quyết tốt sự phân hoá về quyền và lợi trong Đảng

Đảng ta là Đảng cầm quyền, nên có sự phân hoá giữa đảng viên có chức có quyền và đảng viên không nắm giữ chức quyền, từ đó dẫn đến việc giữa đảng viên với nhau cũng sợ nhau và sợ đảng viên có quyền hơn mình. Đảng viên cấp dưới sợ đảng viên cấp trên; cấp uỷ viên sợ thường vụ, thường trực; thường vụ, thường trực sợ Bí thư vì đó là những vị trí nắm giữ quyền lực. Trong Đảng, đảng viên nhìn những đồng chí lãnh đạo trong cấp uỷ là thấy có quyền lực, có quyền nhận xét đánh giá cán bộ, đảng viên dưới quyền, cho nên nhất cử nhất động phải cẩn thận, dè chừng. Như vậy, sẽ rất khó có thể phát huy dân chủ trong Đảng, vì không có được sự bình đẳng trong Đảng.

Page 228: 8160

227

Hiện tượng mất dân chủ trong Đảng đã được Nghị quyết Trung ương VI (lần 2) vạch ra có hệ thống và đầy đủ. Nhưng những biểu hiện mất dân chủ trong Đảng cũng mới chỉ là cái phần nổi của vấn đề còn cái phần chìm mới là quan trọng. Trong Đảng đang diễn ra sự phân hoá về địa vị, về lợi ích, về thu nhập: do đó mới dẫn đến sự phân hoá về tư tưởng, mới biểu hiện ra thành tình trạng mất dân chủ. Đằng sau các biểu hiện mất dân chủ là lợi ích và quyền lực, do đó mà sự phân hoá trong Đảng mới là điều đáng lo ngại. Bây giờ có đảng viên có chức, có quyền và nhiều đảng viên không giữ một một cương vị gì, chỉ là đảng viên thường (và số đảng viên thường này ngày càng đông). Trong Đảng đã có sự phân hoá đảng viên giàu, đảng viên nghèo. Từ lâu Phơ-bách đã nói rồi: Người ở trong lâu đài thì tư tưởng suy nghĩ khác với người ở trong túp lều tranh! Cái giới hạn giàu có của người đảng viên đến mức nào thì có thể chấp nhận được cũng cần phải được đặt ra. Nếu không trong Đảng sẽ có sự phân hoá sâu sắc. Trong thời kỳ kháng chiến, thời kỳ bao cấp không có hiện tượng này, không diễn ra mâu thuẫn gay gắt, không có sự xung đột giữa cái chung và cái riêng. Lúc bấy giờ chúng ta rất thanh thản hy sinh cái riêng để phục vụ cái chung. Không ai bận tâm đến cái riêng. Nhưng sang thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế xuất hiện vấn đề, buộc phải giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Đương nhiên, bây giờ chúng ta không thể yêu cầu đảng viên hy sinh tất cả cái riêng để phục vụ cái chung. Cái riêng của đảng viên phải có, nhưng chắc phải khác so với quần chúng bình thường, phải có giới hạn của nó. Còn hiện tượng tham ô, tham nhũng là vì lợi ích cá nhân bất chính mà phá hoại sự nghiệp chung. Chúng ta cần phải tìm phương hướng, biện pháp giải quyết về mặt lý luận mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung của người đảng viên bây giờ như thế nào cho thật thoả đáng.

3.9.2. Về công tác cán bộ

Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng. V.I. Lênin chỉ rõ: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào"70. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng ta nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng yêu cầu 70 V.I.Lênin toàn tập, Nxb.Tiến bộ, t.4, Matxcơva, 1978, tr 473.

Page 229: 8160

228

của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, để xây dựng một Nhà nước pháp quyền, một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, không những đòi hỏi phải có một Đảng vững mạnh, có đường lối lý luận chính trị cơ bản, một phương thức lãnh đạo đúng đắn, mà còn phải có một đội ngũ cán bộ có tố chất cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên quyết chấp hành các đường lối, phương châm, chính sách của Đảng. Để có được một đội ngũ cán bộ như vậy, Đảng phải thực sự phát huy dân chủ trong các mặt của công tác cán bộ như đánh giá, tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cán bộ... Dân chủ trong công tác cán bộ tức là phải thực hiện việc công khai, công bằng trong các mặt của công tác cán bộ, hết sức tránh việc “khép kín”, “tù mù” trong công tác này, vì đó chính là nguyên nhân cho việc chạy chức, chạy quyền, làm giảm chất lượng của đội ngũ cán bộ, ảnh hưởng tới uy tín lãnh đạo của Đảng trước quần chúng nhân dân.

- Cần thực hiện công khai, minh bạch trong công tác cán bộ

Cần tiếp tục hoàn thiện các quy chế, chế độ để thực hiện việc công khai hoá các hoạt động của Đảng, trong đó việc quan trọng hàng đầu là thực hiện công khai hoá kịp thời các đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng để mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân được biết để tổ chức thực hiện có hiệu quả và kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện ấy. Cần thực hiện công khai hoá, minh bạch hoá trong công tác đánh giá, tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật.. cán bộ, tạo cơ hội "cạnh tranh" bình đẳng cho mọi cán bộ, đảng viên. Tránh sự độc đoán, chuyên quyền, thiếu dân chủ trong công tác cán bộ. Chỉ dân chủ hoá công tác cán bộ mới có thể tìm hiểu, đánh giá cán bộ được đúng, mới có thể phát hiện và sử dụng được nhân tài, tránh được bọn cơ hội, xu thời chui luồn vào Đảng, tăng cường đoàn kết nội bộ, tạo không khí tích cực và tin cậy của đội ngũ cán bộ đối với cấp lãnh đạo. Chẳng hạn, những quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm nên công bố công khai cho nhân dân được biết để giám sát kiểm tra và phát hiện, nếu đảng viên có sai phạm. Trong công tác đánh giá, bổ nhiệm cán bộ nếu công khai hoá các tiêu chuẩn và quy trình đánh giá bổ nhiệm vào từng vị trí, chức danh thì cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân có thể theo dõi, giám sát quá trình triển khai công việc ấy, từ đó hạn chế được những tiêu cực. Thực tế cho thấy, khi mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân được biết và nắm vững các chủ trương, chính sách của Đảng, thì khi triển khai sẽ gặp nhiều

Page 230: 8160

229

thuận lợi, được mọi người đồng tình và ủng hộ. Việc công khai các hoạt động của Đảng có thể tiến hành thông qua việc tuyên truyền trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình... và trong những năm sắp tới việc công khai trên mạng sẽ đóng vai trò quan trọng. Do đó việc đầu tư nâng cấp cho mạng điện tử của Đảng sẽ là rất cần thiết, tạo điều kiện cho mọi cán bộ đảng viên nhanh chóng nắm bắt những hoạt động của Đảng và có thể góp ý kiến, hiến kế cho Đảng về các mặt công tác của Đảng. Trong điều kiện Đảng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, nhiều vấn đề đang đặt ra đòi hỏi Đảng phải sáng suốt lựa chọn các giải pháp để phát triển đất nước thi công khai hoá, minh bạch hoá hoạt động của Đảng là một yếu tố vô cùng cần thiết để xây dựng Đảng vững mạnh.

- Xây dựng chế độ cán bộ, đảng viên phải bám sát thực tiễn để khắc phục quan liêu

Mỗi cán bộ, nhất là người lãnh đạo, cần đi sâu, đi sát thực tế, hiểu thấu tâm trạng nhân dân, tổng kết thực tiễn, xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với đòi hỏi khách quan của cuộc sống.

Tăng cường những cuộc cán bộ lãnh đạo kiểm tra cấp dưới chấp hành nghị quyết của Trung ương và cấp trên; tiếp xúc đối thoại với đảng viên và quần chúng, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của họ; phát hiện những điển hình tốt; sơ kết, tổng kết kinh nghiệm để bồi bổ kiến thức ngay cho lãnh đạo. Không chỉ dựa vào cơ quan tham mưu mà chính cán bộ lãnh đạo cần tiến hành công việc nghiên cứu kiểm tra này.

Cán bộ cấp uỷ có chương trình kiểm tra, nghiên cứu từng thời gian và phân công các cán bộ lãnh đạo đích thân làm việc này. Các cuộc họp cấp uỷ không nên chỉ toàn để bàn và ra nghị quyết, nhiều khi cái sau lặp lại cái trước. Dành một số cuộc họp cấp uỷ để nghe báo cáo kết quả các cuộc kiểm tra, nghiên cứu đánh giá tình hình, có chủ trương nghiên cứu thiết thực. Căn cứ vào Hội nghị cấp uỷ, quy định mọi cấp uỷ viên phải dành một số thời gian đi nghiên cứu thực tế để có cơ sở đóng góp trí tuệ vào việc soạn thảo nghị quyết của cấp uỷ.

Thực tiễn công cuộc đổi mới đang không ngừng vận động và phát triển, nhiều vấn đề mới đang đặt ra đòi hỏi có nhận định và kết luận đúng đắn. Tăng cường những cuộc điều tra nghiên cứu thực tế, tiếp xúc đối thoại với đảng viên và quần chúng, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của họ, phát hiện những điển hình

Page 231: 8160

230

tốt, những nhân tố mới, tổng kết kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện đường lối chính sách cũng như bồi bổ kiến thức cho lãnh đạo. Khắc phục lối lãnh đạo theo cảm tính, chủ quan, duy ý chí. Nên giảm bớt các cuộc đi thăm hỏi động viên mang tính tuyên truyền hình thức, phô trương, lãng phí. Cần có sự đổi mới mạnh mẽ cách thức đi cơ sở của cán bộ, không nên có báo trước để cơ sở chuẩn bị đón tiếp, như thế mới nắm được thông tin thật từ cuộc sống thực tiễn.

- Để tăng cường đoàn kết và nâng cao hiệu quả công việc, đã đến lúc cần nghiên cứu để có quyết định về vấn đề "êkip" lãnh đạo.

Thông thường, sau khi được bầu hay bổ nhiệm, người lãnh đạo tổ chức cần được trao quyền và chịu trách nhiệm hình thành bộ máy nhân sự của mình. Trước hết, người lãnh đạo sẽ xây dựng “êkíp” lãnh đạo giúp việc, đó là đội ngũ lãnh đạo các bộ phận chủ chốt trong tổ chức. “Êkíp” lãnh đạo là một nhóm cán bộ lãnh đạo thống nhất với nhau về mục tiêu, lợi ích và tương hợp về tâm lý. “Êkíp” hoạt động đồng bộ, ăn khớp và đem lại hiệu quả cao cho tổ chức, cơ quan, đơn vị. Như vậy, ở đây cần phân biệt “êkíp” không phải là sự tập hợp chỉ những người tương hợp với nhau về mặt tâm lý, mà điều chủ yếu là sự thống nhất về mục tiêu, lợi ích và đủ năng lực đảm đương công việc, đem lại hiệu quả cao cho các hoạt động của tổ chức. Tránh tình trạng thành lập “êkíp” lãnh đạo theo kiểu “liên minh cánh hẩu”, chỉ tập hợp những người hợp với mình, luôn ủng hộ mình, thân thiết với mình mà không chú ý tới năng lực thực sự của người đó có hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị hay không. Vấn đề êkíp lãnh đạo có liên quan chặt chẽ đến phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, vì thế cần có sự nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề này, để phát huy những mặt mạnh và khắc phục những hạn chế của cơ chế "êkíp".

Dân chủ trong công tác cán bộ trước hết là phải thực hiện công khai hoá, minh bạch hoá trong từng khâu của công tác cán bộ.

- Dân chủ trong công tác tuyển dụng cán bộ

Tuyển dụng cán bộ là một công việc của công tác tổ chức, nhằm thực hiện việc tuyển chọn nhân sự đáp ứng các yêu cầu của công việc trong mỗi tổ chức. Hiện nay công tác tuyển dụng cán bộ vẫn được thực hiện thông qua chế độ thi tuyển cán bộ là chủ yếu. Kết quả của đợt thi tuyển này là căn cứ quan trọng để xem xét và tuyển dụng cán bộ vào những vị trí công việc khác nhau

Page 232: 8160

231

trong tổ chức. Để phát huy dân chủ trong công tác tuyển dụng, cần bảo đảm một số yêu cầu sau:

+ Cần thực hiện công khai trong thi tuyển dụng: Mọi khâu trong quy trình thi tuyển đều phải được công khai để mọi người dự thi được biết.

+ Cần bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội cho mọi người tham gia thi tuyển. Đưa cơ chế cạnh tranh vào trong thi tuyển sẽ tạo ra sự tranh đua bình đẳng để những người tài trổ hết tài năng, và đó sẽ là cơ hội để bộ phận tổ chức nhân sự tìm ra được người giỏi nhất, thích hợp nhất đối với từng vị trí công việc.

+ Cần bảo đảm tuyển chọn được cán bộ có chất lượng theo đúng yêu cầu của từng công việc trong tổ chức.

Nếu trong kỳ thi tuyển không có người nào đạt được những yêu cầu đề ra, thì nên tổ chức một kỳ thi khác ở một thời điểm khác, chứ quyết không chọn người yếu kém vào điều hành các công việc của tổ chức.

+ Cần giám sát chặt chẽ thời gian thử việc trước khi tuyển dụng chính thức cán bộ.

+ Cần thể chế hoá quy trình tuyển dụng cán bộ.

+ Cần xây dựng quy chế tuyển chọn hiệu quả người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị có vai trò quyết định tới sự phát triển của một tổ chức, trung tâm của khối đoàn kết thống nhất và phát huy dân chủ trong nội bộ. Chính vì thế, việc xây dựng quy chế để lựa chọn người đứng đầu bảo đảm các yêu cầu của chức danh là công việc rất quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng hiện nay.

- Dân chủ trong nhận xét đánh giá cán bộ

Định kỳ, cơ quan lãnh đạo tiến hành nhận xét, đánh giá cán bộ một cách công khai, dân chủ trực tiếp. Đây là dịp cơ quan lãnh đạo tiếp xúc với cán bộ, nghe họ tự phê bình và lãnh đạo chân thành trực tiếp nhận xét ưu khuyết điểm, chỉ ra cái mạnh, cái yếu của họ, tạo nên sự thông cảm, tin cậy lẫn nhau. Tránh tình trạng lãnh đạo họp riêng nhận xét cán bộ, mà người đó không có mặt, cũng tránh tình trạng lãnh đạo chỉ lấy phiếu kín đánh giá mà không trên cơ sở nhận xét kết quả hoàn thành nhiệm vụ, phân tích ưu điểm, khuyết điểm của cán bộ một cách cụ thể và công khai.

Page 233: 8160

232

Để đánh giá đúng cán bộ, trước hết cần xây dựng tiêu chí đánh giá cán bộ và công khai các tiêu chí này cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân biết. Tiêu chí đánh giá "phải lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ", cụ thể là cần đánh giá toàn diện, nhưng phải dựa trên tiêu chuẩn, nhiệm vụ cụ thể của từng chức danh. Như vậy, tiêu chí đánh giá không thể chung chung cho mọi chức danh, mà phải rất cụ thể đối với từng vị trí công tác. Khi đánh giá cũng phải dựa vào các tiêu chí này để đánh giá từng cán bộ.

Người lãnh đạo và người làm công tác tổ chức cán bộ cần có trình độ, kiến thức, hiểu và đánh giá được công việc của cán bộ mà mình quản lý, theo dõi, lại cần có phong cách làm việc dân chủ, gần gũi cán bộ, được sự tin cậy của cán bộ. Người làm công tác cán bộ không nên chủ yếu chỉ đi dự các cuộc hội nghị tiếp xúc, đánh giá cán bộ qua các cuộc họp, mà cần đi sâu tìm hiểu hiệu quả công việc người đó đảm nhiệm thế nào, lắng nghe người cán bộ đó và ý kiến rộng rãi của cấp trên, cấp dưới của đồng cấp và của nhân dân.

Cần có quy định rõ về mục đích của lấy phiếu tín nhiệm trong đánh giá cán bộ. Hiện nay phiếu tín nhiệm được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, nhiều khi giá trị pháp lý không rõ nên sử dụng còn tuỳ tiện. Đánh giá cán bộ thường nhằm nhiều mục đích: để bổ nhiệm cán bộ; để đưa cán bộ vào quy hoạch; để khen thưởng...và tương ứng với mỗi mục đích ấy lại có các tiêu chí đánh giá khác nhau. Chính vì thế, việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ cũng phải tuỳ từng trường hợp cụ thể để rút ra những nhận định xác đáng phụ thuộc vào mục đích đánh giá. Trong một tập thể mất đoàn kết, thì số phiếu tín nhiệm đối với cán bộ cần được xem xét, đánh giá ở nhiều phương diện khác nhau, chứ không thể dùng số phiếu để đánh giá cán bộ đó là tốt hay xấu, có năng lực hay không có năng lực lãnh đạo. Cần có quy định pháp lý rõ ràng trong việc dùng phiếu tín nhiệm đối với từng trường hợp cụ thể, tránh việc dùng phiếu tuỳ tiện vào nhiều mục đích khác nhau.

Đánh giá cán bộ phải dựa trên việc thu thập đầy đủ thông tin về cán bộ, trong đó cần lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân về cán bộ. Phát biểu tại lễ kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đặc biệt lưu ý phải đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ "phải lắng nghe ý kiến của nhân dân để có thể đánh giá và lựa chọn đúng những cán bộ có

Page 234: 8160

233

tinh thần tiên phong, gương mẫu, kiên định mục tiêu, lý tưởng, có đạo đức trong sáng, có trình độ năng lực, dám làm, dám chịu trách nhiệm".

- Dân chủ trong công tác quy hoạch cán bộ

Dân chủ trong công tác quy hoạch cán bộ là bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với công khai hoá, thực hiện đầy đủ trách nhiệm cá nhân. Quy hoạch cán bộ không chỉ bó hẹp trong phạm vi nội bộ cơ quan, đơn vị hay địa phương mà cần kết hợp quy hoạch ngành với quy hoạch của các địa phương, gắn quy hoạch của cấp trên với quy hoạch của cấp dưới. Từ đó tạo cơ chế bình đẳng cho cán bộ có điều kiện phấn đấu trưởng thành. Do đó công khai quy hoạch cán bộ là cần thiết, tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia phát hiện, giới thiệu và giám sát cán bộ, ngăn ngừa những sai phạm, tiêu cực trong công tác cán bộ. Công khai quy trình, phương pháp quy hoạch cán bộ, đảng viên căn cứ vào tiêu chuẩn mà phấn đấu, rèn luyện. Công khai quy hoạch cán bộ còn là yếu tố để bảo đảm sự tham gia đóng góp của quần chúng nhân dân đối với quá trình quy hoạch cán bộ.

Để tạo ra sự bình đẳng cho nhiều người tham gia và tạo thế cạnh tranh lành mạnh, không nên quy hoạch một, hai người cụ thể cho một chức danh, mà nên nghiên cứu để quy hoạch theo tiêu chuẩn chức danh. Nghĩa là, những cán bộ nào có đủ các tiêu chuẩn của một chức danh nào đó, đều có thể ở trong quy hoạch. Như vậy, chúng ta mở rộng cửa cho nhiều cán bộ tham gia và tạo cơ hội cạnh tranh chức vụ cho nhiều người, đồng thời, tránh được một số hạn chế của cách quy hoạch hiện nay: một số cán bộ không ở trong quy hoạch có thể mất động lực phấn đấu, dẫn đến làm việc cầm chừng; ở những cơ quan, đơn vị nội bộ mất đoàn kết, cán bộ ở trong quy hoạch dễ bị chĩa mũi nhọn, bị gièm pha, nói xấu, bôi nhọ làm ảnh hưởng tới ý chí phấn đấu của cán bộ.

Trước khi bổ nhiệm chính thức chức vụ, cần có chế độ "thử chức" cán bộ trong quy hoạch, nghĩa là, cán bộ được giao làm thử công việc của chức vụ dự kiến sẽ bổ nhiệm trong một khoảng thời gian nhất định (từ 1 đến 2 năm). Trong suốt quá trình "thử chức", người cán bộ đó sẽ được tổ chức, cán bộ, đảng viên và nhân dân theo dõi, giám sát và đánh giá. Sau thời gian "thử chức", nếu cán bộ được đánh giá tốt, nghĩa là đảm đương tốt chức vụ, thì sẽ được bổ nhiệm chính thức.

Page 235: 8160

234

Phải xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Văn kiện Đại hội Đảng X có nêu: "Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là xây dựng cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ thống chính trị"71. Vì thế xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược là đòi hỏi cấp thiết từ thực tế công tác chuẩn bị cán bộ cấp chiến lược trong những năm vừa qua. Cứ đến mỗi kỳ Đại hội Đảng là chúng ta lại lúng túng về công tác nhân sự, vì công tác quy hoạch cán bộ cấp chiến lược hầu như không được công khai thực hiện. Cần sớm tuyển chọn và đưa vào quy hoạch các cán bộ cấp chiến lược, đặc biệt những chức danh như Tổng bí thư, Thủ tướng, chủ tịch Quốc hội và cần được công khai để toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân được biết.

Ngoài quy hoạch cán bộ chuẩn bị cho những năm sắp tới, cần có quy hoạch tạo nguồn xa hơn (10-15 năm tới). Sớm phát hiện và đưa những cán bộ trẻ có triển vọng đi đào tạo, rèn luyện, thử thách, để chúng ta luôn có một đội ngũ cán bộ kế cận dồi dào, đủ năng lực và phẩm chất, tiếp tục đưa sự nghiệp của Đảng vững vàng tiến lên phía trước.

- Dân chủ trong công tác bổ nhiệm cán bộ.

Công tác bổ nhiệm đề bạt, miễn nhiệm cần được tiến hành công khai, dân chủ, tạo sự bình đẳng trong “cạnh tranh” chức vụ. Mỗi cán bộ trong tổ chức và ngoài xã hội đều có quyền tham gia ứng cử hay được tiến cử vào các vị trí lãnh đạo trong tổ chức. Mọi vấn đề có liên quan tới các ứng viên và tiêu chuẩn của các chức vụ, quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm cần được niêm yết công khai để quần chúng nhân dân được biết. Quần chúng có quyền góp ý kiến và giám sát quá trình thực hiện quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm. Tránh cách làm bưng bít, khép kín trong một bộ phận lãnh đạo với nhau hay bổ nhiệm, miễn nhiệm theo cảm tình chủ quan của người lãnh đạo tổ chức, gây nên sự dị nghị, những phản ứng tiêu cực từ phía quần chúng nhân dân.

Phát huy trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức. Người đứng đầu tổ chức là người chịu trách nhiệm chính về mọi mặt hoạt động của tổ chức. Mỗi bộ phận trong tổ chức hoạt động có hiệu quả đều góp phần thúc đẩy sự phát triển của tổ chức. Vì thế, lựa chọn người đứng đầu giỏi ở mỗi bộ phận luôn là trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức. Một tập thể lãnh đạo giỏi, thống nhất

71 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, H,tr.298.

Page 236: 8160

235

đoàn kết sẽ tạo ra sức mạnh cho tổ chức, còn ngược lại, mất đoàn kết, không thống nhất trong bộ phận lãnh đạo sẽ là lực cản đối với sự phát triển nói chung. Chính điều này cần tạo ra một cơ chế để người đứng đầu tổ chức có thể tham gia trực tiếp vào quá trình tuyển chọn đề bạt hay miễn nhiệm người cán bộ lãnh đạo dưới quyền. Tránh tình trạng, người đứng đầu tổ chức chỉ là người ký quyết định cuối cùng mà không có quyền lựa chọn bổ nhiệm hay bãi miễn chức vụ người cán bộ lãnh đạo dưới quyền, giúp việc cho mình. Kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện theo quy trình, dân chủ công công khai với việc nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức sẽ làm cho công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm ngày một hiệu quả hơn.

Cần phát huy dân chủ trong bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của tổ chức, chi phối, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, nhân viên trong đơn vị. Chính vì thế, các cán bộ, nhân viên trong tập thể phải được quyền tham gia bầu hay bày tỏ ý kiến về người lãnh đạo tập thể của mình. Thực tế hiện nay, nếu bổ nhiệm người trong đơn vị, thì có quy trình thăm dò, lấy ý kiến của cán bộ, quần chúng. Nhưng trong trường hợp ở đơn vị không có ai đủ tiêu chuẩn, thì cấp trên trực tiếp bổ nhiệm người đứng đầu ở nơi khác về. Theo quy trình này, những cán bộ ở cơ quan, đơn vị không được tham khảo ý kiến, mặc nhiên phải chấp nhận người đứng đầu do cấp trên bổ nhiệm về. Nếu người lãnh đạo đó giỏi thì may mắn, còn nếu người lãnh đạo đó yếu kém thì tập thể đó phải hứng chịu, còn cấp trên (nơi bổ nhiệm) thì vô can. Rõ ràng quy trình này thể hiện cách làm thiếu dân chủ, áp đặt của cấp trên, chưa phát huy được quyền của cấp dưới (chọn lựa và có ý kiến về người lãnh đạo của mình) và đó cũng là kẽ hở cho những kẻ chạy chức, chạy quyền để được cấp trên bổ nhiệm. Cần có quy chế ràng buộc trách nhiệm, nếu cán bộ được bổ nhiệm về không hoàn thành nhiệm vụ thì cấp ký quyết định bổ nhiệm phải chịu trách nhiệm liên đới. Đồng thời, sau một năm cần tổ chức lấy phiếu tín nhiệm về người được bổ nhiệm. Nếu số phiếu thấp, thì cấp có thẩm quyền cần tìm người khác thay thế.

Để nâng cao trách nhiệm trong đề bạt, bổ nhiệm cần có quy chế chặt chẽ hơn, như trong hồ sơ cần ghi rõ người giới thiệu, tiến cử, nội dung các nhận xét, tập thể biểu quyết ai đồng ý, ai không đồng ý... Có như vậy, sau này nếu

Page 237: 8160

236

người được đề bạt không hoàn thành nhiệm vụ, thì những người giới thiệu cũng phải chịu trách nhiệm liên đới.

Đổi mới, đan xen các thế hệ cán bộ lãnh đạo. Trong công tác bổ nhiệm cần chú ý tới cơ cấu cán bộ lãnh đạo, trong đó sự đan xen các thế hệ cán bộ lãnh đạo là rất cần thiết. Sự kết hợp đan xen giữa các thế hệ cán bộ lãnh đạo sẽ là cơ hội để các thế hệ bù lấp những điểm yếu cho nhau và phát huy những mặt mạnh nhằm tạo ra một tập thể lãnh đạo luôn có sức sống, có kế thừa, bổ sung cho nhau, tránh được tình trạng hẫng hụt cán bộ lãnh đạo giữa các thế hệ.

Để phát huy dân chủ trong công tác bổ nhiệm và miễn nhiệm cần chú ý một số vấn đề sau:

+ Cần chống lại những tư tưởng khép kín, “tù mù” trong công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm. Cần đề cao quan niệm công khai, dân chủ, bảo đảm tính trong sáng trong công tác đề bạt và miễn nhiệm cán bộ. Việc bưng bít trong công tác bổ nhiệm đề bạt, miễn nhiệm đi ngược lại với chủ trương của Đảng, là nguyên nhân nảy sinh những hành vi xấu như biếu xén, quà cáp, mua chuộc, làm cho công tác đề bạt cán bộ không đảm bảo chất lượng, ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của tổ chức. Nhằm hạn chế những tiêu cực phát sinh, cần tăng cường phát huy dân chủ, công khai hoá, tạo điều kiện để mọi quần chúng nhân dân có thể biết, tham gia và giám sát quá trình thực hiện công tác này.

+ Cần kiên quyết chống lại cách làm xuất phát từ quan niệm dòng dõi, đồng hương, bè phái, lấy người vì ân huệ cá nhân, lấy chức vụ làm vật ban ơn, khen thưởng, gây bè, kéo cánh. Chống lại những thủ đoạn chạy chức, chạy quyền, móc ngoặc, đi cửa hậu nhằm đạt được mục tiêu có được chức vụ. Cán bộ giữ các cương vị lãnh đạo phải từ bỏ tư tưởng ân oán cá nhân và những ý nghĩ tư lợi trong công tác đề bạt bổ nhiệm và miễn nhiệm, lấy công việc làm trọng, để chọn được người thực sự có đức, có tài. Cần tôn trọng và thực hiện đúng quy trình bổ nhiệm và miễn nhiệm theo pháp luật đã quy định.

+ Phải chống lại quan niệm “sống lâu lên lão làng” trong công tác đề bạt cán bộ. Phải lấy tiêu chuẩn của chức vụ để tìm người thích hợp nhất. Không quá chú trọng vào số nhiệm kỳ trong cấp uỷ, số năm công tác, mà phải căn cứ vào trình độ kiến thức, năng lực thực tiễn, phẩm chất đạo đức để xem xét đề bạt cán bộ. Tạo ra cơ hội bình đẳng cạnh tranh vào các chức vụ cho mọi cán

Page 238: 8160

237

bộ, từ đó khuyến khích mọi người tích cực trổ hết tài năng, phấn đấu vươn lên trong công việc.

3.10. Nâng cao chất lượng Đại hội Đảng các cấp, bảo đảm phát huy dân chủ và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng

Đại hội Đảng toàn quốc và Đại hội Đảng bộ các cấp phải thật sự là nơi kết tinh cao nhất trí tuệ của toàn Đảng và từng Đảng bộ. Hồ Chí Minh đã từng nói: "Đại hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và của nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí càng nhất trí hơn nữa. Cho nên, toàn thể đồng chí ta phải thảo luận kỹ càng các đề án và đóng góp ý kiến dồi dào, để đảm bảo Đại hội thành công thật tốt đẹp"72

- Phát huy dân chủ trong tiến trình Đại hội

Cần đổi mới cách thức điều hành Đại hội Đảng để Đại hội không chỉ chú ý trọng tâm vào bầu cử nhân sự, mà phải dành thời gian thích đáng để đại biểu tập trung thảo luận, tranh luận kỹ những vấn đề lớn trong Nghị quyết. (Trong bài phỏng vấn đồng chí Trần Lưu Hải, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương về vấn đề Đại hội Đảng bộ cơ sở trực tiếp bầu Ban thường vụ, Bí thư, Phó bí thư trong thời gian vừa qua, đã chỉ rõ: "Thời gian dành cho thảo luận báo cáo của đảng bộ mình và tham gia đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện của đại hội đảng bộ cấp trên còn ít, phần lớn là xen kẽ trong thời gian kiểm phiếu. Các bài tham luận đều được chuẩn bị trước và hầu hết còn kể nhiều về thành tích của địa phương, đơn vị nên chưa tạo được không khí thảo luận, tranh luận về những vấn đề quan trọng tại đại hội"73). Đoàn chủ tịch Đại hội phải nắm vững tình hình thực tế, có thời gian suy nghĩ về các phương án và ý kiến khác nhau, tổ chức việc thảo luận trong hội nghị phải thật sự dân chủ, cởi mở, và có kết luận rõ ràng, không bị ràng buộc bởi một áp lực nào. Việc kết luận, biểu quyết các vấn đề phải trên cơ sở phân tích rõ ý kiến đúng sai; nghị quyết của Hội nghị phải được tập thể thông qua một cách thật sự dân chủ, tránh chủ quan, phiến diện. Nghị quyết của Đại hội phải là sản phẩm kết tinh trí tuệ sáng tạo của tập thể, của những người am hiểu vấn đề, của đông đảo đảng viên và quần chúng, để giải quyết những vấn đề then chốt, cấp thiết nhất của cuộc sống. 72 Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 10, tr.119 73 Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6/2010, tr.36.

Page 239: 8160

238

Những vấn đề trong Nghị quyết của Đảng có liên quan đến đất nước, dân tộc, vì thế ngoài việc xin ý kiến đóng góp của nhân dân vào nghị quyết, có thể công khai trên truyền hình các cuộc thảo luận, tranh luận trong Đại hội để quần chúng nhân dân được biết.

- Phát huy vai trò, trách nhiệm của Đại biểu Đại hội trong suốt nhiệm kỳ Đại hội.

Theo Điều lệ Đảng ghi rõ: "Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên". Vì thế, cần nghiên cứu để có thể phát huy vai trò và trách nhiệm của đại biểu Đại hội Đảng không chỉ trong quá trình diễn ra Đại hội mà còn trong suốt thời gian giữa hai nhiệm kỳ Đại hội. Nên nghiên cứu để tiếp tục duy trì hoạt động và trách nhiệm của mỗi đoàn đại biểu sau Đại hội Đảng. Để làm việc đó, mỗi đoàn đại biểu có thể thành lập bộ phận Thường trực của mình ở địa phương để làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát những uỷ viên trong cấp uỷ do mình bầu ra, việc triển khai Nghị quyết của các tổ chức Đảng và định kỳ báo cáo những ý kiến phản hồi từ thực tiễn. Mỗi đại biểu có trách nhiệm trước Đảng trong suốt nhiệm kỳ Đại hội về mọi mặt công tác phát triển Đảng và xây dựng chính quyền ở địa phương. Trong trường hợp đặc biệt, nếu cần thông qua những quyết sách lớn, quan trọng của Đảng, hoặc có những vấn đề chưa có sự nhất trí giữa Bí thư, Ban chấp hành và Uỷ ban Kiểm tra, thì có thể triệu tập Hội nghị toàn thể đại biểu bất thường để xem xét và quyết định.

Để thực hiện có hiệu quả chủ trương này, cần phải xây dựng quy chế về trách nhiệm và quyền hạn của Đại biểu Đại hội Đảng trong và sau Đại hội Đảng.

3.11. Phát huy dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng

- Tiếp tục hoàn thiện chế độ kiểm tra, giám sát dân chủ trong Đảng

Kiểm tra, giám sát dân chủ trong Đảng là hoạt động kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các đảng viên, các tổ chức đảng và đảng viên với tổ chức đảng. Nhiệm vụ chủ yếu của kiểm tra, giám sát dân chủ là kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên trong việc quán triệt và chấp hành các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; việc tuân thủ nghiêm túc các quy định của nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện các nghĩa vụ của đảng viên và trách nhiệm của các tổ chức đảng. Kiểm tra, giám sát dân chủ trong Đảng bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Kiểm tra, giám sát phát ngôn, hoạt động của mỗi đảng viên,

Page 240: 8160

239

tổ chức đảng theo Điều lệ Đảng, nhằm bảo đảm để đảng viên và tổ chức đảng thực hiện đúng quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm theo đúng Điều lệ Đảng đã quy định; Kiểm tra, giám sát việc thi hành kỷ luật của đảng viên và tổ chức đảng, nhằm bảo đảm để đảng viên nhất trí với các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; Tập trung việc kiểm tra, giám sát dân chủ đối với các cơ quan và cán bộ lãnh đạo của Đảng, nhằm kiểm soát quyền lực, ngăn chặn lạm dụng quyền lực, khiến cơ quan và cán bộ lãnh đạo phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; Giám sát thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ: các quyền của đảng viên có được tôn trọng, bảo đảm hay không, có biểu hiện của sự thiếu tập trung và dân chủ cực đoan trong các hoạt động của Đảng không; Giám sát tư tưởng, tác phong trong công tác và trong sinh hoạt của các tổ chức đảng và đảng viên, ngăn chặn những biểu hiện không lành mạnh như chủ nghĩa quan liêu, dân chủ hình thức, mưu lợi cá nhân và các hiện tượng tham nhũng.

Phương pháp kiểm tra, giám sát trong Đảng theo một số hình thức sau: thông qua các hội nghị Đảng bộ các cấp và các buổi sinh hoạt dân chủ tại các tổ chức đảng; thông qua sinh hoạt phê bình, tự phê bình, bình xét thi đua trong Đảng; thông qua tố giác, tố cáo, khiếu nại; thông qua các cuộc điều tra của Uỷ ban kiểm tra Đảng các cấp.

- Tăng cường vị trí, vai trò, trách nhiệm của Uỷ ban Kiểm tra Đảng

Muốn phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, ngoài việc phải xây dựng các quy chế, chế độ dân chủ trong Đảng, còn phải tăng cường làm tốt công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, để ngăn ngừa tình trạng độc quyền, mất dân chủ trong Đảng. Để không một đảng viên nào, kể cả những chức vụ cao nhất của Đảng, được đứng ngoài sự kiểm tra, giám sát, cần tăng cường vị thế, vai trò của Uỷ ban kiểm tra Đảng các cấp. Cùng với việc sửa đổi chức năng, nhiệm vụ, trao thêm nhiều quyền hạn và trách nhiệm, thì ngay tại Đại hội Đảng, Uỷ ban Kiểm tra cần được toàn thể đại biểu Đại hội Đảng bầu trực tiếp.

- Công khai hoá, minh bạch hoá các hoạt động về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Xử lý công khai, minh bạch các vụ vi phạm trong Đảng .

Đảng phải nêu gương cho xã hội về tính nghiêm túc, minh bạch trong xử lý khuyết điểm, lỗi lầm của mọi cán bộ đảng viên khi mắc phải, bất kể người

Page 241: 8160

240

đó là ai, giữ cương vị gì, trước đó có công trạng như thế nào. Chỉ một điều rất rõ ràng: nếu đảng viên và người ngoài Đảng cùng mắc lỗi lầm như nhau thì đảng viên phải bị xử lý nặng gấp nhiều lần, nhưng không phải dễ thực hiện, nếu Đảng không tự mình công tâm, nghiêm khắc với chính mình, không đề cao trách nhiệm trước dân và trước xã hội. Muốn giữ nghiêm kỷ cương phép nước như một chuẩn mực của nhà nước pháp quyền và văn minh chính trị, mọi tổ chức Đảng và mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh thi hành trước. Mọi lệch lạc, lộn xộn, làm suy yếu luật, làm lỏng lẻo quản lý nhà nước đều có nguyên nhân từ chỗ trong Đảng không nghiêm, không đảm bảo công bằng, bình đẳng khi xử lý sai phạm đối với cán bộ đảng viên, hoặc tuỳ tiện xử lý nội bộ, hoặc bao che, dung túng cho nhau, nể nang cảm tình, thiên vị cá nhân, hoặc tổ chức Đảng đã suy yếu tính Đảng, tê liệt sức chiến đấu, không có dũng khí đấu tranh phê bình, không giữ được tính nhất quán, dẫn đến phá vỡ nguyên tắc trong Đảng, như điều đã xảy ra ở không ít nơi. Khi Đảng đã cầm quyền, những yếu kém, suy thoái trong Đảng đều gây ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội, tới nhà nước, tới các công dân và tới mọi người dân.

Tránh việc "xử lý nội bộ", phải minh bạch, không có góc khuất trong xem xét thi hành kỷ luật cán bộ. Có một số vụ việc do xử lý không đến nơi đến chốn, không giải quyết dứt điểm, không có kết luận rõ ràng, nên đã gây bất bình trong dư luận. Cần xử lý công khai, minh bạch các vụ vi phạm kỷ luật trong Đảng, thông báo công khai kết luận kỷ luật để toàn thể cán bộ, đảng viên được biết.

- Cần xây dựng cơ chế để mọi đảng viên, đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát, không có ngoại lệ

Quyền lực không bị giám sát sẽ nảy sinh nhiều tiêu cực. Trong hoạt động của Đảng, các tổ chức, cán bộ đảng viên, đặc biệt cán bộ lãnh đạo của Đảng đều phải chịu sự giám sát, chống tệ sùng bái cá nhân bất cứ hình thức nào. Để Đảng giữ được vị trí cầm quyền, mọi đảng viên đều toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, thì một biện pháp hữu hiệu đó là tiến hành và tăng cường giám sát dân chủ trong và ngoài Đảng. Thực tiễn đã chứng tỏ, trong hoạt động của Đảng không tránh khỏi nảy sinh những mâu thuẫn, thiếu thống nhất trong cán bộ, đảng viên về nhận thức tư tưởng, bước đi, cách làm. Những mâu thuẫn đó nếu không được kiểm tra, giám sát phát hiện kịp thời sẽ là mầm mống nảy sinh mất đoàn kết. Công tác kiểm tra, giám sát sẽ giúp cấp uỷ, tổ chức đảng phát hiện kịp thời những khuyết điểm, hạn chế, vi phạm dân chủ trong Đảng.

Page 242: 8160

241

Có cơ chế với những hình thức tổ chức và phương pháp thích hợp tăng cường kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối với cán bộ, đảng viên, kể cả đối với những người lãnh đạo cấp cao. Coi trọng phê bình, kiểm tra từ dưới lên. Mọi cán bộ, đảng viên bất kể giữ chức vụ cao hay thấp đều phải chịu sự kiểm tra giám sát của tổ chức, của tập thể.

Cần xây dựng quy chế kiểm tra giám sát cán bộ chủ chốt cấp chiến lược trong Đảng. Để đội ngũ này thật trong sạch cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, với mục tiêu chủ yếu là để ngăn chặn từ xa những vi phạm, giúp cán bộ tránh được sai lầm, luôn là tấm gương sáng để quần chúng nhân dân noi theo.

Để tăng cường hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát, cần nghiên cứu để nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của Uỷ ban Kiểm tra các cấp. Nhiều ý kiến đề nghị, Uỷ ban Kiểm tra phải do Đại hội bầu và có cơ cấu tổ chức tương đối độc lập từ Trung ương đến địa phương. Có như vậy, Uỷ ban Kiểm tra mới có quyền kiểm tra cấp uỷ cùng cấp.

Cần có những quy định cụ thể để bảo đảm quyền giám sát của Ban Chấp hành Trung ương đối với Bộ chính trị, của Ban chấp hành Đảng bộ đối Ban Thường vụ.

- Xác định rõ quyền hạn của người đứng đầu

Hiện nay, nhiều khi quy chế của Trung ương và Chính phủ xuống đến cấp dưới bị vô hiệu hoá. Nếu quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu không được xác định rõ thì không có cách nào kiểm tra được và nếu thực hiện chế độ Bí thư và Chủ tịch là một người thì tự người đứng đầu phải kiểm tra, không thể bao che cho cấp dưới vi phạm. Chúng ta có qui chế đúng thì người đứng đầu sẽ không dám bao che cho cấp dưới làm sai, không dám để cho cấp dưới nhận vào cơ quan những phần tử cơ hội, tiêu cực hoặc kém năng lực. Nếu cả nước đều dồn lên cho Trung ương và Chính phủ xem xét, kiểm tra, kỷ luật cán bộ thì Trung ương, Chính phủ không đủ nhân sự và thời gian để giải quyết. Chỗ này là điểm mấu chốt quan trọng nhất để đổi mới hệ thống chính trị, để từ đó giải quyết vấn đề dân chủ một cách đúng đắn.

- Chức vụ càng cao, trách nhiệm càng lớn, nên sự vi phạm càng gây nguy hại lớn, vì thế xử lý càng phải nặng hơn

Kỷ luật của Đảng phải công minh, không cho phép đảng viên nào có đặc quyền, đặc lợi. Những cán bộ giữ chức vụ trọng yếu phạm sai lầm thường gây

Page 243: 8160

242

tác hại lớn, vì thế kỷ luật càng phải nghiêm minh. Tình trạng không công bằng trong việc thi hành kỷ luật, buông lỏng kỷ luật của Đảng đối với đảng viên, đặc biệt đối với những đảng viên giữ cương vị phụ trách, là một nguyên nhân quan trọng làm cho kỷ luật sắt của Đảng bị xem nhẹ và rất lỏng lẻo ở nhiều nơi.

- Trong công tác kiểm tra, giám sát, cần có quy định để đảng viên tham gia vào quá trình kiểm tra

Phải hình thành quy chế, quy định kiểm tra giám sát sao cho có sự tham gia tích cực của mọi đảng viên. Tránh để đảng viên thờ ơ, đứng ngoài công tác kiểm tra giám sát của Đảng. Quy chế phải quy định rõ trách nhiệm của đảng viên trong công tác giám sát các công việc của Đảng.

- Xác lập cơ chế nhân dân giám sát kiểm tra Đảng

Trong điều kiện không có Đảng đối lập, Đảng cầm quyền phải chân thành lắng nghe ý kiến của nhân dân, của những người ngoài Đảng, cả những ý kiến khác với chủ trương của lãnh đạo. Đây là biểu hiện tinh thần dân chủ và năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Điều lệ Đảng hiện hành quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam chịu sự giám sát của nhân dân, nhưng hiện nay chưa có chính sách, chế tài cụ thể, đủ hiệu lực để nhân dân giám sát, nên rất dễ dẫn đến xa dân, không nghe được ý kiến nguyện vọng của dân. Trong quy chế cần làm rõ: nhân dân được giám sát những nội dung gì? Phản ánh cho ai? Bằng những hình thức nào?.. Mặt khác cần có chính sách khen thưởng và biện pháp hữu hiệu bảo vệ những người phản ánh cho Đảng những hành vi vi phạm, suy thoái của cán bộ, đảng viên, tránh để xảy ra hiện tượng trù dập của những người có chức, có quyền đối với những người phản ánh.

- Chú trọng công tác kiểm tra từ cấp dưới lên

Lâu nay, việc cơ quan lãnh đạo kiểm tra cấp dưới đã được tiến hành, còn việc kiểm tra từ cấp dưới lên chưa được đặt ra rõ ràng, chưa thành nền nếp, chế độ chặt chẽ. Ở những nơi có tình trạng nể nang, xuê xoa dĩ hoà vi quý, dễ người dễ ta, hoặc do sợ bị cấp trên thành kiến, trù úm.. thì càng chưa làm được tốt công tác này. Trong điều kiện Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, cần đặc biệt coi trọng phát huy dân chủ, tăng cường kiểm tra từ cấp dưới.

Kiểm tra từ cấp dưới lên bao gồm nhiều hình thức phong phú. Trong nội bộ Đảng: định kỳ lãnh đạo cấp trên tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức cho cấp dưới, cho cán bộ, đảng viên trực tiếp tham gia phê bình cấp trên; phân

Page 244: 8160

243

chia thời gian lấy phiếu tín nhiệm về người lãnh đạo (ở một số nước, ngay trong một Đảng, giữa nhiệm kỳ có cơ chế kiểm tra, giám sát như: lấy phiếu tín nhiệm hoặc đổi mới 1/3 số lượng chứ không để tất cả đến hết nhiệm kỳ 5 năm mới thay; một ví dụ khác, đối với cán bộ, đảng viên ở cơ sở thì một trong các biện pháp ngăn ngừa vi phạm dân chủ trực tiếp của dân, có thể hằng năm lấy phiếu tín nhiệm của dân, nếu trong 2 năm liền không được quá bán, không được tín nhiệm, thì thay luôn, không cần chờ đến hết nhiệm kỳ). Cơ chế bầu cử trong Đảng thật sự dân chủ cũng là dịp tốt để kiểm tra cán bộ.

Phải hình thành cơ chế kiểm tra giám sát thật tốt thì mới tạo điều kiện để phát huy dân chủ. Tự phê bình và phê bình chủ yếu dựa vào ý thức tự giác rèn luyện của mỗi người. Song, nếu có cơ chế để đảng viên, nhân dân kiểm tra năng lực, phẩm chất của cán bộ thì tình hình sẽ khác. Nếu có cơ chế quy định khi hết nhiệm kỳ rồi, nếu thấy cán bộ không đủ năng lực phẩm chất, người ta sẽ không bầu nữa, thì tự khắc trong quá trình đảm nhiệm chức vụ, đòi hỏi cán bộ phải luôn luôn điều chỉnh hành vi của mình. Một cơ chế như vậy, sẽ lập tức phát huy tác dụng mạnh mẽ. Còn cái cách của chúng ta hiện nay sẽ khiến không ít người chỉ cốt chạy để vừa lòng bên trên, chứ không phải vừa lòng bên dưới. Cho nên phải qua cơ chế bầu cử để kiểm tra, giám sát, từ trong Đảng đến ngoài Đảng.

- Phải công khai tài sản, giải trình thu nhập

Bản kê khai tài sản, nhà đất, cơ sở sản xuất - kinh doanh của cán bộ không nên coi là tài liệu mật chỉ thủ trưởng được biết như cách làm lâu nay. Cần công khai bản kê khai đó trong cơ quan đơn vị, đơn vị cư trú để mọi đảng viên và người ngoài Đảng được biết, giám sát và phát hiện. Trong các Đại hội Đảng cũng như trong cuộc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân, những người được đề cử hoặc ứng cử, trong lý lịch cần ghi rõ tài sản đã kê khai để đại biểu và cử tri biết và giám sát. Khi thôi hoặc chuyển chức vụ, cần công khai hoá tài sản để nhân dân nắm được sự phát sinh bất hợp pháp và kiến nghị xử lý.

- Tăng cường kỷ luật nghiêm minh trong nội bộ Đảng

Để giữ gìn sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng, cần đặc biệt coi trọng việc tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, phải nghiêm túc thi hành kỷ luật của Đảng. Kỷ luật của Đảng phải công minh, không cho phép đảng viên nào có đặc quyền đặc lợi.

Page 245: 8160

244

Trong quá trình điều tra phải nghiên cứu kỹ càng, tránh chỉ nhìn hiện tượng bên ngoài mà phải đi sâu nắm được bản chất, các kết luận phải căn cứ vào những bằng chứng xác thực. Phải chú ý lắng nghe người đi phạm kỷ luật hoặc người đại diện cho tổ chức bị thi hành kỷ luật trình bày ý kiến trước khi tập thể tổ chức có thẩm quyền quyết định kỷ luật. Đối với những đảng viên bị thi hành kỷ luật, nhưng sau một thời gian đã thật sự tiến bộ, tổ chức Đảng có trách nhiệm phải xem xét và kết luận về việc sửa chữa ấy và trong việc sử dụng, cất nhắc, phải coi như kỷ luật đã được xoá bỏ, không được có định kiến.

Trong việc thi hành kỷ luật của Đảng, có thể có những thiếu sót. Khi đã phát hiện thiếu sót thì phải kiên quyết sửa chữa, không vì bất cứ lý do nào mà để cán bộ, đảng viên phải chịu oan trái. Vì thế các thư từ khiếu nại của đảng viên cần được xem xét nghiêm túc, bảo đảm quyền của đảng viên không bị vi phạm.

3.12. Phát huy dân chủ trong công tác dân vận

- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những chủ trương chỉ đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước về xây dựng và thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Chúng ta phải coi đây là nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức và năng lực thực hiện dân chủ, đoàn kết thống nhất cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân.

Để công tác tuyên truyền, giáo dục đạt hiệu quả cao, cần phải đa dạng hoá và thường xuyên đổi mới các hình thức tuyên truyền, giáo dục; chú trọng đến trình độ, phong tục, tập quán của từng đối tượng để lựa chọn những hình thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp. Trong điều kiện cho phép, các ngành, các cấp cần tổ chức biên soạn, in ấn các tài liệu cần thiết về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn để trang bị đầy đủ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Kiên quyết khắc phục tình trạng người dân không biết hoặc không nắm được đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn cũng như tầm quan trọng của sự đoàn kết thống nhất, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Công tác dân vận cần làm tốt vai trò của mình, thông qua đó để nâng cao trình độ dân trí nói chung, đặc biệt là những kiến thức về pháp luật, để nhân dân

Page 246: 8160

245

có thể hiểu, biết về quyền và nghĩa vụ của mình, có ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; từ đó có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của người làm chủ và có đủ năng lực để tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đây là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, đòi hỏi chúng ta phải phát huy dân chủ, tăng cường sự đoàn kết thống nhất, tạo nên sự đồng thuận trong xã hội để xây dựng và bảo vệ đất nước.

- Động viên quần chúng nhân dân tham gia, đóng góp vào những quyết định của Đảng

Chất lượng lãnh đạo của Đảng xét đến cùng, đòi hỏi cán bộ và cơ quan lãnh đạo của Đảng phải vừa có lập trường giai cấp vững vàng, quan điểm quần chúng đúng đắn, vừa sát thực tế sản xuất và đời sống, sát quần chúng, đấu tranh chống quan liêu. Đảng là người lãnh đạo, đồng thời là người đại diện cho quyền lợi chính đáng của quần chúng, vì thế cán bộ, đảng viên phải sâu sát quần chúng, chân thành đến với quần chúng để phát huy trí tuệ của quần chúng, lắng nghe ý kiến và kinh nghiệm của họ. Đảng tổ chức cho đông đảo quần chúng tham gia ý kiến vào các quyết sách, những vấn đề trọng yếu, tham gia đánh giá, nhận xét cán bộ đảng viên trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương, nhất là trong các dịp tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc và Đại hội của Đảng bộ địa phương và cơ sở. Đảng sẵn sàng lắng nghe và tiếp thu những ý kiến và kinh nghiệm hay của quần chúng để bổ sung, nâng chất lượng các quyết sách của mình, đáp ứng ngày càng cao các nhu cầu và nguyện vọng của quần chúng nhân dân.

- Công tác dân vận cần đi sâu, đi sát và đấu tranh bảo vệ những lợi ích, quyền lợi chính đáng của quần chúng nhân dân

Để phát huy dân chủ và tăng cường đoàn kết trong xã hội, công tác dân vận không chỉ thực hiện công tác tuyên truyền đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, mà còn cần chú ý bám sát thực tiễn và đấu tranh bảo vệ những quyền lợi chính đáng của quần chúng nhân dân. Trong công tác dân vận, cần có cơ chế tiếp dân, lắng nghe ý kiến của dân. Xử lý mọi việc đều phải dựa trên nguyên tắc: vì lợi ích của dân. Hiện nay trong quá trình đổi mới, có rất nhiều vấn đề liên quan đến lợi ích của dân (dân chủ cơ sở, đất đai, việc làm, phát triển kinh tế...), nếu không giải quyết tốt các vấn đề này sẽ dễ dẫn đến những mâu thuẫn, chia rẽ, ảnh hưởng tới khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính vì thế,

Page 247: 8160

246

nhiệm vụ của công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay rất nặng nề, vừa phải giải thích để quần chúng nhân dân hiểu về các chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, vừa đấu tranh với những việc làm sai trái của chính quyền các cấp, bảo vệ những quyền lợi chính đáng của quần chúng nhân dân. Chỉ có như vậy, công tác dân vận mới đem lại hiệu quả, mới tập hợp được lực lượng đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì mục tiêu chung: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

- Nâng cao nhận thức về công tác dân vận trong cấp uỷ và toàn thể đảng viên

Mọi tổ chức Đảng, mọi cấp uỷ, và mọi cán bộ, đảng viên bất kể ở cương vị nào đều phải phát huy tinh thần trách nhiệm, nâng cao trí tuệ, quán triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, đồng thời chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tìm ra nhiều chủ trương, biện pháp cụ thể phù hợp và thực sự nêu gương thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mỗi người, ở mỗi địa phương, đơn vị, từng ngành cũng như cả nước.

Mỗi tổ chức Đảng, mỗi cấp uỷ và từng cán bộ, đảng viên phải đặt nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật, gắn bó với quần chúng, kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng trong nội bộ Đảng, trong hệ thống chính trị và trong cả xã hội thành mục tiêu hoạt động lãnh đạo của mình.

Mỗi tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên phải nhận thức đúng đắn và thống nhất nội dung dân chủ trong Đảng. Dân chủ phải đi đôi với tập trung. Phát huy dân chủ đồng thời phải chống dân chủ cực đoan, dân chủ không tuân theo kỷ cương phép nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thực hiện theo đúng điều lệ Đảng và trong mối quan hệ đồng bộ với các nguyên tắc khác như tự phê bình và phê bình, đoàn kết thống nhất trong Đảng. Cơ quan lãnh đạo phải nắm vững quyền chỉ đạo tập trung, điều hành thống nhất, đó là lãnh đạo tập thể. Tăng cường sự lãnh đạo tập thể phải trên cơ sở và đi đôi với mở rộng dân chủ. Trong sinh hoạt Đảng, mọi ý kiến khác nhau cần được thảo luận dân chủ, thẳng thắn và quyết định tập thể.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh là một phần kết quả của việc phát huy dân chủ trong Đảng, đó cũng là biểu hiện trình độ dân chủ trong Đảng. Nhưng điều quan trọng hơn, đây là điều kiện quan trọng hàng đầu

Page 248: 8160

247

để phát huy dân chủ trong Đảng. Yêu cầu cơ bản của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng, nâng cao trình độ kiến thức, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng; tăng cường dân chủ và kỷ luật, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, khắc phục bệnh quan liêu, bao biện, xa rời, coi thường quần chúng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng mà trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ.

Cán bộ, đảng viên là lực lượng xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; là lực lượng trực tiếp động viên, tổ chức, hướng dẫn quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương đó; là tấm gương để quần chúng noi theo. Cho nên, nâng cao chất lượng đảng viên là một nội dung cơ bản của xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên còn là yêu cầu của việc xây dựng và thực hiện dân chủ trong Đảng. Muốn nâng cao chất lượng đảng viên, ngoài việc quản lý, giáo dục của tổ chức Đảng, còn phải có sự tự phấn đấu, rèn luyện của đảng viên.

- Xây dựng các quy chế để cấp uỷ và đảng viên tích cực tham gia vào công tác dân vận

Ngoài việc nâng cao nhận thức, điều quyết định bảo đảm thực hiện trong thực tế những nội dung đó là phải có cơ chế đúng, có những quy định cụ thể và phải có tinh thần đấu tranh kiên quyết để thực hiện các quy chế, quy định đó. Mọi cán bộ, đảng viên có quyền tham gia quyết định công việc của Đảng, được chất vấn, phê bình trong phạm vi tổ chức về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp; quyền được thông tin, thảo luận, nêu ý kiến riêng, được bảo lưu ý kiến và trình bày ý kiến trong tổ chức Đảng. Tuy nhiên, thiểu số phải phục tùng đa số, khi Đảng đã có nghị quyết thì mỗi cán bộ, đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết. Trong Đảng, từ Trung ương đến cơ sở phải chấp hành nghiêm túc các quy định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và phê bình. Các cơ quan được bầu phải chịu sự giám sát của tổ chức và đảng viên, phải báo cáo hoạt động trước tổ chức đã bầu ra mình, thường xuyên báo cáo tình hình và hoạt động của mình đến các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Xây dựng quy trình, quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể thông qua các đại hội, hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu. Hoàn thiện

Page 249: 8160

248

quy chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức với tổ chức, của cá nhân với cá nhân và tổ chức, quy chế về bảo lưu ý kiến và xem xét ý kiến bảo lưu một cách khách quan, thận trọng. Tăng cường giám sát việc triển khai quy chế dân chủ, tôn trọng ý kiến của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

- Tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị đều phải tham gia làm công tác dân vận

Công tác vận động quần chúng là một công tác quan trọng của Đảng, có đối tượng tác động rộng, đó là toàn thể mọi tầng lớp nhân dân trên khắp cả nước và phải thực hiện thường xuyên, liên tục. Do đó, công tác dân vận không phải chỉ là công việc của Ban Dân vận, mà đòi hỏi phải có sự tham gia của tất cả các cơ quan, đoàn thể, tổ chức trong hệ thống chính trị. Mỗi tổ chức có nhiệm vụ của riêng mình, nhưng đều có nhiệm vụ chung tham gia làm công tác vận động quần chúng, thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhất là trong tình hình đổi mới hiện nay, có rất nhiều vấn đề mới nảy sinh, không thể khoán trắng công tác này cho Ban Dân vận các cấp, mà đòi hỏi phải có sự đồng tâm hiệp lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị để làm tốt công tác dân vận.

- Để thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác dân vận của Đảng phải thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; đồng thời động viên, khen thưởng kịp thời những địa phương, cá nhân làm tốt, xử lý nghiêm minh đối với những đối tượng gây mất dân chủ, mất đoàn kết hoặc lợi dụng mất dân chủ, mất đoàn kết để gây rối, vi phạm pháp luật, gây bức xúc trong xã hội và trong nhân dân. Phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đảm bảo cho mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước được thực hiện đúng và đầy đủ. Hiện nay, ở một số nơi do không làm tốt việc thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất trong công tác dân vận của Đảng, nên đã nảy sinh những mâu thuẫn về dân chủ, đoàn kết nội bộ, giữa nói và làm, tiêu cực, bất công xã hội. Không ít cán bộ, đảng viên, cả người có chức, quyền đứng trên bục giảng có thể răn dạy rất hay về dân chủ, sự đoàn kết; về đạo đức, lối sống nhưng trong công tác và đời sống thường ngày lại có thái độ quan liêu, hách dịch, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống; sống cách biệt với quần chúng nhân dân.

Page 250: 8160

249

Ai cũng có thể hiểu được tầm quan trọng của dân chủ, sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, trong các tầng lớp nhân dân nhưng ở những nơi tình trạng mất dân chủ, mất đoàn kết tồn tại là những nơi số đông quần chúng nhân dân bất an, lo lắng. Nguy hiểm hơn, đã và đang nảy sinh tâm lý người dân, người ngay thẳng không còn muốn phát biểu, ý kiến, ngại đấu tranh.

Thực hiện tốt công tác dân vận Đảng và Nhà nước, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là cơ sở để thực hành dân chủ rộng rãi, tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí; giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường đoàn kết thống nhất. Chỉ có có làm được như vậy, Đảng và Nhà nước mới đủ uy tín, trí tuệ và sức mạnh tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực hiện cho được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Động viên, khen thưởng kịp thời những địa phương, cá nhân làm tốt, xử lý nghiêm minh đối với những đối tượng gây mất dân chủ, mất đoàn kết hoặc lợi dụng mất dân chủ, mất đoàn kết để gây rối, vi phạm pháp luật, gây bức xúc trong xã hội và trong nhân dân là nguồn cổ vũ, động viên để nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân; cán bộ, đảng viên không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, là tấm gương về thực hiện dân chủ và đoàn kết thống nhất.

Page 251: 8160

250

KẾT LUẬN

1. Qua quá trình nghiên cứu, đề tài thu được một số kết quả chính như sau:

- Đề tài đã nêu được một số vấn đề lý luận về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, đó là các quan điểm, tư tưởng về dân chủ của phương Tây và phương Đông thời kỳ cổ và cận đại; dân chủ Âu - Mỹ hiện đại; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng.

- Đề tài đã nêu được những vấn đề lý luận về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong tổ chức và hoạt động của một Đảng duy nhất cầm quyền, đó là cơ sở của dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng (cơ sở chính trị; cơ sở tư tưởng; cơ sở tổ chức; cơ sở kinh tế; cơ sở văn hoá - xã hội); nội dung và hình thức của dân chủ trong Đảng (phát huy vai trò, quyền và trách nhiệm của mỗi đảng viên; dân chủ trong sinh hoạt Đảng; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; thiểu số phục tùng đa số; dân chủ trong bầu cử; kết hợp tập thể lãnh đạo và các nhân phụ trách; giám sát dân chủ; dân chủ thể hiện trong các nội dung của công tác xây dựng Đảng); phương thức thực hành dân chủ trong Đảng (dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; dân chủ được thực hiện thông qua các quy chế); Bản chất của đoàn kết thống nhất trong Đảng (“Đảng kiểu mới” không có bè phái, trường phái, không có các xu hướng chính trị khác nhau; đoàn kết, thống nhất về tư tưởng: dựa trên chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đoàn kết thống nhất dựa trên nguyên tắc tổ chức của Đảng; đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn gắn bó với sự đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết trong nội bộ Đảng là đoàn kết có tính chiến đấu cao, trên cơ sở dân chủ; dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời và tác động thúc đẩy lẫn nhau); vai trò của dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng.

- Đề tài cũng đã xác định được các yếu tố chủ quan và khách quan chi phối, quy định việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Các yếu tố khách quan điển hình, đó là: học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và đoàn kết của Đảng Cộng sản; đặc điểm lịch sử, văn hoá,

Page 252: 8160

251

truyền thống dân tộc; tình hình nhiệm vụ trong các thời kỳ cách mạng. Bốn yếu tố chủ quan được đề tài xác định, đó là: tính đúng đắn khoa học của việc xác định đường lối chủ trương nội dung, hình thức, cơ chế biện pháp thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng; sự trong sạch vững mạnh, năng lực lãnh đạo thực hành dân chủ và đoàn kết của các tổ chức cơ sở đảng; chất lượng lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với việc thực hành dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng; chất lượng của đội ngũ cán bộ đảng viên.

- Đề tài đã nêu được những thành tựu về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đó là, phát huy dân chủ trong quá trình xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng; trong quá trình tiến hành Đại hội Đại biểu toàn quốc; trong bầu cử của Đảng; trong sinh hoạt Đảng; trong các mặt công tác xây dựng Đảng (công tác tư tưởng; công tác tổ chức, cán bộ; công tác kiểm tra, giám sát; công tác dân vận).

- Đề tài cũng đã nêu được một số hạn chế về dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, biểu hiện trong nhận thức và trong từng lĩnh vực của công tác xây dựng Đảng. Từ đó đề tài đã xác định được những nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế, yếu kém. Đề tài cũng đã khẳng định trong các nguyên nhân đó, nguyên nhân chủ quan cần phải được đặc biệt lưu ý (nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về dân chủ trong Đảng còn hạn chế; chưa hợp lý về tổ chức; các quy chế, chế độ để phát huy dân chủ trong Đảng chưa cụ thể; sự yếu kém của một số cấp uỷ trong tổ chức thực hiện các chế độ, nguyên tắc tổ chức của Đảng; hạn chế ở một số mặt trong công tác xây dựng Đảng; nguyên nhân gây mất đoàn kết trong Đảng).

- Đề tài đã đề xuất được 5 quan điểm chỉ đạo về phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng, đó là: 1/ Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng để giữ vững bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng kiểu mới; 2/ Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng gắn với phát huy dân chủ trong xã hội; 3/ Dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng phải được tiến hành một cách sâu rộng, toàn diện và có bước đi thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm; 4/ Để phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng cần cương quyết xử lý vi phạm công khai, công bằng, giữ vững nguyên tắc, Điều lệ Đảng; 5/ Phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trước hết là trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu.

Page 253: 8160

252

- Đề tài đã đề xuất 12 nhóm giải pháp về phát huy dân chủ và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đó là: 1/ Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn; 2/ Tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ và nâng cao năng lực làm chủ của đảng viên; 3/ Thể chế hoá, quy chế hoá thành chế độ nguyên tắc tập trung dân chủ trong từng lĩnh vực hoạt động của Đảng; 4/ Xây dựng văn hoá dân chủ trong Đảng; 5/ Đổi mới công tác tư tưởng của Đảng; 6/ Dân chủ trong xây dựng Nghị quyết của Đảng; 7/ Đổi mới chế độ bầu cử trong Đảng; 8/ Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng; 9/ Phát huy dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ; 10/ Nâng cao chất lượng Đại hội Đảng các cấp, bảo đảm phát huy dân chủ và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; 11/Phát huy dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; 12/ Phát huy dân chủ trong công tác dân vận.

2. Một số kết luận rút ra từ những kết qua thu được

- Đề tài đã hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.

- Đề tài đã góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn, đồng thời đề tài cũng đã đề xuất được một số quan điểm và giải pháp về phát huy dân chủ và đoàn kết thống nhất trong Đảng.

- Một số kết quả nghiên cứu của đề tài đã được sử dụng vào các đề án về công tác tổ chức cán bộ, về công tác bầu cử trong Đảng, về đổi mới nội dung và phương pháp sinh hoạt Đảng... do Ban Tổ chức Trung ương chủ trì.

- Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho cán bộ, đảng viên trong quá trình xây dựng và triển khai thực hành dân chủ trong Đảng.

Page 254: 8160

253

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh : Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 2000.

2. Lý Thiết Anh : Lý luận dân chủ trong Đảng” bài viết trong cuốn “Bàn về dân chủ, Nxb. Bắc Kinh, 2001.

3. V.G. A-Pha-Na- Xép, Đ.M. Gvi-Sia-Ni, V.N. Li-Xi-Sưn, G.Kh. PôPốp, Lao động của người lãnh đạo, Nxb. Lao Động, H, 1980.

4. Ban Tổ chức Trung ương : Củng cố và tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng . Chuyên đề nghiên cứu tổng kết phục vụ Đại hội IX.

5. Ban Tổ chức trung ương và Học viện Chính trị Quốc gia HCM : Lý luận và nghiệp vụ công tác tổ chức, 3 tập, H, 1999.

6. Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (2) : Đảng, Bác Hồ về tự phê bình và phê bình, Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2005

7. GS. TS Hoàng Chí Bảo : Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay , Nxb. Chính trị quốc gia, H , 2004.

8. Hoàng Chí Bảo (chủ biên) : Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb. Lý luận chính trị, H, 2005.

9. Hoàng Chí Bảo: Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005.

10. Lê Đức Bình: Dân chủ trong nội bộ Đảng trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí xây dựng Đảng, 2003, số 11.

11. Lê Đức Bình : Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

12. Nguyễn Đức Bình (chủ biên) : Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

13. Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa, Trần Hữu Tiến : Góp phần nhận thức thế giới đương đại. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

14. Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn Văn Thảo, Trần Xuân Sầm: Đổi mới và tăng cường hệ thống chính nước ta trong giai đoạn mới, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1999.

15. Chuyên đề KHXH. 05-08: Luận cứ khoa học về tổ chức bộ máy Đảng trong hệ thống chính trị để đảm bảo vai trò lãnh đạo, 2001.

16. Trịnh Cư, TS. Nguyễn Duy Hùng, PGS,TS Lê Văn Yên: Kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2009.

Page 255: 8160

254

17. TS. Đỗ Minh Cương: Quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý, Nxb. Chính trị quốc gia, H,2009.

18. Cyril Levicki: Phát triển tài năng lãnh đạo, bản chất và sự giáo dục người lãnh đạo, Nxb. McGraw - Hill Comp. (Bản tiếng Anh), 2002.

19. Đổi mới ở Việt Nam tiến trình thành tựu và kinh nghiệm - Đại học Quốc gia Hà Nội – Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận : Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006) – Lưu hành nội bộ. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam - Tiểu ban Tổng kết công tác xây dựng Đảng : Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng (Thời kỳ 1975-1995). Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam : Một số văn kiện về đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Ban Tổ chức Trung ương Đảng xuất bản, Hà Nội, 1993.

23. Đảng cộng sản Việt Nam, "Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006)", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005.

24. Đảng cộng sản Việt Nam, "Một số văn kiện xây dựng Đảng về tổ chức, cán bộ và đảng viên" Ban Tổ chức Trung ương Đảng, H, 2003.

25. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, IV, V,VI, VII, VIII, IX, X.

26. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 3, BCHTW khoá VII.

27. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 3, BCHTW khoá VIII.

28. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, BCHTW khoá IX.

29. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 6, BCHTW khoá IX.

30. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, BCHTW khoá IX.

31. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, BCHTW khoá VIII.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.

33. Quyết định của Ban Chấp hành Trung ương số 58-QĐ/TW ngày 7 tháng 5 năm 2007 về "Ban hành quy chế về chế độ kiểm tra, giám sát công tác cán bộ".

34. Quyết định của Ban Chấp hành Trung ương số 68-QĐ/TW ngày 4 tháng 7 năm 2007 về "Bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử".

Page 256: 8160

255

35. Thông báo kết luận của Bộ Chính trị ngày 31 tháng 5 năm 2005 "Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 11 -NQ/TƯ của Bộ Chính trị về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý"

36. Daniel Goleman: Trí tuệ cảm xúc. Làm thế nào để biến những cảm xúc của mình thành trí tuệ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.

37. Long Tử dân : Bí quyết nhận biết người tài, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002.

38. David. J. Cherington, Nyal. D.& Bettle Me Mulin, "Hành vi tổ chức" (tài liệu dịch) .

39. Phạm Văn Đồng : Nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

40. Lê Duẩn, "Mấy vấn đề về cán bộ và tổ chức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa " , Nxb. Sự thật, H, 1973.

41. Nguyễn Bá Dương (chủ biên), "Tâm lý học quản lý dành cho người lãnh đạo", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2003.

42. Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Cúc, Đức Uy, "Những vấn đề cơ bản của khoa học tổ chức", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004.

43. Trần Ngọc Đường : Bàn về quyền con người, quyền công dân. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

44. Trần Ngọc Đường : Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

45. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên) : Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường Cách mạng Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

46. Trần Văn Giàu: Gía trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980.

47. Về xây dựng các tiêu chí tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tài năng (Han Jong Ha, 1988; Tsunesaboro Makiguchi, 1994...).

48. TS. Đỗ Trung Hiếu “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004.

49. Nguyễn Cảnh Hoan (chủ biên), "Tập bài giảng khoa học quản lý", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004.

50. PGS, TS Trần Đình Hoan: Đề tài độc lập cấp Nhà nước ĐTĐL (2002) -07, "Cơ sở lý luận và thực tiễn đánh giá, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước".

Page 257: 8160

256

51. PGS, TS Trần Đình Hoan: Đề tài KX.10. 02, Các quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta giai đoạn 2005-2020".

52. Trần Đình Hoan (chủ biên): Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.

53. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh “Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, Nxb.Chính trị quốc gia, 2004

54. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. "Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2004.

55. Hội đồng lý luận Trung ương – Hội thảo khoa học ngày 24, 25 tháng 3 năm 2007 “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hệ thống chính trị”.

56. Hội đồng Lý luận Trung ương : Kỷ yếu các cuộc hội thảo từ năm 2002 đến năm 2005. Tài liệu lưu hành nội bộ tại Hội đồng Lý luận Trung ương.

57. PGS, TS Nguyễn Phương Hồng: Đề tài cấp Bộ "Những vấn đề lý luận và thực tiễn rút ra từ việc luân chuyển 6 chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý qua thực tiễn tại tỉnh Hà Tây", mã số KHBĐ(2006)-02.

58. John G. Maxell: 21 nguyên tắc vàng của nghệ thuật lãnh đạo, Nhà xuất bản lao động - Xã hội, 2007.

59. John G. Maxell: Nhà lãnh đạo 360 độ , Nhà xuất bản lao động - Xã hội, 2008.

60. John G. Maxell: Phát triển kỹ năng lãnh đạo, Nhà xuất bản lao động - Xã hội, 2007.

61. Joseph Edward Chempoux. "Organizational Behavior: Integrating Individual, 55. Groups, and Processes", West Publishing Company, 1996.

62. P.M. Kéc-Gien-Txep, "Những nguyên lý của công tác tổ chức", Nxb. Thanh niên, 2000.

63. Đề tài KX. 05. 04, "Những đặc trưng cơ bản, quan điểm, nguyên tắc xây dựng và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn quá độ lên CNXH".

64. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) : Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

65. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên) : Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá và con người. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

66. V.I. Lênin, Toàn tập, tập1,2,3, 13, 31,35,36, 38 39, Nxb. Sự thật, H. 1971

67. Nguyễn Văn Linh : Đổi mới tư duy và phong cách. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987.

68. Sở Nhật Lý: Phép dùng người, Nxb. Thanh niên, 2004.

Page 258: 8160

257

69. C. Mác và Ăngnghen, Tuyển tập, Nxb. Sự thật, H,1970

70. C. Mác và Ăngnghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia HCM, tập 8 , 1993

71. Matsushita Konosuke: Nhân sự chìa khoá của thành công, Nxb Giao thông, Hà Nội, 1990.

72. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, 6, 7,8 9,10, 12, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996

73. Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,1990

74. Gareth Morgan, "Cách nhìn nhận tổ chức từ nhiều góc độ", Nxb. Khoa học kỹ thuật, H, 1994.

75. Lê Hữu Nghĩa : Toàn cầu hoá - những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

76. Phạm Thành Nghị & Vũ Hoàng Ngôn (Chủ biên): Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004.

77. "Sổ tay công tác tổ chức Đảng của đặc khu Thẩm quyến", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996.

78. "Chế độ công chức Nhà nước ở đặc khu kinh tế Thẩm quyến", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996.

79. GS Trần Nhâm : Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

80. PGS, TS. Trần Quang Nhiếp "Dân chủ với phát triển cộng đồng", Nxb. Công an nhân dân, H , 2006.

81. Mai Trọng Nhuận: Tiêu chí đánh giá tuyển chọn cán bộ của Nhật Bản trong "Báo cáo kết quả làm việc với Cục nhân sự quốc gia Nhật Bản" tại ĐHQG Hà Nội 2003.

82. "Tranh luận để đồng thuận", Nxb. Tri thức, Tạp chí tin học và đời sống, H, 2006.

83. “ Trung Quốc 25 năm cải cách- mở cửa. Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. khoa học xã hội, H 2004.

84. Đổi mới để phát triển. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

85. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Hội thảo khoa học Việt Nam – Trung Quốc : Chủ nghĩa xã hội – Kinh nghiệm của Việt Nam – Kinh nghiệm của Trung Quốc. (Hà Nội, ngày 10-11-2000). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

87. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam : Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường – kinh nghiệm của Trung Quốc, kinh nghiệm của Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.

Page 259: 8160

258

88. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc : Xây dựng Đảng cầm quyền – kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

89. Những văn bản pháp luật về dân chủ và quy định bảo đảm thực hiện dân chủ. Nxb Lao động, Hà Nội, 1999.

90. Lê Khả Phiêu : Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường đảng và nhân dân ta tiến vào thế kỷ XXI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.

91. Phùng Hữu Phú, Báo cáo tại Hội thảo khoa học “Một Đảng lãnh đạo và chế độ dân chủ ở Việt Nam”- Hội đồng Lý luận trung ương, năm 1999.

92. Trần Việt Phương "Dân chủ" , H, tháng 9/2008.

93. Đào Bá Phương : Vấn đề dân chủ trên lĩnh vực chính trị ở nông thôn

94. Đỗ Nguyên Phương : Những vấn đề chính trị-xã hội của cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta. Nxb Chính trị quốc gia, Nxb Khoa học-Kỹ thuật, Hà Nội, 1994.

95. Đào Duy Quát, Báo cáo tại Hội thảo khoa học “Một Đảng lãnh đạo và chế độ dân chủ ở Việt Nam”- Hội đồng Lý luận trung ương, năm 1999.

96. Phạm Ngọc Quang : Đề tài KX 10 – 05 “Đổi mới hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”.

97. Nguyễn Duy Quý : Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.

98. Ricky W. Griffin. "Managemen", Texax A&M University, 1996.

99. PGS, TS. Tô Huy Rứa, GS, TS Hoàng Chí Bảo, PGS,TS Trần Khắc Việt, PGS,TS Lê Ngọc Tòng "Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay", Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2008.

100. Đỗ Tiến Sâm “Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc”, Nxb. Khoa học xã hội, H, 2005.

101. Phan Xuân Sơn, Quan điểm của V.I. Lênin về chế độ dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, Tạp chí Cộng sản điện tử, số 7/2010.

102. Stêphen. P. Robins và DelMen, "Lý thuyết tổ chức", (tài liệu dịch)

103. Nguyễn Đức Tài, "Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005.

104. Đặng Đình Tân (chủ biên), "Thể chế Đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004.

Page 260: 8160

259

105. Trần Trọng Tân, Báo cáo tại Hội thảo khoa học “Một Đảng lãnh đạo và chế độ dân chủ ở Việt Nam”- Hội đồng Lý luận trung ương, năm 1999.

106. Thử tìm hiểu quan niệm về dân chủ, quyền lực chính trị và cơ sở kinh tế của chúng ta, Tạp chí Thời đại mới, số 1, tháng 3/2004

107. Chu Văn Thành, Lê Thanh Bình, "Bàn về khoa học và nghệ thuật lãnh đạo", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004.

108. Hồ Bá Thâm, "Đổi mới và phát triển hệ thống chính trị", Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, HCM, 2004.

109. Nguyễn Thanh, "Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002.

110. Trần Hậu Thành, "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân", Nxb. Lý luận chính trị, H, 2005.

111. Trần Thành (chủ biên), "Tư duy lý luận và hoạt động của người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2003.

112. Trần Thành, "Để trở thành người lãnh đạo giỏi", Nxb. Văn hoá thông tin, H, 2000.

113. Chu Văn Thành - Lê Thanh Bình: Bàn về khoa học và nghệ thuật lãnh đạo,

114. Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1997.

115. Trần Ngọc Thêm: Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.

116. Lê Minh Thông (chủ biên): Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.

117. PGS, TS Lê Minh Thông, TS Nguyễn Tài Đức "Một số vấn đề về cơ sở khoa học của công tác tổ chức trong hệ thống chính trị" Nxb. Chính trị quốc gia, H -2008

118. Phạm Văn Thọ : Đề tài độc lập cấp Nhà nước: "Vấn đề chính trị hiện nay trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng - Hiện trạng và giải pháp", Mã số: ĐTĐL 2006/16.

119. Cao Huy Thuần. Dân chủ là gì và như thế nào trong hoàn cảnh Việt Nam, Tạp chí Thời đại mới số 8, tháng 7/2006.

120. Lê Quang Thưởng, "Một số vấn đề xây dựng Đảng về tổ chức trong giai đoạn hiện nay", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1996.

Page 261: 8160

260

121. Ngô Đức Tính, "Xây dựng Đảng về tổ chức", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2003

122. PGS,TS. Nguyễn Hữu Tri "Kiện toàn và đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới", Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006.

123. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm. "Luận cứ khoa học về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 2001

124. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm: Luận cứ khoa học về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 2001.

125. Nguyễn Phú Trọng - Tô Huy Rứa - Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) : Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

126. Nguyễn Phú Trọng (chủ biên) : Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

127. Nguyễn Phú Trọng : Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

128. Nguyễn Phú Trọng : Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn. Nxb. Lao động, Hà Nội, 2001.

129. PGS.TS Nguyễn Phú Trọng - PGS.TS Trần Xuân Sầm : Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

130. Trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức, quản lý: Khoa học tổ chức và quản lý - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Thống kê, H, 1999.

131. Đào Trí Úc: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb.Chính trị quốc gia, H , 2005.

132. "Về công tác xây dựng Đảng của Đảng cộng sản Trung Quốc", Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, H, 3/2010

133. Viện nghiên cứu và đào tạo quản lý. "Tinh hoa quản lý", Nxb. Lao động -Xã hội, H, 2003.

134. N.M Voskresenskaia, N.B Davletshina "Chế độ dân chủ nhà nước và xã hội", Nxb. Tri thức, H, 2008.

135. Trần Quốc Vượng: Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1997.