ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN Nguyễn Hồng Anh NGHIÊN CỨU CHẤT ỨC CHẾ HOẠT TÍNH PROTEASE HIV-1 TỪ DỊCH CHIẾT CỦA LÁ CÂY THẠCH CHÂU (PYRENARIA JONQUERIANA), ỔI (PSIDIUM GUAJAVA) VÀ MA HOÀNG (EPHEDRA DISTACHYA) TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Hà Nội - 2015
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Nguyễn Hồng Anh
NGHIÊN CỨU CHẤT ỨC CHẾ HOẠT TÍNH PROTEASE HIV-1
TỪ DỊCH CHIẾT CỦA LÁ CÂY THẠCH CHÂU
(PYRENARIA JONQUERIANA), ỔI (PSIDIUM GUAJAVA)
VÀ MA HOÀNG (EPHEDRA DISTACHYA)
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội - 2015
1
MỞ ĐẦU
Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) gây ra bởi virus gây suy
giảm miễn dịch ở người (HIV). Đây là virus thuộc họ Retroviridae và có hai type
chính là HIV-1 và HIV-2, trong đó type 1 xuất hiện phổ biến và là nguyên nhân
chính gây ra AIDS ở người. Cho đến nay, dù đã có những chương trình hành động
toàn cầu cùng với sự phát triển của các phương pháp điều trị, AIDS vẫn là đại dịch
của toàn nhân loại và cần thiết phải tăng cường các biện pháp phòng ngừa, điều trị
bệnh hiệu quả.
Trong phòng chống nhiễm HIV-1, phát triển vaccine gặp rất nhiều khó
khăn và thường thất bại do thời gian ủ bệnh của HIV-1 dài, thường xuyên xảy
ra đột biến ở vùng gen mã hóa cho kháng nguyên. Vì vậy, cho đến hiện nay,
người nhiễm HIV-1 muốn kéo dài cuộc sống chỉ có con đường duy nhất là sử
dụng liệu pháp dùng thuốc kháng retrovirus (ART).
Trong chu trình tái bản của HIV-1, protease là enzyme có tác dụng phân
cắt các polyprotein tiền thân gag và gag-pol thành những protein cấu trúc và
chức năng trong quá trình trưởng thành của virus. Khi ức chế hoạt tính của
protease hoặc gây đột biến trên gen mã hóa cho protease, các hạt virus vẫn
hình thành nhưng không được đóng gói phù hợp để tạo thành virus hoàn chỉnh
nên chúng không có khả năng xâm nhiễm vào tế bào vật chủ. Vì vậy, một số
chất ức chế protease HIV-1 (PI) đã được phát triển thành thuốc điều trị bệnh
nhân HIV/AIDS. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc trong thời gian dài với nồng
độ cao cùng với tốc độ đột biến lớn của HIV-1 dẫn đến sự xuất hiện các chủng
virus kháng thuốc là một trong những nguyên nhân chính gây thất bại điều trị
với ART nói chung và PI nói riêng. Hơn nữa, việc thiết kế các chất PI mới
không phải dễ dàng, không định hướng, phải sàng lọc trên số lượng khá lớn
các hợp chất thiết kế tương tự nhau trên cơ sở hiểu biết về cấu trúc và chức
năng của protease HIV-1. Chính vì vậy, bên cạnh các thuốc tổng hợp hóa học,
2
các nhà khoa học trên thế giới cũng không ngừng tìm kiếm và chọn lọc các
chất tự nhiên từ dịch chiết thực vật có tác dụng ức chế protease của HIV-1
(protease HIV-1).
Việt Nam với nguồn thực vật phong phú và nhiều cây thuốc có giá trị
lớn với sức khỏe con người. Theo thống kê, Việt Nam có hơn 12.000 loài
thực vật, trong đó có gần 4.000 loài được dùng làm thuốc trong y học dân
gian và y học cổ truyền. Như vậy, thực vật Việt Nam cũng s là nguồn
nguyên liệu phong phú để sàng lọc và xác định các hoạt chất ức chế protease
HIV-1, làm cở sở cho việc phát triển thuốc điều trị cho bệnh nhân
HIV/AIDS. Tuy nhiên, cho đến nay chúng ta chưa khai thác nguồn tài
nguyên phong phú của đất nước theo hướng này.
Xuất phát từ những thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên
cứu chất ức chế hoạt tính protease HIV-1 từ dịch chiết của lá cây Thạch
châu (Pyrenaria jonqueriana), Ổi (Psidium guajava) và Ma hoàng
(Ephedra distachya)” nhằm thu nhận được chất ức chế protease HIV-1 có
nguồn gốc từ dược liệu Việt Nam.
3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HIV VÀ PROTEASE CỦA HIV-1
1.1.1. Giới thiệu chung về HIV
Đại dịch HIV/AIDS đã và đang là một thách thức to lớn đối với tiến trình
phát triển xã hội. Sau 3 thập kỷ phát hiện mà đầu tiên là ở các nước phát triển,
HIV/AIDS đã lan rộng trên toàn thế giới, đặc biệt ở khu vực châu Phi và các
nước châu Á. Đến nay vẫn chưa có vaccine phòng ngừa HIV hay thuốc chữa trị
AIDS đặc hiệu.
Theo chương trình HIV/AIDS của Liên hiệp quốc (UNAIDS, 2015), tính
đến cuối năm 2014, thế giới có khoảng 36,9 triệu người (dao động trong khoảng
từ 34,3 triệu đến 41,4 triệu) đang mang căn bệnh AIDS, trong đó số đối tượng
nhiễm mới là 2 triệu người và có khoảng 1,2 triệu bệnh nhân đã chết vì AIDS
trong năm 2014.
Trong phòng chống nhiễm HIV/AIDS, phương thức điều trị phổ biến nhất
hiện nay vẫn là liệu pháp dùng thuốc chống virus (ART-antiretroviral drug
therapy) bao gồm thuốc ức chế reverse transcriptase, thuốc ức chế integrase và
thuốc ức chế protease (PI). Trong đó, protease được mã hóa bởi gen pol của virus
có chức năng cắt các chuỗi polyprotein (gag, gag-pol) tại những vị trí nhất định
để tạo thành các protein cấu trúc và chức năng cần thiết cho virus hoàn chỉnh.
Nếu protease bị mất hoạt tính, HIV-1 không được đóng gói phù hợp để tạo virus
hoàn chỉnh. Vì vậy, protease của HIV-1 (protease HIV-1) là một trong những
đích quan trọng để phát triển thuốc điều trị AIDS.
1.1.2. Cấu trúc và chức năng của protease HIV-1
Về cấu trúc, protease HIV-1 là một protease aspartyl, họ retropepsin A2.
Enzyme này có cấu trúc dạng homodimer, mỗi monomer gồm 99 acid amin và
được sắp xếp gần như theo kiểu đối xứng.
4
Cấu tạo của protease HIV-1 có thể chia thành ba vùng chính: vùng dimer
hóa, vùng lõi và vùng mũ. Trong đó, vùng dimer hóa được hình thành nhờ
tương tác giữa 8 gốc acid amin 1 – 4 (vùng N đầu cùng) và 96 – 99 (vùng C tận
cùng) từ mỗi monomer và các acid amin trong trung tâm hoạt động 24 – 29. Khi
enzyme gắn thêm chất ức chế hoặc cơ chất, sự ổn định của cấu trúc dimer được
tăng cường. Vùng lõi gồm 4 đầu N sợi β có vai trò quan trọng đối với sự ổn
định cấu trúc dimer và hoạt tính xúc tác của enzyme. Trung tâm hoạt động của
enzyme nằm trong vùng lõi và bao gồm ba gốc acid amin từ mỗi monomer.
Vùng mũ nằm ở phần rộng nhất của enzyme bao gồm các acid amin từ 33 – 43
và 44 – 63 bao quanh trung tâm hoạt động.
Trung tâm hoạt động của protease chứa bộ ba Asp – Thr – Gly nằm tại mặt
phân giới của dimer. Tại một monomer nhóm bộ ba xúc tác được đặt ở vị trí 25 –
26 – 27 và do tính đối xứng ở monomer còn lại là 25’ – 26’ – 27’. Phân tử Asp25
và 25’ là cần thiết cho cả cấu trúc và hoạt tính xúc tác của protease.
Về chức năng, sau khi được giải phóng khỏi màng tế bào vật chủ, HIV-1
tồn tại như một hạt virus không có khả năng lây nhiễm được gọi là virion. Để
trở thành một hạt virus hoàn chỉnh, virion phải trải qua quá trình sắp xếp lại cấu
trúc nhờ khả năng phân cắt các chuỗi polyprotein (gag, gag-pol) của protease để
tạo thành các protein cấu trúc và chức năng cần thiết cho sự trưởng thành của
virus. Ngoài vai trò phân cắt các tiền chất của virus, protease HIV-1 cũng cắt các
protein của tế bào chủ. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy sự phân giải và
suy giảm các protein của tế bào dẫn tới cả quá trình chết hoại tử và chết tự hủy ở
các tế bào CD4+ T. Sự suy giảm các tế bào CD4
+ T là một dấu hiệu của
HIV/AIDS. Như vậy, có thể dễ dàng nhận thấy vai trò quan trọng của protease
HIV-1 trong việc phân cắt các protein tiền thân của virus, lắp ráp của các virion
trưởng thành và góp phần gây độc cho tế bào vật chủ trong quá trình xâm nhiễm.
5
1.1.3. Phân tích hoạt độ của protease HIV-1
Protease HIV-1 có chức năng phân cắt các polyprotein tiền thân gag và
gag-pol của virus. Trung tâm hoạt động của protease bao gồm bộ ba Asp25,
Thr26 và Gly27; nếu đột biến xảy ra tại Asp25 s dẫn đến mất hoạt tính của
protease HIV-1. Protease HIV-1 cũng có hoạt tính tự cắt xảy ra sau khi protein
gag-pol hình thành dimer hóa, qua đó cho phép giải phóng chính nó ra khỏi
polyprotein tiền thân. Hoạt tính của enzyme này là tuyệt đối cần thiết cho quá
trình hình thành virus hoàn chỉnh dẫn đến vai trò quan trọng của protease trong
liệu pháp dùng thuốc chống HIV-1.
Phát triển thuốc ức chế protease HIV-1 cần thiết phải có các phương pháp
xác định hoạt độ của protease phù hợp. Do protease HIV-1 chỉ thủy phân
peptide hay protein chứa những trình tự đặc hiệu, không thủy phân các protein
thông thường nên việc xác định hoạt độ của protease chỉ có thể được thực hiện
khi sử dụng các cơ chất được thiết kế dựa trên các trình tự phân cắt của protease
HIV-1. Vì vậy, phần lớn cơ chất là các chuỗi peptide có trình tự giống với một
trong các vị trí cắt đặc hiệu của protease HIV-1 trên các chuỗi polyprotein gag và
gag-pol của HIV-1. Dưới đây là một số phương pháp xác định hoạt độ của
protease HIV-1 được sử dụng phổ biến.
Phƣơng pháp sắc ký lỏng cao áp pha đảo (Reversed Phase HPLC)
định lƣợng sản phẩm phân cắt từ cơ chất tổng hợp: Phương pháp có độ nhạy
cao nhưng nhược điểm là: tiêu tốn nhiều thời gian, không thích hợp làm nhiều
mẫu và thiếu tính liên tục. Những hạn chế này của HPLC đã dần được khắc phụ
bằng cách sử dụng phương pháp sắc ký lỏng siêu hiệu năng UPLC (Ultra
performance liquid chromatography) để tăng độ phân giải, độ nhạy và số lượng.
So với HPLC, UPLC có quá trình chuẩn bị mẫu đơn giản, thời gian phân tích
ngắn và có tính chọn lọc cao cho phép đánh giá đồng thời nhiều chất ức chế.
6
Phƣơng pháp quang phổ kế với cơ chất peptide có liên kết đặc hiệu
của protease HIV-1: cơ chất peptide được thiết kế có chứa vị trí phân cắt của
protease HIV-1 có khả năng hấp thụ cực đại tại bước sóng nhất định trong vùng
tử ngoại. Dưới tác dụng của protease, liên kết bị phân cắt, độ hấp thụ ánh sáng
giảm dần theo thời gian tác dụng của enzyme. Phương pháp được thực hiện
nhanh, không tốn nhiều thời gian, liên tục và cho số liệu chính xác.
Phƣơng pháp quang phổ huỳnh quang: Dựa trên trình tự cắt của
protease HIV-1, Taylor và tập thể (1992) đã tổng hợp một cơ chất huỳnh quang
DABCYL-SerGlnAsnTyrProIleValGln-EDANS để đo hoạt độ của enzyme. Cơ
chất được đặc trưng bởi chất phát quang là EDANS và chất thu tín DABCYL.
Khi protease HIV-1 thủy phân liên kết Tyr-Pro, DABCYL tách ra khỏi phần gắn
EDANS, nhờ đó EDANS phát ra huỳnh quang có thể đo được dưới tác dụng của
ánh sáng kích thích. Phương pháp này ít tốn thời gian, có độ nhạy, độ đặc hiệu
cao hơn quang phổ thông thường và được xem là phương pháp hiện đại nhất hiện
nay để xác định hoạt độ protease HIV-1.
1.2. CÁC CHẤT ỨC CHẾ PROTEASE HIV-1 VÀ ỨNG DỤNG TRONG
ĐIỀU TRỊ AIDS
1.2.1. Chất ức chế protease HIV-1 có nguồn gốc hoá học
Protease HIV-1 là một trong các đích quan trọng để phát triển thuốc điều
trị HIV/AIDS. Nhìn chung, các chất ức chế protease có thể chia thành hai
nhóm lớn: i) các chất ức chế có bản chất peptide và ii) các chất ức chế không
phải peptide. Ở nhóm thứ nhất, chất ức chế giống với cơ chất tự nhiên mang
liên kết đặc hiệu của protease HIV-1. Chúng được thiết kế giống với dạng
trung gian chuyển tiếp tứ diện hình thành trong quá trình protease xúc tác .
Trong khi đó, nhóm chất ức chế không phải peptide lại gắn với phân tử H2O
trong trung tâm hoạt động của protease làm cho protease không gắn được với
các polyprotein tiền thân của HIV-1 để thực hiện chức năng của mình.
7
Đến nay, đã có 8 thuốc PI được FDA cấp phép để điều trị cho bệnh nhân
nhiễm HIV, bao gồm: Atazanavir, Darunavir, Fosamprenavir, Indinavir,
Nelfinavir, Saquinavir, Tipranavir và Ritonavir. Để đánh giá mức độ mạnh yếu
của các chất ức chế các nghiên cứu trước thường sử dụng giá trị IC50 và IC90
(nồng độ của chất ức chế mà tại đó 50% và 90% hoạt tính của enzyme bị ức chế).
Saquinavir là chất ức chế đầu tiên được FDA phê duyệt. Cơ sở của thiết
kế dựa trên khả năng phân cắt các liên kết bất thường giữa Tyr-Pro hoặc Phe-
Pro trên chuỗi polypeptide pol tiền thân của protease. Các nghiên cứu trong
phòng thí nghiệm cho thấy, Saquinavir có hoạt tính ức chế cao với giá trị IC90 là
6 nM. Tuy nhiên, Saquinavir lại có hoạt tính sinh học thấp theo đường uống và
nhanh chóng bị phân hủy trong cơ thể.
Indinavir, Nelfinavir và Ritonavir đều được thiết kế dựa trên chức năng
nhận biết trình tự acid amin tương tự như Saquinavir. Trong điều kiện in vitro,
Ritonavir đã được chứng minh có khả năng ức chế các chủng HIV-1 phân lập
với IC90 vào khoảng 70 – 200 nM. Tác dụng phụ của thuốc là tương tác thuốc
cao nên nhiều thuốc bị chống chỉ định khi dùng Ritonavir, xảy ra nhiều rối loạn
chuyển hóa, giảm chức năng gan.
Indinavir là một chất ức chế mạnh và chọn lọc của protease ở nồng độ 0,6
nM. Indinavir được tăng cường độ hòa tan, hoạt tính sinh học theo đường uống
rất tốt và ức chế virus với nồng độ từ 50 – 100 nM. Mặc dù vậy, có một số vấn
đề liên quan đến Indinavir đó là thuốc gây sỏi thận ở khoảng 5 – 25% số bệnh
nhân, có tác dụng phụ trên da, niêm mạc và gây tăng bilirubin không triệu
chứng. Do đó, hiện nay Indinavir vẫn có vai trò thứ yếu trong điều trị HIV.
Nelfinavir cũng là một trong các chất ức chế protease được sử dụng nhiều
nhất. Ở điều kiện in vitro, Nelfinavir ức chế protease HIV-1 mạnh với Ki là 2,0
nM. Thuốc này đã được chứng minh có khả năng kháng một số chủng HIV-1 và
8
HIV-2 với IC50 là 9 – 60 nM. Tác dụng của Nelfinavir được tăng cường khi sử
dụng cùng các thuốc kháng retrovirus khác.
Bên cạnh các tác dụng phụ, khi sử dụng các thuốc tổng hợp hóa học để
điều trị cho các bệnh nhân nhiễm HIV phải xem xét tới vấn đề đột biến kháng
thuốc của HIV-1. Trong các đột biến kháng thuốc thì phổ các đột biến PI rất
rộng, có thể do sự đa hình xảy ra ở 49 gốc acid amin trong tổng số 99 gốc acid
amin của protease. Khi điều trị bằng các thuốc ức chế protease không tăng
cường, các đột biến chính làm giảm rõ rệt hoạt tính của các thuốc. Đối với các
chất ức chế protease tăng cường phải cần sự xuất hiện của nhiều đột biến đồng
thời mới xảy ra tình trạng kháng thuốc.
1.2.2. Chất ức chế protease HIV-1 có nguồn gốc tự nhiên
Mặc dù PI tổng hợp hoá học có tính đặc hiệu cao nhưng nhược điểm là gây
ra nhiều tác dụng phụ không mong muốn khi sử dụng trong thời gian dài và khả
năng kháng thuốc cao. Do đó, sự ra đời của các loại thuốc PI mới chống
HIV/AIDS là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, việc thiết kế các chất mới thường khá
phức tạp, phải trải qua nhiều bước thử nghiệm và không thân thiện với con người.
Chính vì vậy, ngoài các thuốc tổng hợp hóa học, các nhà khoa học cũng không
ngừng tìm kiếm và chọn lọc các chất tự nhiên có tác dụng ức chế protease HIV-1.
Nhiều dịch chiết từ thực vật và vi sinh vật đã được sử dụng để chống
nhiễm trùng, chống lại sự phát triển của các khối u cũng như có hoạt tính kháng
HIV-1 và protease HIV-1. Otake và tập thể đã nghiên cứu tác dụng của 30 dịch
chiết thực vật lên hoạt động của HIV-1 và nhận thấy khả năng ức chế nhiều
nhất là dịch chiết methanol của cây xà cừ Tây Ấn. Các loài thực vật khác cũng
có khả năng ức chế 40 – 50% hoạt tính của protease HIV-1 tại nồng độ 100
µg/ml như dịch chiết methanol thân rễ của cây Riềng nếp (Alpinia galangal) ức
chế 48,70% và cây Nhọ nồi (Eclipta prostrate) ức chế 42,53%.
9
Protease HIV-1 thuộc họ protease aspartyl, có dạng dimer và mang
những đặc điểm tương đồng với pepsin về cấu trúc cũng như cơ chế xúc tác.
Do protease HIV-1 có tính đặc hiệu cơ chất cao nên gần như không thể sử
dụng nó trong các khâu sàng lọc, vì các chất có mặt s ảnh hưởng đến phép
phân tích. Chính vì vậy, trong nhiều nghiên cứu, pepsin thường được dùng
thay thế cho protease HIV-1 trong quá trình sàng lọc. Chẳng hạn như, Rege và
tập thể đã sử dụng pepsin thay thế cho protease HIV-1 để đánh giá hoạt tính ức
chế của các dịch chiết từ thực vật. Kết quả cho thấy, dịch chiết ethanol của
Hương nhu tía (Ocimum sanctum) và Thần thông (Tinospora cordifolia) có hoạt
tính ức chế với IC50 tương ứng là 123,73 và 11,20 µg/ml.
Từ các dịch chiết thực vật và vi sinh vật ban đầu, một loạt các hợp chất thứ
cấp có khả năng ức chế protease HIV-1 đã được phân tách và tinh sạch bao gồm:
Các flavonoid: Đây là nhóm chất lớn nhất (các hợp chất polyphenol) được
tổng hợp trong các tế bào thực vật. Chúng được biết đến với nhiều tác dụng sinh
học quan trọng và đặc biệt là hoạt tính chống oxy hóa. Hoạt tính kháng HIV-1
của các flavonoid khác nhau đã được chứng minh. Một số chalcone trong nhóm
flavonoid như: hydroxypanduratin A và panduratin A từ dịch chiết metanol của
thân, rễ cây Gừng (Boesenbergia pandurata Holtt) thể hiện khả năng ức chế
hoạt độ protease HIV-1 với IC50 tương ứng là 5,6 µM và 18,7 µM.
Các lignin: Lignin là các hợp chất cao phân tử, có mặt chủ yếu ở thực vật
có mạch. Longipedunin A được phân lập từ cây Na rừng (Kadsura
longipedunculata Finet et Gagnet) ức chế protease HIV-1 với giá trị IC50 là 50
µM. Nhóm nghiên cứu của Gao đã phân lập và xác định được 26 lignin (và hai
triterpenoid) từ cây Oải hương (K.angustifolia (Bertol.) O. Kuntze). Trong số
này, binankadsurin A đã thể hiện hoạt tính kháng HIV với IC50 là 3,86 µM.
Các triterpen và dẫn xuất của chúng: Triterpen là những terpene chứa
6 đơn vị isoprene, có công thức C30H48, một số kết hợp với đường gọi là
10
saponin triterpen. Trong đó, nhiều hợp chất có hoạt tính ức chế protease HIV-
1 đã được biết đến như: acid maslinic, acid ursolic, acid oleanolic... Cụ thể,
acid ursolic và các dẫn xuất malonate mono-este có hoạt tính ức chế protease
HIV-1 với IC50 tương ứng 8 và 6 µM. Acid ursolic, acid maslinic và một số
triterpen khác cũng đã được phân lập từ một thực vật của Trung Quốc Geum
japonicum, trong đó acid maslinic thể hiện hoạt tính ức chế protease HIV-1
mạnh nhất. Bên cạnh tác dụng ức chế protease HIV-1, các triterpen cũng được
công bố làm ngăn chặn quá trình xâm nhập của HIV, ức chế enzyme phiên mã
ngược và ức chế quá trình trưởng thành của HIV.
Không chỉ có ở thực vật, nhiều triterpen phân lập từ nấm cũng cho thấy
hoạt tính ức chế protease HIV-1 với giá trị IC50 dao động từ 20 đến hơn 200 µM
chẳng hạn như các triterpen từ C. songaricum thể hiện hoạt tính ức chế mạnh
protease HIV-1 với giá trị IC50 từ 4 – 14 µM. Họ nấm Ganodermataceae gồm
hơn 200 loài chủ yếu ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Phân lập dịch
chiết chloroform của Ganoderma colossum (FR.) thu được 8 lactone lanostane
triterpen gọi tên là colossolactone I-VIII và các hợp chất đã biết như
ergosterol, schisanlactone, và colossolactone B, C, D, E và G. Trong đó,
colossolactone I và II ức chế mạnh nhất với IC50 tương ứng là 4,1 µM và 4,4
µM, các hợp chất còn lại ức chế yếu hơn với IC50 từ 10,8– 29,1 µM. Qua đây,
có thể thấy rằng nhiều hợp chất triterpen có hoạt tính ức chế protease HIV-1.
Các hợp chất phenol: Tannin – một nhóm hợp chất phenol và các hợp
chất phenol liên quan khác có khả năng kháng virus hiệu quả. Một số tannin
có thể thủy phân như acid gallic và các galloyl glucose phân lập từ cây Chiêu
Liêu (Terminalia chebula) và camellia-tannin H phân lập từ cây Trà My
(Camellia japonica) lần lượt thể hiện hoạt tính ức chế intergrase và protease
HIV-1 mạnh. Các curcumin phân lập từ dịch chiết ethyl acetate của thân rễ cây
Nghệ (Curcuma longa) cũng cho thấy hoạt tính kháng protease HIV-1 và
11
HIV-2. Từ dịch chiết chloroform quả thể của nấm G. colossum ở Việt Nam đã
phân lập được hai hợp chất hydroquinone farnesyl là ganomycin B đã biết và
hợp chất mới ganomycin I. Cả hai ganomycin I và ganomycin B ức chế
protease HIV-1 với giá trị IC50 lần lượt tương ứng 21,9 µM và 2,9 µM.
Ở trong nước, nghiên cứu của Đỗ Thế Lộc và Phạm Viết Dự đã cho thấy
tác dụng hỗ trợ điều trị HIV/AIDS trên lâm sàng của bài thuốc y học cổ truyền
MD 07. Ngoài ra, một số các nghiên cứu cũng được tiến hành để đánh giá tác
dụng của viên nang Brishamin hay thuốc BSP1 trong hỗ trợ điều trị bệnh nhân
nhiễm HIV/AIDS. Nghiên cứu của Lã Đình M i và Đái Duy Ban điều tra được
40 loài thảo mộc có tác dụng kháng virus, kháng HIV và tăng cường miễn dịch
có triển vọng ở Việt Nam. Khả năng ức chế protease HIV-1 của 8-
hydroxyquinoline, menadione và acid asiatic cũng được phát hiện bởi Nguyễn
Thị Hồng Loan và Phan Tuấn Nghĩa. Mặc dù, cho tới nay chưa có loại thuốc
nào có nguồn gốc tự nhiên được đưa vào điều trị lâm sàng cho bệnh AIDS
nhưng hoạt động đầy hứa hẹn của các sản phẩm tự nhiên này đã được chứng
minh. Bên cạnh tác dụng ức chế trực tiếp protease HIV-1, việc tìm ra các hoạt
chất này cũng s là cơ sở để thiết kế các chất hóa học có cấu trúc tương tự
nhưng được cải biến phù hợp nhằm tăng hiệu quả ức chế protease HIV-1.
Theo thống kê của Viện Dược liệu, Việt Nam có hơn 12.000 loài thực vật,
trong đó có gần 4.000 loài được dùng làm thuốc trong y học dân gian và y học
cổ truyền. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các cây thuốc Việt Nam có
chứa nhiều hoạt chất có tác dụng sinh học đáng chú ý. Nguồn thực vật phong
phú và nhiều cây thuốc, vị thuốc của Việt Nam s là nguồn nguyên liệu phong
phú cho việc sàng lọc và phát hiện ra các hoạt chất ức chế protease HIV-1,
làm cở sở cho việc phát triển thuốc điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS.
12
Chƣơng 2. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. NGUYÊN LIỆU
2.1.1. Mẫu dƣợc liệu
Các mẫu thực vật, bao gồm: lá cây Thạch châu (Pyrenaria jonqueriana
Pierre.), lá Ổi (Psidium guajava L.), cây Ma hoàng (Ephedra distachya L.) được
thu hái và kiểm tra tính chính xác về loài thông qua đặc điểm hình thái bởi TS. Đỗ
Thị Xuyến, Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên. Mẫu nghiên cứu
hiện được lưu giữ tại Khoa Hóa phân tích – Tiêu chuẩn, Viện Dược liệu.
2.1.2. Các hoá chất, nguyên liệu khác
Các hóa chất chính sử dụng cho nghiên cứu gồm: protease HIV-1 là sản
phẩm của đề tài mã số: ĐT-PTNTĐ.2012-G/02; pepsin, hemoglobin, pepstatin A,
dimethyl sulphoxide (DMSO), Coomassie Brilliant Blue R-250 (CBB), cơ chất
peptide L6525(Lys-Ala-Arg-Val-Nle-p-nitro-Phe-Glu-Ala-amide) cho protease
HIV-1 của Sigma-Aldrich (Mỹ), kit xác định hoạt tính protease HIV-1 sử dụng cơ