1 LỜI MỞ ðẦU 1. Tính cấp thiết của ñề tài luận án Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hóa, hiện ñại hóa (CNH, HðH) ñã và ñang diễn ra ở nhiều nước ñang phát triển. Ngày nay, khi toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới diễn ra sâu rộng do tác ñộng của cách mạng khoa học - công nghệ thời ñại thì CNH, HðH chỉ có thể thành công và ñược rút ngắn khi có chiến lược ñúng ñắn, gắn với các chính sách, giải pháp ñiều hành phù hợp với những biến ñộng của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Thực tế, một số quốc gia và lãnh thổ ñã sớm thành công trong công nghiệp hoá và gia nhập hàng ngũ NIEs, trong ñó có ðài Loan. Sự thành công của ðài Loan có nguyên nhân rất quan trọng là sự ñịnh hướng và ñiều tiết của nhà nước. ðiều ñó ñã ñể lại những bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước ñối với CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế. Ở nước ta, sự nghiệp CNH, HðH theo ñường lối ñổi mới của ðảng ta ñạt ñược những thành tựu quan trọng. ðất nước ñã ra khỏi khủng hoảng về kinh tế - xã hội và bước sang giai ñoạn ñẩy mạnh CNH, HðH nhằm mục tiêu ñưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện ñại vào năm 2020. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế ñang diễn ra ngày một mạnh mẽ thì yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ở nước ta ñang ñứng trước những thời cơ và thách thức to lớn ñối với CNH, HðH trong ñiều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. ðiều ñó càng khẳng ñịnh vai trò cần thiết của nhà nước trong ñịnh hướng, ñiều hành CNH, HðH ở nước ta. ðó là lý do nghiên cứu sinh chọn ñề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhà nước ñối với công nghiệp hoá, hiện ñại hoá ở ðài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam”.
218
Embed
1 LỜIMỞ ðẦU - neu.edu.vn · Chương 2 : Vai trò của nhà nước ñối với công nghiệp hoá, hiện ñại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế ở ðài
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
LỜI MỞ ðẦU
1. Tính cấp thiết của ñề tài luận án
Mấy thập kỷ qua, làn sóng công nghiệp hóa, hiện ñại hóa (CNH, HðH) ñã
và ñang diễn ra ở nhiều nước ñang phát triển. Ngày nay, khi toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới diễn ra sâu rộng do tác ñộng của cách mạng khoa học - công
nghệ thời ñại thì CNH, HðH chỉ có thể thành công và ñược rút ngắn khi có chiến
lược ñúng ñắn, gắn với các chính sách, giải pháp ñiều hành phù hợp với những
biến ñộng của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Thực tế, một số quốc gia
và lãnh thổ ñã sớm thành công trong công nghiệp hoá và gia nhập hàng ngũ
NIEs, trong ñó có ðài Loan. Sự thành công của ðài Loan có nguyên nhân rất
quan trọng là sự ñịnh hướng và ñiều tiết của nhà nước. ðiều ñó ñã ñể lại những
bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước ñối với CNH, HðH trong hội nhập
kinh tế quốc tế.
Ở nước ta, sự nghiệp CNH, HðH theo ñường lối ñổi mới của ðảng ta ñạt
ñược những thành tựu quan trọng. ðất nước ñã ra khỏi khủng hoảng về kinh tế -
xã hội và bước sang giai ñoạn ñẩy mạnh CNH, HðH nhằm mục tiêu ñưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện ñại vào năm 2020. Tuy
nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế ñang diễn ra ngày một mạnh mẽ thì yêu
cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ở nước ta ñang ñứng trước những
thời cơ và thách thức to lớn ñối với CNH, HðH trong ñiều kiện phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. ðiều ñó càng khẳng ñịnh vai trò cần thiết
của nhà nước trong ñịnh hướng, ñiều hành CNH, HðH ở nước ta.
ðó là lý do nghiên cứu sinh chọn ñề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhà
nước ñối với công nghiệp hoá, hiện ñại hoá ở ðài Loan trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 - 2003) - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận
dụng vào Việt Nam”.
2
2. Tổng quan các công trình ñã nghiên cứu có liên quan ñến luận án
Về vai trò của nhà nước ñối với quá trình CNH, HðH trong hội nhập kinh
tế quốc tế ñã ñược nhiều nhà nghiên cứu ñi sâu phân tích. Nghiên cứu về ðài
Loan ở nước ngoài, có thể nêu ra các công trình như: Chính sách và thể chế
trong quá trình tăng trưởng nhanh của Dahlman & Ousa (1997) [91]; Vai trò
của nhà nước trong phát triển kinh tế ðài Loan của Jocl (1994) [89]; Sự can
thiệp của nhà nước trong phát triển hướng ngoại: Lý thuyết tân cổ ñiển và thực
tiễn ðài Loan của Wade (1988) [96]; ðiều tiết thị trường: Lý thuyết kinh tế và
vai trò của chính phủ ở các nền kinh tế công nghiệp hoá mới ðông Á của Wade
(1990) [97]; Một số nghiên cứu ñược tập hợp trong công trình Suy ngẫm lại sự
thần kỳ ðông Á của Ngân hàng thế giới (2002) [57] có ñề cập ñến vấn ñề kinh
nghiệm về vai trò của nhà nước ñối với công nghiệp hóa, hiện ñại hóa ở một số
nước ðông Á. Gần ñây, công trình Nghịch lý của chiến lược ñuổi kịp – Tư duy
lại mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước của Li Tan (2008) [71] ñã tập
trung nghiên cứu mô hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước ñể luận giải về vai
trò quan trọng của nhà nước ñối với công nghiệp hoá ở một số nước như Liên Xô
và các nền kinh tế mới nổi ở khu vực ðông Á, trong ñó có ðài Loan…
Ở trong nước, một số nghiên cứu có ñề cập ñến vai trò của nhà nước với
tư cách là một nhân tố tác ñộng ñến tiến trình công nghiệp hoá, hiện ñại hoá ở
một số nước và vùng lãnh thổ ở ðông Á như: Kinh tế ðài Loan - Tình hình và
chính sách của Phạm Thái Quốc (1997) [66]; Công nghiệp hoá ở NIEs ðông Á
và bài học kinh nghiệm ñối với Việt Nam của Lê Bàn Thạch & Trần Thị Tri
(2000) [72]. ðặc biệt, nhiều công trình nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội
Việt Nam như: Nhà nước trong kinh tế thị trường các nước ñang phát triển châu
Á của ðỗ ðức ðịnh (1991) [31]; Công nghiệp hoá, hiện ñại hoá: Những bài học
thành công của ðông Á do Nguyễn Thị Luyến chủ biên (1998) [50]; Công
nghiệp hoá, hiện ñại hoá: Phát huy lợi thế so sánh - Kinh nghiệm của các nền kinh
3
tế ñang phát triển ở châu Á của ðỗ ðức ðịnh (1999) [32]; Lựa chọn sản phẩm và
thị trường trong ngoại thương thời kỳ công nghiệp hoá của các nền kinh tế ðông
Á do Nguyễn Trần Quế chủ biên (2000) [65]; Một số vấn ñề về công nghiệp hoá,
hiện ñại hoá ở Việt Nam của ðỗ Hoài Nam (2004) [56]; Kinh tế học phát triển
về công nghiệp hoá và cải cách nền kinh tế của ðỗ ðức ðịnh (2004) [34]… ñã
ñề cập và nghiên cứu về các chính sách của nhà nước nhằm thúc ñẩy CNH, HðH
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở một số nước ðông Á, trong có có ðài Loan và
rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Tuy nhiên, ñến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu toàn diện, có tính
hệ thống về vai trò của nhà nước ðài Loan ñối với CNH, HðH trong hội nhập
kinh tế quốc tế theo giác ñộ lịch sử kinh tế.
3. Mục tiêu của ñề tài luận án
- Làm rõ vai trò của nhà nước ñối với CNH, HðH ở ðài Loan trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước ñối với CNH,
HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở ðài Loan có ý nghĩa thực tiễn với nước ta
hiện nay.
4. Những ñóng góp mới của luận án
- Làm rõ hơn cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước ñối với CNH, HðH
trong hội nhập kinh tế quốc tế, ñặc biệt với những nước có nền kinh tế ở ñiểm
xuất phát thấp ñang thực hiện CNH, HðH nhằm ñẩy nhanh tiến trình phát triển.
- Tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng về vai trò nhà nước ñối với
CNH, HðH ở ðài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961 -
2003) ñể rút ra một số bài học kinh nghiệm về vai trò của nhà nước trong CNH,
HðH.
- Luận giải khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước ñối với CNH, HðH trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của ðài Loan
4
với nước ta hiện nay. ðồng thời, ñề xuất một số kiến nghị ñể tăng thêm tính khả
thi trong vận dụng các kinh nghiệm ñó.
5. ðối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- ðối tượng nghiên cứu của luận án là vai trò của nhà nước ñối với CNH,
HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở ðài Loan.
- Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của nhà nước với CNH, HðH trong hội
nhập kinh tế quốc tế bao hàm nhiều vấn ñề nhưng luận án chỉ tập trung nghiên
cứu về việc lựa chọn chiến lược CNH, HðH và các chính sách, giải pháp của
nhà nước tác ñộng vào tiến trình CNH, HðH.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1961 ñến năm 2003. Luận án lựa chọn thời
gian nghiên cứu như vậy vì từ ñầu những năm 1960, ðài Loan ñã chuyển sang
thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và từng bước hội nhập
vào ñời sống kinh tế quốc tế. ðến năm 2003, ðài Loan chính thức là thành viên
của WTO ñược khoảng 2 năm (ðài Loan trở thành thành viên chính thức của
WTO từ 01/01/2002). Mục ñích của luận án là làm rõ những ñiều chỉnh trong
chính sách, giải pháp của nhà nước ðài Loan cho phù hợp với những quy ñịnh
của WTO và tác ñộng của nó ñến tình hình kinh tế - xã hội. ðiều này tương ñồng
với Việt Nam khi Việt Nam mới trở thành thành viên của WTO từ 01/01/2007.
Tuy nhiên, về vai trò của nhà nước ðài Loan từ sau năm 2003 ñến nay cũng
ñược luận án nghiên cứu ñể làm rõ vai trò tích cực của nhà nước ñối với sự phát
triển của nền kinh tế tri thức trong hội nhập.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận án ñã kết hợp sử dụng các phương pháp
lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp ñối chứng so sánh và phương pháp
phân tích kinh tế ñể làm rõ nội dung nghiên cứu. ðồng thời trong nghiên cứu, tác
5
giả ñã kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số học giả trong
nước và quốc tế, chủ yếu là kết quả phân tích kinh tế lượng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở ñầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
ñược kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước ñối với công nghiệp
hoá, hiện ñại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Vai trò của nhà nước ñối với công nghiệp hoá, hiện ñại hoá
trong hội nhập kinh tế quốc tế ở ðài Loan (thời kỳ 1961 - 2003) và bài học kinh
nghiệm.
Chương 3: Khả năng vận dụng một số kinh nghiệm về vai trò của nhà
nước ñối với công nghiệp hoá, hiện ñại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế ở ðài
Loan vào nước ta hiện nay.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ðỐI VỚI CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ðẠI HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ðỀ VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ðẠI HOÁ TRONG
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1.1. Công nghiệp hoá, hiện ñại hoá
1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp hoá
Trong lịch sử xã hội loài người, công nghiệp hoá là con ñường tất yếu ñể
phần lớn các quốc gia trên thế giới phát triển và tiến tới hiện ñại, văn minh. Thực
tiễn ở nhiều nước cho thấy, công nghiệp hoá diễn ra rất phong phú, ña dạng về
mô hình bởi nó là quá trình phức tạp và bao hàm phạm vi rộng lớn. Do thời ñiểm
xuất phát và phương thức tiến hành khác nhau nên bản thân khái niệm công
nghiệp hoá cũng ñược quan niệm theo những cách tiếp cận khác nhau. Theo tổng
kết của UNIDO thì có ñến 128 cách ñịnh nghĩa khác nhau về công nghiệp hoá.
Thực tế, công nghiệp hoá là một khái niệm mang tính chất lịch sử. Tuỳ
theo góc ñộ nhìn nhận mà người ta nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của công
nghiệp hoá ñể ñưa ra những quan niệm khác nhau. Những quan niệm ñó có thể
quy về một số dạng cơ bản sau:
- Cuối thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp bắt ñầu ở nước Anh và
sau ñó lan sang các nước tư bản khác thì công nghiệp hoá ñược hiểu là ñưa ñặc
tính công nghiệp cho một hoạt ñộng; trang bị (cho một vùng, một nước) các nhà
máy, các loại công nghiệp... [40, tr. 48]. Do vậy, các nước này chủ yếu tập trung
vào phát triển các ngành công nghiệp và sự chuyển biến về kinh tế - xã hội khác
chỉ là hệ quả của phát triển công nghiệp. Quan niệm này có nhiều mặt không hợp
lý: nó không cho thấy mục tiêu cần ñạt của quá trình công nghiệp hoá; nó gần
7
như ñồng nhất quá trình công nghiệp hoá với phát triển công nghiệp; và nó
không thể hiện ñược tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá.
- Khi nền công nghiệp chuyển biến nhanh chóng từ kỹ thuật cơ khí giản
ñơn với máy hơi nước làm ñộng lực sang cơ khí phức tạp với ñộng cơ ñốt trong,
ñiện năng làm ñộng lực thì quan niệm công nghiệp hoá ñã ñược mở rộng, không
chỉ ñơn thuần là phát triển nền công nghiệp thành lĩnh vực ñóng vai trò chủ ñạo
trong nền kinh tế, mà còn là biến tất cả các hoạt ñộng sản xuất khác thành loại
hình hoạt ñộng công nghiệp.
- Từ 1926, Liên Xô bắt ñầu thực hiện công nghiệp hoá theo mô hình kinh
tế kế hoạch hoá tập trung. Mặc dù trước ñó chủ nghĩa tư bản ñã phát triển ở mức
ñộ nhất ñịnh nhưng nếu so với phương Tây lúc ñó thì Liên Xô vẫn thiếu một hệ
thống công nghiệp nặng hoàn chỉnh và kinh tế tiểu nông vẫn còn tồn tại khá phổ
biến. Bên cạnh ñó, Liên Xô còn bị phương Tây bao vây phong toả về kinh tế.
Trong bối cảnh ấy, mục tiêu của công nghiệp hoá là tập trung cao ñộ cho phát
triển công nghiệp nặng. ðiều này bao hàm cả ý nghĩa kinh tế và quốc phòng. Do
vậy, công nghiệp hoá ñược quan niệm là “Quá trình xây dựng nền ñại công
nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. ðó là sự phát triển công
nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy…” [40, tr. 49]. Quan niệm này
phù hợp với ñiều kiện của Liên Xô thời kỳ ñó. Trong quá trình thực hiện, mặc dù
có sự chú trọng nhất ñịnh ñến công nghiệp nhẹ và nông nghiệp nhưng bao giờ
công nghiệp nặng cũng ñược coi như một tiền ñề có ý nghĩa quyết ñịnh ñến sự
toàn thắng của công nghiệp hoá cũng như sự sống còn của ñất nước.
- Năm 1963, UNIDO ñưa ra khái niệm: "Công nghiệp hoá là một quá trình
phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của
cải quốc dân ñược ñộng viên ñể phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong
nước với kỹ thuật hiện ñại. ðặc ñiểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận
chế biến luôn thay ñổi ñể sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng,
có khả năng ñảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp ñộ cao, ñảm bảo
8
ñạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội". Quan niệm này chứa ñựng sự dung hoà các
ý kiến cho rằng quá trình công nghiệp hoá bao trùm toàn bộ quá trình phát triển
kinh tế - xã hội nhằm ñạt tới không chỉ sự phát triển kinh tế mà còn cả sự tiến bộ
về mặt xã hội [40, tr. 51].
Nhìn chung, mỗi cách quan niệm về công nghiệp hoá trên ñây ñều có
nhân tố hợp lý, nó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và gắn với những yêu cầu ñặt
ra trong phát triển. Tuy nhiên, những quan niệm này mới chỉ ñề cập ñến khía
cạnh vật chất - kỹ thuật mà chưa ñề cập ñến một vấn ñề cũng rất quan trọng là
khía cạnh cơ chế, thể chế. Bởi ngoài mục tiêu, những nội dung chủ yếu thì
phương thức thực hiện hay cách thức, cơ chế phân bổ sử dụng các nguồn lực
cũng là một vấn ñề hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp ñến sự thành bại
trong công nghiệp hoá.
Từ thực tế ấy, tác giả của luận án cho rằng: Công nghiệp hoá là quá trình
chuyển biến một nền kinh tế nông nghiệp mang tính tự cấp, tự túc khép kín với
lao ñộng thủ công là chủ yếu sang một nền kinh tế công nghiệp, vận hành theo
cơ chế thị trường dựa trên sự phân công lao ñộng xã hội phát triển ở trình ñộ
cao, với lao ñộng bằng máy móc, kỹ thuật và công nghệ hiện ñại trong tất cả các
lĩnh vực kinh tế nhằm tăng năng suất lao ñộng xã hội và thúc ñẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Với quan niệm như vậy, công nghiệp hoá là quá trình cải biến toàn diện
nền kinh tế. Ở khía cạnh vật chất - kỹ thuật, công nghiệp hoá là quá trình chuyển
biến căn bản trình ñộ kỹ thuật của nền kinh tế, từ tình trạng lạc hậu, dựa vào
phương pháp thủ công là chủ yếu sang nền kinh tế sản xuất dựa vào tiến bộ khoa
học - công nghệ mới nhất ñem lại năng suất, chất lượng và hiệu suất cao. Còn ở
khía cạnh cơ chế, thể chế thì công nghiệp hoá là quá trình cải biến thể chế và cấu
trúc của nền kinh tế theo hướng hiệu quả hơn, từ nền kinh tế hiện vật - tự cấp, tự
túc, khép kín sang nền kinh tế dựa trên nguyên tắc thị trường. Cả lý thuyết và
thực tiễn ñều ñã chứng minh, cơ chế thị trường thường là một phương thức tốt ñể
9
tổ chức hoạt ñộng kinh tế, nó cho phép phân bổ các nguồn lực xã hội một cách
hiệu quả. Phát triển kinh tế thị trường không chỉ là ñiều kiện tiền ñề mà là ñiều
kiện không thể thiếu cho cả quá trình công nghiệp hoá không chỉ ở các nước phát
triển ñi trước mà cả ở các nước ñang phát triển ngày nay.
ðến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất với nhau trong việc xác
ñịnh hệ thống các tiêu chí ñánh giá về công nghiệp hoá bởi các quan ñiểm ñược
ñưa ra bao quát một diện rộng nhưng lại thiếu sự phân loại và xác ñịnh rõ chuẩn
mực với từng lĩnh vực, từng yếu tố. Mặc dù vậy, tác giả luận án cho rằng, có thể
dựa vào 3 nhóm tiêu chí chủ yếu là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và phát triển bền vững ñể ñánh giá về trình ñộ công nghiệp hoá. ðây là những
yếu tố cơ bản phản ánh tính chất và nội dung của quá trình công nghiệp hoá,
chúng vừa phản ánh ở tầm khái quát, vừa phản ánh ở giác ñộ cụ thể, ño lường
ñược cả những thay ñổi về lượng và những biến ñổi về chất.
Những tiêu chí của từng nhóm này bao gồm: i) Nhóm tiêu chí về tăng
trưởng: tăng trưởng GDP (%), tăng trưởng GDP theo ñầu người (%), GDP bình
quân ñầu người; ii) Nhóm tiêu chí về chuyển dịch cơ cấu: cơ cấu ngành kinh tế,
cơ cấu công nghiệp (hàng chế tạo và hàng phi chế tạo), cơ cấu xuất khẩu (hàng
chế tạo và hàng phi chế tạo), cơ cấu lao ñộng và dân cư, cơ cấu vùng (mức ñộ ñô
thị hoá)…; iii) Nhóm tiêu chí về phát triển bền vững: công bằng xã hội, xoá ñói
giảm nghèo, tỷ lệ việc làm hay thất nghiệp, giáo dục, chất lượng sống, môi
trường chính trị - xã hội - kinh tế, năng lực thể chế, môi trường tự nhiên (mức ñộ
huỷ hoại, phục hồi). Ngoài ra có thể có các tiêu chí tham khảo khác: Chỉ số TFP;
Chỉ số phát triển người (HDI); Vị trí trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh.
1.1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện ñại hoá
Hiện ñại hoá ñược hiểu là toàn bộ các quá trình, các dạng cải biến, các
bước quá ñộ từ các trình ñộ kinh tế - kỹ thuật khác nhau ñang tồn tại lên trình ñộ
mới cao hơn dựa trên những thành tựu của khoa học - công nghệ. Ngày nay, hiện
10
ñại hoá ñược thừa nhận rộng rãi và ñược hiểu theo nghĩa rộng không chỉ ñơn
thuần là hiện ñại hoá công nghiệp mà còn là hiện ñại hoá nền kinh tế. Do vậy,
khi xét về bản chất, khái niệm hiện ñại hoá thường ñược các nhà lý luận cho là
hình thức ñặc biệt của sự phát triển xã hội.
Thực tế cho thấy, công nghiệp hoá luôn gắn chặt với hiện ñại hoá và chính
hiện ñại hoá là tiền ñề quyết ñịnh sự thành công của công nghiệp hoá. Các nhà
kinh tế học hiện ñại thường dùng phạm trù công nghiệp hoá như một tiêu chuẩn
phân ñịnh xã hội truyền thống và xã hội hiện ñại cũng như ñể phân ñịnh các thời
kỳ, các dạng hiện ñại hoá ñã và ñang diễn ra trong lịch sử xã hội loài người.
Thế kỷ XX ñã chứng minh, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ ñã ñưa
ñến những bước nhảy kỳ diệu trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và ñưa
xã hội loài người lên trình ñộ phát triển mới. Khoa học ñã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, nó thấm sâu vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất và thường
xuyên tạo ra những biến ñổi về chất trong phát triển. Chính sự phát triển của
khoa học và công nghệ ñã ñánh dấu và mở ra những bước ngoặt mới trong công
nghiệp hoá. Cách mạng khoa học – công nghệ là hình thức phổ biến trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất và ñời sống xã hội. Do ñó, khoa học – công
nghệ là một trong những phương tiện quan trọng nhất ñể giải quyết các vấn ñề
xã hội, là con ñường hiện ñại hoá của các quốc gia trên thế giới.
Kinh nghiệm phát triển của các nền kinh tế cho thấy, bản thân công
nghiệp hoá ñã bao hàm yêu cầu ñạt tới trình ñộ phát triển kinh tế hiện ñại nhất
hiện có vào thời ñiểm tiến hành. Quá trình ấy thúc ñẩy việc giải quyết nhanh
chóng những nhiệm vụ mà thực tiễn ñặt ra, ñồng thời ñẩy nhanh sự ứng dụng
những thành tựu của nó vào sản xuất. Trình ñộ của các hoạt ñộng sản xuất không
cố ñịnh theo một chuẩn mực kỹ thuật – công nghệ cứng mà nó luôn ñược nâng
cao, ñược hiện ñại hoá theo sự tiến triển của thời ñại. Như vậy, công nghiệp hoá
luôn phải ñi ñôi với hiện ñại hoá.
11
Người ðài Loan quan niệm CNH, HðH là quá trình chuyển biến từ một
xã hội trong ñó nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một xã hội hiện
ñại, ở ñó các ngành kinh tế, ñặc biệt là ngành công nghiệp và dịch vụ liên tục
ñược nâng cấp về trình ñộ kỹ thuật – công nghệ theo sự tiến triển của thời ñại,
mang lại giá trị gia tăng cao, cơ cấu kinh tế hiện ñại, nhằm mục ñích cao nhất là
ñạt tới trình ñộ của một nền kinh tế phát triển.
Theo quan ñiểm của ðảng ta, “CNH, HðH là quá trình chuyển ñổi căn
bản toàn diện các hoạt ñộng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội từ sử dụng lao ñộng thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao ñộng cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện ñại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học và công nghệ, tạo ra năng
suất lao ñộng xã hội cao” [25, tr. 43].
1.1.2. Công nghiệp hoá, hiện ñại hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
Ở hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX, làn sóng toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ
và tác ñộng ñến mọi mặt của ñời sống kinh tế – chính trị – xã hội trên toàn thế
giới. Trong ñó, toàn cầu hoá kinh tế vừa là trung tâm, vừa là cơ sở và là ñộng lực
thúc ñẩy các lĩnh vực khác của xu thế toàn cầu hoá nói chung và cũng là xu thế
thể hiện rõ nhất. ðiều này biểu hiện ở sự mở rộng mức ñộ và quy mô thương mại
thế giới; sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao ñộng trên phạm vi toàn cầu; sự
gia tăng các quá trình liên kết, hội nhập theo hướng tự do hoá làm xuất hiện hàng
loạt các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực dưới nhiều cấp ñộ; sự kết nối các nền
kinh tế quốc gia và khu vực thành một mạng trên quy mô toàn cầu. Về mặt bản
chất, toàn cầu hóa kinh tế xuất hiện gắn liền với xu thế vận ñộng, phát triển của
nền sản xuất xã hội, ñược thúc ñẩy bởi lợi ích của phân công lao ñộng quốc tế,
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ và tính xã hội hoá ngày càng
cao của lực lượng sản xuất.
12
Thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế ñã xuất hiện trong vài thập kỷ gần ñây.
Mặc dù cho ñến nay quan niệm về hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn có những
ñiểm chưa thống nhất nhưng tựu chung lại, có thể cho rằng: Hội nhập kinh tế
quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham
gia vào các ñịnh chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự
do hoá thương mại, ñầu tư và các hoạt ñộng kinh tế ñối ngoại khác; là sự gắn
kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới,
trong ñó mối quan hệ giữa các thành viên có sự ràng buộc theo những quy ñịnh
chung của các tổ chức ñó.
Xét về bản chất thì hội nhập kinh tế quốc tế là sự ñan xen, gắn bó và lệ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới. ðó cũng là
quá trình xoá bỏ từng bước và toàn bộ các rào cản về thương mại và ñầu tư giữa
các quốc gia, góp phần khơi thông các luồng di chuyển nguồn lực trong và ngoài
nước, tạo ñiều kiện cho việc mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ.
Thực tế cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế xuất phát từ những cơ sở kinh
tế xã hội hiện thực của thế giới hiện ñại, mang tính khách quan không phụ thuộc
vào ý chí của một quốc gia nào. ðiều ñó khẳng ñịnh hội nhập kinh tế quốc tế
như một tất yếu mang tính thời ñại.
Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm một số nội dung chủ yếu như: tham gia
vào hệ thống phân công lao ñộng quốc tế; tham gia và mở rộng thương mại quốc
tế; tham gia vào các hoạt ñộng tài chính quốc tế v.v... Tham gia các hình thức
liên kết kinh tế là một biểu hiện của hội nhập kinh tế quốc tế. ðó là việc chính
phủ các quốc gia ký kết với nhau các hiệp ñịnh tạo nên khuôn khổ chung cho sự
phối hợp, ñiều chỉnh quan hệ kinh tế giữa các nước với các hình thức chủ yếu là:
Hiệp ñịnh thương mại song phương, Khu vực mậu dịch tự do, Liên minh thuế
quan, Thị trường chung, Liên minh tiền tệ... Tuy nhiên, mỗi hình thức trên ñây
cũng có những ñiểm khác cơ bản và ñiều ñó thể hiện cấp ñộ và mức ñộ hội nhập.
13
Hiện nay, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế tế quốc tế ñang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ và có tác ñộng nhiều mặt ñến sự phát triển kinh tế của các nước
trên thế giới. Trong bối cảnh ñó, các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển ñến ñâu
cũng ñều có xu hướng ñẩy mạnh các quan hệ thương mại và ñầu tư quốc tế.
Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng
chính sự tụt hậu của mình, ngược lại những nước vội vã hội nhập thiếu sự chuẩn
bị những ñiều kiện cần thiết, không phát huy ñược nội lực hoặc không chủ ñộng
hội nhập cũng ñã bị trả giá.
Hội nhập kinh tế quốc tế mang ñến những cơ hội nhưng cũng ñặt ra những
thách thức to lớn, ảnh hưởng ñến tất cả các bộ phận trong nền kinh tế: cá nhân,
hộ gia ñình, công ty, ngành, quốc gia và vùng lãnh thổ.
Những cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại là rất lớn: Các nước,
nhất là các nước ñang phát triển, có thể tiếp nhận những nguồn lực vật chất,
những tri thức và kinh nghiệm trong hoạt ñộng thực tiễn ở cả tầm vĩ mô và tầm
vi mô; Có ñiều kiện nắm bắt thông tin và tiếp nhận chuyển giao những thành
tựu, những ñột phá về khoa học – công nghệ, về tổ chức và quản lý sản xuất kinh
doanh; Tạo khả năng mở rộng thị trường mới, mở rộng quan hệ với những ñối
tác mới cho các nước khi những hàng rào hạn chế ñối với các hoạt ñộng thương
mại và ñầu tư quốc tế ñược dỡ bỏ.
Bên cạnh ñó, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang ñến những thách thức to
lớn mà các nước phải ñối mặt và tìm cách vượt qua nhất là sức ép buộc các quốc
gia, các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường ngày
càng khắc nghiệt và nguy cơ gia tăng sự bất công, bất bình ñẳng thu nhập trong
nội bộ từng nước và giữa các nước.
ðối với các nước ñang phát triển, khi nền kinh tế còn yếu kém, sức cạnh
tranh còn thấp, trình ñộ quản lý còn nhiều hạn chế thì hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu là một tất yếu mang tính khách quan. Nó ñưa ñến những kỳ vọng về sự
14
gia tăng quy mô, nhịp ñộ tăng trưởng, nâng cấp các ngành kinh tế ñồng thời có
cơ hội ñể giải quyết vấn ñề ñói nghèo và bất bình ñẳng xã hội từ việc khai thác,
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Do vậy, các nước ñang phát triển
một mặt cần phải chủ ñộng, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế ñể khai thác, tận
dụng những cơ hội ñó nhưng mặt khác cũng phải hết sức chú trọng tới hình thức
và bước ñi trong quá trình hội nhập nhằm ñảm bảo các lợi ích của quốc gia cả về
kinh tế – chính trị và xã hội của mình.
Thời gian qua, hầu hết các nước ñang phát triển ñều thực hiện hội nhập
kinh tế quốc tế nhưng kết quả ñạt ñược lại không hoàn toàn giống nhau. Vấn ñề
ñặt ra với các nước này là cần phải có phương thức và cách thức quản lý quá
trình hội nhập ñể ñạt ñược mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ñề ra ñó là ñẩy
nhanh tốc ñộ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước
ñi trước, nâng cao chất lượng ñời sống nhân dân và khẳng ñịnh vị thế của mình
trong nền kinh tế thế giới.
1.1.2.2. Mục tiêu của CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế
CNH, HðH là một quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực của
ñời sống kinh tế – xã hội của mỗi nước với mục tiêu chung là thúc ñẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, phát triển xã hội, cải thiện ñời sống vật chất
và tinh thần của dân cư. Trong ñiều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, mục tiêu cụ
thể của CNH, HðH là:
- Thứ nhất, trang bị và trang bị lại công nghệ cho tất cả các hoạt ñộng
trong nền kinh tế nhằm tạo nên sự chuyển biến căn bản về lực lượng sản xuất
dựa trên việc tăng cường ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ, các tri
thức mới trong sản xuất và tổ chức quản lý sản xuất, nâng cao trình ñộ của người
lao ñộng ñể nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của các ngành sản xuất,
phát triển ngành nghề mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
15
- Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu nội tại mỗi ngành
kinh tế theo hướng hiện ñại. Trong giai ñoạn ñầu CNH, HðH, xu hướng là tỷ
trọng của ngành nông nghiệp sẽ giảm dần tuy giá trị tuyệt ñối vẫn tăng. Công
nghiệp phát triển mạnh, dần vươn lên chiếm vị trí hàng ñầu và ñưa nền kinh tế
chuyển sang trạng thái của nền kinh tế công nghiệp. Cơ cấu công nghiệp cũng sẽ
dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp chế biến. Ở giai ñoạn tiếp
nối, tỷ trọng của công nghiệp sẽ giảm dần nhưng trong cơ cấu nội tại của nó, tỷ
trọng các ngành dựa trên kỹ thuật, công nghệ cao sẽ tăng nhanh. ðồng thời, tỷ
trọng giá trị ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế sẽ ngày càng gia tăng, các loại
hình dịch vụ trình ñộ cao như dịch vụ ngân hàng – tài chính, bảo hiểm, tư vấn,
khoa học và công nghệ, y tế, giáo dục – ñào tạo... sẽ phát triển mạnh và chiếm
ưu thế trong cơ cấu ngành dịch vụ.
- Thứ ba, tạo ra những chuyển biến cơ bản về thể chế và xã hội. Việc thực
hiện CNH, HðH sẽ ñưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu kém
phát triển, ñồng thời tạo nên những biến ñổi hết sức sâu sắc về mặt thể chế kinh
tế và xã hội. Nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ mang nặng tính chất tự cung, tự
cấp sẽ dần chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển; cấu trúc lao ñộng xã hội
và dân số cũng có sự biến ñổi theo hướng tăng tỷ trọng của lao ñộng phi nông
nghiệp, lao ñộng kỹ thuật, dân cư ñô thị; hình thành tư duy và nếp sống công
nghiệp... Nói cách khác, sự biến ñổi về mặt thể chế và xã hội trong quá trình
CNH, HðH là quá trình chuyển dần từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn
minh công nghiệp và hướng ñến nền văn minh trí tuệ.
- Thứ tư, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Ngày nay, quá trình tự do hoá
thương mại và quốc tế hoá sản xuất ñã tác ñộng sâu sắc ñến sự phát triển của hầu
hết các nước. Sự mở rộng của hoạt ñộng thương mại quốc tế, các mối liên kết
kinh tế quốc tế ñược thúc ñẩy và tăng cường ñã tạo ra những cơ hội to lớn cho
tăng trưởng nhờ ñịnh hướng xuất khẩu và mở ra cơ hội cho các nước tham gia
vào quá trình phân công lao ñộng quốc tế. Nền kinh tế mỗi quốc gia trở thành
16
một bộ phận của nền kinh tế thế giới, chịu ảnh hưởng của những biến ñộng kinh
tế – chính trị – xã hội của thế giới và có tác ñộng tương hỗ ở những mức ñộ khác
nhau với nền kinh tế của các quốc gia khác. Mỗi nền kinh tế, dù lớn hay nhỏ, ñã
phát triển cao hay ñang phát triển, nếu biết phát huy các lợi thế của mình sẽ trở
thành một bộ phận không thể thiếu ñược trong nền kinh tế thế giới. Như vậy, các
nước ñang phát triển ngày nay cần phải biết gắn nền kinh tế trong nước với nền
kinh tế thế giới, phải hướng tới khai thác lợi thế so sánh của ñất nước trong mối
liên kết kinh tế với các quốc gia thuộc mọi trình ñộ ñể phát triển. Việc mở rộng
các quan hệ kinh tế quốc tế vừa là nội dung, vừa là phương thức thực hiện CNH,
HðH. Mở rộng thị trường trong và ngoài nước là một trong những ñiều kiện trọng
yếu ñể phát triển các ngành kinh tế. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế sẽ tạo ñiều
kiện khai thác các nguồn lực từ bên ngoài, giải quyết khó khăn về vốn ñầu tư, về
công nghệ và kinh nghiệm quản lý ñể ñẩy nhanh quá trình CNH, HðH,.
1.1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng ñến CNH, HðH trong hội nhập kinh tế
quốc tế
Trong lịch sử kinh tế thế giới, một số nước như Liên Xô giai ñoạn 1926 –
1937, Trung Quốc trước năm 1978, một số nước ASEAN và một số nước ở châu
Mỹ Latinh trong những năm 1950, 1960... ñã tiến hành công nghiệp hoá theo mô
hình khép kín, tự cấp tự túc, không hội nhập với nền kinh tế thế giới. Thực chất
ñó là mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (công nghiệp hoá hướng nội).
Với mô hình này, sự thành công hay thất bại của quá trình công nghiệp hoá hoàn
toàn phụ thuộc vào các nguồn lực trong nước, phụ thuộc vào cơ chế, chính sách
huy ñộng, phân bổ sử dụng các nguồn lực của nhà nước ở các nước này. Thực tế
chỉ có rất ít nước thành công với mô hình này và chỉ trong một thời gian nhất
ñịnh, còn lại ñại ña số các nước ñều không ñạt ñược những mục tiêu ñề ra, thậm
chí còn rơi vào tình trạng trì trệ, tụt hậu trong phát triển.
Tiến hành CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế về thực chất là tiến
hành cuộc ñua tranh phát triển quốc tế. Quá trình này vừa chịu tác ñộng của
17
những nhân tố nội tại của nền kinh tế vừa chịu tác ñộng của những nhân tố bên
ngoài. Các nhân tố bên trong bao gồm các nguồn lực (vốn, công nghệ, nhân lực),
thể chế, cơ chế huy ñộng và phân bổ sử dụng các nguồn lực, dung lượng thị
trường... ðặc biệt trong hội nhập kinh tế quốc tế, các nhân tố bên ngoài ngày
càng có ảnh hưởng to lớn ñến quá trình CNH, HðH. ðó là:
- Thứ nhất, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện ñại thúc ñẩy sự phát
triển của phân công lao ñộng quốc tế
Từ những năm 1950, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thời ñại diễn
ra mạnh mẽ tạo ra những bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Nó không chỉ
ñem lại sự phát triển của lực lượng sản xuất, hướng nền kinh tế một số nước phát
triển trên thế giới sang chiều sâu mà nó còn tác ñộng mạnh mẽ ñến phân công
lao ñộng ở phạm vi quốc gia cũng như quốc tế và dẫn ñến hình thành trật tự mới
về phân công lao ñộng quốc tế. ðồng thời, chính phân công lao ñộng quốc tế lại
tạo ra sự lệ thuộc giữa các quốc gia trong toàn bộ quá trình sản xuất sản phẩm và
cung cấp dịch vụ.
Sự hình thành mạng lưới sản xuất xuyên quốc gia ñược hỗ trợ bởi công
nghệ thông tin ñã làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan
niệm về phân công lao ñộng quốc tế trong bối cảnh mới cũng ñược mở rộng:
không chỉ bổ sung cho nhau bằng cách mua bán các sản phẩm (dù ñó là sản
phẩm hoàn chỉnh, nguyên liệu thô hay bán thành phẩm và các linh kiện rời) mà
là sự phân công lao ñộng mang tính trực tiếp ở bất kỳ khâu nào của chu trình
hoạt ñộng sản xuất kinh doanh: kể từ ý tưởng, nghiên cứu, chế thử, sản xuất
hàng loạt, maketing, tiêu thụ, dịch vụ sau bán hàng... Hoạt ñộng kinh tế hiện nay
ñã mang tính toàn cầu về mặt tổ chức. ðồng thời, xu hướng quốc tế hóa về sức
lao ñộng cũng ngày càng thể hiện rõ. Quá trình tự do hóa trong di cư lao ñộng và
xuất khẩu lao ñộng dần hình thành thị trường lao ñộng quốc tế. Nó trực tiếp ảnh
hưởng ñến cơ cấu lao ñộng của quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu lao ñộng và ảnh
18
hưởng trực tiếp ñến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội trong phát triển
của từng quốc gia.
Thực tế cho thấy, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin ñã làm
cho không gian mất dần ý nghĩa. Tri thức, công nghệ, lao ñộng, quản lý, hàng
hóa, tiền tệ... không bị bó hẹp trong biên giới một quốc gia. Việc tổ chức sản
xuất và khai thác thị trường trong phạm vi một nước ñã nhanh chóng chuyển
sang mục tiêu sản xuất và khai thác thị trường trên phạm vi toàn thế giới. Xu thế
ñó vừa là cơ sở, vừa là ñộng lực thúc ñẩy các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển
và ngày càng trở nên ña dạng hơn. Việc trở thành bộ phận của phân công lao
ñộng quốc tế và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu sẽ ñem lại những lợi ích to
lớn ñối với các quốc gia. ðiều ñó cho thấy, các nước ñi sau trong CNH, HðH
cần phải xác ñịnh rõ mục tiêu, bước ñi trong phát triển ñể tham gia có hiệu quả
vào hệ thống phân công lao ñộng quốc tế, hội nhập và ñứng vững trong nền kinh
tế toàn cầu hoá.
- Thứ hai, các công ty xuyên quốc gia ngày càng phát triển mạnh, ñóng
vai trò then chốt và chi phối nền kinh tế thế giới
Từ nửa cuối thế kỷ XX, các công ty lớn của các nước tư bản ñã mở ñầu
làn sóng mở rộng hoạt ñộng vượt ra ngoài biên giới quốc gia, thực hiện kinh
doanh xuyên quốc gia, lấy thị trường toàn cầu làm hướng hoạt ñộng chính. Thời
gian gần ñây xuất hiện xu hướng một số TNCs lớn sáp nhập với nhau hình thành
các tập ñoàn kinh tế xuyên quốc gia khổng lồ. TNCs cỡ lớn ñều có một hệ thống
kinh doanh lấy công ty mẹ làm trung tâm, mở rộng trên phạm vi rộng, hình thành
mạng lưới kinh tế toàn cầu, bao trùm hầu hết các khu vực, các quốc gia trên toàn
thế giới. Chính ñiều ñó ñã làm sâu sắc thêm sự phụ thuộc lẫn nhau và hội nhập
chức năng của nền kinh tế thế giới. Từ thực trạng này mà các nhà kinh tế ñã ñưa
ra thuật ngữ “chuỗi giá trị toàn cầu”. Nó ñược quan niệm là quá trình biến một
sản phẩm hay một dịch vụ phát triển từ ý tưởng, qua nghiên cứu thử nghiệm ñến
sản xuất rồi ñưa ñến tay người tiêu dùng và cuối cùng là các hoạt ñộng dịch vụ
19
do hàng loạt các hãng, các công ty khác nhau ñảm trách, tạo thành một mạng
lưới sản xuất, lắp ráp, phân phối.... nằm ở các quốc gia khác nhau trên thế giới.
ðiểm ñáng chú ý là TNCs ngày nay ñã có những biến ñổi lớn về chất.
Việc tập trung nỗ lực nghiên cứu ñổi mới hệ thống sản xuất nhằm làm giảm chi
phí ñầu vào, tăng khối lượng sản xuất và khuyến khích tiêu dùng hàng loạt
không còn là hướng ưu tiên. Các công ty hiện ñại ngày nay tập trung vào ñổi mới
sản phẩm nhằm gia tăng tốc ñộ tiêu dùng. ðể thu ñược lợi nhuận các công ty
nhất thiết phải có hệ thống sản xuất riêng của mình nhưng quy mô của các công
ty mẹ ñược giảm bớt và TNCs chỉ tập trung nắm giữ hệ thống tài chính và bản
quyền, những lĩnh vực ñem lại khoảng 70% trên tổng số lợi nhuận cho công ty từ
toàn bộ chu trình hoạt ñộng kinh doanh. Phần lớn hệ thống sản xuất, phân phối
của công ty ñược chuyển sang các nước kém phát triển hơn, nơi có chi phí sản
xuất thấp hơn và có thị trường tiêu thụ tại chỗ. Như vậy, sự hình thành và phát
triển mạng lưới sản xuất quốc tế ñã ñem lại cho hoạt ñộng sản xuất và dịch vụ
trên phạm vi toàn cầu những phương thức liên kết mới với vai trò ñầu tầu của
TNCs. Sự phát triển của phân công lao ñộng quốc tế ñã phát triển vượt qua giai
ñoạn chuyên môn hoá giữa các ngành và chuyển dần sang quá trình chuyên môn
hoá sâu trong nội bộ ngành, chuyên môn hoá theo ñối tượng, chi tiết.
Những xu thế trên có ảnh hưởng rất lớn ñến quá trình CNH, HðH ở các
nước ñang phát triển. Một mặt, nó cho phép các nước ñi sau ngay từ ñầu có thể
tham gia vào hệ thống phân công lao ñộng quốc tế, ñảm nhiệm những khâu riêng
biệt của một nhà máy toàn cầu cho dù chưa thể có một hệ thống công nghệ hoàn
chỉnh và hiện ñại. Nói cách khác, các nước ñang phát triển có thể tiếp nhận hệ
thống sản xuất và phân phối từ TNCs khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt
khác, xu hướng sáp nhập và bành trướng vai trò của TNCs cũng ñặt ra những
thách thức mới cho các nước ñang phát triển. Những biến ñổi cơ cấu kinh tế của
các nước này dường như khó tránh khỏi sự lệ thuộc vào chiến lược toàn cầu của
TNCs hay của các hãng ñầu tầu. Sự liên kết với TNCs sẽ tạo ñiều kiện phát triển
20
một số ngành công nghiệp mới và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của
các ngành ñó. Tuy nhiên, các hoạt ñộng ñầu tư và việc chiếm lĩnh thị trường của
TNCs có thể làm xuất hiện những nguy cơ với những nước ñang phát triển, ñó là
có thể mất khả năng kiểm soát và ñiều tiết ñối với một số ngành trong quá trình
hội nhập khi sức mạnh ñộc quyền và ñộc quyền nhóm ñược khai thác nhằm tăng
cường và củng cố sự kiểm soát của TNCs ñối với các nguồn lực và lợi nhuận.
- Thứ ba, sự gia tăng ảnh hưởng của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế
ñối với các quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế
Thực tế, các ñịnh chế quốc tế ra ñời nhằm ñáp ứng ñòi hỏi của xu thế vận
ñộng của nền kinh tế thế giới và chính sự tồn tại và hoạt ñộng của chúng lại thúc
ñẩy hơn nữa quá trình toàn cầu hóa. Thông qua các quy ñịnh của mình, các tổ
chức kinh tế, tài chính thế giới tham gia vào ñiều chỉnh quan hệ kinh tế, tài
chính, thương mại thế giới, ñiều chỉnh chính sách của các quốc gia theo chuẩn
mực quốc tế.
Ngày nay, quá trình tự do hoá thương mại ngày càng gia tăng trong khuôn
khổ của các hiệp ñịnh thương mại trên phạm vi toàn cầu (WTO), khu vực
(NAFTA, AFTA, v.v...) cũng như các hiệp ñịnh thương mại tự do song phương
và ña phương (FTAs). Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia có
chủ quyền không còn là chủ thể duy nhất có vai trò quyết ñịnh chính sách kinh tế
mà là sự tồn tại ñồng thời của nhiều ñịnh chế khác như EU, APEC, WB, IMF,
WTO... Các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế có uy tín ñang chi phối hoạt ñộng
thực tiễn và có thể làm thay ñổi các chính sách kinh tế của quốc gia thành viên
hoặc các quốc gia có nguyện vọng gia nhập. Thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế,
các quốc gia, các nền kinh tế sẽ phải tuân thủ những thỏa thuận chung. Một nước
hoặc một nền kinh tế sẽ không thể ñơn phương tự áp ñặt chính sách thuế quan
hay các biện pháp phi thuế quan ñể bảo hộ sản xuất trong nước mà phải tuân thủ
những thỏa thuận chung. ðiển hình như những quy ñịnh mới của WTO về xuất
nhập khẩu (thuế quan, trợ cấp xuất khẩu, thương quyền, hạn chế xuất khẩu,
21
v.v...), về ñầu tư nước ngoài (tỷ lệ nội ñịa hoá, tỷ trọng hàng xuất khẩu, v.v...),
về sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh và một số quy ñịnh khác có ảnh hưởng
rất lớn ñến các nước trong việc lựa chọn chính sách phát triển cũng như ảnh
hưởng ñến những hoạt ñộng của các doanh nghiệp ở các quốc gia ñó. Nói cách
khác, các quốc gia, các nền kinh tế thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế sẽ phải tự
ñiều chỉnh hệ thống luật pháp, chính sách cho phù hợp với chuẩn mực chung. ðó
là những thách thức to lớn với những nước tiến hành CNH, HðH từ ñiểm xuất
phát thấp, chưa ñủ sức cạnh tranh bình ñẳng trong nền kinh tế toàn cầu, thậm chí
ngay ở thị trường nội ñịa mà không thể áp dụng những biện pháp hỗ trợ, bảo hộ
như nhiều nước ñã thực hiện trước ñó. ðiều ñó cũng ñặt ra những yêu cầu về lựa
chọn lộ trình, bước ñi của hội nhập kinh tế quốc tế và chính sách CNH, HðH.
- Thứ tư, xu hướng ñối thoại, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia ngày càng
mở rộng và phát triển
Sau khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, xu hướng ñối thoại, hợp tác ñã mở
ra một giai ñoạn phát triển mới của nền kinh tế thế giới. Hầu hết các quốc gia
ñều tập trung ñiều chỉnh chiến lược phát triển, trong ñó ưu tiên mọi nguồn lực
cho hợp tác và phát triển kinh tế. “ða dạng hoá và ña phương hóa” trong quan hệ
kinh tế quốc tế ñã trở thành phương châm chủ ñạo của hầu hết các quốc gia trên
thế giới, cả các nước phát triển và các nước ñang phát triển. Liên kết và hợp tác
kinh tế ñã không ngừng mở rộng và phát triển trên quy mô toàn cầu. Như vậy,
với các nền kinh tế ñi sau trong CNH, HðH, việc hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế toàn cầu sẽ có cơ hội tiếp cận những nguồn lực quan trọng từ bên ngoài
và tham gia ñược vào hệ thống phân công lao ñộng quốc tế ñể thực hiện những
mục tiêu kinh tế – xã hội ñề ra.
Nói tóm lại, toàn cầu hoá kinh tế cùng với sự phát triển của khoa học –
công nghệ hiện ñại, ñặc biệt là công nghệ thông tin ñã làm cho không gian kinh
tế mở rộng, các ñịnh chế kinh tế quốc tế ñược áp dụng một cách phổ biến hơn
vừa tạo ra yêu cầu, vừa tạo khả năng tổ chức lại thị trường trên phạm vi toàn thế
22
giới. Các nước công nghiệp phát triển ñang chuyển ñổi cơ cấu nền kinh tế sang
một trạng thái mới ñược ñặc trưng bằng sự gia tăng vượt trội của khu vực dịch
vụ so với hai khu vực sản xuất vật chất. Bước chuyển ñổi này ñang có xu hướng
gia tăng, kéo theo sự chuyển ñổi ở những nước chậm phát triển hơn và tạo ra làn
sóng chuyển ñổi cơ cấu lan truyền trên phạm vi toàn thế giới, xác ñịnh tính chất
chuyển ñổi sang xã hội “hậu công nghiệp” trên quy mô toàn cầu.
Trong bối cảnh mới, những dự ñịnh về phân bổ nguồn lực ñầu tư không
còn hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của từng nước. Sự phát triển và
dịch chuyển cơ cấu kinh tế của một quốc gia sẽ chủ yếu phụ thuộc vào sức cạnh
tranh ñể có ñược chỗ ñứng vững chắc trên thị trường và khả năng ñiều chỉnh linh
hoạt ñể có thể ứng phó, kịp thời thích nghi với những biến ñộng trên thị trường
thế giới. ðiều ñó cho thấy, sự nghiệp CNH, HðH ở các nước ñang phát triển
ngày nay cần ñược xem xét theo cách tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu. Nghĩa là
muốn thực hiện ñược các mục tiêu ñặt ra trong CNH, HðH thì ñiều quan trọng
trước tiên là các nước này phải biết xác ñịnh vị trí của mình và làm thế nào ñể
trở thành một mắt xích của chuỗi giá trị toàn cầu. Nó vừa là yêu cầu bắt buộc
nhưng cũng là cơ hội cho các nền kinh tế ñang phát triển. Tuy nhiên, vấn ñề ñặt
ra là làm thế nào ñể gia nhập, chen chân vào ñược mạng lưới thị trường vốn ñã
và ñang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Bên cạnh ñó, các nước ñang phát triển và
các doanh nghiệp của nó cũng cần phải liên tục nâng cấp, cải thiện vị thế cạnh
tranh của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách chuyển ñổi từ mắt khâu có
giá trị gia tăng thấp sang mắt khâu có giá trị gia tăng cao hơn hoặc bằng cách
nâng cao năng lực cạnh tranh ở chính ngay mắt khâu ñang chịu trách nhiệm.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, với các nước ñang phát triển ngày nay
tiến hành CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế thì việc xác ñịnh mục tiêu,
bước ñi của CNH, HðH cũng như lựa chọn những giải pháp thực hiện một mặt
phải căn cứ vào ñiều kiện cụ thể bên trong nhưng mặt khác cần hết sức chú ý ñến
những yếu tố tác ñộng từ bên ngoài. Vấn ñề quan trọng là các nước này cần phải
23
tạo ñược cơ chế thích hợp nhằm tận dụng có hiệu quả những tác ñộng tích cực
mà quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, nhất là việc huy ñộng những
nguồn lực về vốn, công nghệ... tiếp thu và học hỏi những kinh nghiệm quản lý;
thâm nhập và mở rộng thị trường thế giới ñể ñẩy nhanh tiến trình CNH, HðH.
ðồng thời, các nước này cũng cần có chính sách hội nhập với lộ trình, bước ñi
thích hợp và các chính sách ñiều chỉnh kinh tế nhằm hạn chế ñược những tác
ñộng tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế ñối với tiến trình CNH, HðH.
1.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ðỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ðẠI
HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Vai trò của nhà nước ñối với sự phát triển kinh tế ñược thể hiện ngay
trong lôgic khách quan về sự ra ñời của nhà nước. Phạm trù vai trò của nhà nước
thể hiện khái quát các chức năng của nhà nước trong mối liên hệ giữa nhà nước
và xã hội, thể hiện ñặc trưng cho bản chất của nhà nước. Trong bất cứ chế ñộ xã
hội nào thì lĩnh vực kinh tế cũng là lĩnh vực ñóng vai trò quan trọng nhất vì nó là
nền tảng cho mọi lĩnh vực hoạt ñộng xã hội khác. Do vậy, trong mọi chức năng
của nhà nước ñều bao hàm các nội dung kinh tế, mang cái cốt vật chất là các
quan hệ kinh tế.
ðể thực hiện chức năng của mình ñối với sự phát triển kinh tế, nhà nước
có thể sử dụng các công cụ như pháp luật, chính sách, kế hoạch, các công cụ tài
chính, tiền tệ, kinh tế nhà nước, bộ máy nhà nước v.v... Nhưng xét cho cùng,
hoạt ñộng ban hành và thực thi chính sách thể hiện nội dung và phương thức
thực hiện chức năng của nhà nước, cũng chính là sự thể hiện vai trò của nhà
nước. Bởi chính sách của nhà nước là tổng thể các chủ trương, quan ñiểm chính
thức của nhà nước cũng như hoạt ñộng tổ chức thực thi các chủ trương, quan
ñiểm ñó. Kế hoạch, các công cụ tài chính, tiền tệ hay pháp luật cũng chính là các
dạng ñặc biệt của chính sách. Thông qua các chính sách nhà nước tác ñộng vào
nền kinh tế, có thể thúc ñẩy hoặc kìm hãm quá trình phát triển kinh tế.
24
1.2.1. Một số lý thuyết về vai trò của nhà nước ñối với sự phát triển kinh tế
Trong lịch sử, ñã có nhiều lý thuyết kinh tế bàn về vai trò của nhà nước
ñối với sự phát triển kinh tế với những quan ñiểm chưa ñồng nhất, thậm chí có
những khía cạnh là trái ngược nhau. Theo những cách tiếp cận khác nhau có thể
khái quát các trường phái lý thuyết ñề cập ñến vai trò của nhà nước như sau:
Thứ nhất, về các lý thuyết kinh tế học
Theo lý thuyết kinh tế chính thống, thị trường là phương thức hữu hiệu
nhất của xã hội loài người trong ñiều tiết các hoạt ñộng kinh tế và do vậy, nó là
công cụ hữu hiệu nhất ñối với các quốc gia kém phát triển ñể tiến lên hiện ñại.
Tuy nhiên, trong thế kỷ XX, nhiều quốc gia phát triển ñi sau lại sử dụng nhà
nước như một công cụ phát triển lại ñạt ñược tốc ñộ tăng trưởng cao hơn và hiện
ñại hoá nhanh hơn những nền kinh tế dựa chủ yếu vào thị trường. Việc xuất hiện
những trường phái lý thuyết mới ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt
ñộng kinh tế một mặt ñã góp phần lý giải cho sự thành công trong phát triển kinh
tế của những nước ñi sau nhưng mặt khác cũng ñưa ra những gợi ý về mặt chính
sách cho những nước ñi sau trong quá trình phát triển kinh tế và tiến lên hiện ñại.
- Trường phái Keynes là một trong những trường phái lý thuyết tiêu biểu
ñề cao vai trò can thiệp của nhà nước ñối với sự phát triển kinh tế. Các nhà kinh
tế thuộc trường phái Keynes cho rằng, mặc dù thị trường thường là một phương
thức tốt ñể tổ chức các hoạt ñộng kinh tế nhưng trong một số trường hợp thị
trường không thể phân bổ các nguồn lực của xã hội một cách hiệu quả và thị
trường có những hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội bên cạnh mục
tiêu hiệu quả kinh tế. Từ ñó, họ ñề cao vai trò can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế thị trường và ñưa ra khuyến nghị nhà nước nên thực hiện các chức năng
chủ yếu sau: i) Xác lập những ñiều kiện cần thiết về thể chế và pháp lý cho việc
sản xuất và trao ñổi hàng hoá, dịch vụ; ii) Hoạch ñịnh và tổ chức thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách
25
thu nhập và chính sách tỷ giá hối ñoái; iii) Cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất và
cung ứng các dịch vụ công cộng như giáo dục và y tế; iv) Kiểm tra và giám sát
các hoạt ñộng kinh tế; v) Nhà nước tham gia trực tiếp vào sản xuất hàng hoá và
dịch vụ [67, tr. 22-23].
Trong thực tế, lý thuyết của trường phái Keynes ñã thống trị trong các lý
thuyết kinh tế và trở thành cơ sở khoa học chủ ñạo cho việc thiết kế và ñiều hành
chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước công nghiệp phát triển trong suốt thời gian
từ sau chiến tranh thế giới II ñến những năm 1970. Mặc dù các quan ñiểm của
trường phái này bị phê phán kịch liệt do hậu quả từ những thất bại của các chính
sách của chính phủ nhưng trong thực tế ở nhiều nước, một số ñề nghị của
Keynes như tăng chi tiêu ngân sách ñể thúc ñẩy tăng trưởng kinh tế vẫn là một
trong những biện pháp ñược áp dụng cùng với các chính sách tiền tệ khác ở Nhật
Bản, Trung Quốc trong thời gian gần ñây.
- Trường phái Tân cổ ñiển ñã kế thừa lý thuyết “bàn tay vô hình” của
A.Smith và ñưa ra cơ sở lý thuyết cho nền kinh tế thị trường tự do với tư cách là
hình thức hiệu quả nhất trong hoạt ñộng của con người. Các tác giả thuộc trường
phái này ñã dựa vào những bằng chứng thực tế ñể kịch liệt phê phán những ñề
nghị của Keynes về sự can thiệp quá mức của nhà nước. Từ ñó, họ ñề nghị nhà
nước cần can thiệp càng ít càng tốt và chuyển giao hầu hết các chức năng cho thị
trường. Thực tế, lý thuyết của trường phái Tân cổ ñiển và các ñề nghị của họ
nhìn chung ñược chấp nhận rộng rãi trong các nhà hoạch ñịnh chính sách ở các
nước OECD, WB, IMF và nhiều tổ chức viện trợ song phương.
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu ñã chỉ ra giới hạn nghiêm trọng của lý
thuyết Tân cổ ñiển là lý thuyết này giả ñịnh rằng chi phí giao dịch bằng không,
có nghĩa là không tồn tại chi phí giao dịch trên thị trường. Một giới hạn nữa của
lý thuyết này là bản chất tĩnh và tương ñối tĩnh trong lập luận chính và tính “phi
thể chế” trong mô hình phát triển của lý thuyết này [71, tr. 23-24].
26
Trong thực tế, Lý thuyết về chi phí giao dịch (của Ronald Coase và
Douglass North) và Lý thuyết tiến hoá về phát triển kinh tế (hay còn gọi là lý
thuyết tân Schumpeter về phát triển kinh tế) – hai trường phái có tính chất nhất
quán với lý thuyết kinh tế học Tân cổ ñiển – ñã giúp khắc phục phần lớn những
giới hạn của lý thuyết Tân cổ ñiển. Lý thuyết chi phí giao dịch khẳng ñịnh rằng
luôn tồn tại chi phí thực hiện các trao ñổi hay trao ñổi tự nguyện trên thị trường,
do ñó tồn tại chi phí của việc sử dụng thị trường. Chi phí giao dịch bao gồm tất
cả các chi phí cho những hoạt ñộng phát sinh trong quá trình mua bán, trao ñổi
như xác ñịnh và bảo vệ quyền lợi của người bán và người mua, thu thập thông
tin về giá cả, về chất lượng của sản phẩm, dịch vụ ñược trao ñổi, dự thảo và ñàm
phán hợp ñồng, ñăng ký bảo hiểm, giám sát việc thực hiện hợp ñồng, tiến hành
thanh tra ñể ñánh giá chất lượng của sản phẩm, giải quyết các tranh chấp, quy
ñịnh hình phạt ñối với các hành vi vi phạm hợp ñồng v.v… Trên thực tế, các chi
phí giao dịch liên quan ñến tất cả các lĩnh vực như kế toán, thương mại, tín dụng,
ngân hàng, thị trường vốn, bảo hiểm, lập pháp, toà án, công tác thực thi luật và
các hoạt ñộng có liên quan khác trong chính phủ [71, tr. 58]. Lý thuyết chi phí
giao dịch ñã cung cấp cách nhìn mới trong việc tìm hiểu mô hình phát triển kinh
tế dựa vào nhà nước: xu hướng một số nền kinh tế phát triển sau dựa vào nhà
nước trong phát triển kinh tế có thể ñược lý giải bằng cách kết hợp hai nhân tố:
chi phí sử dụng thị trường và lợi thế thông tin của các nền kinh tế phát triển sau.
Mô hình phát triển dựa vào nhà nước nổi lên trước hết là do việc sử dụng chính
phủ như là công cụ ñiều phối với giá rẻ hơn sử dụng thị trường. Ở các nước ñang
phát triển ñi sau, nhà nước trở thành công cụ mạnh trong ñiều tiết quá trình sản
xuất trong nước. Các nền kinh tế phát triển sau có thể nghiên cứu các mô hình
phát triển công nghiệp của các nền kinh tế ñi trước ñể áp dụng vào quá trình sản
xuất ở nước mình – ñó chính là lợi thế thông tin. Chính phủ của một nền kinh tế
ñang phát triển ñi sau có lợi thế hơn trong việc chuyển ñổi thông tin kinh tế
thành những mục tiêu phát triển rõ ràng, trong ñiều tiết phân bổ nguồn vốn giữa
27
các thành phần kinh tế trong nước và tập trung những nguồn lực xã hội có hạn ñể
ñầu tư vào những ngành công nghiệp có tốc ñộ tăng trưởng cao [71, tr. 290]. Lý
thuyết tiến hoá về phát triển kinh tế ñã khắc phục ñược bản chất tĩnh của kinh tế
học Tân cổ ñiển. Giống như trường phái Tân cổ ñiển, trường phái này công nhận
sự thay ñổi về công nghệ như là ñộng lực chính tạo ra tăng trưởng kinh tế nhưng
ñã nghiên cứu sâu hơn cơ chế của sự thay ñổi về công nghệ bằng cách ñặt những
ñổi mới công nghệ và cơ chế phổ biến công nghệ ở vị trí trung tâm. Lý thuyết
này khái quát sự phát triển kinh tế của thế giới như một quá trình năng ñộng, tiến
triển liên tục từ mô hình kinh tế – công nghệ cũ sang mô hình mới, ñược thúc
ñẩy bởi cả quá trình ñổi mới cơ bản – tạo ra ñộng lực chính và ñổi mới tiệm tiến
– giúp phát tán ñổi mới cơ bản ñến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Trường
phái này còn phân tích sự tương tác giữa các thể chế và sự thay ñổi công nghệ.
Thực tế, lý thuyết này có thể ñược sử dụng ñể luận giải việc các nước ñang phát
triển ñi sau có thể thu ñược lợi hay nâng cao ñược năng suất nhờ quá trình truyền
bá công nghệ bằng cách dựa vào nhà nước như một công cụ ñiều tiết [71, tr. 31].
Vai trò lãnh ñạo của nhà nước còn cho phép các nền kinh tế ñang phát triển ñi
sau tận dụng tốt hơn quá trình truyền bá mô hình kinh tế – công nghệ từ những
nền kinh tế ñi trước. Do việc ứng dụng trực tiếp công nghệ tiên tiến và áp dụng
các mô hình chuyên môn hoá có thể tạo ra “gia tăng năng ñộng” về sản lượng
nên các nền kinh tế phát triển sau có thể tiến những bước dài hơn trong quá trình
hiện ñại hoá so với các nền kinh tế khác không thực hiện ñược ñiều này vì thiếu
các thể chế nhà nước có thể thực hiện ñược chiến lược phát triển “từ trên xuống”
hoặc thiếu sự nhất trí tập thể trong việc sử dụng nhà nước như một công cụ phát
triển thực sự [71, tr. 290].
- ðại diện tiêu biểu của Trường phái chính hiện ñại là nhà kinh tế học
Samuelson ñã ñưa ra mô hình kinh tế hỗn hợp và cho rằng cần có sự kết hợp giữa
nhà nước và thị trường trong ñiều tiết kinh tế. Theo ông, nhà nước có những
chức năng quan trọng sau: nâng cao hiệu quả của nền kinh tế; hoàn thiện quá
28
trình phân phối tổng hợp thu nhập quốc dân; sử dụng các công cụ chính sách
kinh tế vĩ mô ñể ổn ñịnh nền kinh tế; ñề xuất và thực hiện các chính sách kinh tế
ñối ngoại hay chính sách kinh tế quốc tế của một quốc gia. ðể thực hiện các
chức năng ñó, nhà nước có thể áp dụng các chính sách và biện pháp nhằm sửa
chữa các khuyết tật của thị trường như bảo ñảm những cân ñối chung trong nền
kinh tế; ñiều chỉnh hoặc tái phân bổ các nguồn lực khan hiếm; cân ñối các khoản
thu, chi tài chính và ngân sách; tái phân phối các nguồn thu nhập trong xã hội ñể
thực hiện sự công bằng xã hội...
Nói một cách khái quát, trong kinh tế học, lập luận quan trọng nhất ủng hộ
việc nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là “sự thất bại của thị trường”. Chính
phủ phải can thiệp vào một số lĩnh vực khi thị trường hoạt ñộng không tốt. Lập
luận trên thường ñược sử dụng ñể lý giải việc nhà nước can thiệp vào các hoạt
ñộng kinh tế ở các nước có nền kinh tế phát triển, ở ñó nhà nước chỉ ñóng vai trò
bổ sung cho thị trường. ðáng chú ý là lập luận về “sự thất bại của thị trường”
trong việc giải thích sự can thiệp của nhà nước buộc phải thừa nhận một sự thất
bại và bất lực hoàn toàn của thị trường, ñiều này lại ñi ngược lại với nguyên tắc
coi thị trường là tối thượng. Thực tế cho thấy, không một nền kinh tế nào là nền
kinh tế “hoàn toàn” thị trường, tất cả các nền kinh tế trên thế giới ñều có thể gọi
là “nền kinh tế hỗn hợp” giữa thị trường và nhà nước duy chỉ khác biệt ở mức ñộ
và cách thức nhà nước ñược sử dụng trong các hoạt ñộng kinh tế. Với các nền
kinh tế thị trường phát triển, chính phủ chủ yếu ñóng vai trò ñiều tiết hay trọng
tài của cuộc chơi, hoặc là người thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập,
cung cấp phúc lợi công cộng, ñảm bảo sự ổn ñịnh vĩ mô. Nhưng với một số nền
kinh tế ñược coi là nền kinh tế dựa vào nhà nước thì chính phủ có chức năng
khác là ñiều phối quá trình chuyển ñổi công nghiệp của ñất nước, bao gồm cả
việc ñóng vai trò là nhà sản xuất trực tiếp. Hơn nữa, nhằm thực hiện vai trò ñiều
phối, chính phủ ở các nước này tự làm giảm chức năng trọng tài công bằng và do
ñó không phát triển những chức năng như vậy [71, tr. 16]. Thực tế ñã chứng
29
minh, hầu hết các nước ñi sau lựa chọn mô hình nền kinh tế “dựa vào nhà nước”
nhưng vẫn không từ bỏ lý thuyết về thị trường tự do.
Nhìn chung, các lý thuyết kinh tế học nêu trên có nhiều mặt hợp lý, có thể
chỉ dẫn con ñường phát triển kinh tế cho các quốc gia. Tuy nhiên, vấn ñề ñáng
chú ý là nhiều lý thuyết lại ñược xây dựng dựa trên những giả thuyết gắn liền với
với các nước phát triển mà ở ñó nền kinh tế thị trường ñã phát triển ở trình ñộ
cao. Trong khi ñó ở nhiều nước ñang phát triển, cả nhà nước và thị trường ñều
không hoạt ñộng ñúng như các giả ñịnh và giả thuyết của các lý thuyết trên. Do
vậy, việc áp dụng các lý thuyết này ở các nước ñang phát triển về cơ bản thường
không mang lại những kết quả như kỳ vọng ñặt ra.
Từ thực tế ñó, nhiều nhà kinh tế ñã phê phán lý thuyết kinh tế chính thống
lúc ñó và tiến hành ñi tìm giải pháp nhằm giải quyết những vấn ñề nan giải nhất
của các nước ñang phát triển. Trong ñó tiêu biểu là hai nhóm chính: Cấu trúc
luận và Thuyết tự do mới. Quan niệm về vai trò của nhà nước là ñiểm khác nhau
chính và là trung tâm của cuộc tranh cãi giữa hai quan ñiểm lý thuyết này.
- Trường phái Cấu trúc luận ra ñời khi lý thuyết về hệ thống thị trường tự
do không còn ñược coi là lý thuyết kinh tế chính thống. Mục ñích của trường
phái này là ñi tìm giải pháp nhằm giải quyết những vấn ñề của thế giới thứ ba và
nó ñã trở thành lý thuyết chính thống của các nước thế giới thứ ba. Trường phái
này có phần chịu ảnh hưởng bởi học thuyết của J.M. Keynes và cũng ñược mở
rộng, bổ sung thêm nhiều cách tiếp cận, trong ñó có cả cách tiếp cận có ñịnh
hướng cấp tiến như phương pháp luận mácxít. Việc ñề cao vai trò nhà nước và
họ cho rằng nhà nước ở các nước ñang phát triển nên thực hiện vai trò can thiệp
tích cực, ñứng ra trực tiếp ñiều hành và thực hiện chiến lược phát triển là một
trong những quan ñiểm nổi bật của họ.
Các nhà Cấu trúc luận tập trung bàn về mối quan hệ của các loại cơ cấu
kinh tế - xã hội và sự phát triển kinh tế ñược coi như sự biến ñổi có liên quan tới
30
các cơ cấu ñó. Cơ cấu kinh tế ñược xem xét bao gồm nhiều mặt: cơ cấu ngành;
cơ cấu kinh tế ñối ngoại; cơ cấu năng suất; cơ cấu doanh nghiệp; cơ cấu xã hội.
Theo quan ñiểm của trường phái này, thị trường không ñủ khả năng ñảm bảo sự
phát triển kinh tế ổn ñịnh cũng như không thể giúp các nước ñang phát triển cải
tạo ñược cơ cấu kinh tế lạc hậu của mình. Do vậy, nhà nước cần ñóng vai trò tích
cực thúc ñẩy tăng tích luỹ, tăng ñầu tư, chuyển ñổi cơ cấu kinh tế. Họ nhấn mạnh
ñầu tư là yếu tố ñóng vai trò then chốt trong tăng trưởng kinh tế và chuyển ñổi
cơ cấu phục vụ quá trình công nghiệp hoá. Chính phủ các nước thế giới thứ ba
phải ñóng vai trò trung tâm trong việc khắc phục tình trạng lạc hậu kinh tế, có
vai trò tích cực trong quá trình công nghiệp hoá, ñặc biệt là trong quá trình tích
luỹ tư bản, yếu tố cần thiết hàng ñầu cho ñầu tư phát triển [34, tr. 23].
Ưu ñiểm, ñồng thời cũng là nhược ñiểm của tư duy cấu trúc luận là nó
phân tích một cách riêng rẽ bản chất của từng nền kinh tế hoặc từng vùng lãnh
thổ ñang phát triển, tách khỏi các nước hoặc các nền kinh tế phát triển, ñiều mà
trong thực tế khó có thể tách bạch ñược. Họ phân tích những vấn ñề liên quan
ñến cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội của một quốc gia ñang phát triển nhưng không
thấy rõ ñược mối quan hệ tác ñộng qua lại giữa sự phát triển của các yếu tố bên
trong với bên ngoài, không nhận thức ñược những tác ñộng tích cực của các
quan hệ kinh tế quốc tế ñối với những ñiều kiện ngoại thương tới các nước ñang
phát triển. ðây chính là lý do mà trường phái tự do mới ñược ủng hộ khi họ phê
phán tính “biệt lập” và “tự cô lập” của cấu trúc luận và nêu ra sự cần thiết phát
triển mạnh thương mại quốc tế và nêu ra yếu cầu ñòi hạn chế bớt sự can thiệp
trực tiếp của nhà nước trong nền kinh tế thị trường [34, tr. 29-31].
- Trong khi ñó, trường phái Tự do mới lại cho rằng, các nước ñang phát
triển thất bại trong phát triển kinh tế có nguyên nhân từ việc không tận dụng
ñược những cơ hội mà sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế ñem lại.
Các tác giả của trường phái Tự do mới tin tưởng vào sự ñiều tiết của thị
trường, ñặc biệt là giá cả và cho rằng, giá cả thị trường là yếu tố quyết ñịnh sự
31
phân phối nguồn lực. Luận cứ chính của thuyết tự do mới là sai lệch giá cả sẽ
sinh ra phi hiệu quả và tự do hoá mậu dịch sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả
hơn. Giá cả ñược ñề cập ñến trong cách tiếp cận của chủ nghĩa tự do mới bao
gồm: giá cả của các hoạt ñộng thương mại trong một quốc gia; giả cả trong hoạt
ñộng ngoại thương; giá cả liên quan ñến tỷ lệ lãi suất và tiền lương; giá cả cơ sở
hạ tầng và ñầu vào cho sản xuất. Theo họ, khi giá cả bị chệch khỏi mức giá cả thị
trường tự do thì nền kinh tế sẽ không ñạt hiệu quả. Giá cả thị trường tự do ñược
xác ñịnh trên thị trường thế giới. Sự sai lệch giá cả có thể do ñộc quyền tư nhân,
song trong phần lớn các trường hợp có nguyên nhân từ sự can thiệp trực tiếp
hoặc gián tiếp của chính phủ khi theo ñuổi một số mục tiêu kinh tế hoặc xã hội
nào ñó. Do vậy, những sự sai lệch về giá cả cần ñược ñiều chỉnh lại cho phù hợp
với giá cả thị trường và ñể loại bỏ sự sai lệch về giá cả và thực hiện “giá cả hiệu
quả” cần ñể các lực lượng thị trường hoạt ñộng trong phạm vi quốc gia cũng như
trong các quan hệ kinh tế quốc tế [34, tr. 37].
ðiểm nổi bật trong nội dung lý thuyết Tự do mới là sự phê phán gay gắt
sự can thiệp sâu của nhà nước. Các tác giả thuộc trường phái này lập luận rằng
sự can thiệp trực tiếp và sâu rộng của nhà nước, ñiển hình là việc thực hiện chính
sách thay thế nhập khẩu là một trong những nguyên nhân dẫn ñến sự sai lệch giá
cả. Theo họ, việc thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch ở nhiều nước giúp cho
các doanh nghiệp ở các nước này tránh khỏi sự cạnh tranh quốc tế, không phải
chịu sức ép nâng cao năng lực cạnh tranh như ở các nước thực hiện thị trường
mở. Tình trạng chi phí sản xuất cao, chất lượng hàng hoá thấp là những ñặc
trưng nổi bật của nhiều ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu ở các nước ñang
phát triển. Ngoài ra, ở nhiều nước ñang phát triển, nhà nước còn bộc lộ nhiều
mặt hạn chế như những nhà lập kế hoạch thiếu thông tin, ñề ra kế hoạch không
sát thực tế, không có công cụ làm ñòn bẩy cho việc thực thi kế hoạch, nhà nước
còn can thiệp sâu vào hoạt ñộng kinh doanh của các cơ sở kinh tế, chi tiêu ngân
sách quá mức, vay nợ nhiều... Từ ñó, họ cho rằng, cần phải giảm bớt sự can thiệp
32
trực tiếp của nhà nước, thực hiện tự do hoá mậu dịch thông qua việc giảm bớt
các chính sách và biện pháp bảo hộ thuế quan và phi thuế quan [34, tr. 37].
Về cơ bản, thuyết Tự do mới là một xu hướng phát triển mới của thuyết
Tân cổ ñiển về sự phát triển của kinh tế thị trường tự do, ñề cao vai trò của các
lực lượng thị trường trong việc khắc phục những hạn chế do nhà nước can thiệp
quá sâu vào nền kinh tế gây ra, khuyến khích việc áp dụng các chính sách kích
thích sự phát triển của kinh tế thị trường tự do và mở cửa. ðó là một loại quan
ñiểm phát triển mang tính chính sách. Tuy không phủ nhận vai trò quan trọng
của nhà nước nhưng muốn hạn chế bớt sự can thiệp trực tiếp và quá sâu của nhà
nước làm cho nền kinh tế mất ñi tính năng ñộng và hiệu quả.
Thực tế, cả hai trường phái lý thuyết Cấu trúc luận và Tự do mới ñều có
ảnh hưởng chi phối ñối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở các nước ñang
phát triển trong những khoảng thời gian nhất ñịnh. Tuy nhiên, vào những năm
1980, khi quá trình toàn cầu hoá cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của
khoa học – công nghệ hiện ñại, của công nghệ thông tin, của kinh tế tri thức thì
thực tiễn cũng ñặt ra nhiều vấn ñề mới với các nước ñang phát triển và do ñó
những quan ñiểm mới có liên quan ñến hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục ñược bổ
sung cho những trường phái lý thuyết này. Mặc dù vậy, cả hai trường phái này
ñều bộc lộ những hạn chế trước xu thế toàn cầu hoá ñang ngày càng mạnh mẽ và
sự phát triển của công nghệ mới ñó là ñều chưa tìm ra lời giải ñáp thoả ñáng cho
nhiều vấn ñề mới nảy sinh như kinh tế tri thức, thương mại ñiện tử… [34, tr. 48].
Ngày nay, trong xu thế phát triển của thế giới ñương ñại, ngày càng nhiều
vấn ñề ñặt ra ñối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở các nước ñang phát triển,
trong ñó nổi bật là các vấn ñề về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường; việc
xác ñịnh sự phân công hợp lý giữa nhà nước và thị trường nhằm khai thác triệt
ñể những lợi thế, ñồng thời tránh ñược hoặc giảm thiểu những mặt hạn chế của
nhà nước cũng như thị trường. Nhiều nhà nghiên cứu hiện ñại cho rằng, các nước
ñang phát triển có thể cải thiện tình hình kinh tế thông qua việc cải cách theo
33
ñịnh hướng thị trường nhưng không có nghĩa là hạ thấp vai trò của nhà nước;
quy mô của khu vực nhà nước và mức ñộ can thiệp của nhà nước không quan
trọng bằng cách thức hoạt ñộng của nhà nước và quan hệ giữa nhà nước và khu
vực tư nhân. Họ nhấn mạnh rằng sự can thiệp của nhà nước cần phải ñiều chỉnh
liên tục phù hợp ñể khai thác tối ña những cơ hội và giảm thiểu những rủi ro từ
hội nhập kinh tế quốc tế. Quan ñiểm chính thống hiện ñại ñược ñề xuất bởi các
nhà kinh tế của WB ñã nêu rõ, nhà nước nên ít tham gia vào những lĩnh vực mà
thị trường vận hành tốt và nên tham gia nhiều hơn vào các lĩnh vực không thể
dựa vào thị trường. ðồng thời, khi các hành ñộng can thiệp là cần thiết, chúng
nên ñi cùng hoặc thông qua các lực lượng thị trường chứ không phải chống lại
thị trường [67, tr. 30]. Trên cơ sở tổng hợp các kinh nghiệm thực tế ở NIEs châu
Á thời gian qua, Robert Wade ñã ñúc kết lại sáu chức năng của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường. ðó là: Nhà nước duy trì sự ổn ñịnh kinh tế vĩ mô; Nhà
nước cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất; Nhà nước cung cấp các hàng hoá công
cộng; Nhà nước góp phần phát triển các thể chế ñể cải thiện các thị trường lao
ñộng, tài chính, công nghệ... ; Nhà nước loại bỏ những méo mó, lệch lạc về giá
cả khi thị trường có những sự phát triển thái quá dẫn ñến những “thất bại thị
trường”, làm tổn hại cho nền kinh tế; Nhà nước phân phối lại thu nhập, ñảm bảo
ñủ những nhu cầu cơ bản cho người nghèo nhất [34, tr. 425].
Thứ hai, các lý thuyết về phương pháp và công cụ giải quyết những vấn
ñề kinh tế của các nước ñang phát triển
Ngoài cách tiếp cận trên giác ñộ lý thuyết kinh tế học nêu trên, một số lý
thuyết tiếp cận nghiên cứu trên giác ñộ phương pháp và công cụ nhằm ñịnh hình
cách thức tiến hành ñể thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội ở các nước ñang
phát triển.
- WB sử dụng phương pháp tiếp cận khung, tức là coi nền kinh tế như một
hệ thống thống nhất, là tập hợp các nguyên tắc của quy chế theo ñó các chủ thể
kinh tế ra quyết ñịnh và thực hiện các quyết ñịnh trong phạm vi một nền kinh tế
34
nhất ñịnh. Họ cho rằng sự can thiệp trực tiếp của chính phủ sẽ làm méo mó thị
trường, các ñiều kiện kinh doanh và ñiều ñó sẽ dẫn tới tình trạng kém hiệu quả
trong phân bổ nguồn lực. Họ coi tự do hoá với tốc ñộ nhanh là yếu tố cơ bản ñể
loại bỏ những méo mó và bất hợp lý trong phân bố nguồn lực, ñồng thời chính
phủ không cần xác ñịnh ngành công nghiệp tiềm năng và ưu tiên phát triển mà
chính thị trường sẽ thực hiện ñiều ñó [19, tr. 62]. Về mục tiêu chính sách,
phương pháp tiếp cận này coi việc giải quyết các vấn ñề thâm hụt ngân sách,
thâm hụt cán cân thanh toán, cung ứng tiền tệ, lạm phát và nợ nần là những ưu
tiên cao nhất. Những người ủng hộ phương pháp này ñặt trọng tâm vào tự do hoá
với sự can thiệp của chính phủ ở mức thấp nhất. Về tốc ñộ chuyển ñổi và ñiều
chỉnh, phương pháp này coi quá trình ñiều chỉnh có thể thực hiện ñược ngay
trong ngắn hạn và càng nhanh càng tốt.
- Các chuyên gia kinh tế của chính phủ Nhật Bản bàn về việc giải quyết
các vấn ñề kinh tế của các nước ñang phát triển lại sử dụng phương pháp tiếp cận
thiết lập bộ phận. Họ coi nền kinh tế bao gồm nhiều thành phần riêng lẻ khác
nhau: doanh nghiệp, bộ máy hành chính nhà nước, dự án ñầu tư, các ngành kinh
tế và chúng có liên quan ñến các yếu tố sản xuất như ñất ñai, lao ñộng, vốn, công
nghệ. Họ coi phát triển kinh tế là quá trình mở rộng về lượng và cải thiện về chất
của các thành phần nêu trên của nền kinh tế. ðịnh hướng theo kết quả hay mục
tiêu là ñặc ñiểm cơ bản của cách tiếp cận này. Mục tiêu chính sách của phương
pháp tiếp cận thiết lập bộ phận là lấy phát triển và mở rộng khu vực kinh tế thực
(khu vực sản xuất) như tổng sản lượng, công ăn việc làm, cơ cấu kinh tế là mục
tiêu hàng ñầu trong hệ thống chính sách. Họ coi trọng và nhấn mạnh vào các
biện pháp chính sách dài hạn ñược cụ thể hoá bằng các kế hoạch hàng năm nhằm
hướng tới mục tiêu ñã ñịnh. Theo họ, chính phủ cần ñóng vai trò tích cực và hỗ
trợ. Các chính sách kinh tế cần ñịnh hướng vào phát triển các ngành kinh tế cụ
thể của nền kinh tế nhằm hướng tới mục tiêu ñã ñịnh, bao gồm chính sách phát
triển nông nghiệp, chính sách phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ ñã lựa
35
chọn, chính sách thị trường hoá các khu vực kinh tế tự cung, tự cấp. Hơn nữa, họ
cũng cho rằng, ñể thị trường hoá nền kinh tế thì tự do hoá là ñiều kiện cần nhưng
chưa ñủ bởi ở các nước ñang phát triển, kinh tế thị trường sẽ không tự nó phát
triển mà nhà nước phải chủ ñộng thiết kế và ñưa cơ chế thị trường vào áp dụng
[19, tr. 67]. Nhà nước phải thực hiện các chính sách và biện pháp phù hợp nhằm
thiết lập các thể chế, cơ chế cần thiết với kinh tế thị trường.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng, việc giải quyết các vấn ñề kinh
tế ở các nước ñang phát triển có thể có nhiều cách khác nhau tuỳ theo cách tiếp
cận. Nhưng rõ ràng, một giải pháp hợp lý phải ñược xây dựng dựa trên sự phối
hợp của các cách tiếp cận với nhau và trên hết vẫn phải ñạt ñược các yêu cầu về
ổn ñịnh kinh tế vĩ mô, tạo dựng và thúc ñẩy phát triển kinh tế thị trường, thực
hiện tự do hoá ñể cho kinh tế thị trường phát triển.
Thứ ba, lý thuyết về lợi thế so sánh – cơ sở của chính sách thương mại
quốc tế
Thực tế cho thấy, lý thuyết về lợi thế so sánh (“Thuyết thương mại cũ”)
ñến nay vẫn ñược coi là cơ sở nền tảng ñể xây dựng chính sách thương mại quốc
tế của các quốc gia. Dựa trên quan ñiểm cho rằng các quốc gia khác nhau về
năng suất của các ngành, về các nguồn lực (vốn, lao ñộng, v.v…), các nhà kinh
tế học ñã ñề xuất mô hình chuyên môn hoá sản phẩm dựa vào ưu thế của tự
nhiên và lao ñộng (mô hình David Ricardo) và chuyên môn hoá và trao ñổi dựa
trên sự dồi dào của các yếu tố sản xuất (mô hình Heckscher - Ohlin). D. Ricardo
dựa trên quan ñiểm sự khác biệt về năng suất lao ñộng do sự khác biệt về công
nghệ ñã chứng minh rằng thương mại giữa hai quốc gia có thể ñem lại lợi ích
cho cả hai nếu như mỗi quốc gia tập trung sản xuất và xuất khẩu mặt hàng mà nó
có lợi thế so sánh. Xuất phát từ việc nhấn mạnh về sự khác biệt nguồn lực (lao
ñộng, vốn, ñất ñai) giữa các quốc gia, Heckscher và Ohlin ñã ñưa ra ñịnh lý: Một
quốc gia sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá thâm dụng yếu tố
sản xuất mà quốc gia ñó dồi dào một cách tương ñối [98].
36
Mặc dù còn một số ñiểm hạn chế nhưng lý thuyết về lợi thế so sánh vẫn
ñược coi là cơ sở nền tảng ñể xây dựng chính sách thương mại quốc tế của các
quốc gia hiện nay. Bất kỳ quốc gia nào cũng có ít nhất một lợi thế so sánh, bỏ
qua một lợi thế so sánh cũng ñồng nghĩa với việc lãng phí nguồn lực quốc gia.
ðối với các nước ñang phát triển, vấn ñề là phải xác ñịnh ñược những ngành,
lĩnh vực lợi thế so sánh ñể khai thác và phát huy. Nhà nước cần phát huy vai trò
quan trọng của mình ñối với vấn ñề này. Những ngành có lợi thế so sánh cũng
cần ñược hỗ trợ từ phía nhà nước. Trong thực tế, các nước thường chọn biện
pháp ñánh thuế nhập khẩu, hoặc trợ cấp xuất khẩu, hoặc tham gia các hiệp ñịnh,
các khối thương mại tự do. ðiều ñó sẽ cho phép bảo vệ và tối ña hóa lợi ích quốc
gia hơn là việc ñể thị trường tự do hoàn toàn. Ngoài ra, chính sách của nhà nước
cũng cần hướng tới việc giảm bớt các loại chi phí giao dịch, mở rộng thị trường
khu vực nhằm khai thác lợi thế về khoảng cách ñịa lý, giảm chi phí vận chuyển.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ ngày càng phát triển, xu thế toàn cầu hóa,
khu vực hóa ngày càng ñược ñẩy mạnh thì những lợi thế so sánh tĩnh của các
nước sẽ bị giảm thiểu và mất dần ý nghĩa. Do vậy, các nước cần tranh thủ khai
thác có hiệu quả những lợi thế so sánh tĩnh cho phát triển trước khi chúng bị mất
ñi. ðồng thời, cần có chính sách nhằm thúc ñẩy sự hình thành lợi thế so sánh
mới, lợi thế còn ở dạng tiềm năng.
Ngoài ra, xuất phát từ nhận ñịnh rằng, mặc dù “thuyết thương mại cũ” ñã
góp phần giải thích rất nhiều cơ cấu thương mại toàn cầu nhưng vẫn còn một số
hiện tượng quan trọng mà nó không giải thích ñược, ví dụ như khối lượng
thương mại giữa Pháp và ðức, giữa Mỹ và Canaña rất cao, dù hai nước khá
giống nhau về tài nguyên, về khí hậu hay hiện tượng hàng hóa mà các nước phát
triển buôn bán với nhau thường là cùng một sản phẩm (như Thuỵ ðiển xuất khẩu
xe Volvo sang ðức trong khi ðức xuất khẩu xe BMW sang Thuỵ ðiển) chứ
không phải luôn luôn xuất khẩu sản phẩm này, nhập khẩu sản phẩm khác, sự ra
ñời của “Thuyết thương mại mới” ñã có vai trò rất quan trọng trong việc giải
37
thích về hoạt ñộng thương mại quốc tế và cũng ñưa ra những gợi ý về mặt chính
sách cho các nước. Krugman ñã chứng minh “thương mại nội ngành” hoàn toàn
có thể là hậu quả của sự ña dạng về chủng loại sản phẩm và ñặc tính sản xuất.
Ông cho rằng, một số ngành công nghiệp có ñặc tính mà kinh tế học gọi là “tính
tiết kiệm do quy mô” (economies of scale): số lượng sản xuất càng cao thì giá
phí bình quân càng thấp. Rất nhiều loại sản phẩm có ñặc tính này, quốc gia nào
cũng có một số sản phẩm như vậy. ðặc tính “tiết kiệm do quy mô” sẽ dẫn ñến
khuynh hướng tập trung hóa các hoạt ñộng kinh tế [98]. Khi mới xuất hiện,
“thuyết thương mại mới” thường ñược coi là một lý do ñể nhà nước can thiệp
bảo hộ những ngành công nghiệp có tính tiết kiệm do quy mô. Krugman tin rằng,
về lý thuyết, bảo hộ có thể có ích. Lý thuyết về các yếu tố chuyên biệt cũng gợi ý
rằng, nhà nước cần bù ñắp thiệt hại cho những ngành sản xuất trong nước trước
sự cạnh tranh do nhập khẩu sẽ tốt hơn là cản trở thương mại.
Như vậy, theo các lý thuyết về thương mại quốc tế thì bức tranh thương
mại thế giới ñược ñịnh ñoạt bởi những yếu tố như tài nguyên và khí hậu (như
trong thuyết thương mại cũ), nhưng thêm vào ñó là rất nhiều những chuyên biệt
hóa căn cứ trên tính tiết kiệm do quy mô, như thuyết thương mại mới. ðó là lý
do tại sao khối lượng thương mại toàn cầu trên thực tế rất lớn, nhất là giữa
những nước khá giống nhau, hơn là khối lượng mà thuyết thương mại “cũ” (chỉ
căn cứ trên sự khác biệt tài nguyên và khí hậu) tiên ñoán.
Tóm lại, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay,
một trong những vấn ñề nổi bật là vai trò của nhà nước có chủ quyền trong việc
ñiều hành nền kinh tế và vị trí của họ trong mối quan hệ với các nước khác cũng
như các thể chế quốc tế. Mặc dù còn những quan ñiểm chưa ñồng nhất nhưng về
cơ bản các trường phái lý thuyết ñều thống nhất rằng, nhà nước ở các quốc gia
có chủ quyền vẫn tiếp tục ñóng vai trò quan trọng, không chỉ ñịnh hướng mà còn
can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp tạo những ñiều kiện thuận lợi cho kinh tế phát
triển. Nhà nước xác ñịnh mục tiêu phát triển rõ ràng, nhà nước thực hiện hức
38
năng ñiều tiết phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế và tập trung những nguồn
lực xã hội có hạn ñể ñầu tư vào những ngành trọng yếu. ðồng thời, nhà nước
cũng là người quyết ñịnh mức ñộ tham gia vào toàn cầu hoá và tự do hoá. Nhà
nước không thể không mở cửa, không hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Nhà
nước cần giành một mức ñộ tự do hoá cao hơn cho các lực lượng thị trường và
tăng cường tính dân chủ, minh bạch ñể ñáp ứng những nhu cầu ña dạng của các
nhóm lợi ích trong xã hội. ði ngược lại những xu thế ñó, nền kinh tế có thể sẽ rơi
vào tình trạng trì trệ, không phát triển ñược, mức ñộ phụ thuộc có nguy cơ gia
tăng và nền ñộc lập có thể bị ñe doạ.
Thực tiễn ñã chứng minh, hầu hết những nước tiến hành cải cách, mở cửa,
tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và nhà nước có chính sách ñẩy mạnh phát
triển giáo dục, nâng cao năng lực khoa học – công nghệ, ñều là những nước
giành ñược nhiều cơ hội và ñã ñạt ñược những thành tựu kinh tế – xã hội quan
trọng, vượt qua ñược những thách thức và hạn chế ñược tác ñộng tiêu cực của xu
thế tự do hoá và toàn cầu hoá. Trên nền tảng phát triển kinh tế – xã hội, các nước
này cũng giữ vững ñược nền ñộc lập, ñồng thời vai trò của nhà nước cũng ñược
củng cố và nâng cao. Ngược lại, những nước do dự hoặc không tiến hành cải
cách và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế ñã không có ñiều kiện thu hút nguồn
vốn, tiếp thu công nghệ mới, tri thức quản lý tiên tiến... ñều có nguy cơ rơi vào
trạng thái trì trệ, khủng hoảng về kinh tế – xã hội.
1.2.2. Vai trò của nhà nước ñối với CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc
tế ở các nước ñang phát triển
Trong lịch sử phát triển của nhiều nước, CNH, HðH ñóng vai trò rất quan
trọng ñối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Với tư cách là một phương thức phát
triển, công nghiệp hoá ñược khởi ñầu từ châu Âu, sau ñó lan tới Bắc Mỹ, Nhật
Bản với nhịp ñộ nhanh chóng. Sang thế kỷ XX, công nghiệp hoá ngày càng trở
nên phổ biến và là con ñường ñể ñưa các nước ñang phát triển thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu. Với công nghiệp hoá, những tiến bộ khoa học - công
39
nghệ ñã giúp cải biến toàn bộ lực lượng sản xuất, tạo ra một nền công nghiệp
mới có thể sản xuất các máy công cụ, những loại sản phẩm tiêu dùng ñại trà,
những dây chuyền sản xuất liên tục và những nhà máy khổng lồ. Chính công
nghệ mới trong sản xuất ñã tạo tiền ñề cho việc chuyển giao nhiều chức năng lao
ñộng của con người cho máy móc, góp phần nâng cao năng suất lao ñộng, giảm
bớt chi phí, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. ðiều ñó khẳng ñịnh, cách
mạng khoa học – công nghệ là một phương tiện hiện thực có thể giúp các nước
kém phát triển gắn công nghiệp hoá với hiện ñại hoá ñể tăng tốc, khắc phục tình
trạng tụt hậu và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển ñi trước.
Vai trò to lớn của CNH, HðH biểu hiện ở chính kết quả của nó, ñó là sự
chuyển ñổi một cách căn bản và toàn diện các hoạt ñộng sản xuất kinh doanh,
quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng lao ñộng thủ công sang sử dụng những công
nghệ và phương pháp hiện ñại. Thực hiện thành công CNH, HðH sẽ giúp các
nước ñang phát triển tạo ra một sức mạnh kinh tế, mở ra sự biến ñổi kinh tế – xã
hội ñất nước trên nhiều phương diện: i) Thúc ñẩy tăng năng suất lao ñộng, nâng
cao chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường; ii) Thúc
ñẩy tăng trưởng kinh tế, mở rộng liên kết kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng năng ñộng, hiệu quả; iii) Tạo thêm nhiều việc làm mới, gia tăng thu
nhập cho người lao ñộng và góp phần giải quyết các vấn ñề xã hội; iv) Tạo thế
và lực ñể tham gia có hiệu quả vào quá trình phân công lao ñộng quốc tế.
Trong nửa cuối thế kỷ XX, một số quốc gia và vùng lãnh thổ do biết phát
huy các tiềm năng và lợi thế của mình tham gia tích cực vào quá trình phân công
lao ñộng quốc tế ñể tiến hành CNH, HðH nên ñã thành công, rút ngắn khoảng
cách tụt hậu với các nước phát triển và gia nhập hàng ngũ NIEs như Hàn Quốc,
ðài Loan, Xingapo... Bên cạnh ñó, còn có một số nước ñang cố gắng vươn lên
tiến tới gia nhập hàng ngũ các nước công nghiệp hoá mới. Tuy nhiên, số ñông
các nước ñang phát triển vẫn gặp khó khăn trong tiến trình thực hiện công
nghiệp hoá và do vậy nền kinh tế vẫn trong tình trạng thấp kém, lạc hậu.
40
Thực tế ñó cho thấy, CNH, HðH ở các nước ñang phát triển là một quá
trình phức tạp, với sự ña dạng về mô hình và cách thức tiến hành bắt ngưồn từ
những khác biệt về ñiều kiện và môi trường. Trong lịch sử phát triển của một số
nước, CNH, HðH là một quá trình tự phát bắt nguồn từ ñộng cơ lợi nhuận của
các chủ thể kinh tế. Mặc dù cơ chế thị trường ñược coi là cơ chế phân bổ sử
dụng có hiệu quả nguồn lực nhưng trong thực tế, xuất phát từ ñộng cơ lợi nhuận
nên có hiện tượng các nhà ñầu tư ñổ xô vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận
cao, ñến một mức ñộ nào ñó sẽ xảy ra hiện tượng bão hoà, thậm chí là khủng
hoảng và hậu quả tiếp theo sẽ là làm lãng phí các nguồn lực xã hội. ðối với
nhiều nước khác, CNH, HðH không phải là một quá trình tự phát, mà là một quá
trình có ñịnh hướng trong một tầm nhìn bao quát, lâu dài và có sự can thiệp, ñiều
tiết của nhà nước ñể hướng tới mục tiêu ñã lựa chọn.
Hiện nay, hầu hết các nước ñều xây dựng và phát triển nền kinh tế theo
mô hình kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu của quá trình
CNH, HðH. Vấn ñề quan trọng nhất ñối với một doanh nghiệp là khả năng tồn
tại và phát triển trong ñiều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, không chỉ ở thị
trường nước ngoài mà ngay ở thị trường nội ñịa. Do vậy, một câu hỏi lớn ñặt ra
với các nước ñang phát triển là bằng cách nào ñể các nhà sản xuất, cho dù là
doanh nghiệp hay quốc gia, tham gia ñược vào nền kinh tế toàn cầu, tận dụng có
hiệu quả những cơ hội mà toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế mang lại
cũng như vượt qua ñược những áp lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế. Tiến hành CNH, HðH trong ñiều kiện thiếu hụt các nguồn lực cần thiết,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế còn yếu thì ñòi hỏi các
nước này phải có ñịnh hướng mục tiêu và cơ chế huy ñộng, phối hợp sử dụng
các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực một cách tốt nhất ñể tạo ra hiệu quả cao,
ñảm bảo cho sự phát triển bền vững. Tất cả những vấn ñề khó khăn phức tạp ñó
thuộc về vai trò của nhà nước.
41
Nội dung vai trò của nhà nước ñối với CNH, HðH trong hội nhập kinh tế
quốc tế ở các nước ñang phát triển rất rộng, ñược thể hiện trên nhiều khía cạnh:
Nhà nước xây dựng và ñề ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong ñó có
chiến lược CNH, HðH; Nhà nước ñiều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế thông
qua các công cụ như luật pháp, các biện pháp hành chính, kinh tế ñể chỉ ñạo việc
thực hiện chiến lược, duy trì và ñảm bảo các quan hệ cân ñối lớn trong nền kinh
tế; Nhà nước ñóng vai trò là người trọng tài ñảm bảo cho thị trường hoạt ñộng có
hiệu quả thông qua việc xây dựng các quy tắc hoạt ñộng của thị trường, xác ñịnh
cơ chế buộc các chủ thể kinh doanh cũng như các ñơn vị hành chính nhà nước
phải chấp hành, tiến hành các hoạt ñộng thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp
hành các quy tắc ñề ra, xây dựng cơ chế xử phạt và tiến hành xử phạt những vi
phạm của các chủ thể kinh doanh…; Nhà nước xây dựng cơ chế ñể các doanh
nghiệp, cá nhân, các tổ chức xã hội tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội…
ðối với CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của nhà nước
thể hiện rõ nhất trên các nội dung cơ bản sau:
1.2.2.1. Nhà nước xác ñịnh và ñiều chỉnh chiến lược CNH, HðH
Khái niệm “chiến lược” thường ñược hiểu là hướng và cách giải quyết
nhiệm vụ ñặt ra mang tính toàn cục, tổng thể và trong thời gian dài. Chiến lược
ñược xem như là một công cụ nhằm tác ñộng ñến bản chất và quá trình phát triển
của ñối tượng, nghĩa là nó phải có tác dụng làm thay ñổi, từ những thay ñổi về
lượng ñưa ñến thay ñổi về chất của hệ thống. ðó là sự thay ñổi về mục tiêu, cơ
cấu, cơ chế hoạt ñộng của hệ thống. UNIDO cho rằng: “Thông thường, một
chiến lược phát triển có thể như bản phác thảo quá trình phát triển nhằm ñạt
những mục tiêu ñã ñịnh cho một thời kỳ từ 20 - 30 năm; nó hướng dẫn các nhà
hoạch ñịnh chính sách trong việc huy ñộng và phân bổ các nguồn lực; nó cung
cấp một “tầm nhìn” của một quá trình phát triển mong muốn và sự nhất quán
trong các biện pháp tiến hành” [85, tr. 12]. Chiến lược CNH, HðH là một bản
luận cứ có cơ sở khoa học xác ñịnh tầm nhìn, ñịnh hướng và các giải pháp cơ
42
bản ñể thực hiện CNH, HðH. Xác ñịnh chiến lược CNH, HðH là việc xác ñịnh
các mục tiêu và biện pháp hành ñộng ñể từ ñó lựa chọn phương án tối ưu trong
quá trình thực hiện.
ðể ñưa ra một chiến lược CNH, HðH phù hợp, phải xác ñịnh ñược ñiểm
xuất phát và mục tiêu cuối cùng của một giai ñoạn phát triển; phải xây dựng các
thể chế phù hợp ñể ñạt ñược các mục tiêu phát triển, trong ñó nhấn mạnh phải
tính ñến các khía cạnh vĩ mô và vi mô cũng như các khía cạnh chính trị – xã hội
của các mục tiêu phát triển và chỉ ra cần phải làm gì ñể ñạt ñược các mục tiêu ñề
ra. Những vấn ñề ñó thuộc về vai trò của nhà nước.
- Trong nội dung chiến lược CNH, HðH, vấn ñề quan trọng hàng ñầu là
phải xác ñịnh rõ mục tiêu và bước ñi của CNH, HðH. Với mỗi quốc gia, CNH,
HðH có mục tiêu tổng quát nhưng cũng có mục tiêu cho từng giai ñoạn cụ thể.
Ngoài mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế là một trong những vấn ñề có tầm quan trọng ñặc biệt trong nội dung
chiến lược CNH, HðH. Vì cơ cấu kinh tế phản ánh cả mặt lượng và mặt chất
mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế nên sự thay ñổi
của cơ cấu kinh tế cũng phản ánh trình ñộ phát triển của sức sản xuất xã hội.
ðồng thời, bước ñi trong CNH, HðH thường gắn với những mục tiêu cụ thể về
cơ cấu kinh tế, nhất là về cơ cấu ngành vì ñó là một trong những chỉ tiêu quan
trọng nhất phản ánh xu hướng vận ñộng và mức ñộ thành công của CNH, HðH.
Mục tiêu xác lập cơ cấu kinh tế ở các nước ñang phát triển cần phải căn
cứ vào mục tiêu của CNH, HðH và phải dựa trên ñiều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Một số học giả kinh tế cho rằng, các nước ñang phát triển muốn ñạt ñược sự tăng
trưởng cao và bền vững cần phải hướng tới một cơ cấu kinh tế phát triển cân ñối
gồm tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân, ñồng thời cần huy ñộng tối ña
những nguồn lực sẵn có trong nước ñể thực hiện mục tiêu ñề ra. Tuy nhiên trong
thực tế, các nước ñang phát triển luôn gặp phải những hạn chế về nguồn lực,
43
nhất là vốn, lao ñộng kỹ thuật, công nghệ, nên quan ñiểm tăng trưởng cân ñối tỏ
ra không phù hợp với nhiều quốc gia. Một số nhà kinh tế học khác như
Hirschman, Feldman lại ñưa ra quan ñiểm về “cực tăng trưởng”, tức là các nước
nên tập trung cho những ngành, lĩnh vực ñầu tư có khả năng lôi kéo toàn bộ nền
kinh tế phát triển. Nghĩa là, các nước ñang phát triển cần phải tập trung xây dựng
và phát triển những ngành kinh tế ñầu tàu có ảnh hưởng lan toả ñến các ngành và
khu vực còn lại của nền kinh tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các mục tiêu về cơ cấu và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia trong CNH, HðH không chỉ thuần
túy ñược nhìn nhận từ góc ñộ chuyển dịch ngành kinh tế trong phạm vi từng
quốc gia như cách tiếp cận truyền thống mà cần phải tiếp cận quan ñiểm hiện ñại
– theo nguyên lý chuỗi giá trị toàn cầu. Nghĩa là phải thông qua việc gia nhập
các chuỗi giá trị toàn cầu ñể thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. ðó chính là
vấn ñề mới, khác biệt ñáng kể với các quá trình công nghiệp hóa trước ñây, khi
mà sự phân công lao ñộng quốc tế chủ yếu diễn ra qua việc cung cấp sản phẩm
chứ chưa hoàn toàn là sự phân công lao ñộng thông qua các chuyên môn hóa
chức năng sản xuất theo hệ thống liên kết mạng. Với cách tiếp cận này, ñịnh
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các nước ñang phát triển là phải khai thác
lợi thế so sánh trong phân công lao ñộng quốc tế, tìm cách chen chân và tìm
ñược chỗ ñứng vững chắc trên thị trường trong nước và thế giới. Thực tế cho
thấy, bên cạnh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế từ khu vực nông nghiệp
truyền thống sang khu vực công nghiệp hiện ñại như quan niệm trước ñây, các
nước ñi sau cần chú ý là trong ñiều kiện mới, dưới tác ñộng của khoa học công
nghệ hiện ñại, khu vực năng suất cao không chỉ là công nghiệp mà cả khu vực
dịch vụ dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện ñại. Thậm chí với khu vực
nông nghiệp, do áp dụng khoa học – công nghệ hiện ñại nên không ít lĩnh vực có
thể ñem lại giá trị gia tăng cao và khi gắn kết vào trong chuỗi giá trị, nông
nghiệp không chỉ là ngành sản xuất ra các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp.
44
Nói một cách khái quát, vấn ñề có tầm quan trọng ñặc biệt trong nội dung
chiến lược CNH, HðH là phải chỉ rõ mục tiêu và ñịnh hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ñể từ ñó xác ñịnh cách thức phân bổ và sử dụng các nguồn lực một cách
hiệu quả. Sự thay ñổi cơ cấu ngành cần phải gắn với từng bước ñi trong CNH,
HðH. Cơ cấu ngành phải là một cơ cấu ñộng dựa trên nguyên tắc phát huy có
hiệu quả nhất lợi thế so sánh của ñất nước. Lợi thế so sánh thay ñổi thì cơ cấu
ngành cũng thay ñổi, chỉ có như vậy mới phù hợp với sự vận ñộng của kinh tế thị
trường, mới có khả năng tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học – công nghệ thời ñại ñể tạo ñiều kiện ñẩy nhanh CNH, HðH.
- Một nội dung quan trọng khác trong nội dung chiến lược CNH, HðH là
phải xác ñịnh rõ phương thức hành ñộng ñể thực hiện các mục tiêu ñề ra. Nghĩa
là phải xác ñịnh rõ ñịnh hướng chính sách nhằm tạo ñiều kiện và thúc ñẩy quá
trình CNH, HðH. Trong ñó, chính sách huy ñộng các nguồn lực cho CNH, HðH
là một trong những trọng tâm hàng ñầu thể hiện vai trò của nhà nước. Hiện nay,
ña số các nước ñang phát triển hiện nay ñều trong tình trạng thiếu hụt những
nguồn lực cơ bản về vốn, công nghệ, nhân lực cho CNH, HðH nên ñể thực hiện
các mục tiêu ñề ra các nước này cần tạo lập cơ chế và có các chính sách nhằm
huy ñộng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực này. Trong ñiều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế thì ngoài những nguồn lực sẵn có trong nước, các nước còn có
thể huy ñộng các nguồn lực này từ bên ngoài. Việc bổ sung những nhân tố thiếu
ñể kết hợp với những nhân tố sẵn có bên trong nhằm ñạt tới hiệu quả cao nhất
trong phát triển là một yêu cầu cấp thiết và cũng là vấn ñề có thể thực hiện ñược.
ðồng thời, bên cạnh việc huy ñộng các nguồn lực hiện có thì việc phát triển các
nguồn lực còn ở dạng tiềm năng cũng là một yêu cầu cần thiết với các nước ñang
phát triển. ðó chính là quan ñiểm cho chính sách huy ñộng tổng lực, cả nội lực
và ngoại lực cho CNH, HðH.
Như vậy, vai trò quan trọng trước tiên của nhà nước ñối với CNH, HðH
là phải xác ñịnh rõ chiến lược CNH, HðH ñể ñịnh hướng dài hạn cho quá trình
45
thực hiện cũng như lựa chọn hệ thống các chính sách và giải pháp ñể ñạt ñược
những mục tiêu ñề ra.
Trong thực tế ñã có hai loại hình chiến lược công nghiệp hoá ñược thực
hiện ở nhiều nước ñang phát triển và ñem lại những thành tựu nhất ñịnh. Các nhà
kinh tế ñã khái quát chúng thành lý thuyết về chiến lược công nghiệp hoá ở các
nước ñang phát triển. ðó là chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu và
chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu ñược ñưa ra dựa trên tư
tưởng chủ ñạo là thay thế những mặt hàng trước ñây phải nhập khẩu bằng sản
xuất trong nước nhằm mục tiêu xây dựng một nền kinh tế ñộc lập tự chủ. Thực
tế, ý tưởng thay thế các sản phẩm nhập khẩu bằng sản xuất trong nước cuối cùng
ñã ñưa ñến chính sách xây dựng nền công nghiệp hoàn chỉnh với ñủ mọi phân
ngành công nghiệp, mang tính chất khép kín và ñóng cửa với thế giới bên ngoài.
Hệ thống chính sách trong quá trình thực hiện chiến lược này ñều nhằm bảo hộ
sản xuất trong nước, với nghĩa ñảm bảo cho các nhà sản xuất và cung ứng dịch
vụ ñối với những hàng hoá trước ñây phải nhập khẩu có lợi nhuận. Nhìn chung,
chiến lược này ñã ñược thực hiện ở hầu hết các nước ñang phát triển trong giai
ñoạn sau chiến tranh thế giới II. Một số nước ñã ñạt ñược những thành tựu quan
trọng về tốc ñộ tăng trưởng công nghiệp, về sự thay ñổi cơ cấu kinh tế... Tuy
nhiên, những kết quả này không duy trì ñược lâu và nhiều mặt hạn chế ñã bộc lộ
rõ. Một số mục tiêu như xây dựng một nền kinh tế ñộc lập tự chủ, có nền công
nghiệp phát triển, cơ cấu kinh tế hiện ñại và ngay cả một số mục tiêu khác như
giải quyết tình trạng thâm hụt ngân sách, giải quyết vấn ñề việc làm, thu nhập ñã
không thực hiện ñược.
Do những hạn chế của chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, từ
ñầu những năm 1970, một số quốc gia và vùng lãnh thổ ñã chuyển sang thực
hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu với tư tưởng chủ ñạo là
khai thác lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương và ñặt trọng tâm phát triển
46
vào những ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế, sản xuất
những cái mà thị trường cần và cái mà mình có lợi thế. Toàn bộ chính sách chủ
yếu ñều chủ yếu nhằm khuyến khích xuất khẩu với quan ñiểm ñảm bảo cho
những nhà sản xuất có lợi hơn nếu xuất khẩu sản phẩm.
Bảng 1.1: Sự khác biệt cơ bản giữa hai loại hình chiến lược công nghiệp hóa
Chiến lược công nghiệp hoá
thay thế nhập khẩu
Chiến lược công nghiệp hoá
hướng về xuất khẩu
Phương châm Phát triển các ngành công
nghiệp thay thế nhập khẩu
Phát triển các ngành công
nghiệp phục vụ xuất khẩu
Nguyên tắc ban
hành chính sách
ðảm bảo cho nhà sản xuất các
sản phẩm trước ñây phải nhập
khẩu có ñược lợi nhuận
ðảm bảo cho các nhà sản
xuất có lợi hơn nếu xuất
khẩu sản phẩm
Nguồn ñộng lực - Thị trường nội ñịa
- Lẩn tránh cạnh tranh quốc tế
- Thị trường nước ngoài;
- Khuyến khích và ñặt các
doanh nghiệp trong nước
phải cạnh tranh quốc tế
ðịnh hướng xác
lập cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh
mang tính tự cấp, tự túc
Cơ cấu kinh tế không cân
ñối dựa vào khai thác lợi
thế so sánh trong quan hệ
ngoại thương
Các chính sách
chủ yếu
- Bảo hộ hàng hoá sản xuất
trong nước thông qua hàng rào
thuế quan và các biện pháp
phi quan thuế
- ðịnh giá ñồng nội tệ cao
- Ưu ñãi về thuế ñối với
hàng xuất khẩu và nguyên
liệu nhập khẩu cho sản xuất
xuất khẩu
- Trợ cấp và hỗ trợ cho sản
xuất ñể xuất khẩu
- ðánh tụt giá ñồng nội tệ
47
Chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu ñã ñược thực hiện ở một
số nước ở ðông Á và ñem lại những thành tựu quan trọng như ñạt ñược tốc ñộ
tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian tương ñối dài; cơ cấu kinh tế chuyển dịch
nhanh chóng theo hướng gia tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng của nông nghiệp; ñồng thời, các nước này còn giải quyết ñược một số vấn
ñề xã hội. Vì lẽ ñó mà chiến lược này ñược coi là có triển vọng hơn cả và trở
thành khuynh hướng phát triển chủ yếu của nhiều quốc gia ñang phát triển.
Mặc dù vậy, từ giữa thập kỷ 1980, chiến lược công nghiệp hoá hướng về
xuất khẩu cũng bộc lộ những mặt hạn chế, nhất là nó làm tăng sự phụ thuộc vào
thị trường nước ngoài. ðiều ñó cho thấy, nó khó có thể áp dụng ở tất cả các nước
bởi những ñiều kiện ñảm bảo cho việc thực hiện thành công chiến lược này
không phải nước nào cũng có ñược khi bối cảnh quốc tế liên tục biến ñổi.
Từ thực tế ñó, một số nhà nghiên cứu kinh tế ñã ñề xuất một chiến lược
mới với sự kết hợp hợp lý giữa hai loại hình chiến lược trên và khái quát thành
chiến lược công nghiệp hoá hỗn hợp hay chiến lược công nghiệp hoá theo hướng
hội nhập quốc tế. Chiến lược này ñược ñề xuất trên cơ sở kết hợp các yếu tố của
chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu là coi trọng thị trường trong
nước, phát triển sản xuất các sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và
các yếu tố của chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là coi trọng thị
trường nước ngoài trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh ñể phát triển mạnh mẽ các
ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu.
ðó là sự ñiều chỉnh có sự kết hợp của hai chiến lược thay thế nhập khẩu
và hướng về xuất khẩu trong ñó hướng về xuất khẩu là chủ yếu, thay thế nhập
khẩu ñóng vai trò bổ sung. Chiến lược này coi trọng cả thị trường trong nước và
thị trường ngoài nước, trong ñó lấy thị trường nước ngoài là trọng tâm và coi
ngoại thương là ñộng lực thúc ñẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế. Về cơ bản,
chiến lược công nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế có các ñặc trưng sau:
có một cơ cấu công nghệ theo hướng hội nhập quốc tế có tính linh hoạt và mềm
48
dẻo, ñặt toàn bộ nền kinh tế ñối mặt với thị trường thế giới, có một thể chế kinh
tế - xã hội theo hướng hội nhập quốc tế và một nguồn nhân lực hội nhập quốc tế.
Chiến lược này dựa trên tư tưởng xuyên suốt là việc nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc tế ở thị trường trong nước và quốc tế là nguyên tắc chung chi phối và
quyết ñịnh sự thành bại của quá trình CNH, HðH. Thực tế, chiến lược này ñang
ñược thực hiện một số nước ở khu vực ðông Á và cũng ñã cho thấy sự phù hợp
với xu thế phát triển của thế giới hiện nay.
1.2.2.2. Nhà nước ñề ra các chính sách thúc ñẩy CNH, HðH
Xác ñịnh chiến lược là một trong những yếu tố mang tính nền tảng ñịnh
hướng cho CNH, HðH. Tuy nhiên, ñể thực hiện nội dung chiến lược ñề ra rất
cần ñến vai trò can thiệp, ñiều tiết của nhà nước thể hiện ở chức năng tạo lập cơ
chế và các chính sách, giải pháp thúc ñẩy tiến trình CNH, HðH.
a. Về chính sách phát huy ñộng lực của kinh tế thị trường ñối với CNH, HðH
Cả lý thuyết và thực tiễn ñã chứng minh rằng thị trường là phương pháp
ñiều phối các hoạt ñộng kinh tế của con người một cách hiệu quả. Theo kinh tế
học chính thống, thị trường có chức năng thông tin trong việc ñiều tiết các hoạt
ñộng sản xuất và hướng các nguồn lực bằng tín tiệu giá cả. Hệ thống thị trường
với tư cách là một thể chế hoặc một hệ thống các thể chế là cách tốt nhất ñể tổ
chức và phân phối trong xã hội loài người. Sức sống và sự tồn tại lâu bền của hệ
thống thị trường trước hết xuất phát từ tình phù hợp của nó ñối với bản chất con
người, hay “quyền tự nhiên” của con người, nó làm cho các cá nhân thể hiện
năng lực tốt nhất của mình thông qua cạnh tranh và làm cho mỗi cá thể doanh
nghiệp lớn mạnh. Hệ thống này dựa trên sự tôn trọng và bảo vệ quyền tư hữu,
cho phép các cá nhân theo ñuổi lợi ích của mình một cách tự do và do ñó, có thể
tận dụng tối ña tiềm năng con người cho các mục tiêu sản xuất [71, tr. 38].
Với các nước ñang phát triển, khi nền kinh tế thị trường còn ở trình ñộ
thấp, cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, chưa ñủ khả năng phát huy tác dụng
49
trong phân bổ sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hiệu quả thì nhà nước cần
tạo ñiều kiện cho thị trường phát triển và làm cho thị trường thực hiện chức năng
của mình một cách tốt nhất. Do vậy, nhà nước cần có chính sách bảo ñảm quyền
sở hữu của các chủ thể kinh doanh, thúc ñẩy tự do hoá kinh tế, xác ñịnh vai trò
pháp lý của các chủ thể tham gia thị trường, ñiều chỉnh chính sách tỷ giá, các
chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách tạo lập và phát triển các loại thị trường...
ðây là những biện pháp cần thiết nhằm mục tiêu phát triển nền kinh tế thị
trường, tạo ñiều kiện cho cơ chế thị trường phát huy vai trò của mình trong việc
huy ñộng và phân bổ sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả.
b. Về chính sách ñiều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế gắn với phát huy lợi thế so sánh
Trong số các mục tiêu của CNH, HðH thì mục tiêu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ñóng vai trò rất quan trọng. Thực tế, sự thay ñổi của cơ cấu kinh tế chính
là sự thay ñổi tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành của nền kinh tế. ðể
ñạt ñược mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ñã ñịnh, trước hết, nhà
nước cần xác ñịnh những ngành, lĩnh vực ưu tiên, những ngành, lĩnh vực có lợi
thế so sánh, ñóng vai trò là ñầu tàu cho sự tăng trưởng kinh tế. ðể gia tăng tỷ
trọng của những ngành, lĩnh vực ñóng vai trò trọng yếu trong từng thời kỳ phát
triển, nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi ñể hướng các nguồn lực vào phát
triển các ngành, lĩnh vực này thông qua việc kết hợp các công cụ chính sách
nhằm kích thích ñầu tư như giảm thuế, giấy phép nhập khẩu, trợ cấp xuất khẩu,
hướng các nguồn tín dụng cả ngắn hạn và dài hạn vào các doanh nghiệp hoạt
ñộng trong những ngành mũi nhọn với lãi suất ưu ñãi… Thậm chí nhà nước có
thể dành một phần ngân sách ñáng kể trực tiếp ñầu tư phát triển những ngành
này khi khu vực tư nhân chưa có ñủ khả năng.
c. Về chính sách huy ñộng vốn cho CNH, HðH
Vốn là một trong những nguồn lực hàng ñầu ñối với mọi quá trình phát
triển kinh tế - xã hội và nguồn vốn cho ñầu tư phát triển phụ thuộc rất lớn vào
50
các chính sách của nhà nước. Với nhiều nước ñang phát triển tiến hành CNH,
HðH khi khả năng tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế thấp, nguồn vốn của khu vực
tư nhân cho ñầu tư phát triển thường bị hạn chế thì nếu nhà nước có những chính
sách huy ñộng, quản lý và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý, có hiệu quả sẽ
góp phần thúc ñẩy CNH, HðH. Nghĩa là nhà nước ở các nước này cần phải có
chiến lược tạo vốn và có những chính sách phù hợp ñể huy ñộng vốn.
Khi ñề cập ñến vấn ñề vốn cho ñầu tư phát triển, các nhà kinh tế học ñã
gợi ý những giải pháp huy ñộng vốn. J.M.Keynes lập luận rằng việc giảm chi phí
sản xuất sẽ dẫn ñến giảm giá hàng hoá và dịch vụ, làm cho giá trị thực tế của tiền
lương trong dân cư tăng lên và do tâm lý tiết kiệm nên số tiền nhàn rỗi trong dân
cư sẽ tăng lên khiến cho số tiền mà họ muốn cho vay cũng tăng nhanh và ñiều ñó
sẽ dẫn ñến nhu cầu hình thành thị trường cho vay với lãi suất có lợi cho nhà ñầu
tư. Thị trường vốn càng mở rộng thì khả năng ñầu tư mới càng lớn. Từ ñó ông
cho rằng biện pháp ñầu tiên là phải tác ñộng trực tiếp vào khâu lãi suất hoặc khối
lượng tiền trong nước. Lý luận của Keynes tạo cơ sở ñể giải quyết mối quan hệ
giữa tích luỹ và tiêu dùng thông qua công cụ gián tiếp là lãi suất. Trong khi ñó,
một số nhà kinh tế học khác cho rằng việc huy ñộng vốn trong nước ở các nước
ñang phát triển rất khó khăn bởi khả năng tiết kiệm ở các nước này là ít ỏi do thu
nhập thực tế thấp. Mức thu nhập thực tế thấp phản ánh năng suất lao ñộng thấp
và năng suất lao ñộng thấp phần lớn là do tình trạng thiếu vốn gây ra. Thiếu vốn
lại là kết quả của khả năng tiết kiệm ít và vòng luẩn quẩn của sự nghèo ñói ñược
khép kín. Do vậy, ñể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn ñó các nước ñang phát
triển cần phải có “cú huých” từ bên ngoài. Việc mở cửa ñể thu hút FDI là giải
pháp cứu cánh ñối với các nước này; nguồn vốn vay và vốn viện trợ cũng là
những nguồn lực quan trọng mà các nước ñang phát triển cần phải khai thác. Tuy
nhiên, họ cũng khuyến cáo nguồn vay và tài trợ quốc tế chỉ nên sử dụng trong
thời kỳ ñầu của quá trình công nghiệp hoá với tư cách là ñòn bẩy tạo xung lực
cho quá trình phát triển công nghiệp.
51
Nhìn chung, các lý thuyết trên có ý nghĩa quan trọng ñối với các nước
ñang phát triển trong việc ban hành chính sách huy ñộng vốn cho CNH, HðH.
Một số nước, ñiển hình là NIEs ñã thành công trong huy ñộng vốn cả trong nước
và nước ngoài ñể gia tăng ñầu tư, mở rộng quy mô và tăng cường ứng dụng
những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ ñể phát triển sản xuất theo
chiều sâu. Kết quả là xuất khẩu và tổng sản phẩm trong nước ñạt tốc ñộ tăng cao.
ðây lại chính là yếu tố vô cùng quan trọng ñể tăng tích luỹ vốn từ nội bộ nền
kinh tế cho mở rộng ñầu tư phát triển.
Với xuất phát ñiểm là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu nên hầu hết các
nước ñang phát triển ñều phải ñối mặt với vấn ñề thiếu hụt nguồn vốn cho ñầu tư
phát triển. Do vậy, ñể tiến hành CNH, HðH, chính sách của nhà nước cần hướng
vào mục tiêu khuyến khích tiết kiệm và gia tăng ñầu tư trong nước. Bên cạnh
việc huy ñộng nguồn vốn ñầu tư từ ngân sách nhà nước, từ nguồn vốn tín dụng
qua hệ thống các trung gian tài chính thì các chính sách các chính sách khuyến
khích hoặc hạn chế ñầu tư tư nhân từ phía nhà nước sẽ tác ñộng trực tiếp ñến
hướng vận ñộng của dòng vốn ñầu tư của khu vực tư nhân. Những ngành, lĩnh
vực ñược khuyến khích sẽ có ñiều kiện phát triển nhanh, ñóng góp vào tốc ñộ
tăng trưởng chung của nền kinh tế. Và chính sự tăng trưởng kinh tế với tốc ñộ
cao sẽ giúp phá vỡ ñược “vòng luẩn quẩn” và tạo ra ñộng lực cho sự tăng trưởng
tiếp theo với cơ chế: tăng trưởng cao - tiết kiệm cao - ñầu tư cao và có hiệu quả
- năng suất lao ñộng cao - tăng trưởng cao.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ,
dòng vốn ñầu tư quốc tế ñang gia tăng với tốc ñộ nhanh và quy mô lớn ñã mở ra
cơ hội lớn cho các nền kinh tế ñang phát triển có thể tiếp cận, khai thác ñể bù
ñắp cho sự thiếu hụt nguồn vốn trong nước. Dòng vốn ñầu tư từ nước ngoài với
các kênh FDI, ñầu tư gián tiếp, ODA, cho vay thương mại... có thể ñược coi là
một trong những ñộng lực thúc ñẩy quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu
52
kinh tế. Do vậy, nhà nước cần phải có chính sách tạo môi trường thuận lợi ñể
khơi thông dòng chảy vốn ñầu tư từ bên ngoài cho CNH, HðH.
d. Về chính sách phát triển khoa học - công nghệ
Khoa học - công nghệ có vai trò quan trọng ñặc biệt trong tiến trình công
nghiệp hoá, hiện ñại hóa. Thực tế, xu thế phát triển của khoa học - công nghệ tạo
ra những cơ hội nhưng cũng ñặt ra nhiều thách thức với các nước ñang phát triển
ñi sau trong CNH, HðH. Vấn ñề ñặt ra với các nước này là làm thế nào ñể có thể
nắm bắt và sử dụng ñược những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ
ñể cải tạo, nâng cấp và hiện ñại hoá nền kinh tế.
Thời gian gần ñây ñã xuất hiện xu thế các nước tiên tiến có nhu cầu loại
bỏ công nghệ ñã trở nên lạc hậu thông qua hoạt ñộng chuyển giao công nghệ mà
những công nghệ ñó lại là mới ñối với những nước ñi sau trong công nghiệp hoá.
Chính ñiều ñó ñã tạo thời cơ và ñiều kiện ñể các nước ñang phát triển có thể lựa
chọn, tiếp thu nhằm từng bước nâng cấp trình ñộ công nghệ của mình. Tuy
nhiên, khi khả năng tự phát triển công nghệ trong nước còn nhiều hạn chế thì khả
năng hấp thụ, khai thác công nghệ từ bên ngoài cũng bị hạn chế. ðiều ñó có thể
dẫn ñến sự lệ thuộc vào công nghệ bên ngoài và tình trạng tụt hậu về công nghệ.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, ngay trong giai ñoạn ñầu của công nghiệp
hoá, các nước ñang phát triển cần phải nâng cao khả năng tiếp thu công nghệ,
ñồng thời phải ñẩy mạnh hoạt ñộng R&D. Sự phối hợp liên hoàn, chặt chẽ giữa
nghiên cứu - triển khai và ứng dụng công nghệ trong sản xuất là cách thức ñể
nâng cấp trình ñộ công nghệ một cách hiệu quả. Do vậy, vấn ñề ñặt ra là các
nước ñi sau phải có năng lực lựa chọn, tiếp thu, thích nghi và cuối cùng là làm
chủ các công nghệ sẵn có ñể tiết kiệm ñược thời gian, tiết kiệm ñược chi phí cho
nghiên cứu, phát minh. Nghĩa là các nước ñi sau trong công nghiệp hoá cần phải
tạo ra một nền tảng công nghệ cần thiết ñể có thể tiếp thu và làm chủ công nghệ
hiện ñại, ñồng thời phải tạo năng lực nội sinh về khoa học - công nghệ ñể có thể
53
tự sáng tạo công nghệ mới, giảm bớt tình trạng phụ thuộc vào công nghệ du nhập
và tiến kịp các nước phát triển ñi trước về trình ñộ khoa học - công nghệ.
Như vậy, các nước ñang phát triển trong CNH, HðH cần phải có chính
sách phát triển khoa học - công nghệ phù hợp ñể tạo khả năng tiếp thu những
thành tựu cách mạng khoa học - công nghệ của những nước ñi trước và nâng cao
ñược năng lực khoa học - công nghệ quốc gia nhằm ñẩy nhanh CNH, HðH,
tránh tụt hậu trong phát triển. ðiều ñó có nghĩa là các nước ñang phát triển cần
xác ñịnh một hệ thống các mục tiêu và biện pháp nhằm phát triển tiềm lực khoa
học và công nghệ quốc gia. Các mục tiêu của chính sách khoa học và công nghệ
là “thúc ñẩy” và “ñịnh hướng”. Cụ thể: i) Thiết lập các tổ chức ñể tích luỹ kiến
thức và kỹ năng công nghệ; ii) Cải thiện cơ cấu hạ tầng công nghệ; iii) Thúc ñẩy
ñổi mới khoa học và công nghệ; iv) Hỗ trợ các ñề tài nghiên cứu có tính chiến
lược cơ bản ñã ñược lựa chọn làm nền móng cho các công nghệ mới trong tương
lai; và v) Xây dựng ñiều kiện ñể phát triển các công nghệ mới.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp ñóng vai trò chính trong
việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, do vậy nhà nước phải thực sự
coi khoa học - công nghệ là ñộng lực của sự phát triển, có những giải pháp cụ thể
ñể thúc ñẩy sự phát triển của khoa học - công nghệ và quan trọng hơn là cần có
cơ chế, chính sách ñể khuyến khích các doanh nghiệp ñẩy mạnh ứng dụng công
nghệ mới. Về cơ bản, chính sách khoa học - công nghệ có thể ñược xây dựng
theo ba cấp: cấp ñịnh hướng chiến lược, cấp lập kế hoạch và cấp thực hiện. Ở
cấp thứ nhất, nhà nước cần tập trung các cố vấn chính trị cao cấp, các chuyên gia
hàng ñầu ñể xác ñịnh chiến lược, thứ tự ưu tiên phát triển công nghệ dựa trên
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. Cấp thứ hai là các bộ ngành với
chức năng hoạch ñịnh các chương trình khoa học - công nghệ ñược theo chỉ dẫn
của cấp thứ nhất. Việc thực hiện các chương trình diễn ra ở cấp thứ ba, các
chuyên gia, cán bộ kỹ thuật ở các cơ sở R&D biến các chương trình thành hiện
thực thông qua các ñề tài khoa học. Nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cụ
54
thể như: Tăng cường ñầu tư cho khoa học - công nghệ; Kết hợp giữa nhà nước
và tư nhân trong hoạt ñộng nghiên cứu và phát triển khoa học - công nghệ;
Khuyến khích và có chế ñộ ñãi ngộ phù hợp ñối với những người hoạt ñộng
nghiên cứu khoa học - công nghệ... Với nguồn nhân lực và tài chính còn hạn
hẹp, một chính sách khoa học - công nghệ phù hợp với chiến lược kinh tế xã hội
quốc gia, các nước ñang phát triển sẽ có cơ hội tăng trưởng nhanh chóng.
e. Về chính sách phát triển nguồn nhân lực
Trong các loại nguồn lực, thì nguồn lực tài nguyên thiên nhiên là có hạn
nhưng tài nguyên con người lại là vô hạn. Nguồn nhân lực ñược xem như một
nhân tố có ý nghĩa quyết ñịnh ñối với quá trình sản xuất và là ñộng lực quan
trọng nhất trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Nguồn nhân lực ngày
nay ñã trở thành một khái niệm công cụ ñể ñiều hành thực thi chiến lược và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, trong ñó CNH, HðH là một giải pháp quan
trọng ñể thực hiện các mục tiêu ñề ra.
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao ñộng, tức là nguồn lao ñộng
ñược chuẩn bị sẵn sàng tham gia vào quá trình lao ñộng. Nguồn nhân lực ở ñây
ñược xem xét trên nhiều góc ñộ: quy mô, chất lượng và cơ cấu. ðể hoạt ñộng sản
xuất kinh doanh ñạt ñược hiệu quả kinh tế theo quy mô trong ñiều kiện về khoa
học - công nghệ cụ thể cần phải có một lực lượng lao ñộng phù hợp. Quy mô
nguồn nhân lực một mặt phụ thuộc vào quy mô dân số, mặt khác còn phụ thuộc
vào ñộ cơ ñộng của nguồn lao ñộng, mức ñộ linh hoạt của thị trường, tình trạng
phát triển của hệ thống giao thông. Chất lượng lao ñộng thể hiện ở sức khỏe,
phẩm chất ñạo ñức, ở trình ñộ tay nghề, kỹ năng lao ñộng và kiến thức. Chất
lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất ñối với những ngành, lĩnh vực
ñòi hỏi lao ñộng qua ñào tạo, trình ñộ tay nghề cao. Chất lượng nguồn nhân lực
chính là sản phẩm của quá trình giáo dục và ñào tạo. Nhiều nhà kinh tế cho rằng
ñầu tư cho giáo dục là một trong những loại hình ñầu tư ñem lại hiệu quả kinh tế
55
- xã hội lớn nhất, nó là loại ñầu tư trực tiếp cho sản xuất chứ không ñơn thuần là
ñầu tư cho lĩnh vực xã hội.
Từ công nghệ truyền thống tiến lên công nghệ hiện ñại thì lợi thế thuộc về
lực lượng lao ñộng có kỹ năng phù hợp với yêu cầu của công nghệ hiện ñại. Việc
sử dụng các thành tựu cách mạng khoa học - công nghệ ñể công nghiệp hoá và
vươn tới những ngành công nghệ cao, hiện ñại không thể tách rời việc ñầu tư
phát triển nguồn nhân lực. Trình ñộ phát triển, khả năng tiếp nhận, sử dụng các
công nghệ hiện ñại của thế giới với mỗi quốc gia khi tiến hành công nghiệp hoá
phụ thuộc trước hết vào nguồn nhân lực có trình ñộ, có chất lượng mà ñó lại là
kết quả trực tiếp của sự ñầu tư phát triển giáo dục, ñào tạo ñội ngũ cán bộ khoa
học - kỹ thuật và lực lượng lao ñộng lành nghề thích ứng với hiện ñại hoá. ðây
là yếu tố căn bản nhất, có ý nghĩa quyết ñịnh ñối với sự thành công của sự
nghiệp công nghiệp hoá. Vì vậy, các nước muốn ñẩy nhanh tiến trình công
nghiệp hoá phải tập trung ñào tạo ñược ñội ngũ trí thức, kỹ nghệ gia và lao ñộng
có tay nghề cao.
Thực tế cho thấy, một quốc gia có hệ thống giáo dục thực hiện tốt chức
năng chuẩn bị học vấn và nghề nghiệp cho người lao ñộng thì sự gia tăng dân số,
gia tăng nguồn nhân lực sẽ trở thành ñộng lực ñối với sự phát triển kinh tế.
Ngược lại, với một hệ thống kinh tế và giáo dục yếu kém, sự gia tăng dân số
nhanh chóng sẽ dẫn ñến tình trạng thất nghiệp tràn lan, thiếu việc làm, thiếu
nhân lực ñược ñào tạo, sự gia tăng các tệ nạn và sự mất ổn ñịnh xã hội. Trong xu
thế cạnh tranh toàn cầu ngày càng quyết liệt hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực
ñược ño bằng trình ñộ tri thức, kỹ năng sử dụng công nghệ cao và nó trở thành
yếu tố chủ chốt của phát triển. Do vậy, ñầu tư cho giáo dục - ñào tạo không chỉ
ñơn thuần là khoản ñầu tư mang tính phúc lợi xã hội mà trực tiếp là ñầu tư kinh
tế. Thậm chí, nó còn ñược coi là khoản ñầu tư quan trọng hàng ñầu và mang lại
hiệu quả cao nhất. ðây là một khả năng, một lợi thế tiềm tàng mà các nước ñi
sau có thể có ñược, nó có thể cho phép các nước ñi sau nhanh chóng tiếp cận
56
công nghệ hiện ñại ngay cả khi trình ñộ phát triển kinh tế chưa cao và có thể
vượt qua một số nấc thang tuần tự trong phát triển.
Kinh nghiệm nhiều nước ñã thành công trong CNH, HðH ñã khẳng ñịnh
rằng, nhà nước cần phải có chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực,
phải tăng cường ñầu tư cho phát triển giáo dục - ñào tạo và nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục - ñào tạo. ðồng thời, nhà nước cũng cần có chính sách nhằm
khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực của ñất nước.
f. Về chính sách thúc ñẩy xuất khẩu
Thực tế cho thấy, hoạt ñộng xuất khẩu là phương tiện ñể ñạt ñược sự phát
triển tổng thể của cả nền kinh tế và luôn ñóng vai trò quan trọng thúc ñẩy tiến
trình CNH, HðH. Nguồn thu từ xuất khẩu tạo ñiều kiện gia tăng nguồn vốn tích
luỹ và kết quả hoạt ñộng xuất khẩu lại có tác ñộng mạnh mẽ ñến chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế.
Ở nhiều nước, ñể thúc ñẩy xuất khẩu nhà nước ñã có những biện pháp linh
hoạt, mềm dẻo trong lĩnh vực thuế, tín dụng và các hình thức trợ cấp khác. Trong
giai ñoạn ñầu công nghiệp hoá, do khả năng cạnh tranh còn nhiều hạn chế nên
các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu rất cần ñến sự bảo hộ, ưu ñãi của nhà
nước. Tuy nhiên, mức ñộ bảo hộ và ưu ñãi của nhà nước sẽ tuỳ thuộc vào vai trò
và vị trí của các ngành, ưu tiên hơn cho những ngành mới có triển vọng phát
triển và sẽ trở thành ngành xuất khẩu có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế
giới. Theo thời gian, mức ñộ bảo hộ của nhà nước sẽ phải giảm dần ñể buộc các
ngành này phải phát triển ñể ñứng vững trong một thị trường cạnh tranh. Việc
mở rộng thu hút ñầu tư nước ngoài cũng là nhân tố cần thiết ñể mở mang sản
xuất trong nước và tăng thêm khả năng xuất khẩu. Thực tế ở NIEs, ngoại thương
ñã trở thành lĩnh vực ñầu tàu thúc ñẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Vì vậy, chính sách khuyến khích xuất khẩu thường gắn với việc ñẩy
nhanh tốc ñộ mở cửa nền kinh tế, gắn với việc khai thác và phát huy lợi thế so
57
sánh trong hệ thống phân công lao ñộng quốc tế. Nói cách khác, nhà nước phải
ñóng vai trò ñịnh hướng chiến lược và có những chính sách hỗ trợ các doanh
nghiệp nâng cao sức cạnh tranh ñể gia tăng xuất khẩu.
g. Về chính sách ñầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Trong CNH, HðH, ñể tạo ñiều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các
ngành kinh tế ñòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng kỹ thuật tương xứng, bao gồm
hạ tầng giao thông, hệ thống cung cấp năng lượng, hạ tầng thông tin - viễn
thông... Thực tiễn ở nhiều nước ñang phát triển cho thấy, do kinh tế chậm phát
triển và tiềm lực có hạn nên cơ sở hạ tầng thường yếu kém, chưa thể ñáp ứng
ñược yêu cầu thực tiễn ñặt ra. Do vậy, việc xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở
hạ tầng kỹ thuật là một yêu cầu cấp thiết, không chỉ là tiền ñề bảo ñảm cho sự
phát triển kinh tế mà bản thân nó còn trực tiếp ñóng góp ñáng kể vào quá trình
tăng trưởng nhanh theo hướng hiện ñại, góp phần cải tạo cơ cấu và nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong thực tế, tư nhân thường không thể và/hoặc không muốn ñầu tư vào
lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng do ñặc ñiểm của hoạt ñộng này là ñòi hỏi vốn
lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Do vậy, chỉ có nhà nước mới có thể có ñủ khả
năng ñể xây dựng và cung cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho nền kinh tế. Nếu nhà
nước không ñảm nhận việc xây dựng cơ sở hạ tầng thì không một lực lượng kinh
tế - xã hội nào có thể ñảm nhận một cách có hiệu quả. ðiều ñó thể hiện sự nỗ lực
của nhà nước ñầu tư phục vụ cho CNH, HðH.
Bên cạnh việc trực tiếp ñầu tư, nhà nước cần khai thông tiềm năng của
khu vực tư nhân, không phải với tư cách là một nguồn thay thế, mà là một nguồn
bổ sung cho nhà nước trong việc xây dựng và cung ứng kết cấu hạ tầng. Một
mặt, tư nhân có thể tham gia trực tiếp vào dịch vụ cung ứng kết cấu hạ tầng. Mặt
khác, khu vực tư nhân có thể ñóng góp gián tiếp thông qua việc ñóng thuế và
chính phủ sẽ dành một tỷ lệ lớn hơn trong ngân sách ñể ñầu tư vào kết cấu hạ
58
tầng. Nói tóm lại, ngoài sự ñầu tư trực tiếp từ ngân sách, nhà nước cần có chính
sách huy ñộng các nguồn vốn khác của tư nhân và của nước ngoài vào lĩnh vực
phát triển hạ tầng cơ sở.
Với nhiều nước ñang phát triển trong ñiều kiện còn hạn chế về nguồn vốn
cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng thì việc nhà nước phải lựa chọn các
hạng mục ñầu tư trọng ñiểm trong toàn bộ danh mục ñầu tư là một tất yếu.
Nguyên tắc lựa chọn xây dựng và phát triển các hạng mục cơ sở hạ tầng cần phải
có tác dụng kích cầu nội ñịa và kích thích phát triển kinh tế ở mức tối ña. Với
quan ñiểm ñó, việc xây dựng hạ tầng giao thông, năng lượng, thông tin - viễn
thông và cơ sở hạ tầng ñô thị có thể ñược coi là những trọng ñiểm ñầu tư bởi
ñiều này có thể ñem lại tác dụng thúc ñẩy sự phát triển của các ngành liên quan
nhờ vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng và việc thúc ñẩy ñô thị hoá sẽ kéo theo sự
phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ, tạo ñiều kiện thu hút thêm lao
ñộng dư thừa từ nông nghiệp chuyển sang. ðồng thời, chính sách ñầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng phục vụ CNH, HðH của nhà nước cần gắn với quá trình ñô
thị hoá và góp phần thu hút ñầu tư vào các vùng sâu, vùng xa nhằm giảm dần sự
cách biệt giữa các vùng kinh tế, giữa các ñịa phương rừng núi và ñồng bằng.
Tóm lại, cả lý thuyết và thực tiễn ñều khẳng ñịnh CNH, HðH trong hội
nhập kinh tế quốc tế ở các nước ñang phát triển là một quá trình khó khăn, phức
tạp với nhiều vấn ñề ñặt ra cần giải quyết và nhà nước phải là tác nhân quan
trọng, nhiều khi có tính chất quyết ñịnh ñến sự thành công trong CNH, HðH.
Nhà nước không chỉ ñóng vai trò ñịnh hướng mà còn can thiệp trực tiếp hoặc
gián tiếp tạo môi trường với những ñiều kiện thuận lợi và có các chính sách
nhằm huy ñộng và phân bổ sử dụng các nguồn lực cho ñầu tư phát triển. Trong
những hoàn cảnh cụ thể, nhà nước cần chủ ñộng thúc ñẩy tiến trình CNH, HðH
với tư cách là nhà ñầu tư, nhà kế hoạch và người ñổi mới. Sự can thiệp có hiệu
quả của nhà nước vào các hoạt ñộng kinh tế sẽ góp phần quan trọng rút ngắn tiến
trình CNH, HðH.
59
Tóm tắt chương 1
Chương 1, luận án ñã hệ thống hoá làm rõ những vấn ñề lý luận cơ bản về
CNH, HðH, về vai trò của CNH, HðH và tính tất yếu khách quan của CNH,
HðH ñối với các nước ñang phát triển; Phân tích những nhân tố ảnh hưởng ñến
CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế, mục tiêu của CNH, HðH trong hội
nhập kinh tế quốc tế ñể thấy ñược sự cần thiết về vai trò của nhà nước ñối với
CNH, HðH ở các nước ñang phát triển ngày nay. Trên cơ sở khái quát những lý
thuyết về vai trò của nhà nước ñối với sự phát triển kinh tế, luận án ñã luận giải
làm rõ vai trò của nhà nước ñối với CNH, HðH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở
các nước ñang phát triển, thể hiện ở hai nội dung chủ yếu là vai trò xác ñịnh
chiến lược và ban hành các chính sách, ñặc biệt là các chính sách phát huy ñộng
lực của kinh tế thị trường; chính sách ñiều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế gắn với
phát huy lợi thế so sánh, chính sách huy ñộng các nguồn lực về vốn, công nghệ,
nhân lực; chính sách khuyến khích xuất khẩu; chính sách xây dựng và phát triển
cơ sở hạ tầng tạo ñiều kiện thúc ñẩy CNH, HðH nhằm thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội ñề ra.
60
Chương 2
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ðỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ðẠI
HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở ðÀI LOAN
(THỜI KỲ 1961 – 2003) VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - Xà HỘI ðÀI LOAN GIAI
ðOẠN 1949 - 1960
2.1.1. ðiều kiện tự nhiên
Lãnh thổ ðài Loan nằm ở khu vực ðông Bắc Á, phía ðông Nam Trung
Quốc, có tổng diện tích khoảng 36.006 km2 bao gồm ñảo ðài Loan và nhiều ñảo
lớn nhỏ khác như ñảo Lan, ñảo Quy Sơn, ñảo ðiếu Ngư... và quần ñảo Bành Hổ.
ðảo ðài Loan có diện tích 35.879,3 km2, chiếm 99% lãnh thổ. Những dãy núi
chạy từ Bắc ñến Nam ñã chia ñảo ðài Loan thành hai miền ñồng bằng phía Tây
và phía ðông. Diện tích ñất ñai có khả năng trồng trọt chiếm khoảng 29% tổng
diện tích ñược phân bố ở nhiều khu vực: ñồng bằng Gia Nam, ñồng bằng Bình
ðông ở phía Nam và ñồng bằng Nghi Lan ở phía Bắc. Hệ thống sông ngòi của
ðài Loan gồm có gần 50 con sông, nhưng ña phần ñều ngắn và dốc, ñộ chênh
lệch so với mặt biển khá cao. ðây là ñiều kiện thuận lợi cho ðài Loan có thể xây
dựng các công trình thuỷ ñiện.
Lãnh thổ ðài Loan ñược bao quanh là biển. ðiều kiện tự nhiên với một
ñảo chính và nhiều ñảo nhỏ thuộc quần ñảo Bành Hổ, quần ñảo ðiếu Ngư ñã tạo
ñiều kiện cho việc xây dựng các hải cảng lớn như cảng Cơ Long, cảng Cao Hùng
và cảng An Bình.
Về thổ nhưỡng, vùng núi ðài Loan phân bố rộng, vùng gò ñồi chủ yếu là
thổ nhưỡng màu vàng và ñỏ, vùng ñất thấp ven biển chủ yếu là ñất bồi có ñộ phì
nhiêu tương ñối cao và ñất phèn. ðất nông nghiệp ở ðài Loan tương ñối ít với
khoảng 1,7 triệu ha. ðất canh tác bình quân ñầu người ở ðài Loan ñược xếp vào
61
loại thấp nhất trong khu vực. ðiều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng ña dạng ñã
tạo ñiều kiện cho các loại sinh vật, thảm thực vật phát triển dồi dào, nhiều chủng
loại. ðài Loan nghèo về khoáng sản, theo số liệu thăm dò, hiện ðài Loan ñã phát
hiện ñược khoảng 200 loại khoáng sản, tuy nhiên những khoáng sản quan trọng
như than ñá, hơi ñốt, ñôlomit chỉ có trữ lượng nhỏ.
Về dân số, năm 1952 dân số ðài Loan là 8.128 nghìn người với lực lượng
lao ñộng là 3,063 triệu người. ðến năm 2003 dân số của ðài Loan là 22,535 triệu
người với thu nhập quốc dân bình quân ñầu người ñạt 13.157 USD. Trong ñó lực
lượng lao ñộng có khoảng trên 10 triệu người [90, tr. 15-17]. Dân cư sống trên
ñảo ðài Loan ñại bộ phận là người Hán di cư từ ðại lục. Thổ dân ðài Loan có
hai tộc người là người Cao Sơn và người Bình Phố chiếm khoảng 2% dân số. Do
ñất chật, người ñông nên ðài Loan là một trong những khu vực có mật ñộ dân cư
thuộc loại cao trên thế giới. Theo số liệu thống kê, năm 2003 mật ñộ dân cư ở
ðài Loan là 625,86 người/km2 [90, tr. 23]. Sự phân bố dân cư ở ðài Loan không
ñều. Theo ñà phát triển kinh tế, người dân có xu hướng di cư ñến sống ở miền
Tây, nơi có ñồng bằng trù phú, có những thành phố lớn. Một số khu vực có mật
ñộ dân cư lớn như thành phố ðài Bắc có mật ñộ dân cư lên ñến 10 nghìn
người/km2, thành phố Cao Hùng là trên 9 nghìn người/km2... Tuy nhiên, một số
khu vực khác như huyện Hoa Liên, huyện ðài ðông chỉ có khoảng trên 70
người/km2 [90, tr. 23].
Nhìn chung, về ñiều kiện tự nhiên, ñịa lý, khí hậu ðài Loan có nhiều mặt
không thuận lợi. Nhưng với vị trí biển ñảo, ðài Loan là nơi có thể trở thành
trung tâm thu hút các hoạt ñộng kinh tế quốc tế, ñặc biệt trong xu thế toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới.
2.1.2. ðiều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
Năm 1895, triều ñình nhà Thanh ñã phải ký hiệp ước Mã Quan, theo ñó
Trung Quốc phải nhường ðài Loan, Bành Hồ và các ñảo phụ cận khác cho Nhật
62
Bản và sau ñó Nhật Bản ñã thiết lập sự thống trị Tổng ñốc ñộc tài, mọi quyền
hành từ lập pháp, hành chính, quân sự nằm trong tay một người và thi hành
chính sách ñồng hoá.
Về kinh tế, Nhật Bản ñã thực thi chính sách “công nghiệp Nhật Bản, nông
nghiệp ðài Loan” với mục ñích biến ðài Loan thành khu vực chuyên cung cấp
lúa gạo và là nơi tiêu thụ những sản phẩm công nghiệp của Nhật Bản. Với công
nghiệp, Nhật Bản chú ý ñến những ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến
nông sản trong ñó ñặc biệt là ngành sản xuất ñường. Năm 1927, ðài Loan ñã có
tới 45 nhà máy sản xuất ñường chiếm tới 98% tổng sản phẩm công nghiệp.
Ngoài ra, ở ðài Loan còn có một số cơ sở công nghiệp thuộc các lĩnh vực khác
như các nhà máy xay xát gạo, chế biến sợi, xi măng, phân bón, giấy, hoá chất...
Hệ thống giao thông bao gồm ñường sắt, ñường bộ, bến cảng... cũng ñược xây
dựng tạo ñiều kiện cho việc lưu chuyển hàng hoá như tuyến ñường sắt nối liền
Bắc Nam, các tuyến ñường sắt dọc miền ðông, hệ thống ñường bộ nối liền các
thành phố, huyện xã. Việc nâng cấp cảng Cơ Long cho phép tàu trọng tải 10 vạn
tấn có thể ra vào. Cảng Cao Hùng cũng ñược xây dựng và nâng cấp.
Thực tế, chính sách khái thác thuộc ñịa của Nhật Bản ñã phần nào có tác
ñộng tích cực thúc ñẩy kinh tế ðài Loan ñi lên. Tuy nhiên, thời kỳ 1937 - 1945,
các nguồn lực cơ bản của ðài Loan bị Nhật huy ñộng ñể biến ðài Loan thành
căn cứ công nghiệp quốc phòng phục vụ mục ñích chiến tranh của Nhật Bản. Do
vậy, công nghiệp và nông nghiệp của ðài Loan bị tổn thất nghiêm trọng, sức sản
xuất ngày càng thấp kém. Nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu thốn hàng tiêu
dùng trong khi lao ñộng dư thừa. Khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, ðài
Loan ñược giải phóng khỏi ách thống trị của Nhật Bản nhưng những mâu thuẫn
mới giữa những người gốc ðài Loan với chính quyền và quân ñội tới từ ðại lục
nảy sinh và trở nên gay gắt. Người dân nổi dậy chống chính quyền và nhanh
chóng bị ñàn áp. Kinh tế ðài Loan lại rơi vào trạng thái suy sụp, hỗn loạn. Dân
số tăng nhanh trong khi sản xuất nông nghiệp bị suy giảm ñã dẫn ñến sự thiếu
63
hụt nghiêm trọng về lương thực. Sản xuất nông nghiệp năm 1948 chỉ bằng 59%
so với năm 1941, không ñủ cung cấp cho dân trên ñảo. Hàng tiêu dùng ngày
càng khan hiếm, giá cả tăng vọt.
Năm 1949, khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra ñời, quan hệ kinh
tế giữa ðài Loan và ðại lục hoàn toàn bị cắt ñứt. ðài Loan ñi theo con ñường tư
bản chủ nghĩa. Về quan hệ ñối ngoại, trong những năm 1950 và 1960, ðài Loan
nhận ñược sự ủng hộ về chính trị tương ñối rộng rãi của Mỹ và các nước tư bản
khác. Nhiều nước ñã công nhận chính thể Quốc dân ñảng và thiết lập quan hệ
ngoại giao với ðài Loan. ðài Loan cũng từng là thành viên chính thức của Liên
hợp quốc nhưng ñến những năm 1970, ðài Loan ñã mất chân trong Liên hợp
quốc và ñiều ñó cũng ñã gây rất nhiều khó khăn trong quan hệ quốc tế của ðài
Loan. Nước CHND Trung Hoa tuyên bố ðài Loan là một bộ phận của Trung
Quốc, nhiều nước ñã cắt quan hệ ngoại giao với ðài Loan. Tuy vậy, ðài Loan ñã
thực hiện “ñường lối ngoại giao thực dụng”, thông qua hoạt ñộng kinh tế, thương
mại, văn hoá ñể tranh thủ sự ủng hộ của các nước.
Trong quan hệ quốc tế, ðài Loan ở vị trí ñịa - chính trị khá ñặc biệt, nơi
ñối ñầu giữa hai hệ thống xã hội trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, Do vậy, ðài
Loan ñã nhận ñược nguồn viện trợ và ñầu tư lớn từ Mỹ, Nhật và các nước Tây
Âu. Cũng thời gian này, trong dòng người di cư ồ ạt từ ðại lục có những nhà tư
bản có vốn, có chuyên môn kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý cũng là ñiều kiện
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của ðài Loan.
Sau khi tách khỏi ðại lục (1949), kinh tế ðài Loan vốn lạc hậu lại phải
gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế mất cân ñối,
lạm phát lên tới 1189% vào năm 1949 [63, tr. 36]. ðời sống của nhân dân rất
khó khăn. Sức ép về việc làm cũng ngày càng tăng do hậu quả của làn sóng di
dân vào ðài Loan. Hoàn cảnh ñó ñã buộc ðài Loan phải nhanh chóng tiến hành
khôi phục kinh tế (1949-1952) với nội dung cơ bản là hạn chế, ngăn chặn sự hỗn
loạn kinh tế, kiềm chế lạm phát và ổn ñịnh xã hội.
64
ðể kiềm chế lạm phát, ðài Loan ñã thực hiện những giải pháp cụ thể như
cải cách hệ thống tiền tệ thông qua việc phát hành ñồng tiền mới, bán vàng ñể
tạo lập niềm tin của dân chúng vào ñồng tiền mới, tăng lãi suất tín dụng lên
7%/tháng v.v... Nhờ ñó, tỷ lệ lạm phát năm 1950 giảm xuống còn 84%, năm
1951 còn 53% [63, tr. 37]. Trong nông nghiệp và nông thôn, ðài Loan ñã ban
hành chính sách cải cách ruộng ñất bắt ñầu từ năm 1949. Việc cải biến chế ñộ sở
hữu ruộng ñất ñã góp phần giải quyết cơ bản mâu thuẫn giữa ñịa chủ và nông
dân, giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn. Trong công nghiệp,
nhà nước ñã bán cho tư nhân 461 xí nghiệp vừa và nhỏ tiếp quản của tư bản
nước ngoài [66, tr. 101]. Nhờ áp dụng hàng loạt các biện pháp tích cực trên, ñến
cuối năm 1952, nền kinh tế ðài Loan ñã ñược khôi phục, ñạt mức cao nhất trước
chiến tranh. Tình hình kinh tế ñã cơ bản ổn ñịnh tạo ñiều kiện cho ðài Loan
bước vào công nghiệp hoá.
2.1.3. Khái quát tình hình thực hiện chiến lược công nghiệp hoá thay thế
nhập khẩu (giai ñoạn 1953 - 1960)
Trong giai ñoạn ñầu công nghiệp hoá, với ñiểm xuất phát là một nền kinh
tế cơ bản vẫn dựa trên nền nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp nhỏ bé, phần lớn
hàng tiêu dùng công nghiệp vẫn phải nhập khẩu, nhà nước ðài Loan ñã lựa chọn
chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Nội dung cơ bản của chiến lược
này là tận dụng những nguồn lực sẵn có trong nước, ñặc biệt là nguồn lao ñộng
dồi dào ñể xây dựng một số ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm ñang phải
nhập khẩu nhằm ñáp ứng nhu cầu ña dạng của sản xuất và tiêu dùng, tạo thêm
việc làm, góp phần ổn ñịnh kinh tế - xã hội.
Từ năm 1953, ðài Loan ñã ñề ra các kế hoạch 4 năm phát triển kinh tế:
1953-1956, 1957-1960 và 1961-1964. Nội dung cơ bản của các kế hoạch này là
giữ ổn ñịnh giá cả hàng hoá, từng bước giảm tỷ lệ lạm phát, cải cách chế ñộ quản
lý ngoại tệ ñể ổn ñịnh kinh tế, cải thiện ñời sống nhân dân... Nhà nước ðài Loan
ñã thực hiện một số chính sách và giải pháp sau:
65
- Về chính sách phát triển nông nghiệp
Giai ñoạn này, ðài Loan coi nông nghiệp là ngành chủ ñạo với phương
châm “lấy nông nghiệp nuôi dưỡng công nghiệp và lấy công nghiệp ñể hỗ trợ
nông nghiệp”. Nhà nước tiếp tục thực hiện chương trình cải cách ruộng ñất và ñã
chia cho 195.000 hộ nông dân không ñất góp phần hình thành các nông hộ quy
mô nhỏ. ðồng thời, nhà nước còn thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ nông dân
như cho vay vốn với lãi suất thấp, quy hoạch lại ruộng ñất, củng cố các hiệp hội
nông dân, mua nông sản với giá cao hơn giá thị trường khi cần thiết, tăng cường
hỗ trợ các yếu tố ñầu vào phục vụ sản xuất. Bên cạnh ñó, nhà nước ðài Loan
thực hiện ñầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp chủ yếu là xây
dựng các công trình thuỷ lợi, mở mang hệ thống giao thông nông thôn, thực hiện
cơ giới hoá nông nghiệp.
Các chính sách, biện pháp trên ñã góp phần thúc ñẩy sản xuất nông nghiệp
tăng trưởng nhanh. Từ 1953 ñến 1960, tốc ñộ tăng trưởng của nông nghiệp ñạt
gần 5% bình quân hàng năm [63, tr. 42]. ðài Loan ñã không còn phải nhập khẩu
lương thực, sản xuất nông nghiệp phát triển cũng làm gia tăng các nguồn nguyên
liệu cung ứng cho công nghiệp chế biến. Ngoài ra, giá trị xuất khẩu nông, lâm,
thuỷ sản chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 1960 ñóng góp
56% tổng giá trị xuất khẩu).
- Về chính sách phát triển công nghiệp
Trong giai ñoạn này, ðài Loan xác ñịnh công nghiệp nhẹ, công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng là chủ lực, bên cạnh ñó chú ý phát triển một số ngành công
nghiệp khác như xây dựng, năng lượng nhằm vừa tạo tích luỹ ban ñầu cho phát
triển kinh tế vừa chuẩn bị các ñiều kiện về cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho
giai ñoạn sau. Do hạn chế về nguồn vốn, về trình ñộ kỹ thuật - công nghệ nên
chính sách công nghiệp của ðài Loan hướng vào phát triển các cơ sở công
nghiệp quy mô vừa và nhỏ, vốn ñầu tư không nhiều, yêu cầu lao ñộng kỹ thuật
66
không cao ñể sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu như dệt, may
mặc, giầy, da, cao su, xe ñạp, các loại máy phát ñiện, vật liệu xây dựng, phân
bón và nông cụ... Nhà nước thực hiện chính sách bảo hộ và hỗ trợ các ngành
công nghiệp non trẻ thông qua việc kiểm soát nghiêm ngặt nhập khẩu, miễn
giảm thuế, cho vay vốn với lãi suất thấp, hỗ trợ các doanh nghiệp trong cung cấp
nguyên liệu, ñảm bảo về thị trường cho các doanh nghiệp trọng ñiểm.
- Chính sách coi trọng phát triển khu vực kinh tế quốc doanh
Trong những năm 1950, với chủ trương coi xí nghiệp quốc doanh là chủ
ñạo, nhà nước ðài Loan ñã tăng chi ngân sách ñầu tư xây dựng các xí nghiệp
quốc doanh quy mô lớn, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực năng lượng, giao
thông, công nghiệp chế tạo... nhằm thực hiện chức năng mở ñường cho sự phát
triển một số ngành công nghiệp. Năm 1952, khu vực này chiếm 56,6% tổng giá
trị gia tăng của nền kinh tế; 56,2% tổng giá trị gia tăng trong khu vực chế tạo và
100% trong các ngành cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng. Thực tế, sự phát
triển của khu vực kinh tế quốc doanh ñã góp phần quan trọng vào thu ngân sách
của nhà nước (những năm 1950 chiếm 21,4% thu ngân sách của chính quyền
trung ương). Các xí nghiệp quốc doanh ñóng vai trò tích cực hỗ trợ doanh nghiệp
tư nhân về nguyên vật liệu, về tài chính và dựa vào các doanh nghiệp tư nhân ñể
tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, việc mở rộng khu vực kinh tế quốc doanh ñã tạo
thêm nhiều việc làm mới và góp phần ñào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý.
- Chính sách huy ñộng các nguồn vốn tín dụng và viện trợ cho ñầu tư
phát triển
Trong giai ñoạn ñầu của công nghiệp hoá, quan ñiểm “tự lực tăng trưởng”
ñã chi phối các chính sách huy ñộng vốn cho công nghiệp hoá ở ðài Loan. Nhà
nước ñã thực hiện chính sách nâng lãi suất tiền gửi ngân hàng ñể khuyến khích
người dân gửi tiền tiết kiệm. Trong những năm 1950, ðài Loan ñã nâng mức lãi
suất tiền gửi ngân hàng lên 7%/ tháng. Do vậy, từ 1952 ñến 1955, số tiền gửi
67
chiếm 34,3% và từ 1956 ñến 1958 chiếm 34,6% trong tổng lượng tiền phát hành.
ðồng thời, chính phủ ðài Loan cũng chú trọng tranh thủ viện trợ của Mỹ và các
nước phương Tây. Những khoản viện trợ của Mỹ ñã góp phần cấu thành 23,5%
tài sản cố ñịnh của ðài Loan trong giai ñoạn 1952 - 1956. Nhìn chung, các chính
sách huy ñộng vốn ñã góp phần làm tăng tỷ lệ tích luỹ cho ñầu tư phát triển các
ngành kinh tế. Thời kỳ 1951 - 1960, riêng tỷ lệ tiết kiệm nội ñịa ñã chiếm 9,7%
GDP [80, tr. 24].
Một số kết quả bước ñầu của công nghiệp hoá
Với những chính sách và giải pháp tích cực từ phía nhà nước và nỗ lực
của các doanh nghiệp, hộ gia ñình trong thực hiện chiến lược công nghiệp hoá
thay thế nhập khẩu, nền kinh tế ðài Loan ñã ñạt ñược một số thành tựu quan
trọng. Từ 1953 ñến 1962, sản xuất công nghiệp tăng bình quân 11,7% mỗi năm
[80, tr. 13]. Cơ cấu ngành kinh tế của ðài Loan ñã chuyển dịch theo hướng giảm
tỷ trọng của nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Năm 1951,
ngành nông nghiệp chiếm còn tới 35,5% giá trị GDP thì ñến năm 1960 giảm còn
28,7% trong khi tỷ trọng của công nghiệp ñã tăng lên chiếm 29,6% và dịch vụ
chiếm 41,7% GDP. Trong giai ñoạn 1953 - 1963, GNP của ðài Loan tăng bình
quân 7,74% hàng năm. Sự phát triển của các ngành công nghiệp còn góp phần
giải quyết vấn ñề việc làm và gia tăng thu nhập cho người lao ñộng. Trong giai
ñoạn 1955 - 1960, tỷ lệ thất nghiệp ở ðài Loan chỉ còn xấp xỉ 4% [63, tr. 45].
Kim ngạch xuất khẩu cũng có xu hướng gia tăng. Năm 1963, giá trị xuất khẩu là
332 triệu USD. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu, tỷ trọng sản phẩm công nghiệp bắt
ñầu tăng lên, năm 1953 các sản phẩm công nghiệp chỉ chiếm 8,4% nhưng ñến
năm 1962 ñã tăng lên 50,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu [63, tr. 51].
Những kết quả trên cho thấy, việc lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá
thay thế nhập khẩu về cơ bản phù hợp với hoàn cảnh ðài Loan lúc ñó. Từ một
nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, trình ñộ kỹ thuật thấp kém, thiếu lực
lượng những nhà tư bản có tiềm lực thì việc tập trung phát triển nông nghiệp sẽ
68
vừa giải quyết vấn ñề lương thực, vừa tạo tích luỹ cho sự phát triển của các
ngành công nghiệp. Những chính sách từ phía nhà nước nhằm huy ñộng và phân
bổ sử dụng các nguồn lực, nhất là nội lực ñã phát huy tác dụng. ðặc biệt, chính
sách bảo hộ và ưu ñãi của nhà nước ñã tạo ñiều kiện cho sự ra ñời của các ngành
công nghiệp mới, ñã góp phần thay thế dần các mặt hàng nhập khẩu. Nhìn
chung, ðài Loan ñã thực hiện ñược những mục tiêu kinh tế - xã hội ñề ra. Tuy
nhiên, xét về lâu dài, do vốn, công nghệ hạn chế và thị trường nội ñịa nhỏ hẹp
nên việc tiếp tục thực hiện chiến lược này sẽ ñứng trước những thách thức lớn.
ðiều ñó ñặt ra yêu cầu ñiều chỉnh nội dung chiến lược công nghiệp hoá.
2.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ðỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ðẠI
HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở ðÀI LOAN (THỜI KỲ
1961 - 2003)
Từ 1961 ñến 2003, ðài Loan tiếp tục thực hiện quá trình CNH, HðH và
ñẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế, quá trình CNH, HðH ở ðài Loan có
thể chia thành hai giai ñoạn. Giai ñoạn từ 1961 ñến 1982 thực hiện chiến lược
công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu và giai ñoạn từ 1983 ñến 2003 ñẩy mạnh
hiện ñại hoá, hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới và chuyển dần sang
giai ñoạn phát triển kinh tế tri thức. Nội dung của phần này tập trung phân tích
về vai trò của nhà nước ðài Loan ñối với CNH, HðH trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
2.2.1. Giai ñoạn 1961 - 1982
2.2.1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội
ðến ñầu những năm 1960, sản xuất công nghiệp ðài Loan rơi vào trạng
thái trì trệ. Công nghiệp chế biến, ngành chủ lực ñóng góp vào sự tăng trưởng
nhanh của công nghiệp ðài Loan tốc ñộ tăng trưởng giảm từ 14,4% năm 1960
xuống còn 8,1% năm 1962 [80, tr. 13]. Sự sụt giảm tốc ñộ tăng trưởng công
69
nghiệp ñã ảnh hưởng trực tiếp ñến sự phát triển kinh tế ðài Loan. ðiều ñó cho
thấy chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu ñã bộc lộ rõ những hạn chế:
- Mục tiêu của ðài Loan là phải phát triển hầu hết các ngành công nghiệp
sản xuất các sản phẩm tiêu dùng trước ñó phải nhập khẩu nhưng với những hạn
chế về nguồn vốn, trình ñộ kỹ thuật - công nghệ, nguồn nhân lực ñược ñào tạo và
bị giới hạn của hiệu quả về quy mô thì những yêu cầu trên khó có thể thực hiện
ñược. ðồng thời, sự hạn hẹp về thị trường tiêu thụ (cả về quy mô và sức mua)
cũng là yếu tố kìm hãm sự phát triển của công nghiệp. Thêm vào ñó, sự dư thừa
lao ñộng nông nghiệp, sự di chuyển lao ñộng từ nông nghiệp sang công nghiệp
diễn ra rất chậm ñã gây sức ép lớn về việc làm và các vấn ñề xã hội khác.
- Về cơ bản, nền công nghiệp ðài Loan mới dừng lại ở việc sản xuất
những sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Các máy móc, thiết bị, nguyên liệu
phục vụ sản xuất hầu như ñều phải nhập khẩu. Cơ cấu hàng xuất khẩu chậm
ñược cải thiện. Sản phẩm xuất khẩu cũng chỉ giới hạn ở một số ít sản phẩm
truyền thống giá trị thấp như ñường, gạo, dứa... và chỉ xuất khẩu sang một số thị
trường (ñặc biệt là Nhật Bản) ñược thiết lập thông qua quan hệ thương mại từ
thời kỳ trước và trong chiến tranh. Mặc dù thực hiện kiểm soát nghiêm ngặt
ngoại thương nhưng ðài Loan vẫn rơi vào tình trạng nhập siêu. Năm 1961, nhập
siêu của ðài Loan là 137 triệu USD [63, tr. 51]. Tỷ lệ nhập siêu cao ñược tích lại
từ nhiều năm ñã tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế. Những tác ñộng từ ngoại
thương ñối với sự thay ñổi cơ cấu công nghiệp vẫn chưa có sự cải thiện ñáng kể.
- Việc thực thi chính sách bảo hộ công nghiệp ñã dẫn ñến tình trạng các
nhà sản xuất nội ñịa ít quan tâm ñến cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành. Do vậy, giá cả các sản phẩm ñược bảo hộ ở thị trường nội
ñịa thường cao hơn giá sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới nên sản phẩm
không có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Chính sách bảo hộ mậu dịch và
việc áp dụng tỷ giá hối ñoái cao ñã khuyến khích việc tăng cường sử dụng vật tư
nhập khẩu và không chú ý ñúng mức ñến việc áp dụng các loại công nghệ sử
70
dụng nhiều lao ñộng nên mục tiêu giải quyết vấn ñề việc làm trong công nghiệp
rất khó thực hiện ñược. Ngoài ra, trong bối cảnh nhà nước can thiệp sâu vào các
hoạt ñộng kinh tế ñã tạo ra một bộ máy quản lý quan liêu và trên phương diện
kinh tế, nó triệt tiêu ñộng lực cạnh tranh.
- Một ñiểm ñáng chú ý nữa là trong những năm 1950, ðài Loan là một
trong số quốc gia và vùng lãnh thổ chủ yếu nhận viện trợ quân sự và ñầu tư của
Mỹ. Tổng số viện trợ thời gian này lên ñến 2 tỷ USD ñã có tác ñộng quan trọng
ñến sự phát triển kinh tế ðài Loan, nhất là trong việc xây dựng hạ tầng cơ sở [87,
tr. 49]. Tuy nhiên, từ năm 1961, Mỹ tuyên bố cắt giảm dần viện trợ cho ðài
Loan. ðiều ñó cũng có nghĩa là ðài Loan mất dần nguồn hỗ trợ tài chính từ bên
ngoài cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thực trạng ñó cho thấy, việc tiếp tục duy trì chiến lược công nghiệp hoá
thay thế nhập khẩu sẽ không thể giúp ðài Loan thực hiện ñược các mục tiêu kinh
tế - xã hội ñề ra.
Mặc dù ở bên trong ðài Loan gặp phải nhiều thách thức to lớn nhưng tình
hình thế giới ñầu những năm 1960 lại có những biến ñộng lớn và tác ñộng theo
hướng có lợi ñối với sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ
trong ñó có ðài Loan, nhất là những cơ hội ñể thâm nhập, chiếm lĩnh, mở rộng
thị trường nước ngoài và những cơ hội lớn ñể tiếp thu những nguồn lực quan
trọng từ nước ngoài. Cụ thể:
- ðài Loan nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, là một phần
lãnh thổ tách ra từ Trung Quốc nên có vị thế ñịa - chính trị, ñịa - kinh tế ñặc biệt
trong bối cảnh chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống XHCN và TBCN nên ñược các
nước phát triển, ñặc biệt là Mỹ hỗ trợ nhiều mặt. Do vậy, ðài Loan có thể tập
trung mọi nguồn lực cho ñầu tư phát triển khi không phải dành khoản ngân sách
ñáng kể cho hoạt ñộng quốc phòng an ninh và còn tiếp nhận ñược các khoản
viện trợ tài chính và những ưu ñãi trong tiếp cận thị trường Mỹ.
71
- Môi trường kinh tế quốc tế thời gian này ñã tạo ra những thuận lợi cho
các nước thực hiện mục tiêu gia tăng xuất khẩu. Nền kinh tế các nước tư bản
phát triển ñang trong thời kỳ tăng trưởng nhanh và tương ñối ổn ñịnh. Cơ cấu
ngành kinh tế ở các nước này chuyển dịch theo hướng gia tăng tỷ trọng của các
ngành dịch vụ, các ngành công nghệ cao và giảm bớt tỷ trọng của các ngành sử
dụng nhiều lao ñộng do sức ép về tiền công gia tăng. Các hoạt ñộng thương mại,
ñầu tư quốc tế ñược mở rộng và phát triển nhanh chóng, hệ thống tài chính tiền
tệ quốc tế ñược duy trì tương ñối ổn ñịnh. ðó là thời cơ lớn cho các nền kinh tế
ñang phát triển tiếp cận và khai thác, ñặc biệt là khai thác những khoảng trống
thị trường các sản phẩm tiêu dùng mà nhiều nước phát triển bỏ lại. Ngoài ra,
cũng do quy mô lãnh thổ nhỏ bé, các nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn nên
ðài Loan buộc phải hướng ñến tìm kiếm nguồn lực từ bên ngoài và mở rộng thị
trường nước ngoài ñể thúc ñẩy kinh tế phát triển.
- Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện ñại ñang diễn ra mạnh mẽ ñã
làm xuất hiện nhu cầu ñổi mới và chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển
sang các nước ñang phát triển. Chính xu thế ñó ñã tạo ñiều kiện cho các nền kinh
tế ñi sau trong công nghiệp hoá như ðài Loan có thể tiếp nhận ñược những
nguồn công nghệ bên ngoài thông qua nhập khẩu máy móc, thiết bị, thông qua
thu hút FDI ñể phát triển những ngành sản xuất các sản phẩm xuất khẩu. Thêm
nữa, sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ dựa trên nền tảng mang tính chuẩn
mực của kỹ thuật ñiện khí, ñiện tử và hoá chất cũng xác ñịnh rõ mục tiêu cho ðài
Loan cần phải ñạt tới ñể thâm nhập thị trường thế giới.
2.2.1.2. Nội dung chiến lược CNH, HðH
Nắm bắt những cơ hội to lớn mà môi trường kinh tế quốc tế ñem lại ñồng
thời giải toả những sức ép từ nội bộ nền kinh tế, từ ñầu những năm 1960, nhà
nước ðài Loan ñã chuyển hướng sang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá
hướng về xuất khẩu với những nội dung cơ bản sau:
72
Về mục tiêu của chiến lược CNH, HðH
Chính phủ ðài Loan xác ñịnh mục tiêu cơ bản của chiến lược mới là tập
trung ñầu tư phát triển các ngành công nghiệp phục vụ xuất khẩu ñể thúc ñẩy
tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm ñưa nền kinh tế ðài
Loan ra khỏi tình trạng kém phát triển, ñồng thời giải quyết các vấn ñề xã hội.
Về bước ñi trong CNH, HðH
Mục tiêu cơ bản xuyên suốt của chiến lược mới là phát triển những ngành
công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng bước ñi cho từng giai ñoạn ñược
ñiều chỉnh linh hoạt dựa trên nguyên tắc cơ bản là phải khai thác và phát huy
những lợi thế so sánh của từng ngành, lĩnh vực. ðiều ñó có nghĩa là ðài Loan
lựa chọn một cơ cấu kinh tế không cân ñối với các “cực tăng trưởng” dựa trên
những lợi thế so sánh trong quan hệ ngoại thương.
Về bước ñi, giai ñoạn ñầu ðài Loan tập trung phát triển các ngành sử
dụng nhiều lao ñộng ñể khai thác lợi thế về lao ñộng giá rẻ cho sản xuất xuất
khẩu, sau ñó tập trung phát triển một số ngành công nghiệp nặng sản xuất các tư
liệu sản xuất thay thế nhập khẩu và các ngành công nghiệp có hàm lượng vốn
lớn, công nghệ cao ñể nâng cao trình ñộ công nghiệp và tạo giá trị gia tăng cao.
Từ những năm 1970, ðài Loan ñã bắt ñầu triển khai chiến lược nâng cấp nền
kinh tế với nội dung là phát triển mạnh các ngành dịch vụ và các ngành công
nghiệp mới nhằm tạo ra một cơ cấu ngành kinh tế năng ñộng, hiệu quả và hướng
dần ñến giai ñoạn phát triển kinh tế tri thức.
Về ñịnh hướng giải pháp huy ñộng các nguồn lực cho CNH, HðH
Nội dung chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu ñặt trọng tâm
phát triển vào những lĩnh vực có lợi thế so sánh của ðài Loan trên thị trường
quốc tế và ñặt các doanh nghiệp, các sản phẩm nội ñịa ñối mặt với áp lực cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Toàn bộ hệ thống chính sách chủ yếu của nhà nước
ðài Loan ñều nhằm khuyến khích xuất khẩu với một nguyên lý chung là ñảm
73
bảo cho những nhà sản xuất có lợi hơn khi xuất khẩu sản phẩm. Như vậy, nguồn
ñộng lực thúc ñẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp ñã có sự thay ñổi căn
bản. Thị trường nước ngoài ñược coi là ñộng lực cho sự phát triển. Bên cạnh huy
ñộng nguồn nội lực, ðài Loan coi trọng các chính sách thu hút các nguồn lực từ
bên ngoài, nhất là các nguồn lực về vốn, công nghệ cho ñầu tư phát triển.
2.2.1.3. Các chính sách, giải pháp trong CNH, HðH
a. Chính sách tự do hoá kinh tế và ổn ñịnh môi trường kinh tế vĩ mô
Chuyển sang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu,
chính quyền ðài Loan ñã thực thi chính sách tự do hoá kinh tế, phát triển kinh tế
thị trường nhằm huy ñộng các nguồn lực cho công nghiệp hoá thông qua các
biện pháp như cải cách chế ñộ tỷ giá, thực hiện chính sách thuế ưu ñãi nhằm
khuyến khích tư nhân trong và ngoài nước ñầu tư, từng bước nới lỏng hoạt ñộng
kiểm soát xuất nhập khẩu tiến tới chính sách tự do mậu dịch...
Trong thực hiện chiến lược mới, mặc dù theo mục tiêu gia tăng xuất khẩu
nhưng nhà nước ðài Loan vẫn kiên trì phương châm “phát triển trong ổn ñịnh”.
Do vậy, nhiều biện pháp ñã ñược áp dụng ñể thực hiện cân bằng ngân sách, ổn
ñịnh kinh tế vĩ mô và tạo ñiều kiện gia tăng ñầu tư xây dựng cơ bản. Chính phủ
ðài Loan cũng rất coi trọng việc kiểm soát và ngăn chặn tình trạng lạm phát.
ðây là một trong những giải pháp quan trọng nhất trong số những giải pháp
nhằm ổn ñịnh môi trường kinh tế vĩ mô ñể khuyến khích ñầu tư phát triển. Khi
xuất hiện lạm phát nhà nước ñều áp dụng những biện pháp hữu hiệu ñể ngăn
chặn, ví dụ như ñể chống lại tình trạng lạm phát ñầu những năm 1970, chính phủ
ñã thực hiện thắt chặt tiền tệ bằng nâng lãi suất ngân hàng, ñồng thời ñiều chỉnh
giá cả hàng hoá và lao ñộng trong phạm vi cho phép. Nhờ vậy, chỉ trong một
thời gian ngắn chỉ số giá tiêu dùng ñã giảm xuống, lạm phát ñã bị chặn ñứng.
Thực tế, sự ổn ñịnh của môi trường kinh tế vĩ mô ñã tạo ñiều kiện gia tăng
nguồn vốn, nhất là vốn của khu vực tư nhân cho ñầu tư phát triển.
74
b. Chính sách thúc ñẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong giai ñoạn ñầu thực hiện chiến lược mới, nhà nước ðài Loan xác
ñịnh công nghiệp là ngành chủ ñạo, ñặc biệt là các ngành hướng về xuất khẩu,
còn nông nghiệp và dịch vụ sẽ ñóng vai trò hỗ trợ cho sự phát triển công nghiệp.
Chính quyền ðài Loan ñã ñề ra các chính sách nhằm ñiều chỉnh cơ cấu ngành
cũng như cơ cấu nội bộ ngành ñể thực hiện mục tiêu ñẩy mạnh xuất khẩu.
- Với công nghiệp, những năm 1960, nhà nước ðài Loan khuyến khích
phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao ñộng, quy mô nhỏ và kỹ
thuật không ñòi hỏi cao, chủ yếu là công nghiệp nhẹ và lắp ráp. Những ngành
công nghiệp ñược ưu tiên phát triển bao gồm dệt, chế biến thực phẩm, nhựa, ñồ
ñiện gia ñình...
ðầu những năm 1970, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới, công nghiệp của ðài Loan ñã bị rơi vào tình trạng không ổn ñịnh. ðể cải
thiện cơ cấu công nghiệp, chính quyền ðài Loan chuyển hướng khuyến khích
phát triển công nghiệp có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao ñể gia tăng giá trị,
ñồng thời phát triển một số ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất
như sản xuất gang thép, ñiện lực, lọc dầu... nhằm sản xuất nguyên liệu, các sản
phẩm trung gian, máy móc và thiết bị thay cho nhập khẩu.
Từ cuối những năm 1970, do giá nhân công tăng lên, những ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao ñộng ñã mất dần lợi thế và gặp phải sự cạnh tranh gay
gắt của một số quốc gia ñang phát triển trong khu vực, chính phủ ðài Loan ñã
chuyển hướng ưu tiên phát triển các loại hình công nghiệp công nghệ cao, sản
phẩm có giá trị gia tăng lớn: công nghiệp sản xuất các sản phẩm cơ giới, linh
kiện xe hơi và ñiện cơ, công nghiệp ñiện tử thông tin.
- Với khu vực dịch vụ, chính quyền ðài Loan khuyến khích phát triển
những ngành dịch vụ phục vụ sản xuất như vận tải, thông tin, dịch vụ tài chính,
tiền tệ... nhằm ñiều chỉnh cơ cấu dịch vụ theo hướng hiện ñại hoá. Còn với nông
75
nghiệp, chính sách của nhà nước tập trung phát triển một số loại sản phẩm cây
trồng, vật nuôi có năng suất cao ñể phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu.
c. Chính sách huy ñộng nguồn lực tài chính cho công nghiệp hoá
Trong nội dung chiến lược mới, chính quyền ðài Loan xác ñịnh khu vực
kinh tế tư nhân là xương sống của nền kinh tế và là ñộng lực của sự phát triển.
Tuy nhiên, vai trò quan trọng của khu vực kinh tế nhà nước vẫn không bị xem
nhẹ trong cung cấp các dịch vụ công cộng và hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân.
ðây chính là cơ sở ñể chính phủ ðài Loan ban hành các chính sách nhằm huy
ñộng nguồn lực tài chính cho công nghiệp hoá:
- ðảm bảo cân ñối ngân sách nhà nước nhằm tập trung chi cho công
nghiệp hoá
Chính phủ ðài Loan rất coi trọng việc ñảm bảo cân ñối ngân sách nhà
nước với việc hạn chế các khoản chi tiêu của nhà nước, ñặc biệt là các khoản chi
thường xuyên. Năm 1960, chi thường xuyên của nhà nước chỉ chiếm 19% GDP
[90, tr. 58]. Theo các số liệu thống kê, từ sau 1961, ngân sách nhà nước ở ðài
Loan ñảm bảo cân bằng và có thặng dư. ðiều ñó cho phép chính phủ ðài Loan
tập trung vốn cho công nghiệp hoá, ñặc biệt cho xây dựng cơ bản.
Về cơ bản, các khoản ñầu tư của nhà nước ñều nhằm mục ñích chung là
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân. Với những
ngành công nghiệp mới ñòi hỏi vốn lớn, nhiều rủi ro, nhà nước có thể ñầu tư
toàn bộ bằng nguồn vốn từ ngân sách hoặc góp cổ phần. Khi những ngành này
phát triển, hoạt ñộng kinh doanh có hiệu quả thì chính phủ dần bán lại cổ phần
cho tư nhân ñể tập trung cho các lĩnh vực khác. ðiều ñáng chú ý là khu vực
doanh nghiệp nhà nước chỉ tập trung vào một số ngành then chốt như công
nghiệp khai khoáng, giao thông vận tải, năng lượng. Từ những năm 1970, các
doanh nghiệp nhà nước tập trung chủ yếu vào một số ngành công nghiệp nặng
hiện ñại như ñóng tàu, sắt thép..., công nghiệp quốc phòng và dịch vụ công cộng.
76
- Chính sách khuyến khích ñầu tư tư nhân
ðể biến tiết kiệm thành các khoản ñầu tư có hiệu quả vào sản xuất, chính
phủ ðài Loan ñã kiên trì chính sách phát triển công nghiệp và có những cam kết
mạnh mẽ ñối với các mục tiêu phát triển ñã khiến các nhà ñầu tư tin tưởng vào
sự nhất quán trong các chính sách kinh tế của nhà nước. Các chính sách cụ thể:
+ Chính quyền ðài Loan ñã ban hành hệ thống các văn bản pháp luật
nhằm tạo môi trường pháp lý ổn ñịnh ñể khuyến khích ñầu tư tư nhân. Tiêu biểu
như các ñiều luật: “ðiều lệ chuyển ñổi doanh nghiệp nhà nước sang doanh