1 Độ ma dễ Độ người khó Sư Tôn Lư Thắng Ngạn Chúng ta mọi người đều biết rằng bình thường muốn độ một người quy y Phật là một việc rất khó khăn, có một số người đối với tín ngưỡng tôn giáo có cũng được mà không cũng không sao, đối với họ mà nói mọi tôn giáo đều như nhau, cũng đều là khuyên người làm việc thiện.Thật ra đối với Phật giáo mà nói không phải hoàn toàn như vậy; bởi vì làm việc thiện là điểm chung của tất cả tôn giáo ở Ta Bà thế giới, đều khuyên mọi người làm việc thiện, chỉ là 1 điểm cơ bản nhất của tôn giáo, cao hơn là bản thân mình tu thành thánh nhân, không những thành thánh nhân mà thành thiên nhân, không những thành thiên nhân mà phải thành Phật Bồ Tát, tức là thành tiên thành Phật. Về một mặt nào đó, đối với một số người tôn giáo có thể có và có thể không, bởi do bản thân họ ở Ta Bà thế giới bị hoàn cảnh nhiễm mà không muốn rời khỏi Ta Bà thế giới để ly khổ mà hưởng lạc, đây cũng đều là do hoàn cảnh ảnh hưởng và bị hoàn cảnh bao vây. Có người hỏi, tại sao lúc làm lễ pháp hội siêu độ cho thân trung ấm, trong chốc lác có thể siêu độ được rất nhiều linh hồn vãng sanh tây phương cực lạc? Chúng sanh ở Ta Bà thế giới khó độ, tại sao chỉ cần làm pháp hội siêu độ cho thân trung ấm, thì có thể độ được rất nhiều thân trung ấm vãng sanh tây phương cực lạc, mà họ đều
111
Embed
Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
1
Độ ma dễ Độ người khó
Sư Tôn Lư Thắng Ngạn
Chúng ta mọi người đều biết rằng bình thường muốn độ một người
quy y Phật là một việc rất khó khăn, có một số người đối với tín
ngưỡng tôn giáo có cũng được mà không cũng không sao, đối với
họ mà nói mọi tôn giáo đều như nhau, cũng đều là khuyên người
làm việc thiện.Thật ra đối với Phật giáo mà nói không phải hoàn
toàn như vậy; bởi vì làm việc thiện là điểm chung của tất cả tôn
giáo ở Ta Bà thế giới, đều khuyên mọi người làm việc thiện, chỉ là
1 điểm cơ bản nhất của tôn giáo, cao hơn là bản thân mình tu thành
thánh nhân, không những thành thánh nhân mà thành thiên nhân,
không những thành thiên nhân mà phải thành Phật Bồ Tát, tức là
thành tiên thành Phật.
Về một mặt nào đó, đối với một số người tôn giáo có thể có và có
thể không, bởi do bản thân họ ở Ta Bà thế giới bị hoàn cảnh nhiễm
mà không muốn rời khỏi Ta Bà thế giới để ly khổ mà hưởng lạc,
đây cũng đều là do hoàn cảnh ảnh hưởng và bị hoàn cảnh bao vây.
Có người hỏi, tại sao lúc làm lễ pháp hội siêu độ cho thân trung ấm,
trong chốc lác có thể siêu độ được rất nhiều linh hồn vãng sanh
tây phương cực lạc? Chúng sanh ở Ta Bà thế giới khó độ, tại sao
chỉ cần làm pháp hội siêu độ cho thân trung ấm, thì có thể độ được
rất nhiều thân trung ấm vãng sanh tây phương cực lạc, mà họ đều
2
cùng có thể tin Phật? Đạo lý này ở đâu? Thật ra đạo lý này rất đơn
giản, bởi vì thân trung ấm và con người ở Ta Bà thế giới không
giống nhau, thân trung ấm có thể nói đã không chịu sự hạn chế của
gia đình, cũng không chịu sự hạn chế của hoàn cảnh tác động bên
ngoài, nhất là khi đến cảnh giới linh hồn thân trung ấm, thì hiểu
được đạo lý vô thường bởi do sau khi con người mất đi, thành thân
trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói
chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể không chịu sự ràng
buộc của gia đình, hoàn cảnh, nhục thân, càng hiểu rõ được sự vô
thường; cho nên trong pháp hội siêu độ giảng Phật lý cho họ nghe,
rất nhanh chóng họ có thể tín sự phụng hành, bởi do biết rằng hiện
nay đã là linh hồn rồi, và cũng biết rằng ở thế giới Ta Bà cũng là
một hiện tượng ảo giác mà thôi, tất cả cũng sẽ biến thành không,
cho nên có thể thể nhập vô thường, có thể từ trong đạo lý Phật học
mà chân chánh sám hối, chỉ cần sám hối, tín sự phụng hành thì có
thể dễ dàng tiếp thọ quy y và siêu độ, rất nhanh có thể vãng sanh
Tây Phương cực lạc thế giới.
Bởi vì con người ở Ta Bà thế Giới, thành phần nhục thể nhiều hơn
tinh thần. Tham, sân si nhiều hơn thanh tịnh, đối với thế giới sắc
tướng thì xem rất quan trọng, cho nên trong chốc lát không thể rời
bỏ, còn những thân trung ấm (trong pháp hội siêu độ thân trung
ấm), một là họ hiểu được vô thường, chỉ nghe được Phật pháp là
hiểu được phải rời bỏ thì có thể vãng sanh Tây Phương cực lạc thế
3
giới, bởi không chịu sự ràng buộc của gia đình, nhục thân và hoàn
cảnh, rất dễ dàng vãng sanh, đó là điểm thù thắng của pháp hội
siêu độ thân trung ấm chúng ta làm.
Bình thường chúng ta độ một người rất khó, nhưng đến khi đợi đến
lúc trở thành thân trung ấm thì độ họ sẽ trở nên dễ dàng hơn
Om Ma Ni Bat Mi Hung
Ngày 24 tháng 9 năm 1993
Liên Hoa Cúc Phương kính ghi
4
HOÀN TOÀN TỊNH TÍN (1)
Lúc trước Ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ từng nói chỉ cần <Kính Thầy,
Trọng Pháp, Thực Tu> thì có thể khai ngộ, có thể đắc chứng.
Ở Tây Tạng lưu truyền một câu truyện, kể về 1 Thượng sư và đệ tử
qua sông, dòng sông chảy rất xiết, bản thân đệ tử đối với vị
Thượng sư rất có lòng tin. Rất có lòng tin trì niệm tâm chú của vị
thượng sư, nên sang sông trước, bởi do lòng tin rất kiên cố, Long
Thần Hộ Pháp liền xuống ở phía trước chỉ dẫn người đệ tử, phía
sau thì thúc đẩy thậm chí nhấc bổng toàn thân của người đệ tử đó
lên, cho nên đệ tử đó qua sông rất dễ dàng. Dòng sông chảy rất xiết,
Vị thượng sư ở bờ bên kia liền hỏi đệ tử, làm sao để qua sông?
Làm sao có thể thuận lợi qua sông như vậy? Đệ tử ở bờ bên kia
bèn nói: <Là con trì tâm chú của Thượng sư, được Long Thiên Hộ
Pháp giúp đỡ mới được thuận lợi qua sông.>
Bây giờ đến lượt sư phụ qua sông, sư phụ nghe đệ tử nói xong bèn
nói <A, thì ra tâm chú của ta hữu dụng như vậy!> ông ta cho rằng
tâm chú của ông ta là bình thường, nhưng thực ra đối với chính bản
thân mình mà phát tín tâm thì ông ta cảm thấy có 1 chút sợ, bởi
con sông chảy rất xiết, nhưng đệ tử có thể trì tâm chú của thượng
sư bình an qua sông, làm thượng sư đương nhiên là phải dũng cảm
hơn để qua sông, vừa bước xuống sông thì có cảm giác dòng chảy
rất xiết, tâm do dự không quyết, dòng nước trong 1 lát đã cuốn vị
5
thượng sư đi, ông ta không còn đứng vững nữa, chỉ trong chốc lát
dòng nước đã cuốn mất ông ta, và vị thượng sư đã chết, từ câu
chuyện Tây Tạng trên ta có thể thể nhập, lĩnh hội được điều Ngài
Liên Hoa Sanh Đại Sĩ đã nói, chỉ cần có <tịnh tín >, tức là tin hoàn
toàn, thì bạn có thể đắc.
Câu chuyện trên có thể nói như vậy, vị Thượng sư mà người đệ tử
quy y là giả, tâm chú mà người đệ tử trì cũng là giả, bản thân vị
thượng sư đức hạnh chưa đầy đủ, không phải là một thượng sư đắc
chứng, đối với tâm chú và tu hành bản thân cũng không có tín tâm,
nhưng vì danh vọng tiếng tăm, nên thu nhận rất nhiều đệ tử, và còn
dạy đệ tử trì tâm chú của thượng sư, tuy rằng vị thượng sư còn
nghi ngờ năng lực tâm chú của bản thân, nhưng mà đệ tử có thể trì
tâm chú của bản thân, trì đến Long thần hộ pháp đến hộ trì, đạo lý
này là từ đâu? Là từ <tịnh tín – niềm tin thanh tịnh> mà ngài Liên
Hoa Sanh Đại Sĩ từng nói, hoàn toàn y chỉ thượng sư, hoàn toàn y
chỉ mật pháp mà tu hành, đối với Thầy chỉ cần có một chút nghi
hoặc thì sẽ không thành, vậy thì về nhà cho rồi, nếu tin thì phải
<tịnh tín>, tức hoàn toàn y chỉ, trì chú cũng hoàn toàn y chỉ, cung
kính thượng sư cũng phải hoàn toàn y chỉ, không có 1 chút nghi
hoặc, bởi do bạn hoàn toàn cung kính thượng sư của bạn, cho dù
thượng sư là giả, nhưng bạn vẫn rất cung kính ông ta, trì tâm chú
của ông ta. Nói cho bạn biết 1 đạo lý rất đơn giản, bởi do lòng
thành cung kính hoàn toàn tin của bạn, Long Thần Hộ Pháp vì do
6
lòng thành cung kính hoàn toàn của bạn mà đến hộ trì và gia trì
cho bạn, là xuyên thấu qua tay của thượng sư mà gia trì cho bạn,
đưa bạn đến bỉ ngạn (vượt bờ bên kia), đệ tử có thể thành Phật
nhưng Thượng sư có thể xuống địa ngục, bởi do vị thượng sư đối
với tín ngưỡng của chính bản thân mình, đối với mật pháp không
hoàn toàn trăm phần trăm tin tưởng, nhưng mà đệ tử thì hoàn toàn
tin, thượng sư chỉ tin một nữa, còn một nữa thì do dự không quyết,
cho nên đệ tử thì thành Phật còn thượng sư thì không có cách nào
thành Phật, ý nghĩa của câu chuyện này là như vậy.
Cho nên cho dù bạn quy y 1 vị thượng sư rất ngu, trước lúc quy y
không có tìm hiểu rõ, sau khi quy y mới phát hiện vị thượng sư rất
ngu, đối với Phật pháp cũng không thông, nhưng bạn vẫn hoàn
toàn tín ngưỡng sư phụ này và trì tâm chú của ông ta, nói ra rất kỳ
lạ, như vậy sẽ làm sinh ra năng lực, pháp lưu của Long thần hộ
pháp sẽ thông qua tay của sư phụ bạn mà gia trì cho bạn, để đệ tử
đắc được pháp lưu, tu mật pháp thì sẽ đạt được thành tựu lớn,
nhưng bản thân sư phụ là giả, không có đức hạnh chân chính, cho
nên không thể thành Phật, nhưng đệ tử thì thành Phật. Nếu như
bạn không hiểu thì để sau này sẽ nói.
Om Ma Ni Bat Mi Hung
7
Chỉ cần bạn kiên trì trì chú, thì sẽ sanh ra năng lực, nếu như cho
rằng sư phụ không tốt, đối với tâm chú đang trì còn hoài nghi, vậy
thì vô dụng rồi, vậy thì về nhà quy y người khác đi, ở đây tồn tại
đạo lý của nó, nếu bạn không hoàn toàn viên mãn mà tín ngưỡng,
vậy thì đừng tu, tại sao vậy? Bởi vì mật pháp phải <tịnh tín>, tức là
hoàn toàn tin, tuy rằng sư phụ có khuyết điểm, nhưng bạn hoàn
toàn tin ở mật pháp, chú là trăm phần trăm, nội pháp cũng là trăm
phần trăm, như vậy bạn có thể đắc được, nếu như bạn còn hoài
nghi, vậy thì bạn có thể về nhà không cần tu, các bạn có thể để tóc
cũng có thể cưới vợ, cũng có thể gả chồng.
A Di Đà Phật
Ngày 27 tháng 9 năm 1993
Liên Hoa Cúc Phương kính ghi
8
HOÀN TOÀN TỊNH TÍN ( 2 )
Hôm qua nói về vấn đề <tịnh tín>, nói về tịnh tín thì hình như rất
dễ, nhưng thực ra thì rất khó. Thời xưa những người đại thành tựu
độ chúng sanh đương nhiên là phải chọn đệ tử tịnh tín, sau đó thì
đem toàn bộ Phật pháp truyền lại cho họ; nhưng trong thực tế,
trong tất cả các đệ tử muốn tìm ra một số đệ tử hoàn toàn tịnh tín là
một việc rất khó khăn, ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ đã từng nhắc
nhở qua, sau này nếu muốn truyền bộ pháp tinh diệu nhất cho đệ tử,
nhất định phải tìm tịnh tín, họ gọi là < đệ tử tâm truyền >, cũng tức
là đem tâm yếu truyền cho đệ tử.
Thời nhà Đường, Thiện Vô Úy truyền mật pháp Thai Tạng giới,
Kim Cang Trí truyền mật pháp Kim Cang giới, 1 người là truyền
<Đại Nhật Kinh>, 1 người là truyền <Kim Cang Đỉnh Kinh>, Bất
Không thì đem Kim Cang giới và Thai Tạng giới liên hợp lại phổ
truyền. Đệ tử theo ngài Bất Không học rất đông, nhưng trên thực tế,
người có thành tựu tức là người đắc được tâm pháp của ngài, chỉ
có 12 người, trong đó có 1 người là Tuệ Quả Lão Hòa Thượng,
Tuệ Quả Lão Hòa Thượng đem tất cả các mật pháp truyền lại cho
Không Hải Đại Sư từ Nhật Bản đến, và từ Không Hải Đại Sư đem
đến Nhật Bản thành <Đông Mật>, từ kết quả này có thể biết rằng,
từ chúng học giả thành tựu chỉ có 12 người, trên thực tế từ cổ đến
nay truyền thừa mật giáo và đắc được đại thành tựu cũng chỉ có
9
mười mấy hai mươi người, từ Ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ truyền
có 30 người thành tựu, chỉ có như thế thôi.
Cho nên muốn tìm người <tịnh tín> thì rất khó, nếu muốn tìm
người hoàn toàn tín ngưỡng mật giáo, đối với Phật, Pháp, Tăng
hoàn toàn tín ngưỡng là việc rất khó khăn. Nhưng nếu bạn không
có tịnh tín thì rất khó thành tựu, bởi chỉ cần có 1 chút nghi hoặc,
pháp sẽ không còn, Lực gia trì của bổn tôn và lực không hành của
hộ pháp sẽ không còn, như vậy nếu muốn đạt được đại thành tựu
sẽ rất khó khăn, cho nên Liên Sư nói <sau này tìm tâm truyền đệ tử
nhất định phải là đệ tử hoàn toàn tịnh tín, mới có thể đem tâm pháp
truyền lại.>, nếu tìm đệ tử không hoàn toàn tịnh tín, không phải tin
hoàn toàn, còn có 1 chút nghi hoặc, nếu truyền pháp cho họ thì sẽ
gặp rất nhiều việc phiền phức và hủy báng phát sinh.
Cho nên về mặt truyền thừa của Phật giáo mà nói, tóm lại nếu
truyền thừa mật pháp chân chính, hoàn chỉnh toàn bộ, từ <ngoại
pháp> cho đến <mật mật pháp>, từ quán thứ 1, quán thứ 2, quán
thứ 3, quán thứ 4 đến <đại viên mãn> của toàn bô quá trình, muốn
tuyển người truyền thụ, người này nhất định phải có <tịnh tín> mới
có thể được, đây là nguyên nhân mật giáo được gọi là <mật giáo>
là nguyên nhân không thể phổ truyền rộng rãi, đại khái là ở điểm
này. OM Ma Ni Bat Mi Hung
Liên Hoa Cúc Phương kính ghi
Ngày 28 tháng 9 năm 1993
10
NỘI NGHĨA THÂM SÂU CHÂN LÝ KHÔNG THỂ NÓI
Không cần biết mật giáo hoặc Thiền tông, trong nội nghĩa thậm
sâu, cũng đều không thể nói, cái không thể nói này gọi là : <Bí mật
pháp tánh>, tại sao bí mật pháp tánh không thể nói ra? Bởi vì nói
cũng nói không trúng, cũng không có 1 câu nói nào có thể thay thế
được cho nên mới gọi là không thể nói, bí mật pháp tánh chỉ có thể
dùng hình tượng để biểu thị.
Thời xưa có người hỏi các thiền Tôn Đại Đức Phật là gì? Pháp là
gì? <Chân lý là gì?> họ đều không nói, chỉ đưa ra 1 ngón tay để
thay thế, câu chuyện này trong công án của thiền tông cũng có
thuật lại. Cho nên sau khi trực tiếp hiểu rõ được bí mật pháp tánh
thì đưa ra 1 ngón tay để biểu đạt, cũng biến thành công án của
thiền tông. Giống như có người hỏi <Chân lý là gì?>. Sư phụ liền
đưa ra 1 ngón tay, đệ tử liền học xong, người khác hỏi đệ tử <Phật
là gì?> nó cũng đưa ra 1 ngón tay. Sư phụ thấy được nổi giận, đem
ngón tay của đệ tử chặt bỏ, bởi vì cái này không thể học.
Bạn có kiến địa được không chỉ có bản thân bạn biết, bạn biết
nhưng không nói ra được. Thời trước có 1 hòa thượng đã kiến địa,
có người hỏi ông ta <Chân lý là gì?> ông ta bèn cầm cây gậy đánh
xuống đất, mọi người bèn gọi ông ta là hòa thượng đánh đất, cũng
là do người ta hỏi ông ta cái gì, ông ta cũng đều lấy cây đánh
xuống đất để biểu thị, không phải ông ta không nói, mà là nói
11
không ra, bởi vì <Chân lý>làm sao mà diễn tả ra được? Cho nên
ông ta dùng đánh để biểu thị; Có một hôm, có người đem cây gậy
của ông ta đi mất, ông ta không cách nào đánh xuống đất, lại hỏi
ông ta <chân lý là gì>? Ông ta bèn dùng miệng nín thở, biểu thị
biết được, nhưng không nói ra được, nói ra thì đúng ra không thể
nghĩ bàn.
Liên quan đến biểu đạt nội nghĩa thâm sâu, trong thiền tông có rất
nhiều dùng hình tượng để biểu thị. Trong mật giáo lúc trước tôi
cũng đã từng nói qua có lúc dùng thủy tinh cầu để biểu thị ; Hỏi
<chân lý là gì>? Ông ấy bèn dùng thủy tinh cầu cho bạn xem. Tại
sao thủy tinh cầu lại tượng trưng cho chân lý? Thứ nhất bởi nó
trong suốt, thứ 2 là cho dù đứng ở chỗ nào nhìn vào nó cũng là
hình tròn, xem bên trái, xem bên phải, xem phía trên, phía dưới
cũng là hình tròn (viên mãn). Trong đó cũng không có tạp chất
nhìn trong suốt, thông đạt, trên thế gian này không có đồ vật nào
thích hợp dùng để biểu thị chân lý, chỉ có duy nhất là thủy tinh cầu
dùng để biểu thị.
Nội nghĩa thâm sâu chân chính của mật pháp cũng đều muốn bạn
phải thể hội, xem xét, đi vào để nhận biết, chứng đắc chứng lượng
của nội nghĩa thâm sâu; nhưng đến khi thuyết giảng nói về nội
nghĩa thâm sâu thì đó là bí mật, không thể nói ra, cho nên nói rằng
trong đó có rất nhiều phương pháp có thể biểu thị nội nghĩa thâm
sâu.
12
Trong mật giáo có rất nhiều bí mật không thể nói và có rất nhiều
phương tiện thiện xảo, và có rất nhiều nội nghĩa thâm sâu cũng đều
không thể nói ra, đó là do vấn đề từng thứ lớp. Bạn mới học Phật
pháp, từ cơ bản học thì nhất định phải học <ngoại pháp >, sau đó là
<nội pháp>, thứ 3 là <Vô thượng mật>, thứ 4 mới là <đại viên
mãn>.
Trong Yoga mà nói, thứ nhất là <Chuyên nhất yoga >, thứ 2 là <ly
hỉ yoga>, thứ 3 biến thành <nhất vị yoga>, tức là giai đoạn cao rồi,
thứ 4 mới là <vô tu yoga>. Đó là hình thức tịnh tiến, thực ra thứ 1,
thứ 2 cũng có thể nói, thứ 3, thứ 4 thì biến thành không thể nói
nữa rồi.
Cho nên trong Phật pháp, Hiển giáo cũng chỉ chừng ở thứ 1- ngoại
pháp mà thôi, mật giáo thì nói thứ 3, thứ 4, thứ 5, thiền tông thì
không giống, nó có nội nghĩa thâm sâu trong đó, cho nên đến khi
chân chính thấy được minh thể, ấn chứng minh thể, đến khi dung
nhập được minh thể thì có thể hiểu được nội nghĩa thâm sâu của
mật pháp.
Om Ma Ni Bat Mi Hung
Ngày 29 tháng 9 năm 1993
Liên Hoa cúc Phương kính ghi
13
<DUYÊN KHỞI> VÀ< TÁNH KHÔNG>
Khi ta nghiên cứu sâu về Phật pháp, có thể thể lĩnh hội được, một
đời thuyết pháp của Đức Phật được chia làm 2 căn bản lớn, chúng
ta nói là <căn bản tam muội>, cũng là Phật Đà thuyết chia thành 2
<căn bản tam muội> rất lớn. Căn bản thứ nhất là nói <tánh
Không>, và cái kia thì nói về <Duyên Khởi>, cho nên trong đó có
<Tánh không tam muội> và <Duyên khởi tam muội>, cũng từ đây
mà phân thành 2 chi lưu. Thật ra < Duyên Khởi > và < Tánh
Không > đều là một, nếu nói ra thì không thể tách biệt, cuối cùng
vì thuyết pháp không thể không tách.
Chúng ta biết < Tánh Không > là chân đế, < Duyên Khởi > là tục
đế >, nghiên cứu Phật pháp y theo < chân đế > và < tục đế > mà
phân tích thì có thể hiểu rõ ràng minh bạch, chân đế tức là < tánh
Không >, tục đế tức là < Duyên Khởi >, chân đế tức là chân thực,
tức là < liễu nghĩa >. Tục đế là phương tiện, cũng là < bất liễu
nghĩa >, phải chia như vậy thì sẽ hiểu được rất rõ thuyết pháp của
Phật Đà.
Thực ra nếu bước vào chân đế thì tốt, tại sao lại phải nói < duyên
khởi > và < tánh không >? Bởi vì tất cả chúng sanh đều ở trong
Duyên Khởi, bạn không thể không nói duyên khởi, không nói
phương tiện, muốn độ chúng sanh thì nhất định phải cần duyên
khởi, phải cần phương tiện; Giống như trong ngũ đại trí huệ của
14
Như Lai, trong đó có 3 trí huệ là thuộc < tánh không >, hai trí huệ
là thuộc < duyên khởi >. Vậy 3 trí huệ nào thuộc < tánh không >?
Như < Pháp giới thể tánh trí >, < Bình Đẳng tánh trí >, < Đại viên
cảnh trí > cho đến < Diệu quán sát trí >, < Thành sở tác trí > cũng
đều là duyên khởi, cho nên bạn dùng chân đế, tục đế, tánh không,
duyên khởi nghiên cứu Phật pháp thì đúng rồi.
Trong một đời thuyết pháp của Phật Đà, lúc thì nói phương tiện,
lúc thì nói tánh không, bạn không nói phương tiện, chúng sanh
không hiểu, nhưng mà phương tiện thì là < Bất liễu nghĩa >, cần
phải chân chánh < liễu nghĩa > mới là tánh Không, cho nên cần
phải từ duyên khởi chỉ dẫn bạn nhập < tánh Không >. Nhưng mà
hoàn toàn tánh Không thì không thể được, bởi vì hoàn toàn tánh
Không thì không cần nói, đó gọi là < ly ngôn thuyết >, không thể
nói, không được nói, lìa văn tự, cho nên thiền tông đến căn bản sau
cùng là ngôn ngữ đạo đoạn, mà Phật Thích Ca đưa ra bông hoa
không nói, tức là biểu thị < tánh Không >.
Bổn lai của thiền tông là nói < tánh không >, mật giáo xem trọng <
duyên khởi > và cũng xem trọng < tánh không >. Nghi quỹ của
Phật giáo từ < bắt đầu khai đàn, cho đến tu < ngoại pháp > đều là
phương tiện, nhị quán < nội pháp > dùng thân thể mà tu, ngũ đại
của thân thể đất, nước, gió, lửa, không, chứng minh ngũ đại của hư
không, đó cũng là phương tiện, < nội pháp > cũng là phương tiện.
Tam quán < vô thương mật > cũng là phương tiện, là tận dụng
15
chính tham dục mà tu, chỉ có đến tứ quán < bí mật đại viên mãn >
mới là tánh không. Cho nên, duyên khởi tức là từ < phương tiện
duyên khởi >, mà chỉ dẫn bạn chứng minh phương pháp < chân lý
tánh không >, nói cho mọi người biết đó là Phật pháp.
Phật pháp chia ra < chân đế >, < tục đế >, < tánh không >, < duyên
khởi > < liễu nghĩa > và < bất liễu nghĩa > đạo lý đều ở trong đó,
đạo lý < không > và <có > đều > ở trong đó, cho nên nếu bạn phân
tích thật rõ ràng, thì bạn sẽ hiểu được Phật pháp, phân tích không
rõ ràng thì không có cách hiểu được, bạn sẽ bị lộn lung tung.
Om Ma Ni Bat Mi Hung
Ngày 30 tháng 9 năm 1993
Liên Hoa Cúc Phương kính ghi
16
<DUYÊN KHỞI> VÀ < TÁNH KHÔNG > ( 2 )
Hôm qua chúng ta bàn về 2 bí mật của Phật pháp, một là < bí mật
tánh không >, một là < bí mật duyên khởi >; Trong Phật pháp có
rất nhiều thứ đều là phương tiện, từ <phương tiện> mà dẫn nhập
vào trong < chân đế >, có thể đem hai cái này mà phân tích rõ ràng,
sau này nếu nghiên cứu Phật pháp, thì có thể thâm nhập rất sâu.
Trong rất nhiều pháp môn, chúng ta thấy trong thực tế không phải
đều là suy nghĩ 1 bên
Cũng không phải hoàn toàn là trung đạo, cũng không phải hoàn
toàn là trung quán. Dùng đạo lý tiểu thừa mà nói, là hoàn toàn từ
bỏ vật chất, tức là những đồ vật thuộc vật chất thì không cần, đối
với những đồ vật thuộc về vật chất thì phải bài trừ, như là về mặt
nhà cửa, đất đai, tiền bạc đều phải hoàn toàn bài trừ, có thể nói,
tiểu thừa là giữ giới luật của Phật nghiêm cẩn nhất. Về đại thừa mà
nói, đại bô phận đều nói < duy tâm >. Như là Duy Thức tông, rất
đơn giản là thiên về duy tâm mà nói, tức là nói về tâm linh, Nói về
tôn giáo đa số đều nói về duy tâm nhiều hơn. Cho nên nói đại thừa
và tiểu thừa thiên về < tánh không >.
Mọi người suy nghĩ 1 chút, Về mặt < Tánh không > mà nói như
thiền tông, không dùng đàn thành, cũng không dùng niệm Phật, cái
gì cũng không dùng, chỉ là từ < không >, Từ < Vô > mà nhập vào,
không dùng ngôn ngữ, không dùng kinh điển cũng không dùng văn
17
tự, tất cả đều không dùng, hoàn toàn là từ < tánh không > trực tiếp
mà tiến vào, chỉ thẳng tâm, cũng tức là kêu bạn lập tức khai ngộ,
đây là cách làm của thiền tông.
Tôi cảm thấy đến đoạn diễn biến sau cùng thì thành mật giáo. Tại
sao mật giáo lại sản sinh vậy? Bởi vì mật giáo là nói < Tâm vật bất
nhị >, cũng tức là thế giới của vật chất tức là thế giới của tâm linh,
thế giới của tâm linh cũng tức là thế giới của vật chất, < tâm > và <
vật > không được phân ra, cho nên trên thực tế < tánh không > và
< duyên khởi > là không thể phân chia.
Toàn bộ sản sinh của vũ trụ và sản sinh của nhân loại đều là <
duyên khởi >, vậy < duyên khởi > là từ đâu mà đến? Duyên khởi
tức là từ < Tánh không > mà đến, nếu đã có thế giới < duyên khởi >
rồi thì không thể đem toàn bộ thế giới < duyên khởi > mà phủ
nhận chối bỏ. Cho nên mật giáo nói < Tâm vật bất nhị ( tâm và vật
không có 2 ) tức là tâm linh và vật chất từ trước là không có sự
phân biệt, tánh không là duyên khởi, duyên khởi cũng là tánh
không, đây mới là con đường trung quán.
Trong tu hành của Phật pháp, nói về < Duy tâm rất nhiều >, cũng
tức là nói về tâm thức rất nhiều, mật giáo cường điệu < tâm và vật
không có hai >, từ thân thể cũng có thể tu, từ tâm linh cũng có thể
tu, thân và tâm đều có thể tu, cũng tức là < tánh không > và <
mạng > cùng đều có thể cùng tu, đây tức là mật giáo.
18
Lý của mật giáo thiên về trung quán, thật ra đến sau cùng Phật giáo
nói trung quán, cũng nói trung đạo, họ không hoàn toàn từ bỏ vật
chất, mà còn đem < có > và <không > nói rất là viên dung, đem
tánh không và duyên khởi, chân đế và tục đế nói rất là viên chất là
không phải 2 >, như vậy mới hợp với tu hành hiện nay, cũng hợp
với tư tưởng Phật Đà; cho nên thiên về < không > và thiên về < có >
đều là không đúng, phải nói là < Tâm vật không có 2> mới là
đúng.
Om Ma Ni Bát Mi Hung
ngày 1 tháng 10 năm 1993
Liên Hoa Cúc Phương kính ghi
19
< DUYÊN KHỞI > VÀ, < TÁNH KHÔNG > ( 3 )
Mấy ngày nay chúng ta nói rất nhiều về < tánh không > và < duyên
khởi >, chúng ta hiểu được chân đế tức là < tánh không >, tục đế
tức là < duyên khởi >, <tánh không >tức là chân lý, duyên khởi tức
là < phương tiện >, có người nghe hơn nửa ngày cũng không hiểu
rõ ràng. Trong kinh Phật có nói < tánh không > là tuyệt đối, <
duyên khởi > thì có rất nhiều, tức là gọi phương tiện có rất nhiều
cách, nếu nghe không hiểu, tôi cho 1 ví dụ rất đơn giản, mọi người
sẽ hiểu rất rõ ràng.
Tôi nhớ trong tiết học vật lý ở thời tiểu học, thầy vật lý đem đến rất
nhiều bảng màu không cùng màu sắc, có đỏ, cam, xanh, xanh lá
cây, vàng, tím, chàm, 7 màu, đem những bảng nhỏ này xỏ thành 1
vòng tròn, chính giữa có thể xoay, đem những bản màu sắc này
xoay, cũng tức là sau khi 7 màu sắc xoay, mắt chúng ta cũng chỉ
nhìn thấy 1 màu, đó là màu trắng, rất nhiều màu như vậy tại sao lại
biến thành màu trắng vậy? Và tại sao màu trắng sau khi chia tách
ra lại thành 7 màu, chúng ta đem < tánh không > và < duyên khởi >
mà thí dụ
< tánh không > là tuyệt đối, là đơn nhất, cũng tức là bằng với <
chân lý >,< chân như > cũng là tánh tuyệt đối, đến 2 mà nói, thì
biến thành 2 phần, cũng tức là tương đối, tính chất của tương đối
thì biến thành 2 thứ, phương tiện có nhiều cách, cũng tức là có thể
20
biến thành rất nhiều rất nhiều, từ 1 biến thành 2, từ 2 biến thành 3,
từ 3 có thể biến thành rất nhiều, thậm chí từ 2 cũng có thể biến
thành rất nhiều, ở đây có 1 chân lý ở bên trong. Giống như Phật
pháp, tông phái rất nhiều, có 1 cuốn < Kinh Hoa Nghiêm > thì xuất
hiện < Hoa Nghiêm tông >. Có 1 cuốn < Diệu Pháp Liên Hoa kinh >
thì xuất hiện < Nhật Liên Tông >. Có cuốn < Kinh A Di Đà > thì
có < Tịnh Độ tông >. Có rất nhiều cũng vì có cuốn kinh mà xuất
hiện tông phái, cho nên biến thành phương tiện có rất nhiều pháp,
học tập rất nhiều Phật pháp cuối cùng là < tánh không >, cũng tức
là hoàn toàn tuyệt đối.
Cho nên < cuối cùng chân lý là gì >? < Cuối cùng Phật là gì >?
Lục Tổ Huệ Năng nói < không nghĩ thiện, không nghĩ ác >. Ý
nghĩa của câu nói này, tức không phải là tương đối, cũng không
phải là tuyệt đối, trong chân lý thật ra không có < thiện >, cũng
không có < ác >, bởi vì thiện và ác là tương đối, Lại nói < Mặn >
và < Chay > cũng không phải là tương đối, đây cũng không phải là
chân lý. Chân lý tức là tánh không, cũng tức là tuyệt đối, trong
Thánh Đế là chân như hoàn toàn tuyệt đối, cũng tức là thật tướng
của nó là như vậy, vì phương tiện độ chúng sanh, mới có pháp
phương tiện trong Phật pháp rất quý báu, bạn muốn hiểu rõ Phật
pháp, thì nhất định phải nghiên cứu vấn đề này. Om Ma Ni Bát
Mi Hung
Ngày 4 tháng 10 năm 1993 Liên Hoa Cúc Phương kính ghi
21
TƯỢNG TRƯNG CỦA CÁC MÀU SẮC
Hôm qua chúng ta có nói về màu sắc, có rất nhiều màu sắc khi ta
hợp lại sẽ thành màu trắng, lúc trước trong mật giáo có nói qua,
mỗi vị ngũ phương Phật có mỗi màu sắc tượng trưng, như <Tức
(pháp an bình)> < Tăng (pháp tăng trưởng)> < Hoài (pháp thu
hút) > < Tru (pháp giáng phục)> đều có những màu sắc khác
nhau, trên thực tế, không cần biết pháp xuất thế hay pháp nhập thế,
cũng đều có màu sắc tượng trưng.
Màu sắc càng được tượng trưng rõ ràng hơn trong mật giáo, trong
các < Hộ Ma >, < Kiết ma pháp > và tất cả các pháp đều dùng màu
sắc làm biểu thị, giống như moi người cho tôi xem hình phóng
quang, kỳ thật sau này cũng không cần hỏi sư tôn, mọi người có
thể nhận biết màu sắc của quang mà biết được là quang gì. Giống
như quang màu trắng thì nhất định là quang tiêu tai. Phóng quang
màu đỏ thì nhất định là quang gia trì gia đình bạn viên mãn, là
quang kính ái. Phóng quang màu vàng, nhất định là quang gia tăng
phước cho bạn, là quang tăng ích. Phóng quang màu xanh lam,
biểu thị tiêu trừ nghiệp chướng, hoặc là hàng phục tâm bản thân,
đều được tượng trưng bằng quang màu xanh lam. Phóng quang
màu đen là biểu thị tiêu nghiệp chướng. Các màu sắc trong hình
mọi người trong chúng ta đều có thể phân biệt.
22
Cũng như Ngũ Phương Phật đều dùng màu sắc để thay thế, Chính
giữa có Đại Nhật Như Lai, Tỳ Lô Giá Na Phật tức là dùng màu
trắng để tượng trưng, đông phương A Súc Phật dùng màu xanh
dương để tượng trưng, tây phương A Di Đà Phật dùng màu đỏ để
tượng trưng, bắc phương Bất Không Phật dùng màu đen (hoặc
xanh lục) để tượng trưng, nam phương Bảo Sanh Phật dùng màu
vàng để tượng trưng, đều có mỗi màu của riêng từng vị. Chúng ta
đều biết trung ương Tỳ Lô Gía Na Phật, rất đơn giản là màu trắng,
còn lại 4 màu đều được phân bố 4 hướng đại diện cho ngũ đại trí
huệ của Như Lai, cũng tức là ngũ trí của Phật. Như tức, tăng, hoài,
tru cũng đều dùng màu sắc mà biểu thị, phương vị cũng như vậy
dùng màu sắc mà biểu thị, là dựa theo nơi hướng bạn đứng mà
định, cũng như mật đàn của sư tôn nơi đứng là phương đông, vậy
thì dùng màu xanh dương để biểu thị. Nơi đàn bạn đứng là phương
đông, vậy thì dùng màu xanh dương để tượng trưng, đàn của nơi
bạn đứng là phương tây, vậy thì dùng màu đỏ để tượng trưng. Cho
nên đối với mật giáo về mặt dùng màu sắc thì có qui định rất
nghiêm khắc.
Trong pháp nhập thế mà nói, tại sao màu trắng dùng để tượng
trưng cho tiêu tai vậy? Bởi vì màu trắng thay thế cho thanh tịnh tức
là tiêu tai rồi. Vậy tại sao màu đỏ thay thế cho kính ái vậy? Bởi vì
màu đỏ thay thế cho nhiệt tình, đương nhiên là kính ái. Vậy màu
vàng tại sao là tăng ích? Bạn xem vàng có phải màu vàng không,
23
mọi người đều thích màu này, cho nên màu vàng thay thế cho tăng
ích. Màu xanh và màu đen tại sao lại tượng trưng cho hàng phục?
Bởi vì 2 màu này lợi hại hơn, cho nên Kim Cang Hộ Pháp thần đa
số đều dùng màu xanh dương và màu đen để tượng trưng, biểu thị
uy lực của họ.
Cho nên nói, không cần biết pháp xuất thế hoặc pháp nhập thế,
trong mật giáo đều tương thông. Giống như dùng màu trắng thay
thế cho nhiệt tình thì không đúng rồi, mọi người thấy màu trắng sẽ
có cảm giác mát mẻ, tức là tiêu tai, đại diện cho thanh tịnh, tại sao
lại là nhiệt tình? Nhiệt tình giống như lửa thì đó là màu đỏ, ở đây
đều có pháp vị của nó, thực tế xuất thế và nhập thế đều tương
thông.
Màu cuối cùng và màu tối cao nhất là màu trắng, bởi vì màu trắng
là tổng hợp của tất cả các màu, thậm chí từ màu trắng có thể chia
tách ra rất nhiều màu; giống như ngũ phương Phật, Trung Ương
Phật là tượng trưng màu trắng, còn các màu khác được phân bố ở 4
bên, thật ra suy nghĩ một chút màu sắc và chúng sanh đều có đạo lý
tồn tại; giống như trái đất thuộc về bắc bán cầu đa số đều là màu
trắng, thuộc về trung ương (chính giữa) đa số đều là màu vàng, về
phương nam đa số đều là màu đen, đại bộ phận của trái đất đều
được phân chia như vậy, bởi phương bắc thuộc thủy do đó bị nước
tẩy trắng, cho nên người là màu trắng. Phương nam thuộc hỏa, do
đó bị nướng khét, cho nên chủ yếu là người da đen. Ở đây đều tồn
24
tại đạo lý của nó, không cần biết pháp xuất thế hay pháp nhập thế
hoặc từ phân bố của toàn bộ trái đất mà nói đều tồn tại đạo lý của
nó.
Cho nên bạn nghiên cứu Phật pháp và mọi cái của thế gian mà phối
hợp lại thì có thể biết, bao gồm tính tình của mỗi con người đều có
thể phân ra, người này thuộc loại hình hàng phục, người kia thuộc
loại hình tiêu tai, và 1 người khác thuộc loại hình kính ái, và cũng
có người thuộc loại hình tăng ích, có thể dùng pháp xuất thế và
pháp nhập thế mà phân chia, đều có thể phân tách ra được, mọi
người nếu nghiên cứu Phật pháp như vậy, trong khô khan có thể
sinh ra mùi vị
Om Ma Ni Bat Mi Hung
Ngày 5 tháng 10 năm 1993
Liên Hoa Cúc Phương kính ghi
25
BỐN TẦNG CÔNG PHU CỦA MẬT GIÁO
Trong toàn bộ công phu của mật giáo mà nói, chúng ta hiểu được
quán đảnh có thể chia thành 4 tầng công phu, cũng tức là quán
đảnh < ngoại pháp >, quán đảnh < nội pháp>, quán đảnh mật pháp
và cuối cùng là quán đảnh < mật mật pháp >.
Thât ra công phu chân chính của mật pháp cũng chia thành 4 đẳng,
4 đẳng này có thể nói bào hàm toàn bộ công phu của mật pháp.
Thứ 1 gọi là < pháp tụng niệm >, tức là bình thường thật niệm tụng,
kim cang giới niệm tụng pháp, thai tạng giới niệm tụng pháp, và tất
cả niệm tụng pháp của các chư tôn, như niệm chân ngôn, niệm
tụng tán, niệm kệ cũng thuộc về < pháp niệm tụng >, pháp niệm
tụng cũng có nhiều loại, như niệm ra tiếng và niệm không ra tiếng,
có khi chỉ là nhúc nhích đầu lưỡi, cũng có chỉ là dùng tâm niệm,
Kim Cang niệm và các pháp niệm tụng khác, đều thuộc về loại
hình thức nhất.
Thứ 2 chúng ta nói về <quán tưởng pháp >, trong mật giáo cũng rất
đặc thù, sau khi niệm chơn ngôn còn có < quán tưởng pháp >, các
tôn pháp khác thường rất ít pháp này, cho nên quán tưởng cũng là
công phu của mật giáo.
Thứ 3 tức là < khí, huyệt, minh điểm pháp >, cũng chỉ có mật
pháp mới có, nói tu < khí >, < thông mạch >, < vận minh điểm >
như thế nào và làm sao đem nó biến thành trí tuệ.
26
Cuối cùng là nói về < tánh không >, điểm này và tất cả các tôn
phái khác là tối cao nhất vô thượng chánh đẳng chánh giác là
tương đồng, < tánh không > trong mật giáo cũng tức là < đại viên
mãn thành tựu >.
Đây là 4 tầng thứ công phu, nếu nghiêm túc mà phân chia < pháp
niệm tụng > cũng tức là đang nói < mật ngữ >, < chân ngôn của
mật ngữ >, cũng tức là < khẩu mật >. < Pháp quán tưởng > là nói <
ý mật >, một thứ bí mật của ý niệm thanh tịnh. < Khí, huyệt, minh
điểm pháp > tức là nói về < thân mật >, bí mật của tức thân, bao
gồm < kim cang quyền >, < bảo bình khí >, < cửu tiết Phật
phong >, cũng là đang nói < khí >. < Khí > và <Mạch > cùng với <
Minh Điểm > đều có quan hệ tương quan, cũng thuộc về < nội
mật >, tức là nói thanh tịnh của thân, khẩu mật có rồi, ý mật có rồi,
thân mật cũng có rồi, ba cái hợp lại cho đến chứng được < tánh
không >, tức là < vô thượng mật >, bộ hòa < đại viên mãn >, đây là
4 công phu của mật giáo.
Cho nên nghiên cứu mật tông, nhất định phải từ < pháp niệm tụng>
bắt đầu, sau đó là bước vào < quán tưởng pháp >, lại bước vào <
khí, huyệt, minh điểm >, cuối cùng mới là <vô thượng mật >, < đại
viên mãn >, có thể chứng được đến < tánh không > tức là thành
Phật, cho nên đây là tánh mạng song tu.
Bây giờ mọi người đã biết 4 tầng quán đảnh của mật giáo rồi, tức
là: ngoại pháp, nội pháp, mật pháp, mật mật pháp. Bốn tầng công
27
phu các bạn cũng đã biết rồi, cũng tức là: pháp niệm tụng, pháp
quán tưởng, khí-mạch-minh điểm và tánh không ( vô thượng mật
đại viên mãn ). Bản thân mật giáo mà nói, bốn tầng công phu nhận
biết rõ ràng, bạn nghiên cứu và thật tu thì sẽ rất dễ dàng rồi.
Om Ma Ni Bát Mi Hung
Ngày 7 tháng 10 năm 1993
Liên Hoa Cúc Phương kính ghi
28
TU MẬT DỄ TU THIỀN KHÓ
Hôm qua chúng ta nói đến: niệm tụng, quán tưởng, khí, mạch,
minh điểm, và tánh không là 4 tầng công phu của mật giáo, mà <
niệm tụng > lẽ ra phải thuộc về < bí mật của duyên khởi >, cũng
tức là phương tiện, < duyên khởi > tức là từ nhân duyên mà bắt
đầu của 1 phương pháp tu hành.
Thật ra mật giáo là lấy từ ngũ đại của vũ trụ mà tu hành, < ngũ đại >
tức là : đất, nước, gió, lửa, không; là lấy từ âm thanh mà tu; Ở Phật
học mà nói, vũ trụ hình thành là từ âm thanh mà hình thành, cho
nên ngũ đại sẽ có âm thanh, cũng tức là tận dụng âm thanh của ngũ
đại mà tu, cũng giống như khi đất thành, lửa phun ra có âm thanh,
gió thổi qua cũng có âm thanh, không thanh của vũ trụ cũng có âm
thanh, thật ra cơ thể con người cũng như vậy, đất, nước, gió, lửa,
không. Phải dùng ngũ đại của cơ thể để ấn chứng ngũ đại âm thanh
của vũ trụ, sau đó mới tu hành.
Chú âm của mật giáo tức là âm thanh bí mật của Phật Bồ Tát phát
ra, có mọi công dụng và hiệu năng, cho nên mật giáo là từ < chân
ngôn > chú ngữ niệm tụng bắt đầu, phân chia thành 4 tầng thứ, tức
là: niệm tụng, quán tưởng, khí-mạch-minh điểm và tánh không, và
cũng tức là dùng ngũ đại của thân thể mà tu, sau đó mới bước vào
tánh không.
29
Tu hành của thiền tông trên thực tế mà nói là không dùng pháp
niệm tụng, không dùng quán tưởng, cũng không nói khí, mạch,
minh điểm, mà trực tiếp thể nhập < tánh không >, < trực chỉ nhân
tâm >, < kiến tánh thành Phật > của thiền tông, có < bất lập văn
tự >. Cái gì gọi là < bất lập văn tự > vậy? Bất lập văn tự tức là
không dùng văn tự, cũng tức là không dùng âm thanh, hoàn toàn
dùng < che pháp > cái gì gọi là che pháp? Tức là che mọi thứ lại,
cho đến khi bạn kiến nhập < tánh không >, đây là tác pháp của
thiền tông.Tác pháp này của thiền tông có thể nói, là trực tiếp dùng
bí mật của tánh không mà tu.
Tu trì của mật giáo là có thứ tự, trước tiên là < niệm tụng pháp> tới
< quán tưởng >, tới < khí mạch minh điểm >, đến sau cùng chứng
ngộ tánh không, đây có lẽ là phương pháp <bí mật duyên khởi
(tức phương tiện)>; mà thiền tông là pháp môn < bí mật tánh
không >, nhưng cuối cùng mục tiêu của cả hai đều là < tánh
không >, đều là thành Phật.
Tu Thiền thì thật không phải dễ dàng. Hiện nay có rất nhiều đệ tử
nói không tu mật tông mà học thiền, Thiền tông là người có căn
khí rất lớn học, nhưng họ nghĩ rằng mật tông rất khó, phải học
thiền tông thì dễ dàng hơn, thật ra là sai rồi. Học mật tông dễ dàng
hơn, thiền tông là trực tiếp thể nhập tánh không, bạn biết rằng thiền
tông là không niệm Phật, nếu như mỗi ngày bạn niệm Phât mà nói
ở thiền tông là sai rồi. Cho nên thiền tông trực chỉ tâm là ở đây,
30
cũng tức là trực tiếp kiến nhập tánh Không, phải là < Phật đến sát
Phật > cái gì đến thì sát cái đó, sát đến sau cùng không có thì thành
Phật tức là kiến tánh rồi. Ở đây nói cho các bạn biết có lẽ rất sâu,
cái gì là < Phật đến sát Phật, Tổ đến sát Tổ >? Phật và Tổ bị bạn
giết hết rồi. Thiền tông là nói cái gì vậy? Là nói tánh Không.
Có rất nhiều đệ tử nói mật tông rất khó, phải học thiền tông, mỗi
ngày niệm A Di Đà Phật, vậy là sai rồi, đây là học Tịnh độ, niệm A
Di Đà Phật tức là một trong những pháp niệm tụng. Thiền tông
không niệm Phật, là phải trực tiếp ấn chứng tánh Không, chứng
tiếp sản sinh chứng lượng là người phải có căn khí rất lớn mới tu
được. Giống như chúng ta căn khí nhỏ chỉ có từng bước một mà tu,
trước tiên học pháp niệm tụng, bước tới là học quán tưởng, thêm
nữa là bước vào nội pháp luyện khí, mạch, minh điểm. Bắt đầu từ
âm thanh mà tu, dùng ngũ đại âm thanh của cơ thể mà ấn chứng,
thể nghiệm ngũ đại âm thanh của vũ trụ, và đem ngũ đại âm thanh
biến thành không có, thì tiến nhập < tánh không >.
Cho nên trong Phật học có nhiều thứ rất thâm sâu, thế tục phàm
phu không thể hiểu được, mỗi người chỉ có chân thật mà tu thì tốt
hơn, trừ khi bạn là người đại căn khí, vậy tổ thứ 7 có thể là bạn,
đúng không.
Chân chính có thể từ thiền kiến tánh, thực tế không nhiều, tu mật
giáo có thể đắc đại thành tựu đã là rất khó, từ bản thân thiền đi kiến
Phật tánh của bản thân, thì càng khó
31
Om Ma Ni Bat Mi Hung
Ngày 8 tháng 10 năm 1993
Liên Hoa Cúc Phương kính ghi
ĐỐI TRỊ < THAM >
Tối hôm qua có Phật tử hỏi tôi : < Rõ ràng biết là tham thì sẽ là
không, nhưng không có cách nào để hạn chế tham niệm của
mình >. Mọi người đều hiểu rõ Phật pháp, cũng biết rằng đời người
< vô thường nhanh chóng >, nhưng mà ở tiền bạc mà nói, không có
thì lại muốn có, có rồi thì lại muốn có nhiều hơn, nhiều đến khi nào
mới mãn nguyện? Đáp án là < vĩnh viễn không mãn nguyện >, đấy
là tham. Cũng biết rằng tham cũng sẽ là không, không được gì cả,
nhưng vẫn tham cầu không chán, vậy phải làm sao đây?
Về mặt tham, không những chỉ tiền bạc và cũng chỉ địa vị, ngoài ra
còn bao gồm tất cả vật chất và sắc tướng. Trong Phật pháp dạy
chúng ta như vậy, trong Phật giáo tiểu thừa hoàn toàn dạy chúng ta
quán bất tịnh và quán đống xương trắng để đối trị. Cái gì gọi là
quán bất tịnh? Tức là cho rằng trên thế gian cái gì có hình thể đều
sẽ bị hư hoại, không sạch sẽ; về mặt sắc tướng thì quán thành bạch
cốt ( đống xương trắng ).
Đại thừa Phật pháp thì dùng <bình đẳng quán> để đối trị, nếu
muốn sanh tâm từ bi, thì phải dùng < chúng sanh giai bình đẳng >
32
để suy tưởng, phải dùng < không có phân biệt > để suy niệm, thậm
chí phải suy niệm < vô ngã >, <lợi tha> mà tưởng niệm, như vậy
mới chặn tham, đó là < phát bồ đề tâm của đại thừa >, đại từ đại bi
cũng là từ < vô ngã >, < lợi tha > mà khởi điểm, dùng < bình đẳng
không phân biệt > làm điểm xuất phát, mới có biện pháp làm được.
Trong mật giáo kim cang thừa mà nói tham, sân, si, nghi, mạn,
năm thứ độc này, < tham niệm > là tội đầu tiên, trong mật giáo trực
tiếp tận dụng tham để chuyển thành < không >, có thể đem tham
chuyển thành < không > là một < hoàn tịnh pháp >, bởi vì bản thân
của tham đều có trong nhân tính mỗi con người, không nên sợ hãi
tham, chỉ cần biết phương pháp < hoàn tịnh > thì có thể đem tham
niệm chuyển hóa thành không, cũng giống như từ ô uế mà biến
thành thanh tịnh. Trong pháp tu hành của mật giáo tức là đem
phương pháp tham chuyển hóa thành không, tham tức là không,
phương pháp < hoàn tịnh > này chỉ có kim cang thừa mới có.
Chúng ta có thể như vậy, phương pháp đối trị tham, trong tiểu thừa