PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP NGÂN HÀNG · PDF fileChuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: ... những khó khăn chung...
Post on 05-Feb-2018
223 Views
Preview:
Transcript
0
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM MINH SƠN
PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 62 38 01 07
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Thị Thương Huyền
Hà Nội - 2016
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án
chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Phạm Minh Sơn
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Bộ luật dân sự năm 2005 - BLDS (2005)
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 - BLTTDS (2004)
3. Mergers and Acquisitions
(Mua lại và sáp nhập)
- M&A
4. Ngân hàng Nhà nước - NHNN
5. Ngân hàng thương mại - NHTM
6. Ngân hàng thương mại cổ phần - NHTMCP
7. Ngân hàng thương mại cổ phần
Nhà Hà Nội
- HBB
8. Ngân hàng thương mại cổ phần
Sài Gòn - Hà Nội
- SHB
9. Ngân hàng thương mại cổ phần
Xây dựng Việt Nam
- VNCB
10. Ngân hàng thương mại TNHH MTV
Xây dựng Việt Nam
- CBBank
11. Ngân hàng Trung ương - NHTW
12. Nhà xuất bản - NXB
13. Tổ chức tín dụng - TCTD
14. Trách nhiệm hữu hạn - TNHH
15. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước - UBCKNN
16. Ủy ban nhân dân - UBND
3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................. 8
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................................................... 8
1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................... 26
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ MUA
LẠI VÀ SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ............................................... 31
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MUA LẠI, SÁP NHẬP VÀ PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI,
SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP .......................................................................................... 31
2.2. PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI, SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ............. 38
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI, SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................................................................ 76
3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI, SÁP NHẬP NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI .................................................................................................................. 76
3.2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI, SÁP NHẬP NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI ................................................................................................................ 107
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ MUA LẠI, SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT
NAM ............................................................................................................................................ 126
4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI, SÁP NHẬP
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM .............................................................. 126
4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI, SÁP NHẬP NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ........................................................................... 134
KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .................................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. 152
PHỤ LỤC .................................................................................................................................... 163
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hoạt động mua lại, sáp nhập (M&A) đã được thực hiện từ lâu trên thế giới
và trở thành xu thế phổ biến ở nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, hoạt động M&A tuy
mới được thực hiện từ những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước nhưng đã phát triển
nhanh chóng cả về số lượng và giá trị giao dịch, là kênh đầu tư hấp dẫn ở trong và
ngoài nước. Các hoạt động M&A đã trở thành một làn sóng những năm 2003 đến
2008 trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, viễn thông. Khuynh
hướng M&A có suy giảm dần sau đó nhưng từ năm 2013 đến nay, nhất là năm 2015
thì xu hướng M&A đối với ngân hàng ở nước ta đã diễn ra mạnh mẽ.
Trong thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam không những phải đối mặt với
những khó khăn chung của kinh tế thế giới mà còn phải đối mặt với nhiều bất ổn
của kinh tế vĩ mô trong nước như tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, thâm hụt
ngân sách lớn và tỷ lệ lạm phát tăng cao. Điều đó đã làm cho nền kinh tế nói chung
và hệ thống ngân hàng nói riêng gặp nhiều khó khăn, thách thức. Hệ thống ngân
hàng thương mại (NHTM) tuy đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tăng trưởng
nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, mở rộng mạng lưới hoạt động, đáp ứng tốt
hơn các nhu cầu của nền kinh tế nhưng cũng đã bộc lộ một số hạn chế, yếu kém như
tính cạnh tranh và tính thanh khoản thấp, nhiều ngân hàng lâm vào tình trạng khó
khăn về tài chính, tỷ lệ nợ xấu tăng, trình độ quản trị yếu, xuất hiện những nguy cơ
hiện hữu gây mất ổn định kinh tế vĩ mô. Để giải quyết những vấn đề bất ổn này,
M&A cùng với một số cơ chế khác là những giải pháp cần thiết giúp hệ thống
NHTM tránh khỏi tình trạng đổ vỡ, giữ an toàn hệ thống, khắc phục những hạn chế,
yếu kém, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời giúp các NHTM nhỏ gia tăng thị
phần, qua đó hình thành các ngân hàng lớn có sức cạnh tranh hơn trên thị trường
trong nước và khu vực.
Pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và đối với NHTM ở
Việt Nam đã được hình thành trong thời gian gần đây, góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật, giải quyết được một số mục tiêu, yêu cầu cụ thể của nền kinh tế và hệ
thống ngân hàng nhưng còn có những hạn chế và bất cập. Khung pháp lý về mua
lại, sáp nhập còn sơ khai, chồng chéo và mâu thuẫn, còn có những khoảng trống
pháp lý để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn khi thực hiện mua
lại, sáp nhập và chưa tạo được cơ sở pháp lý vững chắc để thúc đẩy hoạt động này.
2
Trên thực tế đã có nhiều bất cập khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM thời gian
qua, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến cơ chế pháp lý cần phải giải quyết.
Nghiên cứu về mua lại, sáp nhập NHTM và pháp luật về mua lại, sáp nhập
NHTM trong thời gian gần đây đã trở thành chủ đề thu hút sự quan tâm không chỉ
đối với giới nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách mà còn cả giới luật gia và doanh
nghiệp. Tuy không phải là vấn đề nghiên cứu mới, nhưng hiện tại chưa có công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về pháp luật mua lại và sáp nhập NHTM
ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ và sâu sắc hơn cơ sở lý luận,
giúp đánh giá đúng đắn thực trạng pháp luật, thực tiễn thực hiện pháp luật về mua
lại, sáp nhập NHTM, từ đó đề xuất phương hướng và các giải pháp cụ thể để hoàn
thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam hiện nay, góp phần thực
hiện quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước.
Trước thực trạng trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài "Pháp luât về mua
lại và sáp nhâp ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu và làm
luận án tiến sĩ luật học, có ý nghĩa không chỉ về khoa học pháp lý mà còn có ý nghĩa
thực tiễn trong hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích nghiên cứu của luân án: Xây dựng khung pháp lý điều chỉnh hoạt
động mua lại, sáp nhập NHTM và đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luân án: Với mục đích nghiên cứu như trên, luận
án có các nhiệm vụ sau:
+ Đánh giá được tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến
đề tài luận án, từ đó xác định được những nội dung còn bỏ ngỏ, còn tranh luận để
đặt ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong đề tài luận án.
+ Nghiên cứu, phân tích, làm rõ và sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận cơ bản
về mua lại, sáp nhập NHTM và pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM; xây dựng
khung pháp lý điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM.
+ Nghiên cứu, phân tích, đánh giá đúng đắn thực trạng pháp luật về mua lại,
sáp nhập doanh nghiệp nói chung và trong lĩnh vực NHTM; thực tiễn thực hiện
pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam góp phần tạo luận cứ khoa học
cho việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
+ Đưa ra phương hướng và các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về mua
3
lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là pháp luật về mua
lại, sáp nhập NHTM và hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM dưới góc độ pháp lý.
- Phạm vi nghiên cứu: Điều chỉnh pháp lý về mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp nói chung và NHTM nói riêng bao gồm nhiều nội dung. Khi thực hiện mua
lại, sáp nhập NHTM, ngoài việc tuân thủ các quy định của pháp luật chuyên ngành
trong quá trình mua lại, sáp nhập, các bên trong quan hệ mua lại, sáp nhập còn
phải tuân thủ các quy định của pháp luật về dân sự, doanh nghiệp, đầu tư, tài
chính, chứng khoán, cạnh tranh..., bên cạnh đó là các vấn đề như thương hiệu, giải
quyết lao động, nghĩa vụ thuế, đăng ký kinh doanh, đăng ký quyền sở hữu tài sản,
chuyển đổi hình thức pháp lý sau mua lại, sáp nhập. Trên cơ sở những đặc thù
riêng của NHTM và hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM so với các loại hình
doanh nghiệp khác, luận án tập trung nghiên cứu pháp luật về mua lại, sáp nhập
NHTM ở Việt Nam trên các phương diện về tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp
nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và
giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập. Các vấn đề này là những nội dung
điều chỉnh chủ yếu của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM.
Để có cơ sở giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực trạng pháp luật và thực
tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam hiện nay, luận án
nghiên cứu một số văn bản pháp luật có liên quan mật thiết đến nội dung đề tài luận
án được ban hành từ năm 2004 đến năm 2015 và có hiệu lực thi hành trong khoảng
thời gian từ khi được ban hành đến hết năm 2015; nghiên cứu một số trường hợp
mua lại, sáp nhập NHTM đã thực hiện trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015
phục vụ việc đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này. Luận án
không nghiên cứu tất cả các loại hình NHTM mà chỉ nghiên cứu về ngân hàng
thương mại cổ phần (NHTMCP) do loại hình ngân hàng này mang tính phổ biến, gặp
nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến tổ chức, hoạt động, ngoài ra các hoạt động mua
lại, sáp nhập ngân hàng trong thời gian gần đây cũng tập trung vào nhóm NHTMCP.
4. Những điểm mới của luận án
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu trước
đây về mua lại, sáp nhập và pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp cũng như
trong lĩnh vực NHTM, đồng thời cùng với quá trình nghiên cứu độc lập, luận án có
những đóng góp mới về mặt khoa học như sau:
4
* Về lý luận:
Thứ nhất, NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt bởi chính những
đặc điểm của NHTM. Do đó việc nghiên cứu để phát hiện chính xác và đầy đủ các
đặc điểm của NHTM sẽ giúp xây dựng được một cơ chế pháp lý hiệu quả nhằm giải
quyết những vấn đề phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM. Hoạt động
ngân hàng có những đặc thù mà các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường
không có, đó là được nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán
qua tài khoản liên quan đến lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng cho khách hàng. Việc thành
lập, hoạt động, tổ chức lại NHTM được kiểm soát nghiêm ngặt trong một khung
pháp lý rất chặt chẽ. Các chủ thể hoạt động NHTM phải đáp ứng các điều kiện
nghiêm ngặt như vốn, an toàn vốn, cơ sở vật chất, hệ thống thông tin, bảo mật,
chuyên môn nghiệp vụ mới được cơ quan quản lý ngân hàng cho phép hoạt động.
Hoạt động kinh doanh của NHTM tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao hơn so với các loại
hình kinh doanh khác. Trong quá trình hoạt động ngân hàng phải liên tục, ổn định
cao nhất so với các loại hình doanh nghiệp khác, đồng thời các NHTM chịu sự ảnh
hưởng dây chuyền với nhau.
Thứ hai, hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM có những đặc trưng cơ bản, chi
phối đến pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM. Những đặc trưng cơ bản của hoạt
động mua lại, sáp nhập NHTM được xác định là: NHTM thực hiện mua lại, sáp
nhập với tư cách là bên mua lại hoặc nhận sáp nhập với NHTM khác; các doanh
nghiệp khác trừ ngân hàng không được mua lại, nhận sáp nhập với chủ thể bên kia
là ngân hàng. Trong tất cả các giai đoạn trước, trong và sau khi thực hiện mua lại,
sáp nhập NHTM đều phải đáp ứng hoạt động ngân hàng liên tục, ổn định, không
ảnh hưởng đến quyền lợi người gửi tiền và quyền, nghĩa vụ của các bên có liên
quan. So với các loại hình doanh nghiệp khác, trình tự, thủ tục khi thực hiện mua
lại, sáp nhập NHTM phức tạp hơn. Khi thực hiện mua lại, sáp nhập MHTM trước
tiên phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, sau đó mới tính đến
quyền lợi của bên thứ ba và quyền lợi của nhà nước. Thời điểm chuyển giao quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp giữa các bên khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM
có ý nghĩa quan trọng.
Thứ ba, bản chất pháp lý của mua lại, sáp nhập NHTM là việc giành quyền
kiểm soát doanh nghiệp thông qua các hoạt động đầu tư, tổ chức lại doanh nghiệp;
việc chuyển giao tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp giữa các bên, đồng
thời xác định tư cách pháp lý của các bên sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập.
5
Thứ tư, việc tìm ra những đặc điểm của pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân
NHTM sẽ giúp xác định đúng những nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật
trong lĩnh vực này. Những đặc điểm chính của pháp luật về mua lại, sáp nhập
NHTM được xác định như: hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM được điều chỉnh
bằng cả hệ thống luật chung và luật chuyên ngành về ngân hàng; việc thành lập,
hoạt động và tổ chức lại NHTM chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về ngân
hàng; khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, ngoài việc sử dụng khung pháp lý
như các doanh nghiệp thông thường nhưng cần có những điều chỉnh riêng đối với
loại hình này; pháp luật chỉ cho phép NHTM được tiến hành mua lại, sáp nhập đối
với TCTD mà không cho phép TCTD hay các doanh nghiệp mua lại, sáp nhập với
NHTM; để thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cần phải tuân theo những tiêu
chuẩn, điều kiện chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp khác; trình tự, thủ tục mua
lại, sáp nhập NHTM phải tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật, có mức
độ phức tạp cao hơn so với doanh nghiệp khác; để đảm bảo an toàn hệ thống ngân
hàng, tài chính, tiền tệ quốc gia, đối với các NHTM yếu kém, có nguy cơ mất khả
năng chi trả, mất khả năng thanh toán, cơ quan quản lý ngân hàng có quyền yêu cầu
NHTM đó phải thực hiện tái cơ cấu, buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại.
Thứ năm, những nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật về mua lại, sáp
nhập NHTM được xác định là: tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ
tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp
khi mua lại, sáp nhập. Ngoài ra, còn có nhiều quan hệ xã hội khác phát sinh khi thực
hiện mua lại, sáp nhập NHTM cần phải có pháp luật điều chỉnh.
* Về đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về mua lại,
sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, luận án khẳng định pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt
Nam liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Luật các tổ chức tín dụng
(TCTD) là luật chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp đến việc thành lập, hoạt động và
tổ chức lại NHTM, đồng thời được đặt trong mối quan hệ với các luật khác khi giải
quyết các vấn đề liên quan đến việc mua lại, sáp nhập NHTM. Vì vậy để hoàn thiện
pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với việc thành lập,
hoạt động và tổ chức lại NHTM nói chung và việc mua lại, sáp nhập NHTM nói
riêng cần phải hoàn thiện đồng bộ các đạo luật này chứ không chỉ hoàn thiện riêng
Luật các TCTD.
Thứ hai, luận án chỉ rõ pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam
6
hiện nay còn có những tồn tại, hạn chế, nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến mua lại,
sáp nhập NHTM, nhất là trong trường hợp thực hiện bắt buộc còn chưa có quy định
cụ thể hoặc còn thiếu như tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục
mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp khi
mua lại, sáp nhập. Ngoài ra còn thiếu hay cần bổ sung, sửa đổi những quy định như
quyền, nghĩa vụ của các ngân hàng bị mua lại, sáp nhập; quyền lợi của khách hàng
(người gửi tiền); quyền lợi của người lao động; thực hiện lãi suất tiền gửi, lãi suất,
phí cấp tín dụng; hợp đồng mua lại, sáp nhập; thực hiện tiếp tục hợp đồng cấp tín
dụng hợp vốn. Thực tế đã phát sinh những vấn đề pháp lý liên quan đến sự can thiệp
của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vào ngân hàng yếu kém như việc chuyển sở hữu
tư nhân thành sở hữu nhà nước ở một số ngân hàng yếu kém; cổ đông không đồng ý
có sự can thiệp của NHNN vào cơ cấu sở hữu khi thực hiện mua lại, sáp nhập
NHTM cần phải được giải quyết.
Thứ ba, thông qua việc phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về
mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam hiện nay, luận án khẳng định việc NHNN
mua lại bắt buộc một số NHTM yếu kém trong thời gian qua là để giải quyết tình
thế nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm tránh nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân
hàng, bảo đảm an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia, giữ vững ổn định kinh tế
vĩ mô, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, đồng thời có tác dụng hữu hiệu trong
việc ngăn chặn tình trạng bất tuân thủ các yêu cầu, điều kiện bảo đảm an toàn đối
với hoạt động ngân hàng. Trong quá trình thực hiện, còn có nhiều vấn đề liên quan
đến cơ chế pháp lý cần phải giải quyết khi NHNN mua lại bắt buộc một số NHTM
yếu kém này. Xét trên góc độ pháp luật thì đã có căn cứ pháp lý để NHNN mua lại
bắt buộc đối với các ngân hàng này. Tuy nhiên việc NHNN mua lại bắt buộc toàn
bộ tài sản của NHTM với giá 0 đồng, không phải mua lại toàn bộ số cổ phần thuộc
quyền sở hữu của tất cả cổ đông, nhưng tất cả cổ đông của NHTM bị chấm dứt toàn
bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông là chưa có cơ sở pháp lý vững chắc.
* Về một số giải pháp sửa đổi, bổ sung pháp luật về mua lại, sáp nhập
ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, luận án đã đề xuất một số giải
pháp mới như sau:
Thứ nhất, luận án kiến nghị thống nhất hình thức pháp lý về tổ chức lại
doanh nghiệp được quy định trong các văn bản pháp luật. Bổ sung mua lại là một
trong những hình thức pháp lý tổ chức lại doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp để
phù hợp với quy định của Luật cạnh tranh. Luật các TCTD quy định cụ thể việc
mua lại, sáp nhập đối với NHTM, thay vì quy định chung là tổ chức lại TCTD dưới
7
hình thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý. Luật các
TCTD và các văn bản pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành cần bổ sung
các quy định khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM về: tiêu chuẩn, điều kiện mua
lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp
nhập và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập.
Thứ hai, luận án kiến nghị cần tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy
định về mua lại, sáp nhập NHTM, cụ thể là: định giá ngân hàng; hợp đồng mua lại,
sáp nhập; thực hiện tiếp tục hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn; chuyển sở hữu tư
nhân thành sở hữu nhà nước ở một số ngân hàng yếu kém; quyền và nghĩa vụ của
các ngân hàng bị mua lại, sáp nhập; quyền lợi của khách hàng (người gửi tiền);
quyền lợi của người lao động tại các ngân hàng bị mua lại, sáp nhập; thủ tục xử lý
các giao dịch với người gửi tiền và người vay trước khi giao dịch mua lại, sáp nhập
được xác lập; thực hiện lãi suất tiền gửi, lãi suất, phí cấp tín dụng; lộ trình thực hiện
quy định về tỷ lệ an toàn, nợ xấu, sở hữu chéo khi thực hiện mua lại, sáp nhập
NHTM, trong cả trường hợp thực hiện tự nguyện và bắt buộc.
Thứ ba, luận án kiến nghị việc cơ quan có thẩm quyền chấp thuận mua lại,
sáp nhập NHTM ở Việt Nam, đồng thời lại tổ chức thanh tra, giám sát trong quá
trình thực hiện là không khách quan, trong khi hoạt động của NHTM có vai trò rất
quan trọng đối với nền kinh tế, cần đảm bảo hoạt động ngân hàng được diễn ra theo
đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, khi thực hiện mua lại, sáp nhập bắt buộc
đối với NHTM yếu kém có thể phải sử dụng đến nguồn ngân sách lớn của nhà
nước. Vì vậy pháp luật cần bổ sung quy định một cơ quan giám sát độc lập tiến
trình này để đảm bảo sự chặt chẽ và tính khách quan.
5. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề
tài luận án.
Chương 2: Những vấn đề lý luận của pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân
hàng thương mại.
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại,
sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp
nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Mua lại và sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng đã trở thành xu thế khách
quan, tất yếu với nhiều lợi ích to lớn, không chỉ với bản thân các ngân hàng mà còn
với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Trong thời gian qua, nhiều công trình nghiên cứu
về mua lại, sáp nhập, pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và
trong lĩnh vực NHTM, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án đã
được quan tâm thực hiện ở trong và ngoài nước.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về mua lại, sáp nhâp doanh nghiệp, ngân
hàng dưới góc độ kinh tế, tài chính
Trong các công trình nghiên cứu về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, ngân
hàng dưới góc độ kinh tế, tài chính có thể kể đến các sách, tài liệu nước ngoài, tài
liệu dịch từ tiếng nước ngoài như: Sách “Quản trị ngân hàng thương mại” của Peter
S.Rose do Nhà xuất bản (Nxb) Tài chính, Hà Nội phát hành năm 2000; sách
“Applied Mergers and Acquitions” của Bruner F. Robert and Perella P. Joseph,
năm 2004; sách “Hướng dẫn cơ bản về mua bán công ty” của Wilbur M. Yegge do
Nxb. Thống kê, Hà Nội phát hành năm 2006; sách “Mergers and Acquisitions” của
J. Fred Weston và Samuel C. Weaver (McGraw-Hill, năm 2007); sách “Cẩm nang
hướng dẫn mua lại và sáp nhâp” của Timothy J.Galpin, Mark Herdon do Nxb.
Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh phát hành năm 2009; sách “Mua lại và sáp nhâp căn
bản - Các bước quan trọng trong quá trình mua bán doanh nghiệp và đầu tư” của
Michael E.S. Frankel do Nxb. Tri Thức, Hà Nội phát hành năm 2009; sách “Mua lại
và sáp nhâp thông minh - Kim chỉ nam trên trân đồ sáp nhâp và mua lại” của Scott
Moeller, Chis Brady do Nxb. Tri Thức, Hà Nội phát hành năm 2009; sách “Wall
Street Words: An A to Z Guide to Investment Terms for Today’s Investor” của
David L.Scott; sách “Mergers & Acquisition From A to Z” của Andrew J. Sherman,
Milledge A. Hart do Nxb. Amacom phát hành năm 2006; sách “A practical guide to
mergers, acquisitions, and divestitures” do Nxb. Delta Publishing Company phát
hành năm 2009; sách “Merger, Acquisition, and other Restructuring Activities” của
9
Donal DePamphilis, năm 2010; tài liệu nghiên cứu về mua lại, sáp nhập “Mergers
and Acquisitions” của Alexander Robert, William Wallance, Peter Moles do
Edinburgh Business School, Heriot-Watt University phát hành năm 2012... Các
công trình nghiên cứu này đã cung cấp những lý luận, kiến thức cơ bản về M&A,
nhiều cuốn sách còn được coi là cẩm nang về M&A cho các doanh nghiệp. Trong
các công trình nghiên cứu trên, có một số công trình đáng chú ý như sau:
- Sách “Quản trị ngân hàng thương mại” của tác giả Peter S.Rose, Nxb. Tài
chính, Hà Nội (2000). Đây là cuốn sách có chuyên môn cao về NHTM được dùng
làm tài liệu giảng dạy và nghiên cứu ở nhiều trường đại học tại Mỹ. Với 23 chương
cùng các ví dụ và danh mục thuật ngữ, cuốn sách chứa đựng nội dung rất phong phú
về hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Cuốn sách đề cập tới rất
nhiều khía cạnh về công nghệ quản lý NHTM trong mối quan hệ với cơ quan quản
lý tiền tệ, với cơ quan quản lý tài chính và những vấn đề luật pháp. Chương 22 của
cuốn sách trình bày nội dung về quản trị hoạt động sáp nhập và mua lại ngân hàng
bao gồm các nội dung chính như sau:
Thứ nhất, về động cơ của hoạt động sáp nhâp ngân hàng. Theo tác giả, sáp
nhập thường diễn ra với các lý do như: (1) Các cổ đông ngân hàng mong muốn tăng
giá trị tài sản hay giảm rủi ro và nhờ đó củng cố lợi ích của họ; (2) Các nhà quản lý
ngân hàng hy vọng nhận được mức lương cao hơn, tạo ra sự đảm bảo về nghề
nghiệp hay uy tín nhờ việc quản lý một ngân hàng lớn hơn; (3) Nhà quản lý, các cổ
đông đều được hưởng lợi ích từ hoạt động sáp nhập. Ngoài ra, cũng có những động
cơ khác được kể đến thông qua các vụ sáp nhập các ngân hàng lớn nhất đang diễn ra
trong các năm gần đây như: Tiềm năng lợi nhuận; hạn chế rủi ro; động cơ về thuế,
thị trường; động cơ tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả và giải cứu các ngân hàng sụp
đổ. Đã có rất nhiều các vụ sáp nhập ngân hàng được Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi
Liên bang Mỹ (FDIC) và các cơ quan pháp luật khuyến khích vì đây là một phương
pháp để bảo vệ khoản dự trữ bảo hiểm tiền gửi và tránh cho việc phục vụ khách
hàng bị gián đoạn khi ngân hàng có nguy cơ phá sản.
Thứ hai, về tiến hành sáp nhâp. Tác giả cuốn sách cho rằng, dù xuất phát từ
bất cứ mục đích gì thì về bản chất sáp nhập là một giao dịch tài chính dẫn đến việc
một ngân hàng này mua lại một hay một vài tổ chức ngân hàng khác. Ngân hàng bị
sáp nhập phải từ bỏ các biểu tượng cũ để lấy tên mới, thường là tên của ngân hàng
mua lại. Tài sản và các nguồn vốn của ngân hàng bị sáp nhập sẽ nhập với tài sản và
10
nguồn vốn của ngân hàng sáp nhập. Sáp nhập ngân hàng thường được tiến hành sau
khi các nhà quản lý của hai ngân hàng đã đi đến những thỏa thuận cụ thể. Các bước
hợp nhất sẽ được ban lãnh đạo của mỗi ngân hàng thông qua và cổ đông của mỗi
ngân hàng bỏ phiếu.
Thứ ba, về cách thức hoàn tất việc sáp nhâp. Thông thường, việc sáp nhập
được tiến hành thông qua việc mua lại cổ phiếu hoặc mua lại tài sản. Với phương
thức mua lại cổ phiếu, ngân hàng bị sáp nhập buộc phải ngừng hoạt động, ngân
hàng sáp nhập sẽ tiếp quản tất cả tài sản và nguồn vốn của ngân hàng bị sáp nhập.
Với phương thức mua lại tài sản, ngân hàng yêu cầu sáp nhập sẽ dùng tiền mặt hoặc
cổ phiếu để mua tất cả hay một phần tài sản của ngân hàng bị sáp nhập.
Thứ tư, về quá trình ra quyết định sáp nhâp. Cơ quan quản lý Liên bang Mỹ
phải áp dụng những tiêu chuẩn do Luật sáp nhập ngân hàng và Hướng dẫn của Bộ
Tư pháp quy định cho các yêu cầu sáp nhập. Đạo luật sáp nhập ngân hàng đòi hỏi
Cơ quan Liên bang chịu trách nhiệm giám sát chính đối với ngân hàng yêu cầu sáp
nhập phải tính đến tác động của vụ sáp nhập tới sự thuận lợi cho công chúng, tính
đến nhu cầu của công chúng đối với việc cung cấp các dịch vụ tài chính chất lượng
cao tại mức giá hợp lý.
- Sách sách “Mua lại và sáp nhâp từ A đến Z” của Andrew J.Sherman,
Milledge A. Hart, Nxb Tri thức, Hà Nội (2009) và “M&A- Mua lại và sáp nhâp căn
bản, các bước quan trọng trong quá trình mua bán doanh nghiệp và đầu tư” của tác
giả Michael E.S. Frankel, Nxb Tri thức, Hà Nội (2009). Nội dung chính của hai
cuốn sách này như sau:
Thứ nhất, về thuât ngữ M&A. M&A là một thuật ngữ để mô tả các thương vụ
liên quan đến sự thay đổi, chuyển giao quyền kiểm soát một doanh nghiệp. Các hình
thức M&A bao gồm: mua tài sản của doanh nghiệp, mua cổ phiếu, mua lại doanh
nghiệp dựa trên vốn vay nợ; mua lại doanh nghiệp để giữ quyền quản lý.
Thứ hai, về các bên tham gia M&A. Chủ thể tham gia thương vụ mua lại và sáp
nhập doanh nghiệp cùng với vai trò, động cơ thúc đẩy tham gia M&A, cách thức quản
lý các giao dịch không chỉ giới hạn ở bên bán và bên mua mà còn có sự tham gia của
các chủ thể khác như kiểm toán viên, đội ngũ tư vấn, các nhà đầu tư tài chính...
Thứ ba, về những công việc cần chuẩn bị khi thực hiện M&A. Một trong
những bước quan trọng của quá trình chuẩn bị là lựa chọn nhà tư vấn. Chính các
nhà tư vấn sẽ trợ giúp các bên chuẩn bị những công việc cần thiết để thực hiện
11
thành công thương vụ mua lại và sáp nhập. Cùng với chiến lược tổng thể của công
ty, chiến lược M&A cần được ban giám đốc và đội ngũ điều hành công ty phê duyệt
và ủng hộ. Điều này thậm chí còn quan trọng hơn rất nhiều khi vạch kế hoạch cho
một thương vụ M&A. Thông thường, việc kêu gọi sự ủng hộ đối với một chiến lược
M&A trước khi đề xuất một giao dịch cụ thể là việc làm rất quan trọng. Ngoài ra,
các tác giả cũng trình bày rất nhiều những công việc trước khi thực hiện M&A mà
bên mua và bên bán cần phải quan tâm, để đảm bảo rằng một thương vụ M&A đã
được chuẩn bị kỹ lưỡng, mang lại thành công cho các bên.
Thứ tư, về thẩm định chi tiết doanh nghiệp mục tiêu của bên mua. Thẩm định
chi tiết là việc bên mua có nghĩa vụ xem xét chi tiết và cẩn trọng về thương vụ mua
lại và sáp nhập. Quá trình này sẽ xem xét toàn diện về pháp lý, tài chính và chiến
lược trên cơ sở tất cả những tài liệu, những quan hệ hợp đồng, lịch sử hoạt động và
cấu trúc tổ chức của bên bán. Nhóm làm việc về tài chính, chiến lược thường do đội
ngũ quản lý, kế toán và nhóm làm việc về thẩm định pháp lý do cố vấn của bên mua
thực hiện. Thẩm định pháp lý sẽ phân tích những vấn đề về tổ chức, tài chính, quản
lý và nhân sự, những hợp đồng và giao kết chính của bên bán, kiện tụng và khiếu
nại. Bên mua sẽ phải thu thập các dữ liệu liên quan đến điều kiện để giao dịch mua
lại và sáp nhập có hiệu lực pháp luật, đến sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh và
những rủi ro có thể phải gánh chịu sau khi mua lại, sáp nhập…
Thứ năm, về định giá doanh nghiệp và các phương pháp định giá doanh
nghiệp. Định giá doanh nghiệp hay xác định giá trị doanh nghiệp là việc ước tính giá
trị hiện hữu và tiềm năng của doanh nghiệp tại một thời điểm xác định bằng cách sử
dụng các phương pháp định giá thích hợp. Định giá doanh nghiệp có thể được bên
bán tiến hành hoặc xác nhận trước khi chào cho bên mua và giá cuối cùng được xác
định bởi các bên trong quá trình đàm phán về giá. Trong hợp đồng M&A, mục giá
giao dịch có thể chỉ chiếm một dòng nhưng đó là kết quả của một quá trình làm việc
ròng rã và đầy thách thức đối với cả hai bên. Do đó các bên mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp phải sử dụng các phương pháp định giá theo nguyên tắc nhất định và phù hợp
với giá thị trường. Khi đề cập giá trị của một doanh nghiệp là nói đến cả giá trị tài sản
hữu hình và giá trị tài sản vô hình. Trong M&A, xác định đúng, đủ giá trị tài sản vô
hình giúp bên bán đánh giá đúng giá trị của mình và bên mua cũng nhận thức được tài
sản vô hình mà mình sẽ sở hữu cũng như giá trị của những tài sản này.
Thứ sáu, về kết thúc thương vụ và hâu mua lại, sáp nhâp. Một cách đơn giản
12
nhất được các tác giả đề cập, ký kết thương vụ là ký kết một thỏa thuận để bán một
công ty, trong khi đó kết thúc một thương vụ là hoàn thành quá trình mua bán đó.
Khoảng trống giữa việc ký kết và kết thúc sẽ thay đổi dựa trên những nhân tố bên
ngoài. Nguyên nhân việc trì hoãn phổ biến và kéo dài nhất là việc phê chuẩn theo
pháp luật. Với những doanh nghiệp phải điều chỉnh nhiều, hoặc đôi khi là việc một
doanh nghiệp lớn cần phải được sự chấp thuận từ những cơ quan quản lý. Sau khi
kết thúc giao dịch M&A, các hợp đồng, giấy phép và các quyền, nghĩa vụ cũng cần
được chuyển giao và thay đổi. Bên cạnh đó còn có những thủ tục khác cần được
hoàn thành trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng sau khi hoàn tất thương vụ. Những
thách thức mà bên mua doanh nghiệp cũng phải đối mặt thời kỳ hậu mua lại và sáp
nhập như sự kết hợp nguồn nhân lực, văn hóa doanh nghiệp, hệ thống hoạt động và
quản lý thông tin, hệ thống kế toán...
- Bài viết “Banking M&A: What about the brand?” của Joseph Benson và
Jack Foley trên marketingprofs.com. Theo tác giả, thương hiệu không phải là tất cả
mọi thứ về một ngân hàng, nó chỉ là điều làm cho những ngân hàng tạo ra khác biệt.
Thương hiệu tạo ra sự khác biệt và ưu tiên đối với khách hàng. Đó là lý do tại sao
khách hàng chọn để giao dịch với một ngân hàng này mà không phải là một ngân
hàng khác. Thương hiệu thường đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo nên các giá trị
này. Theo như nhận định trong một nghiên cứu gần đây của hãng nghiên cứu
McKinsey, thì “các tài sản vô hình tạo nên phần lớn giá trị của các thỏa thuận liên
kết và sáp nhập, trong đó thương hiệu chiếm một phần đáng kể trong những dạng
tài sản vô hình này”. Tác giả chỉ ra bốn chiến lược phát triển thương hiệu cơ bản đối
với các ngân hàng: (1) Hố đen; (2) Tận dùng; (3) Chung sống; (4) Những khởi đầu
mới. Mỗi chiến lược lại có những ưu điểm riêng.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về mua lại, sáp nhâp doanh nghiệp, ngân
hàng dưới góc độ pháp lý
- Bài dịch “Luât chống độc quyền ở Mỹ” do N.Gregory Mankiw, 5th edition
(2008), Principles of Microeconomics, South Western Cengage Learning phát hành,
được Lê Thị Khánh Ly biên dịch có những nội dung chính cho biết mục đích của
chính sách chống độc quyền là ngăn cản độc quyền, khuyến khích cạnh tranh và đạt
được sự phân bổ nguồn lực hiệu quả. Mặc dù tất cả những nhà kinh tế học đều đồng
ý rằng những mục tiêu này rất tốt, tuy nhiên có một số ý kiến mâu thuẫn nhau về sự
thích hợp và hiệu quả của chính sách chống độc quyền ở Mỹ. Sau những năm 1800
13
và trước những năm 1900, chính phủ kết thúc những lực lượng thị trường thuộc
ngành công nghiệp độc quyền mà không cung cấp đủ kiểm soát nhằm bảo vệ người
tiêu dùng, đạt được cạnh tranh công bằng và phân bổ nguồn lực hiệu quả. Vì thế,
chính phủ xây dựng hai kiểm soát mang ý nghĩa khác nhau như là việc thay thế và
bổ sung cho lực lượng thị trường này: Cơ quan chính phủ: Trong một vài thị trường
mà nguồn gốc của việc sản phẩm và kỹ thuật được tạo ra từ độc quyền tự nhiên,
chính phủ thiết lập cơ quan chính phủ để kiểm soát hành vi tập trung kinh tế. Luât
chống độc quyền: Trong hầu hết những thị trường còn lại, xã hội kiểm soát bằng các
quy định chống độc quyền được thiết kế ra để ngăn cản và chống lại việc phát triển
của các hình thức độc quyền. Bốn bộ phận cụ thể của quy định Liên bang được chắt
lọc và mở rộng từ những lần sửa đổi khác nhau, thiết lập bộ luật cơ bản liên quan
đến cấu trúc và quản lý độc quyền.
Tư tưởng chính của Đạo luật chống độc quyền Sherman 1890 thể hiện ở việc
quy định mọi hợp đồng, việc kết hợp giữa các hình thức độc quyền hay những hình
thức hay những âm mưu mà làm kiềm chế thương mại giữa các bang hoặc giữa các
quốc gia thì được xem là bất hợp pháp; mọi cá nhân mà được xem là độc quyền,
hoặc nỗ lực để có độc quyền, hoặc sáp nhập hoặc chung sức với bất kỳ cá nhân khác
hay cộng đồng khác để có độc quyền trong bất kỳ thành phần thương mại nào giữa
các bang hoặc các quốc gia sẽ được xem là mắc trọng tội. Đạo luật chống độc quyền
Sherman đã cấm những ràng buộc trong thương mại (ví dụ, kết hợp giá cố định và
phân chia thị trường) như trong độc quyền. Đạo luật chống độc quyền Clayton năm
1914 chứa đựng một số các yêu cầu được đưa ra trong Đạo luật chống độc quyền
Sherman, đạo luật cấm thâu tóm cổ phần của những công ty đối thủ cạnh tranh khi
thu nhập ít hơn của đối thủ cạnh tranh. Luật về Ủy ban thương mại Liên bang năm
1914 cho phép Ủy ban thương mại Liên bang (FTC) có quyền hạn trong việc kiểm
ra vấn đề cạnh tranh không công bằng và xem xét yêu cầu của những công ty bị hại.
Nó có thể thu nhận những phản hồi từ phía công cộng và nếu cần thiết nó có thể
chấm dứt các đơn đặt hàng nếu phát hiện ra “có sự không công bằng trong cạnh
tranh thương mại”...
- Sách “Quản trị ngân hàng thương mại” của tác giả Peter S.Rose, Nxb. Tài
chính, Hà Nội (2000). Tác giả đã dành một phần dung lượng cuốn sách để trình bày
các quy định pháp lý đối với hoạt động sáp nhập ngân hàng ở Mỹ.
Thứ nhất, hệ thống quy định điều chỉnh chung hoạt động sáp nhâp ngân
14
hàng. Ở Mỹ về cơ bản có hai hệ thống quy định điều chỉnh chung hoạt động sáp
nhập ngân hàng, đó là các phán quyết của tòa án và các đạo luật được thông qua
trên cơ sở các đặc thù của ngành ngân hàng. Với các đạo luật có thể dẫn chiếu đến
đạo luật chống độc quyền Sherman năm 1890 và đạo luật Clayton năm 1914. Các
đạo luật này cấm các hoạt động sáp nhập nếu chúng dẫn đến độc quyền hay hạn chế
cạnh tranh trong bất kỳ ngành công nghiệp nào và Bộ Tư pháp sẽ thông qua các vụ
sáp nhập nào như vậy. Ngoài hai đạo luật trên, hoạt động sáp nhập còn chịu sự điều
chỉnh của nhiều đạo luật khác. Đạo luật sáp nhập ngân hàng đòi hỏi mỗi ngân hàng
tham gia sáp nhập phải được chuẩn y từ các cơ quan điều hành Liên bang trước khi
sáp nhập. Với các ngân hàng trong nước, việc sáp nhập phải được Cục Quản lý tiền
tệ thông qua. Với các ngân hàng được bảo hiểm và là thành viên của hệ thống Dự
trữ Liên bang thì việc hợp nhất phải có sự thông qua của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
Fed. Còn với các ngân hàng được bảo hiểm nhưng không là thành viên của hệ Dự
trữ Liên bang thì cần có sự thông qua của Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang.
Thứ hai, các hướng dẫn của Bộ Tư pháp. Để giảm thiểu sự không chắc chắn
về pháp lý, năm 1968 Bộ Tư pháp Mỹ đã ban hành hướng dẫn chính thức về việc
xin sáp nhập với những yêu cầu chặt chẽ. Theo đó các hãng hoạt động trong thị
trường có mức độ tập trung cao và cạnh tranh hạn chế chỉ được thôn tính các doanh
nghiệp có thị phần nhỏ và không quan trọng, đồng thời chỉ được thâm nhập thị
trường với hình thức tạo lập doanh nghiệp mới. Khi Luật sáp nhập được nới lỏng
vào năm 1982, Bộ Tư pháp đã thay đổi hướng dẫn sáp nhập vào năm 1992 bao gồm
các hướng dẫn riêng cho sáp nhập ngân hàng. Hướng dẫn mới của Bộ Tư pháp lấy
công thức tính chỉ số Herfindahl-Hirschman Index (HHI) làm thước đo mức độ tập
trung cho thị trường. Với việc ban hành chỉ số HHI này, bất cứ vụ sáp nhập nào mà
chỉ số HHI sau khi sáp nhập nhỏ hơn 1.800 hoặc giá trị chỉ số HHI trong khu vực
thay đổi dưới 200 điểm sẽ không bị Bộ Tư pháp ngăn cản.
Thứ ba, quá trình ra quyết định của nhà chức trách Liên bang. Những tiêu
chuẩn do Luật sáp nhập ngân hàng và Hướng dẫn của Bộ Tư pháp phải được Cơ
quan quản lý Liên bang Mỹ áp dụng. Các tác động của vụ sáp nhập tới công chúng
sẽ được Cơ quan Liên bang chịu trách nhiệm giám sát theo quy định của Đạo luật
sáp nhập ngân hàng. Gần đây một rào cản về quy chế đối với các ngân hàng có yêu
cầu sáp nhập đã được thiết lập là Luật kê khai cho vay mua nhà thế chấp. Luật đòi
hỏi các ngân hàng cho vay mua nhà phải báo cáo định kỳ về sự phân bổ địa lý và
15
các thông tin khác đối với danh mục cho vay mua nhà. Các ngân hàng có hành vi
phân biệt đối xử trong việc cho vay sẽ gặp nhiều khó khăn về pháp lý nếu muốn
nhận được sự phê chuẩn cho yêu cầu hợp nhất.
- Bài viết: Các vấn đề cần lưu ý khi tham gia giao dịch M&A tại Việt Nam
của Luật sư Gregoty Crovo (thuộc Hãng luật Kelvin Chia Partnership) với chủ đề
M&A- Toàn cảnh thị trường mua bán-sáp nhập doanh nghiệp Việt Nam 2012 đăng
trên đặc san của Báo Đầu tư.
Luật sư Gregory Crovo là người có kinh nghiệm tư vấn cho rất nhiều thương
vụ M&A thành công. Trong bài viết, tác giả phân tích các vấn đề pháp lý, thủ tục và
thực tế thực hiện giao dịch dựa trên các kinh nghiệm tư vấn của mình cho các nhà
đầu tư nước ngoài trong các giao dịch M&A tại Việt Nam, đồng thời tác giả đề cập
các vấn đề pháp lý tồn tại trong quá trình tiến hành giao dịch cho đến khi hoàn tất
giao dịch và các yếu tố có thể gây trở ngại cho giao dịch. Những nội dung được tác
giả đề cập như các quy định về tài khoản góp vốn, thẩm định pháp lý, quy định của
pháp luật cạnh tranh kiểm soát mua lại và sáp nhập, các vấn đề liên quan đến thủ tục
cấp phép cho nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư ở Việt Nam, quá trình thanh toán và
những khó khăn cho việc thực thi các hợp đồng mua lại và sáp nhập tại Việt Nam.
Tác giả bài viết phân tích một số bất cập trong các quy định pháp luật của Việt Nam
về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp, từ đó khuyến cáo các nhà đầu tư nước ngoài
khi tham gia giao dịch mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Có nhiều nghiên cứu trong nước được thực hiện thời gian qua đã tập trung
phân tích, phản ảnh về mua lại, sáp nhập; pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp, NHTM và các nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án. Có thể kể đến
một số nghiên cứu như: Luận án tiến sĩ kinh tế “Sáp nhâp, hợp nhất và mua bán
ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam” của Phan Diên Vỹ, năm 2013; luận án
tiến sĩ luật học “Pháp luât mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam” của Trần Thị Bảo
Ánh, năm 2014... Bên cạnh các nghiên cứu trên, một số đề tài nghiên cứu khoa học
nghiên cứu trong lĩnh vực này như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Hoạt động
sáp nhâp và mua lại: Cơ sở lý luân, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị chính sách
cho Việt Nam” do ThS. Lưu Minh Đức làm chủ nhiệm, năm 2009; đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Ngành “Hoạt động mua bán, sáp nhâp các ngân hàng thương mại
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” của Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí
16
Minh do TS. Nguyễn Thị Loan làm chủ nhiệm, năm 2012; đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ “Pháp luât điều chỉnh sáp nhâp, mua lại doanh nghiệp ở Việt Nam” của
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh do TS. Nguyễn Trí Hùng làm chủ nhiệm,
năm 2012; đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện “Pháp luât về hợp nhất, sáp
nhâp ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của Học viện Tài chính, năm 2014...
Các công trình nêu trên đã phân tích và cung cấp thông tin về cơ sở lý luận
mua lại, sáp nhập và pháp luật về mua lại, sáp nhập đối với doanh nghiệp, công ty
tài chính, ngân hàng; phân tích, phản ảnh tình hình hoạt động mua lại, sáp nhập
doanh nghiệp và NHTM của một số quốc gia và Việt Nam; phân tích và luận giải
khung pháp lý, thực trạng pháp luật đối với doanh nghiệp, ngân hàng nói chung và
về mua lại, sáp nhập đối với doanh nghiệp, NHTM nói riêng. Các nghiên cứu cũng
phân tích và đề cập đến hoạt động tập trung kinh tế tại Việt Nam, kinh nghiệm quốc
tế về kiểm soát tập trung kinh tế, về thị trường chứng khoán; đưa ra quan điểm,
phương hướng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu của các cơ quan, tổ chức khác cũng cung
cấp nhiều thông tin liên quan đến tình hình nghiên cứu của đề tài luận án như: “Báo
cáo kinh tế vĩ mô 2012: Từ bất ổn vĩ mô đến con đường tái cơ cấu”, “Báo cáo kinh tế
vĩ mô 2014 - Cải cách thể chế kinh tế: Chìa khóa cho tái cơ cấu” của Ủy ban Kinh tế
của Quốc hội; “Báo cáo phát triển Việt Nam (VDR) 2012: Kinh tế thị trường khi Việt
Nam trở thành quốc gia thu nhâp trung bình” của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam;
“Báo cáo ngành ngân hàng Việt Nam” của Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH)
Chứng khoán NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng, năm 2014; “Báo cáo tâp trung kinh
tế Việt Nam năm 2012”; “Báo cáo rà soát pháp luât cạnh tranh với pháp luât chuyên
ngành” của Cục Quản lý cạnh tranh, năm 2014; nghiên cứu “Tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng” của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, năm 2012…
Các nghiên cứu, tài liệu trên đã phân tích, đề cập, cung cấp thông tin đa dạng
về tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam, đến tái cơ cấu kinh tế, tái cấu trúc ngân
hàng, cải cách thể chế, tập trung kinh tế, đưa ra mục tiêu, quan điểm, định hướng
chính sách, giải pháp cơ cấu lại các TCTD... Một số nghiên cứu đi sâu phân tích về
cơ sở lý luận, quy định pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM; kinh nghiệm quốc tế
để xử lý ngân hàng yếu kém. Ngoài ra một số nghiên cứu cũng đưa ra các đề xuất,
kiến nghị liên quan đến hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, xã
hội và ngân hàng, trong đó có hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh
17
nghiệp, ngân hàng.
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu đề câp về lý luân mua lại, sáp nhâp
doanh nghiệp, ngân hàng
Một số nghiên cứu đã cung cấp cơ sở lý luận về mua lại, sáp nhập và pháp
luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, NHTM như nêu khái niệm mua lại, sáp
nhập, đề cập đến các phương thức mua lại, sáp nhập; phân biệt sự khác nhau của
mua lại, sáp nhập; vai trò của mua lại, sáp nhập; các yếu tố và điều kiện thúc đẩy
hoạt động mua lại, sáp nhập chủ yếu ở cả góc độ kinh tế và pháp luật, theo quan
điểm chung của quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và pháp luật Việt Nam. Các
nguyên tắc pháp lý khi tiến hành sáp nhập, hợp nhất NHTM, các bộ phận cấu thành
pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM cũng được nghiên cứu, qua đó cho thấy pháp
luật về mua lại, sáp nhập đối với NHTM có sự liên thông với pháp luật cạnh tranh,
chứng khoán, doanh nghiệp, dân sự, thương mại... [16], [42], [59], [89].
Trong các nghiên cứu, bài viết trên, có quan điểm chưa thống nhất việc sử
dụng thuật ngữ “mua lại và sáp nhập” tại Việt Nam để chỉ khái niệm mua lại, sáp
nhập như theo nội hàm và cách hiểu của quốc tế. Các ý kiến về nhóm vấn đề này cho
rằng trên thực tế hoạt động mua lại, sáp nhập đa dạng hơn nhiều so với khái niệm như
hay dùng, diễn ra ở nhiều hình thức khác nhau và vô cùng phức tạp, nên để đưa ra
định nghĩa chính xác, nhất quán về mua lại, sáp nhập là tương đối khó khăn. Theo
quy định của pháp luật Việt Nam thì chưa có được định nghĩa thống nhất điều chỉnh
hoạt động mua lại, sáp nhập [14], [67]. Có ý kiến trao đổi cần phải làm rõ định nghĩa
để thống nhất về nội dung thâu tóm, hợp nhất, mua lại, sáp nhập, hay cần thống nhất
cách hiểu khi đề cập đến thâu tóm hoặc đơn giản chỉ hiểu đó là sự thay đổi tỷ lệ sở
hữu cổ phần trong tổ chức dẫn đến việc tham gia quản trị điều hành [77]. Một số vấn
đề lý luận cũng được đề cập, bàn luận như hoạt động mua cổ phần trong vốn điều lệ
của NHTM; khái niệm “đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại” áp dụng đối với NHTM [42]; mua lại cổ phần theo
phương thức lôi kéo cổ đông bất mãn [14]...
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu đề câp về pháp luât mua lại, sáp nhâp
doanh nghiệp, ngân hàng thương mại
- Các công trình nghiên cứu đề câp về pháp luât mua lại, sáp nhâp doanh
nghiệp, ngân hàng thương mại của một số quốc gia:
Pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, NHTM và bài học kinh
18
nghiệm đối với Việt Nam của một số quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc,
Nga, một số nước Đông Nam Á và vùng lãnh thổ như Thái Lan, Inđônêsia,
Malaysia, Singapore, Đài Loan… đã được một số nghiên cứu đề cập [32], [40],
[59], [68]... Trên thế giới, quốc gia đầu tiên ban hành Luật cạnh tranh là Canada vào
năm 1889. Tuy nhiên, Luật Sherman của Hoa Kỳ được ban hành vào năm 1890 lại
là đạo luật có ảnh hưởng lớn và thường được trích dẫn. Do tầm quan trọng của hoạt
động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp và ngân hàng ngày càng mang tính toàn cầu
hóa nên nhiều quốc gia đã ban hành các luật riêng để điều chỉnh hoạt động này. Một
số quốc gia đã xây dựng các tiêu chuẩn để kiểm soát tập trung kinh tế, xây dựng và
áp dụng các chuẩn mực về vốn, tỷ lệ an toàn vốn ngân hàng khi thực hiện mua lại,
sáp nhập ngân hàng, thực hiện mua lại bắt buộc đối với những ngân hàng yếu kém
trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế cũng là những kinh nghiệm tốt để tham khảo
trong quá trình hoàn thiện pháp luật tại Việt Nam.
- Các công trình nghiên cứu đề câp khung pháp lý về mua lại, sáp nhâp ngân
hàng tại Việt Nam:
Đề cập đến khung pháp lý về mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng
tại Việt Nam, Bộ luật dân sự (2005), Luật đầu tư (2005), Luật cạnh tranh (2004),
Luật chứng khoán (2006) và Luật chứng khoán sửa đổi (2010), Luật các TCTD
(2010), Luật NHNN Việt Nam (2010), Luật doanh nghiệp (2005, 2014) là các
văn bản pháp luật được nhiều tác giả dẫn chiếu [29], [42], [45], [59], [89].
Một số nghiên cứu đã đề cập, phân tích quy định pháp luật về mua lại, sáp
nhập giữa các TCTD Việt Nam; điều kiện để các TCTD nước ngoài mua cổ phần
của ngân hàng Việt Nam (niêm yết hoặc chưa niêm yết trên thị trường chứng
khoán), trong đó quy định tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; điều kiện để
ngân hàng Việt Nam bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài; điều kiện chuyển
nhượng cổ phần; điều kiện tham gia quản trị tại ngân hàng Việt Nam; quy định về
tổ chức và hoạt động của các NHTM được NHNN Việt Nam cấp giấy phép thành
lập và hoạt động; các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới WTO... [56], [63], [110]. Mặc dù đã xây dựng được hành lang pháp lý ban đầu
nhưng hoạt động mua lại, sáp nhập vẫn cần phải có một hành lang pháp lý đầy đủ,
đảm bảo cho hoạt động mua lại, sáp nhập được diễn ra trên thực tế, có cơ sở pháp lý
để điều chỉnh, phù hợp mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng, đáp ứng quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.
19
Các cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến hoạt động mua lại, sáp nhập
được đề cập, đó là các cam kết trong GATS/WTO, các cam kết trong khu vực
ASEAN, các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, các cam kết quốc tế về đầu
tư song phương có yếu tố tự do hóa liên quan đến mua lại, sáp nhập (M&A), Hiệp
định thương mại tự do có cam kết về đầu tư [59]...
- Thực tiễn thực hiện pháp luât về mua lại, sáp nhâp NHTM ở Việt Nam:
Thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam cũng
được một số công trình và tác giả nghiên cứu, phân tích, bàn luận. Một số trường
hợp nghiên cứu về mua lại, sáp nhập NHTM giai đoạn trước năm 2005 được các
tác giả trích dẫn và phân tích [53], [88]... Trong giai đoạn này có hai hình thức thực
hiện chủ yếu là sáp nhập và hợp nhất. NHTMCP là nhóm ngân hàng có nhiều
thương vụ mua lại, sáp nhập diễn ra nhất trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Trong khoảng thời gian trước năm 2005, phần lớn các giao dịch mua lại, sáp nhập
diễn ra giữa các ngân hàng trong nước với nhau. Nhiều NHTMCP nông thôn với
quy mô vốn nhỏ được mua lại, sáp nhập [8]. Pháp luật áp dụng trong giai đoạn này
chủ yếu dựa trên nguyên tắc của Luật NHNN, Luật các TCTD.
Giai đoạn từ năm 2005 trở về đây, một số thương vụ mua lại, sáp nhập, hợp
nhất ngân hàng được phân tích, bàn luận như trường hợp hợp nhất ba NHTMCP là
FicoBank, TinNghiaBank và SCB; Công ty dịch vụ Tiết kiệm Bưu điện sáp nhập
vào ngân hàng Liên Việt; NHTMCP Nhà Hà Nội (HBB) sáp nhập vào NHTMCP
Sài Gòn – Hà Nội (SHB); ngân hàng EximBank mua lại cổ phần của ngân hàng
SacomBank; tập đoàn DOJI hoàn tất mua 20% cổ phần để trở thành cổ đông chiến
lược của ngân hàng TienPhongBank [19], [122]. Thông tư số 04/2010/TT-NHNN
ngày 11/2/2010 của NHNN quy định về sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD (sau đây
gọi là Thông tư 04/2010/TT-NHNN) cũng được nhiều tác giả phân tích, bàn luận là
đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập nên trong quá trình áp dụng để tiến hành các hoạt
động mua lại, sáp nhập NHTM đã gặp không ít trở ngại [67], [79].
Trong thời gian qua, nhiều giao dịch mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam
đã được tiến hành, tuy nhiên hợp đồng mua lại, sáp nhập còn một số vấn đề chưa
được nghiên cứu thấu đáo. Vì thế một số tác giả đã nghiên cứu về hợp đồng mua lại,
sáp nhập doanh nghiệp [41] hay lưu ý khi soạn thảo hợp đồng này [48]. Có tác giả
đã đi sâu nghiên cứu về nguyên tắc, trình tự, thủ tục hợp đồng mua lại, sáp nhập,
nhưng trọng tâm các bên thỏa thuận như thế nào? Nội dung của hợp đồng, chuyển
20
quyền, nghĩa vụ tài sản và các khoản nợ ra sao? Hiệu lực phát sinh của hợp đồng?
Thời điểm nào có hiệu lực, thời điểm nào vô hiệu? ... đã được kiến nghị cần được
tiếp tục nghiên cứu làm rõ hơn [41], [44], [119].
- Những hạn chế, bất câp của pháp luât về mua lại, sáp nhâp ngân hàng
thương mại ở Việt Nam:
Trong các nghiên cứu thu nhận được phản ảnh những hạn chế, bất cập của
pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam đều có chung nhận định về những
hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành. Đa số các nghiên cứu đều nhận định pháp
luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng được quy định và điều chỉnh bởi nhiều văn bản
quy phạm pháp luật khác nhau nên gặp khó khăn khi thực hiện, một số quy định
chưa theo kịp thực tiễn đang diễn ra nhanh chóng, chưa điều chỉnh kịp thời các quan
hệ xã hội phát sinh. Một số văn bản pháp luật đề cập đến mua lại, sáp nhập nhưng
khái niệm về mua lại, sáp nhập còn chưa thống nhất. Mỗi luật điều chỉnh hoạt động
mua lại, sáp nhập từ một góc độ khác nhau theo chức năng của ngành luật, trong
từng trường hợp cụ thể thì áp dụng luật nào cũng là vấn đề đặt ra cần quan tâm
nghiên cứu [86], [89], [110].
Các luật ban hành có liên quan điều chỉnh chủ yếu về hoạt động mua lại, sáp
nhập đối với doanh nghiệp, chưa đề cập đến trường hợp doanh nghiệp đặc biệt là
ngân hàng. Luật các TCTD là văn bản pháp lý cao nhất của ngành ngân hàng điều
chỉnh đối với các TCTD chưa quy định cụ thể về mua lại, sáp nhập, chỉ gọi chung là
tổ chức lại TCTD dưới hình thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình
thức pháp lý nhưng không có quy định cụ thể. Điều chỉnh trực tiếp hoạt động mua
lại, sáp nhập ngân hàng hiện tại là Thông tư 04/2010/TT-NHNN. Các quy định điều
chỉnh việc mua lại, sáp nhập ngân hàng chủ yếu hướng tới việc khuyến khích các
ngân hàng tự nguyện sáp nhập, hợp nhất, quy định những ngân hàng yếu kém phải
bị buộc mua lại, sáp nhập còn chưa đủ mức chế tài [89]. Thông tư 04/2010/TT-
NHNN chỉ đề cập các nội dung liên quan đến trình tự, thủ tục, điều kiện, hồ sơ sáp
nhập… Những nội dung quan trọng khác như định giá ngân hàng, cách thức phân
chia quyền và nghĩa vụ của các bên, các vấn đề về nhân sự, các vấn đề hậu sáp
nhập… không được đề cập trong Thông tư. Điều này dẫn đến tình trạng là đã có hành
lang pháp lý nhưng khó thực hiện bởi nhiều quy định còn chung và thiếu. Do đó nếu
muốn tiến hành mua lại, sáp nhập, các ngân hàng phải tự tìm hiểu, học hỏi kinh
nghiệm từ các thương vụ mua lại, sáp nhập ngân hàng đã thực hiện ở trong nước và
21
trên thế giới [56].
Thủ tục cho việc mua lại, sáp nhập hiện tại được cho là khá phức tạp và phải
được phép của nhiều cơ quan khác nhau. Ngoài ra, còn một số nhân tố cản trở tiến
trình thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng như đối tượng mua lại, sáp nhập còn
hẹp; hạn chế trong việc chuyển đổi doanh nghiệp sau mua lại, sáp nhập; các chế tài
liên quan đến các quy định đánh giá năng lực quản trị, năng lực tài chính đối với các
NHTM Việt Nam chưa nghiêm và chưa cao; định giá trong hoạt động mua lại, sáp
nhập ngân hàng rất khó do thiếu các kỹ thuật, kinh nghiệm cần thiết; thông tin liên
quan đến hoạt động mua lại, sáp nhập chưa thực sự minh bạch; vấn đề bảo mật; các
nghĩa vụ tài chính, người lao động, thương hiệu, cơ chế giải quyết tranh chấp chưa
được quy định cụ thể; thiếu các công ty môi giới và tư vấn chuyên nghiệp về mua
lại, sáp nhập; các quy định hiện hành về cách tính thị phần của TCTD còn chưa hợp
lý; các quy định về tập trung kinh tế giữa một NHTM và một TCTD phi ngân hàng
chưa cụ thể. Hiện còn tồn tại tình trạng không thống nhất về cơ sở tính toán mức độ
tập trung trong ngân hàng giữa Luật cạnh tranh và Nghị định hướng dẫn. Các quy
định về mua lại, sáp nhập hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc xác định hình thức của
giao dịch mà còn thiếu các quy định cụ thể để thực hiện. Hoạt động mua lại, sáp nhập
ngân hàng liên quan đến nhiều ban ngành nhưng còn chưa rõ quy trình tiếp nhận, xử
lý các NHTM yếu kém. Về quản lý hoạt động này, các tác giả cũng có chung nhận
định là văn bản pháp luật quy định nhiều cơ quan đang quản lý khác nhau như Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Công thương…[53], [56], [63].
Theo quy định của Luật các TCTD, NHNN có quyền góp vốn, mua cổ phần
bắt buộc của TCTD bị kiểm soát đặc biệt hoặc yêu cầu các TCTD sáp nhập, hợp
nhất bắt buộc nhằm bảo đảm an toàn hệ thống TCTD. Thông tư số 07/2013/TT-
NHNN ngày 14/3/2013 của NHNN quy định về việc kiểm soát đặc biệt đối với
TCTD đã tạo lập cơ chế để NHNN thực hiện vai trò của mình trong việc buộc các
TCTD sáp nhập, hợp nhất và bán cổ phần bắt buộc. Tuy nhiên, hiện nay Thông tư
04/2010/TT-NHNN của NHNN còn bỏ ngỏ nội dung mua lại, sáp nhập bắt buộc
TCTD. Các quy định pháp luật được cho là chưa đủ cơ sở pháp lý vững chắc để nhà
nước can thiệp, xử lý một số NHTM yếu kém thông qua mua lại, sáp nhập nhằm
tránh đổ vỡ hệ thống, ổn định kinh tế vĩ mô [59].
22
1.1.2.3. Các công trình nghiên cứu đề câp về quan điểm, phương hướng và
các giải pháp hoàn thiện pháp luât mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại
Quan điểm, phương hướng hoàn thiện pháp luật và các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam đã được một số nghiên cứu đề
xuất, kiến nghị. Về quan điểm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, có những đề xuất
cho rằng không để một ngân hàng nào rơi vào tình trạng đổ vỡ, ngoài tầm kiểm
soát; bảo đảm giữ vững sự an toàn, ổn định của hệ thống, đồng thời không gây tác
động tiêu cực đến sự ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự xã hội; trong
bất cứ trường hợp nào, quyền lợi người gửi tiền cũng được bảo vệ hoàn toàn; quá
trình chấn chỉnh, củng cố và cơ cấu lại hệ thống các TCTD hạn chế tới mức thấp
nhất tổn thất và chi phí của ngân sách nhà nước cho xử lý những vấn đề của hệ
thống các TCTD [7], [17], [97].
Quan điểm coi việc phá sản ngân hàng là chuyện bình thường như phá sản
doanh nghiệp đã được đặt ra [2], hay cần nhanh chóng sắp xếp các NHTM dựa trên
cơ sở tự nguyện theo hướng sáp nhập, hợp nhất, mua lại, thậm chí đóng cửa (loại bỏ),
nhưng có định hướng rõ ràng từ cơ quan quản lý nhà nước [98]. Cũng có những quan
điểm cho rằng đối với một lĩnh vực nhạy cảm và có tính lan truyền rộng như lĩnh vực
tiền tệ, ngân hàng thì việc phá sản ngân hàng sẽ để lại rất nhiều hệ lụy với một nền
kinh tế vốn phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng [83]. Theo Dziobek (1998), căn
cứ thông lệ quốc tế, việc đóng cửa các ngân hàng không có khả năng tồn tại một cách
có trật tự (đồng thời chi trả bảo hiểm tiền gửi hoặc bán phần hoạt động tốt cho ngân
hàng khác) là một trong những giải pháp được coi là ưu tiên hàng đầu để xử lý các
ngân hàng yếu kém, thanh lọc khỏi hệ thống [83]. Đối với quan điểm của nhóm
nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội thì các giải pháp
nhà nước hỗ trợ thanh khoản hoặc bỏ tiền ra cứu các ngân hàng yếu kém là không
khả thi, xét cả trên giác độ nguồn lực tài chính và rủi ro lợi ích nhóm. Do vậy, một
phương án cho phép các ngân hàng yếu kém “âm thầm” đóng cửa trên cơ sở bảo vệ
lợi ích của người gửi tiền sẽ tiết kiệm chi phí và tổn thất xã hội sẽ thấp nhất [83].
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam
được nhiều tác giả đề xuất cụ thể như cần hoàn thiện khái niệm liên quan đến hoạt
động mua lại, sáp nhập cho thống nhất và phù hợp với thông lệ quốc tế; quy định
hoạt động hợp nhất, sáp nhập, mua lại trong Luật các TCTD và Luật doanh nghiệp;
mở rộng đối tượng hợp nhất, sáp nhập và bổ sung hình thức tổ chức lại TCTD; quy
23
định vốn điều lệ thực tối thiểu; siết chặt điều kiện cần và đủ để thành lập ngân hàng;
thủ tục xử lý các giao dịch với người gửi tiền và người vay trước khi giao dịch mua
lại, sáp nhập được xác lập; công bố thông tin; tiêu chí sử dụng để tính thị phần của
các ngân hàng [56], [59], [60]...
Các vấn đề về nội dung của thương vụ mua lại, sáp nhập cần phải được quy
định đầy đủ hơn nữa như định giá doanh nghiệp, chuyển đổi tài sản, các vấn đề tài
chính, cổ phần, cổ phiếu, thuế, phí; trách nhiệm giữa các đối tượng tham gia hoạt
động và trách nhiệm của ngân hàng đối với quyền lợi của người lao động và cổ
đông… Cần xây dựng quy trình kiểm soát, xử lý khi ngân hàng đổ vỡ một cách bài
bản theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời xác định cơ
quan làm đầu mối, phân chia nhiệm vụ, sự phối hợp giữa các ban ngành. Có hướng
dẫn chi tiết về thủ tục sau mua lại, sáp nhập để bảo vệ quyền lợi của các cổ đông,
phí bảo hiểm tiền gửi, mức bảo hiểm... [63]. Có kiến cho rằng, các ngân hàng nhỏ,
yếu trong diện tự nguyện sáp nhập với nhau thì cần phải giám sát chặt chẽ để giải
quyết các vấn đề của hậu sáp nhập. Đối với các ngân hàng tiến hành mua lại, sáp
nhập để tăng vốn, cần phải xem xét các tiêu chuẩn về tỷ lệ an toàn theo quy định
Basel hơn là chú trọng đến việc tăng vốn điều lệ [18].
Trong quá trình nghiên cứu, trao đổi, có ý kiến cho rằng cần xây dựng khung
pháp lý chuyên biệt về mua lại, sáp nhập ngân hàng [89] hay để khẳng định được uy
tín trên thị trường quốc tế, Việt Nam cần xây dựng được một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, phù hợp với các cam kết quốc tế, trong đó có pháp luật về mua lại, sáp
nhập. Cần ban hành chính sách khuyến khích các ngân hàng chủ động hợp nhất, sáp
nhập thông qua các công cụ như ưu đãi về thuế, hỗ trợ tái cơ cấu vốn thông qua thị
trường liên ngân hàng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đồng thời bổ sung những quy
định trong Luật cạnh tranh [59]. Nhằm đảm bảo quyền kiểm soát của NHNN trong
việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại bắt buộc các TCTD yếu kém, Thông tư
04/2010/TT-NHNN cần được sửa đổi, bổ sung quy định thêm trường hợp mua lại,
sáp nhập bắt buộc, có sự giám sát của NHNN, thể hiện được quyền lực của NHNN
với vai trò là cơ quan quản lý chuyên ngành vừa là một bên tham gia vào quá trình
mua lại, sáp nhập bắt buộc đối với các TCTD yếu kém...
1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Nhìn tổng quan, các công trình nghiên cứu thu nhận được có liên quan mật
thiết hoặc liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận án đã cung cấp cơ sở lý
24
luận về mua lại, sáp nhập và pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung
và đối với NHTM nói riêng, làm cơ sở cho việc hệ thống hóa những vấn đề lý luận
liên quan đến đề tài luận án. Một số nghiên cứu đã giải quyết khái niệm về mua lại,
sáp nhập với sự phân tích, so sánh kỹ lưỡng, nghiên cứu công phu, chỉ ra các hình
thức mua lại, sáp nhập; các phương thức mua lại, sáp nhập; phân biệt sự khác nhau
của mua lại, sáp nhập; vai trò của mua lại, sáp nhập; các yếu tố và điều kiện thúc
đẩy hoạt động mua lại, sáp nhập chủ yếu ở cả góc độ kinh tế và pháp luật.
Một số nghiên cứu đề cập đến pháp luật về mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực
ngân hàng, kinh nghiệm của một số quốc gia trong vấn đề xử lý mua lại, sáp nhập
ngân hàng như nguồn lực, thời điểm công bố thông tin, xử lý nợ xấu, cấp vốn, đầu
tư vốn, mua lại vốn cổ phần... Theo pháp luật hiện hành, hoạt động mua lại, sáp
nhập được điều chỉnh dưới nhiều góc độ phù hợp với các quan hệ xã hội cần điều
chỉnh. Luật thực định đã được các tác giả phân tích, viện dẫn. Những quy định đặc
thù của pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, ngân hàng được trình bày, chỉ
ra được pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM có sự liên thông với các ngành luật
khác, chỉ ra bộ phận cấu thành của pháp luật và phân định thành các nhóm. Một số
nghiên cứu đã đánh giá thực trạng pháp luật về mua lại, sáp nhập và hợp nhất ngân
hàng như hình thức pháp lý của các văn bản pháp luật, nội dung điều chỉnh của
pháp luật hiện hành, đồng thời đưa ra những đánh giá, nhận xét, bình luận về vấn đề
nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật về
mua lại, sáp nhập như quy định và điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác
nhau, có sự chồng chéo của các văn bản pháp luật. Việc quy định phân tán và không
cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã làm doanh nghiệp nói chung và
NHTM nói riêng khó thực hiện khi tiến hành mua lại, sáp nhập. Một số văn bản
pháp luật đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như chưa đồng nhất về khái niệm, cách
tính thị phần của TCTD còn chưa hợp lý; còn nhiều vấn đề pháp lý liên quan trực
tiếp đến mua lại, sáp nhập ngân hàng chưa có quy định hoặc có nhưng chưa cụ thể,
khó áp dụng như tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục trong trường hợp mua lại,
sáp nhập bắt buộc, quy định về định giá, bảo mật, cung cấp thông tin, các nghĩa vụ
tài chính, người lao động, thương hiệu, cơ chế giải quyết tranh chấp, xử lý nợ xấu...
Các đề xuất, kiến nghị về quan điểm, phương hướng và các giải pháp hoàn thiện
pháp luật của các nghiên cứu có sự gắn kết với nội dung nghiên cứu, có sự lý giải
thấu đáo và có giá trị tham khảo nhất định để hoàn thiện pháp luật.
25
Qua việc nghiên cứu tổng quan, tác giả nhận thấy rằng đã có những công
trình nghiên cứu về pháp luật mua lại, hợp nhất, sáp nhập đối với NHTM. Tuy
nhiên, với những đặc thù riêng của NHTM và hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM
so với các loại hình doanh nghiệp khác, một số vấn đề cốt lõi về phương diện pháp
lý chưa được nghiên cứu, đó là: tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ
tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp
khi mua lại, sáp nhập. Bên cạnh đó là những vấn đề như định giá ngân hàng, thực
hiện lãi suất tiền gửi, lãi suất, phí cấp tín dụng, hợp đồng mua lại, sáp nhập, thực
hiện hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn... khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cũng
cần được nghiên cứu chuyên sâu. Từ các kết quả nghiên cứu đạt được, những nội
dung còn bỏ ngỏ và tranh luận, đặt ra những vấn đề để luận án kế thừa kết quả sử
dụng, đồng thời cần tiếp tục nghiên cứu độc lập những nội dung sau:
- Về lý luận, luận án sẽ kế thừa có chọn lọc một số kết quả nghiên cứu về
NHTM nhưng làm rõ các đặc điểm của NHTM do có liên quan mật thiết đến hoạt
động mua lại, sáp nhập và pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM; làm rõ và sâu sắc
hơn một số vấn đề lý luận cơ bản về mua lại, sáp nhập và pháp luật về mua lại, sáp
nhập đối với NHTM như là một đối tượng điều chỉnh của pháp luật về mua lại, sáp
nhập doanh nghiệp nói chung; làm rõ khái niệm, đặc điểm của mua lại, sáp nhập
NHTM, pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM; những nội dung lý luận của pháp
luật điều chỉnh chủ yếu xác định về tiêu chuẩn, điều kiện; trình tự, thủ tục; hệ quả
pháp lý và giải quyết tranh chấp khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM.
- Về thực tiễn, một số đánh giá thực trạng pháp luật, tình hình thực hiện pháp
luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và đối với NHTM ở Việt Nam
hiện nay được nghiên cứu sử dụng nhưng sẽ được lý giải bởi các vấn đề lý luận mà
luận án đã đặt ra đối với thực tiễn trong lĩnh vực này. Luận án sử dụng một số kết
quả nghiên cứu về thực trạng pháp luật để đi sâu phân tích và luận giải các quy định
của pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM, trong đó
tập trung vào các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện; trình tự, thủ tục; hệ quả pháp lý
và giải quyết tranh chấp khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM... Qua đây, tìm ra
những hạn chế, các nguyên nhân, phân tích các nguyên nhân của hạn chế, bất cập
của pháp luật hiện hành về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, NHTM, chỉ ra những
khoảng trống mà pháp luật cần giải quyết, từ đó làm cơ sở đề xuất, kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam.
26
- Luận án chọn lọc để sử dụng một số đề xuất, kiến nghị hợp lý về phương
hướng, các giải pháp hoàn thiện pháp luật trong các nghiên cứu đã thực hiện. Tuy
nhiên trên cơ sở nghiên cứu độc lập, luận án cần đưa ra được phương hướng, các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam, đáp ứng
các yêu cầu của: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hội nhập quốc
tế; hoàn thiện khung pháp lý về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và đối
với NHTM nói riêng; phục vụ tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng. Những giải pháp cụ thể cần khắc phục được các hạn chế, bất cập cơ bản của
pháp luật hiện hành, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, nhất là trong tiến trình tái
cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
a) Lý thuyết nghiên cứu:
Một số lý thuyết được sử dụng trong luận án như sau:
+ Lý thuyết về phát triển NHTM;
+ Lý thuyết về tổ chức và hoạt động của NHTM trên cơ sở lý thuyết chung
về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp;
+ Lý thuyết về hiệu quả trong hoạt động của TCTD;
+ Lý thuyết về M&A doanh nghiệp;
b) Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu:
Để giải quyết đề tài luận án, các câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
được đặt ra như sau:
Thứ nhất, về lý luận:
Câu hỏi nghiên cứu: Mua lại và sáp nhập NHTM, pháp luật về mua lại, sáp
nhập NHTM được hiểu như thế nào, có những đặc điểm ra sao? Bản chất pháp lý
của mua lại, sáp nhập NHTM có tác động chi phối thế nào đến cơ chế điều chỉnh
pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM? Vì sao cần có điều chỉnh riêng đối với hoạt
động mua lại, sáp nhập NHTM? Khi nào thì nhà nước có quyền can thiệp thông qua
bắt buộc mua lại, sáp nhập NHTM? Khung pháp lý về mua lại, sáp nhập NHTM
được xây dựng trên cơ sở lý luận nào?
Giả thuyết nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận chung về mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp để giải quyết những vấn đề lý luận đối với mua lại, sáp nhập NHTM và pháp
luật về mua lại, sáp nhập NHTM. NHTM có những đặc điểm riêng so với các loại
27
hình doanh nghiệp khác nên mua lại, sáp nhập NHTM và pháp luật về mua lại, sáp
nhập NHTM cũng có những điểm đặc thù riêng biệt. Bản chất pháp lý khi mua lại,
sáp nhập NHTM có tác động chi phối đến cơ chế điều chỉnh pháp luật về mua lại,
sáp nhập NHTM, nhất là trong quan hệ tiền gửi để bảo vệ người gửi tiền. Do vai trò
đặc biệt quan trọng của NHTM đối với nền kinh tế, trong một số trường hợp nhà
nước có quyền mua lại, sáp nhập bắt buộc đối với NHTM yếu kém để đảm bảo an
toàn hệ thống ngân hàng, giữ vững trật tự xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô. Khung pháp
lý về mua lại, sáp nhập NHTM được xây dựng trên cơ sở khung pháp lý về mua lại,
sáp nhập đối với doanh nghiệp và những điều chỉnh riêng biệt đối với NHTM.
Kết quả nghiên cứu (dự kiến) về mặt lý luân: Kết quả nghiên cứu lý thuyết đưa
ra cách hiểu thống nhất về mua lại, sáp nhập NHTM và pháp luật về mua lại, sáp
nhập NHTM; làm rõ được bản chất pháp lý của hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM
và sự tác động, chi phối đến cơ chế điều chỉnh pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM;
phân tích, làm rõ được những đặc trưng của NHTM, mua lại, sáp nhập NHTM và
pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM, cơ sở lý luận để điều chỉnh riêng bằng pháp
luật đối với hoạt động mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực NHTM; phân tích, làm rõ cơ
sở lý luận để nhà nước có quyền can thiệp thông qua bắt buộc mua lại, sáp nhập
NHTM; xây dựng được khung pháp lý về mua lại, sáp nhập NHTM.
Thứ hai, về thực tiễn:
Câu hỏi nghiên cứu: Thực trạng pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp, NHTM và thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt
Nam hiện nay như thế nào? Các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện; trình tự, thủ tục;
hệ quả pháp lý; giải quyết tranh chấp khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cụ thể
là gì? áp dụng, vận dụng trong trường hợp thực hiện tự nguyện hay bắt buộc có gì
khác nhau? Đã có khung pháp lý để nhà nước có quyền can thiệp, xử lý NHTM yếu
kém thông qua bắt buộc mua lại, sáp nhập hay chưa? Những hạn chế, bất cập của
pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam và nguyên nhân của những hạn
chế bất cập là gì?
Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật về mua lại, sáp nhập đối với doanh nghiệp
nói chung và trong lĩnh vực NHTM ở Việt Nam đã được hình thành, tạo cơ sở pháp
lý để điều chỉnh hoạt hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM. Tuy nhiên pháp luật
trong lĩnh vực này còn chưa đầy đủ, đồng bộ và chưa được hệ thống hóa, còn có
những hạn chế, bất cập như một số vấn đề pháp lý liên quan trực tiếp đến mua lại,
28
sáp nhập ngân hàng chưa có hoặc chưa quy định cụ thể, chưa theo kịp thực tiễn, còn
có những khoảng trống pháp lý chưa được điều chỉnh, chưa có cơ sở pháp lý vững
chắc để nhà nước can thiệp thông qua bắt buộc mua lại, sáp nhập NHTM yếu kém.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập này do pháp luật còn chưa đồng bộ, thống
nhất, nhiều văn bản, quy định đã lạc hậu nhưng chậm được sửa đổi, thay thế, chưa
theo kịp quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Kết quả nghiên cứu (dự kiến) về mặt thực tiễn: Đánh giá đúng đắn thực trạng
pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, NHTM và thực tiễn thực hiện pháp
luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam hiện nay; chỉ ra được những ưu điểm,
hạn chế, bất cập của pháp luật và việc thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập đối
với NHTM; phân tích, đánh giá việc áp dụng, vận dụng pháp luật hiện hành trong
trường hợp thực hiện tự nguyện hay bắt buộc, trong trường hợp nhà nước can thiệp,
xử lý NHTM yếu kém thông qua bắt buộc mua lại, sáp nhập; làm rõ được nguyên
nhân của những hạn chế, bất cập đó.
Thứ ba, về phương hướng, giải pháp và đề xuất, kiến nghị:
Câu hỏi nghiên cứu: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp
nhập NHTM hiện nay như thế nào? Những giải pháp cụ thể khắc phục hạn chế, bất
cập của pháp luật về mua lại sáp nhập NHTM để các NHTM thực hiện hoạt động
kinh doanh thuận lợi trong khung khổ pháp luật, đáp ứng thể chế kinh tế thị trường,
đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, phục vụ mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc
ngân hàng, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế?
Giả thuyết nghiên cứu là: Hiện nay đã có những phương hướng, giải pháp,
đề xuất, kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt
Nam. Tuy nhiên những phương hướng, giải pháp, đề xuất, kiến nghị này cần được
tiếp tục nghiên cứu, bổ sung trên cơ sở lý luận sắc bén, bằng chứng thực tiễn đầy đủ
để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này một cách đồng bộ, thống nhất, minh
bạch, hiệu quả, khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành.
Kết quả nghiên cứu (dự kiến): Đưa ra được phương hướng và những giải
pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam có tính khả thi,
bảo đảm tính công khai, minh bạch, đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện
hành và phù hợp với các cam kết quốc tế. Các giải pháp cụ thể sẽ khắc phục được
những tồn tại, hạn chế của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM hiện nay; hoàn
thiện khung pháp lý điều chỉnh mua lại, sáp nhập NHTM cũng như cơ sở pháp lý để
29
nhà nước có quyền xử lý, can thiệp đối với NHTM yếu kém thông qua buộc mua
lại, sáp nhập, đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cấu trúc hệ
thống NHTM nói riêng.
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM liên quan đến nhiều ngành khoa học ,
nhiều ngành luật khác nhau. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu luận án, tác giả sử
dụng phương pháp tiếp cận đa ngành và liên ngành. Để giải quyết tốt các nội dung
của nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
- Phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp, phân tích, thống kê: Thông qua các
phương pháp này, các thông tin đơn lẻ sẽ được tổng hợp, hệ thống hóa và xâu chuỗi
thành các nhóm vấn đề, được phân tích, khái quát hóa thành các luận điểm về tình
hình nghiên cứu, xây dựng khung lý thuyết, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn
thực hiện pháp luật. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở các chương 1, 2 và 3.
- Phương pháp luật so sánh: Sử dụng phương pháp này để xây dựng các khái
niệm, phân tích các quy định pháp luật, tình hình thực hiện pháp luật và các nội
dung khác theo yêu cầu luận án. Phương pháp này được sử dụng trong chương 2, 3.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Thông qua nghiên cứu một số trường
hợp NHTM đã thực hiện mua lại, sáp nhập để góp phần đánh giá thực trạng pháp
luật, thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam. Phương
pháp này được sử dụng trong chương 3.
- Phương pháp thống kê, điều tra xã hội học: Sử dụng số liệu thống kê kết
hợp thu thập thông tin từ các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia nhằm cung cấp
luận cứ cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Phương pháp này được sử dụng
trong chương 3, 4.
- Phương pháp xử lý, phân tích thông tin, dữ liệu: Sử dụng phần mềm
EndNote để tạo cơ sở dữ liệu thư mục phục vụ nghiên cứu tổng quan và nghiên cứu
chi tiết trong đề tài luận án.
Ngoài ra, phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu của đề tài luận án
được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng
về công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà
nước theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền.
30
Kết luận chương 1
1. Mua lại, sáp nhập đã trở thành xu thế phổ biến ở nhiều quốc gia, trong đó
có Việt Nam, diễn ra trên nhiều lĩnh vực như bất động sản, xây dựng, hàng tiêu
dùng, tài chính, ngân hàng. Để thực hiện chiến lược phát triển hay giải quyết các
vấn đề bất ổn của doanh nghiệp, mua lại và sáp nhập cùng với một số cơ chế khác là
những biện pháp hữu ích, cần thiết giúp doanh nghiệp thực hiện chiến lược đầu tư,
kinh doanh. Thông qua hoạt động mua lại, sáp nhập, các tổ chức, cá nhân thực hiện
quyền tự do kinh doanh, tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm
về kết quả kinh doanh của mình.
2. Trong thời gian qua, nhiều công trình nghiên cứu về mua lại, sáp nhập,
pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và đối với ngân hàng thương
mại nói riêng đã được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước dành
sự quan tâm thực hiện. Các công trình nghiên cứu này đã có nhiều đóng góp về mặt
lý luận và thực tiễn, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của pháp luật, giúp cho việc xây
dựng, hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp và trong lĩnh vực
mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại, có thể tham khảo, kế thừa có chọn lọc
trong quá trình nghiên cứu tiếp theo.
3. Trên cơ sở thực trạng và kết quả của các nghiên cứu đã thực hiện, với
những đặc thù riêng của NHTM và hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM so với các
loại hình doanh nghiệp khác, việc thực hiện nghiên cứu pháp luật về mua lại, sáp
nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam trên các phương diện pháp lý là tiêu chuẩn,
điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi
mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập góp phần giải quyết
những vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn, phục vụ tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc
hệ thống ngân hàng, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, tài chính, tiền tệ của
quốc gia. Ngoài ra còn nhiều vấn đề khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cũng
cần được nghiên cứu chuyên sâu
4. Luận án được triển khai dựa trên hệ thống cơ sở lý thuyết với những câu
hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu cụ thể được đặt ra. Các phương pháp
nghiên cứu được lựa chọn phù hợp với từng nội dung nghiên cứu, từng nhiệm vụ
nghiên cứu để đạt được mục tiêu của đề tài luận án.
31
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ MUA LAI VÀ SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MUA LAI, SÁP NHẬP VÀ PHÁP LUẬT
VỀ MUA LAI, SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP
2.1.1. Mua lại, sáp nhập doanh nghiệp
2.1.1.1. Quan niệm về mua lại, sáp nhâp doanh nghiệp
Thuật ngữ Mergers and Acquisitions (M&A) ngày càng trở nên thông dụng
và được sử dụng rộng rãi ở quốc tế. Ở Việt Nam, ngoài việc được dịch là “sáp nhập
và mua lại”, Merger and Acquisition còn được dịch là “mua lại và sáp nhập”, “mua
bán và sáp nhập” hay “thâu tóm và hợp nhất” để chỉ hoạt động kinh doanh và quản
trị rất phổ biến ở các nền kinh tế phát triển [42, tr.23]. Các nhà kinh tế và luật học
xem xét M&A dưới hai góc độ chủ yếu: góc độ kinh tế như là một vấn đề của quản
trị chiến lược công ty, tài chính doanh nghiệp và góc độ pháp lý như là đối tượng
của khung pháp lý để thực hiện giao dịch M&A.
Trong nghiên cứu của mình, David L.Scott định nghĩa sáp nhập là sự kết
hợp của hai hay nhiều công ty, trong đó có tài sản và trách nhiệm pháp lý của
(những) công ty được công ty khác tiếp nhận; mua lại là quá trình mua lại tài sản
như máy móc một bộ phận hay thậm chí toàn toàn bộ công ty [128]. Andrew J.
Sherman cho rằng sáp nhập là sự kết hợp giữa hai hay nhiều công ty mà qua đó tài
sản và nghĩa vụ của công ty bán được chuyển giao sang công ty mua. Mặc dù có
sự thay đổi về cấu trúc tổ chức nhưng công ty mua vẫn giữ được bản sắc ban đầu
sau cuộc sáp nhập. Thâu tóm/mua lại là việc mua lại một tài sản, ví dụ như một
nhà máy, một chi nhánh hoặc thậm chí cả một công ty nhằm mở rộng thị trường
và đa dạng hóa sản phẩm [124].
Quy định số 139/2004 ngày 20/01/2004 về sáp nhập của Cộng đồng Châu Âu
đã định nghĩa sáp nhập như sau: (i) Sự sáp nhập giữa hai pháp nhân độc lập hoặc
hai bộ phận của hai pháp nhân; hoặc (ii) Thâu tóm quyền kiểm soát trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua việc mua lại chứng khoán hoặc tài sản của một công ty khác;
hoặc (iii) Tạo ra một liên doanh mới [59, tr.14]. Quy chế về sáp nhập này là văn bản
có hiệu lực pháp lý cao hơn pháp luật của từng quốc gia phê chuẩn.
Ở Việt Nam, Luật cạnh tranh (2004) quy định sáp nhâp doanh nghiệp là việc
32
một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp bị sáp nhâp; mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua
toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối
toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Luật doanh nghiệp
(2014) quy định về việc tổ chức lại doanh nghiệp với hình thức sáp nhập doanh
nghiệp là một hoặc một số công ty có thể sáp nhâp và một công ty khác bằng cách
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhân sáp
nhâp, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhâp.
Dù được định nghĩa và tiếp cận khác nhau nhưng điểm chung trong quan
niệm về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp là quyền sở hữu tài sản, các lợi ích hợp
pháp, nghĩa vụ cùng hệ quả pháp lý của việc mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Từ
đây quan niệm về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp có thể hiểu như sau:
Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần
tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành
nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Bên mua lại có quyền sở hữu toàn bộ hoặc một
phần doanh nghiệp và kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được mua
lại, đồng thời kế thừa các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp tương ứng với việc
mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp bị mua lại.
Sáp nhâp doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp
khác và chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập. Doanh nghiệp nhận sáp
nhập sẽ kế thừa các quyền, lợi ích hợp pháp, đồng thời chịu trách nhiệm về các
nghĩa vụ và cam kết của doanh nghiệp bị sáp nhập.
2.1.1.2. Đặc điểm của mua lại, sáp nhâp doanh nghiệp
Mặc dù chưa có một khái niệm thống nhất về M&A nhưng từ các khái niệm
nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy được sự đa dạng trong nhận thức và quan niệm
của giới học thuật, luật gia và doanh nghiệp về mua lại, sáp nhập. Nhìn chung mua
lại, sáp nhập doanh nghiệp có một số đặc điểm như sau:
Một là, đối tượng của hoạt động mua lại, sáp nhâp là tài sản, quyền và lợi
ích hợp pháp của doanh nghiệp mục tiêu.
Mục tiêu của hoạt động mua lại, sáp nhập nhằm kiểm soát, chi phối doanh
33
nghiệp. Thông qua việc mua, tiếp nhận tài sản của doanh nghiệp sẽ phát sinh nhiều
quan hệ xã hội gắn với doanh nghiệp cả bên mua lại và bên nhận sáp nhập như quan
hệ giữa chủ sở hữu doanh nghiệp với người lao động, với bên thứ ba; các nghĩa vụ
nợ của doanh nghiệp đối với các khoản vay dưới mọi hình thức; các nghĩa vụ thuế
đối với nhà nước; trách nhiệm tuân thủ pháp luật về sở hữu trí tuệ đối với quyền tài
sản, quyền sở hữu công nghiệp và các quyền sở hữu khác do công ty đang sở hữu,
quản lý... Vì vậy, quyền sở hữu tài sản luôn gắn các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp mục tiêu để trở thành đối tượng mua lại, sáp nhập.
Hai là, thực hiện hoạt động mua lại, sáp nhâp theo nguyên tắc tự nguyện,
đáp ứng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể.
Trong quan hệ mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, các bên tự nguyện thực hiện
mua lại, sáp nhập nhằm đáp ứng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể theo quy
định. Doanh nghiệp có quyền kinh doanh những ngành, nghề mà pháp luật không
cấm, trong khi mua lại, sáp nhập là một trong những phương thức mà các chủ thể
thực hiện khi đầu tư, kinh doanh, thể hiện ý chí của các bên về quyền tự do kinh
doanh. Trong nền kinh tế thị trường, việc thừa nhận và đảm bảo quyền tự do kinh
doanh là cơ sở hình thành môi trường cạnh tranh cho từng lĩnh vực kinh tế cụ thể
hoặc cho toàn bộ nền kinh tế. Bất kỳ yếu tố nào làm hạn chế quyền tự do kinh
doanh đều có thể là nguyên nhân tạo nên những khiếm khuyết về cạnh tranh cho thị
trường. Tuy nhiên, quyền tự do kinh doanh nói chung và thực hiện mua lại, sáp
nhập doanh nghiệp nói riêng phải theo quy định của pháp luật.
Ba là, tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhâp được đặt ra đối với một số
loại hình doanh nghiệp.
Tùy theo tính chất và loại hình doanh nghiệp cụ thể mà việc thành lập, hoạt
động và tổ chức lại doanh nghiệp có những quy định riêng biệt. Thông thường, các
doanh nghiệp có mức độ ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội,
kinh tế, xã hội, sức khỏe của cộng đồng thì quy định về việc thành lập, hoạt động và
tổ chức lại doanh nghiệp sẽ có những điều kiện cụ thể và chặt chẽ hơn các doanh
nghiệp khác. Chính vì vậy, khi thực hiện mua lại, sáp nhập thì tiêu chuẩn, điều kiện
có thể được đặt ra với một số loại hình doanh nghiệp cụ thể. Các bên trong quan hệ
mua lại, sáp nhập phải đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện này mới được cơ quan
quản lý có thẩm quyền cho phép thực hiện.
34
Bốn là, khi thực hiện mua lại, sáp nhâp phải tuân theo những trình tự, thủ
tục nhất định.
Trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập là một trong những nội dung quan trọng
của điều kiện khung pháp lý về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Khi thực hiện mua
lại, sáp nhập, các bên trong quan hệ mua lại, sáp nhập phải tuân theo những trình tự,
thủ tục nhất định và trong một số trường hợp phải được sự cho phép, thừa nhận,
kiểm soát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi thực hiện mua lại, sáp nhập,
các bên phải tiến hành những thủ tục theo quy định của pháp luật cạnh tranh về
hành vi tập trung kinh tế; về đăng ký kinh doanh; thay đổi quyền sở hữu tài sản và
các thay đổi khác. Trên cơ sở thực hiện các yêu cầu về trình tự, thủ tục, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ cho phép, thừa nhận hay kiểm soát các thương vụ mua lại,
sáp nhập theo quy định của pháp luật.
Năm là, phát sinh những hệ quả pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhâp.
Khi thực hiện mua lại một phần hay toàn bộ tài sản của doanh nghiệp khác,
hệ quả pháp lý của hoạt động mua lại là khác nhau; doanh nghiệp bị mua lại có thể
trở thành hay không là công ty trực thuộc của doanh nghiệp mua lại. Tùy theo việc
mua lại một phần hay toàn bộ mà doanh nghiệp mua lại sẽ kế thừa một phần hay
toàn bộ quyền, lợi ích và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp bị mua lại. Doanh
nghiệp bị mua lại không trở thành công ty trực thuộc của doanh nghiệp mua lại nếu
chỉ mua lại một phần hoặc có thể nhập thành doanh nghiệp con hay vẫn để doanh
nghiệp đó tồn tại độc lập khi mua lại toàn bộ. Hệ quả pháp lý khi sáp nhập doanh
nghiệp là việc chấm dứt pháp nhân đối với doanh nghiệp bị sáp nhập. Về mặt pháp
lý, doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ tiếp nhận, kế thừa toàn bộ quyền, lợi ích hợp
pháp và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Bên cạnh một số đặc điểm chung về mua lại và sáp nhập, có một số điểm
chính để phân biệt mua lại và sáp nhập như sau:
Thứ nhất, đối với giao dịch sáp nhập, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp bị sáp
nhập sẽ được chuyển cho doanh nghiệp nhận sáp nhập, trong khi đối với mua lại,
không nhất thiết toàn bộ mà có thể chỉ là một phần tài sản của doanh nghiệp bị mua
lại phải gộp chung với tài sản của doanh nghiệp mua lại.
Thứ hai, khi thực hiện sáp nhập, doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ chấm dứt tồn
tại; doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ tiếp nhận toàn bộ các quyền, lợi ích hợp pháp và
nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập. Khi thực hiện mua lại, doanh nghiệp mua
35
lại sẽ tiếp nhận các quyền, lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm các nghĩa vụ tương
ứng với một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp bị mua lại.
Thứ ba, khi thực hiện sáp nhập, doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ phát hành cổ
phiếu mới để hoán đổi, trong khi thực hiện mua lại không có sự trao đổi cổ phiếu
mà cổ phiếu của doanh nghiệp mua lại vẫn được giao dịch bình thường.
Thứ tư, trong một giao dịch sáp nhập, quá trình thương lượng, đàm phán giữa
các bên thường được thực hiện. Còn trong giao dịch mua lại, quá trình thương
lượng không nhất thiết phải có. Một thương vụ được coi là sáp nhập hay mua lại
phụ thuộc vào việc thương vụ đó có được diễn ra một cách thân thiện hay thù địch.
2.1.1.3. Các phương thức mua lại, sáp nhâp doanh nghiệp
Tùy thuộc vào mục tiêu, cấu trúc sở hữu, đặc điểm quản trị, văn hóa công ty
sẽ có cách thức thực hiện mua lại, sáp nhập chủ yếu như sau:
- Phương thức thương lượng: Khi các bên tham gia mua lại, sáp nhập nhận
thấy sẽ đạt được lợi ích chung thì phương thức thương lượng có thể được sử dụng,
ban lãnh đạo của các bên sẽ ngồi lại với nhau để thực hiện đàm phán.
- Phương thức thu gom cổ phiếu: Một doanh nghiệp có ý định thâu tóm một
doanh nghiệp khác sẽ thu gom dần cổ phiếu của doanh nghiệp mục tiêu thông qua
các giao dịch trên thị trường chứng khoán, hoặc doanh nghiệp sẽ đàm phán để mua
lại của các cổ đông chiến lược.
- Phương thức chào mua công khai cổ phiếu trên thị trường chứng khoán:
Khi một doanh nghiệp hay nhà đầu tư muốn mua lại doanh nghiệp mục tiêu thì họ
sẽ chính thức làm giá để mua lại cổ phiếu của doanh nghiệp đó. Thông thường mức
giá chào mua sẽ cao hơn giá thị trường tại thời điểm đàm phán giao dịch.
- Phương thức lôi kéo cổ đông bất mãn: Đây là phương thức để thâu tóm
doanh nghiệp với hình thức không tự nguyện. Sử dụng phương thức này nhằm lôi kéo
cổ đông bất mãn để tập hợp cổ đông đủ điều kiện tổ chức đại hội cổ đông theo quy
định, nắm giữ quyền kiểm soát nhằm thay thế một số vị trí chủ chốt trong ban lãnh
đạo cũ hoặc có thể trực tiếp tham gia hội đồng quản trị, ban điều hành doanh nghiệp.
- Phương thức mua lại tài sản: Mua lại tài sản khi doanh nghiệp thông qua
một tổ chức độc lập hoặc dựa vào việc doanh nghiệp tự định giá theo phương thức
riêng của mình để tiến hành thẩm định giá trị tài sản cần mua. Bên mua lại có thể
mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp bán. Phần bán đi có thể là tài
sản hữu hình hoặc vô hình được tách ra khỏi doanh nghiệp bán [121, tr.14-16].
36
2.1.2. Pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp
2.1.2.1. Khái niệm pháp luât về mua lại, sáp nhâp doanh nghiệp
Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, pháp luật là hệ thống các quy
tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị trong xã hội, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội [23, tr.42]. Khi thực
hiện mua lại, sáp nhập, có nhiều quan hệ xã hội phát sinh cần được pháp luật điều
chỉnh. Xem xét hành vi mua lại, sáp nhập dưới mỗi góc độ khác nhau thì hoạt động
mua lại, sáp nhập sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp luật phù hợp với quan hệ xã hội
cần điều chỉnh.
Ở Nhật Bản, pháp luật điều chỉnh về hợp nhất, sáp nhập và mua lại công ty
bao gồm những bộ luật, luật cơ bản như Bộ luật thương mại, Luật chứng khoán và
thị trường chứng khoán, Luật chống độc quyền tư nhân và duy trì cạnh tranh lành
mạnh, Luật về ngoại hối và ngoại thương. Còn ở Cộng hòa Liên bang Đức, hoạt
động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Bộ luật thương mại,
Luật sáp nhập và mua bán cổ phần chi phối trên thị trường chứng khoán, Luật
chống hạn chế cạnh tranh, Luật công ty cổ phần... Là một quốc gia thành viên của
Liên minh châu Âu, pháp luật của Đức còn phải đảm bảo sự hài hòa với các quy
định của Liên minh châu Âu về mua bán doanh nghiệp [1, tr.49]. Pháp luật
Singapore điều chỉnh về mua lại, hợp nhất, sáp nhập và bởi nhiều quy định của Luật
công ty. Singapore không có luật chống độc quyền, nhưng trong một số ngành như
viễn thông, bưu chính, ngành dịch vụ công có những quy định về chống độc quyền.
Ngoài ra, khi mua lại, hợp nhất, sáp nhập còn chịu sự điều chỉnh hoặc liên quan đến
pháp luật về lao động, thuế, sở hữu trí tuệ... [59, tr. 71-74].
Ở Việt Nam, điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập được quy định tại nhiều
văn bản pháp luật. Pháp luật về dân sự, thương mại liên quan đến các quy định điều
chỉnh hợp đồng mua lại, sáp nhập; pháp luật doanh nghiệp quy định sáp nhập như là
hình thức tổ chức lại doanh nghiệp; pháp luật cạnh tranh quy định mua lại, sáp nhập
như là hình thức tập trung kinh tế thuộc nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh; pháp
luật về sở hữu trí tuệ quy định đối với quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và
các quyền khác khi thực hiện mua lại, sáp nhập buộc phải tuân thủ; pháp luật về tài
chính điều tiết việc xây dựng phương án chuyển giao tài sản, tài chính, thuế; pháp
luật về lao động quy định đối với việc xây dựng phương án sử dụng lao động khi mua
lại, sáp nhập... Ngoài ra, hoạt động mua lại, sáp nhập còn phải tuân theo các thoả
37
thuận, hiệp ước song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết hay tham gia.
Từ những lập luận và tìm hiểu pháp luật của một số quốc gia nêu trên, pháp
luât về mua lại, sáp nhâp doanh nghiệp được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp
luât thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhâp
doanh nghiệp.
2.1.2.2. Nội dung pháp luât về mua lại, sáp nhâp doanh nghiệp
Pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp cần đáp ứng vai trò là điều kiện
khung pháp lý để một giao dịch mua lại, sáp nhập được diễn ra trên thực tế và an
toàn. Theo đó, pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp bao gồm các nội dung
chính sau đây:
Thứ nhất, xác định nguyên tắc pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhâp. Để
đạt được những mục tiêu quản lý của nhà nước và đáp ứng quyền tự do kinh doanh
của tổ chức và cá nhân, pháp luật đề ra những nguyên tắc pháp lý cho quá trình mua
lại, sáp nhập. Các nguyên tắc chính được xác định bao gồm: nguyên tắc tự nguyện;
nguyên tắc thỏa thuận; nguyên tắc bảo vệ người lao động, khách hàng; nguyên tắc
bảo mật thông tin; nguyên tắc cung cấp thông tin.
Thứ hai, xác định tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhâp. Tùy thuộc vào
những ngành nghề mà pháp luật quy định về điều kiện kinh doanh. Doanh nghiệp
chỉ được phép kinh doanh khi đáp ứng những điều kiện này và phải bảo đảm duy trì
những điều kiện đó trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Từ những yêu cầu
về quản lý kinh tế, xã hội và những ngành, nghề cụ thể mà pháp luật đặt ra những
tiêu chuẩn, điều kiện khi mua lại, sáp nhập. Trên thực tế, một số ngành nghề được
quy định về tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập rất ngặt nghèo như trong lĩnh
vực chứng khoán, ngân hàng.
Thứ ba, xác định trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhâp. Khi mua lại, sáp nhập,
các bên phải thực hiện các trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập do pháp luật quy định.
Từ góc độ điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh, doanh nghiệp và pháp luật khác có
liên quan thì phải tuân theo quy định về các thủ tục như kiểm soát tập trung kinh tế,
thông qua quyết định mua lại, sáp nhập, đăng ký chuyển quyền sở hữu tài sản, đăng
ký kinh doanh...
Thứ tư, xác định hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhâp. Khi các sự kiện pháp
lý xảy ra có thể để lại những hệ quả pháp lý và việc giải quyết các hệ quả đó được
38
dựa theo các căn cứ pháp luật. Hệ quả pháp lý có thể phát sinh hoặc không làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xảy ra sự kiện
pháp lý. Khi thực hiện giao dịch mua lại, sáp nhập, pháp luật xác định tư cách pháp
lý của doanh nghiệp sau khi mua lại, sáp nhập; xác định trách nhiệm pháp lý về tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên thực hiện mua lại, sáp nhập và
các nội dung khác có liên quan.
Thứ năm, xác định giải quyết tranh chấp phát sinh khi mua lại, sáp nhâp.
Các tranh chấp phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập được hiểu là sự bất đồng,
mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Khi thực hiện
mua lại, sáp nhập, nhiều nội dung có thể phát sinh tranh chấp, khiếu kiện liên quan
đến việc chuyển giao tài sản, tài chính, sử dụng thương hiệu, sử dụng lao động...
Ngoài việc xác định, nhận diện những nội dung tranh chấp để đưa ra những quy
định giải quyết tranh chấp, pháp luật còn xác định cơ chế để giải quyết tranh chấp
giữa các bên.
Bên cạnh việc xác định các nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật về
mua lại, sáp nhập đối với doanh nghiệp, pháp luật cũng quy định việc định giá
doanh nghiệp, sở hữu trí tuệ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động, chuyển giao quyền sở hữu... khi thực hiện mua lại, sáp nhập.
2.2. PHÁP LUẬT VỀ MUA LAI, SÁP NHẬP NGÂN HÀNG
THƯƠNG MAI
2.2.1. Mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
2.2.1.1. Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại được biết đến như một định chế tài chính mà đặc
trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền
gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán, ngoài ra còn có nhiều dịch vụ
khác nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. Trong nghiên
cứu của mình, Peter. S. Rose (2000) định nghĩa: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất
so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [136, tr.7]. Theo Ngân
hàng thế giới, ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu dưới dạng không
kỳ hạn hoặc tiền gửi được rút ra với một thông báo ngắn hạn (tiền gửi không kỳ
hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm) [50]. Luật các TCTD Việt Nam năm 2010
39
quy định NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu
lợi nhuận. Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một
hoặc một số các nghiệp vụ nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán
qua tài khoản.
Từ những quan niệm trên, NHTM được hiểu một cách khái quát như sau:
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, được
thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng với nghiệp vụ thường xuyên là nhân tiền
gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản cho khách hàng
nhằm mục tiêu lợi nhuân.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với một số đặc
điểm rõ nét để nhận diện. Những đặc điểm của NHTM đó là:
Thứ nhất, hoạt động ngân hàng có những đặc thù mà các lĩnh vực sản xuất
kinh doanh thông thường không có, đó là được nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung
ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản liên quan đến lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng cho
khách hàng. Không một định chế tài chính nào ngoài NHTM có thể nhận tiền gửi từ
các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Những hoạt động ngân hàng, trực tiếp
hoặc gián tiếp, đều liên quan đến tiền tệ. Điều này làm cho hoạt động ngân hàng
không giống với những hoạt động kinh doanh khác.
Thứ hai, khác với doanh nghiệp thông thường, hoạt động của NHTM được
kiểm soát nghiêm ngặt và các quốc gia đều xây dựng cơ sở pháp lý chặt chẽ để các
chủ thể ngân hàng, các bên liên quan có cơ sở pháp lý thực hiện hoạt động ngân
hàng và buộc phải thực hiện trong khung pháp lý đó, đồng thời để nhà nước có cơ
sở can thiệp đối với NHTM nhằm không xảy ra đổ vỡ, mất an toàn hệ thống. Các
doanh nghiệp thông thường có thể phá sản nhưng chỉ một ngân hàng đổ vỡ thì hậu
quả sẽ rất nặng nề, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình chính trị, kinh tế,
xã hội của quốc gia mà trực tiếp là đến quyền, lợi ích hợp pháp của người gửi tiền
và các bên có liên quan. Do những hậu quả to lớn như vậy, nhiều quốc gia thậm chí
còn không cho phép NHTM được sụp đổ. Việc kiểm soát khắt khe hoạt động kinh
doanh của ngân hàng cũng như thiết lập một khung pháp lý chặt chẽ cho hoạt động
ngân hàng so với doanh nghiệp thông thường chủ yếu để bảo vệ lợi ích của toàn xã
hội, trong đó có quyền lợi của người gửi tiền.
Thứ ba, hoạt động ngân hàng được yêu cầu phải liên tục, ổn định cao nhất so
40
với các loại hình doanh nghiệp khác. Hàng ngày hoạt động NHTM liên quan đến rất
nhiều khách hàng, vì thế việc ngân hàng gián đoạn hoạt động kinh doanh mà không
công bố thông tin kịp thời theo quy định đều dẫn đến việc khách hàng lầm tưởng
hoạt động ngân hàng đang có vấn đề, gây tâm lý tiêu cực đối với khách hàng và có
thể mang lại những rủi ro to lớn cho ngân hàng và cả nền kinh tế. Trong mọi trường
hợp trừ nguyên nhân bất khả kháng, ngân hàng không được tự ý ngừng hoạt động
kinh doanh nếu không công bố thông tin theo quy định hoặc ngừng hoạt động kinh
doanh quá thời gian quy định.
Thứ tư, hoạt động kinh doanh của NHTM tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao hơn so
với các loại hình kinh doanh khác. Với quyền nhận tiền gửi không hạn chế về số
lượng, ngân hàng luôn trong trạng thái vừa là chủ nợ, vừa có nghĩa vụ trả nợ, do
đó sẽ phải chịu áp lực lớn từ khả năng rút tiền hàng loạt của người gửi tiền. Người
gửi tiền được pháp luật bảo vệ bằng quyền rút tiền bất cứ lúc nào miễn là trong
thời gian giao dịch, trong khi ngân hàng không được đòi nợ trước hạn mà không
có lý do chính đáng. Nếu xảy ra tình trạng rút tiền hàng loạt của người gửi tiền tại
một thời điểm nhất định sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thanh toán của
ngân hàng [36, tr.10]. Bên cạnh đó, rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn xuất
phát từ rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất và nhiều
nguyên nhân khác.
Thứ năm, các chủ thể hoạt động ngân hàng phải đáp ứng các điều kiện
nghiêm ngặt về vốn, an toàn vốn, cơ sở vật chất, hệ thống thông tin, bảo mật,
chuyên môn nghiệp vụ... Chỉ khi nào NHTM thỏa mãn đầy đủ những điều kiện
nghiêm ngặt do pháp luật quy định thì mới được cơ quan quản lý ngân hàng cho
phép hoạt động trên thị trường. Khi một ngân hàng muốn mở rộng hoạt động như
sáp nhập với một ngân hàng mới, thiết lập văn phòng chi nhánh đều phải được sự
đồng ý của cơ quan quản lý ngân hàng.
Thứ sáu, sự tồn tại của NHTM phụ thuộc lớn vào sự tin tưởng của khách
hàng và khách hàng là điều kiện tiên quyết để ngân hàng tồn tại, phát triển. Trong
lĩnh vực ngân hàng, do ngân hàng cần vốn lớn trong khi vốn chủ sở hữu ngân hàng
thường chỉ đáp ứng được một phần vốn để cấp tín dụng và thực hiện các hoạt động
ngân hàng khác. Để ngân hàng thực hiện được hoạt động kinh doanh thì việc huy
động vốn của người gửi tiền đóng vai trò quan trọng trong hoạt động ngân hàng, vì
thế ngân hàng mới có thể sử dụng nguồn vốn huy động này để cấp tín dụng, thực
41
hiện các hoạt động ngân hàng nhằm tạo ra lợi nhuận. Khách hàng là những người
cung cấp đầu vào cho NHTM và họ cũng chính là người sử dụng sản phẩm đầu ra
của ngân hàng.
Thứ bảy, các NHTM chịu sự ảnh hưởng dây chuyền với nhau. Trong hoạt
động ngân hàng, các ngân hàng có thể huy động nguồn vốn từ người gửi tiền hoặc
vay từ Ngân hàng Trung ương (NHTW), các NHTM khác để kinh doanh hoặc đáp
ứng yêu cầu thanh khoản. Các ngân hàng cũng có thể sử dụng nguồn vốn của mình
để đầu tư tại một ngân hàng khác, sử dụng dịch vụ của ngân hàng khác... Tuy nhiên
kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng đối diện với rất nhiều nguy cơ rủi ro cao.
Chính vì thế, khi một NHTM gặp khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ sẽ
có tác động dây chuyền đến các NHTM khác.
Thứ tám, hoạt động ngân hàng có tính hợp tác và quốc tế sâu rộng. Các
hoạt động ngân hàng không thể giới hạn trong một phạm vi hẹp mà phải đáp ứng
được yêu cầu của khách hàng và chính bản thân ngân hàng [36, tr.11]. Kinh
doanh trong hệ thống NHTM chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và
quốc tế như tập quán kinh doanh, môi trường pháp luật của các nước, các thông
lệ quốc tế do hoạt động của các NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không
chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các
hoạt động kinh tế đối ngoại…
2.2.1.2. Mua lại, sáp nhâp và các đặc trưng cơ bản về mua lại, sáp nhâp
ngân hàng thương mại
Luật sáp nhập ngân hàng và những sửa đổi bổ sung (năm 1960 và 1966) của
Mỹ, sáp nhập được định nghĩa là một giao dịch, trong đó hai hay nhiều ngân hàng
kết hợp tài sản và các khoản nợ để trở thành một tổ chức duy nhất, thường mang tên
của ngân hàng “yêu cầu sáp nhập” [136, tr.53], hoặc có thể hiểu sáp nhập ngân hàng
là hình thức một hoặc một số ngân hàng sáp nhập vào một ngân hàng khác bằng
cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang ngân hàng
nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của ngân hàng bị sáp nhập [107, tr.8].
Từ những quan niệm về mua lại, sáp nhập đối với doanh nghiệp và thực tế
mua lại, sáp nhập NHTM, mua lại ngân hàng thương mại được hiểu là NHTM mua
toàn bộ hoặc một phần cổ phần hay tài sản và quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của
NHTM khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của NHTM bị
mua lại. Sáp nhâp ngân hàng thương mại được hiểu là việc một hoặc một số NHTM
42
sáp nhập vào một NHTM bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi
ích hợp pháp sang NHTM nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của NHTM
bị sáp nhập.
Hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM có những đặc trưng cơ bản, chi phối đến
pháp luật điều chỉnh về mua lại, sáp nhập NHTM. Những đặc trưng cơ bản của hoạt
động mua lại, sáp nhập NHTM được xác định như sau:
Một là, NHTM thực hiện mua lại, sáp nhập với tư cách là bên mua lại hoặc
nhận sáp nhập với NHTM khác; các doanh nghiệp khác trừ ngân hàng không được
mua lại, nhận sáp nhập với chủ thể bên kia là ngân hàng. Hoạt động ngân hàng có
nhiều đặc thù nên điều kiện thành lập, hoạt động ngân hàng rất khắt khe và đều phải
có sự cho phép của cơ quan quản lý ngân hàng mới được phép thực hiện. Vì thế các
chủ thể sở hữu doanh nghiệp thông thường có thể mở rộng sản xuất thông qua việc
mua lại, hợp nhất, sáp nhập nhưng không được thực hiện trong lĩnh vực ngân hàng.
Hai là, khi mua lại, sáp nhập NHTM trong tất cả các giai đoạn trước, trong
và sau khi thực hiện đều phải đáp ứng hoạt động ngân hàng liên tục, ổn định, không
ảnh hưởng đến quyền lợi người gửi tiền và quyền, nghĩa vụ của các bên có liên
quan. Hoạt động ngân hàng liên quan đến rất nhiều khách hàng, đặc biệt nhạy cảm,
có tác động lớn đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội nếu xảy ra bất ổn, đổ vỡ ngân
hàng. Với đặc thù của hoạt động NHTM không cho phép khi mua lại, sáp nhập
ngưng trệ hoạt động ngân hàng trong bất cứ tình huống nào, trừ trường hợp được
pháp luật quy định.
Ba là, trình tự, thủ tục khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM phức tạp hơn so
với các loại hình doanh nghiệp khác. Các bên phải đáp ứng các yêu cầu về trình tự,
thủ tục, hồ sơ chặt chẽ trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập. Các yêu cầu này
cũng xuất phát từ việc NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh
liên quan đến tiền tệ, đến nhiều khách hàng nên phải hết sức cẩn trọng khi thực hiện
các công đoạn trong quá trình mua lại, sáp nhập.
Bốn là, khi thực hiện mua lại, sáp nhập MHTM trước tiên phải bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, sau đó mới tính đến quyền lợi của bên
thứ ba và quyền lợi của nhà nước. Do hoạt động NHTM liên quan trực tiếp đến tiền
tệ, tình hình trật tự, an toàn xã hội, đến người gửi tiền là các tổ chức, cá nhân cũng
như niềm tin nhà đầu tư, của người dân đối với nhà nước, vì vậy bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của người gửi tiền khi mua lại, sáp nhập NHTM luôn là vấn đề cần ưu
43
tiên giải quyết khi thực hiện mua lại, sáp nhập.
Năm là, thời điểm chuyển giao quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp giữa các
bên khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM có ý nghĩa quan trọng. Thời điểm này là
ngày mua lại, sáp nhập có hiệu lực trong văn bản chấp thuận mua lại, sáp nhập của
cơ quan quản lý ngân hàng. Tại thời điểm này, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
của các bên thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM được chuyển giao, buộc các bên
phải thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý ngân hàng, đồng thời
hệ quả pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM phát sinh từ thời điểm này.
2.2.1.3. Bản chất pháp lý của mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại
Đối với đề tài luận án nghiên cứu về pháp luật mua lại, sáp nhập NHTM thì
thuật ngữ “mua lại và sáp nhập” được dịch từ cụm từ M&A để chỉ một hiện tượng
khách quan mà pháp luật hướng tới điều chỉnh, đồng thời lưu ý sử dụng tách riêng
cụm từ “mua lại” và “sáp nhập” với nghĩa pháp lý để phân biệt chúng khi xem xét
các quy định liên quan của pháp luật.
Về bản chất của mua lại, sáp nhập NHTM, theo lý thuyết về tài chính thì
mua lại, sáp nhập NHTM là một giao dịch tài chính dẫn đến việc một ngân hàng
này mua lại hoặc sáp nhập với một hay một vài ngân hàng khác. Theo lý thuyết về
tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp thì sáp nhập NHTM là hình thức tổ chức lại
doanh nghiệp. NHTM bị mua lại sẽ chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ cổ
phần hay tài sản cho NHTM nhận mua lại, phát sinh quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp giữa các bên và NHTM mua lại có quyền kiểm soát hoạt động của NHTM bị
mua lại. NHTM bị sáp nhập sẽ chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp sang NHTM nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của NHTM bị
sáp nhập. Ngân hàng bị sáp nhập phải từ bỏ các biểu tượng cũ để lấy tên mới,
thường là tên của ngân hàng nhận sáp nhập; tài sản và các nguồn vốn của ngân hàng
bị sáp nhập sẽ nhập với tài sản và nguồn vốn của ngân hàng nhận sáp nhập.
Khi thực hiện mua lại, sáp nhập, hợp đồng mua lại, sáp nhập NHTM là văn
bản pháp lý quan trọng do các bên ký kết sẽ: (i) Xác lập quyền sở hữu đối với bên
mua lại, bên nhận sáp nhập; (ii) Chấm dứt quyền sở hữu đối với bên bị mua lại, bên
bị sáp nhập; (iii) Phát sinh quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp giữa các bên theo
quy định của pháp luật thông qua việc chuyển toàn bộ hoặc một phần cổ phần hay
tài sản và quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của bên bị mua lại sang bên nhận mua
lại; chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của bên bị sáp nhập
44
sang cho bên nhận sáp nhập. Nói cách khác, thông qua hợp đồng mua lại, sáp nhập
NHTM là việc chuyển đổi quyền sở hữu toàn bộ hoặc một phần cổ phần hay tài sản
và quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của bên bị mua lại sang bên nhận mua lại;
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của bên bị sáp nhập
sang cho bên nhận sáp nhập, từ đó phát sinh quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
giữa các bên theo quy định của pháp luật tại thời điểm chuyển quyền sở hữu có hiệu
lực pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý về tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của bên
bị mua lại, bị sáp nhập sẽ được bên mua lại, nhận sáp nhập thực hiện kể từ thời
điểm chuyển quyền sở hữu là ngày mua lại, ngày sáp nhập có hiệu lực được xác
định trong văn bản chấp thuận của cơ quan quản lý ngân hàng. Đối với việc chuyển
đổi quyền sở hữu giữa các bên tham gia mua lại, sáp nhập, căn cứ chính trong việc
xác lập quyền sở hữu đối với bên mua lại, bên nhận sáp nhập được xác định là hoạt
động kinh doanh hợp pháp; được chuyển giao thông qua các hợp đồng có hiệu lực,
hợp pháp hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với bên bị
mua lại, bên bị sáp nhập, căn cứ chính trong việc chấm dứt quyền sở hữu là việc
chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác; chủ sở hữu từ bỏ quyền
sở hữu của mình.
Qua những phân tích trên đây, có thể nhận thấy bản chất pháp lý khi mua lại,
sáp nhập NHTM chính là việc giành quyền kiểm soát doanh nghiệp thông qua các
hoạt động đầu tư, tổ chức lại doanh nghiệp; việc chuyển giao tài sản, quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp giữa các bên, đồng thời xác định tư cách pháp lý của các bên
sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập.
2.2.1.4. Phương thức thực hiện mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại
Các phương thức thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cũng giống như đối với
các doanh nghiệp thông thường. Có rất nhiều cách để thực hiện một giao dịch mua
lại, sáp nhập NHTM, tất cả phụ thuộc vào trọng tâm của các giao dịch, mục đích
hay ưu thế của các bên tham gia. Nhìn chung các phương thức mua lại, sáp nhập
NHTM có thể diễn ra dưới các hình thức chủ yếu là: thương lượng; chào mua, chào
bán cổ phiếu; thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán; lôi kéo cổ đông bất
mãn; mua lại tài sản doanh nghiệp.
2.2.2. Khái niệm pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp, vì vậy ngân hàng cũng bị điều
45
chỉnh bởi các quy định chung của pháp luật về hoạt động mua lại, sáp nhập. Có
nhiều quan hệ xã hội cần pháp luật điều chỉnh khi thực hiện mua lại, sáp nhập
NHTM. Xuất phát từ việc xem xét hành vi mua lại, sáp nhập NHTM dưới mỗi góc
độ khác nhau thì hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM sẽ chịu sự điều chỉnh của
pháp luật phù hợp với các quan hệ xã hội tương ứng. Luật doanh nghiệp quy định
về mua lại, sáp nhập NHTM như là hình thức tổ chức lại doanh nghiệp. Luật đầu tư
quy định về mua lại, sáp nhập NHTM như là hình thức đầu tư trực tiếp. Luật cạnh
tranh quy định về mua lại, sáp nhập NHTM như là hình thức tập trung kinh tế… Từ
những lập luận về pháp luật mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, pháp luât về mua lại
và sáp nhâp ngân hàng thương mại được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luât
do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại.
Trên thế giới, hoạt động ngân hàng là một trong những lĩnh vực được kiểm
soát chặt chẽ nhất, không ai có thể tự ý thành lập hay đóng cửa một ngân hàng mà
không được sự chấp thuận của cơ quan quản lý ngân hàng. Ở Mỹ, tài sản do các
ngân hàng Mỹ nắm giữ chiếm khoảng 1/3 tổng tài sản của tất cả các tổ chức tài
chính đóng trụ sở tại đây. Với những lý do này và hơn thế nữa, ngân hàng là một
trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất của xã hội. Chính bởi
những đặc điểm của NHTM và vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế đã tạo
nên sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật một cách khác biệt hơn so với các
loại hình doanh nghiệp thông thường.
Các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập
NHTM thường rất đa dạng và phức tạp, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa
vụ, lợi ích hợp pháp của nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan. Không
giống như mua lại, sáp nhập nói chung, điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động
mua lại, sáp nhập NHTM xuất phát từ NHTM có vai trò quan trọng đặc biệt đối với
nền kinh tế, hoạt động ngân hàng tiềm ẩn rủi ro rất cao, có ảnh hưởng sâu rộng đến
tình hình kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình mua lại, sáp nhập NHTM để đảm bảo rằng những giao
dịch mua lại, sáp nhập NHTM được diễn ra trên thực tế và an toàn; đáp ứng quyền
tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật; cơ quan quản lý ngân hàng, các ngân
hàng có cơ sở pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM và buộc phải thực
hiện trong khung pháp lý đó, kể cả khi có sự can thiệp của nhà nước đối với các
46
ngân hàng yếu kém cũng phải mang tính khách quan, bình đẳng và minh bạch, vì lợi
ích chung của nền kinh tế. Ngoài ra pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM cần thiết
để kiểm soát hành vi tập trung kinh tế khi mua lại, sáp nhập dẫn đến việc hình thành
doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, nhất là trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng; giúp các ngân hàng không bị thâu tóm trong quá trình
kinh doanh, hội nhập; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, người
lao động và các bên trong quan hệ mua lại, sáp nhập...
2.2.3. Đặc điểm pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
Việc tìm ra những đặc điểm của pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân NHTM
sẽ giúp xác định đúng những nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật trong lĩnh
vực này. Những đặc điểm chính của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM được
xác định như sau:
Một là, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp, vì vậy hoạt động mua lại,
sáp nhập NHTM được điều chỉnh bằng cả hệ thống luật chung và luật chuyên ngành
về ngân hàng. Khi xem xét hành vi mua lại, sáp nhập dưới mỗi góc độ khác nhau thì
hoạt động này chịu sự điều chỉnh của pháp luật phù hợp với quan hệ xã hội cần điều
chỉnh. Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM xác định mối liên hệ chặt chẽ giữa
pháp luật chuyên ngành với pháp luật về doanh nghiệp, cạnh tranh, đầu tư, sở hữu
trí tuệ, lao động, bảo hiểm tiền gửi... Trong hệ thống pháp luật, hoạt động mua lại,
sáp nhập được điều chỉnh bởi hai nhóm quy định chính: Quy định về thủ tục (quy
trình thủ tục, hồ sơ giấy tờ, thẩm quyền giải quyết) và quy định về nội dung (các
điều kiện, hạn chế, các nghiệp vụ trong việc tiến hành giao dịch mua lại, sáp nhập)
ở trong nhiều văn bản.
Hai là, việc thành lập, hoạt động và tổ chức lại ngân hàng chịu sự điều chỉnh
trực tiếp của pháp luật về ngân hàng. Khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, ngoài
việc sử dụng khung pháp lý như các doanh nghiệp thông thường nhưng cần có
những điều chỉnh riêng đối với loại hình này. Về nguyên tắc, trong trường hợp có
quy định khác nhau giữa pháp luật về ngân hàng và pháp luật khác có liên quan về
thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể NHTM thì áp
dụng theo quy định của pháp luật ngân hàng. Trong trường hợp pháp luật ngân hàng
không quy định thì áp dụng các quy định của pháp luật doanh nghiệp phù hợp với
bản chất quan hệ của pháp luật cần điều chỉnh.
Ba là, pháp luật chỉ cho phép NHTM được tiến hành mua lại, sáp nhập đối
47
với TCTD mà không cho phép TCTD hay các doanh nghiệp mua lại, sáp nhập với
NHTM. Điều này xuất phát từ việc NHTM là loại hình doanh nghiệp duy nhất có
quyền thực hiện tất cả hoạt động ngân hàng, trong khi các loại hình của TCTD khác
chỉ có thể được phép thực hiện một, một số hoặc tất cả hoạt động ngân hàng. Ngoài
ra, không một tổ chức, cá nhân nào ngoài loại hình TCTD được phép tiến hành hoạt
động ngân hàng.
Bốn là, để thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cần phải tuân theo những tiêu
chuẩn, điều kiện chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp khác. Các tiêu chuẩn, điều
kiện mua lại, sáp nhập NHTM đặt ra đối với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài, điều kiện NHTM trong nước bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài.
Rào cản pháp lý đối với việc thành lập mới ngân hàng là rất cao. Cũng chính vì thế
mà các tiêu chuẩn, điều kiện đặt ra khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cũng
khắt khe hơn để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, chống thâu tóm, chống tập
trung kinh tế, không tạo ra sự độc quyền và giảm thiểu các rủi ro khi thực hiện mua
lại, sáp nhập. Khi đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, điều kiện này thì cơ quan có thẩm
quyền mới cho phép thực hiện mua lại, sáp nhập.
Năm là, trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM phải tuân thủ nghiêm ngặt
theo quy định của pháp luật, nhất là các yêu cầu về hồ sơ mua lại, sáp nhập. So với
trình tự, thủ tục áp dụng cho doanh nghiệp thì trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập
NHTM có mức độ phức tạp cao hơn. Việc xác định, thẩm định giá trị của ngân hàng
cũng rất phức tạp nên cần tuân theo những quy trình, cách thức riêng để phù hợp
tính đặc thù của NHTM. Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM quy định bắt buộc
phải có sự chấp nhận bằng văn bản của cơ quan quản lý ngân hàng ở trước, trong và
sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập nhằm kiểm soát chặt chẽ các thủ tục. Chủ sở
hữu ngân hàng không được quyền quyết định việc mua lại, sáp nhập nếu không
được sự chấp thuận rõ ràng bằng văn bản từ cơ quan quản lý ngân hàng.
Sáu là, quy định về thời điểm chuyển giao tài sản và thực hiện quyền, nghĩa
vụ, lợi ích hợp pháp giữa các bên khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM có ý nghĩa
rất quan trọng. Thời điểm này không chỉ có ý nghĩa đối với các bên tham gia mua
lại, sáp nhập NHTM mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với các cổ đông sáng lập, cổ
đông sở hữu cổ phần phổ thông và người gửi tiền khi họ đóng vai trò chủ sở hữu,
khách hàng của ngân hàng của cả bên mua lại, nhận sáp nhập và bên bị mua lại, bị
sáp nhập. Thời điểm này đặt ra yêu cầu pháp luật cần quy định cụ thể một số vấn đề
48
như cổ đông có thể tiếp tục thực hiện quyền chủ sở hữu ngân hàng, người gửi tiền
tiếp tục thực hiện quan hệ tiền gửi trên cơ sở quy định về lãi suất, thời hạn và các
dịch vụ đang sử dụng của ngân hàng trước khi bị mua lại, nhận sáp nhập...
Bảy là, quyền lợi, nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân có liên quan khi mua
lại, sáp nhập được pháp luật quy định phải bảo đảm được giải quyết triệt để. Khi
thực hiện mua lại, sáp nhập MHTM, pháp luật được thiết kế theo hướng trước tiên
phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, sau đó mới tính đến
quyền lợi của bên thứ ba và quyền lợi của nhà nước. Đa số các quốc gia thường xây
dựng một hệ thống các văn bản pháp luật bên cạnh pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
nhằm mục tiêu hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,
góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD và bảo đảm sự phát triển an toàn, lành
mạnh của hoạt động ngân hàng.
Tám là, để đảm bảo an toàn hệ thống, đối với các NHTM yếu kém, có nguy
cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, pháp luật quy định cơ quan quản
lý ngân hàng có quyền yêu cầu NHTM đó phải thực hiện tái cơ cấu, buộc sáp nhập,
hợp nhất, mua lại. Pháp luật quy định quyền này bởi khi các chủ thể tiến hành hoạt
động ngân hàng mà gặp bất ổn, trong khi không có khả năng khắc phục có thể gây
ra những phản ứng tiêu cực mang tính dây chuyền, để lại những rủi ro, hậu quả hay
tiêu cực to lớn mà nó mang lại cho xã hội và nền kinh tế. Ngoài ra việc pháp luật
ghi nhận quyền này cũng nhằm mục đích khi khi thực hiện mua lại, sáp nhập thì
hoạt động ngân hàng cần được an toàn, liên tục, ổn định, không ảnh hưởng đến
quyền lợi người gửi tiền và quyền lợi, nghĩa vụ của bên thứ ba, đảm bảo an toàn hệ
thống ngân hàng, tài chính, tiền tệ quốc gia.
Chín là, ngân hàng sau mua lại, sáp nhập phải tuân thủ những chuẩn mực
quốc gia và tiếp cận các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vốn nhằm nâng cao chất
lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định
bắt buộc của NHNN, các NHTM cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ
thống quản trị rủi ro của ngân hàng mình cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ
thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp cận với các chuẩn mực của Basel.
2.2.4. Những nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật về mua lại, sáp
nhập ngân hàng thương mại
Pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đã xác định những nội dung
điều chỉnh chủ yếu đối với hoạt động mua lại, sáp nhập. Tuy nhiên đối với loại hình
49
doanh nghiệp là NHTM, khung pháp lý về mua lại, sáp nhập NHTM có thể áp dụng
được một số quy định chung như đối với doanh nghiệp nhưng cần có điều chỉnh
riêng biệt do những đặc thù của NHTM, của hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM.
Cũng như pháp luật điều chỉnh mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung, pháp luật
về mua lại, sáp nhập NHTM cần đáp ứng vai trò là điều kiện khung pháp lý để một
giao dịch mua lại, sáp nhập NHTM được diễn ra trên thực tế và an toàn, đồng thời
phải xác định những nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu trong quá trình
thực hiện mua lại, sáp nhập. Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM cũng liên quan
đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như pháp luật về dân sự, pháp luật về doanh
nghiệp, pháp luật về cạnh tranh, pháp luật về đầu tư, pháp luật về lao động, pháp
luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về chứng khoán... do mỗi văn bản luật chi phối hay
điều chỉnh các vấn đề khác nhau liên quan đến hoạt động mua lại, sáp nhập. Trên cơ
sở lý thuyết chung về mua bán, sáp nhập doanh nghiệp cùng với những đặc thù của
NHTM, của hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM, pháp luật về mua lại, sáp nhập
NHTM được xác định bao gồm các nội dung điều chỉnh chủ yếu như sau:
2.2.4.1. Xác định tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhâp
Tiêu chuẩn thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM có liên quan mật thiết đến
việc xây dựng tiêu chuẩn ngân hàng hiện đại. Các quốc gia cần xây dựng các tiêu
chí về một ngân hàng hoạt động hiệu quả và phát triển bền vững hướng tới thông lệ
tốt nhất như vốn điều lệ thực tối thiểu; điều kiện cần và đủ để thành lập ngân hàng;
việc phân loại nợ và chất lượng nợ; tiêu chí về năng lực hoạt động; năng lực cạnh
tranh; minh bạch thông tin; kỷ luật thị trường. Thực hiện các tiêu chí này sẽ tạo cơ
sở để các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn, có khả năng cạnh tranh tốt và lành
mạnh hơn [120, tr.5]. Điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM được coi là rào cản kỹ
thuật về mặt pháp lý nhằm chống thâu tóm, chống tập trung kinh tế, không tạo ra sự
độc quyền. Với tư cách là một chủ thể trung gian tài chính trong nền kinh tế, điều
kiện mua lại, sáp nhập còn nhằm giảm thiểu những rủi ro do hoạt động mua lại, sáp
nhập mang lại trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM, đảm
bảo an toàn hệ thống ngân hàng [16, tr.30]. Pháp luật xác định tiêu chuẩn, điều kiện
mua lại, sáp nhập NHTM bao gồm các nội dung sau đây:
Thứ nhất, tiêu chuẩn, điều kiện về tâp trung kinh tế khi thực hiện mua lại,
sáp nhâp ngân hàng thương mại.
Các quốc gia đều có những nỗ lực để kiểm soát chống độc quyền, chống tập
50
trung kinh tế thông qua việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh. Việc mua
lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và ngân hàng nói riêng đều bị ngăn cấm nếu
vi phạm pháp luật cạnh tranh. Căn cứ vào ngưỡng kiểm soát tập trung kinh tế, pháp
luật cạnh tranh quy định các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm thực hiện; các
trường hợp tập trung kinh tế bị cấm thực hiện nhưng được hưởng miễn trừ và kiểm
soát những trường hợp tập trung kinh tế đạt gần tới ngưỡng bị cấm thực hiện. Đối
với các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm, nhà nước không cấm các doanh nghiệp
thực hiện các hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nhưng nhà nước sẽ kiểm
soát, xem xét việc mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đó có dẫn đến việc hạn chế cạnh
tranh trên thị trường liên quan không. Đối với các trường hợp tập trung kinh tế được
miễn trừ, cơ quan có thẩm quyền cho phép các doanh nghiệp nằm trong ngưỡng thị
phần hoặc doanh thu phải chịu sự kiểm soát về tập trung kinh tế được thực hiện các
dự án trên cơ sở đáp ứng một số tiêu chí về hiệu quả kinh tế, xã hội [1, tr.61].
Luật sáp nhập ngân hàng Mỹ (Bank Merger Act) năm 1960 quy định các Cơ
quan quản lý ngân hàng Liên bang phải đặt yếu tố cạnh tranh của các thương vụ sáp
nhập lên vị trí hàng đầu. Vì thế các cơ quan quản lý phải dự đoán những tác động có
thể xảy ra của một vụ sáp nhập ngân hàng [136, tr.822]. Cơ quan quản lý Liên bang
Mỹ phải áp dụng những tiêu chuẩn do Luật sáp nhập ngân hàng và Hướng dẫn sáp
nhập của Bộ Tư pháp quy định cho các yêu cầu sáp nhập. Mỗi đơn yêu cầu sáp
nhập sẽ được tính toán những tác động tiềm năng tới mức độ cạnh tranh của vụ sáp
nhập. Hướng dẫn về việc sáp nhập do Bộ Tư pháp Mỹ ban hành lấy công thức tính
chỉ số Herfindahl-Hirschman Index (HHI) làm thước đo mức độ tập trung thị trường
[136, tr.825]. Trong hoạt động kiểm soát tập trung kinh tế, Liên minh Châu Âu xem
việc duy trì và bảo vệ cạnh tranh là yêu cầu quan trọng hàng đầu, thậm chí là tiêu
chí duy nhất quyết định việc có cho phép hay không cho phép thực hiện dự án tập
trung kinh tế [42, tr.94]. Theo Luật chống hạn chế cạnh tranh của Đức, việc hợp
nhất, sáp nhập bị kiểm soát hay không phụ thuộc chủ yếu vào mức vốn của công ty
[95]. Pháp luật Trung Quốc quy định nhà đầu tư nước ngoài thực hiện M&A phải
báo cáo lên Bộ Thương mại và Cơ quan nhà nước về công nghiệp và thương mại
xem xét trên cơ sở doanh số, mức độ kiểm soát thị trường theo quy định. Tại Thái
Lan, các hoạt động sáp nhập có thể dẫn đến mua lại thị phần, tổng doanh thu, vốn,
cổ phiếu hoặc tài sản vượt quá mức cho phép bị cấm do các hoạt động kinh doanh
này sau khi sáp nhập có thể dẫn tới độc quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh
51
[59, tr.67]. Luật cạnh tranh của Việt Nam quy định hành vi tập trung kinh tế bị cấm
nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế vượt ngưỡng
cho phép trên thị trường liên quan, trừ trường hợp được miễn trừ.
Qua phân tích một số nội dung trên đây cho thấy các quốc gia đều coi trọng
việc xem xét hoạt động mua lại, sáp nhập sẽ gây ra ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực
tới trạng thái cạnh tranh của thị trường. Đây là tiêu chí, điều kiện rất quan trọng để
cơ quan quản lý cạnh tranh quyết định có thực hiện hay không đối với một thương
vụ mua lại, sáp nhập, nhất là trong lĩnh vực ngân hàng. Pháp luật có thể sử dụng
doanh số, thị phần, mức vốn là tiêu chí để xác định hành vi tập trung kinh tế và
được sử dụng khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM. Xem xét một thương vụ mua
lại, sáp nhập NHTM qua tiêu chuẩn quy định về tập trung kinh tế sẽ đánh giá tác
động của hành vi này với lợi ích hay tiêu cực mà nó mang lại cho xã hội và nền
kinh tế. Khi đề ra một “ngưỡng” cụ thể để đánh giá hành vi này thì nó trở thành
điều kiện cho một thương vụ mua lại, sáp nhập NHTM. Tập trung kinh tế được hiểu
là hành vi của doanh nghiệp khi thực hiện sáp nhập, hợp nhất và mua lại doanh
nghiệp. Các quốc gia đều xem hành vi tập trung kinh tế là một trong những điều
kiện để thực hiện mua lại, sáp nhập doanh nghiệp với các quy định cụ thể về
“ngưỡng” kiểm soát tập trung kinh tế hoặc sử dụng các công cụ khác nhau để tính
toán mức độ tập trung kinh tế. Pháp luật cạnh tranh quy định “ngưỡng” để kiểm soát
tập trung kinh tế nhằm đảm bảo không xâm phạm quyền tự do tập trung kinh tế của
các nhà đầu tư, đồng thời vẫn bảo vệ cạnh tranh trên thị trường [1, tr.61].
Thứ hai, tiêu chuẩn, điều kiện về vốn, an toàn vốn khi thực hiện mua lại, sáp
nhâp ngân hàng thương mại.
- Về vốn ngân hàng:
Một ngân hàng cần bao nhiêu vốn? Đây là một câu hỏi xuyên suốt quá trình
phát triển của ngành ngân hàng và là điểm nóng gây nhiều tranh cãi. Những tranh
luận xoay xung quanh câu hỏi: Ai là người nên đứng ra đặt “chuẩn mực” về vốn cho
ngân hàng, là thị trường hay các cơ quan quản lý ngân hàng? Thế nào được cho là
hợp lý về vốn đối với ngân hàng? [136, tr.567].
Để bắt đầu đầu hoạt động một ngân hàng, pháp luật quy định chủ ngân hàng
phải có một lượng vốn nhất định gọi là vốn pháp định. Trong quá trình hoạt động,
ngân hàng gia tăng vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau tùy vào điều
kiện cụ thể [34, tr.36]. Vốn chủ sở hữu được xem là “tấm đệm” cuối cùng để chống
52
lại rủi ro phá sản của ngân hàng và giúp ngân hàng hạn chế các rủi ro đa dạng khác.
Những mức vốn tối thiểu được yêu cầu (so với tổng tài sản) là quy định bắt buộc
đối với tất cả các ngân hàng, được xuất phát từ sự lo ngại về khả năng thua lỗ của
ngân hàng và kéo theo những hệ lụy, tổn thất cho người gửi tiền, các bên liên quan
và cả xã hội. Khi tất cả các phương pháp ngăn chặn rủi ro không còn hiệu quả thì
vốn chủ sở hữu ngân hàng sẽ là biện pháp cuối cùng để bù đắp cho những tổn thất
về sự quản lý yếu kém, kinh doanh không hiệu quả, giúp ngân hàng vượt qua khó
khăn hiện tại. Chỉ khi các khoản thua lỗ của ngân hàng lớn đến mức khi đã sử dụng
các biện pháp, trong đó có cả vốn chủ sở hữu đều không khắc phục được thì buộc
phải đóng cửa.
Quy định về vốn ngân hàng đang trong giai đoạn chuyển đổi với việc đưa ra
một hệ thống tiêu chuẩn mới áp dụng đối với tất cả ngân hàng ở những nước công
nghiệp hàng đầu thế giới, quy định một mức vốn tối thiểu đối với hoạt động ngân
hàng [136, tr.569]. Nguồn vốn chủ sở hữu của các ngân hàng (sau khi trích lập dự
phòng các khoản nợ và giảm giá tài sản) là điều Chính phủ của các quốc gia quan
tâm do đây là căn cứ để yêu cầu các ngân hàng tăng vốn, cho vay thêm hoặc yêu
cầu các ngân hàng có mức an toàn vốn thực tế dưới mức tối thiểu theo quy định
phải buộc mua lại, sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể [120, tr.2]. Tùy theo quy định
của các quốc gia sẽ có những quy định về vốn khác nhau, trong đó quy định về vốn
pháp định khi thành lập ngân hàng.
Ở Mỹ, các cơ quan quản lý ngân hàng đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của quy
mô vốn hợp lý trước khi cho phép ngân hàng cung cấp dịch vụ mới hay thành lập,
mua lại văn phòng và các chi nhánh mới. Khả năng phá sản ngân hàng hoặc khả
năng chấp nhận quá nhiều rủi ro sẽ giảm nếu việc giám sát vốn được thực hiện tốt.
Năm 1992, Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ và các tổ chức quản lý ngân
hàng Liên bang đã đưa ra năm mức độ về sự thích hợp của vốn đối với ngân hàng
để tạo cơ sở cho việc thực thi những “hành động điều chỉnh tức thời” nếu ngân hàng
đó rơi vào tình trạng tư bản hóa không hợp lý [136, tr.585]. Luật ngân hàng và tiền
tệ quốc gia của Mỹ quy định về giấy phép và vốn thành lập ngân hàng, theo đó để
được cấp giấy phép với điều kiện phải tuân thủ các quy định của pháp luật Liên
bang, đồng thời phải cam kết đủ vốn để thành lập ngân hàng [136, tr.41]. Ở Việt
Nam, Luật các TCTD quy định điều kiện cấp Giấy phép đầu tiên đối với ngân hàng
là có vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định, và ngân hàng
53
phải duy trì giá trị thực của vốn điều lệ hoặc vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn
pháp định.
- Về tiêu chuẩn an toàn vốn:
Hiệp ước Basle về tiêu chuẩn vốn quốc tế năm 1987 chính thức thông qua
năm 1988 (gồm Mỹ và 11 nước công nghiệp hàng đầu). Hiệp ước Basel đã thông
qua tiêu chuẩn mới về vốn, áp dụng đối với các ngân hàng, tổ chức tài chính trong
phạm vi quyền hạn tương ứng. Hiệp ước Basel đã được phát triển thành một khung
tiêu chuẩn toàn cầu để giải quyết yêu cầu cấp bách cho một thị trường tài chính an
toàn hơn. Hiệp ước tập trung vào định nghĩa mức vốn tối thiểu, theo đó các ngân
hàng phải duy trì một mức vốn tối thiểu không nhỏ hơn 8% của tổng tài sản có rủi
ro. Với những thay đổi sau này, Hiệp ước Basel II và III đã sửa đổi các tiêu chuẩn
về tỷ lệ an toàn vốn, đưa rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động vào để xây dựng nên
các trụ cột cơ bản để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Theo Ngân hàng
Thanh toán Quốc tế (BIS), tính đến tháng 10/2013, 14 nước thành viên hội đồng
Basel đã thông qua các quy định về vốn dựa trên chuẩn Basel III, 13 quốc gia thành
viên còn lại vẫn đang tiếp tục ban hành các quy định theo chuẩn Basel III. Liên
quan tới việc duy trì vốn bắt buộc đối với NHTM thì ngân hàng phải thường xuyên
duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bao gồm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu riêng lẻ và tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu hợp nhất ở một tỷ lệ bắt buộc, thường là mức 8% trở lên (theo
chuẩn mực quốc tế Basel II). Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được tính theo tỷ lệ phần
trăm (%) giữa vốn tự có và tổng tài sản có đã được điều chỉnh theo hệ số rủi ro.
Tại Inđônêsia, Chính phủ khuyến khích tái cấu trúc các ngân hàng bằng cách
đưa ra các tiêu chuẩn mà một ngân hàng phải đạt được như quy mô về vốn, chỉ tiêu
tài chính, thị trường, năng lực cạnh tranh. Nếu không đạt được, NHTW Inđônêsia sẽ
yêu cầu các ngân hàng tiến hành sáp nhập và mua lại [3]. Đối với Việt Nam, Hiệp
ước Basel I ra đời từ năm 1988 nhưng phải 17 năm sau Việt Nam mới bắt đầu thực
hiện theo Basel I với các quy định đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của
các TCTD. Các quy định hiện hành nhìn chung đã theo tinh thần của Basel II, tuy
nhiên mức độ vận dụng của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn chưa đầy đủ do thiếu
cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở dữ liệu, được tính toán trên cơ sở các chuẩn mực kế
toán Việt Nam. Trong giai đoạn 2016-2020, mục tiêu đặt ra của NHNN là “tiến
hành đánh giá, xếp hạng các TCTD theo chuẩn mực quốc tế; về cơ bản áp dụng đầy
đủ 25 nguyên tắc của Basel, áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về an toàn
54
hoạt động ngân hàng theo Basel II trước năm 2018 và thực hiện Basel III vào năm
2020. Các chuẩn mực an toàn được áp dụng phù hợp với quy mô và phạm vi hoạt
động của các định chế tài chính.” [114, tr.504].
Những phân tích trên đây cho thấy các tiêu chuẩn, điều kiện quy định về vốn,
an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng liên quan đến quy định về “chuẩn mực” vốn
đối với ngân hàng sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập, theo đó (i) Vốn là một trong
những điều kiện tiên quyết để thành lập một ngân hàng. (ii) An toàn vốn tối thiểu
được đặt ra ngày một gay gắt trong quá trình hoạt động ngân hàng, buộc các cơ
quan quản lý ngân hàng và bản thân các ngân hàng phải tiếp cận thực hiện các
chuẩn mực này. Mua lại, sáp nhập liên quan đến việc thành lập, hoạt động, tổ chức
và tổ chức lại NHTM; liên quan đến vốn, tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng thực hiện
mua lại, sáp nhập sau khi mua lại, sáp nhập. Vì vậy “chuẩn mực” về vốn, tỷ lệ an
toàn vốn được xem là tiêu chuẩn, điều kiện quan trọng để một thương vụ mua lại,
sáp nhập ngân hàng được phép thực hiện.
Thứ ba, tiêu chuẩn, điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần khi thực hiện mua
lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại.
Khi nghiên cứu về M&A, có tác giả sử dụng thuật ngữ Takeovers được hiểu
là thâu tóm một tỷ lệ sở hữu đủ để chi phối doanh nghiệp mục tiêu và Buyouts được
hiểu là việc mua lại cổ phần để bên mua nắm được quyền kiểm soát doanh nghiệp
mục tiêu [1, tr.21]. Acquisitions và Takeovers cơ bản là giống nhau nhưng có một
điểm khác nhau khi sử dụng các từ này để diễn đạt một thương vụ mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp cụ thể. Acquisitions thường được hiểu là có sự thương thảo
trong quá trình mua bán, sáp nhập doanh nghiệp và mang tính thân thiện. Trong khi
đó, Takeovers thường diễn đạt các thương vụ mua bán doanh nghiệp với tính chất
thâu tóm doanh nghiệp mục tiêu của bên mua, với mục đích để loại bỏ đối thủ cạnh
tranh hoặc thâu tóm để nắm quyền điều hành doanh nghiệp khi ban lãnh đạo của
công ty bị thâu tóm không đồng ý [1, tr.22].
Thế giới đã diễn ra nhiều cuộc mua bán, sáp nhập, thâu tóm các định chế tài
chính, ngân hàng với quy mô, mức độ khác nhau, diễn ra trong một quốc gia hoặc
xuyên quốc gia. Trên thực tế, không phải tất cả các thương vụ mua bán, sáp nhập
ngân hàng đều đúng pháp luật. Khi việc thâu tóm ngân hàng xảy ra có thể dẫn đến
thao túng việc kinh doanh tiền tệ, lãi suất, tỉ giá, hoặc cho vay dưới chuẩn... [57].
Thâu tóm ngân hàng cũng được đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khi
55
mà các hạn chế, rào cản kỹ thuật dần được gỡ bỏ đối với các doanh nghiệp trong
quá trình thực hiện cam kết quốc tế. Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt nên
thường có những cam kết quốc gia riêng trong quá trình đàm phán. Ví dụ khi đàm
phán gia nhập WTO, Việt Nam cam kết về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ
phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam như sau: Đối với
các NHTM quốc doanh được cổ phần hóa thì tỷ lệ cổ phần của các TCTD nước
ngoài trong các ngân hàng cổ phần hóa này có thể bị hạn chế như mức tỷ lệ cổ phần
của các ngân hàng Việt Nam trong các ngân hàng cổ phần hóa này; đối với các
NHTMCP thuộc khu vực dân doanh thì tổng số cổ phần do các cá nhân, tổ chức
nước ngoài nắm giữ tại mỗi NHTMCP của Việt Nam không được vượt quá 30%
vốn điều lệ của ngân hàng đó, trừ khi luật pháp Việt Nam có qui định khác hoặc
được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam [111].
Để hạn chế sự thâu tóm được hiểu tương tự như đề phòng một tổ chức, một
cá nhân giữ quyền chi phối ngân hàng, các quốc gia đều có quy định nghiêm ngặt
về giới hạn tỉ lệ sở hữu cổ phần trong lĩnh vực ngân hàng. Đối với các công ty niêm
yết trên thị trường chứng khoán, pháp luật Thái Lan quy định bất cứ người nào hoặc
công ty nào mua chứng khoán đến một tỷ lệ phần trăm có thể ảnh hưởng đến hoạt
động quản lý của một công ty thì phải báo giá bỏ thầu để mua lại chứng khoán của
công ty đó. Pháp luật Thái Lan quy định các nhà đầu tư nước ngoài mua hoặc
chuyển nhượng chứng khoán lên đến 5% tổng số chứng khoán của một công ty nội
địa phải thông báo cho Ủy ban chứng khoán trong ngày kinh doanh kế tiếp [59,
tr.68]. Pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng khống chế nhà đầu tư trong nước
sở hữu cổ phần của NHTM, khống chế nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của
TCTD Việt Nam.
Ngân hàng và các dịch vụ tài chính là các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện.
Các quốc gia trên thế giới đều hạn chế việc mở cửa đối với loại hình kinh doanh
này và việc mở cửa phải theo những lộ trình nhất định. Việc nhà đầu tư nước
ngoài góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp trong nước liên quan đến phương
thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại tại quốc gia. Với các
ngành và phân ngành khác đã cam kết, mức cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài
nắm giữ khi mua cổ phần tại doanh nghiệp trong nước phải phù hợp với các hạn
chế về tỷ lệ tham gia vốn của nước ngoài được quy định trong các ngành và phân
ngành đó, bao gồm cả hạn chế dưới dạng thời gian chuyển đổi nếu có, ngoại trừ
56
đối với việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần trong các NHTMCP và với
những ngành không cam kết.
Ngoài việc quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với NHTM, điều kiện để tổ
chức nước ngoài mua cổ phần dẫn đến một tỷ lệ sở hữu nào đó đối với NHTM trong
nước, điều kiện đối với tổ chức nước ngoài mua cổ phần và trở thành nhà đầu tư
chiến lược nước ngoài, điều kiện đối với NHTM trong nước bán cổ phần cho nhà
đầu tư nước ngoài cũng được pháp luật quy định chặt chẽ. Những quy định này liên
quan đến điều kiện để tổ chức nước ngoài mua cổ phần của NHTM trong nước như
phải có tổng tài sản tối thiểu theo quy định, xếp hạng tín nhiệm quốc tế, tuân thủ
pháp luật quốc gia, cam kết gắn bó lợi ích lâu dài với NHTM mua cổ phần... Điều
kiện đối với NHTM trong nước bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài cũng được
xác định như phải có phương án tăng vốn, bán cổ phiếu được cơ quan có thẩm
quyền thông qua, tuân thủ pháp luật trong nước...
Những vấn đề và quy định nêu trên về tỷ lệ sở hữu cổ phần ngân hàng, điều
kiện mua, bán cổ phần của nhà đầu tư trong và nước ngoài là nhằm phòng tránh
những rủi ro khác nhau cho nền kinh tế. Đây cũng là một trong những đặc điểm
của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM. Tỷ lệ sở hữu cổ phần, điều kiện mua,
bán cổ phần của nhà đầu tư trong và ngoài nước đối với NHTM được xác định là
một nội dung trong những tiêu chuẩn, điều kiện đặt ra khi thực hiện khi mua lại,
sáp nhập NHTM.
Thứ tư, tiêu chuẩn, điều kiện về giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của người
gửi tiền, người lao động khi thực hiện mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là nơi tích trữ tiết kiệm hàng đầu của công chúng, đặc biệt là tiết
kiệm của cá nhân và hộ gia đình. Việc thất thoát các khoản vốn này trong trường
hợp ngân hàng phá sản hay có vấn đề sẽ thành rủi ro lớn cho nhiều cá nhân và gia
đình. Hầu hết người gửi tiền tiết kiệm không có nhiều kiến thức về tài chính và
đánh giá mức độ rủi ro của ngân hàng. Vì vậy bảo vệ quyền lợi của khách hàng là
rất quan trọng, nếu không ý thức được vấn đề này thì rủi ro của ngân hàng kéo theo
hệ lụy cho người gửi tiền có thể làm rối loạn trật tự an toàn xã hội [136, tr.36].
Pháp luật bảo vệ người gửi tiền không chỉ riêng có bảo hiểm tiền gửi. Nghiên
cứu trong cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu kéo dài suốt 4 năm vừa
qua, hệ thống ngân hàng ở Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc bị ảnh hưởng nghiêm trọng,
nhưng kinh nghiệm tốt nhất trong việc bảo vệ người gửi tiền thuộc về nước Mỹ.
57
Nước Mỹ đã tiến hành rất thành công các thương vụ mua lại, sáp nhập đối với
những ngân hàng có vấn đề và bảo vệ hoàn toàn quyền lợi của hơn 100 triệu người
gửi tiền [43]. Các yêu cầu đối với pháp luật để bảo vệ người gửi tiền là: (1) Cần có
một quy trình xử lý chuẩn mực đối với những ngân hàng có vấn đề; (2) Có sự phối
hợp tốt giữa những thành viên trong mạng an toàn tài chính quốc gia (gồm Ủy ban
Giám sát tài chính quốc gia, NHTW, Bộ Tài chính và Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi);
(3) Phân công rõ ràng cơ quan đầu mối để tiếp nhận và xử lý những ngân hàng có
vấn đề; (4) Nhiệm vụ của Bảo hiểm tiền gửi và cách thức phối hợp giữa các thành
viên mạng an toàn tài chính quốc gia trong việc mua lại, sáp nhập những ngân hàng
có vấn đề, tránh sự tranh chấp và chồng chéo về quyền hạn, trách nhiệm.
Khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM thì quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của bên bị mua lại, bị sáp nhập sẽ chuyển sang bên mua lại, bên nhận sáp
nhập. Về nguyên tắc khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, NHTM mua lại, nhận
sáp nhập sẽ có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ nợ đối với khoản vay, tiền gửi
dưới mọi hình thức của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập. Như vậy, ngân hàng mua
lại, nhận sáp nhập sẽ phải có trách nhiệm thanh toán, hoàn trả đầy đủ (i) Tiền gốc;
(ii) Tiền lãi; (iii) Thanh toán đúng hạn và (iv) Các thỏa thuận khác giữa người gửi
tiền với ngân hàng bị mua lại, bị sáp nhập. Việc ngân hàng thực hiện các nghĩa vụ
đối với người gửi tiền để bảo đảm quyền của người gửi tiền là một trong những tiêu
chuẩn, điều kiện bắt buộc khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng.
Quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động khi trong trường hợp thực
hiện mua lại, sáp nhập NHTM có thể hiểu là: (1) Quyền có việc làm với vị trí việc
làm, điều kiện làm việc như trước khi thực hiện mua lại, sáp nhập; (2) Quyền được
nhận thu nhập tương đương như trước khi thực hiện mua lại, sáp nhập; (3) Quyền
được hưởng bảo hiểm xã hội, y tế, phúc lợi xã hội và các quyền lợi khác như tại
ngân hàng trước khi thực hiện mua lại, sáp nhập. Các quyền này cần được đảm
bảo tiếp tục thực hiện theo thỏa thuận đã ký kết giữa người lao động với người sử
dụng lao động là các ngân hàng trước khi bị mua lại, bị sáp nhập. Các ngân hàng
thực hiện mua lại, nhận sáp có nghĩa vụ thực hiện các thỏa thuận đã ký kết giữa
ngân hàng bị mua lại, bị sáp nhập đối với người lao động, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, khi Chính phủ thực hiện mua lại, sáp
nhập bắt buộc ngân hàng yếu kém trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế những năm
58
1997-1998, có những thương vụ sáp nhập ngân hàng thành công được là do tổ chức
công đoàn đứng ra xử lý những vướng mắc của người lao động thuộc các ngân hàng
tham gia sáp nhập [90]. Tại Trung Quốc, khi thực hiện mua lại, sáp nhập vấn đề bảo
vệ người lao động trong các công ty tư nhân, nhà đầu tư nước ngoài phải đệ trình
bản kế hoạch nhân sự của công ty nội địa cùng với hồ sơ xin đầu tư [59, tr.63]. Pháp
luật Thái Lan quy định kế hoạch M&A phải đảm bảo được quyền lợi của người lao
động và có sự đồng ý với bản kế hoạch nhân sự do bên mua đưa ra. Đối với những
người xin thôi việc, công ty phải đền bù cho họ theo quy định của pháp luật về lao
động tùy theo thời gian làm việc cho công ty [59, tr.69].
Qua nghiên cứu về lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện của một
số quốc gia trong vấn đề này thì quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,
người lao động được ghi nhận như là một vấn đề cần ưu tiên xử lý trong một thương
vụ mua lại, sáp nhập NHTM. Đây cũng là một trong những tiêu chí, điều kiện khi
thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, được đề cập trong quá trình đàm phán, ký kết
hợp đồng mua lại, sáp nhập và phải được cơ quan quản lý ngân hàng thông qua.
Thứ năm, tiêu chuẩn, điều kiện về phương án mua lại, sáp nhâp và sự chấp
thuân phương án mua lại, sáp nhâp của cơ quan quản lý có thẩm quyền khi thực
hiện mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại.
Như đã trình bày, khi một ngân hàng muốn mở rộng hoạt động như thực hiện
mua lại, sáp nhập với một ngân hàng khác, thiết lập văn phòng, chi nhánh theo
chiến lược phát triển của ngân hàng thì cần được sự đồng ý của cơ quan quản lý
ngân hàng. Chủ sở hữu ngân hàng không thể tự mình được quyền đóng góp hay rút
lui khỏi ngân hàng nếu phương án cụ thể của ngân hàng không được sự chấp thuận
rõ ràng bằng văn bản từ cơ quan quản lý ngân hàng, nơi đã cấp quyết định thành lập
cho ngân hàng [136, tr.36]. Phương án mua lại, sáp nhập NHTM được hiểu là văn
bản cung cấp những thông tin cơ bản, quan trọng để các bên thực hiện mua lại, sáp
nhập gửi tới cơ quan quản lý ngân hàng, trong đó có trình bày dự kiến những công
việc sẽ tiến hành khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, những nội dung dự kiến
về cách thức, trình tự tiến hành công việc trong điều kiện, hoàn cảnh được xác định.
Thông thường, pháp luật sẽ quy định những thông tin cần thiết phải có trong
phương án mua lại, sáp nhập gửi cơ quan quản lý ngân hàng để xem xét, quyết định.
Ngoài những thông tin cơ quan quản lý ngân hàng có được như tình hình tài chính
và hoạt động của các bên khi tham gia mua lại, sáp nhập, vốn điều lệ của NHTM
59
tham gia mua lại, sáp nhập, còn nhiều thông tin mà phương án mua lại, sáp nhập
phải nêu rõ như xử lý quyền lợi, nghĩa vụ của NHTM tham gia mua lại, sáp nhập,
của các tổ chức và cá nhân có liên quan (nếu có) như thế nào? Lộ trình sáp nhập,
nhân sự, mạng lưới, nội dung hoạt động và các vấn đề khác liên quan đến tổ chức,
hoạt động của NHTM sau khi mua lại, sáp nhập, phương án kinh doanh được dự
kiến thực hiện ra sao? Những thông tin trong phương án mua lại, sáp nhập này một
mặt thể hiện sự tuân thủ pháp luật, một mặt thể hiện ý chí, nguyện vọng của các bên
khi thực hiện mua lại, sáp nhập.
Trên cơ sở phương án mua lại, sáp nhập, cơ quan quản lý ngân hàng sẽ xem
xét, đánh giá thương vụ mua lại, sáp nhập ngân hàng có đáp ứng các tiêu chuẩn,
điều kiện được pháp luật quy định hay không và sẽ có ý kiến trả lời chính thức bằng
văn bản việc chấp thuận hay không đối với thương vụ này. Các bên tham gia mua
lại, sáp nhập ngân hàng chỉ được phép thực hiện khi có ý kiến đồng ý chính thức
bằng văn bản từ cơ quan quản lý ngân hàng. Những nội dung trong phương án mua
lại, sáp nhập có liên quan đến thẩm quyền quản lý của cơ quan nào thì khi thực hiện
mua lại, sáp nhập cần phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan quản lý có
thẩm quyền đó. Những văn bản chấp thuận này là quyết định của đại hội đồng cổ
đông của các ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập thông qua phương án mua lại,
sáp nhập; văn bản của cơ quan quản lý cạnh tranh thông qua về thủ tục kiểm soát
tập trung kinh tế; văn bản của cơ quan quản lý chứng khoán thông qua về phương
án hoán đổi cổ phiếu, sử dụng mã chứng khoán; văn bản của cơ quan quản lý thuế
thông qua về quyết toán thuế; văn bản của cơ quan quản lý ngân hàng thông qua
việc chấp thuận mua lại, sáp nhập; văn bản của cơ quan quản lý đăng ký kinh doanh
về việc cấp đăng ký kinh doanh...
Căn cứ vào các tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM nêu trên, tiêu
chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM trong trường hợp thực hiện tự nguyện và
bắt buộc được xác định như sau:
- Tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhâp NHTM trong trường hợp thực hiện
tự nguyện:
Các NHTM có quyền thực hiện mua lại, sáp nhập để phù hợp với mục tiêu
phát triển của doanh nghiệp, đáp ứng quyền tự do kinh doanh theo quy định của
pháp luật. Theo nguyên tắc tự nguyện, các bên thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM
sẽ cùng trao đổi, thỏa thuận các nội dung phục vụ cho mục đích mua lại, sáp nhập
60
của các bên trước khi được cơ quan quản lý ngân hàng phê duyệt phương án mua
lại, sáp nhập. Tuy nhiên, ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động của
NHTM có tác động sâu sắc đến tình hình kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, vì vậy
việc tiến hành các hoạt động mua lại, sáp nhập ngân hàng cần được đặt trong một
khuôn khổ pháp lý vững chắc.
Tại Hàn Quốc, để xử lý cuộc khủng hoảng tài chính, ngân hàng bắt đầu từ
những năm 1997, NHTW đã tiến hành rà soát và phân loại NHTM. Sau khi đánh
giá được mức vốn thực có của các NHTM, NHTW đã thực hiện các bước đi mạnh
mẽ, đồng thời khuyến khích các ngân hàng thực hiện mua lại, sáp nhập tự nguyện
để giúp các ngân hàng có vấn đề tự giải quyết, nhưng cũng khuyến khích để các
NHTM đang hoạt động bình thường thực hiện mua lại, sáp nhập, hợp nhất với
nhau trở thành các ngân hàng lớn, có khả năng cạnh tranh hiệu quả với các ngân
hàng nước ngoài. Tháng 11/2001, hai ngân hàng lớn của Hàn Quốc là Kookmin
Bank và Housing & Commercial Bank đã tự nguyện sáp nhập với nhau trở thành
ngân hàng lớn nhất Hàn Quốc. Đến cuối năm 2005, quá trình tái cơ cấu đã đưa
tổng số ngân hàng ở Hàn Quốc từ 33 ngân hàng vào năm 1997 xuống còn 19 ngân
hàng [120, tr.17].
Tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức tự nguyện
được xác định là:
(i) Không vi phạm pháp luật cạnh tranh về hành vi tập trung kinh tế sau khi
thực hiện mua lại, sáp nhập;
(ii) Đáp ứng yêu cầu về vốn, tỷ lệ an toàn vốn sau khi thực hiện mua lại,
sáp nhập;
(iii) Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ sở hữu cổ phần sau khi thực hiện mua lại,
sáp nhập;
(iv) Đáp ứng yêu cầu về giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi
tiền, người lao động sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập;
(v) Có phương án mua lại, sáp nhập theo quy định và sự chấp thuận phương
án mua lại, sáp nhập của cơ quan quản lý có thẩm quyền.
Với những tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM như trên thì việc
một ngân hàng đang hoạt động bình thường, hay một ngân hàng được xác định chưa
đáp ứng một số chuẩn mực an toàn nhưng không nghiêm trọng đều có thể thực hiện
tự nguyện mua lại, sáp nhập theo định hướng phát triển của ngân hàng hoặc là giải
pháp thực hiện tái cơ cấu của ngân hàng.
61
- Tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhâp NHTM trong trường hợp bắt buộc
thực hiện:
Thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng không chỉ mang tính tự nguyện của
các ngân hàng mà còn là biện pháp thực hiện tái cấu trúc ngân hàng, được nhiều
quốc gia tiến hành để xử lý các ngân hàng yếu kém, giúp hệ thống ngân hàng không
đổ vỡ [120, tr.4]. Các nước trên thế giới khi tiến hành tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng đều tiến hành rà soát lại các văn bản pháp luật, xây dựng các phương án can
thiệp của Chính phủ và NHTW, để đảm bảo rằng chúng không vi phạm các luật lệ
đã ban hành trước đây. Điều này là rất quan trọng bởi việc Chính phủ, NHTW can
thiệp cho thấy là khách quan, minh bạch, tất cả đều vì lợi ích chung của quốc gia,
của nền kinh tế, không có một động cơ nào khác. Căn cứ vào các văn bản pháp lý
đó, Chính phủ và NHTW sẽ cần phải xây dựng một quy trình với những tiêu chí rõ
ràng ngay từ đầu về mức độ can thiệp của nhà nước cho từng trường hợp ngân hàng
có vấn đề một cách cụ thể [120, tr.5].
Theo thông lệ quốc tế và quy định pháp luật, các quốc gia thường tiến hành
can thiệp thông qua việc mua lại, sáp nhập bắt buộc đối với ngân hàng yếu kém,
không đảm bảo tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả
năng thanh toán, không có khả năng tự tái cơ cấu, không tự thực hiện sáp nhập, hợp
nhất tự nguyện được, có khả năng xảy ra đổ vỡ ảnh hưởng đến an toàn cả hệ thống.
Việc thực hiện mua lại, sáp nhập bắt buộc được thực hiện trên cơ sở cơ quan quản
lý ngân hàng tiến hành phân loại ngân hàng dựa theo các chuẩn mực quốc tế.
Những ngân hàng không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn an toàn bị buộc để cơ quan quản
lý ngân hàng giới thiệu những NHTM lành mạnh ở trong hoặc ngoài nước mua lại,
hoặc chỉ định NHTM do nhà nước nắm cổ phần chi phối mua lại, hoặc do chính cơ
quan quản lý ngân hàng mua lại. Những ngân hàng gặp khó khăn nhưng có thể phục
hồi sẽ được yêu cầu sáp nhập hoặc hợp nhất với nhau. Những ngân hàng được giới
thiệu hay chỉ định mua lại thường là những ngân hàng có vốn điều lệ lớn, có tình
hình tài chính lành mạnh, kinh nghiệm quản trị tốt, các tỷ lệ an toàn đảm bảo hoạt
động ngân hàng theo quy định, quan trọng hơn là những ngân hàng này có khả năng
vực dậy các ngân hàng yếu kém sau khi mua lại. Việc Chính phủ mua lại hoặc đầu
tư vào vốn cổ phần của các ngân hàng yếu kém là một trong những giải pháp tạm
thời cuối cùng đối với các NHTM không có khả năng sáp nhập hoặc hợp nhất. Kinh
nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết các nước phát triển đều phải thực hiện nghĩa vụ
này. Sau khi tiến hành các biện pháp nhằm khôi phục hoạt động của các ngân hàng
62
này thì Chính phủ sẽ bán lại cổ phần cho các nhà đầu tư khác [3].
Để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, Hàn Quốc đưa ra chương trình rà soát
theo chuẩn quốc tế, phân loại ngân hàng. Bộ khung tiêu chí được sử dụng để đánh
giá hệ thống ngân hàng là PCA (Prompt Corective Action) với những nội dung xoay
quanh hệ số an toàn vốn (CAR) của các ngân hàng. Nhóm những ngân hàng yếu
kém nhất, không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về an toàn vốn theo Basel (CAR 8%)
bị buộc chấm dứt hoạt động, sáp nhập với ngân hàng có tình hình tài chính tốt hơn.
Với nhóm ngân hàng thứ hai, dù hệ số CAR 8% nhưng có khả năng phục hồi, được
yêu cầu sáp nhập với nhau. Có 5 ngân hàng đã bị Chính phủ Hàn Quốc cho đóng
cửa do có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu dưới 8% (tháng 7/1998), đồng thời Chính phủ
yêu cầu các ngân hàng này phải hợp nhất và sáp nhập lại với nhau để đảm bảo đạt
được mức an toàn vốn tối thiểu [120, tr.17]. Tại Malaysia và Inđônêsia, khi xác định
được mức vốn thực có của các NHTM sau khi đã bù đắp các khoản thiệt hại về nợ
xấu và dự phòng, NHTW các nước này đã khuyến khích và sử dụng các biện pháp
tăng vốn hoặc buộc phải sáp nhập một số NHTM để đảm bảo mức vốn tối thiểu an
toàn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, thậm chí mở rộng hình thức sở hữu nước
ngoài trong một thời gian nhất định. Vào tháng 9/1998, Chính phủ Inđônêsia đã
buộc 4 NHTM quốc doanh phải hợp nhất lại thành một NHTM mới có tên là Bank
Mandiri. Tháng 9/1999, Chính phủ Malaysia công bố kế hoạch phân loại và sáp
nhập các NHTM và công ty tài chính thành sáu nhóm ngân hàng lớn [3].
Căn cứ vào những nội dung liên quan đến tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp
nhập đã nêu cùng với yêu cầu xử lý ngân hàng yếu kém, không có khả năng tự phục
hồi, tái cơ cấu thì tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM trong trường hợp
bắt buộc thực hiện là:
(i) Ngân hàng vi phạm nghiêm trọng quy định các giới hạn, các tỷ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng (ngân hàng không còn đủ vốn để thực
hiện các hoạt động ngân hàng, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ở dưới ngưỡng an toàn
8%, ngân hàng đã được đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt nhưng không có khả
năng tái cơ cấu, khắc phục được, có nguy cơ đổ vỡ, gây mất an toàn trong cả hệ
thống ngân hàng);
(ii) Không vi phạm pháp luật cạnh tranh về hành vi tập trung kinh tế sau khi
thực hiện mua lại, sáp nhập;
(iii) Đáp ứng yêu cầu về vốn ngân hàng, trong đó yêu cầu về vốn pháp định,
yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập;
63
(iv) Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần sau khi thực hiện mua lại,
sáp nhập;
(v) Đáp ứng yêu cầu về giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi
tiền, người lao động sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập; (vi) Có sự chấp thuận mua
lại, sáp nhập của cơ quan quản lý có thẩm quyền.
2.2.4.2. Xác định trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhâp
Trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM được xác định là trình tự, thủ tục
hành chính để các bên tham gia mua lại, sáp nhập phải tuân thủ theo các quy định
của pháp luật. Theo đó trình tự thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM được hiểu là thứ
tự các bước tiến hành của các bên tham gia mua lại, sáp nhập và cơ quan thực hiện
thủ tục mua lại, sáp nhập trong giải quyết mua lại, sáp nhập NHTM cho tổ chức, cá
nhân. Thủ tục thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM được hiểu là trình tự, cách thức
thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
quy định để giải quyết việc mua lại, sáp nhập NHTM liên quan đến cá nhân, tổ
chức. So với những quy định về trình tự, thủ tục áp dụng đối với doanh nghiệp thì
trình tự, thủ tục áp dụng đối với NHTM có mức độ phức tạp cao hơn. Tại một số
nước như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, ngoài việc pháp luật quy định trực tiếp về
trình tự, thủ tục thực hiện mua lại, sáp nhập trong các văn bản pháp luật, cơ quan có
thẩm quyền còn ban hành Hướng dẫn mua lại, sáp nhập nhằm cung cấp thêm công
cụ, thông tin để các bên có cơ sở thực hiện cũng như tạo ra hành lang pháp lý thực
hiện thương vụ này.
Căn cứ vào việc mua lại, sáp nhập được thực hiện theo hình thức tự nguyện
hay bắt buộc để xác định trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM. Thông thường,
trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM bao gồm một số bước chính như sau:
- Trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức thực hiện
tự nguyện:
Thứ nhất, trình tự, thủ tục trong việc xây dựng văn bản trình cơ quan có thẩm
quyền quyết định của NHTM tham gia mua lại, sáp nhâp xem xét hoặc thông qua.
Tại bước này, ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập phối hợp để xây dựng
những văn bản theo yêu cầu của pháp luật, thông thường bao gồm có đơn yêu cầu
mua lại, sáp nhập, đề án mua lại, sáp nhập, hợp đồng mua lại, sáp nhập và điều lệ
hoạt động của NHTM nhận sáp nhập. Ở Mỹ, mỗi đơn yêu cầu sáp nhập được xem
xét bởi: a) Các chuyên gia kinh tế và luật sư của các Cơ quan quản lý ngân hàng
Liên bang, tính toán những tác động tiềm năng tới mức độ cạnh tranh của vụ sáp
64
nhập; b) Các quan chức Phòng giám sát và quản lý sẽ đánh giá những ảnh hưởng
có thể xảy ra đối với tình hình tài chính và triển vọng tương lai của các ngân hàng
có liên quan [136, tr.826]. Pháp luật Mỹ quy định các yêu cầu sáp nhập phải được
thông báo trên một tờ báo phổ thông tại địa phương với quy định cụ thể về thời
gian, tần suất thông báo. Đề nghị mua lại, sáp nhập sẽ được ban lãnh đạo của mỗi
ngân hàng thông qua và cổ đông của mỗi ngân hàng bỏ phiếu. Nếu được cổ đông
thông qua (tối thiểu là 2/3), ngân hàng sẽ phải thông báo cho cơ quan Chính phủ có
chức năng quản lý hoạt động mua lại, sáp nhập, thông báo cho cơ quan quản lý
ngân hàng giám sát những ngân hàng liên quan [136, tr.820].
Thứ hai, trình tự, thủ tục thực hiện theo quy định của pháp luât cạnh tranh.
NHTM tham gia mua lại, sáp nhập có văn bản thông báo cho cơ quan quản
lý cạnh tranh hoặc đề nghị được hưởng miễn trừ đối với trường hợp mua lại, sáp
nhập bị cấm theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Yếu tố “ảnh hưởng cạnh
tranh” của các thương vụ mua lại, sáp nhập thường được pháp luật đưa lên vị trí
hàng đầu. Vì thế trình tự, thủ tục thực hiện theo quy định của pháp luật cạnh tranh
được xem là quy định bắt buộc khi quyết định một thương vụ mua lại, sáp nhập
ngân hàng. Cơ quan quản lý cạnh tranh hoặc cơ quan tư pháp nơi ngân hàng gửi
đề nghị mua lại, sáp nhập sẽ xem xét đơn đề nghị theo thẩm quyền và cho ý kiến
chính thức thương vụ đó có được tiến hành hay không. Nếu được chấp thuận, các
bên tham gia sẽ phải hoàn tất hồ sơ theo quy định của pháp luật và gửi cơ quan
quản lý ngân hàng phê chuẩn.
Thứ ba, trình tự, thủ tục chấp thuân nguyên tắc mua lại, sáp nhâp.
NHTM tham gia mua lại, sáp nhập phối hợp lập hồ sơ theo quy định để
NHTM mua lại, nhận sáp nhập gửi cơ quan quản lý ngân hàng xem xét, quyết định
chấp thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập. Trong bước chấp thuận nguyên tắc mua
lại, sáp nhập, trên cơ sở thủ tục, hồ sơ đã chuẩn bị, ý kiến chính thức của các cơ
quan có thẩm quyền liên quan đến việc chấp thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập,
thẩm quyền quyết định sau cùng sẽ do một cơ quan được pháp luật quy định thực
hiện, đồng thời chịu trách nhiệm trong quá trình thẩm định về trình tự, thủ tục chấp
thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập NHTM.
Do chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội, hệ thống pháp luật của từng
quốc gia khác nhau nên việc quy định thẩm quyền quyết định mua lại, sáp nhập
ngân hàng đối với các cơ quan, tổ chức cũng không giống nhau. Ở Mỹ, Đạo luật sáp
nhập ngân hàng năm 1960 đòi hỏi mỗi ngân hàng khi tham gia sáp nhập phải được
65
chuẩn y từ các cơ quan điều hành Liên bang trước khi sáp nhập. Với các ngân hàng
trong nước thì việc sáp nhập phải được Cục Quản lý tiền tệ thông qua; đối với các
ngân hàng được bảo hiểm, đồng thời là thành viên của Hệ thống Dự trữ Liên bang
thì phải có sự thông qua của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed; nếu không là thành
viên của Hệ thống Dự trữ Liên bang thì cần phải có sự thông qua của Cơ quan Bảo
hiểm tiền gửi Liên bang [136, tr.822]. Ở Thái Lan, cơ quan có thẩm quyền quyết
định mua lại, sáp nhập ngân hàng được trao cho NHTW...
Ở Việt Nam, thẩm quyền quyết định mua lại, sáp nhập NHTM được pháp
luật quy định đối với cơ quan quản lý ngân hàng và trong nội bộ NHTM. Về thẩm
quyền của cơ quan quản lý ngân hàng, NHNN là cơ quan chấp thuận việc mua, bán,
chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể TCTD. NHNN có quyền yêu cầu chủ sở
hữu tăng vốn, xây dựng, thực hiện kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp nhập, hợp
nhất, mua lại đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt. Thống đốc NHNN là người có
thẩm quyền quyết định việc mua lại, sáp nhập và các hoạt động khác liên quan đến
mua lại, sáp nhập của TCTD. Cục quản lý cạnh tranh có thẩm quyền chấp thuận
mua lại, sáp nhập nếu không vi phạm quy định về tập trung kinh tế, Ủy ban Chứng
khoán nhà nước (UBCKNN) chấp thuận mua lại, sáp nhập nếu không vi phạm quy
định đối với công ty niêm yết...
Thứ tư, trình tự, thủ tục chấp thuân chính thức mua lại, sáp nhâp.
Khi được chấp thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập, NHTM tham gia mua lại,
sáp nhập phải lấy ý kiến của cơ quan có thẩm quyền quyết định của NHTM để
thông qua các nội dung thay đổi tại đề án mua lại, sáp nhập và các vấn đề có liên
quan khác nếu có, đồng thời phối hợp lập hồ sơ theo quy định để NHTM mua lại,
nhận sáp nhập gửi cơ quan quản lý ngân hàng xem xét chấp thuận. Cơ quan quản lý
ngân hàng có trách nhiệm thẩm định hồ sơ, chấp thuận hoặc từ chối chấp thuận việc
mua lại, sáp nhập. Nếu được chấp thuận, các ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập
phải hoàn tất các thủ tục pháp lý liên quan đến việc thành lập, tổ chức và hoạt động
của ngân hàng như thực hiện đăng ký kinh doanh, chuyển đổi hình thức pháp lý,
đăng ký quyền sở hữu tài sản hay các thủ tục liên quan đến chứng khoán niêm yết.
Trên thế giới, hoạt động ngân hàng là một trong những lĩnh vực được kiểm
soát chặt chẽ nhất. Để đảm bảo tính thận trọng trong quá trình xử lý, đối với tất cả
các trường hợp mua lại, sáp nhập, pháp luật Việt Nam đều áp dụng hai bước chấp
thuận là chấp thuận nguyên tắc và chấp thuận chính thức. Đối với chấp thuận
nguyên tắc, việc mua lại, sáp nhập NHTM liên quan đến nhiều cơ quan quản lý ở cả
66
Trung ương và địa phương, do vậy trong bước này quy định việc mua lại, sáp nhập
phải có ý kiến của một số cơ quan ở Trung ương và địa phương. Đối với chấp thuận
chính thức, trong trường hợp phương án hoặc các vấn đề khác liên quan đến việc
mua lại, sáp nhập thay đổi so với bước chấp thuận nguyên tắc mà thuộc thẩm quyền
của cơ quan có thẩm quyền nội bộ quyết định thì các NHTM một lần nữa phải tổ
chức đại hội đồng cổ đông để thông qua. Khi hoàn tất thủ tục này, ngân hàng tham
gia mua lại, sáp nhập lập và gửi bộ hồ sơ theo quy định để trình xem xét. Sau khi có
quyết định của Thống đốc NHNN, các NHTM tham gia mua lại, sáp nhập phải hoàn
tất các thủ tục về đăng ký kinh doanh và đăng bố cáo.
Bản chất pháp lý của việc chấp thuận mua lại, sáp nhập NHTM chính là việc
kiểm soát các trình tự, thủ tục và giám sát việc mua lại, sáp nhập NHTM một cách
chặt chẽ của cơ quan quản lý có thẩm quyền. Chỉ khi nào các ngân hàng tham gia
mua lại, sáp nhập hoàn tất các trình tự, thủ tục trong từng giai đoạn thì mới được
thực hiện các công việc tiếp theo. Quyết định chấp thuận mua lại, sáp nhập của cơ
quan quản lý ngân hàng chính là việc thừa nhận các bên đã hoàn tất các trình tự, thủ
tục theo quy định. Việc pháp luật xác định thủ tục chấp thuận mua lại, sáp nhập
NHTM cũng chính bởi vai trò quan trọng của NHTM đối với nền kinh tế và an toàn
của cả hệ thống ngân hàng. Một trong những chức năng quan trọng của nhà nước là
kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật do nhà nước ban hành, chính vì thế công
tác kiểm tra, giám sát đối với các quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cũng không nằm ngoài chức năng đó.
- Trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức thực hiện
bắt buộc:
Mua lại, sáp nhập được thực hiện theo hình thức tự nguyện nhưng có thể bị
bắt buộc mua lại hay sáp nhập. Đây là trường hợp mang tính chất áp đặt của cơ quan
quản lý ngân hàng khi xử lý một vụ việc cụ thể. Trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập
NHTM trong trường hợp thực hiện bắt buộc thông thường bao gồm một số bước sau:
Thứ nhất, khi xác định ngân hàng yếu kém, không có khả năng tái cơ cấu
hoặc tái cơ cấu không thành công, cơ quan quản lý ngân hàng sẽ ban hành quyết
định mua lại, sáp nhập bắt buộc để gửi cho ngân hàng bị yêu cầu mua lại, sáp nhập.
Nếu không có phản đối của cơ quan tư pháp hoặc cơ quan quản lý có thẩm quyền,
việc mua lại, sáp nhập sẽ được thực thi kể từ ngày mua lại, sáp nhập có hiệu lực ghi
trong quyết định được ban hành của cơ quan quản lý ngân hàng.
Ở Mỹ, khi một ngân hàng gặp khó khăn, Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên
67
bang Mỹ phải đưa ra quyết định liệu ngân hàng đó có bị phá sản hay không. Một
trong hai phương pháp mà cơ quan này có thể lựa chọn là phương pháp mua lại để
giải quyết hậu quả phá sản. Vào một ngày xác định, Cơ quan quản lý ngân hàng cấp
Bang hay Liên bang có thẩm quyền sẽ ban hành quyết định đóng cửa ngân hàng.
Ngân hàng mua lại sẽ tiến hành thỏa thuận với các quan chức của Cơ quan Bảo
hiểm tiền gửi Liên bang về giá trị tài sản của ngân hàng và thoả thuận về tài sản hay
những khoản nợ được cơ quan này giữ lại, cũng như những món nợ sẽ do người
mua có trách nhiệm hoàn trả [136, tr.58,59].
Thứ hai, cơ quan quản lý ngân hàng hay ngân hàng được chỉ định mua lại sẽ
tiếp quản ngân hàng bị mua lại. Các thủ tục pháp lý sẽ được tiến hành như chuyển
giao quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp, tài sản giữa các bên thực hiện mua lại, sáp
nhập. Điều chuyển các nhân sự cấp cao sang NHTM bị mua lại, sáp nhập để điều
hành hoạt động ngân hàng nhằm đảm bảo NHTM bị mua lại, sáp nhập hoạt động
được an toàn, liên tục, ổn định, không ảnh hưởng đến quyền lợi người gửi tiền và
quyền lợi, nghĩa vụ của bên thứ ba. Pháp luật Mỹ quy định nếu ngân hàng bị phá
sản được tiếp quản bởi một ngân hàng lớn hơn theo phương pháp mua lại, những
người gửi tiền sẽ được tiếp tục tích lũy tiền lãi của họ mà không có sự gián đoạn
nào [136, tr.58].
Thứ ba, cơ quan quản lý ngân hàng hay ngân hàng được chỉ định mua lại sẽ
thực hiện cấp đủ vốn điều lệ đối với ngân hàng bị mua lại theo quy định của pháp
luật, thực hiện các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp như các nghĩa vụ nợ, khoản
vay, tiền gửi dưới mọi hình thức, thực hiện quyền chủ nợ, quyền sở hữu tài sản...
theo quy định. Tại Thái Lan, NHTW khuyến khích các NHTM hợp nhất thông qua
hình thức cung cấp vốn đối ứng cho bên mua lại các ngân hàng nhỏ và đứng ra bảo
lãnh các khoản lỗ từ danh mục nợ xấu (sau khi đã trích lập dự phòng rủi ro) trong
các năm hoạt động đầu tiên. Bên cạnh đó, NHTW còn cung cấp vốn cho các NHTM
dưới dạng cổ phần thông thường và cổ phần ưu đãi; các NHTM có quyền mua lại
vốn đầu tư của NHTW Thái Lan với giá gốc cộng với chi phí vốn [32].
Thứ tư, cơ quan quản lý ngân hàng/ngân hàng được chỉ định mua lại cùng
các bên có liên quan hoàn tất các thủ tục pháp lý liên quan đến việc thành lập, tổ
chức và hoạt động của ngân hàng bị mua lại, bị sáp nhập bắt buộc như thực hiện
đăng ký kinh doanh, chuyển đổi hình thức pháp lý, đăng ký quyền sở hữu tài sản, sở
hữu trí tuệ hay các thủ tục liên quan đến chứng khoán niêm yết...
Nhìn chung, việc quy định rõ ràng, nhất quán về trình tự, thủ tục, trách
68
nhiệm, quyền hạn cụ thể của các cơ quan và các bên có liên quan khi thực hiện mua
lại, sáp nhập NHTM là cơ sở pháp lý quan trọng để việc mua lại, sáp nhập được
thực hiện theo quy trình chặt chẽ và mang lại hiệu quả về mặt pháp lý, kinh tế, xã
hội. Đồng thời, việc quy định này xác định được trách nhiệm của các cơ quan có
liên quan và cơ quan quản lý ngân hàng trong quá trình thẩm định và quyết định cho
phép hay không cho phép một thương vụ mua lại, sáp nhập NHTM được thực hiện.
Việc các bên thực hiện mua lại, sáp nhập cùng ký vào một thỏa thuận hay
hợp đồng mua lại, sáp nhập không có nghĩa là giao dịch mua lại, sáp nhập đã thành
công và có thể kết thúc. Các giao dịch mua lại, sáp nhập NHTM chỉ được coi là đã
hoàn thành khi quyền và nghĩa vụ của các bên được ghi nhận đầy đủ, đồng thời thực
hiện các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Thực hiện trình tự, thủ tục
này chính cũng là đảm bảo cho các điều kiện tiên quyết để giao dịch mua lại, sáp
nhập NHTM có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, trong quá trình mua lại, sáp nhập, còn có nhiều trình tự, thủ tục
khác cần phải thực hiện trình tự, thủ tục liên quan đến chuyển quyền sở hữu tài sản,
chuyển quyền sở hữu tác giả nếu phải thực hiện chuyển quyền sở hữu; trình tự, thủ
tục liên quan đến cấp giấy phép thành lập và hoạt động, nộp thuế, phát hành chứng
khoán... Những trình tự, thủ tục này được ban hành rải rác tại nhiều văn bản pháp
luật khác nhau. Vì thế việc xây dựng và ban hành cẩm nang hướng dẫn về trình tự,
thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM là rất cần thiết và hữu ích cho các bên tham gia.
2.2.4.3. Xác định hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhâp
Hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập NHTM được xác định qua một số nội
dung chính như sau:
Mua lại NHTM có thể là mua toàn bộ hoặc một phần cổ phần hay tài sản và
quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành
nghề của NHTM bị mua lại. Khi thực hiện mua lại toàn bộ cổ phần hay tài sản và
quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của NHTM, hệ quả pháp lý của hoạt động mua lại
NHTM là NHTM bị mua lại trở thành chi nhánh trực thuộc của NHTM mua lại
hoặc sau khi mua lại có thể bị sáp nhập vào NHTM mua lại, hoặc NHTM bị mua lại
có thể được chuyển đổi hình thức pháp lý để trở thành công ty trực thuộc bên mua
lại. Kể từ thời điểm chuyển quyền sở hữu là ngày mua lại có hiệu lực, được xác
định trong văn bản chấp thuận mua lại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định, trách nhiệm pháp lý về tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của bên bị
mua lại sẽ do bên mua lại thực hiện. Về mặt pháp lý, pháp luật quy định NHTM
69
mua lại sẽ tiếp nhận, kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ pháp lý của NHTM bị mua
lại, cụ thể bao gồm: (i) Quyền chủ nợ của NHTM bị mua lại đối với các khoản cấp
tín dụng, khoản đầu tư vào trái phiếu, chứng khoán nợ khác được chuyển sang cho
NHTM mua lại; (ii) Quyền cổ đông, chủ sở hữu của NHTM bị mua lại đối với các
khoản góp vốn, mua cổ phần được chuyển sang NHTM mua lại; (iii) Quyền sở hữu
đối với các tài sản của NHTM bị mua lại (trụ sở, bất động sản, tài sản khác…) được
chuyển sang NHTM mua lại; (iv) Các nghĩa vụ nợ đối với khoản vay, tiền gửi dưới
mọi hình thức… của NHTM bị mua lại cũng được chuyển sang NHTM mua lại kể
từ ngày mua lại có hiệu lực pháp luật. Quyền của người gửi tiền tại NHTM bị mua
lại được bảo đảm; (v) Các quyền và nghĩa vụ khác theo hợp đồng/thỏa thuận của
NHTM bị mua lại được chuyển giao sang NHTM mua lại kể từ ngày mua lại có
hiệu lực pháp luật [82]. Khi thực hiện mua lại một phần cổ phần hay tài sản và
quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của NHTM khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn
bộ hoặc một ngành nghề của NHTM bị mua lại, hệ quả pháp lý của hoạt động mua
lại NHTM là NHTM bị mua lại không trở thành công ty trực thuộc của NHTM mua
lại NHTM đó. Về mặt pháp lý, NHTM mua lại chỉ có quyền và nghĩa vụ pháp lý đối
với số cổ phần hay tài sản và quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của NHTM khác
trong phạm vi mua lại. Khi tỷ lệ mua lại đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một
ngành nghề của NHTM bị mua lại, quyết định quản lý, điều hành của NHTM bị
mua lại thuộc về bên mua lại theo quy định của pháp luật và điều lệ NHTM.
Đối với giao dịch sáp nhập, kể từ thời điểm chuyển quyền sở hữu là ngày
sáp nhập có hiệu lực, được xác định trong văn bản chấp thuận sáp nhập do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, trách nhiệm pháp lý về tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của bên bị sáp nhập sẽ do bên nhận sáp nhập thực
hiện. Bên bị sáp nhập chấm dứt pháp nhân. Về mặt pháp lý, NHTM nhận sáp nhập
sẽ tiếp nhận, kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ pháp lý của NHTM bị sáp nhập,
cụ thể bao gồm: (i) Quyền chủ nợ của NHTM bị sáp nhập đối với các khoản cấp
tín dụng, khoản đầu tư vào trái phiếu, chứng khoán nợ khác được chuyển sang cho
NHTM nhận sáp nhập; (ii) Quyền cổ đông, chủ sở hữu của NHTM bị sáp nhập
được chuyển sang NHTM nhận sáp nhập; (iii) Quyền sở hữu đối với các tài sản
của NHTM bị sáp nhập (trụ sở, bất động sản, tài sản khác…) được chuyển sang
NHTM nhận sáp nhập; (iv) Các nghĩa vụ nợ đối với khoản vay, tiền gửi dưới mọi
hình thức… của NHTM bị sáp nhập cũng được chuyển sang NHTM nhận sáp
nhập kể từ ngày sáp nhập có hiệu lực pháp luật. Quyền của người gửi tiền tại
70
NHTM bị sáp nhập được bảo đảm; (v) Các quyền và nghĩa vụ khác theo hợp
đồng/thỏa thuận của NHTM bị sáp nhập được chuyển giao sang NHTM nhận sáp
nhập kể từ ngày sáp nhập có hiệu lực pháp luật [82].
Một trong những hệ quả pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM là
quyền chủ nợ của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập đối với các khoản cấp tín dụng,
khoản đầu tư vào trái phiếu, chứng khoán nợ khác được chuyển sang cho NHTM
mua lại, nhận sáp nhập. Khi đó NHTM mua lại, nhận sáp nhập là chủ sở hữu với
các tài sản này, có quyền đòi nợ và quyền định đoạt các tài sản này. Chuyển giao
quyền đòi nợ là một trong những trường hợp thông dụng của việc chuyển giao
quyền yêu cầu mà trong đó, đối tượng chuyển giao là quyền đòi nợ và việc chuyển
giao mang đầy đủ tính chất của một hợp đồng dân sự, nghĩa là bên chuyển giao
chuyển quyền đòi nợ, còn bên nhận chuyển giao phải đáp ứng cho bên chuyển giao
một số điều kiện nhất định. Trường hợp khoản nợ này có biện pháp bảo đảm thì
việc chuyển giao quyền đòi nợ bao gồm cả biện pháp bảo đảm đó. Sau khi hợp đồng
chuyển giao có hiệu lực, bên nhận chuyển giao trở thành bên thế quyền, nên có
quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán khi khoản nợ đến hạn; đồng thời, có
quyền yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm theo giao dịch bảo đảm đã ký kết trước đây
giữa bên chuyển giao và bên có nghĩa vụ để thu hồi nợ, mà không yêu cầu phải ký
lại giao dịch bảo đảm với bên có nghĩa vụ. Như vậy, sau khi ngày mua lại, sáp nhập
có hiệu lực pháp luật, quyền chủ nợ của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập đối với các
khoản cấp tín dụng, khoản đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu, chứng khoán nợ khác
được chuyển sang cho NHTM mua lại, nhận sáp nhập. Trong trường hợp có thỏa
thuận từ trước về việc không chuyển giao quyền đòi nợ thì quyền này không có cơ
sở pháp lý để chuyển giao cho bên mua lại, nhận sáp nhập. Do đó pháp luật về mua
lại, sáp nhập NHTM cần quy định rõ để việc chuyển giao quyền chủ nợ có thể thực
hiện được trên thực tế, tránh phát sinh tranh chấp.
Như đã trình bày, thời điểm chuyển quyền sở hữu là ngày mua lại, sáp nhập
có hiệu lực được xác định trong văn bản chấp thuận mua lại, sáp nhập đối với giao
dịch mua lại, sáp nhập do cơ quan quản lý ngân hàng có thẩm quyền quy định. Khi
đó bên mua lại, bên nhận sáp nhập sẽ nhận chuyển giao và kế thừa nguyên trạng
toàn bộ hoặc một phần tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp, các khoản nợ, nghĩa vụ,
trách nhiệm pháp lý của bên bị mua lại, bị sáp nhập, các báo cáo quản lý, tài chính
đã được kiểm toán bắt buộc và được cơ quan quản lý ngân hàng chấp thuận. Ngoài
việc nhận chuyển giao và kế thừa nguyên trạng tài sản, các bên mua lại, nhận sáp
71
nhập sẽ tiếp nhận và thực thi quyền sở hữu đối với thương hiệu, hình ảnh, mã chứng
khoán và các tài sản trí tuệ khác của bên bị mua lại, bị sáp nhập kể từ ngày mua lại,
sáp nhập. Đối với các tài sản của bên bị mua lại, bị sáp nhập phải đăng ký hay thực
hiện chuyển quyền sở hữu theo quy định, bên mua lại, bên nhận sáp nhập sẽ thực
hiện các thủ tục cần thiết để đăng ký với tư cách là chủ sở hữu hoặc người có quyền
sử dụng (tùy từng trường hợp áp dụng) đối với các tài sản đó. Bên bị mua lại, bị sáp
nhập sẽ bằng hợp đồng ủy quyền cho bên mua lại, nhận sáp nhập thay mặt để ký các
văn bản và thực hiện tất cả các hành động cần thiết hoặc bắt buộc theo yêu cầu của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và/hoặc pháp luật có liên quan nhằm thực hiện thủ
tục thay đổi đăng ký sở hữu hoặc sử dụng tài sản đó. Vào ngày mua lại, sáp nhập,
toàn bộ hồ sơ tài liệu liên quan đến quá trình tổ chức và hoạt động của bên bị mua
lại, bị sáp nhập từ khi thành lập đến ngày mua lại, sáp nhập phải được chuyển giao
cho bên mua lại, nhận sáp nhập.
Vào ngày mua lại, sáp nhập có hiệu lực, cổ đông sáng lập của NHTM bị mua
lại, bị sáp nhập sẽ bị mất quyền cổ đông sáng lập, trở thành cổ đông nắm giữ cổ
phiếu phổ thông, cụ thể là: (1) Không còn quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết
trong thời gian luật định kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
được chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết do đã trở thành cổ phiếu phổ thông.
(2) Không bị hạn chế quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn
luật định kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. (3) Không còn
nghĩa vụ phải cùng các cổ đông sáng lập khác đăng ký mua và phải thanh toán đủ số
cổ phần đã đăng ký mua số cổ phần phổ thông được quyền chào bán theo quy định
kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
2.2.4.4. Xác định giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhâp
Pháp luật quy định giải quyết tranh chấp khi thực hiện mua lại, sáp nhập bao
gồm các nội dung: xác định nội dung tranh chấp; quy định thời hiệu, thời hạn giải
quyết tranh chấp; quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp; quy định phương thức
giải quyết tranh chấp.
Cũng như hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, khi thực hiện mua lại,
sáp nhập NHTM sẽ có nhiều nội dung phát sinh tranh chấp, khiếu kiện liên quan
giữa NHTM với các thành viên của NHTM; giữa các thành viên của NHTM với
nhau; liên quan đến việc chuyển giao tài sản, tài chính, quyền sở hữu tài sản, quyền
sở hữu trí tuệ, sử dụng lao động, thực hiện hợp đồng cấp tín dụng... Các tranh chấp
giữa NHTM với các thành viên của NHTM là các tranh chấp về phần vốn góp của
72
mỗi thành viên đối với NHTM; về quyền sở hữu một phần tài sản của NHTM tương
ứng với phần vốn góp vào NHTM; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ
chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào NHTM; về yêu cầu NHTM đổi các khoản
nợ hoặc thanh toán các khoản nợ của NHTM, thanh lý tài sản và thanh lý các hợp
đồng mà ngân hàng đã ký kết; về các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, mua lại, sáp nhập, chuyển đổi hình thức tổ chức của NHTM. Các tranh chấp
giữa các thành viên của NHTM với nhau là các tranh chấp về trị giá phần vốn góp
vào NHTM giữa các thành viên của NHTM; về việc chuyển nhượng phần vốn góp
vào NHTM giữa các thành viên của NHTM hoặc về việc chuyển nhượng phần vốn
góp vào NHTM của thành viên NHTM đó cho người khác không phải là thành viên
của NHTM; về quyền sở hữu tài sản tương ứng với số cổ phiếu của thành viên
NHTM; về quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ, thanh toán nợ của
NHTM; về các vấn đề khác giữa các thành viên của NHTM liên quan đến việc
thành lập, hoạt động, mua lại, sáp nhập, chuyển đổi hình thức tổ chức của NHTM.
Về thời hiệu giải quyết tranh chấp khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM:
Trong giao dịch dân sự, thời hiệu có ý nghĩa quan trọng đối với các bên khi xảy ra
tranh chấp. Trong pháp luật dân sự ở một số nước, thời hiệu được hiểu là căn cứ để
xác lập hoặc xoá bỏ một quyền, bằng cách để cho một khoảng thời gian trôi qua
[26]. Thời hiệu khởi kiện được hiểu là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để
yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hạn mà chủ thể được
quyền khởi kiện dài hay ngắn là do pháp luật quy định cho loại quan hệ pháp luật
đó. Do đó, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự (theo nghĩa rộng bao gồm cả tranh chấp
dân sự, tranh chấp lao động, kinh doanh thương mại) được thực hiện theo quy định
của pháp luật. Nếu một loại quan hệ pháp luật nào đó được pháp luật quy định rõ
thời hiệu khởi kiện thì phải thực hiện theo quy định về thời hạn khởi kiện được quy
định trong các văn bản pháp luật đối với loại quan hệ đó.
Thời điểm tính thời hạn kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được
quyền và lợi ích hợp pháp của mình đã, đang bị người khác xâm phạm khi thực hiện
mua lại, sáp nhập NHTM. Họ được quyền khởi kiện tại tòa án tính từ thời điểm này
trong thời hạn theo quy định của pháp luật. Nếu người có quyền dân sự bị xâm
phạm thực hiện quyền khởi kiện của mình trong khoảng thời gian luật định thì tòa
án có trách nhiệm xem xét, phán xử về quan hệ tranh chấp đó. Thời hạn là khoảng
thời gian xác định bắt đầu tính từ ngày biết được quyền, lợi ích hợp pháp của mình
73
bị xâm phạm, do đó nếu hết thời hạn mà người có quyền, lợi ích bị xâm phạm
không khởi kiện thì về nguyên tắc sẽ mất quyền khởi kiện. Như vậy, để xác định
đúng thời hiệu khởi kiện, phải xác định được quan hệ tranh chấp đó có được văn
bản pháp luật nào quy định về thời hiệu khởi kiện hay không. Điều quan trọng thứ
hai là phải xác định đúng ngày nào được coi là ngày có quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm để bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện.
Pháp luật xác định cơ chế để giải quyết các tranh chấp dân sự, thương mại
nói chung và khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM. Cơ chế giải quyết tranh chấp
được hiểu là tổng hợp của tất cả các thành tố tham gia vào quá trình giải quyết tranh
chấp gồm: Cơ quan giải quyết tranh chấp, các nguyên tắc giải quyết tranh chấp, các
quy định về quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp. Khi bàn về cơ chế giải quyết
tranh chấp mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, Nguyễn Mai Phương (2009) cho rằng,
một giao dịch M&A không có yếu tố nước ngoài thì luật điều chỉnh của giao dịch
đó là luật Việt Nam và cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là tòa án hoặc trọng tài,
tùy thuộc vào lựa chọn của các bên. Trong trường hợp giao dịch có yếu tố nước
ngoài, pháp luật Việt Nam cho phép các bên có thể lựa chọn luật nước ngoài là luật
điều chỉnh và cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là tòa án hay trọng tài Việt Nam
hoặc tòa án hay trọng tài nước ngoài [78].
Nhìn chung, mọi tranh chấp phát sinh liên quan đến mua lại, sáp nhập
NHTM phải được giải quyết trước hết bằng phương thức thương lượng, hòa giải
giữa các bên. Trường hợp không giải quyết được bằng thương lượng, hòa giải thì
tranh chấp có thể được giải quyết tại tòa án trong nước hoặc tại trọng tài theo các
thủ tục tố tụng của tòa án, trọng tài. Một giao dịch mua lại, sáp nhập NHTM
không có yếu tố nước ngoài thì luật điều chỉnh của giao dịch đó là luật trong nước
và cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là tòa án hoặc trọng tài, tùy thuộc vào lựa
chọn của các bên. Tuy nhiên, pháp luật các quốc gia thường cho phép các bên
trong một giao dịch có thể lựa chọn luật nước ngoài là luật điều chỉnh của giao
dịch và cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là tòa án hoặc trọng tài trong nước
hoặc tòa án hay trọng tài nước ngoài nếu giao dịch có yếu tố nước ngoài. Việc lựa
chọn cơ quan giải quyết tranh chấp cũng phải được xem xét trên cơ sở của pháp
luật từng quốc gia quy định.
Pháp luật Việt Nam quy định giải quyết tranh chấp thương mại thuộc thẩm
quyền giải quyết tại trọng tài hoặc toà án; thẩm quyền của toà án các cấp; thẩm
quyền của toà án theo lãnh thổ; thẩm quyền của toà án theo sự lựa chọn của
74
nguyên đơn... Luật tố tụng dân sự của Việt Nam quy định, thẩm quyền riêng biệt
giải quyết tranh chấp đối với các giao dịch mà đối tượng là bất động sản là tòa án
Việt Nam. Do vậy, các bên trong giao dịch mua tài sản là bất động sản không có
cơ hội để đàm phán cơ quan giải quyết tranh chấp trong trường hợp này [78].
Những tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua lại, sáp nhập có tính đặc thù nên đòi
hỏi việc giải quyết những tranh chấp này phải đảm bảo các yêu cầu như: (i) Phù
hợp với tính chất của quan hệ tranh chấp phát sinh từ hoạt động mua lại, sáp nhập
NHTM; (ii) Bảo đảm tối đa quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ tranh chấp;
(iii) Tạo sự ổn định tâm lý đối với người gửi tiền, tránh bất ổn xã hội, bảo đảm an
toàn hệ thống ngân hàng.
Bên cạnh việc xác định các nội dung điều chỉnh chủ yếu nêu trên, pháp luật
về mua lại, sáp nhập NHTM còn điều chỉnh những nhiều nội dung khác có liên
quan như:
(i) Xác định nội dung quy định về định giá ngân hàng. Việc xác định đúng,
đủ giá trị tài sản (hữu hình và vô hình) giúp bên bán đánh giá đúng giá trị của mình
và bên mua cũng nhận thức được tài sản mà mình sẽ sở hữu cũng như giá trị của tài
sản này. Vì vậy, pháp luật xác định nguyên tắc, cơ sở định giá tài sản, nội dung định
giá, phương pháp định giá NHTM bị mua lại, sáp nhập; quy định về tổ chức, hoạt
động của tổ chức tư vấn định giá tài sản; quyền, nghĩa vụ pháp lý của chuyên gia tư
vấn trong việc định giá tài sản đối với hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM...
(ii) Xác định nội dung quy định về thực hiện lãi suất tiền gửi, lãi suất, phí
cấp tín dụng khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM. Sau khi thực hiện mua lại, sáp
nhập, nếu không có thỏa thuận nào khác giữa NHTM và khách hàng, NHTM mua
lại, nhận sáp nhập phải thực hiện lãi suất, phí cấp tín dụng như quy định trong hợp
đồng tiền gửi, hợp đồng cấp tín dụng đối với khách hàng đã được xác lập từ trước
kể từ ngày mua lại, sáp nhập có hiệu lực pháp lý.
(iii) Xác định những nội dung quy định về chứng khoán nếu NHTM là
doanh nghiệp niêm yết, điều chỉnh tỷ lệ sở hữu của các nhân, tổ chức nếu vượt
quy định; xác nhận hoàn thành nghĩa vụ thuế và đóng mã số thuế; điều chỉnh liên
quan đến các quy định của hợp đồng mua lại, sáp nhập; xác định nội dung để quy
định trong trường hợp NHTM bị mua lại, sáp nhập đang thực hiện hợp đồng cấp
tín dụng hợp vốn...
75
Kết luận chương 2
1. Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, việc tổ
chức và hoạt động của ngân hàng có những đặc thù mà các doanh nghiệp thông
thường không có, đó là được nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh
toán qua tài khoản liên quan đến lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng cho khách hàng. Mặc
dù có bản chất là doanh nghiệp nhưng việc thành lập, hoạt động và tổ chức lại ngân
hàng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về ngân hàng.
2. Chính bởi những đặc thù của ngân hàng thương mại, của hoạt động mua
lại, sáp nhập ngân hàng thương mại và vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế nên pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại có
những đặc điểm riêng so với pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp thông
thường. Khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại, bên cạnh việc sử
dụng khung pháp lý như đối với doanh nghiệp thông thường, pháp luật về mua lại,
sáp nhập ngân hàng thương mại còn có những điều chỉnh riêng.
3. Pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại được xác định cần
đáp ứng vai trò là điều kiện khung pháp lý để giao dịch mua lại, sáp nhập ngân hàng
được diễn ra trên thực tế, an toàn. Ngoài việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình mua lại, sáp nhập, pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương
mại cũng cần đáp ứng quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật; để cơ
quan quản lý ngân hàng, các ngân hàng có cơ sở pháp lý khi thực hiện và buộc phải
thực hiện trong khung pháp lý đó, kể cả khi có sự can thiệp của nhà nước cũng phải
mang tính khách quan, bình đẳng và minh bạch, vì lợi ích chung của nền kinh tế,
đồng thời đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, tài chính, tiền tệ quốc gia.
4. Pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại cần xác định những
nội dung điều chỉnh chủ yếu trong quá trình mua lại, sáp nhập. Theo đó, pháp luật
về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại bao gồm những nội dung quy định về
tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả
pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập. Ngoài
ra, còn có nhiều quan hệ xã hội khác phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân
hàng thương mại cần phải có pháp luật điều chỉnh.
76
CHƯƠNG 3
THỰC TRANG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ MUA LAI, SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. THỰC TRANG PHÁP LUẬT VỀ MUA LAI, SÁP NHẬP NGÂN
HÀNG THƯƠNG MAI
3.1.1. Một số quy định chung điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập
Khung pháp lý liên quan đến hoạt động mua lại, sáp nhập ở Việt Nam được
quy định tại nhiều văn bản luật khác nhau như: Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp,
Luật đầu tư, Luật cạnh tranh, Luật chứng khoán, Luật sở hữu trí tuệ, Luật thuế, Luật
kế toán, Bộ Luật lao động, Luật đất đai, Luật NHNN, Luật các TCTD... Bên cạnh
hệ thống các quy định pháp luật Việt Nam, hoạt động mua lại, sáp nhập phải tuân
theo các thoả thuận, hiệp ước song phương và đa phương như các cam kết của Việt
Nam gia nhập WTO, các quy định trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
các Hiệp định ASEAN... Mỗi văn bản luật trên chi phối hay điều chỉnh các vấn đề
khác nhau liên quan đến hoạt động mua lại, sáp nhập.
* Bộ luật dân sự
Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS (2005)) đặt ra cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc tổ chức lại doanh nghiệp, bao gồm hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển
đổi doanh nghiệp. Vấn đề sáp nhập pháp nhân được quy định tại Điều 95 của Bộ
luật. Theo đó, một pháp nhân có thể sáp nhập vào một pháp nhân khác cùng loại
theo quy định của điều lệ, theo thỏa thuận giữa các pháp nhân hoặc theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau khi sáp nhập, pháp nhân bị sáp nhập
chấm dứt hoạt động, đồng thời các quyền và nghĩa vụ dân sự được chuyển giao cho
pháp nhân nhận sáp nhập. Theo quy định trên, việc sáp nhập có thể diễn ra theo thỏa
thuận của các bên tham gia sáp nhập để thực hiện chiến lược, mục tiêu kinh doanh
của các bên hoặc theo quyết định hành chính mang tính bắt buộc của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
BLDS (2005) đặt ra nhiều quy định để điều chỉnh liên quan đến hoạt động
mua lại, sáp nhập, đó là: Quy định quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn
trọng và được pháp luật bảo vệ (Điều 50) liên quan đến nguyên tắc tự nguyện khi
tiến hành mua lại, sáp nhập, theo đó các bên sẽ dựa trên quyền và nguyên tắc này
77
thực hiện mua lại, sáp nhập; quy định về quyền sở hữu trí tuệ (Phần thứ sáu. Quyền
sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ) liên quan đến nội dung, chuyển giao, sở
hữu quyền sở hữu trí tuệ khi thực hiện mua lại, sáp nhập; quy định về chế định hợp
đồng (Mục 7. Hợp đồng dân sự) chủ yếu điều chỉnh mua lại, sáp nhập dưới khía
cạnh hợp đồng giữa các bên, theo đó hợp đồng mua lại, sáp nhập phải tuân thủ và
không trái với những nguyên tắc, quy định chung mà Bộ luật đã quy định; quy định
về hệ quả pháp lý khi sáp nhập pháp nhân (khoản 2, Điều 95 và Điều 99); quy định
về xác lập, chấm dứt quyền sở hữu (Chương XIV. Xác lập, chấm dứt quyền sở hữu)
liên quan đến việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu khi thực hiện mua lại, sáp nhập,
theo đó căn cứ vào các quy định này các bên mua lại, sáp nhập sẽ chuyển giao tài
sản, quyền và nghĩa vụ của các bên.
Bộ luật dân sự (ban hành năm 2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017)
quy định về sáp nhập pháp nhân, theo đó một pháp nhân có thể được sáp nhập vào
một pháp nhân khác. Sau khi sáp nhập, pháp nhân được sáp nhập chấm dứt tồn tại,
quyền và nghĩa vụ dân sự của pháp nhân được chuyển giao cho pháp nhân nhận sáp
nhập (Điều 89). Việc chuyển đổi pháp nhân được quy định rằng pháp nhân có thể
được chuyển đổi hình thức thành pháp nhân khác; sau khi chuyển đổi hình thức,
pháp nhân được chuyển đổi chấm dứt tồn tại kể từ thời điểm pháp nhân chuyển đổi
được thành lập; pháp nhân chuyển đổi kế thừa quyền, nghĩa vụ dân sự của pháp
nhân được chuyển đổi (Điều 92). Bộ luật quy định về thời hiệu theo nguyên tắc: cá
nhân, pháp nhân phải yêu cầu tòa án, trọng tài giải quyết vụ, việc dân sự trong thời
hạn luật định, hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ
chối giải quyết yêu cầu của cá nhân, pháp nhân như quy định hiện hành, tòa án hoặc
trọng tài vẫn thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc
được miễn trừ nghĩa vụ dân sự (Điều 149 đến Điều 157).
* Luật doanh nghiệp
Luật doanh nghiệp năm 2005 và năm 2014 đều xem xét sáp nhập doanh
nghiệp như là hình thức tổ chức lại doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu tự thân của
doanh nghiệp. Theo cách tiếp cận của Luật doanh nghiệp, việc chia, tách, hợp nhất,
sáp nhập hoặc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp được xem là hành vi “tổ chức lại
doanh nghiệp”. Luật doanh nghiệp (2005) quy định về việc sáp nhập doanh nghiệp
tai Khoản 1, Điều 153. Theo đó khái niệm hai công ty cùng loại được hiểu theo
nghĩa là các công ty cùng loại hình doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Như
78
vậy, điều kiện tiên quyết để sáp nhập có thể diễn ra là các doanh nghiệp phải cùng
một loại hình và có sự chấm dứt hoạt động của một bên tham gia. Một trong những
thay đổi quan trọng trong Luật doanh nghiệp (2014) là loại bỏ quy định sáp nhập
doanh nghiệp phải cùng loại, nghĩa là công ty khác loại có thể được sáp nhập với
nhau, trong khi đó pháp luật về TCTD quy định chỉ được sáp nhập công ty cùng
loại. Qua đây thấy rằng, đối với sáp nhập NHTM thì pháp luật có những điều chỉnh
riêng so với các loại hình doanh nghiệp thông thường. Luật doanh nghiệp năm 2005
và năm 2014 đều không đề cập đến việc mua lại doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp quy định về các quyền và nhiệm vụ của đại hội đồng cổ
đông như quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào
bán; quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản của công ty. Tuy nhiên giá trị tài sản do
đại hội đồng cổ đông quyết định có sự điều chỉnh từ giá trị bằng hoặc lớn hơn 50%
tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty (điểm d,
Khoản 2, Điều 96, Luật doanh nghiệp (2005)) xuống còn 35% (điểm đ, Khoản 2,
Điều 143, Luật doanh nghiệp (2014)).
Luật doanh nghiệp (2005) quy định Nghị quyết đại hội đồng cổ đông đối với
quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán;
sửa đổi; tổ chức lại, giải thể công ty; đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị lớn thì phải
được số cổ đông đại diện ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự
họp chấp thuận (điểm b, Khoản 3, Điều 104). Luật doanh nghiệp (2014) đã sửa đổi tỷ
lệ biểu quyết thông qua các nội dung này khi được số cổ đông đại diện ít nhất 65%
tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp tán thành (Khoản 1, Điều 144).
Các quy định trong Luật doanh nghiệp được sử dụng làm căn cứ pháp lý để
làm rõ khái niệm và phạm vi của các hoạt động tập trung kinh tế. Chẳng hạn để xác
định khái niệm sáp nhập doanh nghiệp, khi thực thi cơ quan quản lý cạnh tranh có
thể dẫn chiếu tới Luật doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp (2005) quy định về thủ tục
sáp nhập doanh nghiệp tại Khoản 2, Điều 153 và tại Khoản 2, Điều 195 đối với Luật
doanh nghiệp (2014).
Luật doanh nghiệp năm 2005 và năm 2014 đều quy định về hành vi tập trung
kinh tế khi sáp nhập, theo đó công ty nhận sáp nhập có thị phần từ 30% đến 50%
trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của công ty thông báo cho cơ quan
quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành sáp nhập, trừ trường hợp Luật cạnh tranh có
quy định khác. Đồng thời Luật cấm các trường hợp sáp nhập các công ty mà công ty
79
nhận sáp nhập có thị phần trên 50% trên thị trường có liên quan, trừ trường hợp
Luật cạnh tranh có quy định khác (Khoản 3, Điều 153, Luật doanh nghiệp (2005) và
Khoản 3, Điều 195 Luật doanh nghiệp (2014)).
Luật doanh nghiệp (2014) quy định việc chuyển đổi công ty cổ phần thành
công ty TNHH một thành viên theo các phương thức như: một cổ đông nhận chuyển
nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp tương ứng của tất cả các cổ đông còn lại;
một tổ chức hoặc cá nhân không phải là cổ đông nhận chuyển nhượng toàn bộ số cổ
phần của tất cả cổ đông của công ty. Luật quy định việc chuyển nhượng hoặc nhận
góp vốn đầu tư bằng cổ phần, phần vốn góp trong trường hợp chuyển đổi công ty cổ
phần thành công ty TNHH một thành viên phải thực hiện theo giá thị trường, giá
được định theo phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu hoặc
phương pháp khác (Khoản 2, Điều 197). Công ty chuyển đổi đương nhiên kế thừa
toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ, gồm cả
nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của công ty được chuyển đổi
(Khoản 4, Điều 197).
* Luật cạnh tranh
Luật cạnh tranh (2004) quy định về tập trung kinh tế tại các Điều từ 16 đến
24. Điều 16 của Luật cạnh tranh quy định: "Tâp trung kinh tế là hành vi của doanh
nghiệp bao gồm: (1) Sáp nhâp doanh nghiệp; (2) Hợp nhất doanh nghiệp; (3) Mua
lại doanh nghiệp; (4) Liên doanh giữa các doanh nghiệp; và (5) Các hành vi tâp
trung kinh tế khác theo quy định của pháp luât”. Khi thực hiện mua lại, sáp nhập
doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng, hành vi mua lại, sáp nhập được quy
định là tập trung kinh tế và chịu sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh. Luật cạnh
tranh sử dụng thị phần làm cơ sở phân loại nhóm tập trung kinh tế và là tiêu chí duy
nhất để xác định cách thức xử lý (Khoản 5, 6, Điều 3).
Điều 18 của Luật cạnh tranh cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của
các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên
quan. Tuy nhiên cũng có ngoại lệ, đó là khi sau khi tập trung kinh tế vẫn thuộc loại
doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật và có thể được xem xét miễn
trừ. Kiểm soát hành vi tập trung kinh tế để không dẫn đến tình trạng hình thành các
doanh nghiệp, tập đoàn đủ lớn có khả năng khống chế thị trường làm thiệt hại cho
người tiêu dùng, các doanh nghiệp khác cũng như nhà nước, Luật cạnh tranh chỉ
kiểm soát hoạt động M&A dựa trên cơ sở xem xét qui mô kiểm soát thị trường của
80
doanh nghiệp sau khi thực hiện hoạt động M&A.
Đối với trường hợp thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh
nghiệp tham gia dưới 30% hoặc trường hợp doanh nghiệp hình thành sau khi thực
hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của
pháp luật thì các doanh nghiệp được tiến hành tập trung kinh tế mà không cần phải
thực hiện thủ tục thông báo bắt buộc cho Cục Quản lý cạnh tranh (Doanh nghiệp
nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật,
được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn hoặc số lao
động bình quân năm) (Khoản 1, Điều 3, Nghị định số 56/2009/NĐ-CP). Đối với
trường hợp trong đó thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp
tham gia từ 30% đến 50% thì các doanh nghiệp được tiến hành tập trung kinh tế, tuy
nhiên, đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải thực hiện thủ tục thông báo
cho Cục Quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế theo hồ sơ thông
báo tập trung kinh tế do Cục Quản lý cạnh tranh ban hành.
Khi thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia chỉ chiếm dưới 30% trên
thị trường liên quan thì việc tập trung kinh tế chưa có khả năng tạo ra vị trí thống
lĩnh cho doanh nghiệp hình thành sau khi tập trung. Lúc này, việc sáp nhập, hợp
nhất hay mua lại chỉ là các biện pháp cơ cấu lại kinh doanh hoặc đầu tư vốn bình
thường, không đe dọa đến trật tự cạnh tranh của thị trường. Trường hợp ngoại lệ,
nếu TCTD mua lại doanh nghiệp khác nhằm mục đích bán lại trong thời gian dài
nhất là 01 năm sẽ không bị coi là tập trung kinh tế nếu doanh nghiệp mua lại không
thực hiện quyền kiểm soát hoặc chi phối doanh nghiệp bị mua lại hoặc thực hiện
quyền này chỉ trong khuôn khổ bắt buộc để đạt được mục đích bán lại đó (Điều 35,
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP).
* Luật đầu tư
Luật đầu tư (2014) quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và
hoạt động đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài. Luật đầu tư có một số quy
định liên quan đến hoạt động mua lại doanh nghiệp. Đối với nhà đầu tư nước ngoài
được sở hữu vốn điều lệ không hạn chế trong tổ chức kinh tế nhưng có ngoại trừ “tỷ
lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại công ty niêm yết, công ty đại chúng, tổ
chức kinh doanh chứng khoán và các quỹ đầu tư chứng khoán theo quy định của
pháp luât về chứng khoán” (điểm a, Khoản 3, Điều 22). Luật đầu tư khẳng định
“Nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế”
81
thông qua việc “mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm của
công ty cổ phần” (Khoản 1, Điều 25). Luật cũng quy định các hình thức nhà đầu tư
nước ngoài mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế (Khoản 2, Điều 25).
* Bộ luật lao động
Bộ luật lao động (2012) quy định về nghĩa vụ của người sử dụng lao động
khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã. Khi thực hiện mua lại,
sáp nhập cần phải tham chiếu với Bộ luật để thực hiện đúng pháp luật. Theo quy
định tại Bộ luật lao động, đối với quyền lợi của người lao động tại các doanh nghiệp
khi sáp nhập, doanh nghiệp nhận sáp nhập (người sử dụng lao động kế tiếp) phải
chịu trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động với người lao động. Trong
trường hợp không sử dụng hết số lao động hiện có thì phải có phương án sử dụng
lao động theo quy định của pháp luật. Đối với trường hợp phải giảm bớt nhân sự,
đòi hỏi phải chấm dứt hợp đồng lao động thì người lao động phải chấm dứt hợp
đồng lao động theo quy định của Bộ luật lao động và người lao động được trợ cấp
mất việc theo quy định của Bộ luật này (Điều 45).
* Luật chứng khoán
Luật chứng khoán (2006) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
chứng khoán (2010) điều chỉnh các hoạt động mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực
chứng khoán và các công ty đại chúng. Luật chứng khoán quy định về hoạt động
chào bán chứng khoán, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch
vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Mặc dù Luật chứng khoán không quy định cụ thể và đưa ra khái niệm mua
lại, sáp nhập như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật cạnh tranh nhưng Luật cũng
đã có những quy định về hạn chế tập trung kinh tế trên thị trường chứng khoán như
các quy định về “cổ đông lớn”. Luật quy định các hành vi bị cấm như giao dịch nội
gián, thao túng thị trường của cá nhân, tổ chức để mua bán chứng khoán có lợi cho
mình hoặc cho người khác, hoặc thông đồng để thực hiện việc mua, bán chứng
khoán nhằm tạo thị trường giả, thao túng, làm giá thị trường… Luật chứng khoán
cũng có các điều khoản liên quan đến tập trung kinh tế thông qua các giao dịch trên
thị trường chứng khoán. Điều 29 Luật chứng khoán quy định việc báo cáo về sở
hữu của cổ đông lớn, Điều 32 quy định về chào mua công khai, theo đó các tổ
chức, cá nhân chào mua công khai số cổ phiếu có quyền biểu quyết dẫn đến việc sở
hữu từ 25% trở lên số cổ phiếu đang lưu hành của một công ty đại chúng phải gửi
82
đăng ký chào mua đến UBCKNN.
* Luật các tổ chức tín dụng, Luật ngân hàng Nhà nước
Luật các TCTD (2010) quy định về việc thành lập, tổ chức, hoạt động, kiểm
soát đặc biệt, tổ chức lại, giải thể TCTD; việc thành lập, tổ chức, hoạt động của chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài, tổ chức
nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Luật NHNN (2010) quy định về tổ chức
và hoạt động của NHNN Việt Nam. Luật các TCTD và Luật NHNN là các luật
chuyên ngành điều chỉnh riêng đối với hoạt động mua lại, sáp nhập TCTD nói
chung và NHTM nói riêng sẽ được nghiên cứu, phân tích cụ thể trong đề tài luận án.
Ngoài ra, còn có nhiều luật khác điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập
như Luật sở hữu trí tuệ điều chỉnh khía cạnh chuyển giao quyền tác giả, công
nghệ, bí mật kinh doanh giữa các bên; Luật kế toán quy định về việc hợp nhất báo
cáo tài chính; Luật kiểm toán để kiểm tra các hoạt động về tài chính của doanh
nghiệp để xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp; Luật thuế điều chỉnh thanh
quyết toán thuế khi thực hiện mua lại, sáp nhập... Các văn bản này tạo nên khung
pháp lý cho các hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Tùy thuộc vào từng
giao dịch mua lại, sáp nhập mà doanh nghiệp phải thực hiện các quy định tại văn
bản pháp luật cụ thể.
3.1.2. Quy định của pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng
thương mại
3.1.2.1. Quy định về tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhâp
Pháp luật hiện hành quy định về tiêu chuẩn, điều kiện thực hiện mua lại, sáp
nhập NHTM bao gồm các nội dung sau đây:
- Quy định tiêu chuẩn, điều kiện về tâp trung kinh tế khi thực hiện mua lại,
sáp nhâp ngân hàng thương mại:
Từ những nội dung cơ bản của pháp luật cạnh tranh, hoạt động mua lại, sáp
nhập NHTM sẽ phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh thông qua hành vi
tập trung kinh tế. Hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM bị cấm nếu thị phần kết hợp
của các NHTM tham gia mua lại, sáp nhập chiếm trên 50% trên thị trường liên
quan; được thực hiện khi thị phần kết hợp của các NHTM tham gia mua lại, sáp
nhập từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan nhưng phải thông báo cho Cục quản
lý cạnh tranh trước khi mua lại, sáp nhập; khi thị phần kết hợp của các NHTM tham
gia mua lại, sáp nhập dưới 30% trên thị trường liên quan thì được thực hiện và
83
không phải thông báo cho Cục quản lý cạnh tranh trước khi mua lại, sáp nhập.
Hoạt động mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng khá đặc thù, cách xác
định các tiêu chí về thị phần, thị trường liên quan đã được quy định thành điều
khoản riêng trong Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật cạnh tranh. Áp dụng qui định của Luật cạnh tranh trong việc xác định
thị phần đối với các NHTM nếu muốn tham gia vào hoạt động mua lại, sáp nhập,
doanh thu để xác định thị phần của NHTM được tính bằng tổng các khoản thu nhập
sau đây: (1) Thu nhập tiền lãi; (2) Thu nhập phí từ hoạt động dịch vụ; (3) Thu nhập
từ hoạt động kinh doanh ngoại hối; (4) Thu nhập từ lãi góp vốn, mua cổ phần; (5)
Thu nhập từ hoạt động kinh doanh khác; (6) Thu nhập khác (Điều 12, Nghị định số
116/2005/NĐ-CP).
Thông tư 04/2010/TT-NHNN do NHNN ban hành quy định việc sáp nhập,
hợp nhất, mua lại TCTD đã quy định điều kiện, trình tự thủ tục thực hiện hoạt
động tập trung kinh tế đối với từng hình thức sáp nhập, hợp nhất và mua lại
TCTD (Thông tư số 36/2015/TT-NHNN ngày 31/12/2015 của NHNN quy định
việc tổ chức lại TCTD, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2016 đã thay thế một số
điều khoản của Thông tư 04/2010/TT-NHNN). Thông tư 04/2010/TT-NHNN
quy định điều kiện đầu tiên để được sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD là không
thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định tại Luật cạnh tranh;
TCTD tham gia sáp nhập, hợp nhất, mua lại có văn bản thông báo cho cơ quan
quản lý cạnh tranh hoặc đề nghị được hưởng miễn trừ đối với trường hợp sáp
nhập bị cấm theo quy định của Luật cạnh tranh. Quy định dẫn chiếu tới Luật
cạnh tranh này đã bao gồm hay loại trừ các quy định về tập trung bị cấm theo
quy định của Luật cạnh tranh.
Nhìn chung, hoạt động mua bán, sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng khá đặc
thù, cách xác định các tiêu chí về thị phần, thị trường liên quan đã được quy định
thành điều khoản riêng trong Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật cạnh tranh. Các quy định về mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực
ngân hàng đã được dẫn chiếu tới Luật cạnh tranh về các trường hợp tập trung kinh
tế bị cấm hoặc trường hợp được hưởng miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm.
Điều này phù hợp với quy định của pháp luật cạnh tranh. Bên cạnh đó, các quy định
về trình tự, thủ tục thực hiện mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng đã cụ thể
hóa và hỗ trợ quá trình kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế bị cấm theo quy định
84
của Luật cạnh tranh [13, tr.78].
- Quy định tiêu chuẩn, điều kiện về vốn, an toàn vốn khi thực hiện mua lại,
sáp nhâp ngân hàng thương mại:
Luật các TCTD quy định điều kiện cấp Giấy phép đầu tiên đối với ngân hàng
là có vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định (điểm a, Khoản 1,
Điều 20). Luật giao Chính phủ quy định mức vốn pháp định đối với từng loại hình
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Khoản 1, Điều 19) và ngân hàng phải duy
trì giá trị thực của vốn điều lệ hoặc vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định
(Khoản 2, Điều 19). Theo đó TCTD phải duy trì giá trị thực của vốn điều lệ hoặc
vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định, NHNN quy định cụ thể việc xử lý
trường hợp khi giá trị thực của vốn điều lệ của TCTD giảm thấp hơn mức vốn pháp
định (Điều 19). Nghị định số 10/2011/NĐ-CP ngày 26/01/2011 của Chính phủ về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày
22/11/2006 về ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các TCTD quy định từ
năm 2011 yêu cầu vốn pháp định đối với NHTMCP Việt Nam là 3.000 tỷ đồng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD. Như vậy, ngân hàng mua lại sau khi
mua lại, ngân hàng nhận sáp nhập sau khi sáp nhập phải có mức vốn điều lệ tối
thiểu là 3.000 tỷ đồng.
Đối với các quy định về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, Luật
các TCTD quy định TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu 8% hoặc tỷ lệ cao hơn theo quy định của NHNN trong từng thời
kỳ (điểm b, Khoản 1, Điều 130). Luật giao NHNN quy định cụ thể các tỷ lệ bảo
đảm an toàn quy định tại Khoản 1 Điều này đối với từng loại hình TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài (Khoản 3, Điều 130). Trong trường hợp TCTD không đạt
hoặc có khả năng không đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định tại điểm b,
Khoản 1, Điều 130, TCTD phải báo cáo NHNN giải pháp, kế hoạch khắc phục để
bảo đảm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định. NHNN áp dụng các biện pháp
cần thiết theo quy định tại Điều 149 của Luật các TCTD nhằm bảo đảm để TCTD
đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Khoản 5, Điều 130). Luật cũng quy định, TCTD phải
ban hành các quy định nội bộ có nội dung quy định về tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu (điểm c, Khoản 2, Điều 93). Thông tư số 36/2014/TT-NHNN của NHNN quy
định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Thông tư quy định TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải
85
thường xuyên duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bao gồm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
riêng lẻ và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất ở mức 9%. Tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa vốn tự có và tổng tài sản có đã được
điều chỉnh theo hệ số rủi ro.
Quy định tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM không được quy
định trực tiếp bởi Luật các TCTD mà do Thông tư 04/2010/TT-NHNN của NHNN
điều chỉnh. Thông tư quy định ngân hàng sau khi mua lại, nhận sáp nhập phải đảm
bảo mức vốn điều lệ tối thiểu bằng mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật
hiện hành. Ngoài ra, ngân hàng sau khi mua lại, nhận sáp nhập còn phải tuân thủ
các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động theo quy định. Trên thực tế việc mua lại, sáp
nhập có thể khiến ngân hàng mua lại, nhận sáp nhập tăng mức nợ xấu nhưng các tỷ
lệ đảm bảo an toàn hoạt động phải ở mức theo quy định.
Có thể thấy rằng các quy định của pháp luật hiện hành đã tiệm cận các chuẩn
mực về vốn và an toàn vốn quốc tế. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất (CAR)
được yêu cầu ở mức 9%, trong khi quy định của Basel II chỉ là 8%. Vốn điều lệ của
NHTM chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM do nguồn vốn
của NHTM phần lớn là tiền gửi của các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Việc
lựa chọn hệ số CAR theo chuẩn mực Basel áp dụng tại Việt Nam sẽ giảm thiểu rủi
ro khi kinh tế xuất hiện những bất ổn, các NHTM có thể gặp những khó khăn hơn
so với trong giai đoạn bình thường của nền kinh tế. Việc nâng cao mức an toàn vốn
tương tự như một “tấm đệm” giúp các NHTM chống các biến động từ môi trường
kinh doanh. Trên thực tế nhiều NHTM quy mô nhỏ nhưng kinh doanh hiệu quả. Vì
thế yêu cầu phải đáp ứng một con số tuyệt đối về vốn điều lệ có thể không còn thích
hợp khi NHTM đảm bảo các tỷ lệ an toàn theo quy định nên vẫn có khả năng tồn tại
trong nền kinh tế thị trường.
- Quy định tiêu chuẩn, điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần, về việc nhà đầu
tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam khi thực hiện mua lại,
sáp nhâp ngân hàng thương mại:
Để hạn chế sự thâu tóm được hiểu tương tự như đề phòng một cá nhân, tổ
chức giữ quyền chi phối ngân hàng, Luật các TCTD quy định về giới hạn tỉ lệ sở
hữu cổ phần: Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ
của một TCTD; một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn
điều lệ của một TCTD, trừ một số trường hợp đặc biệt; cổ đông và những người
86
liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một
TCTD (Điều 55).
Đối với việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam, pháp
luật quy định về điều kiện, thủ tục mua cổ phần, tổng mức sở hữu cổ phần tối đa của
các nhà đầu tư nước ngoài, tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của một nhà đầu tư nước
ngoài tại một TCTD Việt Nam; điều kiện đối với TCTD Việt Nam bán cổ phần cho
nhà đầu tư nước ngoài (Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 03/01/2014 quy định về
việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam). Theo quy định hiện
hành, tỷ lệ sở hữu cổ phần của một cá nhân nước ngoài không được vượt quá 5%
vốn điều lệ của một TCTD Việt Nam; tỷ lệ sở hữu cổ phần của một tổ chức nước
ngoài không được vượt quá 15% vốn điều lệ của một TCTD tại Việt Nam trừ
trường hợp tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không
được vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD Việt Nam; tỷ lệ sở hữu cổ phần của
một nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu tư nước ngoài đó
không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD Việt Nam. Tổng mức sở hữu
cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của một
NHTM Việt Nam. Bên cạnh mức trần sở hữu là 30%, Nghị định còn quy định trong
trường hợp đặc biệt để thực hiện cơ cấu lại TCTD yếu kém, gặp khó khăn, bảo đảm
an toàn hệ thống TCTD, Thủ tướng Chính phủ quyết định tỷ lệ sở hữu cổ phần của
một tổ chức nước ngoài, một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, tổng mức sở hữu cổ
phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại một TCTD cổ phần yếu kém được cơ cấu lại
vượt quá giới hạn quy định. Mới đây, Nghị định số 60/2015/NĐ-CP quy định tỷ lệ
sở hữu nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam vừa được Chính phủ ban
hành (có hiệu lực từ tháng 9/2015) đã tháo bỏ trần sở hữu nước ngoài là 49% ở đa
số các lĩnh vực, riêng một số lĩnh vực trọng yếu như ngân hàng vẫn sẽ duy trì sở
hữu nước ngoài ở mức trần 30%.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định cụ thể về hình thức, giá, thẩm quyền quyết
định phương án bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, điều kiện mua, bán, chuyển
nhượng cổ phần. Tổ chức nước ngoài muốn mua cổ phần dẫn đến mức sở hữu từ
10% vốn điều lệ của TCTD Việt Nam phải đáp ứng đủ các điều kiện như được các
tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế có uy tín xếp hạng từ mức ổn định hoặc tương
đương trở lên; có đủ nguồn tài chính để mua cổ phần; không ảnh hưởng đến sự an
toàn, ổn định của hệ thống TCTD Việt Nam, không tạo ra sự độc quyền hay hạn chế
87
cạnh tranh; không vi phạm pháp luật về tiền tệ, ngân hàng, chứng khoán và thị
trường chứng khoán; có tổng tài sản tối thiểu tương đương 10 tỷ đô la Mỹ đối với
nhà đầu tư nước ngoài là ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính
hoặc có mức vốn điều lệ tối thiểu tương đương 1 tỷ đô la Mỹ đối với nhà đầu tư
nước ngoài là tổ chức khác. Đối với tổ chức nước ngoài mua cổ phần để trở thành
nhà đầu tư chiến lược nước ngoài thì ngoài một số quy định trên, cần có thêm một
số điều kiện như có tổng tài sản tối thiểu tương đương 20 tỷ đô la Mỹ; có kinh
nghiệm hoạt động quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng từ 5 năm trở lên; không sở hữu
từ 10% vốn điều lệ tại bất kỳ TCTD nào khác tại Việt Nam… Đối với TCTD Việt
Nam bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, điều kiện đặt ra là phải có phương án
cổ phần hóa, phương án chuyển đổi được cấp có thẩm quyền phê duyệt nếu là
TCTD chuyển đổi hình thức pháp lý. TCTD cổ phần phải có phương án tăng vốn
điều lệ, phương án bán cổ phiếu quỹ được đại hội đồng cổ đông thông qua... (Nghị
định số 01/2014/NĐ-CP ngày 03/01/2014 của Chính phủ).
Với các quy định của pháp luật hiện hành, các quy định tiêu chuẩn, điều kiện
về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần, về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD
Việt Nam khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM là khá chặt chẽ và có phần thận
trọng khi nền kinh tế phải từng bước để thích ứng trong quá trình hội nhập. Hành vi
mua cổ phần là thực hiện tập trung kinh tế theo Luật cạnh tranh. Trường hợp nhà
đầu tư nước ngoài, TCTD nước ngoài mua cổ phần tại của ngân hàng Việt Nam
theo đúng tỷ lệ trên nhưng hoàn toàn có thể vượt ngưỡng cấm thực hiện mua bán
theo Luật cạnh tranh thì chưa được tính đến [13, 80]. Trong quá trình tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng, việc sử dụng ngân sách nhà nước là rất hạn chế do kinh tế còn gặp
nhiều khó khăn, trong khi quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại
NHTM trong nước còn ở mức hạn chế. Vì thế việc tận dụng nguồn vốn từ các nhà
đầu tư nước ngoài để tái cấu trúc ngân hàng là điều hết sức cần thiết, cần phải có
những điều chỉnh riêng biệt để tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước
ngoài tham gia vào quá trình mua lại, sáp nhập NHTM.
- Quy định tiêu chuẩn, điều kiện về giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền, người lao động khi thực hiện mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại:
Về bảo vệ quyền lợi của khách hàng, Luật các TCTD của Việt Nam quy định
một trong những trách nhiệm của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là “Tạo
thuân lợi cho khách hàng gửi và rút tiền, bảo đảm thanh toán đủ, đúng hạn gốc và
88
lãi của các khoản tiền gửi.” (Khoản 2, Điều 10). Thông tư 04/2010/TT-NHNN quy
định hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại giữa các TCTD dựa trên nguyên tắc
thỏa thuận, theo đó các bên tham gia sáp nhập, hợp nhất, mua lại thỏa thuận giải
quyết các quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên có liên quan phù hợp với các quy định
của pháp luật hiện hành.
Luật bảo hiểm tiền gửi nhấn mạnh mục đích của bảo hiểm tiền gửi là nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định
của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động
ngân hàng (Điều 3). Luật quy định bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền
gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho
người gửi tiền hoặc phá sản (Khoản 1, Điều 4). Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật
các TCTD được nhận tiền gửi của cá nhân (Khoản 3, Điều 4). Điều 6 của Luật bảo
hiểm tiền gửi quy định về tham gia bảo hiểm tiền gửi, theo đó TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền
gửi, trừ Ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo quy
định, NHTM là tổ chức buộc phải tham gia tiền gửi sẽ có quyền yêu cầu tổ chức
bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi tại tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm (Điều 12,
Luật bảo hiểm tiền gửi).
Căn cứ theo Điều 24, Điều 27 của Luật bảo hiểm tiền gửi, Điều 21 của Nghị
định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật Bảo hiểm tiền gửi thì hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức
bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại
một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Mức chi trả tiền bảo hiểm tối đa do Chính phủ quy định theo đề nghị của NHNN
Việt Nam trong từng thời kỳ. Trong thời điểm hiện tại, các quy định về phí bảo
hiểm tiền gửi, số tiền gửi bảo hiểm được trả tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày
01/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005
sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 89/1999/NĐ-CP tiếp tục có hiệu lực thi
hành cho đến khi Thủ tướng Chính phủ ban hành các quy định về khung phí bảo
hiểm tiền gửi, hạn mức trả tiền bảo hiểm theo quy định của Luật bảo hiểm tiền gửi.
89
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ chi trả tiền bảo hiểm cho tất cả các khoản tiền gửi
được bảo hiểm của mỗi khách hàng tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tối
đa là 50 triệu đồng (bao gồm cả gốc và lãi). Nếu khoản tiền gửi được bảo hiểm (bao
gồm cả tiền gốc và lãi) vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm thì sẽ được giải quyết
trong quá trình xử lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định
của pháp luật.
Trên thế giới, mức chi trả bảo hiểm tiền gửi tối đa biến thiên trong khoảng
rất rộng, từ đơn vị nghìn USD đến hàng trăm nghìn USD, hoặc toàn bộ khoản tiền
gửi. Nhìn chung là không có một chuẩn mực nào được đặt ra. Mức chi trả bảo hiểm
cao tạo ra sự cạnh tranh thu hút tiền gửi của nhà đầu tư (ở Mỹ mức này gấp 5 lần
GDP đầu người, Thái Lan là 7 lần). Với quy định mức tối đa 50 triệu đồng về chi
trả bảo hiểm tiền gửi như hiện nay không còn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở
Việt Nam xét trên các yếu tố như thu nhập GDP bình quân đầu người, tình trạng
lạm phát cao, tốc độ tăng trưởng tiền gửi… và chưa bảo vệ được hết quyền lợi của
người gửi tiền. Trong phiên thảo luận tại tổ về Luật bảo hiểm tiền gửi sáng
3/11/2011, Đại biểu Quốc hội Phạm Huy Hùng cho rằng quy định gửi bao nhiêu
tiền cũng chỉ được bảo hiểm tối đa 50 triệu đồng là quá thấp, “Số tiền này chỉ bảo
đảm cho người gửi tiền mua gạo, rau cứu đói khi mất tiền gửi chứ không đúng
nghĩa là bảo hiểm, trong khi đó ở Đức mức bảo hiểm tối thiểu đã là 200 nghìn
Euro” [71]. Do đó hạn mức này cần được đề nghị nâng lên mức cao hơn để bảo vệ
tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền, duy trì niềm tin công chúng.
Bộ luật lao động quy định, khi thực hiện sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh
nghiệp, hợp tác xã thì người sử dụng lao động kế tiếp phải chịu trách nhiệm tiếp tục
sử dụng số lao động hiện có và tiến hành việc sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trong trường hợp không sử dụng hết số lao động hiện có, thì người sử dụng lao
động kế tiếp có trách nhiệm xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động
theo quy định (Khoản 1, Điều 45). Trong trường hợp chuyển quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, thì người sử dụng lao động trước đó phải
lập phương án sử dụng lao động theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này (Khoản
2, Điều 45). Trong trường hợp người sử dụng lao động cho người lao động thôi
việc, thì phải trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động theo quy định tại Điều 49
của Bộ luật này (Khoản 3, Điều 45). Quy định về trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc
làm trong một số trường hợp đặc biệt được quy định tại điểm b, Khoản 4, Điều 14,
90
Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động như sau: “Trường hợp
sau khi sáp nhâp, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã mà người lao động
chấm dứt hợp đồng lao động thì người sử dụng lao động có trách nhiệm trả trợ cấp
thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm đối với thời gian người lao động đã làm việc
cho mình và thời gian người lao động đã làm việc cho người sử dụng lao động
trước khi sáp nhâp, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã”.
- Quy định tiêu chuẩn, điều kiện về phương án mua lại, sáp nhâp và sự chấp
thuân phương án mua lại, sáp nhâp của cơ quan quản lý có thẩm quyền khi thực
hiện mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại:
Theo quy định hiện hành, khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cần phải có
đề án mua lại, sáp nhập có nội dung không được trái với hợp đồng mua lại, hợp
đồng sáp nhập, bao gồm tối thiểu các nội dung quy định tại Điều 12 và Điều 20 của
Thông tư 04/2010/TT-NHNN như: (1) Tên, địa chỉ và trang thông tin điện tử của
TCTD tham gia mua lại, sáp nhập; (2) Tên, địa chỉ và số điện thoại liên lạc của
thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát, tổng giám đốc của TCTD
tham gia mua lại, sáp nhập; (3) Lý do của việc mua lại, sáp nhập; (4) Vốn điều lệ
trước khi sáp nhập của TCTD tham gia sáp nhập và vốn điều lệ của TCTD nhận sáp
nhập sau khi sáp nhập; (5) Danh sách cổ đông nắm giữ cổ phần trọng yếu (đối với
TCTD cổ phần) hoặc chủ sở hữu (đối với các TCTD khác) của TCTD nhận sáp
nhập sau khi sáp nhập; (6) Tóm tắt tình hình tài chính và hoạt động của TCTD tham
gia mua lại, sáp nhập; (7) Quyền lợi, nghĩa vụ của TCTD tham gia mua lại, sáp
nhập và các tổ chức, cá nhân có liên quan; (8) Phương án kinh doanh dự kiến trong
03 năm tiếp theo của TCTD mua lại sau khi mua lại, TCTD nhận sáp nhập sau khi
sáp nhập; (9) Lộ trình sáp nhập; (10) Dự kiến về nhân sự, mạng lưới, nội dung hoạt
động và các vấn đề khác liên quan đến tổ chức và hoạt động của TCTD sau khi mua
lại, sáp nhập; (11) Biện pháp chuyển đổi, kết hợp hệ thống thông tin quản lý, kiểm
tra, kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ, hệ thống truyền dữ liệu để đảm bảo thông
suốt hoạt động trong và sau khi mua lại, sáp nhập; (12) Giá mua lại, thời hạn,
phương thức thanh toán; thời hạn bàn giao TCTD bị mua lại; (13) Phương thức và
thời gian chuyển đổi vốn góp/vốn cổ phần; các hình thức chuyển đổi vốn góp/vốn
cổ phần và tỷ lệ chuyển đổi tương ứng; (14) Trách nhiệm của TCTD tham gia mua
lại, sáp nhập đối với chi phí phát sinh trong quá trình mua lại, sáp nhập TCTD; (15)
91
Các phương án xử lý trong trường hợp một hoặc một số TCTD tham gia mua lại
đơn phương hủy bỏ thỏa thuận mua lại, sáp nhập.
Đề án mua lại, sáp nhập là cơ sở quan trọng để cơ quan có thẩm quyền nội
bộ và cơ quan quản lý ngân hàng xem xét, quyết định chấp thuận việc mua lại, sáp
nhập của các bên. NHTM tham gia mua lại, sáp nhập thuộc diện phải thông báo về
tập trung kinh tế chỉ được thực hiện mua lại, sáp nhập sau khi cơ quan quản lý cạnh
tranh trả lời bằng văn bản về việc tập trung kinh tế không thuộc trường hợp bị cấm
(Điều 24, Luật cạnh tranh). Luật các TCTD quy định tại Điều 153 về tổ chức lại
TCTD, theo đó TCTD được tổ chức lại dưới hình thức chia, tách, hợp nhất, sáp
nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý sau khi được NHNN chấp thuận bằng văn bản.
NHNN quy định cụ thể điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận việc tổ chức lại
TCTD. Căn cứ vào các quy định trên, có ba cơ quan chính có thẩm quyền trong việc
chấp thuận nội dung trong phương án mua lại, sáp nhập khi thực hiện mua lại, sáp
nhập NHTM, đó là đại hội đồng cổ đông của các NHTM thực hiện mua lại, sáp
nhập, Cục quản lý cạnh tranh và NHNN.
- Quy định tiêu chuẩn, điều kiện thực hiện mua lại, sáp nhâp ngân hàng
thương mại trong trường hợp thực hiện tự nguyện và bắt buộc:
Để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể, Luật doanh nghiệp quy
định về quyền của doanh nghiệp, theo đó doanh nghiệp được “tự do kinh doanh
trong những ngành, nghề mà luât không cấm” (Khoản 1, Điều 7) và được “chủ
động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh” (Khoản 2, Điều 7). Luật các
TCTD quy định “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền tự
chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của
mình. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luât vào hoạt động kinh
doanh của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” (Điều 7). Tuy nhiên,
kinh doanh hoạt động ngân hàng không bị pháp luật cấm, nhưng là loại hình kinh
doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh hoạt động ngân hàng rất chặt chẽ.
Thông tư 04/2010/TT-NHNN quy định về điều kiện để được mua lại, sáp
nhập TCTD và được hiểu là trong trường hợp thực hiện tự nguyện. Theo đó, các
điều kiện để TCTD được mua lại là: (1) Không thuộc trường hợp tập trung kinh tế
bị cấm theo quy định của Luật cạnh tranh; (2) Có đề án mua lại bao gồm tối thiểu
các nội dung quy định tại Điều 20 Thông tư này. Đề án mua lại có nội dung không
được trái với hợp đồng mua lại; (3) TCTD mua lại sau khi mua lại phải đảm bảo
92
mức vốn điều lệ tối thiểu bằng mức vốn pháp định và tuân thủ các tỷ lệ đảm bảo an
toàn hoạt động theo quy định của pháp luật hiện hành (Điều 17). Các điều kiện để
được sáp nhập là: (1) Không thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy
định tại Luật cạnh tranh; (2) Có đề án sáp nhập bao gồm tối thiểu các nội dung quy
định tại Điều 12 Thông tư này. Đề án sáp nhập có nội dung không được trái với hợp
đồng sáp nhập; (3) TCTD nhận sáp nhập sau khi sáp nhập đảm bảo mức vốn điều lệ
tối thiểu bằng mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật hiện hành (Điều 9).
Luật các TCTD quy định NHNN xem xét, đặt TCTD vào tình trạng kiểm
soát đặc biệt khi TCTD thuộc một trong các trường hợp sau đây: “a) Có nguy cơ
mất khả năng chi trả; b) Nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ dẫn đến mất khả
năng thanh toán; c) Khi số lỗ lũy kế của TCTD lớn hơn 50% giá trị thực của vốn
điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất;
d) Hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém theo quy định của NHNN; đ) Không duy trì
được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu quy định tại điểm b, Khoản 1, Điều 130 của Luât
này trong thời hạn một năm liên tục hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn 4%
trong thời hạn 06 tháng liên tục.” (Khoản 3, Điều 146). Đồng thời Luật quy định
NHNN có quyền yêu cầu chủ sở hữu tăng vốn, xây dựng, thực hiện kế hoạch tái cơ
cấu hoặc bắt buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại đối với TCTD được kiểm soát đặc
biệt nếu chủ sở hữu không có khả năng hoặc không thực hiện việc tăng vốn. NHNN
nước có quyền trực tiếp hoặc chỉ định TCTD khác góp vốn, mua cổ phần của TCTD
được kiểm soát đặc biệt trong trường hợp TCTD được kiểm soát đặc biệt không có
khả năng thực hiện yêu cầu của NHNN quy định, hoặc khi NHNN xác định số lỗ
lũy kế của TCTD đã vượt quá giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của
TCTD được kiểm soát đặc biệt ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần
nhất và việc chấm dứt hoạt động của TCTD được kiểm soát đặc biệt có thể gây mất
an toàn hệ thống TCTD (Khoản 2 và 3, Điều 149).
Theo quy định của Luật các TCTD, NHNN đã ban hành Thông tư số
07/2013/TT-NHNN quy định về việc kiểm soát đặc biệt đối với TCTD, có hiệu lực
từ ngày 27/4/2013. Thông tư quy định trong trường hợp không tăng vốn điều lệ theo
yêu cầu và trong thời hạn được NHNN xác định, NHNN có thể yêu cầu chủ sở hữu
TCTD này xây dựng, trình kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp nhập, hợp nhất,
mua lại với các TCTD khác. Thông tư nêu rõ, NHNN có quyền trực tiếp thực hiện
hoặc chỉ định TCTD khác thực hiện việc tham gia góp vốn, mua cổ phần của TCTD
93
được kiểm soát đặc biệt trong trường hợp TCTD không thể thực hiện được yêu cầu
tăng vốn điều lệ và không bảo đảm các tỷ lệ an toàn hoạt động, hoặc khi NHNN xác
định số lỗ lũy kế của TCTD đã vượt quá giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự
trữ của TCTD được kiểm soát đặc biệt ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm
toán gần nhất và việc chấm dứt hoạt động của TCTD được kiểm soát đặc biệt có thể
gây mất an toàn hệ thống TCTD.
Căn cứ vào thẩm quyền của NHNN, các quy định của pháp luật về kiểm soát
đặc biệt đối với TCTD thì có thể hiểu điều kiện để mua lại, sáp nhập trong trường
hợp bắt buộc là NHTM đã được kiểm soát đặc biệt nhưng không thể thực hiện được
yêu cầu tăng vốn điều lệ, không bảo đảm các tỷ lệ an toàn hoạt động, hoặc khi
NHNN xác định số lỗ lũy kế của NHTM vượt quá giá trị thực của vốn điều lệ và các
quỹ dự trữ của NHTM được kiểm soát đặc biệt ghi trong báo cáo tài chính đã được
kiểm toán gần nhất, việc chấm dứt hoạt động của NHTM được kiểm soát đặc biệt có
thể gây mất an toàn hệ thống TCTD. Đồng thời cũng phải đáp ứng điều kiện:
Không thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định tại Luật cạnh tranh;
NHTM mua lại, nhận sáp nhập sau khi mua lại, sáp nhập đảm bảo mức vốn điều lệ
tối thiểu bằng mức vốn pháp định theo quy định của pháp luật hiện hành. Đối với
trường hợp mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức bắt buộc, việc chấp thuận mua
lại, sáp nhập của cơ quan quản lý có thẩm quyền là NHNN. Trên thực tế, để thực
hiện tái cơ cấu, NHNN đều gửi văn bản xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về
phương án xử lý đối với từng NHTM yếu kém.
Nhìn chung, các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện thực hiện mua lại, sáp
nhập NHTM trong trường hợp thực hiện tự nguyện và bắt buộc đã được pháp luật
hiện hành quy định nhưng một số quy định chưa phân định rõ sẽ được thực hiện
trong trường hợp nào. Văn bản pháp luật chuyên biệt quy định về sáp nhập, hợp
nhất, mua lại TCTD đối với các tiêu chuẩn, điều kiện để mua lại, sáp nhập còn thiếu
một số quy định trực tiếp về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần, về điều kiện để tổ chức nước
ngoài mua cổ phần của NHTM trong nước, điều kiện đối với NHTM trong nước
bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, về giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp của
người gửi tiền, người lao động khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, trong khi
một số những quy định này quy định rải rác ở các văn bản pháp luật khác. Còn
thiếu các quy định cụ thể đối với trường hợp để NHNN mua lại, sáp nhập bắt buộc
nên đã gây nhiều tranh cãi về cơ sở pháp lý.
94
3.1.2.2. Quy định về trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhâp
Điều 153, Luật các TCTD quy định TCTD được tổ chức lại dưới hình thức
chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý sau khi được NHNN
chấp thuận bằng văn bản. Điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận việc tổ chức
lại TCTD do NHNN quy định. Theo quy định của Luật các TCTD, Thông tư số
04/2010/TT-NHTN quy định về trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập TCTD tại Điều
10, Điều 18 gồm 5 nội dung chính như sau:
(1) TCTD tham gia mua lại, sáp nhập phối hợp xây dựng đề án mua lại, sáp
nhập, hợp đồng mua lại, sáp nhập, điều lệ TCTD nhận sáp nhập và phải được cơ
quan có thẩm quyền quyết định của TCTD tham gia sáp nhập thông qua.
(2) TCTD mua lại, tham gia sáp nhập có văn bản thông báo cho cơ quan
quản lý cạnh tranh hoặc đề nghị được hưởng miễn trừ đối với trường hợp mua lại,
sáp nhập bị cấm theo quy định của Luật cạnh tranh.
(3) Để có thể được chấp thuận nguyên tắc mua lại, sáp nhập, TCTD tham gia
mua lại, sáp nhập phối hợp lập 05 bộ hồ sơ để TCTD mua lại, nhận sáp nhập gửi
NHNN xem xét, quyết định. Hồ sơ của TCTD được gửi lấy ý kiến của: (i) NHNN
Chi nhánh tỉnh, thành phố nơi TCTD tham gia mua lại, sáp nhập đặt trụ sở chính;
(ii) Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi TCTD
tham gia mua lại, sáp nhập đặt trụ sở chính; (iii) Các Vụ, Cục thuộc NHNN có chức
năng, nhiệm vụ liên quan đến một hoặc một số nội dung trong hồ sơ đề nghị mua
lại, sáp nhập. Trên cơ sở ý kiến tham gia của các đơn vị trên đây, Cơ quan thanh tra,
giám sát ngân hàng thẩm định hồ sơ, đề xuất ý kiến, trình Thống đốc xem xét chấp
thuận nguyên tắc hoặc từ chối chấp thuận nguyên tắc việc mua lại, sáp nhập TCTD.
Trường hợp từ chối chấp thuận nguyên tắc, phải nêu rõ lý do.
(4) Chấp thuận mua lại, sáp nhập: Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày
Thống đốc ký văn bản chấp thuận nguyên tắc đề nghị mua lại, sáp nhập TCTD,
TCTD tham gia mua lại, sáp nhập phải: (i) Lấy ý kiến của cơ quan có thẩm quyền
quyết định của TCTD để thông qua các nội dung thay đổi tại đề án mua lại, sáp
nhập và các vấn đề có liên quan khác (nếu có); (ii) Phối hợp lập 02 bộ hồ sơ theo
quy định gửi NHNN xem xét chấp thuận. Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
có trách nhiệm thẩm định hồ sơ, đề xuất ý kiến, trình Thống đốc chấp thuận hoặc
từ chối chấp thuận việc mua lại, sáp nhập TCTD. Trường hợp từ chối chấp thuận,
phải nêu rõ lý do.
95
(5) Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày Thống đốc có văn bản chấp
thuận việc mua lại TCTD, quyết định chấp thuận sáp nhập có hiệu lực, TCTD mua
lại phải hoàn tất các thủ tục về sửa đổi nội dung Giấy phép thành lập và hoạt động
của TCTD bị mua lại do chuyển đổi chủ sở hữu, đăng ký kinh doanh, TCTD bị sáp
nhập phải hoàn tất các thủ tục rút Giấy phép thành lập và hoạt động, TCTD nhận
sáp nhập phải hoàn tất các thủ tục về đăng ký kinh doanh; đăng bố cáo theo quy
định và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Để thực hiện theo các trình tự, thủ tục như trên, thẩm quyền quyết định mua
lại, sáp nhập NHTM được pháp luật quy định đối với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và trong nội bộ NHTM. Luật NHNN quy định thẩm quyền quyết định việc
mua lại, sáp nhập TCTD là NHNN (Khoản 9, Điều 4). Đối với thẩm quyền quyết
định tại nội bộ NHTM, theo Luật các TCTD thì đại hội đồng cổ đông là cơ quan
quyết định cao nhất của TCTD, có quyền thông qua phương án góp vốn, mua cổ
phần của doanh nghiệp, TCTD khác; quyết định đầu tư, mua, bán tài sản của
TCTD; quyết định việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp
lý, giải thể... (Khoản 2, Điều 59). Luật các TCTD quy định đại hội đồng cổ đông
thông qua các quyết định nêu trên phải được số cổ đông đại diện trên 65% tổng số
phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp chấp thuận hoặc tỷ lệ khác cao hơn do
điều lệ của TCTD quy định (điểm c, Khoản 2, Điều 59). Với các quy định của pháp
luật hiện hành, có thể hiểu trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập TCTD chỉ được áp
dụng trong trường hợp thực hiện tự nguyện, không có văn bản pháp luật nào quy
định trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập TCTD thực hiện trong trường hợp bắt buộc.
3.1.2.3. Quy định về hệ quả pháp lý khi mua lại và sáp nhâp
Hệ quả pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM được quy định tại
nhiều văn bản tùy thuộc theo hành vi, tính chất của quan hệ mua lại, sáp nhập. Một
số hệ quả pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM được ghi nhận như sau:
(1) Quy định về tổ chức hoạt động của NHTM sau mua lại, sáp nhập.
Khi thực hiện mua lại, sáp nhập thì một trong những hệ quả pháp lý là xác
định tư cách pháp lý của các bên tham gia sau khi mua lại, sáp nhập. Thông tư
04/2010/TT-NHNN đề cập đến hệ quả pháp lý về mua lại, sáp nhập TCTD, theo đó,
khi sáp nhập TCTD bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp từ TCTD bị sáp nhập sang TCTD nhận sáp nhập, TCTD bị sáp nhập chấm
dứt sự tồn tại. Sau khi mua lại TCTD, TCTD bị mua lại trở thành công ty trực thuộc
96
của TCTD mua lại (Khoản 1, 3, Điều 4). Những vấn đề mua lại, sáp nhập này sẽ chi
phối và đặt ra những hệ quả pháp lý của các bên khi thực hiện giao dịch mua lại, sáp
nhập. Với tính chất pháp lý quan trọng như vậy, quy định về tổ chức hoạt động sau
mua lại, sáp nhập đã được pháp luật ghi nhận. Tuy nhiên những quy định về nội
dung tổ chức hoạt động sau mua lại, sáp nhập còn chưa cụ thể và rõ ràng trong văn
bản pháp luật chuyên ngành. Điều này có thể gây khó khăn cho các bên tham gia
mua lại, sáp nhập. Chính vì thế, tại một số nước như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc,
cơ quan có thẩm quyền còn ban hành Hướng dẫn mua lại, sáp nhập để cung cấp
thêm thông tin cho các bên khi thực hiện mua lại, sáp nhập.
(2) Quy định về quyền chủ nợ của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập đối với các
khoản cấp tín dụng, khoản đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu, chứng khoán nợ khác.
Luật các TCTD quy định các nội dung hoạt động ngân hàng và hoạt động
kinh doanh khác của NHTM tại Mục 2, Chương IV (các Điều từ 98 đến 107).
NHTM được cấp tín dụng, đầu tư kinh doanh theo các nội dung được cấp trong
Giấy phép hoạt động. Khi thực hiện cấp tín dụng, đầu tư theo các loại hình này sẽ
phát sinh quyền chủ nợ đối với việc cấp tín dụng và các khoản đầu tư khác.
Về chuyển giao quyền đòi nợ, dưới góc độ của pháp luật về tài sản, quyền
đòi nợ là một loại quyền tài sản (Khoản 1, Ðiều 322, BLDS (2005)) và quyền tài
sản lại là một trong bốn loại tài sản theo quy định hiện hành (Ðiều 163, BLDS
(2005)). Như vậy, có thể hiểu quyền đòi nợ tự thân nó là một tài sản. Ðối tượng của
quyền đòi nợ chính là khoản tiền sẽ được thanh toán vào một thời điểm nhất định.
Theo quy định tại Điều 309, BLDS (2005), bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa
vụ dân sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền, trừ trường hợp
bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thỏa thuận không được chuyển giao hoặc pháp
luật có quy định khác. Có nghĩa là, trong giao dịch dân sự, khi phát sinh quyền và
nghĩa vụ giữa các bên có liên quan, thì bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân
sự có thể chuyển giao quyền yêu cầu này cho bên thứ ba để thực hiện quyền yêu cầu
đó và việc chuyển giao quyền yêu cầu cũng không cần có sự đồng ý của bên có
nghĩa vụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Tuy nhiên, khi thực hiện việc chuyển giao quyền yêu cầu, bên chuyển giao quyền
yêu cầu phải báo cho bên có nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền
yêu cầu. Bên cạnh đó, Điều 313, BLDS (2005) cũng quy định rằng, trong trường
hợp quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có biện pháp bảo đảm thì việc chuyển
97
giao quyền yêu cầu bao gồm cả biện pháp bảo đảm đó. Bên thế quyền không bị yêu
cầu phải ký lại giao dịch bảo đảm với bên có nghĩa vụ, trường hợp này quyền yêu
cầu của bên thế quyền cũng được bảo đảm bằng biện pháp bảo đảm đã có trước đó.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, quy định về quyền chủ nợ
của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập đối với các khoản cấp tín dụng, khoản đầu tư
vào trái phiếu, tín phiếu, chứng khoán nợ khác đã có cơ sở pháp lý để NHTM mua
lại, nhận sáp nhập thực hiện.
(3) Quyền cổ đông, chủ sở hữu của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập đối với
các khoản góp vốn, mua cổ phần.
Luật các TCTD quy định về việc góp vốn, mua cổ phần đối với NHTM. Luật
quy định NHTM, công ty con của NHTM được mua, nắm giữ cổ phiếu của TCTD
khác với điều kiện và trong giới hạn quy định của NHNN (Khoản 6, Điều 103).
Như vậy, khi một NHTM góp vốn, mua cổ phần đối với NHTM khác theo quy định
sẽ phát sinh quyền của cổ đông, quyền của thành viên góp vốn đối với NHTM này.
Các quyền này được pháp luật ghi nhận như quyền được nhận cổ tức, chuyển
nhượng phần vốn góp, tham gia quản trị, điều hành… Luật các TCTD ghi nhận việc
này và quy định tại Điều 53 về quyền của cổ đông phổ thông, Điều 56 về chào bán
và chuyển nhượng cổ phần… Tuy nhiên Luật không quy định cụ thể đến các quyền
này khi TCTD bị mua lại, sáp nhập mà chỉ có Thông tư 04/2010/TT-NHNN quy
định một cách chung nhất về việc chuyển giao tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp từ TCTD bị mua lại, bị sáp nhập sang TCTD mua lại, nhận sáp nhập.
Với các quy định như trên, có thể hiểu NHTM mua lại, nhận sáp nhập sẽ có
các quyền cổ đông, thành viên góp vốn của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập đối với
các khoản góp vốn, mua cổ phần của NHTM này trước khi bị mua lại, sáp nhập. Kể
từ thời điểm ngày mua lại, sáp nhập có hiệu lực được cơ quản lý ngân hàng chấp
thuận, quyền cổ đông, thành viên góp vốn của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập đối với
các khoản góp vốn, mua cổ phần được chuyển sang NHTM mua lại, nhận sáp nhập.
(4) Quyền sở hữu đối với các tài sản của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập.
Tài sản do NHTM là chủ sở hữu có nhiều loại, trong đó có loại chuyển giao
được ngay, có loại chuyển giao được nhưng phải đăng ký quyền sở hữu, có loại
không chuyển giao được đầy đủ và có loại không thể chuyển giao. Đối với loại tài sản
có thể chuyển giao quyền sở hữu được ngay như tiền, giấy tờ có giá, thiết bị không
phải đăng ký quyền sở hữu... Loại tài sản chuyển giao được nhưng phải đăng ký
98
quyền sở hữu như bất động sản, ô tô, xe máy và những tài sản khác mà pháp luật yêu
cầu phải chuyển quyền sở hữu. Loại tài sản có thể chuyển giao được nhưng không
chuyển giao được đầy đủ như quyền tác giả, theo đó quyền nhân thân không thể
chuyển giao và được bảo hộ vô thời hạn. Loại tài sản không thể chuyển giao như tài
sản đã được bảo hộ và chủ sở hữu tài sản không từ bỏ quyền bảo hộ. Kể từ thời điểm
ngày mua lại, sáp nhập có hiệu lực được cơ quản lý ngân hàng chấp thuận, quyền sở
hữu đối với các tài sản của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập mà pháp luật không quy
định phải đăng ký quyền sở hữu được chuyển sang NHTM mua lại, nhận sáp nhập.
Tương tự như việc quy định về quyền chủ nợ của NHTM bị mua lại, bị sáp
nhập đối với các khoản cấp tín dụng, khoản đầu tư vào trái phiếu, chứng khoán nợ
khác được chuyển sang cho NHTM mua lại, nhận sáp nhập, quyền sở hữu đối với
các tài sản của NHTM bị mua lại, bị sáp nhập (trụ sở, bất động sản, tài sản khác…)
không được Luật các TCTD quy định cụ thể mà quy định tại một số văn bản pháp
luật khác như Luật đất đai, Luật sở hữu trí tuệ, Luật doanh nghiệp... Qua việc phân
tích những quy định về quyền sở hữu đối với các tài sản của NHTM bị mua lại, bị
sáp nhập nhận thấy rằng, khi tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở
hữu thì thời điểm được tính từ ngày chuyển quyền sở hữu do cơ quan có thẩm
quyền quyết định có hiệu lực. Điều này cũng đặt ra rủi ro về tài sản trong thời gian
thực hiện đăng ký quyền sở hữu nếu tài sản này bị đem đi thế chấp. Chính vì vậy
pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM cần ghi nhận để có điều chỉnh kịp thời.
(5) Các nghĩa vụ nợ đối với khoản vay, tiền gửi dưới mọi hình thức của
NHTM bị mua lại, bị sáp nhập
Đặc thù của hoạt động ngân hàng là huy động tiền gửi và cấp tín dụng, nên
ngân hàng vừa là chủ nợ, vừa là bên có nghĩa vụ trả nợ. NHTM được nhận tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác (Điều
98, Luật các TCTD). NHTM được vay vốn của NHNN, vay vốn của TCTD, tổ chức
tài chính trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật (Điều 99 và 100,
Luật các TCTD). Luật các TCTD quy định nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của
tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền
gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa
thuận. Như vậy, đối với NHTM trước khi bị mua lại, bị sáp nhập sẽ phải thực hiện
các nghĩa vụ nợ đối với khoản vay, tiền gửi dưới mọi hình thức theo nguyên tắc có
99
hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người cho vay, người gửi tiền theo thỏa thuận. Căn
cứ theo quy định của Thông tư 04/2010/TT-NHNN thì các nghĩa vụ này sẽ được
chuyển sang cho NHTM mua lại, nhận sáp nhập kể từ ngày mua lại, ngày sáp nhập có
hiệu lực pháp lý. NHTM mua lại, nhận sáp nhập sẽ có trách nhiệm thực hiện các
nghĩa vụ này theo cam kết trước đây đối với người cho vay, người gửi tiền.
Như đã trình bày, việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng là rất quan trọng,
nếu không ý thức được vấn đề này thì rủi ro của ngân hàng kéo theo hệ lụy cho
người gửi tiền có thể làm rối loạn trật tự an toàn xã hội. Theo quy định của Luật bảo
hiểm tiền gửi, người gửi tiền ở tất cả các ngân hàng, hoặc TCTD, đều phải tham gia
bảo hiểm tiền gửi. Khi một ngân hàng nào đó nộp đơn xin phá sản thì khách hàng
gửi tiền tại TCTD đó đều được bảo hiểm tiền gửi chi trả cho người gửi tiền 50 triệu
đồng, số còn lại cùng với lãi ở ngân hàng sẽ được giải quyết theo Luật phá sản. Đối
với trường hợp ngân hàng giải thể, không tiếp tục hoạt động, ngân hàng sẽ phải thực
hiện mọi nghĩa vụ cho khách hàng trước khi giải thể. Còn trong trường hợp ngân
hàng được một ngân hàng khác mua lại hay sáp nhập thì ngân hàng trong tương lai
sẽ tiếp quản, giải quyết các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng cũ. NHNN Việt Nam
cũng từng khẳng định, trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, mục tiêu
hàng đầu là phải bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.
Qua những quy định hiện hành cùng với việc phân tích trên đây, việc bảo vệ
người gửi tiền đã được pháp luật ghi nhận và trên thực tế còn nhận được sự cam kết
chính trị đối với việc đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền trong quá trình tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên với mức độ quan trọng của quan hệ tiền gửi thì
pháp luật bảo vệ người gửi tiền không chỉ riêng có quy định về bảo hiểm tiền gửi,
còn thiếu những quy định cụ thể để giải quyết vấn đề này; mức bảo hiểm tiền gửi
còn chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, những quyết tâm
chính trị đã đặt ra trong quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nhưng vấn đề này
cần được quy định bằng pháp luật.
3.1.2.4. Quy định về giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhâp
- Về xác định nội dung tranh chấp:
Khi mua lại, sáp nhập NHTM, nhiều tranh chấp có thể phát sinh trong quá
trình thực hiện. Các tranh chấp đó có thể là: Tranh chấp giữa NHTM với các thành
viên của NHTM; giữa các thành viên của NHTM với nhau liên quan đến việc thành
lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức
100
của NHTM; tranh chấp liên quan đến việc chuyển giao tài sản, tài chính; phần vốn
góp, phân chia lợi nhuận, nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp; tranh chấp
về lao động khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM; tranh chấp về quyền sở hữu trí
tuệ khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM…
- Về quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp:
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS (2004)) quy định những tranh
chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nơi có
tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty (Bộ luật tố tụng dân sự
ban hành năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016. BLTTDS (2004) đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 hết hiệu lực kể từ ngày Bộ luật
tố tụng dân sự (2015) có hiệu lực thi hành, trừ các quy định tại Điều 159 và điểm h
Khoản 1 Điều 192 tiếp tục có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/12/2016). Để phân
biệt về các tranh chấp này, Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của
Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
trong Phần thứ nhất "Những quy định chung" của BLTTDS (2004) đã hướng dẫn
chi tiết, theo đó nếu giữa công ty với các thành viên của công ty hoặc giữa các thành
viên của công ty có tranh chấp với nhau, nhưng tranh chấp đó không liên quan đến
việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình
thức tổ chức của công ty mà chỉ liên quan đến các quan hệ khác như quan hệ lao
động, quan hệ dân sự thì tranh chấp đó không phải là tranh chấp về kinh doanh,
thương mại quy định tại Khoản 3, Điều 29 của BLTTDS (2004). Tùy từng trường
hợp cụ thể để xác định đó là tranh chấp về dân sự hay tranh chấp về lao động. Thẩm
quyền giải quyết tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty thuộc Tòa
kinh tế Tòa án nhân dân cấp tỉnh (Khoản 3, Điều 29 và điểm a, Khoản 1, Điều 34,
BLTTDS (2004)).
BLTTDS (2004) quy định những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án, đó là: (i) Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động
với người sử dụng lao động mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao
động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố
101
thuộc tỉnh hoà giải không thành hoặc không giải quyết trong thời hạn do pháp luật
quy định; (ii) Tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng
lao động đã được Hội đồng trọng tài lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với
quyết định của Hội đồng trọng tài lao động, bao gồm: về quyền và lợi ích liên quan
đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác; về việc thực hiện
thoả ước lao động tập thể; về quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn; (iii)
Các tranh chấp khác về lao động mà pháp luật có quy định (Điều 31).
Các quy định về xác định loại tranh chấp về sở hữu trí tuệ và thẩm quyền
giải quyết của tòa án như sau: Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao
công nghệ là những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án
(Khoản 4, Điều 25, BLTTDS (2004)), trừ trường hợp quy định tại Khoản 2, Điều
29, BLTTDS (2004). Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công
nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận là những tranh
chấp về kinh doanh thương mại (Khoản 2, Điều 29, BLTTDS (2004)).
- Về quy định thời hiệu, thời hạn giải quyết tranh chấp:
BLDS (2005) quy định thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết
thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân
sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự
(Điều 154). Theo đó, các loại thời hiệu được quy định bao gồm: (1) Thời hiệu
hưởng quyền dân sự là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng
quyền dân sự; (2) Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự là thời hạn mà khi kết thúc
thời hạn đó thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn việc thực hiện nghĩa vụ; (3)
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án
giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời
hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện; (4) Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân
sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi
ích của nhà nước; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu (Điều 155). Cách
tính thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm
dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu (Điều 156).
Để bắt đầu thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc
dân sự được BLDS (2005) quy định như sau: (1) Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
102
được tính từ ngày quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác; (2) Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được tính từ ngày phát
sinh quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 159).
BLTTDS (2004) quy định thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án
dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức, lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước bị xâm phạm; thời hiệu yêu cầu để toà
án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu (điểm a,
b, Khoản 3, Điều 159, BLTTDS (2004)). Quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác
giả, quyền liên quan vẫn còn hiệu lực theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ
để giải quyết tranh chấp là: Thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan được
quy định tại các Khoản 2 và 3 Điều 739 của BLDS (2005), tại Điều 27 và Điều 34
của Luật sở hữu trí tuệ và tại Điều 26 của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP.
- Về quy định phương thức giải quyết tranh chấp:
Luật thương mại quy định về hình thức giải quyết tranh chấp trong thương
mại, theo đó có các hình thức giải quyết là: (i) Thương lượng giữa các bên; (ii) Hoà
giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận
chọn làm trung gian hoà giải; (iii) Giải quyết tại trọng tài hoặc toà án. Thủ tục giải
quyết tranh chấp trong thương mại tại trọng tài, toà án được tiến hành theo các thủ
tục tố tụng của trọng tài, toà án do pháp luật quy định (Điều 317). Luật đầu tư quy
định tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam được giải
quyết thông qua thương lượng, hòa giải. Trường hợp không thương lượng, hòa giải
được thì tranh chấp được giải quyết tại trọng tài hoặc tòa án (Điều 14).
Pháp luật quy định một số các tranh chấp sau đây không nhất thiết phải qua
hoà giải tại cơ sở: Xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc trường hợp bị
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; bồi thường thiệt hại giữa người lao
động và người sử dụng lao động; trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; bảo
hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về lao động… (Khoản 1, Điều 31,
BLTTDS (2004)).
Bên cạnh các quy định của pháp luật điều chỉnh chủ yếu về mua lại, sáp nhập
NHTM nêu trên, pháp luật còn có những quy định khác để điều chỉnh hoạt động
mua lại, sáp nhập NHTM.
3.1.3. Đánh giá pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM tuy mới hình thành trong thời gian
103
gần đây nhưng đã đặt nền móng để điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM
ở Việt Nam. Những văn bản pháp luật được ban hành có vai trò quan trọng trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến mua lại, sáp nhập NHTM. Pháp
luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam đã được từng bước hoàn thiện, phục
vụ cho mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Các quy
định của pháp luật hiện hành đã giúp NHTM chủ động thực hiện mua lại, sáp nhập
phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển của ngân hàng, đồng thời có cơ sở
pháp lý để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, can thiệp, xử lý các NHTM yếu kém
thông qua buộc mua lại, sáp nhập nhằm tránh đổ vỡ hệ thống.
Bên cạnh những thành công mang lại, pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM
ở Việt Nam còn có một số tồn tại, hạn chế như sau:
Thứ nhất, khung pháp lý điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhâp nói chung
còn thiếu và chưa cụ thể.
Trở ngại đối với hoạt động mua lại, sáp nhập nói chung và trong lĩnh vực
NHTM ở Việt Nam hiện nay là khung pháp lý còn chưa đầy đủ và khó thực hiện.
Các quy định liên quan đến hoạt động mua lại, sáp nhập được quy định rải rác trong
nhiều văn bản khác nhau. Việc quy định phân tán và chưa cụ thể đã làm các doanh
nghiệp khó thực hiện mua lại, sáp nhập. Còn nhiều quy định pháp luật mới chỉ dừng
lại ở việc xác lập về mặt hình thức, trong khi còn thiếu những quy định về mặt nội
dung. Nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến mua lại, sáp nhập, nhất là trong trường
hợp thực hiện bắt buộc còn chưa có quy định cụ thể hoặc còn thiếu như tiêu chuẩn,
điều kiện; trình tự, thủ tục; hệ quả pháp lý; giải quyết tranh chấp… khi mua lại, sáp
nhập. Các luật: Doanh nghiệp, Đầu tư, Cạnh tranh, Chứng khoán... đề cập đến mua
lại, sáp nhập doanh nghiệp nhưng chưa đề cập đến một loại hình doanh nghiệp đặc
biệt là NHTM. Luật các TCTD chưa điều chỉnh cụ thể đến hoạt động mua lại, sáp
nhập NHTM mà chỉ gọi chung là tổ chức lại TCTD dưới hình thức chia, tách, hợp
nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý.
Các quy định về hạn chế tập trung kinh tế còn chưa thực sự phù hợp. Luật
cạnh tranh quy định mua lại, sáp nhập là một trong những hành vi tập trung kinh tế.
Tuy nhiên Luật chưa quy định rõ các vấn đề về tập trung kinh tế là gì, đặc biệt liên
quan đến lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Hiện nay, việc nhiều tổ chức tài chính cung
cấp các dịch vụ trọn gói là phổ biến. Một định chế tài chính, ngân hàng có thể cung
cấp cho khách hàng một gói dịch vụ bao gồm nhiều dịch vụ như cho vay, bảo lãnh,
104
thư tín dụng, chiết khấu hối phiếu. Đặc thù của ngành ngân hàng cạnh tranh theo
từng loại dịch vụ nên cần quy định rõ hơn về cách tính thị phần theo từng dịch vụ
hay gói dịch vụ để tránh trường hợp thực hiện có thể không thành công do vi phạm
quy định về tập trung kinh tế. Việc sử dụng phương pháp tính thị phần theo từng
dịch vụ riêng biệt thường sẽ cho kết quả chính xác hơn, tránh trường hợp lợi dụng
để gây nên tình trạng độc quyền. Cơ sở tính toán mức độ tập trung trong lĩnh vực
ngân hàng giữa Luật cạnh tranh và Nghị định hướng dẫn còn chưa thống nhất. Luật
cạnh tranh qui định giới hạn mức độ tập trung kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng dựa
trên thị phần, trong khi Nghị định số 01/2014/NĐ-CP quy định giới hạn về mức độ
tập trung kinh tế căn cứ trên vốn điều lệ.
Hình thức pháp lý quy định về tổ chức lại doanh nghiệp trong các văn bản
pháp luật còn chưa thống nhất, trong đó Luật doanh nghiệp chưa đề cập đến mua lại
như là một trong những hình thức pháp lý để tổ chức lại doanh nghiệp. Khái niệm
tập trung kinh tế, thị trường liên quan trong Luật cạnh tranh chưa thật rõ ràng để
hạn chế bất lợi của mua bán, sáp nhập doanh nghiệp và ngân hàng. Luật cạnh tranh
cấm các hoạt động mua lại, sáp nhập có thể dẫn tới việc một doanh nghiệp có mức
tập trung kinh tế lớn hơn 50% thị trường liên quan, tuy nhiên Luật và các văn bản
hướng dẫn không quy định rõ về thị trường liên quan. Trong trường hợp NHTM
kinh doanh nhiều mặt hàng thì tùy theo các cách tính khác nhau có thể dẫn đến kết
quả là ngân hàng có thể bị coi là có tập trung kinh tế trên hoặc dưới 50%.
Thứ hai, khung pháp lý điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhâp NHTM còn
nhiều bất câp.
- Văn bản quy phạm pháp luât điều chỉnh trực tiếp hoạt động mua lại, sáp
nhâp có nhiều hạn chế:
Thông tư 04/2010/TT-NHNN là văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt do
NHNN ban hành điều chỉnh trực tiếp hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại TCTD.
Thông tư quy định các trình tự, thủ tục, điều kiện, hồ sơ sáp nhập, mua lại, hợp
nhất... Tuy nhiên các nội dung chủ yếu chưa được quy định hoặc quy định chưa đầy
đủ như tiêu chuẩn, điều kiện; trình tự, thủ tục; hệ quả pháp lý và giải quyết tranh
chấp khi mua lại, sáp nhập. Theo quy định của Luật các TCTD, NHNN có quyền
góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của TCTD bị kiểm soát đặc biệt hoặc yêu cầu các
TCTD sáp nhập, hợp nhất bắt buộc nhằm bảo đảm an toàn hệ thống TCTD. Tuy
nhiên, Thông tư 04/2010/TT-NHNN còn thiếu những nội dung quy định trong
105
trường hợp nhà nước mua lại, sáp nhập bắt buộc NHTM yếu kém.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 153 của Luật các TCTD, tổ chức lại TCTD
không bao gồm hoạt động mua lại, có quy định tổ chức lại dưới hình thức chuyển
đổi hình thức pháp lý. Thông tư số 36/2015/TT-NHNN ngày 31/12/2015 của
NHNN quy định việc tổ chức lại TCTD, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2016.
Thông tư quy định phạm vi điều chỉnh không bao gồm mua lại, bổ sung nội dung về
chuyển đổi hình thức pháp lý. Những nội dung bổ sung, sửa đổi của Thông tư số
36/2015/TT-NHNN cũng chưa quy định các nội dung có liên quan đến mua lại, sáp
nhập trong trường hợp thực hiện bắt buộc. Những nội dung điều chỉnh về mua lại
TCTD trong Thông tư 04/2010/TT-NHNN vẫn còn hiệu lực thi hành. Điều này dẫn
đến việc đã có văn bản pháp luật điều chỉnh nhưng còn chung chung và khó áp
dụng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM tham gia, thực hiện.
- Trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhâp NHTM còn phức tạp, rườm rà:
Theo quy định hiện hành, trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập TCTD còn phức
tạp và phải được phép của nhiều cơ quan. Những quy định như vậy sẽ mất nhiều
thời gian, công sức, kinh phí của các ngân hàng, tạo nên rào cản khi thực hiện mua
lại, sáp nhập. Thủ tục thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh còn nặng về tính
hành chính và tạo ra những thủ tục rườm rà. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy
việc bắt buộc phải thông báo đối với tất cả các giao dịch mua lại, sáp nhập sẽ tạo ra
những thủ tục cồng kềnh và không cần thiết cho cả chủ thể mua lại, sáp nhập
NHTM và cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh. Pháp luật về kiểm soát tập trung
kinh tế ở các nước phát triển đều ghi nhận việc không cần thiết phải rà soát một
cách hệ thống và thông qua tất cả các thương vụ mua lại, sáp nhập. Yêu cầu thông
báo về mọi thương vụ mua lại, sáp nhập sẽ tạo ra gánh nặng không đáng có cho cơ
quan quản lý, làm phát sinh các khoản chi phí không hợp lý và làm chậm quá trình
mua lại, sáp nhập ngân hàng.
- Các quy định về định giá ngân hàng còn khá phức tạp và gây khó khăn
trong quá trình thực hiện:
Hiện tại không có quy định pháp luật về định giá NHTM trước khi thực hiện
mua lại, sáp nhập. Khi mua lại, sáp nhập, việc định giá chủ yếu do các NHTM thực
hiện dựa trên cơ sở áp dụng văn bản về định giá doanh nghiệp. Thị trường M&A
Việt Nam hiện sử dụng ba phương pháp định giá chính được quy định tại Nghị định
số 59/2011/NĐ-CP của Chính phủ về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Định giá
106
theo giá trị tài sản thực, định giá theo dòng tiền chiết khấu và định giá theo giá trị
thị trường. Theo Khoản 2, Điều 197 của Luật doanh nghiệp (2014), việc chuyển
nhượng hoặc nhận góp vốn đầu tư bằng cổ phần, phần vốn góp trong trường hợp
chuyển đổi công ty cổ phần thành công ty TNHH một thành viên phải thực hiện
theo giá thị trường, giá được định theo phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền
chiết khấu hoặc phương pháp khác.
Do không có hướng dẫn cụ thể, cùng với kiến thức, kinh nghiệm về mua lại,
sáp nhập còn chưa tốt có thể dẫn đến việc định giá NHTM theo sự thỏa thuận của
những người lãnh đạo ngân hàng, dễ dẫn đến việc lạm quyền, cơ hội của các cổ
đông lớn, quyền lợi của các cổ đông nhỏ lẻ không được bảo vệ. Một trong các tài
sản quan trọng, đóng góp lớn vào giá trị NHTM là tài sản vô hình của NHTM. Tuy
nhiên tại Việt Nam, các chuẩn mực để xác định giá trị tài sản vô hình còn sơ khai,
chưa có phương pháp định giá xác định đúng giá trị thực của tài sản vô hình, từ đó
có thể làm thất thoát lớn giá trị của ngân hàng. Hiện có nhiều đơn vị tư vấn tham gia
xác định giá trị ngân hàng, giá cổ phiếu của NHTM nhưng việc xếp hạng, năng lực
pháp lý và uy tín của các đơn vị này còn chưa được quy định. Vì vậy, các NHTM
thực hiện mua lại, sáp nhập khó lựa chọn đơn vị tư vấn phù hợp, đáng tin cậy. Có
nhiều phương pháp xác định giá cổ phiếu để hoán đổi. Việc áp dụng phương pháp
nào là do sự thống nhất giữa đơn vị tư vấn và ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập.
Kết quả định giá cổ phiếu và xác định tỷ lệ hoán đổi cổ phiếu thường được cho là có
lợi cho cổ đông của NHTM này và bất lợi cho cổ đông của NHTM kia.
- Tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại NHTM Việt Nam còn
hạn chế:
Hiện tại, hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam đối với nhà đầu tư
nước ngoài mới chỉ dừng ở việc mua cổ phiếu của ngân hàng hay mua phần vốn
góp theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện hành, các nhà đầu tư nước
ngoài chỉ được sở hữu một số lượng cổ phần hạn chế của doanh nghiệp trong nước:
Đối với doanh nghiệp chưa niêm yết: tối đa 30% vốn điều lệ; đối với doanh nghiệp
niêm yết: tối đa 49% vốn điều lệ (Quyết định số 238/2005/QĐ-TTg ngày
29/9/2005); đối với NHTM: tối đa không quá 30%, trong đó đối tác chiến lược nước
ngoài nắm không quá 20% vốn điều lệ của ngân hàng (Nghị định số 01/2014/NĐ-
CP ngày 03/01/2014). Kinh nghiệm tái cấu trúc ngân hàng của Thái Lan trong cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 cho thấy, bên cạnh việc các ngân hàng
107
được khuyến khích tìm kiếm đối tác nước ngoài nếu không tìm được đủ nguồn vốn
trong nước, Thái Lan cũng đã nới rộng giới hạn sở hữu cho các nhà đầu tư nước
ngoài, cho phép nắm giữ cổ phần chi phối đối với các NHTM trong nước với thời
hạn 10 năm, sau thời gian đó phải giảm tỷ lệ sở hữu xuống theo mức pháp luật quy
định thông qua việc bán lại cổ phần cho cổ đông trong nước [3].
Với tỷ lệ sở hữu cổ phần như hiện tại, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ khó khăn
trong việc quản lý cũng như tạo động lực để gắn bó lâu dài với NHTM ở Việt Nam.
Điều quan trọng hơn là trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam rất cần có nguồn lực,
kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài khi thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng, nhất là đối với các NHTM yếu kém, vừa đảm bảo mục tiêu giữ được an toàn
hệ thống ngân hàng, kiểm soát được hoạt động tài chính, ngân hàng của đất nước
nhưng tận dụng được nguồn lực, kinh nghiệm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra còn có một số vấn đề khác cần bổ sung, hoàn thiện như quy định về
công bố thông tin ngân hàng bị kiểm soát đặc biệt cùng với những số liệu về thực
trạng của ngân hàng khi bị kiểm soát đặc biệt, để thấy rằng việc ngân hàng bị kiểm
soát đặc biệt có thể dẫn đến việc bị mua lại, sáp nhập bắt buộc bởi nhà nước là
mang tính khách quan, bình đẳng và minh bạch, vì lợi ích chung của nền kinh tế.
Quy định về trường hợp NHTM tham gia cấp tín dụng hợp vốn thực hiện mua lại,
sáp nhập tự nguyện hoặc bắt buộc khi hợp đồng cấp tín dụng còn hiệu lực còn chưa
cụ thể. Chưa có văn bản pháp luật quy định về quy trình tiếp nhận, xử lý các TCTD
yếu kém... Những vấn đề trên cần được nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi để hoạt động
M&A trong lĩnh vực ngân hàng có thể được kiểm soát chặt chẽ và đầy đủ hơn.
3.2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA LAI, SÁP
NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI
3.2.1. Nghiên cứu, phân tích một số trường hợp thực hiện mua lại, sáp
nhập ngân hàng thương mại
Để phục vụ việc đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập
NHTM ở Việt Nam hiện nay, ngoài việc nghiên cứu và phân tích chuyên sâu hai
trường hợp mua lại, sáp nhập NHTM đã thực hiện trong năm 2012 và năm 2015, đó
là trường hợp NHTMCP Nhà Hà Nội (HBB) sáp nhập vào NHTMCP Sài Gòn-Hà
Nội (SHB) và trường hợp NHNN mua lại bắt buộc NHTMCP Xây dựng Việt Nam
(VNCB), luận án cũng đã tổng hợp, phân tích một số ngân hàng khác đã thực hiện
mua lại, sáp nhập trong thời gian qua (Xem chi tiết tại phần phụ lục).
108
- Đối với trường hợp HBB sáp nhâp vào SHB: Các nguyên nhân gây ra khó
khăn về tài chính cho HBB dẫn đến việc sáp nhập bao gồm một số lý do, trong đó
nổi lên là việc tập trung dư nợ cho vay các công ty thuộc Tập đoàn Vinashin trước
đây. Đây là vấn đề cốt lõi làm cho ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn. Việc tập
trung quá nhiều vào nhóm khách hàng này (tương đương 83% vốn điều lệ của ngân
hàng) dẫn đến khi kinh tế suy thoái, ngân hàng đã bị ảnh hưởng nặng nề từ việc tập
trung tín dụng. Riêng chi phí huy động vốn hằng năm ngân hàng phải trả để duy trì
dư nợ này đã làm ngân hàng phát sinh chi phí đến khoảng 500 tỷ đồng/năm. Với
thực trạng khó khăn của HBB thì cần phải thực hiện các giải pháp toàn diện để giúp
ngân hàng vượt qua giai đoạn hiện tại. Cốt lõi của giải pháp là ngân hàng phải có
nguồn vốn mới để bổ sung hoạt động. Ban lãnh đạo HBB đã quyết định lựa chọn
giải pháp sáp nhập HBB vào SHB do các cổ đông hiện hữu của HBB chưa sẵn sàng
để góp vốn bổ sung cho HBB trong giai đoạn này [64].
- Đối với trường hợp NHNN mua lại bắt buộc VNCB: Trong quá trình hoạt
động, một số NHTM đã được NHNN phân loại thuộc nhóm ngân hàng yếu kém cần
phải tái cơ cấu, xử lý trong đó có VNCB. Trong quá trình hoạt động của VNCB đã
bộc lộ nhiều yếu kém, việc quản trị, điều hành ngân hàng vi phạm nghiêm trọng quy
định của pháp luật. VNCB có nợ xấu rất cao, nguy cơ mất vốn rất lớn, đã âm vốn
chủ sở hữu. Trước tình hình đó, để kiểm soát rủi ro, giảm thiểu tổn thất tài sản của
ngân hàng, NHNN đã quyết định đặt VNCB vào tình trạng kiểm soát đặc biệt theo
quy định của pháp luật. Đại hội đồng cổ đông của các ngân hàng này được tổ chức
nhưng không thông qua được kế hoạch tăng vốn điều lệ để đảm bảo mức vốn pháp
định theo quy định. Để xử lý dứt điểm các vấn đề của VNCB, Thống đốc NHNN đã
ban hành Quyết định số 249/QĐ-NHNN ngày 05/03/2015 về việc mua toàn bộ cổ
phần và chuyển đổi VNCB thành công ty TNHH một thành viên với tên gọi là
NHTM TNHH MTV Xây dựng Việt Nam (CBBank) [61].
3.2.1.1. Về tiêu chuẩn, điều kiện thực hiện mua lại, sáp nhâp ngân hàng
thương mại
- Trường hợp HBB sáp nhâp vào SHB:
Thương vụ HBB sáp nhập vào SHB là hình thức sáp nhập được phép của
một NHTM sáp nhập với một NHTM trong nước, thực hiện tự nguyện giữa các bên
tham gia sáp nhập, không thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định
của Luật cạnh tranh. Hai bên đã phối hợp xây dựng đề án sáp nhập theo quy định tại
109
Thông tư 04/2010/TT-NHNN của NHNN. Đề án sáp nhập giữa hai ngân hàng SHB
và HBB xác định vốn điều lệ mới của ngân hàng sau sáp nhập là vốn điều lệ cộng
ngang của hai ngân hàng, được phân chia cho các cổ đông của SHB và HBB theo tỷ
lệ trong thỏa thuận hợp tác đã được ký kết giữa hai ngân hàng. Ngân hàng sau khi
sáp nhập đăng ký vốn điều lệ mới của ngân hàng là 8.865.795.470.000 đồng. Đề án
sáp nhập xác định theo Luật kế toán và Nghị định số 57/2012/NĐ-CP ngày
20/7/2012 của Chính phủ, lỗ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh không
được cấn trừ vào vốn điều lệ mà được mang sang thành lỗ lũy kế trong các năm tiếp
theo và TCTD phải có trách nhiệm sử dụng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh để
bù đắp cho khoản lỗ lũy kế này [64]. Tuy nhiên, sau này khi Thông tư số
36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 của NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo
đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã quy
định giá trị thực của vốn điều lệ được xác định bằng vốn điều lệ thực góp, vốn được
cấp, cộng (trừ) lợi nhuận lũy kế chưa phân phối.
Đề án sáp nhập hai ngân hàng cũng cho biết, báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh của HBB đã được kiểm toán soát xét đặc biệt theo yêu cầu của NHNN và tạo
ra một khoản lỗ 4.066 tỷ đồng so với vốn điều lệ là 4.050 tỷ đồng. Tuy nhiên, để
đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông cũng như tạo thuận lợi cho sự phát triển của
ngân hàng sau sáp nhập, SHB sau sáp nhập đã đề nghị xin cổ đông thông qua
phương án trích dự phòng rủi ro cho các khoản cho vay và đầu tư trái phiếu của
Vinashin trong vòng 5 năm, mỗi năm khoảng 372 tỷ đồng dự phòng cho vay và
75,2 tỷ đồng dự phòng trái phiếu Vinashin. Theo đó, số lỗ lũy kế HBB tại thời điểm
29/02/2012 sẽ là 1.829 tỷ đồng [64]. Nếu không xử lý trích lập dự phòng như vậy,
trường hợp HBB có khoản lỗ lớn hơn vốn điều lệ sẽ bị mua lại bắt buộc theo quy
định hiện hành chứ không thể thực hiện tự nguyện giữa các bên.
Theo yêu cầu của Thông tư số 13/2010-TT-NHNN ngày 20/5/2010 của
NHNN, các TCTD cần duy trì tỷ lệ an toàn tối thiểu ở mức 9%. Trong giai đoạn từ
năm 2010 - 2012, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của SHB luôn ở mức trên 13% (tính
đến ngày 31/12/2011 là 13,37%; đến ngày 29/02/2012 là 15,39%). Đối với HBB, tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu của HBB tính đến ngày 31/12/2011 là 16,45%, đến ngày
29/02/2012 là 18,81%. Điều này thể hiện mức độ an toàn cao của các tài sản ngân
hàng trước các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh đặc biệt trong điều kiện
kinh tế bất ổn hiện nay. Tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu của HBB trong giai đoạn 2008-2011
110
đã tăng lên từ 3,2% năm 2008 lên 4,4% vào năm 2011 (không bao gồm dư nợ cho
vay Vinashin), so với các ngân hàng cùng quy mô là tương đối cao (khoảng 2,5%).
Nếu tính cả dư nợ cho vay Vinashin, tỷ lệ nợ xấu trong năm 2010 và 2011 là sẽ là
15,16% và 16,73% [64].
Đề án sáp nhập HBB vào SHB được SHB trình trong đại hội đồng cổ đông
có những nội dung chính theo quy định của Thông tư 04/2010/TT-NHNN của
NHNN. Các yêu cầu về giải quyết quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động được
đảm bảo và làm rõ trong đề án sáp nhập. Do HBB sáp nhập vào SHB, không phải
hợp nhất nên ngân hàng sau sáp nhập vẫn giữ pháp nhân của SHB và hoạt động với
Hội đồng Quản trị và Ban điều hành của SHB. Về cơ bản, ngân hàng sau sáp nhập
vẫn giữ nguyên cơ cấu nhân sự hiện tại của SHB, có bổ sung thêm một số cá nhân
có năng lực quản trị và năng lực chuyên môn từ HBB mà SHB đánh giá đáp ứng đủ
điều kiện để tham gia điều hành. Cơ cấu nhân sự của hội đồng quản trị, ban kiểm
soát cuối cùng được đại hội đồng cổ đông quyết định. Bộ máy tổ chức của HBB sau
khi sáp nhập sẽ được thực hiện theo bộ máy tổ chức của SHB. Ngân hàng sau sáp
nhập sẽ tiếp tục và sử dụng tất cả những cán bộ, nhân viên hiện tại của SHB và
HBB vào Ngày sáp nhập. Cán bộ nhân viên thì căn cứ theo năng lực và nhu cầu sẽ
được tiếp nhận nguyên nhưng sẽ sắp xếp công việc theo năng lực phù hợp nghiệp
vụ, bộ máy tổ chức, đảm bảo sau sáp nhập hoạt động chuyên nghiệp [64].
- Trường hợp NHNN mua lại bắt buộc VNCB
Về mặt pháp lý, VNCB đã rơi vào ít nhất một trong các trường hợp phải áp
dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt theo quy định tại Khoản 3, Điều 146 Luật các
TCTD (2010) về áp dụng kiểm soát đặc biệt, đó là có nguy cơ mất khả năng chi trả;
nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ dẫn đến mất khả năng thanh toán; khi số
lũy kế lớn hơn 50% giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ ghi trong báo cáo
tài chính đã được kiểm toán; hai năm liên tục bị xếp loại yếu kém; không duy trì
được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trong thời hạn một năm liên tục... Với tổn thất tài
chính nặng nề, trong khi VNCB không có các giải pháp tái cơ cấu khả thi theo yêu
cầu của NHNN, NHNN đã đặt VNCB trong tình trạng kiểm soát đặc biệt và khẳng
định việc mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của các ngân hàng yếu kém này. Đây là
điều kiện tiên quyết để NHNN mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của VNCB [61].
Để thực hiện mua lại bắt buộc đối với VNCB, NHNN đã dựa trên một số cơ
sở pháp lý là: Luật NHNN Việt Nam (2010); Luật các TCTD (2010); Luật doanh
111
nghiệp (năm 2005 và 2014); Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-
2015”; Quyết định số 255/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ (đây
Quyết định mật nên không rõ tên gọi và nội dung); Quyết định số 48/2013/QĐ-TTg
ngày 01/08/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc
của TCTD được kiểm soát đặc biệt.
Một số quy định về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của TCTD được
kiểm soát đặc biệt như sau: “Ngân hàng Nhà nước có quyền yêu cầu chủ sở hữu
tăng vốn, xây dựng, thực hiện kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp nhâp, hợp
nhất, mua lại đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, nếu chủ sở hữu
không có khả năng hoặc không thực hiện việc tăng vốn” (Khoản 2, Điều 149, Luật
các TCTD)”, “Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc chỉ định tổ chức
tín dụng tham gia góp vốn, mua cổ phần hoặc trực tiếp tham gia góp vốn, mua cổ
phần trong trường hợp tổ chức tín dụng khác không đáp ứng được các điều kiện
được quy định tại Khoản 1 Điều 7 Quyết định này” (Khoản 1, Điều 4, Quyết định
số 48/2013/QĐ-TTg). Điều 13, Quyết định 48/2013 về “Quyền hạn và trách
nhiệm của chủ sở hữu, các thành viên góp vốn, cổ đông của tổ chức tín dụng được
kiểm soát đặc biệt” quy định chủ sở hữu, thành viên góp vốn, cổ đông của TCTD
được kiểm soát đặc biệt có trách nhiệm: Chấp nhận kết quả đánh giá của kiểm
toán độc lập về thực trạng tài chính, giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ;
chuyển nhượng cổ phần, phần góp vốn cho NHNN hoặc TCTD được chỉ định theo
yêu cầu của NHNN.
Với những quy định này cho thấy, việc kiểm soát đặc biệt đối với NHTM là
đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật hiện hành. Trong thời gian kiểm soát
đặc biệt, các TCTD đã được kiểm toán độc lập, kết quả kiểm toán cho thấy giá trị
thực của vốn điều lệ bị âm, NHNN được quyền mua lại cổ phần của các chủ sở hữu
TCTD được kiểm soát đặc biệt nếu như các chủ sở hữu không thực hiện việc tăng
vốn theo yêu cầu.
Có thể xem rằng, việc NHNN mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của ngân
hàng yếu kém và chuyển thành ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước như áp dụng đối
với VNCB là biện pháp mạnh, khẳng định quyết tâm của Chính phủ, NHNN kiên
quyết xử lý triệt để, tái cơ cấu những tổ chức này, đồng thời cảnh báo trách nhiệm
của các cổ đông nói chung, nhất là các cổ đông lớn trong việc quản trị, điều hành,
112
giám sát hoạt động của các TCTD [70].
3.2.1.2. Về trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại
- Trường hợp HBB sáp nhâp vào SHB:
(1) Để triển khai sáp nhập, hai ngân hàng đã phối hợp xây dựng đề án sáp
nhập, hợp đồng sáp nhập và điều lệ của SHB - là TCTD nhận sáp nhập theo quy
định của Thông tư 04/2010/TT-NHNN. Dự thảo đề án sáp nhập HBB vào SHB
được hội đồng quản trị của HBB trình đại hội đồng cổ đông xem xét (ngày
28/4/2012). Đối với các ngân hàng HBB và SHB, do là hai ngân hàng niêm yết nên
phải có quyết định ở ba cấp thẩm quyền là đại hội đồng cổ đông, NHNN và
UBCKNN mới được tiến hành sáp nhập. Phương án sáp nhập đã được hơn 85% cổ
đông HBB thông qua tại Đại hội cùng các văn bản là đề án sáp nhập, hợp đồng sáp
nhập, điều lệ ngân hàng sau sáp nhập, cao hơn quy định tại điều lệ của HBB là ít
nhất phải được 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết thông qua [147].
Đại hội đồng cổ đông SHB (ngày 5/5/2012) được 99,4% cổ đông biểu quyết
thông qua giao dịch sáp nhập HBB vào SHB, bao gồm cả việc thông qua đề án sáp
nhập, hợp đồng sáp nhập, điều lệ của ngân hàng sau sáp nhập. Tỷ lệ hoán đổi cổ
phiếu để thực hiện giao dịch sáp nhập cũng được thông qua. Theo quy định, đề án
sáp nhập HBB vào SHB đã được ban lãnh đạo hai ngân hàng thông qua, hoàn tất
thủ tục theo quy định, được SHB trình lên NHNN (công văn số 110/HĐQT ngày
12/6/2012). Hai ngân hàng cũng đã có văn bản thông báo sáp nhập cho Cục quản lý
cạnh tranh để có ý kiến không phản đối đối với giao dịch sáp nhập. Công việc này
được các bên sáp nhập xác định là một trong những điều kiện tiên quyết của hoạt
động sáp nhập [147].
(2) Để được chấp thuận nguyên tắc sáp nhập, SHB và HBB đã phối hợp lập
hồ sơ theo quy định gửi Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng xem xét, quyết định.
Trên cơ sở ý kiến tham gia của các cơ quan, Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng
đã thẩm định hồ sơ, đề xuất ý kiến, trình Thống đốc NHNN xem xét chấp thuận
nguyên tắc việc sáp nhập. NHNN đã có văn bản số 3651/NHNN ngày 15/6/2012,
chấp thuận về nguyên tắc việc sáp nhập HBB vào SHB. NHNN yêu cầu các ngân
hàng SHB và HBB có trách nhiệm hoàn tất hồ sơ trình Thống đốc xem xét chấp
thuận sáp nhập chính thức. SHB đã nộp hồ sơ xin phép phát hành chứng khoán lên
UBCKNN; nhận giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng. Căn cứ nội
dung yêu cầu hoàn tất hồ sơ, các bên đã phối hợp chỉnh sửa đề án sáp nhập, lấy ý
113
kiến của cơ quan có thẩm quyền quyết định của ngân hàng để thông qua các nội
dung thay đổi tại đề án sáp nhập và các vấn đề có liên quan, lập bộ hồ sơ theo quy
định gửi Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng xem xét chấp thuận. Cơ quan thanh
tra, giám sát ngân hàng đã tiến hành thẩm định hồ sơ, đề xuất ý kiến, trình Thống
đốc NHNN chấp thuận chính thức việc sáp nhập [147].
(3) Chấp thuận sáp nhập: Thống đốc NHNN đã có Quyết định số 1559/QĐ-
NHNN ngày 7/8/2012 về việc sáp nhập HBB vào SHB. Quyết định có hiệu lực từ
ngày 28/8/2012. Khi quyết định của Thống đốc NHNN có hiệu lực, HBB phải bàn
giao toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp cho SHB. Theo quyết
định, tên TCTD sau khi sáp nhập là SHB với tổng vốn điều lệ 8.865.795.470.000
đồng. Cũng tại quyết định này, NHNN thu hồi Giấy phép hoạt động của HBB. SHB
có trách nhiệm tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
HBB; hoàn tất các thủ tục về đăng ký doanh nghiệp và bố cáo sáp nhập theo quy
định của pháp luật. Đồng thời, SHB thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của
pháp luật có liên quan. HBB có trách nhiệm bàn giao toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp cho SHB; bố cáo sáp nhập, bố cáo chấm dứt hoạt động và
giải quyết các quyền và nghĩa vụ có liên quan theo quy định của pháp luật; thực
hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật có liên quan. Hai bên tiến hành
các thủ tục để thoái niêm yết cổ phiếu HBB tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội,
hoàn thiện hồ sơ, xin phép UBCKNN phát hành cổ phiếu hoán đổi. SHB đã hoàn tất
các thủ tục về đăng ký kinh doanh và đăng bố cáo sáp nhập theo quy định. HBB
hoàn tất các thủ tục rút Giấy phép thành lập và hoạt động [143].
- Trường hợp NHNN mua lại bắt buộc VNCB:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đến thời điểm hiện tại không có văn
bản pháp luật nào quy định về trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM theo hình
thức bắt buộc. Qua thực tế đối với trường hợp NHNN mua lại bắt buộc toàn bộ cổ
phần của ngân hàng yếu kém và chuyển thành ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước
như áp dụng đối với VNCB, khái quát lại một số nội dung về trình tự, thủ tục mua
lại bắt buộc đã được NHNN thực hiện như sau:
(1) VNCB tổ chức họp đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2015 lần thứ 3
(ngày 31/1/2015). Tại Đại hội đã quyết định không thông qua phương án bổ sung
vốn điều lệ để đảm bảo giá trị thực vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng bằng mức
vốn pháp định (3.000 tỷ đồng). NHNN đã tuyên bố sẽ mua lại bắt buộc toàn bộ vốn
114
cổ phần của ngân hàng với giá bằng 0 đồng/1 cổ phần [147].
Ngày 05/03/2015, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 249/QĐ-
NHNN, quyết định mua toàn bộ cổ phần và chuyển đổi VNCB thành công ty
TNHH một thành viên (NHTM TNHH MTV Xây dựng Việt Nam - CBBank).
Thông cáo báo chí của NHNN nêu rõ, thời gian qua, hoạt động của VNCB đã bộc lộ
nhiều yếu kém, việc quản trị, điều hành ngân hàng vi phạm nghiêm trọng quy định
của pháp luật. Trước tình hình đó, để kiểm soát rủi ro, giảm thiểu tổn thất tài sản
của ngân hàng, NHNN đã quyết định đặt VNCB vào tình trạng kiểm soát đặc biệt
theo quy định của pháp luật. VNCB không có các giải pháp tái cơ cấu khả thi theo
yêu cầu của NHNN. NHNN đã tuyên bố quyết định sẽ mua lại bắt buộc toàn bộ vốn
cổ phần của VNCB với giá bằng 0 đồng/1 cổ phần. Theo đó, NHNN trở thành chủ
sở hữu (100% vốn điều lệ) của VNCB, chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách
cổ đông đối với các cổ đông hiện hữu của VNCB [61].
(2) Tại Lễ công bố quyết định chuyển đổi mô hình VNCB thành CBBank,
NHNN thông báo các quyết định bổ nhiệm nhân sự chủ chốt của ngân hàng: Ông
Nguyễn Văn Tuân, Phó Tổng Giám đốc NHTMCP Ngoại thương Việt Nam được
bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Hội đồng thành viên. Các cán bộ khác của NHTMCP
Ngoại thương cũng được bổ nhiệm các chức vụ trong Hội đồng Thành viên, Ban
Tổng Giám đốc, Ban Kiểm soát [146].
(3) Sau khi mua lại bắt buộc và chuyển đổi mô hình, vốn điều lệ của CBBank
được NHNN công bố là 3.000 tỷ đồng - mức tối thiểu theo quy định hiện hành.
Theo đó, mức vốn điều lệ 7.500 tỷ đồng mà VNCB tăng lên từ 3.000 tỷ đồng từ
ngày 26/12/2013 không còn tồn tại. Mức 3.000 tỷ đồng được công bố là mức vốn
điều lệ mới, sau khi NHNN trở thành chủ sở hữu và cấp vốn.
(4) NHNN tiến hành hoàn tất các thủ tục pháp lý liên quan đến việc thành
lập, tổ chức và hoạt động của VNCB, CBBank như thực hiện đăng ký kinh doanh,
chuyển đổi hình thức pháp lý, đăng ký quyền sở hữu tài sản, sở hữu trí tuệ hay các
thủ tục liên quan đến chứng khoán niêm yết...
3.2.1.3. Về hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại
- Hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhâp NHTM qua nghiên cứu trường hợp
thực hiện mua lại bắt buộc đối với VNCB:
Qua nghiên cứu trường hợp của VNCB, nếu để VNCB phá sản, người dân
mất tiền sẽ gây ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội. Vì thế NHNN
115
mua lại bắt buộc ngân hàng này để củng cố, phục hồi lại hoạt động của ngân hàng,
nhưng trước tiên và quan trọng nhất đó là nhằm mục tiêu có tiền chi trả cho người
gửi tiền, đồng thời các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người gửi tiền tại VNBC
sẽ tiếp tục được đảm bảo theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, khi NHNN thực
hiện mua lại bắt buộc đối với VNCB, có một số hệ quả pháp lý được đặt ra như sau:
(1) NHNN trở thành chủ sở hữu 100% vốn điều lệ của VNCB, còn các cổ
đông hiện hữu của ngân hàng bị chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ
đông. Tại thời điểm NHNN mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần của VNCB, ngân
hàng này có tổng cộng 551 cổ đông, trong đó 6 cổ đông pháp nhân và 545 cổ đông
thể nhân. Như vậy, nếu như NHNN mua lại toàn bộ tài sản của VNCB với giá 0
đồng thì 551 cổ đông vẫn còn nguyên là cổ đông của ngân hàng này. Còn nếu
muốn loại bỏ 551 cổ đông thì phải mua lại toàn bộ số cổ phần thuộc quyền sở hữu
của tất cả cổ đông, không thể mua từ VNCB. Trong trường hợp này, kể từ ngày
05/03/2015 thì 551 cổ đông của VNCB đã bị chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và tư
cách cổ đông. Người vay tiền của ngân hàng vẫn phải có nghĩa vụ trả đầy đủ nợ
vay. Người gửi tiền tại ngân hàng vẫn được bảo đảm chi trả toàn bộ số tiền gửi,
gồm cả gốc và lãi.
Giao dịch mà NHNN thực hiện mua lại bắt buộc đối với VNCB cần được
hiểu là mua lại ngân hàng hay mua cổ phần của ngân hàng. NHNN có thể mua số cổ
phần của VNCB nhưng chỉ có thể mua lại cổ phần khi VNCB phát hành lần đầu khi
mới thành lập hoặc khi tăng vốn điều lệ, mua bán cổ phiếu quỹ. NHNN không thể
mua số cổ phần thẳng từ VNCB khi cổ phần đã được bán cho cổ đông vì số cổ phần
đã phát hành và bán cho cổ đông là thuộc quyền sở hữu của cổ đông, chỉ cổ đông
mới có quyền định đoạt. Theo quy định của Luật các TCTD và Luật chứng khoán,
NHNN có thể mua bán cổ phiếu của cổ đông NHTM. Một vấn đề pháp lý đặt ra, dù
là giao dịch mua bán cổ phiếu hoặc chuyển nhượng cổ phần thì cũng phải có đủ hai
bên là bên mua hoặc bên nhận chuyển nhượng và bên bán hoặc bên chuyển nhượng.
Tuy nhiên trên thực tế, trong trường hợp này chỉ có một bên mua hoặc chuyển
nhượng là NHNN, mà không có bên bán hoặc chuyển nhượng là các cổ đông của
NHTM. Do đó, việc mua bán hoặc chuyển nhượng bắt buộc trong trường hợp này
có được áp dụng tương tự như đối với việc quốc hữu hóa hay trưng mua tài sản, mà
không nhất thiết phải có sự đồng ý của bên bán hoặc bên chuyển nhượng hay cần
được hiểu như thế nào?
116
Trong trường hợp này, quốc hữu hoá ngân hàng là không được phép vì Hiến
pháp năm 1992 trước đây cũng như Điều 51 Hiến pháp năm 2013 hiện hành đã quy
định “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được
pháp luât bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.”. Còn theo Luật trưng mua, trưng dụng
tài sản (2008) quy định trưng mua tài sản là việc nhà nước mua tài sản của tổ chức
(không bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân
dân), cá nhân, hộ gia đình thông qua quyết định hành chính trong trường hợp thật
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia (Khoản 1, Điều 2). Luật
quy định tài sản thuộc đối tượng trưng mua bao gồm: nhà và tài sản khác gắn liền
với đất trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 5 của Luật này; thuốc chữa
bệnh, lương thực, thực phẩm, công cụ, dụng cụ và vật tư, vật dụng thiết yếu khác;
phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc và phương tiện kỹ thuật khác
(Điều 13). Quy định thẩm quyền quyết định trưng mua tài sản thuộc về Thủ tướng
Chính phủ, một số Bộ trưởng và Chủ tịch UBND cấp tỉnh nhưng không bao gồm
Thống đốc NHNN (Điều 14). Theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng
dụng thì tài sản thuộc đối tượng trưng mua không bao gồm cổ phần, cổ phiếu và
không có quy định cho phép nhận chuyển nhượng bắt buộc phần vốn góp hoặc cổ
phần, cổ phiếu của các TCTD trong các trường hợp cần thiết. Trên thực tế, việc phá
sản một ngân hàng có thể ảnh hưởng đến an ninh và lợi ích quốc gia do hậu quả của
việc này làm mất niềm tin dân chúng, gây bất ổn xã hội, có thể gây đổ vỡ hệ thống
ngân hàng và làm sụp đổ nền kinh tế. Tuy nhiên, việc trên này cũng không phải là
hình thức trưng mua tài sản, vì không thuộc trường hợp nào trong số bốn trường
hợp được phép trưng mua tài sản theo quy định tại Điều 5 về điều kiện trưng mua,
trưng dụng tài sản của Luật trưng mua, trưng dụng (2008).
Như vậy, đã có sự chưa thống nhất hoàn toàn quy định của Hiến pháp (2013)
Luật trưng mua, trưng dụng (2008), Luật doanh nghiệp (2014), Luật các TCTD
(2010), Luật chứng khoán (2010) để bảo đảm chắc chắn và rõ ràng về cơ sở pháp lý
đối với trường hợp mua lại bắt buộc VNCB, dẫn đến những hậu quả pháp lý như đã
phân tích nêu trên.
(2) Trước khi bị mua lại bắt buộc, VNCB là NHTM trong nước được thành
lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần. Với hình thức pháp lý sau khi mua lại,
VNCB phải tuân thủ các quy định của pháp luật về việc chuyển đổi hình thức pháp
lý từ công ty cổ phần thành công ty TNHH một thành viên. Do đó NHTM quốc
117
doanh này sẽ hoạt động theo quy định của Luật các TCTD đối với hình thức của
TCTD là NHTM nhà nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty TNHH
một thành viên do nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.
Kể từ ngày Quyết định mua lại bắt buộc có hiệu lực pháp luật, CBBank có
trách nhiệm sửa đổi, bổ sung điều lệ phù hợp với quy định của pháp luật; điều chỉnh
cơ cấu, tổ chức bảo đảm phù hợp với Luật các TCTD và các quy định của pháp luật
có liên quan; đăng ký doanh nghiệp và đăng ký lại quyền sở hữu tài sản đối với
CBBank theo quy định của pháp luật; thực hiện các điều chỉnh, thay đổi khác cho
phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan.
(3) Kể từ ngày mua lại có hiệu lực pháp luật, CBBank có trách nhiệm kế
thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của VNCB, đó là: (i) Quyền chủ
nợ của VNCB đối với các khoản cấp tín dụng, khoản đầu tư vào trái phiếu, chứng
khoán nợ khác được chuyển sang cho CBBank; (ii) Quyền cổ đông, chủ sở hữu của
VNCB đối với các khoản góp vốn, mua cổ phần được chuyển sang CBBank; (iii)
Quyền sở hữu đối với các tài sản của VNCB được chuyển sang CBBank; (iv) Các
nghĩa vụ nợ đối với khoản vay, tiền gửi dưới mọi hình thức của VNCB cũng được
chuyển sang CBBank. Quyền của người gửi tiền tại VNCB được bảo đảm; (v) Các
quyền và nghĩa vụ khác theo hợp đồng/thỏa thuận của VNCB được chuyển giao
sang CBBank.
- Hệ quả pháp lý khi NHTM thực hiện hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn bị mua
lại bắt buộc:
Bên cạnh việc nghiên cứu hai trường hợp mua lại, sáp nhập NHTM nêu trên,
đề tài luận án nghiên cứu về trường hợp NHNN mua lại cổ phần của NHTM trong
khi hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn đang trong thời gian thực hiện. Luật các TCTD
quy định trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng và người có liên quan vượt
quá giới hạn cấp tín dụng theo quy định thì TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
được cấp tín dụng hợp vốn theo quy định của NHNN (Điều 128). Thông tư số
42/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 của NHNN quy định về việc cấp tín dụng hợp
vốn của TCTD đối với khách hàng. Thông tư quy định, cấp tín dụng hợp vốn là việc
có từ hai TCTD trở lên cùng cấp tín dụng đối với khách hàng, thông qua các nghiệp
vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và
các nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Tuy nhiên, hiện pháp luật chưa quy định cụ thể về
hệ quả pháp lý trong quá trình thực hiện hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn, một bên là
118
NHTM tham gia cấp tín dụng hợp vốn bị mua lại, sáp nhập bắt buộc.
Theo quy định, hợp đồng cấp tín dụng phải phù hợp với quy định của pháp
luật về dân sự, tín dụng và các quy định của pháp luật có liên quan. BLDS (2005)
quy định, một trong các căn cứ chấm dứt hợp đồng khi pháp nhân hoặc chủ thể khác
chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện.
Tuy nhiên pháp luật hiện hành quy định khi mua lại, sáp nhập TCTD thì sẽ mua lại
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của TCTD khác hay chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang TCTD nhận sáp nhập,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của TCTD bị sáp nhập. Như vậy, khi NHTM là một
bên cấp tín dụng hợp vốn bị mua lại, sáp nhập sẽ không còn tư cách pháp nhân như
khi thực hiện hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn ban đầu. Trong trường hợp này các
bên phải bổ sung thỏa thuận dưới hình thức phụ lục về việc chuyển giao quyền,
nghĩa vụ của bên bị mua lại, sáp nhập trong hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn. Trên
thực tế, hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn đã quy định như sau:
“Điều 4. Từ bỏ quyền và chấp thuận... b) Cho dù có bất kỳ quy
định nào khác tại các văn kiện tín dụng, mỗi bên tham gia hợp đồng
này đồng ý rằng:... (ii) các quy định của hợp đồng này không được
sửa đổi trừ trường hợp quy định tại Mục 10.05.”
“10.05 Hợp nhất, Sáp nhập, Bán tài sản, Các khoản vay.
(a) Khi các Bên (i) đổi tên; (ii) chấm dứt hoạt động, thanh lý
hoặc giải thể, hoặc (iii) tham gia bất kỳ giao dịch hợp nhất hoặc sáp
nhập hay tái tổ chức nào thì phải thông báo trước bằng văn bản cho
Ngân hàng đầu mối (theo chỉ thị của các ngân hàng) trước 60 ngày.
Trong trường hợp này, các Bên (kể cả Bên kế thừa) phải chịu trách
nhiệm về việc tiếp tục thực hiện hợp đồng hợp vốn này và các văn
kiện tín dụng đã ký kết với Bên vay.”.
Theo Thời báo Ngân hàng điện tử, ngày 29/10/2012, 05 ngân hàng bao gồm
NHTMCP Đại Dương (OceanBank), NHTMCP Quốc tế Việt Nam (VIB),
NHTMCP Quân Đội (MB), NHTMCP Đông Nam Á (SeABank), NHTMCP Bưu
điện Liên Việt (LienVietPostBank) đã tiến hành Lễ ký kết hợp đồng cấp tín dụng
với Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP) để đầu tư Dự án phát triển và
khai thác dầu khí tại Lô 15-2/01, thềm lục địa Việt Nam. Tổng số tiền tài trợ cho Dự
án lên đến 140 triệu USD với thời hạn vay 7 năm [96]. Tuy nhiên, trong thời gian
119
hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn còn hiệu lực, đến ngày 08/5/2015 NHNN đã quyết
định mua lại bắt buộc toàn bộ cổ phần và chuyển đổi NHTMCP Đại Dương thành
công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu [62]. Trên thực tế, hợp
đồng cấp tín dụng hợp vốn này vẫn được triển khai. Do đó vấn đề này cần nghiên
cứu để quy định trở thành một nội dung của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM,
nhất là trong trường hợp bắt buộc thực hiện mua lại, sáp nhập.
- Hệ quả pháp lý về quyền sở hữu đối với tài sản của NHTM bị mua lại, bị
sáp nhâp:
Việc xác định thời điểm chuyển giao quyền sở hữu đối với bất động sản rất
quan trọng vì tất cả các quyền và nghĩa vụ của hai bên tham gia giao dịch dân sự sẽ
phát sinh theo thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc còn liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của bên thứ ba có liên quan. Điều 168, BLDS (2005) quy định việc
chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký
quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Có thể hiểu rằng quyền
sử dụng đất sẽ được chuyển giao khi thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng đất tại
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Cũng theo quy định của BLDS (2005), Điều
439 quy định thời điểm chuyển quyền sở hữu: “Đối với tài sản mua bán mà pháp
luât quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên
mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó”.
Khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, kể từ ngày mua lại, sáp nhập có
hiệu lực pháp luật, giữa các bên mới thực hiện chuyển đổi quyền sở hữu đối với tài
sản mà pháp luật yêu cầu phải chuyển quyền sở hữu. Tuy nhiên như đã trình bày,
thời điểm thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu đối với bất động sản mới là thời
điểm chuyển giao quyền sở hữu từ bên chuyển giao sang bên nhận chuyển giao,
trong khi đó, thời gian thực hiện từ khi giao kết hợp đồng đến hoàn tất giai đoạn
đăng ký quyền sử dụng đất hoặc sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
tại cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền từ 1 đến 2 tháng. Như vậy, vấn đề xác
định thời điểm chuyển giao quyền sở hữu đối với bất động sản rất quan trọng vì một
khi đã chuyển giao quyền sở hữu thì bên chuyển giao không còn bất kỳ quyền gì đối
với bất động sản nữa nhưng nếu như trước khi chuyển giao quyền sở hữu, bên
chuyển giao dùng bất động sản đã chuyển giao để tham gia một giao dịch khác như
dùng làm tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ tài chính với bên thứ ba thì quyền lợi
và nghĩa vụ của các bên theo đó sẽ có hệ quả hoàn toàn khác.
120
3.2.1.4. Về giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập ngân hàng
thương mại
Về thực tiễn giải quyết tranh chấp khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM,
qua theo dõi các thương vụ mua lại, sáp nhập NHTM từ năm 2010 trở lại đây, chưa
ghi nhận có vụ việc nào phát sinh tranh chấp trong quá trình mua lại, sáp nhập.
3.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân
hàng thương mại
Qua nghiên cứu hai trường hợp mua lại, sáp nhập NHTM đã thực hiện trong
năm 2012 và năm 2015, đồng thời tìm hiểu, phân tích thêm một số trường hợp mua
lại, sáp nhập NHTM trong thời gian gần đây, có thể đánh giá khái quát thực tiễn
thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam hiện nay như sau:
Một là, các trường hợp mua lại, sáp nhập tự nguyện đều thực hiện theo lộ
trình tái cơ cấu ngân hàng của NHNN và định hướng phát triển của các NHTM. Các
bên tham gia mua lại, sáp nhập đã chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh, báo
cáo đại hội đồng cổ đông. Phương án mua lại, sáp nhập của các NHTM được cơ
quan quản lý ngân hàng chấp thuận. Các NHTM sau mua lại, sáp nhập đều hoạt
động có hiệu quả, theo đúng lộ trình đề ra trong đề án mua lại, sáp nhập được phê
duyệt. Việc vận dụng pháp luật về mua lại, sáp nhập bước đầu đáp ứng được yêu
cầu để thực hiện tái cơ cấu ngân hàng, tuy rằng một số quy định pháp lý còn thiếu,
chưa đồng bộ và chặt chẽ.
Hai là, do việc vận dụng pháp luật phức tạp, thiếu kiến thức và kinh nghiệm
nên các NHTM thực hiện mua lại, sáp nhập không tự mình thực hiện được tất cả các
nội dung, yêu cầu của pháp luật về mua lại, sáp nhập mà phải thông qua các công ty
tư vấn, luật sư để xây dựng phương án mua lại, sáp nhập, thẩm định pháp lý, lập hồ
sơ và tiến hành các trình tự, thủ tục để thực hiện thương vụ mua lại, sáp nhập.
Ba là, trên cơ sở tìm hiểu, trao đổi và nhận được sự đồng thuận của ban lãnh
đạo các bên tham gia mua lại, sáp nhập, các bên mua lại, nhận sáp nhập đã có
những thông tin liên quan đến ngân hàng mục tiêu, khẳng định được rằng, NHTM
mục tiêu được hình thành, quản lý và sở hữu một cách hợp pháp, không là đối
tượng của các thủ tục giải thể, phá sản… Các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà NHTM
mục tiêu đã xác lập là phù hợp với pháp luật. Các ngân hàng mua lại, nhận sáp nhập
đã hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ pháp lý, chế độ pháp lý đối với các loại tài sản,
hợp đồng lao động, hồ sơ đất đai, đầu tư… của NHTM mục tiêu. Qua đó giúp nhận
121
diện được các yếu tố rủi ro để có giải pháp loại trừ. Những vấn đề này được trình
bày trong dự thảo đề án mua lại, sáp nhập; hợp đồng mua lại, sáp nhập; điều lệ của
NHTM nhận sáp nhập.
Bốn là, các trường hợp mua lại, sáp nhập NHTM theo hình thức tự nguyện
cơ bản đều tuân thủ quy định về nguyên tắc mua lại, sáp nhập; các hình thức mua
lại, sáp nhập; bố cáo mua lại, sáp nhập; điều kiện để được mua lại, sáp nhập; trình
tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hồ sơ đề nghị mua lại, sáp nhập; đề án mua lại, sáp
nhập theo quy định hiện hành về việc mua lại, sáp nhập TCTD. Hợp đồng mua lại,
sáp nhập đã được soạn thảo chặt chẽ, có các điều khoản về quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên, về tính hợp pháp và trách nhiệm của các bên đối với các giao dịch và
nghĩa vụ xác lập trước thời điểm mua lại, sáp nhập; những rủi ro đã được nhận diện,
khoanh vùng cùng phương án loại trừ và/hoặc chuyển giao một cách có điều kiện
những rủi ro đó sang NHTM mua lại, nhận sáp nhập… Do việc chuẩn bị kỹ lưỡng,
quá trình tư vấn pháp lý, thẩm định pháp lý được chú trọng đã giúp hoạt động mua
lại, sáp nhập diễn ra thuận lợi và cũng là điều kiện để thương vụ mua lại, sáp nhập
NHTM được công nhận tính hợp pháp và hợp lệ.
Năm là, theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền liên quan đến mua lại, sáp nhập như NHNN, UBCKNN, UBND tỉnh, thành
phố nơi có NHTM đặt trụ sở, chi nhánh đã thực hiện nhanh chóng, có trách nhiệm
các nội dung phải thực thi theo quy định, đồng thời hỗ trợ tích cực cho các NHTM
trong quá trình mua lại, sáp nhập. NHNN và các cơ quan quản lý đã theo dõi chặt
chẽ hoạt động của các NHTM sau mua lại, sáp nhập để có thể can thiệp, hỗ trợ, xử
lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm bảo đảm khả năng chi trả tiền gửi của
người dân và không làm gián đoạn việc cung cấp dịch vụ ngân hàng. NHNN sẵn
sàng hỗ trợ về mặt thanh khoản trong trường hợp ngân hàng sau mua lại, sáp nhập
gặp khó khăn về thanh khoản. NHNN đã chỉ định công ty kiểm toán độc lập quốc tế
để có số liệu khách quan, làm căn cứ ban hành quyết định mua lại, sáp nhập. Sự hỗ
trợ của cơ quan chức năng trong quá trình mua lại, sáp nhập được cho là rất quan
trọng dẫn đến thành công của các thương vụ mua lại, sáp nhập NHTM, giúp tiết
tiệm thời gian, chi phí, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.
Sáu là, việc công bố thông tin khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM theo
hình thức tự nguyện bước đầu đã đáp ứng yêu cầu pháp luật, nhưng việc công bố
thông tin khi NHNN buộc mua lại, sáp nhập NHTM yếu kém còn chưa kịp thời,
122
không đầy đủ và liên tục đã gây ra những tranh luận không cần thiết đối với xã hội.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó cho thấy sự can thiệp của nhà nước đối
với các ngân hàng yếu kém là mang tính khách quan, bình đẳng và minh bạch.
Trên thực tế, nhiều thông tin về mua lại, sáp nhập NHTM trong quá trình
thực hiện được báo chí đăng tải, suy đoán, có trường hợp khi thực hiện đàm phán đã
bị rò rỉ thông tin. Trách nhiệm pháp lý của các đối tượng cung cấp thông tin về việc
đàm phán chưa rõ ràng. Thông tin về việc kiểm soát đặc biệt đối với VNCB được
chính thức công bố tại đại hội đồng cổ đông thường niên của ngân hàng này [99], là
một trong những hình thức công bố thông tin kiểm soát đặc biệt quy định tại Điều 7,
Thông tư số 07/2013/TT-NHNN ngày 14/3/2013 của NHNN. Tuy nhiên do trên các
phương tiện thông tin đại chúng không có thông tin chính thức nào về việc kiểm
soát đặc biệt VNCB tại thời điểm này, những thông tin chính thức về cơ sở pháp lý,
thực trạng VNCB còn thiếu, chưa kịp thời, rõ ràng, minh bạch trong khi vấn đề
NHNN mua lại bắt buộc VNCB tại thời điểm này được dư luận đặc biệt quan tâm.
Các NHTM không tuân thủ kỷ luật công bố thông tin nghiêm túc, nên chỉ khi
NHNN tuyên bố mua lại thì các cổ đông nhỏ lẻ mới được biết.
Bảy là, một số nội dung pháp lý sau khi mua lại, sáp nhập NHTM chưa được
quy định cụ thể, rõ ràng. Chưa có quy định cụ thể khi mua lại, sáp nhập với trường
hợp NHTM niêm yết như nộp hồ sơ xin phép phát hành lên UBCKNN; nhận giấy
chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng. Vì vậy một số NHTM đã đề nghị
UBCKNN, NHNN và các bộ, ngành liên quan hướng dẫn cụ thể về lộ trình, thủ tục
đối với trường hợp mua lại, sáp nhập cho các NHTM niêm yết. Khi mua lại, sáp
nhập NHTM, những vấn đề pháp lý được quan tâm như quyền, nghĩa vụ của các
ngân hàng bị mua lại, sáp nhập, quyền lợi của khách hàng (người gửi tiền), quyền
lợi của người lao động tại các ngân hàng bị mua lại, sáp nhập... còn chưa được quy
định cụ thể. Thực tế đã phát sinh những vấn đề pháp lý liên quan đến sự can thiệp
của NHNN vào ngân hàng yếu kém như việc: (i) Chuyển sở hữu tư nhân thành sở
hữu nhà nước ở một số ngân hàng yếu kém; (ii) Cổ đông không đồng ý có sự can
thiệp của NHNN vào cơ cấu sở hữu [18].
Đối với các công ty niêm yết có số lượng cổ đông lớn, việc rà soát thông tin
về cổ đông để thực hiện thủ tục lưu ký chứng khoán mất nhiều thời gian, gây bức
xúc cho nhà đầu tư khi giá cổ phiếu có biến động trong thời gian dài. Có trường hợp
gặp vướng mắc liên quan đến thủ tục hủy niêm yết cổ phiếu và việc NHNN thu hồi
123
giấy phép hoạt động của TCTD. Trong quá trình sáp nhập NHTM, trước khi được
chấp thuận chính thức sáp nhập, nhân sự cấp cao của NHTM bị sáp nhập đã được
thay thế. Nhân sự mới đến từ NHTM nhận sáp nhập hoặc có liên quan tới NHTM
nhận sáp nhập. Điều này có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng bị sáp nhập nếu hoạt
động sáp nhập không thành công.
Tám là, chưa có căn cứ pháp lý rõ ràng để Nhà nước được quyền mua lại
NHTM hạn chế, yếu kém như đã thực hiện đối với trường hợp VNCB với giá 0
đồng. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật, thấy rằng đã có căn cứ pháp lý để
NHNN có quyền mua lại đối với NHTM được kiểm soát đặc biệt nếu chủ sở hữu
không có khả năng hoặc không thực hiện việc tăng vốn (Điều 149, Luật các TCTD;
Quyết định số 48/2013/QĐ-TTg ngày 01/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ). Do đó,
NHNN sẽ thực hiện quyền yêu cầu các chủ sở hữu phải chấp nhận kết quả kiểm
toán độc lập và chuyển nhượng bắt buộc đối với toàn bộ cổ phần của mình tại
NHTM đó. Để thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, xử lý các NHTM yếu
kém, trong năm 2015 NHNN đã thực hiện mua lại bắt buộc 03 NHTM yếu kém
trong đó có VNCB với giá 0 đồng. Trên thực tế, các ngân hàng này hoạt động kinh
doanh không hiệu quả nên đã âm vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý trong
trường hợp NHNN mua lại bắt buộc các ngân hàng này thông qua việc mua toàn bộ
số cổ phần thẳng từ ngân hàng trong khi số cổ phần này đã được bán cho cổ đông
còn chưa rõ ràng và cụ thể. Các tiêu chuẩn, điều kiện khi NHNN đặt NHTM này
vào trạng thái kiểm soát đặc biệt không được công bố thông tin kịp thời, đầy đủ,
rộng rãi và minh bạch. Thực hiện những loại trừ pháp lý, việc NHNN mua lại bắt
buộc VNCB không phải là mua bán tài sản của ngân hàng. NHNN có thể mua tài
sản (như trụ sở, tài sản cố định, hàng hoá,...) của VNCB. Tuy nhiên, nếu mua lại
toàn bộ tài sản của ngân hàng thì cũng phải được đại hội đồng cổ đông của VNCB
biểu quyết đồng ý theo quy định tại điểm p, khoản 2, Điều 59 Luật các TCTD
(2010). Nếu mua tài sản của ngân hàng, thì quyền của cổ đông vẫn còn nguyên, cho
dù giá trị của cổ phần là trên hay bằng 0 đồng. NHNN mua lại bắt buộc VNCB cũng
không thuộc trường hợp trưng mua tài sản. Điều 32 của Hiến pháp năm 2013 đã quy
định “Trường hợp thât cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc
gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng
dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường”. Tuy nhiên,
việc này cũng không phải là hình thức trưng mua tài sản, vì không thuộc trường hợp
124
nào trong số các trường hợp được phép trưng mua tài sản, cổ phần, cổ phiếu hay
doanh nghiệp cũng không thuộc đối tượng trưng mua và Thống đốc NHNN cũng
không có thẩm quyền trưng mua tài sản theo quy định của Luật trưng mua, trưng
dụng tài sản (2008). Một số loại trừ pháp lý khác cho thấy trường hợp này không
phải là hợp nhất, sáp nhập, giải thể, mua bán, không thực hiện phá sản, quốc hữu
hóa ngân hàng.
Có thể thấy rằng, quyết định của NHNN đã thực hiện mua lại bắt buộc đối
với trường hợp VNCB với giá 0 đồng đã dựa trên căn cứ pháp luật, là cần thiết để
tránh nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng; bảo đảm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô,
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đồng thời có tác dụng hữu hiệu trong việc
chặn đứng tình trạng bất tuân thủ các yêu cầu, điều kiện bảo đảm an toàn đối với
hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên còn chưa có căn cứ pháp lý rõ ràng để Nhà nước
được quyền mua lại NHTM yếu kém như đã phân tích thông qua trường hợp của
VNCB nói trên. Do đó cần tiếp tục rà soát hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc này.
Ngoài ra, còn một số vấn đề như quy định về quản trị NHTM, sau mua lại,
sáp nhập còn chưa cụ thể. Các ngân hàng còn phải tiếp tục giải quyết các vấn đề về
hậu mua lại, sáp nhập. Trên thực tế, NHTMCP Sài Gòn SCB sau khi hợp nhất đã
mất nhiều thời gian để kết nối thành công hệ thống core banking thống nhất giao
dịch trên cả ba ngân hàng. Do vậy, các ngân hàng nhỏ, yếu trong diện “buộc phải tự
nguyện sáp nhập, hợp nhất, mua lại” thì cần được giám sát chặt chẽ để giải quyết
các vấn đề của hậu mua lại, sáp nhập. Mua lại, sáp nhập ngân hàng xấu có thể chỉ
làm tăng quy mô vốn điều lệ và tổng tài sản mà không giúp cải thiện tỷ lệ an toàn
sau mua lại, sáp nhập. Sáp nhập một ngân hàng tốt và một ngân hàng xấu cũng chưa
thể kết luận mức độ an toàn sẽ cao hơn bởi lẽ ngân hàng mới sẽ phải đối mặt với
thách thức về quản trị nhân sự, quản trị vốn và phải đối phó với những vấn đề khó
khăn như nợ xấu của ngân hàng mà mình sáp nhập.
125
Kết luận chương 3
1. Pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại đã được hình thành
trong thời gian gần đây, có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã
hội liên quan đến mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại, phục vụ mục tiêu tái cơ
cấu nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Các quy định của pháp luật hiện
hành đã giúp các ngân hàng thương mại chủ động thực hiện mua lại, sáp nhập phù
hợp với định hướng, chiến lược phát triển của ngân hàng, tạo cơ sở pháp lý để nhà
nước ổn định kinh tế vĩ mô, quản lý hoạt động ngân hàng, đồng thời có cơ sở pháp
lý để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
2. Pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam liên
quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như pháp luật về dân sự, pháp luật về
doanh nghiệp, pháp luật về cạnh tranh, pháp luật về đầu tư, pháp luật về lao động,
pháp luật về chứng khoán... do mỗi văn bản luật chi phối hay điều chỉnh các vấn
đề khác nhau liên quan đến hoạt động mua lại, sáp nhập. Luật các tổ chức tín dụng
là luật chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp đến việc thành lập, hoạt động và tổ chức
lại ngân hàng thương mại, đồng thời được đặt trong mối quan hệ với các luật khác
khi các giải quyết các vấn đề liên quan đến việc mua lại, sáp nhập ngân hàng
thương mại.
3. Bên cạnh những thành công mang lại, pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân
hàng thương mại ở Việt Nam còn có một số tồn tại, hạn chế như khung pháp lý về
mua lại, sáp nhập đối với doanh nghiệp nói chung còn thiếu, chưa cụ thể, chồng
chéo và mâu thuẫn; khung pháp lý điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập đối với
ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập; còn có những khoảng trống pháp lý để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn khi thực hiện mua lại, sáp
nhập; chưa tạo được cơ sở pháp lý vững chắc để thúc đẩy hoạt động này. Trên thực
tế đã có nhiều bất cập khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại thời
gian qua, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến cơ chế pháp lý cần phải giải quyết.
4. Một số quốc gia đã xử lý tốt việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong
giai đoạn khủng hoảng kinh tế vừa qua. Do đó cần nghiên cứu, tìm hiểu những kinh
nghiệm quốc tế trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng để có thể học hỏi, vận
dụng những kinh nghiệm hay, các bài học quý giúp hoàn thiện pháp luật về mua lại,
sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
126
CHƯƠNG 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ MUA LAI, SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI Ở VIỆT NAM
4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA LAI,
SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI Ở VIỆT NAM
Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM vẫn còn những hạn chế, bất cập.
Trước những yêu cầu mới của Hiến pháp năm 2013, yêu cầu hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước trong giai đoạn tới thì việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở
Việt Nam là đòi hỏi cấp thiết. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp
nhập NHTM ở Việt Nam được xác định dựa trên một số yêu cầu chính sau đây:
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập
doanh nghiệp
Khi thực hiện mua lại, sáp nhập, các bên trong quan hệ mua lại, sáp nhập có
nhu cầu chính đáng là cần một hành lang pháp lý vững chắc để thực hiện các hoạt
động kinh doanh của mình, cũng như bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp và thực
hiện trách nhiệm của các bên trong quan hệ mua lại, sáp nhập. Để đáp ứng yêu cầu
này, một số phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu tạo hành
lang pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập doanh nghiệp được đặt ra như sau:
Thứ nhất, pháp luật về mua lại, sáp nhập phải đáp ứng yêu cầu về tính thống
nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong hệ thống pháp luật, phù hợp với những
cam kết của các quốc gia thành viên, của các tổ chức quốc tế như WTO, EU,
ASEAN... Nguyên tắc công khai, minh bạch cần được hết sức tôn trọng để bảo đảm
niềm tin và định hướng đúng cho thị trường. Bởi vậy, mọi biện pháp và kết quả thực
hiện liên quan đến tái cấu trúc doanh nghiệp cần được cơ quan chức năng công bố
một cách công khai, kịp thời. Các quy phạm về mua lại, sáp nhập phải thống nhất
với nhau một cách tương đối, không được mâu thuẫn, chồng chéo với nhau. Để đáp
ứng yêu cầu về tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, các quy phạm pháp
luật về mua lại, sáp nhập phải phù hợp với nội dung và tinh thần của Hiến pháp; các
quy phạm pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành phải phù hợp với quy phạm do
cơ quan cấp trên ban hành; các quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành
phải phù hợp với văn bản, quy phạm do chính cơ quan mình đã ban hành trước đó;
127
các quy phạm pháp luật trong một văn bản quy phạm pháp luật phải thống nhất với
nhau; văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm pháp luật phải phù hợp với các
điều ước, thoả thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Thứ hai, pháp luật về mua lại, sáp nhập phải rõ ràng, thông suốt, đúng đắn.
Các quy phạm pháp luật phải mang tính hệ thống, nhất quán, chặt chẽ, tránh trùng
lắp và mâu thuẫn. Pháp luật về mua lại, sáp nhập phải tạo ra hành lang pháp lý bình
đẳng cho các chủ thể để có thể tham gia vào các quan hệ pháp lý khi thực hiện mua
lại, sáp nhập, đồng thời pháp luật phải có tính khả thi, duy trì niềm tin của nhà đầu
tư, tạo được niềm tin đối với người dân và xã hội... Để đáp ứng yêu cầu về tính
minh bạch thì quy phạm pháp luật về mua lại, sáp nhập cần phải nhất quán, công
khai, dễ tiếp cận, phải tin cậy được, phải lường trước và có thể dự đoán trước được.
Pháp luật về mua lại, sáp nhập cần đáp ứng yêu cầu về hiệu quả để có thể thực hiện
với những chi phí thấp, mang lại nhiều lợi ích cho xã hội. Pháp luật được ban hành
kịp thời, đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với các quy luật khách quan và phù hợp với các
điều kiện kinh tế, xã hội; phải xem xét mức độ chi phí cụ thể, nhất là trong trường
hợp cần có sự can thiệp của nhà nước nhằm đạt được các kết quả thực tế [74].
Thứ ba, văn bản pháp luật chuyên biệt điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp
nhập đối với một số loại hình doanh nghiệp cần được bổ sung những quy định về
nội dung bên cạnh quy định về mặt thủ tục. Hiện nay, các quy định liên quan đến
mua lại, sáp nhập đã được quy định trong Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật
đầu tư, Luật cạnh tranh, Luật chứng khoán…Tuy nhiên, các quy định này mới phần
lớn dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức, trong khi đó các vấn đề về nội dung
cần phải được quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, tránh chồng chéo.
Thứ tư, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập cần
được xây dựng sao cho vừa mang tính phù hợp thực tiễn, vừa phải có tính dự liệu để
đảm bảo điều chỉnh linh hoạt các hoạt động này. Do đó cần phải xây dựng chính
sách phù hợp với chiến lược và định hướng chiến lược tái cấu trúc doanh nghiệp nói
chung và trong lĩnh vực ngân hàng ở hiện tại cũng như trong tương lai, phù hợp với
tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội.
Trên cơ sở này, pháp luật mới tạo được môi trường pháp lý bình đẳng cho các đối
tượng bị điều chỉnh. Vì vậy, cần thay đổi cách thức xây dựng và phê duyệt chính
sách, đó là công khai, tham vấn, trưng cầu ý kiến của những đối tượng bị điều chỉnh
có lợi ích liên quan đến hoạt động tái cấu trúc doanh nghiệp, ngân hàng.
128
4.1.2. Hoàn thiện pháp luật đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập
ngân hàng thương mại
Với những kết quả thực hiện tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong thời gian
vừa qua cho thấy, hệ thống NHTM nước ta đã giữ được sự ổn định trong quá trình
tái cơ cấu, ổn định kinh tế vĩ mô, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, các kết quả của quá trình này còn chưa tương xứng với mục tiêu và kỳ
vọng phát triển của nền kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu là do còn thiếu một cách tiếp
cận tổng hợp để xử lý tổng thể các vấn đề của tái cơ cấu hệ thống NHTM, đặc biệt
là còn thiếu một khung khổ pháp lý mang tính hệ thống để tái cơ cấu NHTM trong
bối cảnh tái cơ cấu nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, phương hướng hoàn thiện
pháp luật đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập NHTM, phục vụ cho mục tiêu
tái cơ cấu hệ thống ngân hàng được đặt ra như sau:
Thứ nhất, pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM cần được hoàn thiện theo
hướng đảm bảo nguyên tắc không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hệ thống ngân
hàng ngoài tầm kiểm soát của nhà nước, tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng
một hoặc một số ngân hàng quá yếu kém có thể đổ vỡ. Các quy định pháp luật được
xây dựng và hoàn thiện nhằm phục vụ mục tiêu tái cơ cấu nền kinh tế nói chung, tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng nói riêng, nhằm giảm nhanh số lượng ngân hàng yếu
kém, hoặc đặt ra những vấn đề cần xử lý đối với một số ngân hàng cụ thể để ổn định
kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống. Chính phủ cần xây dựng các kịch bản có
thể xảy ra cũng như các biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả khi hệ thống ngân
hàng có những biến động. Ngoài ra, cần xây dựng những quy định để bảo vệ người
gửi tiền, người lao động, cổ đông thiểu số và minh bạch hóa giao dịch của các bên
liên quan.
Thứ hai, pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM phải tạo môi trường thuận
lợi, ổn định cho hoạt động mua bán, sáp nhập và tổ chức lại doanh nghiệp. Hoàn
thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng cần tạo ra hành lang
pháp lý để thu hút vốn từ nhà đầu tư nước ngoài thông qua hoạt động mua bán, sáp
nhập và tổ chức lại ngân hàng. Việc nhà nước mua lại hoặc đầu tư vào vốn cổ phần
của các ngân hàng yếu kém là một trong những giải pháp tạm thời cuối cùng đối với
các NHTM không có khả năng khắc phục hoặc tái cơ cấu. Kinh nghiệm quốc tế cho
thấy hầu hết các nước công nghiệp phát triển đều phải thực hiện nghĩa vụ này. Tuy
nhiên, việc mua lại hoặc đầu tư của nhà nước chỉ mang tính tạm thời, phần lớn nhà
129
nước sẽ bán lại cổ phần cho các nhà đầu tư khác sau khi tiến hành các biện pháp
nhằm khôi phục hoạt động của các ngân hàng này. Trong một số trường hợp, sau
khi rà soát và xác định nhóm các ngân hàng yếu kém, nhà nước có thể tiến hành kêu
gọi các nhà đầu tư bên ngoài đồng tài trợ hay góp vốn cùng nhà nước để khôi phục
hoạt động của các ngân hàng yếu kém. Nguồn vốn này có thể được trích ra từ các
quỹ đặc biệt của nhà nước để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng [3], do đó cần tạo quy
định pháp lý để có thể huy động được nguồn lực trong việc tái cấu trúc ngân hàng.
Bên cạnh đó là việc cần giữ vững ổn định kinh tế, xã hội và đảm bảo việc quản lý,
kiểm soát hiệu quả của nhà nước, đồng thời tạo môi trường kinh doanh bình đẳng,
phát huy tính cạnh tranh của các thành phần kinh tế.
Việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng
cũng cần phải đáp ứng một số yêu cầu: (i) Tháo gỡ triệt để các khó khăn, vướng
mắc đang cản trở hoạt động mua lại, sáp nhập và tổ chức lại ngân hàng; (ii) Bảo
đảm tối đa sự phát triển ổn định của hệ thống pháp luật có liên quan, hạn chế đưa ra
quá nhiều văn bản pháp luật mới, đồng thời bảo đảm các quy định mới được đưa ra
tương thích với các quy định còn hiệu lực khác của hệ thống pháp luật; (iii) Phù hợp
với các cam kết quốc tế của Việt Nam, với thông lệ, tập quán quốc tế, bảo đảm chủ
quyền và lợi ích quốc gia.
Thứ ba, xây dựng khung pháp lý về mua lại, sáp nhập NHTM cần chuyên
biệt, rõ ràng và đầy đủ. Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt có vai trò quan
trọng đối với nền kinh tế. Với tầm quan trọng như vậy, quy định về mua lại, sáp
nhập NHTM cần được quy định nguyên tắc trong Luật các TCTD, để từ đó các văn
bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thấp hơn sẽ quy định chi tiết. Hiến pháp
2013 đã quy định, mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề
mà pháp luật không cấm và quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết. Kinh doanh hoạt động ngân hàng
không bị pháp luật cấm nhưng có điều kiện chặt chẽ. Vì thế, nếu quy định hạn chế
quyền kinh doanh của các chủ thể trong lĩnh vực ngân hàng cần được quy định bởi
luật. Trong xu hướng xây dựng pháp luật hiện nay, đòi hỏi luật phải được xây dựng
càng cụ thể càng tốt, để các quy định của luật có thể thi hành được ngay. Tuy nhiên,
mua lại, sáp nhập NHTM đòi hỏi sự điều chỉnh của nhiều ngành luật với mức độ
phức tạp cao, có nhiều quan hệ xã hội phát sinh, biến động liên tục khi thực hiện
mua lại, sáp nhập cần phải điều chỉnh kịp thời, phù hợp, do đó cần quy định nguyên
130
tắc trong luật, để từ đó các văn bản hướng dẫn có cơ sở pháp lý để ban hành.
Thứ tư, ngoài việc xây dựng những nguyên tắc trong luật để xử lý các quan
hệ xã hội cơ bản trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, cần chú ý đến
việc xây dựng các quy định pháp lý để đáp ứng và giải quyết các yêu cầu cụ thể,
khách quan sau:
- Tạo ra khung pháp lý để nhà nước, các chủ thể ngân hàng và các bên liên
quan có căn cứ thực hiện, đồng thời buộc phải thực hiện trong khung pháp lý đó
trên cơ sở các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục
mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập; giải quyết tranh chấp khi
mua lại, sáp nhập và các nội dung khác có liên quan. Pháp luật phải đáp ứng vai trò
là điều kiện khung pháp lý để thương vụ mua lại, sáp nhập NHTM được diễn ra
trên thực tế, an toàn.
- Luật các TCTD với tư cách là luật chuyên ngành, theo đó cần có các định
nghĩa, khái niệm, quy định những nội dung điều chỉnh chủ yếu về mua lại, sáp nhập
NHTM. Trong văn bản pháp luật điều chỉnh mua lại, sáp nhập, cần bổ sung đầy đủ
quy định về nội dung đối với các vấn đề liên quan trực tiếp đến mua lại, sáp nhập
NHTM như tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp
nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp
nhập, bao gồm cả trường hợp thực hiện tự nguyện và bắt buộc của nhà nước. Những
vấn đề như xử lý hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn, kiểm toán, định giá, bảo mật,
cung cấp, công bố thông tin cũng cần ghi nhận để quy định cụ thể. Các nội dung về
tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM phải được quy định rõ ràng để cơ
quan quản lý ngân hàng, các chủ thể tham gia mua lại, sáp nhập ngân hàng thực hiện
thống nhất, minh bạch, nhằm đảm bảo việc can thiệp của NHNN trong việc mua lại,
sáp nhập bắt buộc các NHTM yếu kém là có cơ sở pháp lý, đúng pháp luật, loại bỏ sự
can thiệp của nhà nước đối với ngân hàng thông qua các quyết định, mệnh lệnh hành
chính; đảm bảo rằng việc can thiệp của nhà nước trong các tình huống khác nhau sẽ
không vi phạm các quy định pháp luật đã ban hành trước đây. Điều này có ý nghĩa rất
quan trọng bởi nó cho thấy sự can thiệp của nhà nước đối với các ngân hàng yếu kém
là mang tính khách quan, bình đẳng và minh bạch, vì lợi ích chung của nền kinh tế,
đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, tài chính, tiền tệ quốc gia.
- Xây dựng các quy định pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM để tạo cơ sở
pháp lý giúp các ngân hàng hoạt động có hiệu quả, không bị thâu tóm trong quá
131
trình kinh doanh cũng như đáp ứng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể ngân
hàng có nhu cầu mua lại, sáp nhập NHTM theo quy định của pháp luật.
4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập đáp ứng các yêu cầu
của nền kinh tế trị trường
Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ dân sự, kinh tế ngày càng trở
nên phức tạp và khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương
mại Thế giới thì yêu cầu hoàn thiện pháp luật để đáp ứng những đòi hỏi của nền
kinh tế thị trường càng trở nên cấp thiết. Đối với mọi nền kinh tế, cho dù là kế
hoạch hóa tập trung hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như ở
nước ta hiện nay đều cần phải dựa vào pháp luật để tồn tại và phát triển. Nền kinh tế
thị trường tự thân vận động là chủ yếu thông qua nguyên tắc tự do kinh doanh, tự
định đoạt, tự chịu trách nhiệm và tự do cạnh tranh nên cần tới pháp luật nhiều hơn.
Tại nhiều công trình khoa học, các tác giả đã nghiên cứu, phân tích những
đặc thù của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam tác động đến pháp luật nói chung và
pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói riêng, trên cơ sở đó đề ra những
giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Khái quát chung nhất để thấy nền
kinh tế thị trường ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập
doanh nghiệp và yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này là nền
kinh tế thị trường với việc vận hành theo các quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh,
quy luật cung cầu, trong khi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với việc nhà nước
quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh, thông qua hệ thống các chỉ tiêu kế
hoạch, quy luật giá trị hầu như chưa được tính đầy đủ.
Bằng pháp luật, nhà nước ghi nhận những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế
thị trường như tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh, tự định đoạt, tự
chịu trách nhiệm để thiết kế mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa như ở Việt Nam. Nhà nước can thiệp bằng cách thức tạo hành lang pháp lý an
toàn cho các nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Vì vậy, xây dựng nền
kinh tế thị trường tất yếu phải xóa bỏ những tồn tại của cơ chế kế hoạch hóa tập
trung để thị trường hoạt động theo đúng quy luật. Khi pháp luật hiện hành chưa dự
liệu, phản ánh được các quy luật cạnh tranh và các quy luật thị trường khác có thể
ảnh hưởng đến hoạt động mua bán doanh nghiệp trên thực tiễn... Do đó, để khắc
phục những hạn chế và thích ứng với nền kinh tế thị trường, những giải pháp hoàn
thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp cần được xây dựng trên một số
132
cơ sở sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp phải bảo đảm để thị
trường hoạt động theo các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, cạnh
tranh, cung cầu. Sự hoàn thiện của cơ chế kinh tế thị trường là điều kiện tiên quyết
để hình thành thị trường mua bán doanh nghiệp. Nắm bắt và thực hiện theo các quy
luật này sẽ tác động có hiệu quả đến hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động
mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói riêng. Đồng thời để thúc đẩy hoạt động mua lại,
sáp nhập doanh nghiệp phát triển, pháp luật cần ghi nhận hoạt động mua lại, sáp
nhập doanh nghiệp của các nhà đầu tư một cách rõ ràng nhằm đáp ứng quyền tự do
kinh doanh của các chủ thể. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý an toàn để các
nhà đầu tư thực hiện quyền tự do kinh doanh theo quy định, hạn chế và tiến tới xóa
bỏ việc can thiệp thị trường theo mệnh lệnh hành chính.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ kiểm soát hoạt động
mua lại, sáp nhập doanh nghiệp khi hoạt động đó có khả năng gây hạn chế cạnh
tranh trên thị trường thông qua việc ban hành và thực thi pháp luật cạnh tranh. Các
quy phạm của pháp luật cạnh tranh cần được thiết kế để phản ánh đúng thực tiễn
mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Việc bảo hộ sản xuất, kinh doanh trong nước là
cần thiết khi quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra nhanh chóng và sâu rộng, có
thể làm cho những ngành sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn , thách thức.
Quá trình mua lại, sáp nhập của nhà đầu tư nước ngoài đối với doanh nghiệp trong
nước là một phương thức tốt để có thể tận dụng ngay được những lợi thế của
doanh nghiệp sở tại, nhất là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Việc bảo hộ của
nhà nước cần tuân theo các lộ trình mà Việt Nam đã cam kết. Thay đổi được tư
duy quản lý kinh tế và điều chỉnh pháp luật trong nền kinh tế thị trường, khi đó
việc vận hành nền kinh tế thị trường sẽ theo đúng quy luật, tạo ra sự cạnh tranh
bình đẳng, đảm bảo sự công bằng cho các nhà đầu tư kinh doanh, trong đó bao
gồm cả lĩnh vực mua lại, sáp nhập.
Thứ ba, khắc phục những mặt trái và giảm thiểu những tác động của kinh tế
thị trường khi hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập. Tích tụ tư bản thông qua
tập trung kinh tế bằng hình thức mua lại, sáp nhập có thể hình thành doanh nghiệp
với vị trí thống lĩnh thị trường và có thể lạm dụng vị trí đó để hạn chế cạnh tranh,
gây thiệt hại cho nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Mặt khác khi thực hiện tập
trung kinh tế còn có thể dẫn đến việc người lao động bị sa thải, thất nghiệp, ảnh
133
hưởng đến quyền lợi của cổ đông thiểu số… Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận
luôn là mục tiêu mà doanh nghiệp hướng đến. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân
theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, khi đề ra những
giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và trong
lĩnh vực NHTM phải bảo đảm giải quyết được những yêu cầu hoàn thiện hệ thống
pháp luật, vừa phải bảo vệ người gửi tiền, người lao động, cổ đông thiểu số…
4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại
đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 đã xác định mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật là “... đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện
pháp luât; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luât để góp phần quản lý xã hội,
giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhâp quốc tế...”. Thực hiện
Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng, Việt Nam đã tham gia hội nhập quốc tế sâu rộng
như gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995, là thành
viên của Diễn đàn kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, ký kết
Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ năm 1999, trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2006... Việt Nam cũng đã ký kết và
tham gia nhiều cam kết quốc tế về đầu tư hoặc liên quan đến đầu tư, bao gồm: các
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ký kết với 55 nước; các cam kết khác liên
quan đến đầu tư như Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
(TRIMs) của WTO, các Hiệp định về dịch vụ trong WTO và FTA, Hiệp định thành
lập tổ chức bảo đảm đầu tư đa phương (MIGA), Công ước New York 1958 về công
nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, v..v…
Việt Nam hội nhập thế giới và khu vực là một xu thế tất yếu trong xu thế
toàn cầu hóa. Nền tảng pháp lý để Việt Nam hội nhập quốc tế là việc xây dựng một
hệ thống pháp luật hoàn thiện, đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp nói chung và trong lĩnh vực NHTM phải đảm bảo sự hài hòa với thông lệ
quốc tế, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
134
Nhìn chung, các Hiệp định, cam kết của Việt Nam liên quan đến hoạt động
về mua lại, sáp nhập đều thể hiện dưới hình thức quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần
của nhà đầu tư nước ngoài tại các doanh nghiệp Việt Nam hoặc được thể hiện dưới
dạng cam kết cho phép các nhà đầu tư nước ngoài hiện diện thương mại, thâm nhập
trong các ngành, lĩnh vực đầu tư tại Việt Nam. Pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp của Việt Nam phần nào đã đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế thế
giới trong việc cam kết mở cửa dịch vụ khi gia nhập WTO, mở rộng thị trường cho
các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam,
đồng thời tạo cơ hội để nhà đầu tư Việt Nam thâm nhập vào thị trường các quốc gia
khác. Tuy nhiên, một số quy định pháp luật của Việt Nam vẫn chưa tương đồng với
pháp luật các nước khi điều chỉnh về hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp.
Việc hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM, phải đảm bảo được
các mục tiêu sau đây: Tạo môi trường thuận lợi, ổn định cho hoạt động mua bán,
sáp nhập và tổ chức lại doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng vốn và
các nguồn lực khác của đất nước nhằm thực hiện chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế,
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng; tạo hành lang pháp lý để thu hút vốn từ nước ngoài
thông qua hoạt động mua lại, sáp nhập và tổ chức lại doanh nghiệp; bảo đảm an
toàn hệ thống ngân hàng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát hiệu quả của
nhà nước đối với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng; tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, phát huy tính cạnh tranh của các thành phần kinh tế.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA LAI, SÁP
NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI Ở VIỆT NAM
Các nội dung phân tích trong luận án cho thấy, ngân hàng là một loại hình
doanh nghiệp, vì vậy ngân hàng cũng bị điều chỉnh bởi các quy định của pháp luậ t
về hoạt động mua lại, sáp nhập đối với doanh nghiệp nói chung. Pháp luật về mua
lại, sáp nhập NHTM xuất phát từ việc xem xét hành vi mua lại, sáp nhập NHTM
dưới mỗi góc độ khác nhau thì hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM sẽ chịu sự điều
chỉnh của pháp luật phù hợp với các quan hệ xã hội tương ứng. Ngoài việc sử
dụng khung pháp lý như đối với các doanh nghiệp thông thường khi thực hiện
mua lại, sáp nhập NHTM, pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM còn có những
điều chỉnh riêng do những đặc thù của NHTM và hoạt động mua lại, sáp nhập
NHTM. Căn cứ vào thực trạng pháp luật, phương hướng hoàn thiện pháp luật, các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam bao gồm
135
những giải pháp cụ thể như sau:
4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định về mua lại, sáp nhập
Một là, sửa đổi, bổ sung các quy định về mua lại, sáp nhập trong một số văn
bản luật.
- Sửa đổi, bổ sung hình thức pháp lý về mua lại, sáp nhâp để thống nhất giữa
các luât điều chỉnh:
Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập
hoặc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp được xem là hành vi “tổ chức lại doanh
nghiệp”. Luật không quy định về mua lại doanh nghiệp. Tuy nhiên, qua nghiên cứu
và phân tích của luận án thì bản chất pháp lý khi mua lại, sáp nhập NHTM chính là
việc giành quyền kiểm soát doanh nghiệp thông qua các hoạt động đầu tư, tổ chức
lại doanh nghiệp; việc chuyển giao tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp giữa
các bên, đồng thời xác định tư cách pháp lý của các bên sau khi thực hiện mua lại,
sáp nhập. Vì vậy, kiến nghị bổ sung trong Luật doanh nghiệp hình thức mua lại là
một trong những hình thức pháp lý tổ chức lại doanh nghiệp để phù hợp bản chất
pháp lý của việc mua lại, phù hợp với quy định của Luật cạnh tranh. Luật các TCTD
bổ sung quy định việc mua lại, sáp nhập đối với NHTM, thay vì quy định chung là
tổ chức lại TCTD dưới hình thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình
thức pháp lý.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục, hệ
quả pháp lý và giải quyết tranh chấp khi thực hiện mua lại, sáp nhâp:
Sửa đổi, bổ sung trong Luật các TCTD và các văn bản pháp luật quy định chi
tiết, hướng dẫn thi hành các quy định về: tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập;
trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải
quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập NHTM. Đồng thời quy định việc chuyển đổi
hình thức pháp lý sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM; giải quyết quyền lợi,
nghĩa vụ hợp pháp của các bên liên quan, trong đó quyền của người gửi tiền để làm
cơ sở ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về về cơ sở pháp lý cho việc Nhà nước được
quyền mua lại bắt buộc NHTM yếu kém:
Để bảo đảm chắc chắn và rõ ràng về cơ sở pháp lý cho việc Nhà nước được
quyền mua lại bắt buộc NHTM yếu kém, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật các
TCTD quy định rõ ràng, cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục và biện
136
pháp mua lại bắt buộc, hoặc sửa Luật trưng mua, trưng dụng theo hướng cho phép
nhận chuyển nhượng bắt buộc phần vốn góp hoặc cổ phần, cổ phiếu của các
TCTD trong các trường hợp cần thiết. Ngoài ra xem xét sửa đổi, bổ sung Quyết
định số 48/2013/QĐ-TTg ngày 01/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc góp
vốn, mua cổ phần bắt buộc của TCTD được kiểm soát đặc biệt, theo đó ngoài việc
cho phép NHNN trực tiếp góp vốn và mua cổ phần của các TCTD, còn phải cho
phép việc nhận chuyển nhượng phần vốn góp của các thành viên công ty TNHH
và mua bán cổ phiếu, nhận chuyển nhượng cổ phần của các cổ đông công ty cổ
phần mới bảo đảm thống nhất quy định của Luật doanh nghiệp, Luật các TCTD và
Luật chứng khoán.
Hai là, hoàn thiện các quy định giới hạn về mức độ tâp trung kinh tế của
pháp luât cạnh tranh.
Theo kinh nghiệm của một số nước, cơ quan quản lý cạnh tranh có thể đặt
ra một mức giá trị làm căn cứ đầu tiên cho việc kiểm soát tập trung kinh tế, giúp
cơ quan quản lý kiểm soát vấn đề này dễ hơn và không bỏ sót các thương vụ lớn.
Luật cạnh tranh quy định về mức giá giới hạn giá trị của các thương vụ giao dịch
để phân chia trách nhiệm quản lý giữa Cục Quản lý cạnh tranh và cơ quan quản lý
hoạt động này ở địa phương. Mức giới hạn giá trị giao dịch có thể quy định dựa
vào giá trị của hợp đồng giao dịch hoặc giá trị tổng hợp các doanh nghiệp sau khi
mua lại, sáp nhập.
Xác định thị phần để kiểm soát hành vi tập trung kinh tế khi quyết định chấp
thuận hay từ chối một thương vụ M&A nên sử dụng chỉ số đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp trong tương lai. Do đó, đối với qui định sử dụng doanh thu
để xác định thị phần (Nghị định số 116/2005/NĐ-CP) của các TCTD chưa phản ánh
đúng bản chất của sự tập trung trong hoạt động ngân hàng mà nên sử dụng kết hợp
các tiêu chí: (1) Tỉ trọng tiền gửi/tổng tiền gửi của toàn ngành; (2) Tỉ trọng tín
dụng/tổng tín dụng của toàn ngành; (3) Tỉ trọng thu nhập từ lãi suất/tổng thu nhập
từ lãi suất của toàn ngành. Mặt khác, khi tính toán mức độ tập trung, có thể xem xét
sử dụng hệ số HHI để tính toán sẽ có ý nghĩa hơn về mặt thực tiễn thay vì chỉ cộng
dồn thị phần của các tổ chức có liên quan mà không xét đến yếu tố trọng số liên
quan. Trong văn bản ban hành quy định chi tiết Luật cạnh tranh, quy định rõ khái
niệm “thị trường liên quan” để có thể xác định một hoạt động mua lại, sáp nhập
NHTM có thuộc trường hợp tập trung kinh tế hay không. Văn bản hướng dẫn này
137
có thể được thể hiện dưới hình thức Nghị định của Chính phủ hoặc Thông tư của Bộ
Công thương.
Ba là, xây dựng Nghị định quy định chi tiết Luât doanh nghiệp có nội dung
tổ chức lại doanh nghiệp.
Để các quy định của Luật doanh nghiệp (2014) đi vào thực tiễn khi thực hiện
việc tổ chức lại doanh nghiệp, cần thiết phải xây dựng Nghị định hướng dẫn Luật
với các nội dung chính như sau:
- Xác định việc mua lại là quyền kiểm soát và chi phối doanh nghiệp bị mua
lại. Vấn đề mấu chốt để xác định việc mua lại là quyền kiểm soát và chi phối doanh
nghiệp bị mua lại. Theo đó, nếu việc mua tài sản chưa đủ tạo nên quyền chi phối
kiểm soát doanh nghiệp bị mua lại thì chưa cấu thành hiện tượng tập trung kinh tế.
Pháp luật cạnh tranh xác định hai trường hợp tạo nên quyền kiểm soát, chi phối
doanh nghiệp khác (Điều 34, Nghị định số 116/2005/NĐ-CP). Tuy nhiên, để xác
định như thế nào là đủ chi phối các chính sách tài chính và hoạt động của doanh
nghiệp bị kiểm soát thì lại cần dẫn chiếu đến những quy định tương ứng về việc
quyết định những chính sách tài chính, kinh doanh trong pháp luật về doanh nghiệp.
Tùy theo từng hình thức tổ chức doanh nghiệp mà mức vốn đủ để chi phối các vấn
đề tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp là khác nhau. Như vậy, pháp luật về
doanh nghiệp có vai trò làm rõ hơn những vấn đề mà Luật cạnh tranh chưa quy định
chi tiết về các hành vi sáp nhập, hợp nhất và mua lại. Do đó, Nghị định cần cụ thể
hóa quy định của Luật doanh nghiệp về quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần,
mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp, trong đó là quy định tổ chức, cá nhân
có quyền mua cổ phần vào công ty cổ phần và xác định quyền kiểm soát, chi phối
doanh nghiệp
- Quy định về tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập. Thực hiện mua lại, sáp
nhập chính là thực hiện quyền tự do kinh doanh, tự chịu trách nhiệm, tự do cạnh
tranh của tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên ở tất cả các quốc
gia thì không phải bất cứ ngành nghề nào cũng được tự do kinh doanh mà bị hạn
chế quyền này trong một số ngành nghề nhất định. Vì thế, Nghị định quy định chi
tiết Luật doanh nghiệp cần đặt ra những tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập
chung để những pháp luật chuyên ngành có thể tham chiếu khi xây dựng những quy
định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập. Trên cơ sở đó, Nghị định quy
định một số nội dung sau: (1) Tiêu chuẩn, điều kiện về tập trung kinh tế khi thực
138
hiện mua lại, sáp nhập; (2) Tiêu chuẩn, điều kiện về vốn, an toàn vốn khi thực hiện
mua lại, sáp nhập; (3) Tiêu chuẩn, điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần khi thực
hiện mua lại, sáp nhập; (4) Tiêu chuẩn, điều kiện về giải quyết quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động khi thực hiện mua lại, sáp nhập; (5) Tiêu chuẩn, điều kiện về
phương án mua lại, sáp nhập và sự chấp thuận phương án mua lại, sáp nhập của cơ
quan quản lý có thẩm quyền khi thực hiện mua lại, sáp nhập; (6) Tiêu chuẩn, điều
kiện mua lại, sáp nhập trong trường hợp thực hiện bắt buộc.
- Quy định về trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập. Luật doanh nghiệp đã quy
định về thủ tục sáp nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên Luật chưa quy định cụ thể về
mặt nội dung nên cần thiết phải có những quy định chi tiết trong Nghị định. Nội
dung quy định về trình tự, thủ tục liên quan đến hợp đồng mua lại, hợp đồng sáp
nhập; cách thức thông qua hợp đồng mua lại, sáp nhập; điều lệ công ty nhận sáp
nhập; tiến hành đăng ký doanh nghiệp đối với công ty nhận sáp nhập; thủ tục
chấm dứt tồn tại đối với công ty bị sáp nhập; cách thức để công ty mua lại, nhận
sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các
khoản nợ chưa thanh toán; hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty
bị mua lại, sáp nhập...
- Quy định về hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập. Khi thực hiện mua lại,
sáp nhập phát sinh nhiều hệ quả pháp lý. Nghị định quy định rõ tư cách pháp lý của
các doanh nghiệp sau khi mua lại, sáp nhập, xác định trách nhiệm pháp lý về tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên thực hiện mua lại, sáp nhập.
- Quy định giải quyết tranh chấp phát sinh khi mua lại, sáp nhập. Tranh chấp
phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập rất đa dạng nên không thể quy định chi tiết
việc giải quyết các tranh chấp này. Theo đó, Nghị định quy định những nguyên tắc
cơ bản, cơ chế giải quyết tranh chấp để khi xảy ra các tranh chấp có thể áp dụng để
thực hiện hoặc hướng dẫn thực hiện theo pháp luật chuyên ngành.
Bốn là, hoàn thiện Thông tư điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhâp tổ chức
tín dụng.
Hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM nói riêng và TCTD nói chung là một
hoạt động rất phức tạp, có đặc thù cao, liên quan mật thiết đến tình hình kinh tế,
xã hội. Trên cơ sở quy định nguyên tắc của Luật các TCTD, Nghị định quy định
chi tiết Luật doanh nghiệp có nội dung về tổ chức lại doanh nghiệp như đã đề
xuất, Thông tư điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập TCTD sẽ quy định chi tiết
139
và hướng dẫn thi hành Luật, Nghị định khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM.
Thông tư 04/2010/TT-NHNN và Thông tư số 36/2015/TT-NHNN ngày
31/12/2015 của NHNN quy định việc tổ chức lại TCTD cần hoàn thiện theo
hướng bổ sung quy định các nội dung điều chỉnh chủ yếu như: (1) Quy định tiêu
chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập NHTM. (2) Quy định trình tự, thủ tục mua lại,
sáp nhập NHTM. (3) Quy định hệ quả pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập
NHTM. (4) Quy định việc giải quyết tranh chấp khi thực hiện mua lại, sáp nhập
NHTM. Các nội dung này cần được quy định cụ thể trong trường hợp thực hiện tự
nguyện và bắt buộc.
Quy định về trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM theo hướng gọn nhẹ,
tránh phức tạp, rườm rà. Các quy định về thủ tục pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp
nhập phải thông thoáng hơn, tránh những thủ tục hành chính gây lãng phí thời gian
và chi phí thực hiện, cụ thể là: Đối với trường hợp mua lại, sáp nhập ngân hàng với
quy mô nhỏ thì thủ tục cần đơn giản. Khi đó, hồ sơ mua lại, sáp nhập có thể trình
trực tiếp lên NHNN, NHNN sẽ cho ý kiến dựa trên cơ sở đánh giá trực tiếp của Chi
nhánh NHNN ở địa phương. Như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và các chi
phí phát sinh, góp phần thúc đẩy hoạt động mua lại, sáp nhập ngân hàng. Đối với
các ngân hàng có quy mô lớn, ảnh hưởng nhiều đến hệ thống ngân hàng cũng như
các vấn đề về kinh tế, xã hội thì trình tự, thủ tục có thể sẽ phức tạp hơn nhằm giảm
thiểu các rủi ro. Khi đó hồ sơ mua lại, sáp nhập được gửi đến UBND tỉnh, thành
phố và Chi nhánh NHNN ở địa phương cho ý kiến, sau đó mới trình lên NHNN.
Không nhất thiết mọi trường hợp mua lại, sáp nhập NHTM đều phải thông báo cho
cơ quan quản lý cạnh tranh mà căn cứ vào thị phần với những nội dung cụ thể để
phân loại thương vụ mua lại, sáp nhập. Với những thương vụ có mức độ tập trung
cao hoặc cần quyết định cho hưởng miễn trừ mới phải thông báo. Trường hợp
không cần các văn bản này, ngân hàng mua lại, nhận sáp nhập phải có văn bản trình
bày lý do và cam kết chịu trách nhiệm về tính trung thực của báo cáo về việc ngân
hàng mua lại, nhận sáp nhập không vi phạm quy định của Luật cạnh tranh về tập
trung kinh tế.
Thông tư quy định rõ về nội dung để xác định những hệ quả pháp lý khi thực
hiện mua lại, sáp nhập, trong đó quy định rõ về tổ chức hoạt động của NHTM sau
khi mua lại, sáp nhập theo loại hình là NHTMCP hay NHTM Nhà nước; hình thức,
cách thức thực hiện mua lại bắt buộc là mua lại cổ phiếu hay tài sản, thương lượng
140
hay chào mua công khai cổ phiếu trên thị trường chứng khoán; cơ sở pháp lý để
mua lại bắt buộc NHTM từ ngân hàng hay từ cổ đông; định giá ngân hàng theo giá
trị tài sản thực, định giá theo dòng tiền chiết khấu hay định giá theo giá trị thị
trường; xử lý hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn khi NHTM đang triển khai bị mua lại,
sáp nhập sẽ do NHTM mua lại, nhận sáp nhập tiếp tục thực hiện; chuyển quyền sở
hữu đối với bất động sản, chuyển giao quyền đòi nợ từ NHTM bị mua lại, sáp nhập
sang NHTM mua lại, nhận sáp nhập.
Năm là, bổ sung một số quy định khi giao dịch mua lại, sáp nhâp ngân hàng
thương mại được xác lâp.
Bổ sung một số quy định cụ thể khi giao dịch mua lại, sáp nhập NHTM được
xác lập, đó là: (i) Chuyển sở hữu tư nhân thành sở hữu nhà nước ở một số ngân
hàng yếu kém; (ii) Cổ đông không đồng ý có sự can thiệp của NHNN vào cơ cấu sở
hữu; (iii) Quyền và nghĩa vụ của các ngân hàng bị mua lại, sáp nhập; (iv) Quyền lợi
của khách hàng (người gửi tiền) (v); Quyền lợi của người lao động tại các ngân
hàng bị mua lại, sáp nhập; (vi) Thủ tục xử lý các giao dịch với người gửi tiền và
người vay trước khi giao dịch mua lại, sáp nhập được xác lập. Vấn đề này cần được
bổ sung, sửa đổi để quy định trong các văn bản pháp luật. Mặc dù chủ thể mua lại,
nhận sáp nhập cam kết kế thừa tất cả các quyền, nghĩa vụ của chủ thể bị mua lại,
sáp nhập nhưng mỗi ngân hàng có một chính sách, kế hoạch kinh doanh khác nhau
(lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay…) và trong mối quan hệ cụ thể (tiền gửi hoặc tín
dụng), cần xác định rõ chủ thể tham gia và quyền, nghĩa vụ của từng bên (lãi suất
tiền gửi khi kết thúc kỳ hạn gửi tiền, lãi suất không kỳ hạn hoặc lãi suất cho vay bắt
buộc, lãi suất cho vay quá hạn được xử lý như thế nào sau khi ngân hàng mua lại,
nhận sáp nhập tiếp nhận các quyền, nghĩa vụ từ ngân hàng bị mua lại, sáp nhập theo
các hợp đồng đã xác lập trước đó với người gửi tiền, người vay…). Cần có văn bản
quy định chi tiết, rõ ràng thủ tục xử lý các giao dịch với người gửi tiền và người vay
trước khi giao dịch mua lại, sáp nhập được xác lập để bảo vệ quyền lợi của người
gửi tiền và cổ đông của ngân hàng bị mua lại, sáp nhập.
Sáu là, quy định về lộ trình thực hiện các tỷ lệ bảo đảm an toàn, nợ xấu, sở
hữu chéo khi thực hiện mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại.
Hiện pháp luật đã có quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn, nợ xấu, sở hữu chéo
nói chung, khi tự bản thân từng NHTM phải đáp ứng việc thực hiện các quy định
này trong điều kiện hoạt động bình thường của NHTM. Tuy nhiên khi thực hiện
141
mua lại, sáp nhập thì cần phải có lộ trình nhất định để NHTM sau mua lại, nhận sáp
nhập có thể thực hiện được, nhất là thực hiện theo các quy định tại Điều 55, Luật
các TCTD, về chuẩn mực an toàn vốn Basel II và hướng tới Basel III, các yêu cầu
quản trị của Ngân hàng Thế giới. Cụ thể, trong khoảng thời gian 12 tháng kể từ
Ngày chấp thuận mua lại, sáp nhập có hiệu lực, NHTM phải đáp ứng quy định về
các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD. Mọi TCTD không
phân biệt thành phần sở hữu, phải đạt chuẩn an toàn hoạt động theo qui định tại
Chương 6 - Luật các TCTD 2010 (từ Điều 130 đến 135) và tham khảo thêm các tiêu
chí của Basel II và tương lai gần là Basel III. Theo đó, khuyến khích các TCTD
chưa đạt chuẩn cần tìm đối tác để tự nguyện thực hiện mua lại, sáp nhập để đạt và
vượt chuẩn. NHTM sau mua lại, sáp nhập phải thoái vốn nếu vi phạm những giới
hạn góp vốn, mua cổ phần được Luật các TCTD quy định. Sau mua lại, sáp nhập
phải xử lý để hạn chế sự chi phối, thao túng của cổ đông lớn đối với ngân hàng;
Kiên quyết xử lý đối với các cổ đông lớn, người có liên quan vi phạm quy định về
giới hạn sở hữu cổ phần tại NHTMCP và các TCTD sở hữu vốn chéo lẫn nhau. Cổ
đông, nhà đầu tư, ngân hàng vi phạm quy định về góp vốn, mua, sở hữu vốn, cổ
phần phải được xử lý theo quy định của pháp luật.
Bảy là, bổ sung quy định về cơ quan giám sát khi mua lại, sáp nhâp ngân
hàng thương mại.
Theo quy định của Luật NHNN, NHNN có chức năng thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối, thực hiện nhiệm vụ
quyền hạn kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền
tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
này, trong cơ cấu tổ chức của NHNN đã quy định chức năng, nhiệm vụ của các
Cục, vụ về thanh tra, giám sát ngân hàng, đặc biệt NHNN thành lập cơ quan Thanh
tra, giám sát ngân hàng tương đương cấp Tổng cục để thực hiện nhiệm vụ chuyên
biệt này. Tuy nhiên, việc NHNN được giao quyền hạn khi quản lý hoạt động mua
lại, sáp nhập NHTM, đồng thời lại tổ chức việc thanh tra, giám sát trong quá trình
thực hiện có thể không khách quan, trong khi hoạt động NHTM có vai trò rất quan
trọng đối với nền kinh tế, cần đảm bảo hoạt động được diễn ra theo đúng quy định
của pháp luật. Cơ quan nhà nước phải có biện pháp giám sát, xử lý kịp thời các
hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động mua lại, sáp nhập. Vì vậy pháp luật cần
bổ sung quy định một cơ quan sẽ giám sát độc lập tiến trình này. Đại biểu Quốc hội
142
Trương Trọng Nghĩa đã đề nghị tại phiên thảo luận tổ của Quốc hội cho rằng, nếu
lấy tiền ngân sách để mua lại thì liên quan đến Quốc hội, và “Quốc hội nên có giám
sát, không nên để cho ngân hàng một mình tự quyết định mọi thứ, ít nhất có thể
thành lâp Ủy ban lâm thời giám sát toàn bộ việc mua lại với giá 0 đồng này”, đồng
thời đề nghị: “Khi nào thì mua, ngân hàng như thế nào thì mua, ít nhất là Quốc hội
phải giám sát được” [4]. Cơ quan giám sát hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM đề
xuất có thể thuộc một trong các cơ quan như Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc
hội, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia hoặc một cơ quan độc lập do Quốc hội
thành lập.
Tám là, quy định chặt chẽ về công bố thông tin khi mua lại, sáp nhâp ngân
hàng thương mại.
Pháp luật đã có quy định về việc công bố thông tin của tổ chức niêm yết,
thông tin công bố của NHNN, của TCTD... Tuy nhiên trên thực tế, việc công bố
thông tin còn nhiều hạn chế và không kịp thời nhất là trong thời gian gần đây
NHNN thực hiện mua lại, sáp nhập bắt buộc một số NHTM yếu kém. Do đó việc
công bố thông tin này phải được quy định về nguyên tắc trong luật và quy định chi
tiết tại Nghị định của Chính phủ. Điều này có ý nghĩa quan trọng, buộc các bên phải
chấp hành đúng quy định về công bố thông tin, đảm bảo cho các bên liên quan,
người dân hiểu rằng pháp luật đang được thực hiện một cách công khai, minh bạch,
không vụ lợi. Khoản 4, Ðiều 8, Thông tư 04/2010/TT-NHNN yêu cầu hợp đồng
mua lại, sáp nhập phải được gửi đến các chủ nợ và thông báo cho người lao động
biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được Thống đốc NHNN chấp thuận nguyên
tắc. Song đối với các NHTM thì yêu cầu này khó thực hiện trên thực tế vì chủ nợ
của một ngân hàng có thể đến hàng chục nghìn cá nhân, tổ chức ở trong nước và
ngoài nước. Ngoài ra, hợp đồng mua lại, sáp nhận có thể có điều khoản ràng buộc
về nghĩa vụ bảo mật thông tin giữa các bên, nên không nhất thiết phải công bố toàn
bộ nội dung hợp đồng mua lại, sáp nhập bằng cách sao chụp để gửi cho các chủ nợ.
Ðiều này làm phát sinh các chi phí không cần thiết, tốn nhiều thời gian, làm ảnh
hưởng đến lợi ích của người lao động, các cổ đông và không phù hợp với thực tế.
Vì vậy bổ sung, sửa đổi quy định này theo hướng chỉ cần công bố một số thông tin
cơ bản của giao dịch trên Cổng thông tin điện tử của NHNN, trang thông tin chính
thức của NHTM, đồng thời hợp đồng mua bán, sáp nhập chỉ cần được gửi đến các
chủ nợ lớn.
143
Quy định về công bố thông tin cần đáp ứng được yêu cầu thực tế, nguyện
vọng chính đáng các chủ nợ, tổ chức, cá nhân có quan hệ dân sự, kinh doanh,
thương mại với ngân hàng tham gia mua lại, sáp nhập như giá trị giao dịch, giá
mua, thời hạn dự kiến hoàn thành giao dịch, vốn chủ sở hữu được một công ty kiểm
toán xác nhận tại thời điểm có quyết định chấp thuận nguyên tắc, quyết định chấp
thuận chính thức của Thống đốc NHNN.
Chín là, quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các
ngân hàng thương mại trong nước, đặc biệt khi xử lý ngân hàng thương mại yếu
kém phục vụ mục tiêu tái cơ cấu ngân hàng.
Cần nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các NHTM Việt
Nam để trở thành nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư chiến lược tại các NHTM Việt
Nam. Đặc biệt, cần nhấn mạnh việc xem xét, cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua
lại hoặc sáp nhập với các TCTD yếu kém của Việt Nam và tiến tới tăng giới hạn sở
hữu cổ phần của họ tại các ngân hàng được cơ cấu lại. Trong bối cảnh hiện nay,
Việt Nam đang rất cần bổ sung một nguồn vốn ngoại cho hệ thống ngân hàng, nhằm
đáp ứng tiêu chuẩn của Basel III. Thực tế, có nhiều TCTD nước ngoài đã mua cổ
phần của NHTM Việt Nam với tỷ lệ sở hữu từ 15% - 20% vốn điều lệ và trở thành
cổ đông chiến lược nước ngoài của NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, do tỷ lệ sở hữu cổ
phần chiếm tỷ lệ thấp so với phần còn lại, nên tiếng nói của người đại điện do nhà
đầu tư nước ngoài cử tham gia Hội đồng quản trị hoặc/và Ban điều hành không gây
được ảnh hưởng lớn để nâng cao năng lực quản trị, điều hành của NHTM Việt
Nam. Do đó, hiệu quả kinh doanh ở một số TCTD Việt Nam có cổ đông chiến lược
nước ngoài đã không mang lại kết quả như mong đợi.
Mười là, hoàn thiện các quy định của pháp luât để bảo vệ người gửi tiền khi
ngân hàng thương mại bị mua lại, sáp nhâp.
Tái cơ cấu nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống NHTM là một chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Khi thực hiện tái cấu trúc hệ thống NHTM rất
cần nguồn lực, thời gian để thực hiện và đặc biệt là phải đảm bảo an toàn hệ thống
ngân hàng, tài chính, tiền tệ quốc gia, không gây mất ổn định về chính trị, kinh tế,
xã hội. Bảo vệ người gửi tiền khi NHTM bị mua lại, sáp nhập có ý nghĩa rất quan
trọng để đáp ứng các mục tiêu trên. Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi cần nâng mức
bảo hiểm tiền gửi. Các quy định của pháp luật quy định chặt chẽ và mạnh mẽ hơn
đối với yêu cầu bảo vệ người gửi tiền. Khi đó hệ thống pháp luật cần đồng bộ để
144
quy định vấn đề này chứ không dừng ở những quy định của pháp luật bảo hiểm
tiền gửi.
4.2.2. Nhóm giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập
Để thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM một cách hiệu quả, một
số giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật được kiến nghị như sau:
Một là, đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước.
Trong thời gian qua, tổ chức và hoạt động của cơ quan Thanh tra, giám sát
ngành ngân hàng đã được củng cố và hoàn thiện. Ngày 7/4/2014, Thủ tướng Chính
phủ đã ký ban hành Nghị định số 26/2014/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động
của Thanh tra, giám sát ngành ngân hàng. Nghị định được nhìn nhận là trao thêm
quyền lực, nhưng cũng là áp lực để Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng hoàn
thành trọng trách của nhà nước giao phó. Nghị định số 26/2014/NĐ-CP đã thể hiện
sự đổi mới căn bản về mô hình tổ chức thanh tra trong NHNN theo hướng bảo đảm
nguyên tắc tập trung, thống nhất trong chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ từ Trung ương
đến địa phương. Điều này cũng phù hợp với xu hướng tập trung hóa quản trị, điều
hành về trụ sở chính của các TCTD trong thời gian gần đây, từ đó tạo khuôn khổ
pháp lý về tổ chức, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ có tính đặc thù của thanh tra,
giám sát ngành ngân hàng. Tuy nhiên, Nghị định mới chỉ quy định riêng về hoạt
động của thanh tra, giám sát ngân hàng. Vì thế cần có những văn bản hướng dẫn của
NHNN hoặc những văn bản liên ngành quy định cụ thể hơn về việc phối hợp giữa
thanh tra, giám sát ngân hàng và các cơ quan thanh tra, giám sát khác trong việc
chia sẻ thông tin, kết quả có được từ các đợt thanh tra, kiểm tra, giám sát. Điều này
nhằm đảm bảo hiệu quả của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời tránh gây ra
những áp lực và phiền hà cho đối tượng được thanh tra, giám sát.
Trong thời gian tới, cần đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát ngân hàng
nhằm củng cố, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật thị trường và đánh giá, nhận diện
những vấn đề của hệ thống và từng TCTD để có biện pháp tái cấu trúc, đáp ứng yêu
cầu tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, hỗ trợ tích cực hơn cho
việc triển khai mạnh mẽ các giải pháp xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các TCTD. Hoạt
động thanh tra, giám sát ngân hàng cần đẩy mạnh nhằm phát hiện, xử lý những rủi
ro, vi phạm pháp luật, đánh giá chất lượng tín dụng và hoạt động của các TCTD,
trong đó có việc thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM.
Công tác thanh tra, giám sát cần phát hiện những tồn tại, hạn chế, rủi ro tiềm
145
ẩn và vi phạm ở nhiều TCTD như vi phạm quy định về các giới hạn, chuẩn mực an
toàn, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro; vi phạm và rủi ro trong hoạt động cấp
tín dụng, góp vốn, mua cổ phần, đầu tư tài chính, huy động vốn, chất lượng tài sản
thấp, nợ xấu lớn, tình hình tài chính kém lành mạnh... Từ đó có những giải pháp
phù hợp để thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, nhất là việc xử lý những NHTM
yếu kém, không có khả năng tự cơ cấu, cần có sự can thiệp của nhà nước thông qua
mua lại, sáp nhập bắt buộc.
Phát hiện và xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật của các NHTM trong
quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập như che giấu nợ xấu, không công bố thông tin
kịp thời, tẩu tán tài sản khi thực hiện mua lại, sáp nhập… Nếu những vụ việc có dấu
hiệu hình sự cần chuyển cho cơ quan điều tra để xem xét, xử lý theo quy định của
pháp luật. Công tác giám sát cần được đẩy mạnh nhằm phòng ngừa, phát hiện sớm
các rủi ro, nguy cơ, dấu hiệu vi phạm, xu hướng, diễn biến bất lợi để có cảnh báo và
biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Tập trung thanh tra, giám sát để phát hiện
những yếu kém, tồn tại của các NHTM được xử lý dứt điểm, đặc biệt là NHTM yếu
kém được áp dụng các biện pháp can thiệp mạnh mẽ của NHNN như được đặt vào
tình trạng kiểm soát đặc biệt và buộc mua lại, sáp nhập, đáp ứng thực hiện đúng
mục tiêu, lộ trình đã đặt ra tại Đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015 theo
quy định tại Quyết định số 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 01/3/2012.
Hai là, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tổ chức thực hiện pháp
luât trong lĩnh vực ngân hàng và mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực ngân hàng và mua lại, sáp nhập NHTM, chú trọng xây dựng, hoàn
thiện cơ chế phối hợp, giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực
này một cách chặt chẽ. Một trong những đặc điểm của pháp luật về mua lại, sáp
nhập NHTM chính là sự đa dạng của pháp luật điều chỉnh dưới từng khía cạnh,
góc độ, phù hợp với bản chất quan hệ của pháp luật cần điều chỉnh. Vì thế để quản
lý hoạt động này, tùy theo chức năng, nhiệm vụ được giao, pháp luật quy định
nhiều cơ quan cùng tham gia như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, NHNN, Bộ Tài chính,
Bộ Công thương, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, UBND cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.... Do đó việc xây dựng cơ chế phối hợp, giám sát việc tổ chức
thực hiện pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng và mua lại, sáp nhập NHTM là hết
sức cần thiết. Cần có kế hoạch nâng cao năng lực cán bộ ở những vị trí quan trọng
146
trong quá trình thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM tại Cục quản lý cạnh tranh, các
vụ, cục thuộc NHNN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước...
Cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật về ngân hàng ở trong và ngoài nước
kịp thời đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao quản lý và thực hiện mua lại,
sáp nhập NHTM.
Ba là, tăng cường và đổi mới nội dung công tác phổ biến, giáo dục pháp
luât, cung cấp kiến thức về mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại.
Hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đã trở nên quen thuộc và được
thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, hoạt động này bắt đầu chưa
lâu nhưng ngày càng trở nên sôi động tuy rằng những hiểu biết hiện tại về mua lại,
sáp nhập còn hạn chế. Pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM mới được xây dựng
nhưng đã được bổ sung, hoàn thiện trong thời gian gần đây. Trên thực tế, nếu muốn
tiến hành mua lại, sáp nhập, các ngân hàng phải tự mình “dò dẫm” đường đi và tự
tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm từ các thương vụ mua lại, sáp nhập ngân hàng đã thực
hiện. Vì thế cần tăng cường và đổi mới nội dung công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, cung cấp kiến thức về mua lại, sáp nhập NHTM.
Giải pháp về tăng cường và đổi mới nội dung công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật, cung cấp kiến thức về mua lại, sáp nhập NHTM bao gồm các nội dung
chính như: Tổ chức thực hiện tốt phổ biến, giáo dục pháp luật về mua lại, sáp nhập
NHTM. Ngoài việc các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện phổ biến, giáo
dục pháp luật thì cơ quan đầu mối là NHNN cần thực hiện việc này hiệu quả hơn
nữa. Các nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cần nhấn mạnh và đề cập rõ hơn
những nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM. Bên
cạnh các quy định của pháp luật, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật còn bao
gồm ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của
việc chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia thực hiện mua lại, sáp nhập
NHTM. Đa dạng hóa hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật về mua lại, sáp nhập
NHTM thông qua báo chí, biên soạn, phát hành tài liệu phổ biến, giáo dục pháp
luật, thông qua hoạt động tìm hiểu pháp luật, các câu lạc bộ pháp luật, hoạt động trợ
giúp pháp lý… Ngoài ra cần cung cấp kiến thức về mua lại, sáp nhập NHTM cho
các NHTM, cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm quản lý, thực thi pháp luật
trong lĩnh vực này.
Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luât về
147
mua lại, sáp nhâp ngân hàng thương mại.
Công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM
cần được triển khai đầy đủ các nội dung, cụ thể là xem xét, đánh giá tình hình ban
hành văn bản quy định chi tiết; xem xét, đánh giá tình hình bảo đảm các điều kiện
thi hành pháp luật và xem xét, đánh giá tình hình tuân thủ pháp luật về mua lại, sáp
nhập NHTM. Việc đánh giá tình hình tuân thủ pháp luật về mua lại, sáp nhập
NHTM có thể đánh giá dựa trên các thông số như: tỷ lệ vi phạm pháp luật; thời gian
giải quyết hồ sơ, yêu cầu của NHTM; các loại giấy tờ trên thực tế mà cơ quan nhà
nước có thẩm quyền yêu cầu so với quy định của pháp luật hiện hành; tình hình
niêm yết công khai hồ sơ, thủ tục… Sau khi có kết quả theo dõi, các bộ, ngành, địa
phương cần tổng hợp, xử lý kịp thời vướng mắc, đồng thời kiến nghị để hoàn thiện
pháp luật. Cơ chế tổ chức thực thi pháp luật phải rất cụ thể, phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao. Trong quá trình tổ chức thực hiện
phải chú ý đến tình hình thực tế của địa phương được lựa chọn để kiểm tra, khảo
sát, thu thập thông tin.
148
Kết luận chương 4
1. Ngoài việc cần đáp ứng các yêu cầu chung trong việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam, phương hướng hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp
nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay được xác định dựa trên một số
yêu cầu chính là đáp ứng các yêu cầu về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp; đáp ứng
các yêu cầu về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại; đáp ứng các yêu cầu của
nền kinh tế trị trường và đáp ứng các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Khi hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở
Việt Nam hiện nay cần đảm bảo nguyên tắc không để xảy ra đổ vỡ, mất an toàn hệ
thống ngân hàng, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia; đáp ứng yêu
cầu về tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong hệ thống pháp luật,
phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia là thành
viên; tạo môi trường thuận lợi, ổn định cho hoạt động mua lại, sáp nhập và tổ chức
lại doanh nghiệp; đồng thời khung pháp lý về mua lại, sáp nhập ngân hàng cần được
xây dựng chuyên biệt, vừa mang tính áp dụng thực tiễn, vừa có tính dự liệu cao. Để
đảm bảo sự chặt chẽ và mang tính khách quan, pháp luật cần bổ sung việc quy định
một cơ quan giám sát độc lập quá trình mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại bên
cạnh chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật được đề xuất, kiến nghị bao gồm
những nội dung cụ thể hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói
chung và trong lĩnh vực ngân hàng thương mại, các giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Các giải
pháp này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, gắn với đổi mới tư duy hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng
thương mại ở Việt Nam hiện nay. Thông qua phương hướng và các giải pháp đề
xuất, kiến nghị sẽ giúp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương
mại, giúp các ngân hàng phát triển an toàn, hiệu quả, vững chắc sau khi mua lại, sáp
nhập, đồng thời đáp ứng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể sở hữu ngân hàng
theo quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong giai
đoạn mới, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, góp phần trong quá
trình tái cơ cấu nền kinh tế và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
149
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài luận án “Pháp luât về mua lại và sáp nhâp ngân hàng
thương mại ở Việt Nam hiện nay”, tác giả rút ra một số kết luận chính như sau:
Thứ nhất, ngân hàng thương mại có những đặc điểm riêng biệt so với các
doanh nghiệp thông thường. Ngân hàng thương mại mặc dù có bản chất là doanh
nghiệp nhưng việc thành lập, hoạt động và tổ chức lại ngân hàng chịu sự điều chỉnh
trực tiếp của pháp luật về ngân hàng. Việc nghiên cứu để phát hiện chính xác và đầy
đủ các đặc thù của ngân hàng thương mại sẽ giúp xây dựng được một cơ chế pháp lý
hiệu quả để giải quyết những vấn đề phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân
hàng thương mại.
Thứ hai, việc mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại chịu sự điều chỉnh của
nhiều quy định pháp luật khác nhau, thể hiện sự đa dạng của pháp luật điều chỉnh
dưới từng khía cạnh, góc độ, phù hợp với bản chất quan hệ của pháp luật cần điều
chỉnh. Với những đặc thù của ngân hàng thương mại, của hoạt động mua lại, sáp
nhập ngân hàng thương mại, nên ngoài việc sử dụng khung pháp lý như đối với các
doanh nghiệp thông thường khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại,
pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại có những điều chỉnh riêng so
với các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ ba, những nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật về mua lại, sáp
nhập ngân hàng thương mại được xác định bao gồm: tiêu chuẩn, điều kiện mua lại,
sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập
và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập. Ngoài ra, còn có nhiều quan hệ xã
hội khác phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại cần phải
có pháp luật điều chỉnh.
Thứ tư, pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam
liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Luật các tổ chức tín dụng là luật
chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp đến việc thành lập, hoạt động và tổ chức lại ngân
hàng thương mại, đồng thời được đặt trong mối quan hệ với các luật khác khi các
giải quyết các vấn đề liên quan đến việc mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại.
Thứ năm, bên cạnh những thành công mang lại, pháp luật về mua lại, sáp
nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn có một số tồn tại, hạn chế như khung
pháp lý còn thiếu, chưa cụ thể và chặt chẽ, còn có những khoảng trống pháp lý để
150
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập; chưa tạo
được cơ sở pháp lý vững chắc để thúc đẩy hoạt động này. Trong quá trình thực hiện
mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại thời gian qua, đã có nhiều bất cập nảy
sinh, trong đó có những vấn đề liên quan đến cơ chế pháp lý cần phải giải quyết.
Thứ sáu, điều chỉnh pháp lý về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại bao
gồm nhiều nội dung. Trên cơ sở một số vấn đề cốt lõi về phương diện pháp lý đã
được nghiên cứu theo hướng tiếp cận của đề tài luận án, còn có nhiều vấn đề pháp lý
khác cần được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực này như: định giá ngân
hàng; thực hiện lãi suất tiền gửi, lãi suất, phí cấp tín dụng; hợp đồng mua lại, sáp
nhập; hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn; mức độ tương thích của các chính sách, pháp
luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam so với các chuẩn mực,
thông lệ quốc tế, trong các Hiệp định thương mại tự do và các điều ước quốc tế liên
quan; những nguy cơ, rủi ro về mặt pháp lý khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM.
Thứ bảy, để nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với việc thành lập,
hoạt động và tổ chức lại ngân hàng thương mại nói chung và việc mua lại, sáp nhập
ngân hàng thương mại nói riêng cần phải hoàn thiện đồng bộ các đạo luật có liên
quan. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật cần đảm bảo nguyên tắc không để
xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hệ thống ngân hàng, tài chính, tiền tệ quốc gia, đảm bảo
ổn định kinh tế vĩ mô. Pháp luật cần bổ sung việc quy định một cơ quan giám sát
độc lập quá trình mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại để đảm bảo sự chặt chẽ
và tính khách quan khi thực hiện.
151
DANH MỤC
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Phạm Minh Sơn (2012), “Cần trao đổi về quy định mua lại và sáp nhập
ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ.
2. Phạm Minh Sơn (2012), “Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng
thương mại ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Ngân hàng, số 14,
tr.29-32.
3. Phạm Minh Sơn (2012), “Khung pháp lý về mua lại và sáp nhập ngân
hàng thương mại ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luât, số 9 (246), tr.30-34.
4. Phạm Minh Sơn (2014), “Một số vấn đề thực tiễn thi hành pháp luật về
mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại”, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ,
số 24 (417), tr.19-23,39.
5. Phạm Minh Sơn (2014), “Pháp luật mua lại, sáp nhập ngân hàng thương
mại của Mỹ - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 22,
tr.51-55.
6. Phạm Minh Sơn (2015), “Đặc trưng và nguyên tắc pháp lý của hoạt động
mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luât, số 2
(275), tr.28-32.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(Cập nhật đến ngày 15/10/2015)
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Trần Thị Bảo Ánh (2014), Pháp luât về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam,
luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
2. Vũ Đình Ánh (2011), Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng Việt Nam, Tạp chí Cộng
sản điện tử, truy cập ngày 15/6/2012, <http://www.tapchicongsan.org.vn>.
3. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng
ở một số nước Đông Nam Á và kinh nghiệm đối với Việt Nam, truy cập ngày
12/3/2013, <http:// dangcongsan.vn>.
4. Báo điện tử thuộc Thời báo Kinh tế Việt Nam (2015), Nên có Ủy ban giám sát
mua ngân hàng 0 đồng, truy cập ngày 10/11/2015, <http://vneconomy.vn>.
5. Nguyễn Văn Bình (2012), Sáp nhâp không là mục tiêu của tái cấu trúc ngân
hàng, Cổng thông tin điện tử NHNN, truy cập ngày 04/3/2013,
<http://www.sbv.gov.vn>.
6. Nguyễn Văn Bình (2012), Sáp nhâp mới là bước đi đầu tiên để tái cơ cấu,
Thông tấn xã Việt Nam, truy cập ngày 04/01/2013, <http://www.vietnamplus.
vn/Home>.
7. Nguyễn Văn Bình (2012), Không để ngân hàng nào đổ vỡ trong giai đoạn này
- Trao đổi với báo Thanh Niên của Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Văn
Bình, Thanh niên Online, truy cập ngày 26/8/2012, <http://www.
thanhnien.com.vn>.
8. Công ty TNHH Chứng khoán NHTMCP Việt Nam Thịnh Vượng (“VPBS”)
(2014), Báo cáo ngành ngân hàng Việt Nam.
9. Cục Quản lý cạnh tranh (2012), Báo cáo tâp trung kinh tế Việt Nam 2012.
10. Cục Quản lý cạnh tranh (2012), Báo cáo thường niên năm 2012.
11. Cục Quản lý cạnh tranh (2013), Báo cáo thường niên năm 2013.
12. Cục Quản lý cạnh tranh (2014), Báo cáo thường niên năm 2014.
13. Cục Quản lý cạnh tranh (2014), Báo cáo rà soát pháp luât cạnh tranh với
pháp luât chuyên ngành.
14. Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức (2008), Thâu tóm và hợp nhất từ khía
cạnh quản trị công ty: lý luân, kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Tạp
153
chí Quản lý kinh tế, số 7+8.
15. Trần Đình Cung (2007), Công khai hóa và minh bạch thông tin, Tạp chí
Chứng khoán Việt Nam, số 9.
16. Nguyễn Thị Dung (2013), Pháp luât về sáp nhâp ngân hàng thương mại cổ
phần ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Nguyễn Mạnh Dũng (2011), Xử lý các ngân hàng có vấn đề: Không để đổ vỡ
ngoài tầm kiểm soát, Trang tin Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, truy cập ngày
12/3/2012, <http://div.gov.vn>.
18. Thùy Dung (2013), Nhân diện xu hướng tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt
Nam năm 2013, Thị trường tài chính điện tử, truy cập ngày 12/3/2013,
<http://www.thitruongtaichinh. vn>.
19. Trí Dũng (2011), Kinh nghiệm từ Thương vụ M&A ngân hàng điển hình năm
2011: Lienviet - Post Bank, truy cập ngày 11/5/2012,
<http://www.vca.gov.vn>.
20. Vũ Ngọc Dũng (2011), M&A – Các điều kiện cho hoạt động M&A tại Việt
Nam, truy cập ngày 28/11/2012, <http://www.vungocdung.info>.
21. Vũ Ngọc Dũng (2012), Mua bán, sáp nhâp doanh nghiệp - Thực trạng pháp
luât và một số kiến nghị, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3(240).
22. Lê Duy (2011), Hoàn thiện các nguyên tắc điều chỉnh pháp luât cạnh tranh về
sáp nhâp, hợp nhất và mua lại doanh nghiệp, Trang thông tin điện tử Cục
quản lý cạnh tranh, truy cập ngày 26/11/2012, <http://www.vca.gov.vn>.
23. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luân nhà nước và pháp luât, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
24. Phạm Tiến Đạt, Phạm Thị Tường Vân (2012), Những gợi ý cho khung pháp lý
M&A ở Việt Nam, Báo đầu tư điện tử, truy cập ngày 18/10/2012,
<http://Baodautu.vn>.
25. Trần Thọ Đạt (2015), Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý - Ưu tiên hàng đầu cho
tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, Đại biểu nhân dân điện tử, truy cập ngày
13/2/2015, <http://www.tapchitaichinh.vn>.
26. Nguyễn Ngọc Điện (2015), Cần làm rõ quy định về “thời hiệu”, Báo Chính
phủ điện tử, truy cập ngày 23/6/2015, <http://baodientu.chinhphu.vn>.
27. Vũ Phương Đông (2010), Về phương thức mua bán công ty thông qua việc
mua bán phần vốn góp chi phối của công ty, Tạp chí Luật học, số 9.
154
28. Đặng Thế Đức (2008), Hoạt động M&A tại Việt Nam: Những cơ hội và kinh
nghiệm, Trang thông tin điện tử Saga, truy cập ngày 05/4/2011,
<http://www.saga.vn>.
29. Lưu Minh Đức (2009), “Hoạt động sáp nhâp và mua lại: Cơ sở lý luân, kinh
nghiệm quốc tế và kiến nghị chính sách cho Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp
Bộ, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
30. Viên Thế Giang (2010), Tâp trung kinh tế - Giải pháp đáp ứng yêu cầu tăng
vốn pháp định của các NHTM Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 13.
31. Gregory Crovo, Các vấn đề cần lưu ý khi tham gia giao dịch M&A tại Việt
Nam, Báo Đầu tư điện tử, truy cập ngày 27/11/2012, <http://baodautu.vn>.
32. Đ.H (2013), Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở một số nước Đông Nam Á và
kinh nghiệm đối với Việt Nam, Báo điện tử ĐCS Việt Nam, truy cập
17/02/2013, <http:// dangcongsan.vn>.
33. Nguyễn Thị Hải Hà (2010), Tìm hiểu vai trò của các chủ thể tham gia trong
một giao dịch M&A, Chuyên san Kinh tế và Kinh doanh, số 4.
34. Phan Thị Thu Hà (2014), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nxb Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
35. Phạm Hồng Hải (2013), Tái cấu trúc ngân hàng: Cần chấp nhân đóng cửa
thay vì sáp nhâp, Đầu tư Chứng khoán điện tử, truy cập ngày 04/3/2013,
<http://tinnhanhchungkhoan.vn>.
36. Trần Vũ Hải (2010), Giáo trình Luât Ngân hàng Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
37. Hoàng Thu Hằng, Nguyễn Thị Mai Dung, Đỗ Thị Kiều Phương (2014), Pháp
luât về hợp nhất, sáp nhâp ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Học viện, Học viện Tài chính.
38. Nguyễn Trí Hiếu (2012), Những điểm cần chú ý trong Đề án Tái cấu trúc
ngân hàng, Đầu tư chứng khoán điện tử, truy cập ngày 24/11/2012,
<http://tinnhanhchungkhoan.vn>.
39. Trương Thị Hoà (2015), Nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và
rút ra bài học kinh nghiệm dành cho Việt Nam, Khoa Kinh tế - Trường ĐH Sư
phạm Kỹ thuật TP.HCM, truy cập ngày 05/8/2015, <http://fe.hcmute.edu.vn>
40. Đỗ Thị Phi Hoài (2012), Mua lại và sáp nhâp tại Nhât Bản: Bài học kinh
nghiệm tái cấu trúc doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Tài chính, số 3.
155
41. Phạm Trí Hùng (2010), Một số vấn đề của hợp đồng sáp nhâp, mua lại doanh
nghiệp, Trang tin điện tử của Học viện Tư pháp, truy cập ngày 12/6/2012,
<http://hocvientuphap.edu.vn>.
42. Phạm Trí Hùng (2012), Pháp luât điều chỉnh sáp nhâp, mua lại doanh nghiệp ở
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của trường Đại học Luật TP.HCM.
43. Phùng Văn Hùng (2009), Kinh nghiệm quốc tế về bảo vệ người gửi tiền khi có
hoạt động M&A ngân hàng, Thông tin Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, số 11.
44. Nguyễn Thu Huyền, Đỗ Hồng Nhung (2012), Những vấn đề pháp lý cần lưu ý
trong một thương vụ M&A, Báo Đầu tư điện tử, truy cập ngày 19/6/2012,
<http://baodautu.vn>.
45. Nguyễn Thị Mai Hương (2010), Khía cạnh pháp lý của hoạt động sáp nhâp
và mua lại các tổ chức tài chính ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học
Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh.
46. Nguyễn Thu Hương (2010), Nhân diện xu hướng M&A trong ngành ngân
hàng Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội.
47. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình luât kinh tế Việt Nam,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
48. Khuyết danh (2013), Những vấn đề cần lưu ý khi soạn thảo hợp đồng mua
bán, sáp nhâp doanh nghiệp, Trang tin điện tử luatdanhchinh.com.vn, truy cập
ngày 12/7/2013, <http://www.luatdanhchinh.com.vn>.
49. Khuyết danh (2013), Giải pháp để phát triển hoạt dộng mua lại, sáp nhâp
doanh nghiệp, Đề tài nghiên cứu khoa học.
50. Khoa Tài chính Ngân hàng, Đại học Kinh tế-Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM
(2012), Bài giảng môn quản trị NHTM.
51. Nguyễn Thường Lạng, Nguyễn Thị Quỳnh Thư (2008), Một số vấn đề về sáp
nhâp, mua lại doanh nghiệp và tình hình Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 15.
52. Cao Đình Lành (2012), Xung đột lợi ích của cổ đông thiểu số trong hoạt động
mua bán, sáp nhâp công ty cổ phần, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8.
53. Bùi Thanh Lam (2010), Hành lang pháp lý liên quan đến sáp nhâp và thâu
tóm ngân hàng ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11.
54. LienVietPostbank (2011), Giảm ngân hàng nhỏ bằng mua bán, sáp nhâp,
Ngân hàng Bưu điện Liên Việt, truy cập ngày 23/12/2012,
<http://www.lienvietpostbank.com.vn>.
156
55. Song Linh (2011), Hợp nhất 3 ngân hàng Đệ Nhất, Tín Nghĩa và Sài Gòn, Tin
nhanh Việt Nam, truy cập ngày 25/11/2012, <http://ebank.vnexpress.net>.
56. Nguyễn Thị Loan (2012), Hoạt động mua bán sáp nhâp các ngân hàng
thương mại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp ngành, Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh.
57. Đinh Tuấn Minh (2012), Chống thâu tóm ngân hàng, Tuổi trẻ Online, truy
cập ngày 04/01/2013, <http://diaoc.tuoitre.vn>.
58. Lê Văn Nam (2011), Pháp luât về mua bán công ty ở Việt Nam, Luận văn thạc
sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội.
59. Phùng Ngọc Việt Nga (2012), Hoàn thiện pháp luât về sáp nhâp và mua lại
doanh nghiệp (M&A) phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
60. Phạm Đức Nguyện (2008), Thâu tóm và sáp nhâp - giải pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam thời kỳ hội
nhâp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh.
61. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2015), Thông cáo báo chí của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, Cổng thông tin điện tử của NHNN, truy cập ngày ngày
5/2/2015 và ngày 25/4/2015, <http://www.sbv.gov.vn>.
62. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2015), Thông cáo báo chí của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam, Cổng thông tin điện tử của NHNN, truy cập ngày ngày
25/4/2015, <http://www.sbv.gov.vn>.
63. Ngô Đức Huyền Ngân (2009), Sáp nhâp và mua lại ngân hàng thương mại
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
64. Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội (2012), Tóm tắt dự thảo đề
án, hợp đồng sáp nhâp ngân hàng HBB vào ngân hàng SHB, Trang thông tin
điện tử của ngân hàng SHB.
65. Phạm Duy Nghĩa (2006), Giáo trình luât kinh tế, tâp 1, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
66. Phạm Duy Nghĩa (2009), Đi tìm triết lí của luât phá sản, Trang thông tin điện tử
Công ty Luật Minh Khuê, truy cập ngày 03/8/2013, <http://luatminhkhue.vn>.
67. Tom Nguyen (2012), Khung pháp lý về mua lại và sáp nhâp doanh nghiệp
(M&A) tại Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học.
68. Nguyễn Thị Nguyện (2011), Hoạt động mua lại và sáp nhâp (M&A) trong
157
lĩnh vực ngân hàng tại Mỹ và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”, Luận
văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
69. Văn Nguyễn (2011), Đề xuất lộ trình sáp nhâp, hợp nhất, Báo Lao động điện
tử, truy cập ngày 19/6/2013, < http://laodong.com.vn>.
70. Người Phát ngôn Chính phủ (2015), Nội dung trả lời của Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Văn phòng Chính phủ đối với một số vấn đề mà báo chí và dư luân
quan tâm, truy cập ngày 02/4/2015, <http://baodientu.chinhphu.vn>.
71. Hà Nhân, Nguyễn Tuấn (2011), Dự thảo Luât Bảo hiểm tiền gửi: Mức bảo
hiểm quá thấp, Cổng thông tin điện tử Quốc hội, truy cập ngày 10/11/2015,
<http://duthaoonline. quochoi.vn>.
72. Nguyễn Hòa Nhân (2009), M&A ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp cơ bản,
Tạp chí Khoa học, số 5 (34).
73. Nguyễn Như Phát (2007), Khía cạnh pháp lý và cấu trúc thương vụ M&A,
Tạp chí Pháp lý, số 4 (41).
74. Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh và cộng sự (2011), Xây dựng hệ thống
pháp luât thống nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong nhà nước pháp
quyền Việt Nam, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ, Viện
Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
75. Nguyễn Như Phát, Phạm Hữu Nghị (2004), Giáo trình Luât kinh tế, Nxb
Công an Nhân dân, Hà Nội.
76. Vũ Bá Phú (2011), Các vấn đề về chống tâp trung kinh tế qua hoạt động
M&A, Trang thông tin nội bộ thuộc Diễn đàn M&A Việt Nam, truy cập ngày
28/6/2012, <http://maf.vn>.
77. Hồng Phúc (2012), Mua bán ngân hàng: Đang thiếu khung pháp lý, Thời báo
Kinh tế Sài gòn điện tử, truy cập ngày 26/4/2013,
<http://www.thesaigontimes.vn>.
78. Nguyễn Mai Phương (2009), Mua bán, sáp nhâp doanh nghiệp ở Việt Nam: Nhìn
từ góc độ bên mua và bên bán”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16 (153).
79. Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Cao Khôi (2011), Cần sớm hoàn thiện văn bản
pháp luât về M&A ngân hàng, Cổng thông tin điện tử NHNN, truy cập ngày
15/9/2012, <http://www.sbv.gov.vn/>.
80. Nguyễn Quang (2010), Mua bán, sáp nhâp doanh nghiệp: Không cần luât
riêng?, Báo đại biểu nhân dân điện tử, truy cập ngày 12/8/2012,
158
<http://daibieunhandan.vn>.
81. Nguyễn Văn Quang (2010), Giải quyết tranh chấp hành chính bằng cơ quan
hành chính theo quy định của pháp luât Hoa Kỳ, Tạp chí Luật học số 12/2010.
82. Đoàn Thái Sơn (2012), Một số vấn đề pháp lý về hợp nhất các ngân hàng
thương mại cổ phần, Cổng thông tin điện tử NHNN, truy cập ngày
21/10/2012, <http://www.sbv.gov.vn>.
83. Nguyễn Hồng Sơn, Trần Thị Thanh Tú (2012), Tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng Việt Nam: Những ẩn số nhìn từ thông lệ quốc tế ", Trang tin điện tử của
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, truy cập ngày 26/2/2013,
<http://dl.ueb.edu.vn>.
84. Nguyễn Ngọc Sơn (2005), Xác định thị trường liên quan theo luât cạnh tranh
2004, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11(63).
85. Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Kiểm soát tâp trung kinh tế theo pháp luât cạnh
tranh và vấn đề của Việt Nam”, Trang thông tin Pháp luật dân sự, truy cập
ngày 21/10/2012, <http://thongtinphapluatdansu.edu.vn>.
86. Phạm Minh Sơn (2012), Cần trao đổi về quy định mua lại và sáp nhâp NHTM
Việt Nam, Tạp chí Thị trường tài chính Tiền tệ, số 15.
87. Phạm Minh Sơn (2012), Khung pháp lý về mua lại và sáp nhâp NHTM Việt
Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9 (246).
88. Phạm Minh Sơn (2012), Pháp luât về mua lại và sáp nhâp NHTM Việt Nam –
Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Ngân hàng, số 14.
89. Trần Đức Tân (2013), “Pháp luât về sáp nhâp, hợp nhất các Ngân hàng
thương mại cổ phần trước yêu cầu tái cơ cấu – Thực trạng và phương hướng
hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội.
90. Tạp chí Tài chính (2013), Sáp nhâp ngân hàng: Kinh nghiệm từ một thương
vụ ở Hàn Quốc, Tạp chí Tài chính điện tử, truy cập ngày 8/5/2013,
<http://www. tapchitaichinh.vn>.
91. Nguyễn Kim Thanh (2011), Tổng quan về tái cơ cấu hệ thống tài chính tiền
tệ, Cổng thông tin điện tử Uỷ ban Kinh tế Quốc hội, truy cập ngày
21/10/2012, <http://ecna.gov.vn>.
92. Nguyễn Trí Thanh (2009), Cẩm nang mua bán và sáp nhâp công ty tại Việt
Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội.
93. Xuân Thanh, Võ Hương (2012), Tìm hiểu về M&A trong ngành ngân hàng
159
Mỹ, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, truy cập ngày 24/12/2012,
<http://www.vnba.org.vn>.
94. Nguyễn Xuân Thành, Trần Thị Quế Giang, Đỗ Thiên Anh Tuấn, Nguyễn Đức
Mậu (2012), Hợp nhất ba ngân hàng thương mại, Chương trình giảng dạy
kinh tế FULBRIGHT.
95. Quyết Thắng (2009), Tìm hiểu cơ chế kiểm soát tâp trung kinh tế trong pháp
luât cạnh tranh một số nước trên thế giới, Cổng thông tin điện tử Cục Quản lý
cạnh tranh, truy cập ngày 21/7/2014, <http://www.qlct.gov.vn>.
96. Thời báo ngân hàng (2012), 5 ngân hàng cấp tín dụng hợp vốn 140 triệu USD
cho PVEP, Thời báo ngân hàng điện tử, truy cập ngày
6/5/2015,<http://thoibaonganhang.vn>.
97. Trương Quang Thông (2012), Sáp nhâp ngân hàng: Những vấn đề cần bàn
thêm, Tạp chí Doanh nhân Sài Gòn, truy cập ngày 4/3/2013,
<http://news.go.vn>.
98. Lưu Thủy (2011), Tái cấu trúc ngân hàng: Mạnh dạn phá sản?, Nội dung trao
đổi của PGS. TS Nguyễn Thị Mùi tại Hội thảo Tái cấu trúc hệ thống NHTM
trên Lao động Online, truy cập ngày 17/3/2012, < http://laodong.com.vn>.
99. Thanh Thủy (2015), Khi nào một ngân hàng rơi vào diện 'kiểm soát đặc
biệt'?, Chuyên trang Người đồng hành, Tạp chí điện tử Nhịp sống số, truy cập
ngày 17/8/2015, <http://ndh.vn>.
100. Trần Thị Thu Thuỷ (2010), Sáp nhâp ngân hàng thương mại Việt Nam - Sự
lựa chọn để tồn tại và phát triển theo xu thế hội nhâp, Tạp chí Phát triển &
Hội nhập, số 8.
101. Bá Thư (2012), Habubank chờ ngày chính thức sáp nhâp vào SHB, Báo đầu
tư điện tử, truy cập ngày 27/11/2012, <http://Baodautu.vn>.
102. Vũ Văn Thực (2013), Tái cơ cấu ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Tạp chí
Phát triển và Hội nhập, số 10 (20).
103. Đào Minh Tú (2011), Sáp nhâp, mua lại là con đường tất yếu để phát triển hệ
thống ngân hàng Việt Nam, Cổng thông tin dữ liệu tài chính-chứng khoán
Việt Nam, truy cập ngày 14/7/2012, <http://cafef.vn>.
104. Đào Minh Tú (2011), Hợp nhất, sáp nhâp ngân hàng – Quan điểm và cách
thức tiến hành, Cổng thông tin Học viện Ngân hàng, truy cập ngày 14/7/2012
, <http://www.hvnh.edu.vn>.
160
105. Hoàng Anh Tuấn (2012), Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luât Việt
Nam, luận án tiến sĩ luật kinh tế.
106. Trần Thanh Tùng (2010), M&A – Còn nhiều vướng mắc, Thời báo Kinh tế Sài
Gòn Online, truy cập ngày 28/7/2012, <www.thesaigontimes.vn>.
107. Nguyễn Minh Tuyết (2012), Pháp luât về sáp nhâp, hợp nhất ngân hàng ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học.
108. Nguyễn Đức Trung (2012), An toàn vốn của các ngân hàng thương mại -
Thực trạng Việt Nam và giải pháp cho việc áp dụng Hiệp ước tiêu chuẩn vốn
Basel II & III, Cổng thông tin điện tử NHNN, truy cập ngày 21/2/2013,
<http://www.sbv. gov.vn>.
109. Phạm Quang Trung (2010), Hoạt động mua bán và sáp nhâp doanh nghiệp ở
Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 155.
110. Trịnh Quốc Trung (2009), Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong hoạt động sáp
nhâp, mua lại, hợp nhất trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, Tạp chí Ngân
hàng, số 14.
111. Trung tâm WTO, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2010), Cam
kết mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính.
112. Vũ Gia Trưởng (2012), Sáp nhâp doanh nghiệp theo pháp luât doanh nghiệp
ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội.
113. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (2012), Báo cáo kinh tế vĩ mô 2012 "Từ bất ổn
vĩ mô đến con đường tái cơ cấu".
114. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (2012), Kinh tế Việt Nam năm 2012: Khởi động
mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, Nxb Tri thức, Hà Nội.
115. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (2013), Báo cáo “Một số ý kiến về việc triển khai
thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh”.
116. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội (2014), Báo cáo kinh tế vĩ mô 2014 “Cải cách
thể chế kinh tế: Chìa khóa cho tái cơ cấu”.
117. Phạm Thị Tuyết Vân (2008), Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
các ngân hàng Việt Nam thông qua hoạt động sáp nhâp và mua lại, Luận văn
thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
118. Phạm Thị Tường Vân, Phạm Tiến Đạt (2010), Hoàn thiện khung pháp lý cho
hoạt động M&A ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính, số 4.
161
119. Lê Đình Vinh (2010), Yếu tố pháp lý trong hoạt động M&A tại Việt Nam, Báo
Đầu tư điện tử, truy cập ngày 26/8/2012, <http://baodautu.vn>.
120. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2012), Tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng.
121. Phan Diên Vỹ (2013), Sáp nhâp, hợp nhất và mua bán ngân hàng thương mại
cổ phần ở Việt Nam, luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Ngân hàng TP.
Hồ Chí Minh.
122. Nguyễn Thị Hải Yến (2012), Thực trạng M&A trong lĩnh vực ngân hàng tại
Việt Nam hiện nay – Trường hợp của 3 ngân hàng Đệ Nhất - Tín Nghĩa - Sài
Gòn, Luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
B. Tài liệu tiếng Anh, tài liệu dịch
123. Alexander Robert, William Wallance, Peter Moles (2012), Merger and
Acquisition, Edinburgh bussines school, Heriot-Watt Univessity.
124. Andrew J. Sherman, Milledge A. Hart (2009), Mua lại và sáp nhâp từ A đến
Z, Nxb Tri Thức, Hà Nội.
125. Bruner F. Robert and Perella P. Joseph (2004), Applied Mergers and
Acquitions.
126. Council Regulation (EC) No 139/2004 of 20 January 2004 on the control of
concentrations between undertakings.
127. Dale A. Oesterle (2001), Mergers and Acquisitions, A Thomson Company,
United State.
128. David L.Scott (2003), Wall Street Words: An A to Z Guide to Investment
Terms for Today’s Investor.
129. Daren Shiau (2007), Singapore: Merger Control Regime under the
Competition Act (CAP. 50B), Allen&Gledhill LLP, Singapore.
130. Delta Publishing Company (2009), A practical guide to mergers, acquisitions,
and divestitures, Nxb Delta Publishing Company.
131. Donal DePamphilis (2010), Merger, Acquisition, and other Restructuring
Activities
132. J. Fred Weston và Samuel C. Weaver (2007), Mergers and Acquisitions,
McGraw-Hill.
133. Joseph Benson và Jack Foley (2005), Banking M&A: What about the brand?,
162
http://www.marketingprofs.com/5/bensonfoley1.asp.
134. Lê Thị Khánh Ly biên dịch, Luât chống độc quyền ở Mỹ. N.Gregory
Mankiw, 5th edition (2008), Principles of MicroEconomics, South Western
CENGAGE Learning.
135. Michael E.S. Frankel (2009), Mua lại và sáp nhâp căn bản - Các bước quan
trọng trong quá trình mua bán doanh nghiệp và đầu tư, Nxb. Tri Thức, Hà Nội.
136. Peter. S. Rose (2000), Quản trị Ngân hàng thương mại, dịch và xuất bản tại
Việt Nam năm 2000, Nxb Tài chính, Hà Nội.
137. Scott Moeller, Chis Brady (2009), Mua lại và sáp nhâp thông minh - Kim chỉ
nam trên trân đồ sáp nhâp và mua lại, Nxb. Tri Thức, Hà Nội.
138. Sherman, A.J. (2006), Mergers & acquisitions from A to Z, New York:
American Management Association. xv, 318 p, The United State.
139. The College of Law (2009), Mergers & Acquisition workbook.
140. Timothy J.Galpin, Mark Herdon (2009), Cẩm nang hướng dẫn mua lại và sáp
nhâp, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.
141. Vincent Kessler – Thomson Reuteurs (2010), Mergers & Acquisitions Review
Financial Advisors, full year 2010.
142. Wilbur M. Yegge (2006), Hướng dẫn cơ bản về mua bán công ty, Nxb. Thống
kê, Hà Nội.
C. Các trang website
143. Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà nước (http://www.sbv.gov.vn)
144. Cục Quản lý cạnh tranh (http://www.qlct.gov.vn)
145. Trang tin điện tử Ngân hàng Thế giới (www.worldbank.org)
146. Trang tin điện tử NHTM TNHH MTV Xây dựng Việt Nam (http://cbbank.vn)
147. Trang tin điện tử Ngân hàng Sài Gòn-Hà Nội (http://www.shb.com.vn)
148. Trang tin điện tử Ngân hàng Xây dựng Việt Nam (http://www.vncb.com.vn)
149. Trang tin điện tử Ngân hàng Đại dương (http://www.oceanbank.vn)
150. Trang tin điện tử Đại sứ quán Mỹ (http://vietnamese.vietnam. usembassy.gov)
163
PHỤ LỤC
Một số ngân hàng thương mại, công ty tài chính đã thực hiện mua lại,
sáp nhập được nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận án
TT Tên ngân hàng mua lại,
nhận sáp nhập
Tên ngân hàng, công ty tài
chính bị mua lại, bị sáp nhập
Thời gian
thực hiện mua
lại, sáp nhập
1. NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội
(SHB)
NHTMCP Nhà Hà Nội (HBB) Năm 2012
2. NHTMCP Phát triển
TP.Hồ Chí Minh (HDBank)
NHTMCP Đại Á (DaiABank) Năm 2013
3. NHTMCP Phát triển
TP.Hồ Chí Minh (HDBank)
Công ty TNHH MTV Tài chính
Việt-Societe Generale (SGVF)
trực thuộc Tập đoàn Société
Général – Cộng hòa Pháp.
Năm 2013
4. NHTMCP Việt Nam Thịnh
Vượng (VPBank)
Công ty TNHH MTV Tài chính
Than - Khoáng sản Việt Nam
(CMF)
Năm 2014
5. NHTMCP Sài gòn Thương
tín (Sacombank)
NHTMCP Phương Nam
(Southern Bank)
Năm 2015
6. NHTMCP Hàng Hải Việt
Nam (Maritime Bank)
NHTMCP Phát triển Mê Kông
(MDB)
Năm 2015
7. Ngân hàng Nhà nước NHTMCP Xây dựng
(VNCB)
Năm 2015
8. Ngân hàng Nhà nước NHTMCP Dầu khí Toàn cầu
(GPBank)
Năm 2015
9. Ngân hàng Nhà nước NHTMCP Đại dương
(Ocean Bank)
Năm 2015
top related