BÀI DỰ THI VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GIẢI …nguyenvanlinh.phuyen.edu.vn/fileupload/tainguyen/1_6_4_7.pdf · +Môn Thể dục-Sinh học : sự rèn luyện
Post on 29-Aug-2019
221 Views
Preview:
Transcript
1
BÀI DỰ THI VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
TÊN TÌNH HUỐNG
“Tết Việt xưa và nay”
Tết không chỉ là dịp mừng đón mùa Xuân mới lại về mà còn là dịp mừng sum họp gia đình, gia tộc, mong
đất nước và xã hội tốt đẹp hơn, mong ai cũng được đủ đầy hạnh phúc. Vì vậy mà ai cũng náo nức, cho dù
bận rộn hơn hẳn ngày thường thì mọi người vẫn hăng hái và phấn khởi chuẩn bị về ăn Tết, chơi Tết cho thật
đàng hoàng vui vẻ.Thời gian trôi qua bao thăng trầm của lịch sử Tết nay đã có một sự khác biệt với Tết
xưa.Vấn đề trên khiến các bạn lớp chúng tôi tranh nhau bàn luận và nêu lên những sự khác biệt về các mặt
của Tết cổ truyền Việt Nam xưa và nay.
I/ Mục tiêu giải quyết tình huống:
- Một là chúng tôi muốn đưa ra ý kiến của mình tìm hiểu và nói lên sự khác biệt giữa Tết Việt xưa và nay.
- Hai là thông qua bài thuyết trình, chúng tôi muốn nêu cao trách nhiệm gìn giữ bản sắc văn hóa đân tộc của
Việt Nam nói chung và Tết cổ truyền nói riêng.- Ba là qua cuộc thi, chúng tôi sẽ có cơ hội rèn luyện thêm
các kĩ năng cần thiết như kĩ năng: phân tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh,… đặc biệt là kĩ năng trình bày vấn
2
đề trước đám đông. Nó giúp chúng tôi tự tin hơn, mạnh dạn hơn, chủ động và tích cực hơn trong việc chiếm
lĩnh tri thức cũng như trong mọi hoạt động tập thể.- Bốn là khi giải quyết tình huống này, em sẽ được tìm
hiểu sâu rộng kiến thức của nhiều môn học và cả những kiến thức tích lũy từ báo, đài và thực tiễn cuộc sống.
Từ đó, giúp em vận dụng tốt hơn kiến thức liên môn vào giải quyết các tình huống thực tế.
II/ Tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến việc giải quyết các tình huống.
Để giải quyết tình huống này, em đã tìm hiểu và nhận thấy có thể vận dụng kiến thức ở nhiều môn học
trong nhà trường để giải quyết, cụ thể như sau:
+ Môn Ngữ Văn: các kĩ năng viết văn Thuyết minh, Nghị luận để viết bài. Bài thuyết trình có bố cục rõ ràng,
diễn đạt mạch lạc, lập luận chặt chẽ.
+ Môn lịch sử: Các bước tiến về văn hóa ẩm thực, trang phục trong ngày Tết qua mọi thời kì lịch sử.
+Môn Địa lí:Những đặc sắc văn hóa của từng vùng miền trong ngày Tết.
+Môn Hóa học:Những nguyên,chất liệu làm nên những sản phẩm trong ngày Tết xưa và nay.
+Môn Toán học:Gía trị thông kê về những con số trong ngày Tết
+Môn Thể dục-Sinh học : sự rèn luyện qua các trò chơi trong ngày hội xuân.
+Môn Tin học : những ứng dụng của tin học trong ngày Tết xưa và nay.
+Môn công dân : ý thức của con người trong việc lưu giữ những bản sắc văn hóa đẹp của ngày Tết cổ truyền
Việt Nam. Đồng thời còn là sự thay đổi của con người trong ngày Tết.
Vào ngày Tết, đến các gia đình người Việt dễ dàng nhận ra những nét đẹp được hiện hình qua nếp sống,
giao tiếp ứng xử; qua việc dịch chuyển vào bảo lưu những thuần phong, mỹ tục; những tập quán của việc
hiếu, hỷ, nhà cửa và thờ cúng tổ tiên…
Tết của người Việt còn là giao hòa giữa ước mơ và hiện thực. Tết không chỉ là vật chất: ăn uống, trang
hoàng nhà cửa, mua sắm,… Tết còn là nét văn hóa tâm linh như thờ cúng tổ tiên, mọi người về với sự đầm
ấm, thiêng liêng của tình cảm gia đình, dòng tộc, tình làng nghĩa xóm. Tết đã trở thành nét đẹp, tinh túy, ăn
sâu vào tâm thức người Việt từ xưa cho đến nay. Tuy vậy trong sự chuyển biến của xã hội, Tết cũng đã có
những thay đổi ít nhiều.
Tết của ngày hôm nay thì lại khác so với tết của ngày xa xưa, có lẽ cũng một phần vì cuộc sống đã thay đổi
đi rất nhiều... chúng ta đã trải qua vất vả, khó khăn. Cuộc sống con người đã đủ đầy hơn, mặt hàng phóng
phú hơn. Thanh toán và mua sắm tiện lợi hơn rất nhiều, không còn cảnh chen lấn xếp hàng ở cửa hàng mậu
dịch hay bách hóa. Có lẽ cái từ đó đã thay thế bằng trung tâm thương mại, siêu thị. Ngày tết xưa và nay đã
hằn sâu trong trái tim chúng ta khi nghĩ về tết cổ truyền, văn hóa con người Việt Nam.
Tết xưa của người Việt tuy vất vả khó khăn nhưng lại vang tiếng cười vui. Nhớ những ngày tháng cuối năm
cận kề với cái tết 19 - 20 âm lịch ai ai cũng cảm nhận được cái không khí tết đang đến gần, thời tiết lạnh giá. Trẻ con thì hò reo tết đến là có quần áo mới, có đồ ăn ngon và đốt pháo đêm giao thừa. Không khí đó đi theo
3
suốt chúng ta đến tận bây giờ, những kỉ niệm dư âm vẫn còn đâu đó mà ta không thể nào quên. Cho dù có đi xa ở phương trời nào đó nhưng chúng ta vẫn hướng về quê hương được đón tết cổ truyền. Tết là lúc thể hiện tình đầm ấm nhất của gia đình, dòng họ, tình làng nghĩa xóm. Tết đến mọi người hướng
về cội nguồn, nơi chon nhau cắt rốn của mình. Kẻ đi thì nhớ người ở lại; mẹ già thì mỏi mắt chờ con… Vì
vậy Tết là thời gian để người Việt dành trọn tình cảm cho nhau. Đặc biệt vào thời khắc giao thừa là lúc ấm
cúng nhất, mọi thành viên trong gia đình đều tụ hội về một mái nhà thờ tự, thắp nén nhang thơm cho người
đã khuất, ăn uống cười nói vui vẻ, cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp nhất. Đến sang mùng một cũng
mặc quần áo mới, nét mặt tươi cười. Mọi người trong năm ăn nói nhỏ nhẹ, nhường nhịn nhau hơn. Những
phong tục từ xưa mang những ước vọng cho cuộc sống như hái lộc đầu năm với ý nghĩa lấy lộc của trời đất,
Phật thần ban cho sẽ đem lại may mắn quanh năm. Xông nhà thăm hỏi sức khỏe nhau cũng là một nét không
thể thiếu; khi bước ra khỏi nhà, khác không thể quên mang theo những phong bao lì xì cho người già và trẻ
nhỏ… Những nét văn hóa đó tạo nên không khí đầm ấm, gần gũi trong gia đình, vừa thân mật trong tình làng
nghĩa xóm.
Chúng ta thấy Tết ngày nay đã có thay đổi rất nhiều, một mặt do người dân đã chuyển dần từ lối sống
truyền thống nông thôn sang đô thị. Đời sống vật chất, tâm linh cũng thay đổi theo, vì thế mà Tết cũng dần
nhạt đi, không còn quan trọng như xưa.
Bây giờ khi nói đến “ăn Tết”, người Việt ăn uống đơn giản hơn. Phần lớn gia đình đã đủ ăn, nên việc ăn Tết
cũng không khác ngày thường là mấy. Cái thú chơi Tết cũng nhạt đi, bây giờ không còn cảnh già trẻ kéo
nhau đi xem chợ Tết như trước kia. Thay vào đó văn hóa giải trí phong phú hơn nên việc giải trí không chỉ
diễn ra trong dịp Tết mà trải dài cả năm…
Thống kê những con số về hoạt động của con người trong dịp Tết ngày nay
4
VĂN HÓA TẾT VIỆT.
Ngày Tết đang đến rất gần, cùng tìm hiểu đôi điều về Tết Việt để thêm yêu nền văn hóa đậm đà bản
sắc của người Việt Nam, yêu hơn đất nước và con người Việt Nam.
Tết Nguyên Đán (hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền hay chỉ đơn giản còn gọi
là Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam, theo ảnh hưởng văn hóa của Tết Âm lịch Trung Hoavà Vòng
văn hóa Đông Á. Trước ngày Tết, thường có những ngày khác để sửa soạn như "Tết Táo Quân" (23 tháng
chạp âm lịch) và "Tất Niên" (29 hoặc 30 tháng chạp âm lịch)
Vì Tết tính theo Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của Mặt Trăng nên Tết Nguyên Đán của Việt Nam
muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên
ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19
tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết
Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23
tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).
Hàng năm, Tết được tổ chức vào ngày mồng 1 tháng 1 theo âm lịchtrên đất nước Việt Nam và ở một vài
nước khác có cộng đồng người Việt sinh sống. Trong những ngày Tết, các gia đình sum họp bên nhau, cùng
thăm hỏi người thân, mừng tuổi và thờ cúng tổ tiên...
Từ nguyên
Chữ "Tết" do chữ "Tiết" (� ) mà thành Hai chữ "Nguyên đán" (� � ) có gốc chữ Hán; "nguyên" có nghĩa là
sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" có nghĩa là buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết
Nguyên Đán".Tết Nguyên đán được người Trung Hoa hiện nay gọi là "Xuân Tiết" (� � ) hoặc "Nông lịch tân
niên" (� � � � ), và vẫn là tết cổ truyền của họ,mặc dù từ năm 1949 (bắt đầu thời kỳ Đại cách mạng văn
hóa), Trung Quốc đã chính thức chuyển qua dùng dương lịch và chuyển qua gọi Tết dương lịch là Tết
Nguyên đán.
Do cách tính của âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam
đôi khi không hoàn toàn trùng với Xuân tiết của người Trung Quốc và các quốc gia chịu ảnh hưởng bởi văn
hóa Trung Hoa vàvòng Văn hóa chữ Hán khác, mà có thể chênh lệch 1 ngày (như vào các năm 2007, 2030,
2053, Tết Việt Nam trước Tết Trung Quốc 1 ngày).
Nguồn gốc ra đời
Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia"
thời gian trong một năm thành 24 tiết khí khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thừa")
trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau
này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng
thời kỳ.Đời Tam đại, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu
trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý,
tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như
5
sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau.Đời Đông
Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy
Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán,Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào
tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.Trước năm
1967, Việt Nam lấy múi giờ Bắc Kinh làm chuẩn cho âm lịch. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành đổi lịch dùng múi giờ GMT+7 làm chuẩn ở miền Bắc. Vì thế hai miền
nam bắc Việt Nam đón Tết Mậu Thân hai ngày khác nhau (miền Bắc ngày 29 tháng 1 trong khi miền Nam
thì ngày 30 tháng 1).Từ năm 1976, cả 2 miền nam bắc mới dùng chung múi giờ GMT+7.
I/ Nét đẹp trong ẩm thực tết Việt:
Hương vị của năm mới đang đến gần, đâu đó ở các làng ẩm thực Việt, các nhà hàng cổ truyền cứ râm
ran những bữa tiệc tất niên với đủ các món ăn ngon đã làm nao lòng những đứa con xa xứ mong mỏi
sớm được về quê sum họp bên gia đình bên mâm cơm bên những món ẩm thực Việt Nam ngày Tết.
Tết là dịp để tất cả mọi người vui chơi, ăn uống, nhận lì xì, là dịp để những lo toan phiền muộn khép lại khi
thời khắc giao thừa điểm; nhưng Tết không đơn thuần chỉ mang những ý nghĩ như thế mà nó còn là dịp để những người con, người cháu thể hiện lòng thành kình nhớ ơn của mình đối với tổ tiên ông bà thông qua
những món ăn mang đậm hương vị ẩm thực Việt Nam ngày tết, là dịp để những người vợ, người mẹ, người
bà…dồn hết cái tâm, đong từng giọt yêu thương mà tạo ra những tuyệt phẩm cho người chồng, người con, người cháu được thưởng thức.
Tết Nguyên Đán mang những nét đẹp về văn hóa truyền thống, về phong tục tập quán rất đặc trưng của dân
tộc Việt Nam, điều đó thể hiện rõ nét trong ẩm thực Việt Nam ngày tết. Phong tục Tết của người Việt Nam
rất quan trọng chuyện ăn uống, vì vậy, người ta thường không nói là “lễ Tết” mà là “ăn tết “ .Và theo thời
6
gian cũng như để đáp ứng nhu cầu ,thị hiếu của mọi người mà “Ẩm thực ngày Tết “đã và đang có những thay đổi khác nhau …
Ẩm thực ngày tết Việt Nam đa dạng và phong phú theo mỗi vùng miền. Nhưng hội tụ ở đó là cả một tình quê, tình yêu, tình người sâu sắc. Hương vị quê hương được hòa quyện vào cùng những món ngon ngày tết được chế biến từ chính những sản phẩm của làng quê. Thiên nhiên ban tặng cho chúng ta cuộc sống và tâm hồn chúng ta cũng chính từ cuộc sống mà ra. Tình quê rộn ràng trong những câu hò câu hát, ẩm thực ngày tết đi vào những câu ca dao như một nét đẹp truyền thống: Đêm giao thừa nghe một khúc dân ca
Bài dân ca tha thiết đậm đà
Trong dân ca nghe sao từng nỗi nhớ
Nhớ mùa xuân nhớ cả một trời hoa
Nghe nôn nao như chiều ba mươi tết
Bếp than hồng mẹ nấu bánh chưng xanh ….
Ngày xưa, cứ đến khoảng 28-29 ,chúng ta không khó để bắt gặp hình ảnh nhà nhà ngồi quây quần bên nồi bánh chưng , vừa trò chuyện , vừa chờ bánh chín . Thông thường, vài ba gia đình sẽ cùng “góp gạo chung” để có một nồi bánh chưng ăn Tết. Với những nguyên liệu quen thuộc như gạo, đỗ xanh, thịt lợn, một chiếc bánh chưng vuông vắn được ra đời dưới bàn tay khéo léo của người gói. Sau đó được bỏ vào nồi luộc, chờ
trong khoảng thời gian 12 -14 tiếng để bánh chín. Có thể luộc bằng bếp củi hay bếp than, nhưng có một điểm chung là ngọn lửa đỏ rực của nồi luộc bánh chưng sáng bừng trong đêm tối, xua tan đi không khí giá lạnh
của mùa đông những ngày cuối năm.
7
Ngày nay ,do cuộc sống hiện đại và gấp gáp nên các gia đình chọn đặt gói bánh chưng hoặc mua để tiết kiệm
thời gian . Vì thế hình ảnh những cô bé, cậu bé cùng ông bà, bố mẹ quây quần gói bánh chưng, háo hức lắng
nghe những câu chuyện “Ngày xưa, nhà mình...”ngày càng ít đi …
Và nếu nói đến ẩm thực ngày tết , nếu không nói về những món ăn truyền thống với những hương vị đặc
trưng của các vùng miền dọc theo hình chữ S có lẽ là thiếu xót lớn .
Xuân miền Bắc rực rỡ trong sắc hồng thắm của hoa đào và co ro trong tiết lạnh, người miền Bắc dường như
nuông chiều bản thân hơn với các món như bánh chưng, giò lụa, dưa hành, nem rán, canh măng chân giò,
thịt đông thật béo và đầy năng lượng.
8
Mâm cỗ Tết miền Bắc rất tinh tế, là sự phối hợp hài hòa của các món ăn, giữa món nước và món khô, giữa
thịt và rau. Đầu tiên là bánh chưng xanh được gói bằng thứ gạo nếp thơm dẻo với màu xanh mướt mắt. Bánh
chưng xanh thường ăn với dưa hành, vừa làm tăng hương vị, lại “chống” ngán. Kế đến là thịt đông - món ăn
khá lạ lùng: vốn nguội lạnh, lại ăn trong tiết trời lạnh giá và kèm với dưa cải chua mới ngon.
Ngoài ra, còn có đĩa xôi ăn với gà luộc rắc lá chanh, giò lụa, giò xào, nem rán, kèm đĩa nộm nhiều rau củ để
bữa cỗ thêm ngon miệng. Món nước cũng không kém phần phong phú: nào giò heo hầm với măng lưỡi lợn,
bóng nấu thập cẩm, miến nấu lòng gà, rồi bát mọc nước. Người ta còn chuẩn bị thêm nồi cá chép hoặc cá
trắm kho riềng, nồi thịt bò kho quế, món nào cũng đậm đà hương vị.
Bánh chưng xanh là linh hồn của ngày Tết cổ truyền, thể hiện tinh hoa đất trời qua bàn tay khéo léo của con
người. Trên bàn thờ tổ tiên người miền Bắc dịp Tết không thể thiếu cặp bánh chưng xanh. Thịt đông là món
riêng có của mùa đông xuân Bắc bộ. Trong làn không khí lạnh, thịt đông trở nên ngon hơn.
Khác với miền Bắc, những món ăn của người dân miền Nam thường mộc mạc, đơn giản hơn, tuy nhiên lại
phong phú hơn về các món.
Có lẽ, nét đặc trưng nhất của không khí chuẩn bị Tết ở đây là lúc cả gia đình quây quần bên nhau gói bánh
tét.
Nhân của loại bánh này cũng được chế biến phong phú: bánh tét chay, bánh tét mặn, bánh tét ngọt hay bánh
tét nhân thập cẩm.
Người Nam bộ thường ăn bánh tét với món thịt kho cùng trứng vịt và nước cốt dừa, kèm với củ kiệu muối.
9
Mâm cỗ của người miền Nam
Ở các vùng quê Nam Bộ, 4 món ăn không thể thiếu trong dịp tết Nguyên đán là: thịt hầm, thịt kho tàu, mướp
đắng nhồi thịt lợn băm và nem bì.
Món thịt hầm bắt buộc là phải thịt bắp đùi kho, hầm cho nhừ với vài vị thuốc bắc. Món này chỉ dùng để
nhắm rượu hoặc ăn chơi chứ không ăn với cơm.
Một món ăn dân dã khác không thể không nhắc đến là khổ qua nhồi thịt. Không chỉ là một món ăn ngon miệng, có tác dụng thanh mát cơ thể, người miền Nam ăn món này đầu năm còn có ý nghĩa cầu mong mọi chuyện không vui sẽ qua đi, một năm tươi sáng sẽ đến với gia đình. Còn ở giữa mảnh đất hình chữ S , Tết của miền Trung dân dã và mộc mạc với những món ăn dân dã như nem chua, tré, thịt dầm bên cành mai vàng sắc nắng. Mâm cỗ cúng Tết miền Trung nấu khéo, nhìn thấy trong đó cả âm hưởng của sự chắt chiu, chia sẻ.
10
Miền Trung không có bánh chưng mà là bánh tét, được gói bằng lá chuối theo hình trụ, ăn với dưa món (củ cải, cà rốt, dưa leo ngâm trong nước mắm đường). Nhiều món nguội như chả, nem chua, tré, hay gỏi. Đặc biệt, mâm cỗ Huế không thể thiếu món tôm chua thịt phay, nem bò lụi, chả tôm, gỏi vả. Tết ở miền Trung còn có món bò nấu thưng, thịt nạc rim và đặc biệt là món giò heo hon, giò heo ướp nghệ tươi giã nát, nấu liu riu đến khi mềm, cho thêm đậu phộng đã bóc vỏ, vừa béo vừa thơm, ăn với xôi trắng rất hợp.
Ngày nay, do sự giao thoa về văn hóa, mâm cỗ Tết mỗi miền có thể thêm sự góp mặt của món ăn miền
khác, tùy theo sở thích của gia đình. Vì vậy, món ăn ngày Tết ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và ngon miệng hơn. Nhưng đâu đó nó vẫn giữ được những đặc trưng của riêng mình
Nhưng nay hay xưa , chúng ta đều có thể thấy ẩm thực Việt luôn được thể hiện độc đáo qua những món ăn được chế biến từ những nguyên vật liệu có sẵn do con người nuôi cấy hay trồng trọt mà có ví dụ như món
bánh đa theo cách họi của miền Bắc hay miền Nam gọi là bánh tráng, người Việt Nam đã tận dụng lúa gạo
do mình thu hoạch được mà đem đi xây thành bột rồi trộn với mè đen, nhiều nơi còn cho cả cơm dừa vô làm cho chiếc bánh ngon giòn béo hơn. Mỗi một món ăn đều gắn liền với một câu chuyện xa xưa và mang một ý
nghĩa nhân văn sâu sắc thêu dệt nên bản sắc cho dân tộc Việt Nam ta, ví như câu chuyện Bánh Chưng Bánh
Giầy của Lang Liêu. Thật là xúc động khi xắn miếng bánh chưng, gói đẹp, luộc rền, ăn đủ chất béo ngậy, nghĩ tới một thuở vua Hùng, lòng hiếu thảo của vị hoàng tử đã dâng vua cha sản phẩm do chính mình làm ra,
tự chế biến nhân ngày đầu xuân, để rồi ngày sau trở thành ẩm thực Việt Nam ngày tết và trở thành những món ăn truyền thống của ngày hội, tiêu biểu của cả nước.
Ẩm thực Tết Việt Nam không những thơm ngon, bỗ dưỡng mà còn đậm đà bản sắc dân tộc, không thể lẫn với bất kỳ món ăn Tây Âu nào. Và dù có đi khắp mọi nơi trên thế giới này, chúng ta vẫn tin và tự hào rằng
những món ăn ấy nuôi sống chúng ta, câu chuyện sau mỗi món ăn đã dạy ta đạo lí làm người để cho chúng ta được khôn lớn và thành công như ngày hôm nay.
II/ Nét đẹp trong văn hóa Tết Việt:
*Văn hóa
Người Việt Nam quan niệm rằng ngày Tết thì tất cả mọi thứ đều phải thật sớm và mới. Do đó trước ngày Tết
khoảng hơn 2 tuần, các gia đình đã sắm sửa cho ngày Tết. Họ thường quét dọn, trang trí nhà cửa, mua hoa,
sắm thức ăn... thật chu đáo cho ngày Tết. Ngoài ra, tất cả những vật dụng không cần thiết hoặc bị cho là đem
lại điềm gở cũng bị vứt bỏ.
- Cuối năm :
Công việc sửa soạn cho ngày Tết của người Việt thường bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, là ngày mà người
Việt cúng ông Táo,Táo Quân. Theo quan điểm của người Việt thì ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là
người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà con người đã làm trong năm cũ và báo cáo với Ngọc Hoàng
những vấn đề tốt xấu của gia chủ. Ông Táo được cúng vào trưa hoặc chiều ngày 23 tháng Chạp âm lịch hàng
năm. Lễ cúng gồm có hương (nhang), nến, hoa quả, vàng mã và hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà kèm theo ba
con cá chép (cá chép thật hoặc cá chép làm bằng giấy kèm theo cỗ mũ). Theo sự tích ông Táo, cá chép sẽ
đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp Ngọc Hoàng. Một số gia đình ở nông thôn vẫn còn gìn
giữ phong tục dựng cây nêu, trong khi ở thành phố, phong tục này đã bị lãng quên. Theo phong tục, cây nêu
được dựng lên để chống lại quỷ dữ và những điềm gở. Cây nêu thường được treo hoặc trang trí thêm những
thứ được coi là để dọa ma quỷ như: tỏi, xương rồng, hình nộm và lá dứa. Trước ngày Tết, người Việt cũng
11
chuẩn bị bánh chưng, bánh giầy còn ở miền nam thì loại bánh phổ biến là bánh tét và các món ăn thịnh soạn
để dâng lên ông bà tổ tiên.
Hình ảnh gói bánh chưng , bánh tét vào ngày Tết xưa
Tết nay, phong tục gói bánh chưng , bánh tét vẫn còn lưu giữ ở các gia đình nông thôn Việt Nam ngày nay .
12
Hình ảnh gói bánh chưng, bánh tét ở các gia đình Việt Nam ngày nay
Trong thời đại hiện giờ , các gia đình ở thành phố hay lựa chọn cách nhanh gọn hơn là ra các cửa
hàng chuyên bán bánh chưng , bánh tét hay siêu thị để mua.
Hình ảnh các cửa hàng bán bánh vào dịp Tết
Tất Niên
13
Một mâm cỗ cúng tất niên
Tất niên hay cúng Tất niên, Lễ tất niên, tiệc Tất niên là một nghi thức nhằm ghi nhận việc kết thúc một năm
và chuẩn bị bước sang năm mới. Tất niên có thể là một bữa tiệc Tất niên, liên hoan cuối năm để bước sang
năm mới (Tết Tây) và là một phần trong nghi thức Tết diễn ra vào những ngày cuối năm âm lịch, từ ngày 30
tháng Chạp (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu) được gọi là ngày Tất niên. Đây là ngày
các thành viên trong gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm buổi tất niên. Ngoài ra, tùy vào phong tục tập
quán ở mỗi vùng, việc cúng tất niên có thể được gia chủ mời thêm bạn bè và người thân đến dự.
Tất niên thường diễn ra vào buổi chiều và buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên sau đó dọn tiệc
mời khách đến dự. Tất niên là lúc mọi người quây quần bên nhau và bên những món thức ăn và cùng chào
đón năm mới, giao thừa là một phong tục tập quán lâu đời của người Việt Nam, nó mang nét đẹp văn hóa lâu
đời của người Việt Nam.
Đi chợ Tết, xin chữ về thờ
14
Đi chợ Tết ngày xưa chủ yếu là mua lá dong, mua thịt, mua hành để về gói bánh chưng. Ngoài ra, người ta
không quên qua cổng chợ xin thầy đồ mấy chữ về thờ vì ngày xưa đa phần không biết chữ nên mới có phong
tục thờ chữ trong nhà để mơ ước con cháu sau này được học hành, làm ăn phát đạt. Chữ được chọn để thờ
thường là chữ Tâm, Phúc, Đức… Phong tục thờ chữ ngày nay đang được phục hồi bằng thư pháp thể hiện
một dân tộc hiếu học trong lịch sử và hôm nay.
Hình ảnh chợ Tết
Xin chữ vào ngày Tết
Giao thừa
15
Giao thừa là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Trong thời khắc giao thừa mọi người trong
gia đình thường dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Dịp này, người ta thường bắn pháo hoa ở
những địa điểm rộng rãi, thoáng mát.
Cúng Giao thừa là lễ cúng để đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt
đẹp của năm mới sắp đến.
Hình ảnh bắn pháo hoa vào lúc Giao thừa
16
Ngày xưa , vào lúc gần thời khắc Giao thừa thì mỗi gia đình đều chuẩn bị pháo để làm cho thời khắc này
thêm vui .
- Cúng Giao thừa ngoài trời
Theo tục lệ cổ truyền thì Giao thừa được tổ chức nhằm đón các Thiên binh (chữ Hán ;天兵, tức 12 vị Hành
khiển). Lúc đó họ đi thị sát dưới hạ giới, rất vội không kịp vào tận bên trong nhà được, nên bàn cúng thường
được đặt ở ngoài cửa chính mỗi nhà. Hết một năm, vị Hành khiển (⾏遣) cũ đã cai quản Hạ giới trong năm
cũ sẽ bàn giao công việc cho vị Hành khiển mới đi xuống sẽ cai quản Hạ giới trong năm mới. Mỗi năm có
một vị, sau 12 năm thì các vị Hành khiển sẽ luân phiên trở lại. Mười hai vị Hành khiển và Phán quan (判官)
gồm:
1. Năm Tý: Chu Vương Hành Khiển, Thiên Ôn Hành Binh chi Thần, Lý Tào Phán quan.
2. Năm Sửu: Triệu Vương Hành Khiển, Tam thập lục phương Hành Binh chi Thần, Khúc Tào Phán
quan.
3. Năm Dần: Ngụy Vương Hành Khiển, Mộc Tinh chi Thần, Tiêu Tào Phán quan.
4. Năm Mão: Trịnh Vương Hành Khiển, Thạch Tinh chi Thần, Liêu Tào Phán quan.
5. Năm Thìn: Sở Vương Hành Khiển, Hỏa Tinh chi Thần, Biểu Tào Phán quan.
6. Năm Tỵ: Ngô Vương Hành Khiển, Thiên Hải chi Thần, Hứa Tào Phán quan.
7. Năm Ngọ: Tấn Vương Hành Khiển, Thiên Hao chi Thần, Nhân Tào Phán quan.
17
8. Năm Mùi: Tống Vương Hành Khiển, Ngũ Đạo chi Thần, Lâm Tào Phán quan.
9. Năm Thân:Tề Vương Hành Khiển, Ngũ Miếu chi Thần, Tống Tào Phán quan.
10. Năm Dậu: Lỗ Vương Hành Khiển, Ngũ Nhạc chi Thần, Cự Tào Phán quan.
11. Năm Tuất: Việt Vương Hành Khiển, Thiên Bá chi Thần, Thành Tào Phán quan.
12. Năm Hợi: Lưu Vương Hành Khiển, Ngũ Ôn chi Thần, Nguyễn Tào Phán quan.
Mâm lễ được sắp bày với lòng thành kính tiễn đưa người Nhà Trời đã cai quản mình năm cũ trở lại Thiên
đình và đón người mới xuống sẽ làm nhiệm vụ cai quản Hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công
việc hết sức khẩn trương nên các vị chỉ có thể ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng
thành của chủ nhà. Trên chiếc hương án có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến.
Lễ vật gồm các chiếc thủ lợn hoặc con gà , lợn , mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu hoặc nước và vàng mã.
Các quan mặc dầu phút bàn giao bận rộn khẩn trương nhưng vì là... người nhà trời nên có tài thấu hiểu ngay
"Ruột gan" của gia chủ. Nếu có ý cầu lợi, mua chuộc, đút lót, các vị chỉ nhìn dấu hiệu ở khói hương, lửa đèn
là biết ngay, và lập tức các vị dông thẳng, không thèm ngó ngàng gì đến vật cúng giao thừa của các nhà cầu
lợi ấy. Trái lại, những nhà chân chất, thật thà, sống bằng lao động, ăn ở tử tế thì có khi chỉ cần chén rượu,
nén hương (như Thổ công đánh tín hiệu qua hương đèn), các vị có chức trách biết ngay mà vui vẻ thưởng
thức, dốc lòng phù hộ.
Lễ trừ tịch còn là lễ để "khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên
còn mang tên là lễ giao thừa.
18
Hình ảnh cúng Giao thừa ngoài trời
Cúng Giao thừa trong nhà
Cúng Giao thừa trong nhà là lễ cúng tổ tiên vào chính thời khắc giao thừa vừa tới nhằm để cầu xin Tổ tiên
phù hộ độ trì cho gia đình gặp những điều tốt lành trong năm mới sắp đến. Mâm lễ bao gồm các món ăn mặn
ngày Tết được chế biến tinh khiết với phong cách trang nghiêm.
Bàn thờ tổ tiên chuẩn bị cho việc cúng giao thừa
Cỗ mặn gồm có bánh chưng, giò, chả, xôi gấc, thịt gà, xôi các loại, rượu, bia và các loại thức uống khác. Các
món ăn mặn khác tùy theo nhu cầu của gia đình. Cỗ ngọt và chay bao gồm Hương, hoa, đèn
nến, bánh kẹo, mứt tết.
19
Hình ảnh cổ mặn cúng giao thừa
Khi cúng Giao thừa trong nhà, các thành viên trong gia đình thường đứng trang nghiêm trước bàn thờ
(không cần tất cả, chỉ cần gia chủ và vài ba người nữa) để khấn tổ tiên và xin được các cụ phù hộ độ trì trong
nhà mới và cầu an khang thịnh vượng, sức khỏe tốt. Trước khi khấn Tổ tiên để mời tiền nhân về ăn Tết cùng
với con cháu hậu thế, các gia chủ thường khấn thần Thổ Công để xin phép cho tổ tiên về ăn Tết. Ông là vị
thần cai quản trong nhà (thường bàn thờ tổ tiên ở giữa, bàn thờ Thổ Công ở bên trái)
* Các hoạt động trong bảy ngày đầu năm
Ba ngày Tân niên
"Ngày mồng Một tháng Giêng" là ngày Tân niên đầu tiên và được coi là ngày quan trọng nhất trong toàn bộ
dịp Tết. Không kể những người tốt số, hợp tuổi được mời đi xông đất, vào sáng sớm ngày này, người Việt cổ
thường không ra khỏi nhà, chỉ bày cỗ cúng Tân niên, ăn tiệc và chúc tụng nhau trong nội bộ gia đình. Đối
với những gia đình đã tách khỏi cha mẹ và cha mẹ vẫn còn sống, họ đến chúc tết các ông bố theo tục:Mồng
Một Tết cha.
Ngày đầu năm mọi người đi viếng mộ ông bà tổ tiên
"Ngày mồng Hai tháng Giêng" là ngày có những hoạt động cúng lễ tại gia vào sáng sớm. Sau đó, người ta
chúc tết các bà mẹ theo tục Mồng Hai Tết mẹ. Riêng đàn ông chuẩn bị lập gia đình còn phải đến nhà cha mẹ
vợ tương lai (nhạc gia) để chúc Tết theo tục Đi sêu.
20
"Ngày mồng Ba tháng Giêng" là ngày sau khi cúng cơm tại gia theo lệ cúng ít nhất đủ ba ngày Tết, các học
trò thường đến chúc Tết thầy dạy học theo tục Mồng Ba Tết thầy. Trong những ngày này người ta thường đi
thăm viếng, hỏi thăm nhau những điều đã làm trong năm cũ và những điều sẽ làm trong năm mới.
Xông đất
Xông đất (hay đạp đất, mở hàng) là tục lệ đã có lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người quan niệm ngày Mồng
Một "khai trương" một năm mới. Họ cho rằng vào ngày này, nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, may mắn, cả năm
cũng sẽ được tốt lành, thuận lợi. Ngay sau thời khắc giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với
lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm
cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối năm, mọi người cố ý tìm xem những người trong bà con hay
láng giềng có tính vui vẻ, linh hoạt, đạo đức và thành công để nhờ sang thăm. Người đến xông đất thường
chỉ đến thăm, chúc tết chừng 5 đến 10 phút chứ không ở lại lâu, cầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà
cũng được trôi chảy thông suốt.
Cách chọn tuổi xông đất:
1. Tuổi Giáp hạp với Kỷ mà kỵ với Canh – Mậu.
21
2. Tuổi Ất hạp với Canh mà kỵ với Tân – Kỷ.
3. Tuổi Bính hạp với Tân mà kỵ với Nhâm – Canh.
4. Tuổi Đinh hạp với Nhâm mà kỵ với Quý – Tân.
5. Tuổi Mậu hạp với Quý mà kỵ với Giáp – Nhâm.
6. Tuổi Kỷ hạp với Giáp mà kỵ với Ất – Quý.
7. Tuổi Canh hạp với Ất mà kỵ với Bính – Giáp.
8. Tuổi Tân hạp với Bính mà kỵ với Đinh – Ất.
9. Tuổi Nhâm hạp với Đinh mà kỵ với Mậu – Bính.
10. Tuổi Quý hạp với Mậu mà kỵ với Kỷ – Đinh.
Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước, người được xông đất cũng sung sướng vì tin
tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới. Thời xưa, chỉ có hai cách chọn người tốt vía xông đất
ngày đầu năm. Kẻ làm quan, người có học chọn người xông đất có tuổi hợp tuổi với chủ nhà.
Xuất hành và hái lộc
Xuất hành là lần đi ra khỏi nhà đầu tiên trong năm, thường được thực hiện vào ngày tốt đầu tiên của năm
mới để đi tìm may mắn cho bản thân và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày Hoàng đạo,
giờ Hoàng đạo và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần…
Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc, người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi và có thể đoán được
năm mới hên hay xui chẳng hạn:
Gió Nam: chỉ đại hạn;
Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc;
Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả;
Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải;
22
Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu;
Gió Đông: chỉ có lụt lớn .
* Phong tục ngày Tết
1.Phong tục thất truyền
Sêu Tết: Ngày xưa các cặp trai gái đang trong thời kỳ hứa hôn, trước Tết người con rể tương lai phải
mang lễ đến biếu bố mẹ vợ
Trồng và hạ nêu: Trên cây treo một số vật tượng trưng gọi là bùa nêu để trừ tà quỷ.[43]
Hát sắc bùa: Sau giao thừa, trẻ em nhà nghèo tụ thành từng nhóm, đến cửa các nhà vừa hát vừa gõ
trống. Chủ nhà bao giờ cũng mở cửa ra phát tiền mừng tuổi cho các em để hai bên cùng gặp hên
Gánh nước: Ngay sau Giao thừa hoặc sáng mồng Một, người nhà mang thùng ra sông hoặc ra giếng
làng gánh nước về đổ đầy chum vại, với hy vọng sang năm mới "của cải như nước non".
Chúc Tết theo thứ tự: Chúc theo thứ tự Mồng một nhà trai, mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy.
Ngày nay tùy theo thời tiết, đường sá, tiện bên nào thì đến bên đó trước.
Lạy sống ông bà: Con cháu đến chúc Tết việc đầu tiên là phải vào quỳ lạy sống các cố và ông bà.
2.Phong tục đại chúng
Người dân đi xem Đường Sách Tết tại Sài Gòn
Chợ hoa Tết
Mua và xin câu đối trước Tết: Nhiều người ta mua một câu đối hay hoặc một vài chữ Nho, chữ Hán-
Nôm, thư pháp chữ Việt mang ý nghĩa cầu an, cầu tài lộc cho năm mới.
Mâm ngũ quả và bàn thờ gia tiên: Được bày biện cầu kỳ đầy đủ vật lễ. Người nội trợ có ý thức mua
đủ 5 loại quả và trình bày sao cho đẹp mắt và có ý thể hiện vẻ sung túc của gia đình.
23
Xông nhà: Người ta nhờ người hợp tuổi, hợp mệnh đến xông nhà, cầu mong sang năm lấy được vía
tốt của người xông nhà.
Chọn hướng xuất hành: Sau giao thừa, có người xuất hành đi du xuân luôn. Họ chọn một hướng
tương hợp tương sinh với mình với con giáp của năm để xuất hành cầu tài đón lộc.
Mừng tuổi: Chúc mừng tuổi người lớn (ông bà, cha mẹ, họ hàng) và lì xì cho trẻ nhỏ.
Lễ chùa: Có người cả năm không đi lễ, nhưng đến Tết nhất thiết phải qua chùa thắp nén hương, dâng
tiền giọt dầu hoặc tiền công đức cho chùa. Vào ngày đầu năm, tại chốn linh thiêng, người ta tin rằng điều
cầu khấn của mình có nhiều khả năng thành hiện thực.
Mua muối: Đầu năm mọi nhà đều mua muối để cầu may mắn đến . Vẫn có câu là Đầu năm mua
muối, cuối năm mua vôi.
Khai ấn và Khai bút: Đầu Xuân, nhằm vào ngày tốt, giờ tốt, người có chức tước khai ấn (đóng con
dấu lần đầu tiên trong năm); học trò, sĩ phu khai bút (viết bài hoặc một đoạn văn, một câu thơ... đầu tiên
trong năm); nhà nông khai canh, (cày ruộng, làm đất, trồng, cấy lần đầu tiên trong năm); người buôn bán
thì "khai thương", (mở hàng lần đầu tiên trong năm)... Sau ngày mùng Một, dù có mải vui cũng chọn
ngày đểkhai nghề, làm lấy ngày. Nếu như mùng Một tốt thì chiều mùng Một bắt đầu. Riêng khai bút thì
Giao thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo không kể mùng Một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu
chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình một sản phẩm, một dụng cụ gì đó. Người buôn
bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người
ta thường chợ Tết cùng với du xuân (đi chơi Tết).
Đi lễ chùa và xin xăm (miền Bắc gọi là xin thẻ): Không ai biết chắc chắn phong tục này có từ bao giờ
và tại sao nhưng trong những ngày đầu năm âm lịch thì rất nhiều người thích đi lễ ở các lăng tẩm, đền
chùa để cúng bái và xin xăm nhất là vào buổi sáng mồng một, phong tục này thường được tiến hành
chung với tục lệ chọn hướng xuất hành và hái lộc. Xin xăm là một hình thức tin vào các thẻ xăm có ghi
lời sấm báo trước điềm lành hay dữ trong năm và thường cần có thầy bàn xăm. Ở miễn Bắc có tục "bốc
quẻ thẻ" giống như tục "xin xăm" ở phía Nam. Người xin thẻ dâng một lễ mọn rồi chọn lấy một quẻ thẻ
bằng tre viết chữ Hán. Trên quẻ thẻ thường ghi một câu văn ngắn gọn rút từ điển tích Trung Hoa cổ. Căn
cứ câu văn ấy, người xin thẻ có thể luận ra "tiền định" cuộc đời mình trong năm đó. Nếu không thông
thạo Hán Văn, có thể thuê thầy đồ luận giải giúp. Ngày nay, người ta thường bỏ thẻ tre và thay vào đó
bằng những tờ bướm in chữ quốc ngữ với lời giải được soạn sẵn.
3.Sinh hoạt ngày tết
Áo quần mới: Ngày xưa, trước Tết một thời gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay
tơ, dệt vải, may áo quần mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm. Đến sáng
mùng Một Tết, cả nhà dậy sớm, thay quần áo mới để làm lễ gia tiên. Người ta cho rằng cần phải rũ bỏ
những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một năm mới với nhiều hi vọng và niềm vui
mới từ bộ quần áo mới đó.
Dọn dẹp nhà cửa trước Tết: Do tục kiêng cữ quét nhà trong ngày Tết.Theo quan niệm dân gian, việc
quét nhà trong ngày Tết sẽ quét đi theo cả lộc xuân (xác pháo đốt trong đêm giao thừa), người quét nhà
sẽ bị "rông" cả năm; (rông: được hiểu như sự xui xẻo).
24
Trả nợ cũ: Đối với nhiều người Việt, dịp tất niên là dịp trả nợ cũ, xóa bỏ xích mích của năm cũ, để
hướng tới năm mới vui vẻ hòa thuận hơn.
Trò chơi dân gian: bịt mắt bắt dê, múa võ, hát bội, hát cải lương, hát chèo, đánh đu, thi leo cột mỡ,
đập niêu, chọi gà; bài chòi; chơi tổ tôm điếm; chơi cờ người và nhiều trò dân gian cổ truyền khác.
Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè
nhưng trong dịp Tết thì tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, chắn, tổ tôm, lắc bầu cua,... ai thích trò nào chơi trò
ấy. Đến lễ khai hạ (hạ nêu) thì xé bộ tam cúc, cất bộ tổ tôm...hoặc đốt các bộ bài trong lễ hóa vàng.
Treo quốc kỳ: Những năm sau ngày thống nhất đất nước, tại Việt Nam, ngày tết cũng như các ngày lễ
trong năm, chính phủ đều khuyến khích treo quốc kỳ. Các công sở, công ty, trường học, nơi sinh hoạt
công cộng thường treo quốc kỳ kèm bích chương "Chúc mừng năm mới" và các loại cờ ngũ sắc.
Cúng đưa và Hạ nêu: Trong những ngày Tết, người Việt quan niệm rằng có sự hiện diện của Ông Bà
tổ tiên nên bàn thờ luôn được thắp hương và cúng cơm mỗi ngày. Thường thì chiều mồng Bốn hay mồng
Năm cúng tiễn đưa Ông Bà, chiều mồng Bảy cúng hạ nêu.
Đốt pháo thường hay có trong dịp cúng tất niên hay thời khắc giao thừa ngày Tết cổ truyền. Từ
năm 1994, nhà nước Việt Nam đã cấm đốt pháo, buôn bán và nhập khẩu pháo bằng Chỉ thị số 406/CT-
TTg ngày 8 tháng 8 [47] vì tính chất nguy hiểm dễ gây sát thương của nó. Thay vào đó, chính quyền tổ
chức các đêm bắn pháo hoa cho người dân thưởng thức.
4.Lễ hội Tết
Trái dưa hấu khổng lồ tạiĐường hoa Nguyễn Huệ2009
Các lễ hội truyền thống khác như thi đấu cờ người; đua thuyền, đấu vật, đánh còn, múa lân, múa rồng, thi thả
chim bồ câu... tùy theo bản sắc văn hóa của mình, mỗi địa phương đều tổ chức lễ hội ngày tết với những
phần "lễ" và phần "hội" chứa đựng những nét văn hóa khác nhau rất phong phú.
Từ năm 2004, tại Thành phố Hồ Chí Minh có Đường hoa Nguyễn Huệ và Đường sách Tết tại phường Bến
Nghé, Quận 1 và Hội hoa Xuân thường niên tại công viên Tao Đànvà từ năm 2009, tại Hà Nội có Lễ hội phố
hoa Hà Nội tại phường Tràng Tiềnvà Lý Thái Tổ thuộc quận Hoàn Kiếm để trang hoàng hoa cho khách
thưởng ngoạn, tuy không tổ chức hàng năm và phố Ông đồ ở Văn Miếu. Từ năm 2007, tại phường 7thuộc
địa phận thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang có Đường hoa Hùng Vương tổ chức hàng năm.Ngoài ra còn
Đường hoa Bạch Đằng tại Đà Nẵng, Đường hoa Trấn Biên tạiBiên Hòa, Đường hoa Bạch Đằng tại Bình
25
Dương, Đường hoa 16/4 tại Ninh Thuận, Đường hoa Phú Mỹ Hưng tại Khu đô thị Phú Mỹ Hưng, Thành phố
Hồ Chí Minh
Ngoài hội Tết, nhiều địa phương còn tổ chức các lễ hội mùa Xuân đặc biệt, chẳng hạn như:
Tại Hà Nội, vào ngày mùng 5 Tết, lễ hội Quang Trung được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc địa phận
phường Quang Trung, quận Đống Đa. và lễ hội Cổ Loa tại xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Anh, lễ hội chùa
Hương tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức ngày mùng 4.
Các nơi khác có Chợ Âm Dương mùng 4 ở phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh và Chợ
Viềng mùng 7 tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản và tại thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực thuộc tỉnh Nam
Định, Hội xuân Núi Yên Tửở xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh.
Tại làng cổ Vân Luông thuộc phường Vân Phú nằm ở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ có hội ném đá, gọi là
Ném Chài vào ngày 3 tháng giêng. Từ năm 1946 hội Ném Chài thôi tổ chức vì nguy hiểm tính mạng. Năm
2004 lễ hội được phục hồi nhưng thay ném đá bằng túi vải đựng cát.
Tại xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ Chuộng tổ chức vào mùng 6 tết, người
dân đến mua bán một số sản vật nông nghiệp để lấy may, còn thanh niên thì đánh nhau để cầu may.
*Tín ngưỡng ngày tết
1.Điềm lành:
Hoa mai: sau Giao thừa, nếu hoa mai (loại 5 cánh) nở thêm nhiều và đầy đặn thì đó là một điềm may. Và may mắn hơn nữa khi có một hoặc vài bông hoa 6 cánh.
Chó lạ vào nhà: Tục ngữ Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang.
Cây đào: Nếu có nhiều cánh kép (hoa kép) 3 lớp (hàng) trên đài hoa và có hình dáng như bông hồng
thì sẽ có nhiều phúc lộc.
Cây quất: Nếu cây có nhiều chồi xanh mọc thì năm đó sẽ có nhiều lộc. Nếu có đủ Tứ quý: Quả chín,
quả xanh, hoa và lộc thì sẽ may mắn và thành đạt cả năm.
26
Cây quất đặt trong phòng khách.
Cửa hàng bán dây lục lạc treo trang trí ngày Tết
2.Kiêng kỵ
Theo quan niệm trong ngày đầu năm (Nguyên Đán) mà có nhiều điều tốt đẹp thì cả năm đó chắc chắn sẽ có nhiều điều tốt đẹp đến cho mọi người, có sự giống và khác nhau giữa các miền với niềm tin chính để giữ điều lành trong năm mới. Điển hình, người Việt có một số kiêng kỵ như sau:
Miền Bắc
Kỵ mai táng: Ngày Tết Nguyên Đán là ngày vui của toàn dân tộc, ngày mở đầu cho vận hội hanh thông của
cả một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng. Gia đình phải tạm gác mối sầu riêng để hoà chung với niềm vui toàn
dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết. Nhà có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà
con, xóm giềng, ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh.Trường hợp gia
đình có người chết vào ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong
ngày đó, đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng Một đầu năm. Trường hợp chết đúng ngày mùng Một
Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng Hai làm lễ phát tang.
Ngày mùng Một Tết người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình, vì quan niệm lửa là đỏ là may
mắn. Cho người khác cái đỏ trong ngày mùng Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều không
may như làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai bay vạ gió...
Kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc trong câu chúctiền vô như nước, nếu cho
nước thì coi như mất lộc.
27
Trong ngày này, người ta kiêng quét nhà vì theo một điển tích của Trung Quốc, nếu quét nhà thì năm
đó gia cảnh sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Khi hốt rác trong nhà đổ đi thì thần Tài sẽ đi mất.
Ngày đầu năm cũng như ngày đầu tháng, người ta rất kiêng kỵ việc vay mượn hay trả nợ, cho vay.
Người xưa quan niệm không nên vay tiền hoặc đồ đạc vào những ngày đầu năm mới, điều đó có thể làm
chúng ta rơi vào cảnh túng thiếu cả năm, không may mắn.
Trong ăn uống, người ta kiêng ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt... Nếu ăn những thứ này vào dịp đầu năm
hay đầu tháng sẽ "xúi quẩy".
Ngoài ra, người già cũng khuyên con cháu trong ngày này không được đánh vỡ bát đĩa, ấm chén, cãi
nhau, chửi nhau, kiêng những điều không vui xảy ra với gia đình.
Người ta thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết.
Kiêng mặc quần áo màu trắng và đen: Theo quan niệm của người xưa, màu trắng và đen là màu của
tang lễ, chết chóc, vì vậy những ngày đầu năm thì phải mặc trang phục với những màu sắc sặc sỡ và thu
hút sự chú ý, tạo nên sự phấn khởi và vui vẻ để đón chào năm mới, như: màu hồng, đỏ, vàng, xanh...
Kiêng nói to, cãi nhau, nói xấu hay mắng người khác.
Kiêng đi chúc Tết vào sáng Mồng Một Tết nếu không được gia chủ mời vì sợ sẽ mang đến điều
không tốt đẹp cho chủ nhà trong năm mới. Theo phong tục xông đất, người đầu tiên bước vào nhà ai
trong ngày mùng một Tết chính là người quyết định đem lại sự may mắn hoặc xui xẻo cho gia đình ấy
trong cả năm.
Ngày mồng 5 tháng giêng Âm lịch là ngày nguyệt kỵ, người Việt thường tin rằng ngày này không
thích hợp cho xuất hành
Miền Trung
Kiêng ăn các món chế biến từ tôm vì sợ năm mới đi giật lùi như tôm.
Kiêng ăn trứng vịt lộn, thịt vịt bởi đầu năm mà ăn món này thì sẽ xúi quẩy.
Một số vùng kiêng mặc đồ trắng suốt tháng Giêng vì đó là biểu tượng của tang tóc.
Miền Nam
Kiêng để cối xay gạo trống vào ngày đầu năm vì đó là tượng trưng cho việc thất bát, mất mùa năm
tới. Người ta thường đổ một ít lúa vào cối xay, ngụ ý cầu mong năm mới lúa gạo đầy tràn.
Cũng như trên, kiêng kỵ để thùng gạo, hủ đường muối,... thiếu hụt vì sợ cả năm đều bị thiếu thốn.
Gia chủ hễ có khách đến là dọn cỗ, mời uống rượu, ăn bánh. Khách không được từ chối bữa ăn, dù
no cũng phải nhấm nháp chút ít.
Kiêng các việc làm đổ bể hư hỏng, hoặc tranh cãi to tiếng lẫn nhau.
Thường kiêng khóc lóc, buồn tủi hoặc nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa trong dịp Tết.
Kiêng cử quét nhà ngày đầu năm vì quan niệm quét tiền tài tốt đẹp ra ngoài. Ngoài ra người dân sẽ
tắm gội cơ thể trước ngày đầu năm để tránh phải gột rửa may mắn trong năm mới.
* Trò chơi dân gian:
28
Từ nhiều thế kỷ,Tết cổ truyền của người Việt luôn thời điểm nở rộ của những trò chơi dân gian vô cùng
phong phú,mang bản sắc riêng của từng địa phương
Những trò chơi này bên cạnh việc thể hiện sâu sắc nét đặc trưng trong văn hóa tín ngưỡng ở mỗi nơi, còn
giúp người chơi rèn luyện sức khỏe, sự dẻo dai trong đời sống sinh hoạt.
Không những thế, bầu không khí sôi động, rạo rực tinh thần đua tranh ở mỗi trò chơi hẳn sẽ đem đến cho
người tham dự sự phấn khích, tiếng cười.So với những dịp lễ hội,trò chơi ngày Tết có phần đặc biệt hơn.Vào
dịp Tết Nguyên Đán ở cả ba miền trước đây ,thường phổ biến một số trò chơi trong ngày Tết của người
Việt,đó là những trò chơi dân gian đã được hình thành từ lâu đời ở các làng quê Việt Nam,nhưng nay đã có
một phần bị mai một.
Chúng ta hãy cùng điểm lại một vài trò chơi dân gian thú vị trong ngày Tết :
1)Chơi đáo :
Là trò chơi rất phổ biến ở khắp các vùng quê xưa. Thú vui đánh đáo không chỉ hấp dẫn trẻ em mà cả đối
với người lớn bởi nó thể hiện sự khéo léo của người chơi và lại còn có tâm lý ăn thua kích thích dù chỉ là rất
ít.
Ngày Tết, trẻ em được người lớn mừng tuổi một ít tiền và cũng được phép tiêu tiền nên dùng nó vào các trò
chơi như đánh đáo rất hấp dẫn.
Trò chơi rất đơn giản trên một bãi đất bằng phẳng. Tùy theo quy định của người chơi mà khoét lỗ. Dễ thì
khoét lỗ to, khó thì khoét lỗ nhỏ. Ngoài lỗ đáo là vạch quy định để từ đó người chơi đứng ném tiền xu về
phía lỗ đáo. Vạch này xa hay gần lỗ đáo cũng do những người chơi tự quy định, càng xa thì càng khó. Đồng
xu nào trúng vào lỗ thì người ấy được ăn. Cứ như vậy, lần lượt tới người tiếp theo, đến khi nào không còn xu
nữa thì hết ván...
2)Bắt vịt dưới ao:
29
Vào những năm Tết ấm trời, một số vùng quê tổ chức bắt vịt dưới ao. Người ta chọn một khoảng ao sâu,
bờ cao hoặc dùng lưới hay que tre quây xung quanh. Người chơi từ 2 đến 4 người tùy theo diện tích của ao
rộng hay hẹp. Người ta thả xuống ao 2 con vịt to khỏe và lần luợt 2 hoặc 4 người đăng ký xuống bắt. Trò
chơi này người chơi không bị bịt mắt nhưng đòi hỏi nhanh nhẹn và bơi giỏi.
Đây là trò chơi phổ biến khắp các tỉnh thành trong cả nước, nhưng phổ biến nhất là các tỉnh thành phía Bắc.
Nó gây không khí náo nhiệt,rộn ràng , tạo hấp dẫn cho cả người chơi và người xem.
3)Bịt mắt bắt dê:
Đây là một trò chơi dân gian khá phổ biến. Trò chơi bịt mắt bắt dê diễn ra trên một sân cỏ, người chơi vây
xung quanh để tạo ra một vòng tròn. Những người chơi sẽ đăng ký và chia thành các cặp cùng chơi. Khi có
hiệu lệnh, mỗi cặp lần lượt vào sân chơi. Người chơi sẽ bị bịt kín mắt bằng chiếc khăn. Một trong 2 người
làm dê, người kia bắt. Người làm dê trong quá trình chạy trốn thỉnh thoảng phải gây ra tiếng động để người
bắt biết mà đuổi .
30
Tuy nhiên, biến thể của trò chơi này cũng có chút thay đổi ở nhiều vùng. Trò chơi không chỉ chơi có hai
người mà nhiều người cũng có thể tham gia trò chơi đuổi bắt này.
31
Mọi người chạy xung quanh người bị bịt mắt đến khi nào người đó hô “bắt đầu” hoặc “đứng lại” thì tất cả
mọi người phải đứng lại, không được di chuyển nữa. Lúc này người bị bịt mắt bắt đầu lần đi xung quanh để
bắt ai đó.
Mọi người thì cố tránh để không bị bắt và tạo ra nhiều tiếng động để đánh lạc hướng. Đến khi ai đó bị bắt và
người bị bịt mắt đoán đúng tên thì người đó sẽ phải ra “bắt dê”, nếu đoán sai lại bị bịt mắt lại và làm tiếp.
4)Chơi đu :
Từ trong Tết, nhiều người đã chuẩn bị, dựng lên những cột đu tại một thửa đất rộng rãi, khô ráo. Họ chọn
cây tre to và dài để trồng đu. Một cây đu có thể được trồng bởi 4-6 cây tre to.
32
Cần đu là những cây tre dài nhưng thon nhỏ, thường là tre đực để lúc người đu nắm vào cho gọn và chắc,
tránh xảy ra trượt hay tuột tay lúc đu nhanh, mạnh.
Tùy theo sở thích mà người ta đu một hay đu đôi. Khi một người lên cần đu có thể nhờ một người khác đẩy
cho mình có đà. Sau đó là tự người đu nhún tùy ý. Đẹp nhất là đu đôi, các đôi trai gái ưng ý lựa chọn nhau
lên đu, người nhún người đẩy.Tài năng và lòng dũng cảm của các chàng trai cô gái được phô bày ở đây như
dịp tự thể hiện bản thân. Hồ Xuân Hương đã miêu tả trò chơi đu rằng :
“Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Đôi hàng chân ngọc duỗi song song “
5)Đấu vật :
Đấu vật là một trò chơi thượng võ, cũng là một môn thể thao rất nổi tiếng vào các dịp Tết, dịp Hội. ở Việt
Nam ngoài đấu vật ngày Tết còn có nhiều hội vật Làng Sình, Liễu Đôi, Hà Nam, Mai Động... Xưa ở vùng
Bắc Ninh, Phú Thọ có những lò vật và những đô vật nổi tiếng cả một vùng. Để khuyến khích tài năng cũng
như sự rèn luyện của trai tráng, nhiều làng xã đã treo giải vật rất cao trong 3 ngày tết. Tục xưa người ta trao
giải bằng tiền, bằng mâm đồng, nồi đồng hay một số thứ khác.
Quy định chung của cuộc đấu là người chiến thắng phải vật cho đối phương thua trắng bụng (ngã ngửa ra
đất) hay nhấc bổng được đối phương lên. Trong môn vật này không chỉ đòi hỏi sức khỏe mà sự mưu trí và
nhanh nhẹn đóng góp phần đáng kể. Về kỹ thuật cũng có những "miếng" riêng của nó như đệm, bốc, ghì...
mà tùy theo từng hoàn cảnh và điều kiện đô vật phải biết lợi dụng triệt để các thời cơ quật ngã hay bê bổng
đối phương.
33
6)Kéo co :
Là một trò chơi thu hút được rất nhiều người cùng tham gia, vừa có tác dụng rèn luyện sức khỏe, lại vừa
vui vẻ, thoải mái. Nó đã trở thành trò chơi tập thể, phong tục phổ biến ở nhiều nơi trong nước ta. Cách chơi
đơn giản, số người chơi bao nhiêu tùy ý, chia làm 2 phe bằng nhau, làm mốc đánh dấu vạch vôi để bên nào
kéo được đối phương sang qua vạch mốc bên kia là bên đó thắng.
34
Đây là một trò chơi tập thể,đòi hỏi người chơi phải có sức mạnh, sức dẻo dai,và quan trọng hơn cả đó chính
là sự đoàn kết giữa những người trong cùng một đội chơi.
7) Chơi cờ tướng - cờ người :
Đây là thú chơi tao nhã, trí tuệ nhân những lúc trà dư tửu hậu. Các cụ thường gặp nhau bên chén trà và
mở bàn cờ tướng ra giải trí. 32 quân cờ chia thành 2 phe (16 quân đỏ và 16 quân đen), bày xong là cuộc đấu
trí bắt đầu.
Cờ người cũng là cờ tướng mà quân cờ là người thật, cũng chơi trên sân bãi, 16 nam áo đỏ, 16 nữ mặc áo
đen đeo biển (tên quân cờ) trước ngực, đứng vào vị trí. Hai tướng (Tướng Ông, Tướng Bà) mặc đẹp (như cờ
tướng) có 2 cờ đuôi nheo cắm chéo sau lưng, được che lọng. Gặp buổi trời nắng, thì mỗi quân cờ được một
người che ô, đứng bên và đi theo mỗi lần quân chuyển. Hai đối thủ ngồi phía sau. Có người chạy cờ, lo việc
chuyển quân theo ý định của người chơi.
Mỗi lần đi một nước, đấu thủ (có tiếng trống khẩu) gõ một tiếng. Người chạy cờ tới nghe lệnh và chuyển
quân trên bãi. Nguyên tắc đi quân là mã nhật, tượng điền, xe liền, pháo cách. Vào cuộc chơi phải bình tĩnh,
thận trọng, chủ động không bị phân tán bởi những người xem mách nước. Đi một nước phải tính trước 2, 3
nước tiếp theo để khỏi bị bất ngờ trước đối thủ của mình. Cờ tướng, cờ bỏi cờ người thường thấy trong các
ngày hội, ngày Tết, mừng xuân mới.
35
8)Bắt trạch trong chum :
Với trò chơi bắt trạch trong chum, người ta đặt sẵn 5-7 chiếc chum thành một hàng ở sân đình, mỗi chum
được đổ 2/3 nước và thả vào đó một con trạch.
Khi trò chơi bắt đầu, từng đôi trai đến bên mỗi chiếc chum, mỗi người phải đưa một tay ra ôm nhau, còn tay
kia thò vào chum bắt trạch. Cứ như vậy, cả hai choàng tay cho đến khi bắt được trạch. Trạch trơn nên luôn
luôn chạy thoát, thành ra đôi trai gái chỉ bắt được tay nhau.
Dân làng đứng xung quanh reo hò cổ vũ và trêu đùa các đôi, nhắc nhở đôi nào mải bắt trạch mà quên ôm
nhau. Tiếng cười nói, tiếng chiêng trống náo động. Khi bắt được trạch, cả hai cùng giơ cao tay lên để mọi
người xem đồng thời tiến lên lĩnh thưởng.
9)Đánh phếch :
Đánh phết là trò thi đấu chơi vào ngày hội xuân ở đồng bằng Bắc Bộ. Sân chơi là sân đình, hai đầu sân
(theo hướng đông - tây) có vòng tròn vạch vôi hay đào lỗ làm mục tiêu. Người đánh phết chia làm hai phe
dùng gậy tre để cả gốc dài 1m đánh vào quả phết (làm bằng gỗ tròn sơn đỏ, tượng trưng cho Mặt Trời), hễ
quả chuyển vào vòng tròn (hay lỗ) của đối phương là thắng cuộc.
36
Có người cho rằng trò đánh phết có nguồn gốc từ tục thờ Mặt Trời (quả phết chuyển động từ đông
sang tây và ngược lại). Dân gian còn gắn trò chơi này với sự tích Hai Bà Trưng luyện tập binh sĩ. Các cuộc
thi đấu phết đều thu hút đông đảo người xem, mọi người cùng hò reo khích lệ trong không khí ồn ào sôi
động. Cũng bởi vậy mà có câu khẩu ngữ “Vui ra phết”.
10)Đập niêu đất :
Đập niêu đất cũng là trò chơi dân gian khá phổ biến ở nhiều làng quê miền Bắc. Trò chơi thường diễn ra ở
sân đình hay trên sân rộng. Trước khi chơi, người ta trồng ở giữa sân hai chiếc cột cách nhau 5m, buộc dây
thừng nối 2 thân cột làm giá treo niêu. Một vạch mốc cách giá treo niêu khoảng 3 đến 5m được kẻ làm điểm
xuất phát.
37
Một vạch mốc cách giá treo niêu khoảng 3 - 5m sẽ được kẻ để làm vạch xuất phát. Trước khi chơi, trọng tài
sẽ trao cho người chơi một chiếc gậy dài khoảng 50cm.
Người tham gia chơi sẽ đứng dưới vạch mốc và bị bịt mắt nên họ phải định hình hướng đi và ước lượng
khoảng cách treo niêu để đập cho trúng một trong những chiếc niêu đang treo trên dây. Người đập trúng niêu
sẽ có được phần thưởng ghi trong mảnh giấy nhỏ trong chiếc niêu bị đập vỡ…
11)Đi cầu kiều :
Đi cầu kiều là một trò chơi rất đơn giản mà không kém phần thú vị. Người ta lựa chọn một bờ đất cao
trên một hố đất rộng, bắc một đoạn tre làm cầu. Đoạn tre ấy một đầu nằm ghếch trên bờ đất, đầu kia buộc
vào sợi thừng hay chão, dây buộc vào chiếc cột chôn vững chắc. Làm sao để chiếc cầu đung đưa khó đi.
Giải thưởng được treo trên cột, đến lượt ai, người đó leo cầu lấy thưởng. Có người mới leo được vài bước
thì đã ngã. Có người ra tới mút đầu cầu lấy được thăng bằng nhưng khi với tay lấy giải thưởng thì loạng
choạng lăn tùm xuống ao. Cuộc chơi càng hấp dẫn và kích thích sự hiếu thắng của mọi người.
38
12)Đi cà kheo :
Đi cà kheo là một trò chơi đòi hỏi người chơi phải lấy được thế cân bằng, có bước đi chính xác, sức khoẻ
tốt kết hợp nhịp nhàng cả chân lẫn tay. Để làm chủ được đôi cà kheo đòi hỏi một khoảng thời gian tập luyện,
dài hay ngắn trùy theo sự khéo léo của mỗi người.
39
Các cuộc thi cà kheo tại các vùng quê vào dịp Tết thường tạo được tiếng cười sảng khoái cho người theo dõi
bởi sự hấp dẫn, bất ngờ của trò chơi. Sau khi chọn được người thắng cuộc, đội cà kheo cùng các cổ động
viên của làng sẽ sang làng khác để thi tiếp.
13)Chọi gà:
Chọi gà là một thú chơi góp mặt ở hầu hết các ngày lễ Tết và hội họp. Thú chơi này vừa có tính tiêu khiển
lại vừa khuyến khích việc chăn nuôi của người làm nông xưa.
Trò chơi chọi gà đòi hỏi một sự kỳ công lớn của người nuôi từ việc chọn gà giống như lựa dáng vẻ chân,
mỏ, đầu... đến việc chăm sóc, tập luyện cho chú gà quen dần với trận đấu chiến.
Khi vào cuộc, hai chú gà sẽ lao vào nhau để mổ, nhảy lên đá móc vào nách, cổ họng, ức đối phương hay
ghì nhau, đè cánh... Những cú mổ vào hốc mắt, cổ dẫn đến chảy máu hay cú đá móc đẹp... sẽ khiến người
xem xung quanh bàn luận, tranh cãi.
40
Tuy nhiên, chọi gà đang ngày một biến tướng đi thành các cuộc cá cược, đua tranh, ăn thua bằng tiền, làm
mất đi vẻ đẹp ý nghĩa nuôi dưỡng tinh thần thượng võ, chất keo gắn kết tinh thần cộng đồng vốn có của một
trò chơi dân gian.
III/ Trang phục ngày tết:
Vào dịp cuối năm, ngoài việc chuẩn bị các món ăn ngon, trang trí nhà cửa cho gia đình để tận hưởng những ngày nghỉ thoải mái vui vẻ chúng ta còn có nhiệm vụ quan trọng hơn đó là chuẩn bị những bộ đồ đẹp nhất, mới và lịch sự nhất cho cả gia đình, việc mặc đẹp là sự biểu hiện của trạng thái tinh thần phẩn khởi đón chào năm mới. Đó cũng là nghi thức truyền thống mà mọi người Việt thời xưa và thời nay đã và đang thực hiện rất tốt. Vậy người Việt thời xưa và thời nay đã có những thay đổi gì trong các phục sức vào những dịp lễ hội truyền thống, hay các dịp lễ hội đặc biệt khác. Thời đại nào cũng có kẻ giàu người nghèo, sự phân biệt đẳng cấp cũng thể hiện rất rõ trong cách ăn mặc,
chúng ta không thể nhìn nhận sự tiến triển về kinh tế và văn hóa khi chỉ dựa vào một giai cấp nhất định nào,
song thực tế cho thấy thời xưa người phụ nữ cũng có cách phục sức đặc biệt cho những dịp lễ hội đấy.
41
Thiếu nữ Việt thướt tha trong trang phục áo dài.
Thời xưa “các cụ” thường cho rằng Tết Nguyên đán là tết chào mừng buổi sáng đầu tiên của một năm mới,
là thời điểm chuyển giao quan trọng nhất trong năm với rất nhiều nghi lễ: lễ thiên địa lúc giao thừa, lễ gia
tiên, mừng tuổi, chúc thọ người già, thăm hỏi người thân trong gia đình, bạn bè thân hữu, người ta cảm thấy
buổi sáng đầu năm thật quan trọng và thiêng liêng.
Lúc này cũng là thời điểm đẹp nhất trong năm, tiết xuân cây cối đâm chồi non lộc biếc, hoa xuân đua nhau
khoe sắc màu, chim hót líu lo, nắng xuân dịu êm, không khí ấm áp…sau một năm làm việc đây là thời điểm
tốt nhât để mọi người cùng nghỉ ngơi trong sự vui vẻ, cùng gia đình, thăm hỏi bè bạn với sự quan tâm đặc
biệt. Do vậy họ cũng chú ý rất nhiều tới dung nhan và những bộ trang phục mới…. sao cho thật đẹp và lịch
sự.
*Thời Hùng Vương : phụ nữ mặc áo ngắn đến ngực , xẻ bụng bó sát vào người , phía trong mặc yếm kín
ngực , chiếc yếm cổ tròn sát cổ , có trang trí những hình tấm hạt gạo . Đàn ông chủ yếu đóng khố .
42
43
*Thời phong kiến : trang phục của phụ nữ là: váy đen, yếm trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng
hoa lý. Bộ lễ phục gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là áo dài tứ thân bằng the thâm hay màu nâu non, kế đến là
chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn,
phần từ ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo. Bên trong là chiếc yếm thắm. Ðầu đội nón trông rất duyên
dáng và kín đáo.
*Cuối thế kỷ XVII đến những năm 30 thế kỷ XX, ngày thường người phụ nữ chỉ mặc váy ngắn, yếm và áo
cánh ngắn bằng vải mộc giản dị, nhưng trong các dịp lễ tết bao giờ họ cũng tìm mua những tấm vải mới và
chất liệu đẹp hơn để may những bộ xiêm áo với sắc màu tươi thắm hơn. Các quý cô quý bà thường mặc
những bộ áo tứ thân hay năm thân dài gần chấm đất, với những chiếc yếm màu thật đẹp trong những tấm áo
44
mớ ba mớ bảy nẹp lật khoe những sắc màu tươi mới, nhưng lại vô cùng mặn mà đằm thắm nhờ lớp áo the
sẫm màu mặc ngoài. Người càng giàu mặc càng nhiều tầng lớp, chất liệu lụa cũng óng ả và cao cấp hơn
nhiều. Còn tầng lớp vua chúa quan lại còn cầu kỳ hơn bằng cách thêu thùa những họa tiết một cách hết sức
nghệ thuật lên áo váy của mình.
45
Nữ sinh duyên sáng trong tà áo truyền thống. *Suốt trong các thời kỳ chiến tranh người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó, cần kiệm trong nghèo
khổ, song nghèo đến mấy khi tết về cũng cố may cho cả gia đình những bộ trang phục mới để đón xuân về,
các cô các bà thành phố vẫn cất dành những bộ áo dài tha thướt thật duyên dáng và thanh lịch để mặc trong
những dịp lễ tết.
*Những năm 80-90, xã hội dư thừa về vật chất, khoa học công nghệ tiên tiến trên toàn thế giới. Thời trang
nước nhà cũng bắt đầu khởi săc, người ta bắt đầu quan tâm tới ăn mặc nhiều hơn. Các bộ đầm dạ hội dành
cho quý bà quý cô xuất hiện ngày càng nhiều với kiểu cách vô cùng phong phú, đa dạng.
Đặc biệt từ thập niên 90, Kinh tế, chính trị, văn hóa đều mang tính toàn cầu. Do sự trợ giúp của hệ thống
truyền thông, internet và hàng không hiện đại khoảng cách thời trang trong nước và quốc tế hầu như không
quá cách biệt.
Những bộ trang phục lễ hội cũng theo trào lưu chung của thế giới, không phải chỉ dành cho những dịp Tết
Nguyên đán mà còn rất nhiều dịp lễ hội khác.
Nhữ
ng
bộ
trang
phục
hiện
nay
của
phụ
nữ
46
Những bộ trang phục hiện nay của đàn ông
Những bộ đầm dạ hội đẹp, không những tạo sự thoải mái tự tin cho người mặc mà còn thể hiện phong
cách cá nhân và xu hướng của thời đại. Thị hiếu thẩm mỹ của người Việt hoàn toàn bắt kịp trào lưu thế giới,
người tiêu dùng ngày nay là những khách hàng thông minh, luôn kiếm tìm sự độc đáo, khác biệt, thỏa mãn
sở thích cá nhân, để khẳng định cá tính.
47
Dù vậy, áo dài vẫn là một trang phục được người phụ nữ Việt Nam ưa chuộng. Họ mặc nó trong các lễ hội
lớn, trong dịp Tết Nguyên Đán và cả trong các cuộc thi sắc đẹp lớn.
Hình ảnh những bộ áo dài lộng lẫy hiện nay.
top related