TRƯỜNG THPT THỐNG NHẤT A BÀI DỰ THI “TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI” NĂM 2016 Họ và tên: Phạm Nguyễn Minh Đức Ngày tháng năm sinh: 23/03/1999 Giới tính: Nam Nghề nghiệp: Học sinh Dân tộc: Kinh Đảng viên, Đoàn viên: Đoàn viên Đơn vị học tập: Lớp 11A3, Trường THPT Thống Nhất A, Trảng Bom Nơi thường trú: Số nhà 81/10 , ấp Hòa Bình, xã Đông Hòa, huyện Trảng Bom, Tỉnh Đồng Nai. Số điện thoại: 01654331389. Địa chỉ Email: minduc9505@gmail.com. Trảng Bom, ngày 20 tháng 10 năm 2016
33
Embed
TRƯỜNG THPT THỐNG NHẤT A - dost-dongnai.gov.vn · Lời mở đầu. Ngày 30/4/1795 Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi, Miền Nam được
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
TRƯỜNG THPT THỐNG NHẤT A
BÀI DỰ THI
“TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI” NĂM 2016
Họ và tên: Phạm Nguyễn Minh Đức Ngày tháng năm sinh: 23/03/1999
Giới tính: Nam Nghề nghiệp: Học sinh
Dân tộc: Kinh Đảng viên, Đoàn viên: Đoàn viên
Đơn vị học tập: Lớp 11A3, Trường THPT Thống Nhất A, Trảng Bom Nơi thường trú: Số nhà 81/10 , ấp Hòa Bình, xã Đông Hòa,
huyện Trảng Bom, Tỉnh Đồng Nai. Số điện thoại: 01654331389.
Ngày 30/4/1795 Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử kết thúc thắng lợi, Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối. Sau ngày đất nước thống nhất Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã lãnh đạo nhân dân ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng chính quyền mới, cuộc sống mới, cùng cả nước tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Chặng đường 40 năm (1975 – 2015) là giai đoạn với nhiều khó khăn, thử thách đối với sự phát triển của cả nước nói chung và Đồng Nai nói riêng, song Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng Nai đã phát huy tinh thần tự lực, tự cường, truyền thống anh hùng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng vững mạnh, đạt được nhiều thành tựu to lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Thành tựu đạt được trong 40 năm qua, nhất là thành tựu trong 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986 – 2000) do Đảng khởi sướng và lãnh đạo là vô cùng to lớn. Thực hiện đường lối lãnh đạo sáng suốt của Đảng, phát huy tiềm năng lợi thế của địa phương, Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã lãnh đạo nhân dân đồng tâm hiệp lực phát triển mạnh mẽ, trở thành những tỉnh đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây cũng chính là niềm tự hào, sự khích lệ tinh thần, vật chất to lớn giúp Đảng bộ và nhân dân tỉnh Đồng Nai vững tin bước vào thế kỷ mới của sự phát triển, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa tỉnh Đồng Nai phát triển toàn diện về mọi mặt góp phần tích cực cùng cả nước thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để tìm hiểu về những giá trị tốt đẹp cũng như lịch sử phát triển của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai để từ đó hình thành nên những hiểu biết khái quát nhất về sự phát triển của tỉnh nhà, hình thành kho tư liệu của cá nhân trong quá trình học tập, từ đó thêm yêu hơn những giá trị Truyền thống tốt đẹp của dân tộc được lưu giữ và phát triển ngàn đời, biết yêu hơn mảnh đất nơi ta sinh ra và lớn lên đó cũng chính là lý do thôi thúc bản thân hoàn thành bài dự thi.
Tuy bản thân đã có nhiều cố gắng để hoàn thành bài dự thi, song chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của Ban giám khảo cuộc thi, Thầy cô giáo, các bạn học sinh để nội dung của bài Dự thi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn./.
Trảng Bom, ngày 20 tháng 10 năm 2016
Phạm Nguyễn Minh Đức
PHẦN NỘI DUNG Câu 1: Hãy nêu tiểu sử nhân vật được đặt tên đường tại địa phương,
phường, xã thị trấn nơi bạn đang ở. Những hành động, đức tính nào của nhân vật
bạn cần học tập làm theo.
Trảng Bom là một huyện thuộc địa hình trung du của tỉnh Đồng Nai, giáp
với huyện Long Thành về phía nam, giáp với huyện Thống Nhất - một huyện
tách ra từ huyện này - về phía đông, và giáp ranh với thủ phủ của tỉnh Đồng
Nai là thành phố Biên Hòa về phía tây, phía bắc giáp huyện Vĩnh Cửu. Trảng
Bom nằm ngay cửa ngõ đi vào thành phố Hồ Chí Minh nên có lợi thế về phát
triển giao thông. Bên cạnh đó, Trảng Bom cách Biên Hòa 12 km và thành phố
Hồ Chí Minh 42 km về phía đông nên thuận tiện cho việc giao thương, buôn bán
và đầu tư công nghiệp.
Trảng Bom là một huyện mới thành lập của tỉnh Đồng Nai. Thời Việt Nam Cộng
Hoà, địa bàn huyện Trảng Bom thuộc quận Đức Tu, tỉnh Biên Hoà. Sau năm 1975,
thuộc huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai. Tháng 8/2003, tách một số xã của huyện
Thống Nhất để thành lập huyện Trảng Bom. Huyện Trảng Bom gồm 1 thị trấn
là Trảng Bom và 16 xã: An Viễn, Bắc Sơn, Bàu Hàm, Bình Minh, Cây Gáo, Đông
Hòa, Đồi 61, Giang Điền, Hố Nai 3, Hưng Thịnh, Quảng Tiến, Sông Thao, Sông
Trầu, Tây Hòa, Thanh Bình, Trung Hòa.
Hiện tại bản thân và gia đình đáng sinh sống và làm việc tại xã Đông Hòa một
trong những xã thuộc huyện Trảng Bom. Nhưng do địa phương nơi em đang sinh sống
chưa có tên đường hoặc nếu có thì chủ yếu tên đường được đặt theo ký tự chữ và số,
không có tên đường là tên của các nhân vật lịch sử nên em quyết định chọn tên một
con đường đã có nhiều kỷ niệm gắn bó với em trong suốt quá trình học tập dưới mái
trường thân yêu Thống Nhất A (tọa lạc tại Khu phố 4 thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng
Bom, tỉnh Đồng Nai) mà vị anh hùng được chọn đặt tên đường cũng là một trong
những vị anh hùng mà em ngưỡng mộ và cảm thấy những hành động, đức tính của ông
mà bản thân em cần học tập và làm theo, con đường mang tên nhà hoạt động cách
mạng Phan Đăng Lưu. Đường Phan Đăng Lưu được Ủy ban nhân dân Thị trấn Trảng
Bom quy hoạch trong đề tài điều chỉnh, sửa đổi, đặt mới tên đường thị trấn Trảng Bom
huyện Thống Nhất năm 2003. Đường Phan Đăng Lưu là tên đường mới tên cũ của
Xe tăng và bộ binh Quân đoàn 4 tiến công thị xã Xuân Lộc.
Thị xã Xuân Lộc cách Sài Gòn khoảng 80km về phía đông bắc, nằm trên ba
trục đường giao thông quan trọng là Quốc lộ 1, Đường 20 và Đường 15 – những tuyến
cơ động chủ yếu vào Sài Gòn. Chính diện tuyến phòng ngự Xuân Lộc khoảng 40km,
kéo dài từ Túc Trưng qua Dầu Giây, thị xã Long Khánh đến ngã ba Tân Phong. Nơi
đây có nhiều núi cao, rừng già che phủ, địa thế rất hiểm yếu cho hoạt động quân sự:
"Tiến có thế công, thoái có thế thủ".
Có thể thấy, Xuân Lộc là một vị trí chiến lược trọng yếu trên chiến trường Bà Rịa -
Long Khánh. Ngày 28/3/1975, đích thân tướng Mỹ Weyand - Tham mưu trưởng Lục
quân Mỹ - cùng tướng ngụy Cao Văn Viên - Tổng Tham mưu trưởng quân đội Việt
Nam Cộng hòa - khi đi thị sát và chọn Xuân Lộc làm phòng tuyến cố thủ đã nhận định:
"Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”.
Chính vì thế, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tập trung một lượng lớn quân và
trang thiết bị, vũ khí quân sự tại tuyến phòng thủ Xuân Lộc, gồm: Sư đoàn 18 bộ binh,
1 trung đoàn thiết giáp (100 xe), 1 liên đoàn biệt động quân, 9 tiểu đoàn bảo an, 2 tiểu
đoàn pháo binh (42 khẩu), 3 đại đội biệt lập, 4 trung đội pháo và các lực lượng cảnh
sát, dân vệ, nghĩa quân tại chỗ (tương đương 2 sư đoàn bộ binh)... Trong quá trình
chiến dịch, địch tăng cường Lữ đoàn Dù 1, Trung đoàn Bộ binh 8 (Sư đoàn 5), 1 liên
đoàn biệt động quân và 1 Trung đoàn thiết giáp (theo thông tin đăng trên báo Quân đội
Nhân dân).
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đặt hy vọng cuối cùng vào Xuân Lộc - con
"át chủ bài" canh giữ cửa "cấm thành" Sài Gòn - Gia Định. Còn với Quân Giải phóng,
Xuân Lộc thực sự là vấn đề chiến lược liên quan trực tiếp đến thời gian, tốc độ của
những chiến dịch kế tiếp trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, mà
trực tiếp nhất là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Bản thân em thấy tâm đắc nhất với sự kiện 13 ngày đêm ác liệt công phá
tuyến phòng thủ Xuân Lộc đập tan “Cánh cửa thép” tiến về giải phóng Sài Gòn.
Xin trích dẫn nội dung ba bài báo đăng trên Báo Đồng Nai điện tử để thuật lại sự
kiện 13 ngày đêm ác liệt công phá tuyến phòng thủ Xuân Lộc đập tan “Cánh cửa
thép” tiến về giải phóng Sài Gòn, thống Nhất đất nước.
I. TẤT CẢ CHO MẶT TRẬN XUÂN LỘC
Trận chiến Xuân Lộc - Long Khánh là trận ác liệt nhất và cũng là một
trong những thử thách oanh liệt nhất của Quân đoàn 4 (theo nhận định của
Trung tướng Lê Nam Phong, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7, Quân đoàn 4,
đơn vị trực tiếp đánh vào Xuân Lộc cách đây hơn 40 năm). Dù lực lượng quân
tham chiến của ta ít hơn địch, bị thương vong nhiều, nhưng ta đã mở rộng được
cửa phía Đông để cho đại quân giải phóng mở trận quyết chiến chiến lược cuối
cùng.
Quyết tâm trước giờ ra trận.
Sau các chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, cục diện chiến trường
miền Nam đã thay đổi về cơ bản. Chỉ trong một thời gian ngắn, ta đã tiêu diệt và
làm tan rã 2 quân đoàn và 2 quân khu, trên 35% bộ binh, 40% lực lượng binh
chủng, thu và phá hủy 43% cơ sở vật chất kỹ thuật của địch, giải phóng 12 tỉnh
từ Quảng Trị đến Khánh Hòa và toàn bộ Tây Nguyên. Ở Nam bộ và cực Nam
Trung bộ, quân dân ta đã đẩy mạnh tác chiến, tạo thế, tạo lực, chuẩn bị một
bước quan trọng cho chiến dịch giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Trước tình hình đó, vào ngày 31-3-1975, Bộ Chính trị đã họp đánh giá
tình hình và chỉ rõ: “Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của
quân dân ta đã bắt đầu. Cần động viên cao độ và nhanh chóng lực lượng của cả
nước giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4-
1975, không thể chậm”.
Ngày 1-4-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã điện cho các đồng chí của
Bộ Chỉ huy mặt trận Sài Gòn: “Vấn đề quyết định là phải kịp thời nắm lấy thời
cơ, quán triệt đầy đủ tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Cần hành động thật táo bạo, cơ động lực lượng thật khẩn trương. Bất ngờ hiện
nay không ở phương hướng lớn nữa. Địch biết nhất định ta sẽ đánh Sài Gòn,
nhưng chúng cho rằng chúng ta cần phải chuẩn bị 1-2 tháng. Vì vậy hiện nay
chủ yếu là ở tốc độ. Một mặt cần cơ động lực lượng nhanh chóng, thần tốc; mặt
khác sử dụng ngay lực lượng hiện có để kịp thời hành động, không chờ đợi...
Qua chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và
trước tình hình hết sức khẩn trương ở chiến trường, vào ngày 2-4-1975, Thượng
tướng Trần Văn Trà, Tư lệnh các lực lượng quân giải phóng miền Nam, Phó Tư
lệnh Bộ Chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn, đã giao nhiệm vụ cho Quân
đoàn 4 triển khai lực lượng trên 2 hướng Đông Nam và Tây Nam Sài Gòn. Sư
đoàn 9, Quân đoàn 4 tạm thời tách khỏi Quân đoàn 4, hoạt động ở chiến trường
Tây Nam trong đội hình Đoàn 232. Ở hướng Đông, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết
định phối thuộc Sư đoàn 6 của Quân khu 7 cho Quân đoàn 4. Các đồng chí Tư
lệnh và Chính ủy Quân khu 7 cùng Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 chỉ huy hướng này.
Nhận nhiệm vụ của cấp trên giao, ngày 3-4-1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 bàn
phương án đánh chiếm Xuân Lộc.
Cần nói thêm, sau khi bị mất Huế - Đà Nẵng, Tướng Weyand, Tham mưu
trưởng Lục quân Mỹ, đã trực tiếp đôn đốc quân đội Sài Gòn xây dựng một tuyến
phòng thủ mới kéo dài từ Phan Rang qua Xuân Lộc đến Tây Ninh, trong đó coi
Xuân Lộc là điểm trọng tâm nhằm ngăn chặn quân ta tiến theo các đường số 1
và 20 đánh vào Biên Hòa, Sài Gòn. Dưới góc nhìn quân sự, Weyand nói với
Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lĩnh: “Bằng
mọi giá phải giữ cho được Xuân Lộc. Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”.
Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 nhận định Xuân Lộc - Long Khánh là một khu
vực phòng thủ rất mạnh của địch, khác hẳn với các mục tiêu mà Quân đoàn 4
đánh chiếm trước đó, như: Phước Long, Lâm Đồng. Trong khi đó, lực lượng của
ta ít hơn địch, đặc biệt là các đơn vị binh chủng. Do vậy, để đập tan “cánh cửa
thép” Xuân Lộc, Quân đoàn 4 phải sử dụng 3 sư đoàn bộ binh, gồm: Sư đoàn 7,
Sư đoàn 341, Sư đoàn 6 của Quân khu 7 phối thuộc và các lực lượng vũ trang
địa phương hỗ trợ, cùng toàn bộ lực lượng pháo binh, pháo cao xạ, xe tăng, công
binh, thông tin và các đơn vị bảo đảm khác của Quân đoàn 4.
Đối với cứ điểm phòng thủ mạnh như Xuân Lộc, ngay từ đầu Bộ Tư lệnh
Quân đoàn 4 đề ra phương châm “đánh chắc, tiến chắc” diệt địch bên ngoài là
chính, tạo thế bao vây, cô lập, khi có thời cơ sẽ tiến công dứt điểm. Tuy nhiên,
trước tình hình địch đang hoang mang dao động, cần phải khẩn trương, táo bạo
sử dụng một bộ phận bộ binh, tập trung toàn bộ xe tăng, pháo binh tiến công
thẳng vào Sở Chỉ huy tiểu khu Long Khánh và Sư đoàn 18 của địch; nếu địch
tan vỡ thì nhanh chóng đánh chiếm, giải phóng Xuân Lộc.
5 giờ 40 ngày 9-4-1975, Quân đoàn 4 nổ súng tiến công Xuân Lộc. Các
trận địa pháo của quân đoàn, sư đoàn đồng loạt nhả đạn. Ngay trong phút đầu
tiên, một quả đạn pháo 85 ly phá tan cụm ăng-ten của khu thông tin trong
TX.Long Khánh. Một quả pháo 122 ly bẻ gãy cột ăng-ten trên đỉnh núi Thị. Một
giờ sau, bộ binh ta bắt đầu xung phong.
Khi nhận lệnh tiến công, từ hướng Bắc, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341
nhanh chóng thọc sâu chiếm khu thông tin, khu cố vấn Mỹ, khu cảnh sát...
Trước đó mấy ngày, tổ trinh sát của Sư đoàn đã được các đồng chí trong Tỉnh ủy
Bà Rịa - Long Khánh trao đổi tường tận tình hình địch, tình hình nhân dân và
địa hình khu vực tác chiến nên khi tiếng súng tiến công nổ ra, quân ta thành thạo
địa hình, mục tiêu. Đến 9 giờ 40, các chiến sĩ của Sư đoàn 341 mang lá cờ Quyết
thắng tiến về dinh Tỉnh trưởng Long Khánh. Địch tập trung lực lượng phản kích
dữ dội, buộc Trung đoàn 266 phải dừng lại ở bên ngoài Sở Chỉ huy tiểu khu
Long Khánh.
Tại hướng Đông, 8 xe tăng dẫn đầu Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) còn cách
cổng căn cứ Sư đoàn 18 chưa đầy 200m thì bị bắn hỏng 3 chiếc phải dừng lại.
Chính trị viên Nguyễn Văn Tạo và Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Lèo Viết
Cường bị thương nặng, Phó tiểu đoàn trưởng tiếp tục chỉ huy đơn vị chiếm được
một phần hậu cứ chiến đoàn 52. Ở vòng ngoài, Trung đoàn 270, Sư đoàn 341 và
Trung đoàn 209, Sư đoàn 7 diệt 2 chiến đoàn 43, 48 của địch từ Tân Phong và
núi Thị tràn vào cứu viện. Ở khu vực ngã ba Dầu Giây, Sư đoàn 6 diệt 5 chốt
địch trên đoạn đường từ Hưng Nghĩa đến đèo Mẹ Bồng Con, thu 2 khẩu pháo
105 ly, buộc chiến đoàn 52 phải bỏ Túc Trưng kéo về giữ ngã ba Dầu Giây.
II. THẾ TRẬN GIẰNG CO BÊN TRONG THỊ XÃ LONG KHÁNH
Sau khi nổ súng tiến công Xuân Lộc, ngày đầu tiên quân ta đã chiếm được
một nửa TX.Long Khánh, toàn bộ khu hành chính tiểu khu, đã đưa được 3 tiểu
đoàn chốt trong thị xã và chia cắt đường số 1 từ ngã ba Dầu Giây đến đèo Mẹ
Bồng Con. Tuy nhiên, cuộc chiến không hoàn toàn diễn ra như mong muốn...
Ngày đầu tiên nổ súng tiến công Xuân Lộc, tuy lực lượng của Sư đoàn 7
bị tiêu hao nhiều, bên trong TX.Long Khánh địch có thay đổi lại cách bố phòng
nhưng chưa tăng thêm lực lượng chi viện và đang bị phân tán chống đỡ ở nhiều
nơi. Do vậy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 tiếp tục ra lệnh tiến công diệt Sư đoàn 18
địch, giải phóng TX.Long Khánh.
Mũi đột phá của Sư đoàn 7 tại hướng Đông TX.Long Khánh.
Trước thế phòng thủ mới của địch, vào ngày 10-4-1975, Sư đoàn 7 đưa
lực lượng dự bị là Trung đoàn 41 cùng một tiểu đoàn hỗn hợp gồm pháo cao xạ
37 ly và 57 ly đột phá từ hướng Bắc, cùng với Trung đoàn 165 tiến đánh căn cứ
Sư đoàn 18. Bị chiến đoàn 52 và Trung đoàn 5 Thiết giáp địch phản kích quyết
liệt, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 141 không mở được cửa đột phá. Tiểu đoàn 1 của
Trung đoàn 141 cũng chỉ chiếm được ngã tư ở phía Đông Nam hậu cứ chiến
đoàn 52. Trung đoàn 165 chiếm được khu gia binh và tiến đến sân bay Cáp
Rang. Trung đoàn 209 tiến công thị xã từ phía Nam, đánh thiệt hại chiến đoàn
43 địch, nhưng vấp phải tuyến phòng thủ dã ngoại của địch ở phía Nam sân bay
nên phải dừng lại củng cố bàn đạp.
Ở hướng tiến công của Sư đoàn 341, trước sự phản kích quyết liệt của
địch, Sư đoàn 341 phải đưa thêm Trung đoàn 270 vào thị xã cùng với Trung
đoàn 266 đánh địch phản kích, giữ các mục tiêu đã chiếm.
Cuộc chiến thời điểm đó diễn ra hết sức khốc liệt, ta cố đánh, địch cố giữ
nên sự thiệt hại của hai bên rất lớn, bốn lần đột phá sân bay Cáp Rang đều bị
địch đánh bật trở lại. Các mũi tiến công trại Lê Lợi, căn cứ chiến đoàn 43, quân
ta phải chiến đấu giằng co với địch dưới làn mưa đạn và bom, pháo của địch.
Nhiều tổ, phân đội bị địch chia cắt, bao vây vẫn kiên cường giữ vững trận địa.
Ngày 11-4, chiến sự vẫn tiếp tục diễn ra giằng co, ác liệt ở bên trong và bên
ngoài Thị xã Long Khánh.
Trước sức tiến công dồn dập của quân giải phóng và để tăng cường lực
lượng phòng giữ Thị xã Long Khánh, ngày 12-4, địch điều Lữ đoàn dù số 1 từ
Sài Gòn đến ngã ba Tân Phong. Ba ngày sau, chúng tăng cường thêm 2 lữ đoàn
thủy quân lục chiến, 1 tiểu đoàn biệt động quân, 1 trung đoàn bộ binh, 8 tiểu
đoàn pháo binh và 2 chi đoàn xe tăng, thiết giáp khoảng 300 chiếc “ném” vào
mặt trận Long Khánh. Nếu tính cả Sư đoàn 18 và các đơn vị đã bố trí ở Xuân
Lộc trước ngày quân ta nổ súng, địch đã tập trung nơi đây 50% lực lượng bộ
binh, 60% pháo binh, hầu hết xe tăng của Quân đoàn 3 và các lực lượng dự bị
tổng hợp tương đương một sư đoàn.
Không quân từ các sân bay Biên Hòa và Tân Sơn Nhất được huy động với
mức độ cao, trực tiếp chi viện cho các mũi phản kích bộ binh, xe tăng và đánh
vào đội hình tiến công của quân giải phóng. Vào thời điểm đó, địch đã sử dụng
máy bay ném bom trung bình mỗi chiếc 80 lần/ngày, cao nhất 125 lần/ngày.
Chúng ném cả bom CBU có sức hủy diệt lớn, gây nhiều khó khăn, thiệt hại cho
các mũi tiến công của ta.
Qua 3 ngày chiến đấu, về cơ bản quân ta đã chiếm được một số mục tiêu,
diệt được một bộ phận sinh lực địch trong thị xã, giữ một số bàn đạp quan trọng,
nhưng chưa diệt gọn được một đơn vị nào của địch. Về phía ta, Sư đoàn 7 và Sư
đoàn 341 thương vong hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ; 9 xe tăng của ta sử dụng
trong trận đánh đã bị bắn cháy và 6 chiếc bị phá hỏng; pháo 57 ly và 85 ly bị
thiệt hại gần hết vì bom, pháo địch. Đạn pháo cho quân ta sử dụng trong trận
đánh thì chưa đưa lên kịp.
Về mặt chiến lược thì lúc này địch đang rối loạn, đổ vỡ lớn. Nhưng do vị
trí phòng thủ sống còn của địch ở Xuân Lộc, lực lượng quân địch đông, lại có
công sự vững chắc làm chỗ dựa, có chuẩn bị và được tăng cường lực lượng nên
đã chống trả quyết liệt, gây cho ta nhiều tổn thất và bước đầu ngăn được sức tiến
công của quân ta. Thấy được khó khăn này, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 đã họp rút
kinh nghiệm với chỉ huy các sư đoàn và nhìn nhận, khi tấn công Long Khánh, ta
không dự kiến hết sự phản ứng của địch; lực lượng tiến công của ta chưa đủ
mạnh, các đơn vị chưa được bổ sung quân số sau nhiều tháng chiến đấu liên tục
và chưa được chuẩn bị kỹ cho trận đánh. Do thời gian chuẩn bị ngắn (5 ngày),
việc nghiên cứu địa hình và cách bố phòng của địch chưa đủ cho một trận đánh
phức tạp; cách đánh địch trong một khu vực rộng, nhiều mục tiêu, quân địch
đông, binh khí kỹ thuật mạnh, có công sự vững chắc chưa được ta nghiên cứu,
thảo luận kỹ ở các đơn vị. Việc chọn hướng và cách đánh cũng chưa phù hợp;
hướng Tây Nam địch có nhiều sơ hở nhưng ta không có lực lượng tiến công;
hướng Đông và hướng Đông Bắc là tuyến phòng thủ rắn nhất của địch nhưng
Quân đoàn 4 lại chọn đây là hướng tiến công chủ yếu vì nhận định từ đây có thể
nhanh chóng đột phá vào Sở Chỉ huy Sư đoàn 18 của địch. Ở hướng này, chính
diện tiến công rộng, có thể phát huy được sức mạnh của binh khí kỹ thuật nhưng
quân ta phải từ dưới cánh đồng thấp ngược đồi đánh lên, phải mở 8-9 lớp rào
kẽm gai, vượt qua hệ thống hầm, hào chống tăng và các vị trí phòng thủ vòng
ngoài của địch mới có thể vào được trung tâm thị xã. Khi nổ súng tiến công, lực
lượng của Sư đoàn 7 ở hướng này không nhiều hơn, thậm chí ít hơn quân địch,
việc tổ chức đột phá, mở cửa chưa tốt, pháo binh, xe tăng là lực lượng đột kích
mạnh nhưng chưa phát huy được tác dụng, lại bị thiệt hại vì bom, pháo địch từ
sớm nên đã làm giảm đi sức tiến công của bộ đội trong 3 ngày đầu chiến đấu.
III. ĐẬP TAN “CÁNH CỬA THÉP” XUÂN LỘC
Thấy được khó khăn của Quân đoàn 4 trong cuộc tiến công đập tan “cánh
cửa thép” Xuân Lộc, Thượng tướng Trần Văn Trà, Phó tư lệnh Bộ Chỉ huy
chiến dịch, đã trực tiếp đến Long Khánh thị sát chiến trường và động viên cán
bộ, chiến sĩ tham gia trận đánh. Thượng tướng nhận định: “Đối với toàn tuyến
phòng thủ Sài Gòn - Gia Định của địch, Xuân Lộc chỉ có giá trị khi còn nối liền
với Biên Hòa, Sài Gòn; nếu cắt rời Xuân Lộc ra khỏi Biên Hòa và Sài Gòn thì
Xuân Lộc sẽ không còn ý nghĩa”.
Theo ý của Thượng tướng Trần Văn Trà lúc bấy giờ, để chiếm được Xuân Lộc
ta không nhất thiết phải tập trung lực lượng lớn đánh “vỗ mặt” vào một khu vực có lực
lượng địch đông và mạnh mà có thể dùng “thế” để giải phóng Xuân Lộc. Do vậy, Bộ
Chỉ huy chiến dịch và Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 quyết định ngưng tiến công các vị trí
của địch trong thị xã để chuyển đổi thế trận và cách đánh.
Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) và Trung đoàn 266 (Sư đoàn 341) được giao nhiệm
vụ tiếp tục giữ vững bàn đạp đã chiếm được, đồng thời thường xuyên duy trì áp lực lên
quân địch bên trong TX.Long Khánh, thực hiện các biện pháp nghi binh khiến cho
địch tin rằng ta đang chuẩn bị đánh tiếp. Sư đoàn 6 (Quân khu 7) và Trung đoàn 95B
(Sư đoàn 325, Quân đoàn 2) từ Tây Nguyên xuống vừa được tăng cường cho Quân
đoàn 4 đánh chiếm Dầu Giây và núi Thị, giải phóng thêm một đoạn đường số 1 và
đoạn đường số 20 còn lại; thực hiện chốt chặn chiến dịch, diệt quân địch từ Biên Hòa,
Trảng Bom lên phản kích. Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) triển khai lực lượng trên dải
vòng cung Đông Bắc Chi khu Tân Phong, chặn đánh Lữ đoàn 1 dù của địch không cho
chúng vượt qua cầu Gia Liêu để bắt liên lạc với chiến đoàn 43 trong thị xã. Trung
đoàn 141 (Sư đoàn 7) và 2 trung đoàn còn lại của Sư đoàn 341 củng cố tại chỗ và làm
lực lượng dự bị cơ động. Trong khi ta chuyển thế trận và cách đánh, địch lầm tưởng đã
đẩy lùi được cuộc tiến công của “Việt cộng”. Tổng thống chính quyền Sài Gòn
Nguyễn Văn Thiệu tuyên truyền rùm beng về “chiến thắng Xuân Lộc”, về “khả năng
chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng hòa đã được phục hồi”, đã “chấm dứt thời kỳ
rút lui”, còn “đủ mạnh để giữ vững chế độ”... Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 quân
đội Sài Gòn, huênh hoang tuyên bố: “Việt cộng dù có thêm mấy sư đoàn nữa cũng
không chiếm được Long Khánh... Việt cộng muốn qua Long Khánh phải bước qua xác
của Đảo này”.
Trong khi địch đang hớn hở vì “chiến thắng” thì rạng sáng 15-4-1975, cuộc tấn
công đợt 2 vào “cánh cửa thép” Xuân Lộc của quân ta đã bắt đầu. Ngay sau khi có
lệnh tiến công, pháo 130 ly của ta bắn phá sân bay Biên Hòa, ghìm đầu máy bay địch
không cho chúng cất cánh. Cùng lúc, ở khu vực Dầu Giây, bằng 5 trận vận động tập
kích, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B tiêu diệt chiến đoàn 52 quân đội Sài Gòn ở ngã ba
Dầu Giây, thu 12 khẩu pháo và toàn bộ xe tăng của Chi đoàn 3 Thiết giáp tại Sở chỉ
huy dã chiến của chiến đoàn 52 (địch gọi là căn cứ Nguyễn Thái Học). Đường số 1 từ
Xuân Lộc tới Bàu Cá bị quân ta cắt đứt. Đoạn đường số 20 cuối cùng từ Túc Trưng
đến ngã ba Dầu Giây cũng được quân ta làm chủ hoàn toàn.
Bị mất Dầu Giây nên trong 2 ngày 16 và 17-4-1975, Sở chỉ huy tiền phương
của Quân đoàn 3 của địch ở Trảng Bom đưa Lữ đoàn 3 Thiết giáp có 200 xe tăng, xe
bọc thép và chiến đoàn 8 (Sư đoàn 5) tổ chức phản kích. Địch cũng được hơn 100
khẩu pháo ở căn cứ Nước Trong, Hốc Bà Thức, Long Bình, Đại An và 125 lần máy
bay chiến đấu chi viện mỗi ngày.
Trận chiến ác liệt giữa quân ta và địch diễn ra ở Hưng Nghĩa và cao điểm 122.
Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B diệt gọn một tiểu đoàn, bắt sống hơn 100 tù binh, đẩy
lùi địch xuống Bàu Cá, lập chốt thép tại ngã ba Dầu Giây. Quân đoàn 3 địch buộc phải
ngừng phản kích, trả chiến đoàn 8 về cho Sư đoàn 5 mà chúng cho rằng “tinh thần
chiến đấu của binh lính đã xuống tận mắt cá”.
Cùng thời gian này, ở khu vực Xuân Lộc, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 liên tục
quần nhau với địch, đánh tan tác 2 chiến đoàn 43 và 48 thuộc Sư đoàn 18 của địch còn
lại và diệt một bộ phận quân dù. Bộ đội địa phương và du kích Xuân Lộc do đồng chí
Tám Còn, Tỉnh đội trưởng, chỉ huy đã diệt và bức rút nhiều đồn, bót địch trên các trục
đường giao thông và vùng ven TX.Long Khánh.
Cần nói thêm, trong thời điểm này, sau khi giải phóng Nha Trang, Cam Ranh,
Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, cánh quân Duyên Hải, nòng cốt là Quân đoàn 2,
đơn vị chủ lực, cơ động của Bộ Quốc phòng tiến quân thần tốc theo đường số 1 đã về
khu vực Rừng Lá để chi viện cho mặt trận Xuân Lộc - Long Khánh.
Trước nguy cơ bị tiêu diệt và xét thấy Xuân Lộc không còn giá trị phòng thủ
nên ngày 18-4-1975, tướng ngụy Lê Minh Đảo đề nghị rút bỏ Xuân Lộc vì: “Mất Dầu
Giây là mất tụ điểm về sức sống của Long Khánh”. Bộ Tổng tham mưu địch đã đồng ý
và lệnh cho Lê Minh Đảo phải giữ bí mật kế hoạch rút chạy để khỏi bị tiêu diệt. Chiều
tối 20-4-1975, Lê Minh Đảo và lực lượng còn lại của địch ở Xuân Lộc bí mật rút chạy
dưới cơn mưa tầm tã.
Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 ra lệnh cho tất cả các đơn vị truy kích diệt địch. Sư
đoàn 6 nhanh chóng đánh chiếm núi Thị; Sư đoàn 341 và các đơn vị còn lại nhanh
chóng đánh chiếm các mục tiêu còn lại trong TX.Long Khánh, tiếp tục phát triển
xuống đồn điền cao su Ông Quế. Tiểu đoàn 445 bộ đội địa phương Bà Rịa - Long
Khánh chốt chặn và truy kích địch trên đường số 2. Do trời mưa to và ta phát hiện địch
rút chạy chậm, việc chốt chặn không tốt, địch lại băng rừng chạy bộ về hướng Bình
Sơn, Long Thành nên ta chỉ kịp diệt được một bộ phận chạy cuối cùng và bắt sống
được Đại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng Long Khánh.Ngày 21-4-1975, Xuân Lộc và
toàn tỉnh Long Khánh hoàn toàn giải phóng. Tuyến phòng thủ cuối cùng của địch ở
Xuân Lộc hoàn toàn sụp đổ.
Chiến thắng Xuân Lộc của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đánh sập
"Cánh cửa thép" cuối cùng để tiến vào Sài Gòn. Xuân Lộc chính là yết hầu của Sài
Gòn, chính Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ Đại tướng Frederick C. Weyand đã trực
tiếp lên Xuân Lộc thị sát và nhấn mạnh: "Phải giữ cho được Xuân Lộc, mất Xuân Lộc
là mất Sài Gòn". Chiến thắng Xuân Lộc làm rung chuyển bộ máy chính quyền tại Sài
Gòn. Ngay tối ngày Xuân Lộc được giải phóng, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức
và hai ngày sau đó thì trốn chạy khỏi Sài Gòn. Bên kia bờ đại dương, ngày 23/4/1975,
Tổng thống Mỹ Gerald Ford tuyên bố “Cuộc chiến tại Việt Nam đã chấm dứt đối với
người Mỹ”. Quân đội và chính quyền Sài Gòn đã hoang mang tột độ khi mất Tây
Nguyên thì nay lại càng hoang mang, run sợ hơn. Chiến thắng Xuân Lộc còn khằng
định sự ủng hộ của người dân miền Nam đối với Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền
Nam Việt Nam.
Quân giải phóng miền Nam hoàn toàn làm chủ chiến trường Xuân Lộc.
Chiến dịch Xuân Lộc đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá và cần được
nghiên cứu vận dụng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài học lớn nhất có thể thấy
từ chiến thắng Xuân Lộc, đó là tầm quan trọng của công tác chỉ đạo về chiến lược và
sự phối hợp giữa các lực lượng để tạo ra sức mạnh tổng hợp. Từ bài học trên cho thấy
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hôm nay, chúng ta cần phải chọn ra
mục tiêu trọng điểm, chủ yếu để tập trung thực hiện, giải quyết rốt ráo, dứt điểm; trong
công tác lãnh đạo, chỉ đạo cũng cần phải có tầm nhìn, phương thức, chiến lược phù
hợp để thực hiện thắng lợi mục tiêu.
Tiến công vào sở chỉ huy Sư đoàn 18 của quân ngụy tại Xuân Lộc
Trong Chiến dịch Xuân Lộc, ta ở thế tiến công, địch ở thế phòng thủ. Tuy
nhiên, chính từ lịch sử ta cũng rút ra được bài học về xây dựng khu vực phòng thủ.
Nhìn lại, thời điểm ấy địch xây dựng trận tuyến phòng thủ chủ yếu chỉ dựa vào
phương tiện chiến tranh, khí tài dồi dào, hỏa lực mạnh, hào sâu lũy chắc, lực lượng
đông mà không quan tâm đến “thế trận lòng dân”. Chỉ riêng việc đặt tên “cánh cửa
thép” đã bộc lộ yếu điểm này, đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của
địch mà ta cũng cần phải rút ra và học hỏi.
Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, các thế lực thù
địch vẫn tiếp tục chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ bằng những thủ đoạn
thâm độc và xảo quyệt hơn. Việc mở rộng quan hệ quốc tế vừa là cơ hội, vừa là thách
thức lớn đối với sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước nói chung và xây dựng phát
triển của địa phương nói riêng. Bên cạnh việc quan tâm phát triển kinh tế cũng cần
tăng cường hơn nữa công tác quản lý, điều hành nhiệm vụ quân sự - quốc phòng.
Những khó khăn về đời sống, phân hóa giàu nghèo; mâu thuẫn quyền lợi, tệ tham
nhũng, quan liêu… cũng là những nguyên nhân cản trở việc xây dựng, hoàn chỉnh thế
trận quốc phòng. Bài học kinh nghiệm trong Chiến dịch Xuân Lộc năm xưa nhắc nhở
chúng ta luôn phải chú trọng đến công tác chỉ đạo và vai trò của người đứng đầu. Do
đó công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh cho
các đối tượng, trước hết là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên thanh niên,
sinh viên, học sinh là công tác quan trọng tạo sự thống nhất về quan điểm, nhận thức
trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ
trẻ. Qua đó, làm cho mọi người dân nhận thức đúng đắn tình hình, nhiệm vụ, nâng cao
cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đồng thời nhận rõ đối
tượng, đối tác để có đối sách phù hợp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
PHỤ LỤC
I. Tái hiện cuộc đời nhà Cách mạng Phan Đăng Lưu qua vở diễn “Hừng Đông”
Vở diễn được dàn dựng với 8 cảnh chính. Cảnh mở màn được
bắt đầu với sự xuất hiện của một ban nhạc trẻ 9X trong thời
hiện đại, họ là những người trẻ dẫn dắt cho tuyến câu chuyện
quá khứ được bắt đầu. Tiếp sau đó, câu chuyện về nhà cách
mạng Phan Đăng Lưu được bắt đầu khi ông tận mắt chứng
kiến sự bóc lột tàn bạo, dã man của chế độ thực dân với người
dân An Nam ngay trên mảnh đất quê hương. Căm giận trước tội ác thực dân,
Phan Đăng Lưu đã tích cực tuyên truyền, vận động quần chúng đứng lên đấu
tranh và tham gia Hội Phục Việt – sau này đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng.
Phan Đăng Lưu gặp gỡ cụ Phan Bội Châu, qua đó tìm hiểu thêm về con đường
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và mong muốn được gặp Người.
Sau nhiều lần sang Quảng Châu để bàn việc hợp nhất giữa Tân Việt Cách
mạng Đảng và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên không thành, tháng 9 năm
1929, Phan Đăng Lưu bí mật đi Hải Phòng để sang Trung Quốc tiếp tục bàn việc
hợp nhất giữa hai tổ chức cách mạng. Tại đây, ông bị mật thám theo dõi và bắt
đưa về giam ở Vinh. Tháng 11 năm 1929, ông bị kết án 3 năm tù khổ sai đày đi
Buôn Ma Thuột. Đây là một trong những cảnh xúc động nhất về cuộc đời của
nhà cách mạng Phan Đăng Lưu trong vở Hừng Đông. Ở tù, Phan Đăng Lưu vẫn
tích cực hoạt động, vận động anh em học tiếng Ê-đê để thực hiện công tác binh
vận, viết báo gửi ra ngoài tố cáo chế độ tàn bạo của thực dân Pháp. Đỉnh điểm
của vở diễn là cảnh sục sôi chuẩn bị cho khởi nghĩa Nam Kỳ, Phan Đăng Lưu
khuyên Xứ ủy hãy chờ xin chỉ thị của Trung ương. Sau đó đồng chí triệu tập và
chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 7. Tại đây đồng chí đã phân tích tình hình
cách mạng Nam Kỳ và đề nghị Trung ương ra chỉ thị hoãn khởi nghĩa Nam Kỳ.
Tại Hội nghị, ông được đề cử làm Tổng Bí thư, nhưng ông không nhận, vì cho
rằng mình cần về miền Nam. Biết rằng cuộc khởi nghĩa phần nhiều thất bại,
nhưng Phan Đăng Lưu vẫn dấn thân lãnh đạo và khắc phục cuộc khởi nghĩa.
Cuối cùng, ông bị bắt và bị xử tử. Cảnh này đã đem đến cho người xem những
xúc cảm mạnh mẽ chứng kiến những gương hi sinh, không vụ lợi, không toan
tính. Họ đã nêu cao tấm gương cộng sản, cho đồng chí, đồng bào noi theo.
Nhà Cách mạng Phan Đăng Lưu và cụ thân sinh trong một lần ông về thăm nhà khi ông chuyển từ Phú Thọ về Diễn Châu làm việc, bắt đầu cuộc đời hoạt động CM tại quê nhà
Phan Đăng Lưu và Đào Duy Anh gặp gỡ cụ Phan Bội Châu tại Bến Ngự (Huế)
Phan Đăng Lưu bị đưa ra xử cùng 60 Đảng viên Tân Việt Cách mạng Đảng và bị kết án 3
năm tù khổ sai, bị giam giữ tại nhà tù Buôn Ma Thuột.
Phan Đăng Lưu, Tạ Uyên, Nguyễn Thị Minh Khai họp tại hội nghị xứ ủy Nam Kỳ mở rộng bàn về khởi nghĩa Nam Kỳ
Phan Đăng Lưu chủ trì Hội nghị Trung ương 7 tháng 11/1940, hội nghị có sự tham dự của các đồng chí Đặng Xuân Khu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt
Phan Đăng Lưu bị tòa án binh kết án tử hình khi ông quay trở lại Sài Gòn truyền đạt chỉ thị của Trung ương hoãn khởi nghĩa Nam Kỳ.
Ngày 26/8/1941, đồng chí Phan Đăng Lưu và nhiều chiến sỹ Cách mạng ưu tú đã ngã xuống trước hừng đông của độc lập, tự do. Trước họng súng của kẻ thù, ông vẫn tràn đầy khí phách hiên ngang của người cộng sản, là tấm gương chiến đấu và hy sinh anh dũng
cho lý tưởng dân tộc, là nhà lãnh đạo tiền bối xuất sắc của Đảng Cộng Sản Việt Nam. (Trích Bài và ảnh của Phan Đăng Thuận đăng trên homacvietnam.vn/?p=849)
II. Bom CBU vũ khí hủy diệt trong trận đánh tại Xuân Lộc của quân đội Mỹ
CBU-54 là một loại bom cháy dạng chùm (cluster bomb incendiary device) được quân
đội Mỹ phát triển trong Chiến tranh Việt Nam, với mục đích tiêu diệt sinh lực địch,
dọn bãi cho trực thăng đổ bộ, cũng gọi là bom chân không, bom nổ khối, bom nhiên
liệu - không khí, bom phát quang.
Trong khi hầu hết các loại bom cháy khác chứa na-pan hoặc phốt-pho,
quả bom CBU-54 nặng 750 cân Anh (khoảng 340 kg) chứa nhiên liệu chủ yếu
là prô-pan. Được mô tả là "vũ khí phi hạt nhân khủng khiếp nhất trong kho vũ
khí của Mỹ", loại bom này đã là một trong những vũ khí truyền thống mạnh nhất
được thiết kế cho chiến tranh. Quả bom có 3 ngăn chứa prô-pan, một hỗn hợp
gồm các khí khác, và một ngòi nổ.
Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, CBU-54 là loại "bom chùm
hàng không dạng cát-xét, kiểu nổ xon khí đầu tiên của Mỹ. Dài 2,3m, đường
kính 0,36m, sải cánh đuôi 0,72m, khối lượng 235kg, chứa 3 bom con BLU-73,
dọc thân từ lỗ lắp ngòi hẹn giờ tới nắp đáy, có đặt một dây nổ, đảm bảo mở cát
xét ở trên không. Mỗi bom con có khối lượng 45kg, nạp 32,6kg ôxít êtylen lỏng,
có dù hãm để giảm tốc độ rơi xuống còn 33m/s. Khi chạm đất, ngòi nổ hoạt
động gây nổ ống thuốc đặt giữa trục bom, phá vỡ vỏ bom, làm văng ôxít êtylen
thành các giọt, tạo thành đám mây xon khí (nhiên liệu - không khí) có đường
kính 25 - 17m; cao 2,5 - 3m. Đám mây này được một trạm nổ kích thích ở độ
cao 1m sau khi hình thành 0,125s. Bán kính sát thương của mỗi bom con là
50m. Bom CBU - 54 được thiết kế cho loại máy bay tốc độ dưới âm (như A-37,
OV-10 và máy bay trực thăng UH=1 ở độ cao bay 600m, tốc độ bay
120km/giờ)."
Một trong các sự kiện nổi bật nhất là vụ ném bom CBU-54 xuống ngã ba Dầu
Giây, Long Khánh, trong trận Xuân Lộc, vào ngày 21 tháng 4 năm 1975. Từ đầu tháng
4 năm 1975, một quả bom CBU-54 đã được chở bằng máy bay từ Thái Lan tới căn cứ
không quân Biên Hòa. Được sự chuẩn y của tướng Homer Smith cho phép chính
phủ Việt Nam Cộng hòa sử dụng loại vũ khí này, một máy bay vận tải C-130 lượn
vòng trên bầu trời Xuân Lộc tại độ cao 6.000m, rồi thả quả bom. Bom nổ tạo một
quầng lửa che phủ một vùng rộng 2 mẫu Anh (khoảng 0,8 hécta). Các chuyên gia ước
lượng rằng khoảng 250 người lính và dân quân du kích đã bị thiệt mạng, chủ yếu do bị
ngạt ô-xy thay vì bị bỏng. CBU-55 đã không được sử dụng thêm lần nào nữa trong
chiến tranh.
Hình ảnh Bom CBU III. Một số hình ảnh, tư liệu khác có liên quan
Hình ảnh một góc đường Phan Đăng Lưu, KP4, Thị trấn Trảng Bom.
Phóng đồ Kế hoạch điều quân trận Xuân Lộc
Tướng Lê Minh Đảo Tướng Frederick Carlton Weyand
TÀI LIỆU THAM KHẢO - Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đồng Nai; - Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh; - Đề tài điều chỉnh, sửa đổi đặt mới tên đường thị trấn Trảng Bom huyện Thống
Nhất của Ban chấp hành đảng bộ huyện Thống Nhất. - Sách, báo, tạp chí Xây dựng Đảng, mạng Internet… - Các Website: http://dangcongsan.vn; http://dost-dongnai.gov.vn; baodongnai.com.vn/.../12-ngay-dem-dap-tan-canh-cua-thep-xuan-loc-the-tran-