Top Banner
1 BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ: SINH LÝ HC: SINH LÝ CA TIU CU, BCH CU VÀ HNG CU
29

SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

Aug 29, 2019

Download

Documents

TrầnKiên
Welcome message from author
This document is posted to help you gain knowledge. Please leave a comment to let me know what you think about it! Share it to your friends and learn new things together.
Transcript
Page 1: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

1

BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ:

SINH LÝ HỌC:

SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH

CẦU VÀ HỒNG CẦU

Page 2: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

2

MỤC TIÊU CHUYÊN ĐỀ:

Sau khi học xong chuyên đề “Sinh lý học: Sinh lý của Tiểu cầu,

Bạch cầu và Hồng cầu”, người học nắm được những kiến thức có liên

quan như: Đời sống, cấu trúc, chức năng, vai trò của tiểu cầu; Hính dáng

và số lượng, phân loại, đời sống, đặc tính, sức bền, tốc độ lắng, ... của

Hồng cầu và Bạch cầu.

Page 3: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

3

NỘI DUNG

I. SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU

Tiểu cầu là tế bào máu nhỏ nhất, không có nhân, đường kính 3-4m,

được sản xuất từ nguyên mẫu tiểu cầu ở tuỷ xương. Số lượng tiểu cầu lưu

hành ở máu ngoại vi khoảng 150-400 G/l. Nguyên mẫu tiểu cầu bắt nguồn từ

tế bào nguồn dòng tủy (CFU-GEMM), do tế bào gốc sinh máu tạo nên. Mỗi

mẫu tiểu cầu có thể tạo được 3000 tiểu cầu.

1. Đời sống của tiểu cầu

Tiểu cầu có đời sống ngắn, khoảng từ 8-14 ngày. Với điều kiện lắc liên

tục ngoài cơ thể ở nhiệt độ phòng có thể lưu giữ tiểu cầu khoảng 5 ngày.

2. Cấu trúc của tiểu cầu

Tiểu cầu có kích thước 2-4mm, thể tích 7-8mm3. Bình thường có 150-

300 x 109 tiểu cầu trong 1 lít máu ngoại vi.

Quan sát dưới kính hiển vi điện tử cho thấy tiểu cầu có một siêu cấu

trúc phức tạp gồm lớp màng, các hạt, hệ thống vi ống, hệ thống các kênh mở.

2.1. Màng tiểu cầu

Gồm 2 lớp lipid kép bao quanh tiểu cầu, là các glycoprotein quan trọng,

đóng vai trò như các receptor bề mặt, là nơi diễn ra một số hoạt động đông

máu của tiểu cầu.

Các thành phần quan trọng của màng tiểu cầu: Glycoprotein Ib (GpIb):

là protein xuyên màng có nhiệm vụ liên kết với yếu tố Von-Willebrand

(wWF) giúp cho tiểu cầu dính bám vào collagen Glycoprotein IIb/IIIa

(GpIIb/IIIa): là protein màng, hoạt động phụ thuộc vào ion Ca, có nhiệm vụ

liên kết với fibrinogen, giúp cho tiểu cầu ngưng tập với nhau tạo thành đinh

cầm máu.

Page 4: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

4

2.2. Hệ thống vi ống và vi sợi

- Vi ống: Nằm ngay cạnh màng tiểu cầu tạo nên khung đỡ và tham gia

vào hoạt động co rút khi tiểu cầu bị kích thích.

- Vi sợi: gốm các sợi actin, liên hệ chặt chẽ với các vi ống và tham gia

vào hoạt động tạo giả túc của tiểu cầu.

2.3. Hệ thống ống dày đặc

Hệ thống ống dày đặc gắn với Canxi lưỡng cực một cách chọn lọc và

đóng vai trò kho dự trữ canxi của tiểu cầu. Đây cũng là nơi tổng hợp men

cyclooxygenase và prostaglandin tiểu cầu.

2.4. Hệ thống các hạt đặc hiệu

- Các hạt đặc: là các hạt dày đặc điện tử, chứa nhiều ADP, canxi,

serotonin và các nucleotid khác. Các chất này được giải phóng khi tiểu cầu bị

kích thích và tăng cường độ ngưng tập tiểu cầu.

- Các hạt a: chứa nhiều loại protein khác nhau là: yếu tố phát triển tiểu

cầu (platelet derived growth factor - PDGF), fibrinogen, yếu tố V, vWF và

nhiều protein quan trọng giúp cho hiện tượng dính của tiểu cầu như

thrombospondin, fibronectin.

2.5. Hệ thống các kênh mở

Gồm các kênh mở vào trong tiểu cầu như các không bào làm tăng diện

tích bề mặt tiểu cầu, các hạt tiểu cầu phóng thích các chất qua hệ thống kênh

này.

3. Chức năng tiểu cầu

Chức năng chính của tiểu cầu là làm vững bền mạch máu, tạo nút cầm

máu ban đầu và tham gia vào quá trình đông máu huyết tương. Tiểu cầu thực

hiện các chức năng này nhờ các đặc tính sau:

Page 5: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

5

3.1. Chức năng dính bám

Bình thường tiểu cầu không dính vào thành mạch (có thể do

prostaglandin gây ức chế dính tiểu cầu). Khi thành mạch tổn thương thì lập

tức tiểu cầu được hoạt hoá và dính vào nơi tổn thương. Tiểu cầu còn có thể

dính vào các bề mặt lạ như thuỷ tinh, lam kính...

Các thành phần tham gia vào hiện tượng dính:

+ Collagen: là chất quan trọng để tiểu cầu bám dính, kích thích tiểu cầu

ngưng tập. Collagen tồn tại ở vùng gian bào mạch máu

+ GPIb: giúp cho hoạt động của chức năng dính

+ vWF: gắn với tiểu cầu qua GPIb như cầu nối tiểu cầu với một lớp nội

mô bị tổn thương

+ Các yếu tố khác bao gồm: fibronectin, thrombospondin, ion Ca.

3.2. Chức năng ngưng tập tiểu cầu

Đây là hiện tượng tiểu cầu dính với nhau thành từng đám (nút tiểu cầu).

Hiện tượng dính hoạt hoá tiểu cầu, tạo điều kiện cho hiện tượng ngưng tập

(aggregation) xảy ra.

Một số chất có khả năng gây ngưng tập tiểu cầu là: ADP, thrombin,

adrenalin, serotonin, acid arachidonic, thromboxan A2, collagen, ristocetin...,

trong đó ADP đóng vai trò quan trọng nhất.

Cơ chế ngưng tập là qua trung gian của liên kết fibrinogen-

GPIIb/GPIIIa đã được hoạt hoá có mặt ở lớp ngoài bào tương

3.3. Chức năng phóng thích các chất của tiểu cầu

Sau hiện tượng ngưng tập, tiểu cầu thay đổi hình dạng: phồng to, trải

rộng, kết dính, ngưng tập, hình thành chân giả, mất hạt, co lại...) và phóng

thích các chất chứa bên trong tiểu cầu như ADP, serotonin, fibrinogen, men

lysosome, b -thromboglobulin, heparin và nhiều loại men khác. Hiện tượng

Page 6: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

6

này có sự tham gia của thrombin, collagen và có tiêu hao năng lượng. Đây là

hiện tượng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tham gia hình thành đinh

cầm máu khi thành mạch bị tổn thương.

4. Vai trò của tiểu cầu trong đông cầm máu

4.1. Vai trò bảo vệ nội mô.

Tiểu cầu rất cần thiết cho sự toàn vẹn của mạch máu nhờ khả năng làm

non hoá tế bào nội mạch và củng cố màng nội mạch thông qua hoạt động của

yếu tố tăng trưởng nội mạc nguồn gốc từ tiểu cầu.

4.2. Tham gia vào quá trình cầm máu.

Nhờ có khả năng kết dính, ngưng tập và phóng thích các chất mà tiểu

cầu tham gia rất tích cực vào quá trình cầm máu kỳ đầu.

4.3. Tham gia vào quá trình đông máu.

Tiểu cầu cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình đông máu

thông qua một số hiện tượng sau:

- Ngay sau khi có hiện tượng dính, ngưng tập để khởi động quá trình

cầm máu thì đã có một quá trình hoạt hoá ngay tại màng tiểu cầu để chuyển

yếu tố XI thành XIa

- Tiểu cầu cung cấp bề mặt điện tích âm tạo thuận lợi cho việc hoạt hoá

yếu tố XI nhờ kallikrein và HMWK, là bước đầu tiên trong dòng thác đông

máu

- Sau khi có hiện tượng thay hình đổi dạng, tiểu cầu phóng thích các

chất trong đó có yếu tố 3 tiểu cầu, đó là yếu tố có vai trò quan trọng trong

hình thành phức hợp prothrombinase gồm Xa, Va, ion Ca và phospholipid

(yếu tố 3 tiểu cầu)

- Tiểu cầu gắn với yếu tố Xa làm tăng đáng kể tốc độ hoạt hoá

prothrombin do yếu tố Xa.

Page 7: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

7

- Ngoài ra tiểu cầu còn liên quan đáng kể đến đông máu qua phức hệ

yếu tố VIII và làm ổn định hoạt tính đông máu của yếu tố này.

II. SINH LÝ CỦA BẠCH CẦU

1. Hình dáng và số lượng

Bạch cầu là các tế bào có nhân, hình dáng và kích thước rất khác nhau

tuỳ từng loại. Bạch cầu không phải chỉ lưu thông trong máu, mà nó còn có

mặt ở nhiều nơi trong cơ thể: bạch huyết, dịch não tuỷ, hạch bạch huyết, các

tổ chức liên kết...

Thành phần bạch cầu rất phức tạp, gồm nhiều chất hữu cơ và vô cơ.

Bào tương của bạch cầu chứa nhiều sắt, calci, lipid (cholesterol, triglycerid và

acid béo). Các lipid này liên quan tới vai trò chống nhiễm trùng của bạch cầu.

Bạch cầu chứa nhiều lipid được xem như tiên lượng tốt chống nhiễm trùng

(Boyd,1973). trong bạch cầu còn có nhiều acid ascorbic, hạt glycogen. Hạt

glycogen nhiều lên trong quá trình tiêu hoá và mắc bệnh đái tháo đường.

Bạch cầu có một hệ thống enzym rất phong phú (oxydase, peroxydase,

catalase, lipase, amylase) và một số chất diệt khuẩn.

Trên màng tế bào bạch cầu có rất nhiều thụ thể liên quan tới chức năng

của bạch cầu. Dựa vào các thụ thể này, nhờ các kỹ thuật hiện đại, ta có thể

phân loại được bạch cầu và theo dõi các giai đoạn phát triển của bạch cầu.

Trên bề mặt lympho bào có hệ thống kháng nguyên phù hợp tổ chức.

Mặc dù một số kháng nguyên có mặt trên tế bào của nhiều mô, nhưng chúng

lại bị phát hiện dễ dàng trên lympho bào. Do đó tất cả kháng nguyên phù hợp

tổ chức chủ yếu của người được ký hiệu là HLA (humanlymphocyt antigen).

Tất cả HLA hợp thành hệ thống kháng nguyên phù hợp tổ chức của người,

còn gọi là hệ thống HLA, chia thành 5 nhóm. Nhóm HLA-A, nhóm HLA-B,

nhóm HLA-C, nhóm HLA-D và nhóm HLA-DR. Dưới các nhóm này có rất

Page 8: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

8

nhiều phân nhóm đã được đặt tên. Hệ thống kháng nguyên HLA di truyền và

rất có ý nghĩa trong đáp ứng miễn dịch thải ghép.

Trong 1lít máu ngoại vi có 7,0 x 109 bạch cầu (đối với nam) 6,2 x109

bạch cầu (đối với nữ), nhìn chung vào khoảng 5,0 x 109 đến 9,0 x 109 bạch

cầu (đối với người trưởng thành). Trẻ sơ sinh có số lượng bạch cầu rất cao:

20,0 x109 bạch cầu/1lít máu ngoại vi. Lúc một tuổi còn 10,0 x 109bạch

cầu/1lit máu. Từ 12 tuổi trở đi số lượng bạch cầu trở về ổn định bằng người

trưởng thành.

Số lượng bạch cầu tăng lên khi ăn uống, khi lao động thể lực, tháng

cuối của thời kỳ mang thai, sau khi đẻ. Đặc biệt số lượng bạch cầu tăng lên

khi nhiễm khuẩn, bệnh bạch cầu. Một số hormon và một số tinh chất mô cũng

làm tăng số lượng bạch cầu như: hormon tuyến giáp, adrenalin, estrogen, tinh

chất gan, tinh chất lách, tuỷ xương. Số lượng bạch cầu giảm khi bị lạnh, khi

bị đói, khi già yếu, suy nhược tuỷ, nhiễm virus, nhiễm độc, nhiễm trùng quá

nặng, hoặc điều trị bằng các hormon corticoid, insulin kéo dài...

2. Phân loại

Về mặt đại thể, với kỹ thuật kinh điển, dựa vào hình dáng, kích thước tế

bào, hình dáng nhân, sự bắt màu của hạt trong bào tương. Ngày nay nhờ kỹ

thuật hiện đại còn phát hiện được các thụ thể bề mặt tế bào bạch cầu v.v...;

người ta có thể phân loại bạch cầu thành bạch cầu hạt (bạch cầu đa nhân) và

bạch cầu không hạt (bạch cầu đơn nhân). Bạch cầu đa nhân được chia làm 3

loại: trung tính, ưa acid và base. Bạch cầu đơn nhân được chia làm 2 loại:

monocyt và lymphocyt. Ở người bình thường, tỷ lệ các bạch cầu trong máu

ngoại vi như sau:

Bạch cầu hạt ưa acid (E): 2,3%

Bạch cầu hạt ưa base (B): 0,4%

Page 9: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

9

Bạch cầu monocyt (M) : 5,3%

Bạch cầu hạt trung tính (N): 62,0%

Bạch cầu lymphocyt (L): 30,0%

Các nhà lâm sàng thường gọi tỷ lệ % các loại bạch cầu ở máu ngoại vi

là công thức bạch cầu phổ thông. Công thức thay đổi khi ăn uống, khi lao

động, khi có kinh nguyệt, khi có thai trên 4 tháng, khi đẻ. Trẻ sơ sinh có tới

70% là bạch cầu đa nhân, từ tháng thứ 3 trở đi chỉ còn 35% là các bạch cầu đa

nhân (lúc này chủ yếu là lympho bào). Công thức bạch cầu dần ổn định đến

sau tuổi dậy thì mới bằng người trưởng thành.

Ngày nay nhờ kỹ thuật cao chúng ta có thể phân loại bạch cầu một cách

chi tiết hơn với mục đích tìm hiểu chức năng của từng loại bạch cầu phục vụ

cho nghiên cứu khoa học, chẩn đoán và điều trị. Tuy vậy việc xác định công

thức bạch cầu phổ thông và số lượng bạch cầu vẫn được coi là xét nghiệm

thường quy của bệnh viện vì nó vẫn còn giá trị thực tiễn. Đồng thời với xác

định giá trị tương đối (là tỷ lệ % của từng bạch cầu), các nhà lâm sàng còn

xác định giá trị tuyệt đối (số lượng từng loại bạch cầu có trong 1lít máu). Chỉ

số này rất cần cho sự tiên lượng bệnh.

Bạch cầu đa nhân trung tính (N) tăng >70% trong các trường hợp nhiễm

khuẩn cấp, quá trình làm mủ, viêm tĩnh mạch, nghẽn mạch, nhồi máu cơ tim,

nhồi máu phổi. Nó còn tăng trong co giật động kinh, đưa protein vào trong cơ

thể, chảy máu phúc mạc nhẹ. Đồng thời với N tăng còn có bạch cầu đũa (stab)

tăng.

- Bạch cầu đa nhân trung tính giảm <60% trong các trường hợp nhiễm

trùng tối cấp, nhiễm virus kỳ toàn phát, sốt rét, cường lách, nhiễm độc, suy

nhược tuỷ.

Page 10: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

10

- Bạch cầu đa nhân ưa acid (E) tăng nhẹ và thoáng qua gặp trong hồi

phục sau nhiễm trùng, khử độc protein. E tăng liên tục trong các bệnh giun

sán, dị ứng, bệnh chất tạo keo.Bạch cầu đa nhân ưa acid giảm trong sốc, trong

hội chứng Cushing, trong giai đoạn điều trị bằng corticoid.

- Bạch cầu đa nhân ưa base (B) tăng trong một số trường hợp viêm mạn

tính kéo dài, viêm hồi phục. B còn thay đổi trong một số trường hợp nhiễm

độc.

- Bạch cầu đơn nhân monocyt (M) tăng trong nhiễm trùng, bệnh bạch

cầu, nhiễm virus. M giảm trong một số trường hợp nhiễm độc.

- Bạch cầu đơn nhân lymphocyt (L) tăng do tăng sinh trong nhiễm

khuẩn mạn tính, nhiễm virus, giai đoạn lui bệnh của nhiễm trùng.

3. Đời sống của bạch cầu

Như đã phân loại ở phần trên, bạch cầu được chia ra thành 3 dòng: dòng

bạch cầu hạt, dòng monocyt và dòng lymphocyt. Ba dòng bạch cầu này được

sinh ra từ tế bào gốc vạn năng trong tuỷ xương.

Dòng bạch cầu hạt: tế bào gốc phát triển qua nhiều giai đoạn trở thành

myeoblat promyelocyt myelocyt metamyelocyt bạch cầu đa nhân

trưởng thành. Từ myelocyt, bạch cầu chia thành ba loại bạch cầu đa nhân

(bạch cầu hạt) khác nhau: bạch cầu hạt trung tính, bạch cầu hạt ưa acid, bạch

cầu hạt ưa base.

Dòng lymphocyt: tế bào gốc vạn năng phát triển qua nhiều giai đoạn để

biệt hoá và được "xử lý" ở các mô đặc biệt rồi thành lympho trưởng thành dự

trữ trong các mô bạch huyết lưu thông máu các mô mô bạch huyết

v.v... chu kỳ xảy ra liên tục.

Dòng monocyt: tế bào gốc vạn năng phát triển qua nhiều giai đoạn biệt

hoá thành monocyt.

Page 11: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

11

Chưa biết chính xác thời gian sống của bạch cầu trong máu là bao lâu vì

bạch cầu có mặt ở khắp mọi nơi. Bạch cầu vào các cơ quan rồi từ các cơ quan

quay trở lại máu. Thời gian bạch cầu có mặt trong máu chẳng qua là thời gian

vận chuyển bạch cầu từ nơi sản xuất đến nơi sử dụng. Vì vậy thời gian sống

của bạch cầu trong máu là rất ngắn.

Nếu ngừng sản xuất bạch cầu đột ngột (bằng cách chiếu tia g) trong 3

đến 6 ngày đầu máu ngoại vi không còn bạch cầu đa nhân trung tính. Thời

gian bạch cầu sống trong máu khỏang 4-5 ngày. Thời gian bạch cầu sống cả

trong và ngoài mạch khoảng 8-12 ngày. Thời gian bạch cầu tồn tại trong tuỷ

xương khoảng 4-8 giờ. Khó có thể xác định chính xác thời gian sống của bạch

cầu monocyt vì nó luôn luôn qua lại giữa các mô. Thời gian lưu thông của

monocyt trong máu khoảng 10-20 giờ. Thời gian sống của monocyt trong các

ổ viêm dài hơn bạch cầu đa nhân trung tính. Lympho bào vào hệ tuần hoàn

liên tục qua ống ngực. Số lượng lympho bào trong ống ngực vào hệ tuần hoàn

chung trong 24 giờ thường là gấp nhiều lần số lượng lympho bào máu ở một

thời điểm. Điều đó chứng tỏ thời gian lympho bào sống trong máu là rất ngắn

(24h). Bạch cầu lympho từ cơ quan bạch huyết vào máu, từ máu tới mô, từ

mô lại vào cơ quan bạch huyết, rồi lại vào máu... chu kỳ cứ thế diễn ra liên

tục.

Bạch cầu bị tiêu diệt ở khắp mọi nơi trong cơ thể khi bị già cỗi, nhưng

chủ yếu là trong lòng ống tiêu hoá, phổi và lách. Bạch cầu (đặc biệt là các đại

thực bào, bạch cầu hạt trung tính) bị tiêu diệt ở các ổ viêm, các vùng và các

diện của cơ thể dễ bị vi khuẩn đột nhập như da, phổi, niêm mạc.

4. Đặc tính của bạch cầu

Bạch cầu có những đặc tính chung sau đây:

Page 12: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

12

4.1. Xuyên mạch.

Bạch cầu M và N có khả năng thay đổi hình dạng, xuyên qua vách giữa

các tế bào để tới những nơi cần thiết.

4.2. Chuyển động theo kiểu amip.

Bạch cầu M và N có khả năng chuyển động bằng chân giả (theo kiếu

amip) với tốc độ: 40mm/min.

4.3. Hoá ứng động và nhiệt ứng động

Có một số chất do mô viêm sản xuất, do vi khuẩn tạo ra hoặc những

chất hoá học đưa từ ngoài vào cơ thể thu hút bạch cầu tới (hoá ứng động

dương tính) hoặc xua đuổi bạch cầu ra xa hơn (hoá ứng động âm tính). Tương

tự, với nhiệt cũng như vậy, bạch cầu cũng có nhiệt ứng động dương tính và

âm tính. Các đặc tính này chủ yếu là của bạch cầu M và N.

4.4. Thực bào.

Bạch cầu M và N có khả năng thực bào, ẩm bào. Những điều kiện thuận

lợi cho thực bào là:

+ Bề mặt của vật rộng và xù xì.

+ Không có vỏ bọc. Các chất tự nhiên trong cơ thể có vỏ bọc là protein,

các chất này đẩy tế bào thực bào ra xa nên khó thực bào. Các mô chết, các vật

lạ không có vỏ bọc và thường tích điện rất mạnh nên chúng dễ bị thực bào.

+ Quá trình opsonin hoá. Các kháng thể (được sản xuất trong quá trình

miễn dịch) đã gắn vào màng tế bào vi khuẩn làm cho vi khuẩn dễ bị thực bào.

Sự thực bào được thực hiện như sau:

Bạch cầu tiếp cận vật lạ, phóng chân giả để bao vây vật lạ, tạo thành

một túi kín chứa vật lạ. Túi này xâm nhập vào trong tế bào, tách khỏi màng tế

bào tạo ra một túi thực bào trôi tự do trong bào tương. Túi thực bào tiếp cận

lysosom và các hạt khác trong bào tương và xuất hiện hiện tượng hoà màng.

Page 13: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

13

Các enzym tiêu hoá và các tác nhân giết vi khuẩn được trút vào túi thực bào

để xử lý vật lạ. Túi thực bào trở thành túi tiêu hoá. Sau khi tiêu hoá, các sản

phẩm cần thiết cho tế bào được giữ lại, các sản phẩm không cần thiết sẽ được

đào thải ra khỏi tế bào bằng quá trình xuất bào.

Tính thực bào của bạch cầu không phải là vô hạn. Một bạch cầu hạt

trung tính có thể thực bào 5-25 vi khuẩn thì chết. Đại thực bào có khả năng

thực bào mạnh hơn nhiều. Nó có thể thực bào tới 100 vi khuẩn. Khi nghiên

cứu chức năng thực bào của bạch cầu, người ta thường sử dụng "chỉ số thực

bào" để đánh giá chức năng này.

Bạch cầu có mặt ở khắp nơi trong cơ thể cho nên vi khuẩn đột nhập

bằng bất kỳ đường nào cũng bị tiêu diệt. Đặc biệt bạch cầu trấn giữ những nơi

quan trọng của cơ thể mà vi khuẩn dễ xâm nhập vào như: da, niêm mạc, các

hốc tự nhiên, phổi, đường tiêu hoá, gan, lách. Tuy vậy có một số vi khuẩn bị

bạch cầu "nuốt" nhưng không "giết" được như mycobacteria, salmonella,

listera ... Những vi khuẩn này ẩn náu rồi nhân lên trong đại thực bào. Bạch

cầu N và đại thực bào còn chứa những chất giết vi khuẩn. Một số vi khuẩn

không bị tiêu hoá bởi các enzym của lysosom vì chúng có vỏ bọc bảo vệ,

hoặc có các yếu tố ngăn chặn tác dụng của các enzym tiêu hoá nhưng lại bị

chết bởi các chất giết vi khuẩn. Các chất giết vi khuẩn là các chất oxy hoá

mạnh như superoxid (02-), hydrogenperoxid (H202), ion hydroxyl (0H-).

Ngoài ra enzym mieloperoxydase của lysosom cũng có khả năng giết vi

khuẩn vì nó làm tan màng lipid của vi khuẩn.

5. Quá trình Viêm

Khi viêm, đặc tính của mô bị thay đổi như sau:

- Giãn mạch tại chỗ làm cho lưu lượng máu tăng lên.

- Tăng tính thấm mao mạch gây phù nề.

Page 14: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

14

- Đông dịch kẽ và dịch bạch huyết do fibrinogen và các yếu tố gây đông

máu thoát vào.

- Tập trung nhiều bạch cầu N và đại thực bào.

- Các tế bào của mô trương phồng lên.

Mô bị thương tổn do bất kỳ một nguyên nhân nào (vi khuẩn, chấn

thương, hoá chất, nhiệt v.v...) sẽ giải phóng histamin, bradykinin, serotonin,

prostaglandin, các yếu tố gây đông máu. Lympho bào T hoạt hoá giải phóng

ra lymphokin. Một số chất trên đã hoạt hoá đại thực bào và cùng với một số

sản phẩm khác do tế bào tổn thương và vi khuẩn tạo ra đã gây hoá động

dương tính với bạch cầu N và đại thực bào. Bạch cầu bám mạch, xuyên mạch

và di chuyển tới ổ viêm.

Sự đông dịch kẽ và bạch huyết tạo ra một bức tường bảo vệ ngăn cách

giữa vùng viêm và vùng lành. Sự tập trung của bạch cầu (đại thực bào tới

trước: sau vài phút, bạch cầu N tới sau: sau vài giờ) là một hàng rào thứ hai.

Đồng thời với sự tập trung của bạch cầu, tế bào viêm sản xuất ra các globulin,

các sản phẩm phân huỷ bạch cầu vào máu, theo máu tới tác động lên tuỷ

xương làm tăng sản xuất bạch cầu (sau một, hai ngày). Do quá trình tăng sản

xuất bạch cầu cho nên trong máu sẽ có nhiều bạch cầu non hơn bình thường

(bạch cầu đũa).

Ổ viêm hình thành một cái hốc chứa xác vi khuẩn, bạch cầu N, đại thực

bào, tổ chức hoại tử gọi là mủ. Mủ nhiều sẽ bị vỡ thoát ra ngoài hoặc vào các

xoang, các tạng rỗng của cơ thể. Nếu hàng rào bảo vệ kém, vi khuẩn sẽ lan

rộng vào các cơ quan, có khi vào cả máu. Ở máu cũng có đại thực bào và

bạch cầu N sẵn sàng tiêu diệt chúng. Trong nhiều trường hợp cơ thể không tự

bảo vệ được mình các triệu chứng nhiễm khuẩn tăng lên dần và cần phải được

điều trị kịp thời.

Page 15: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

15

6. Bạch cầu đa nhân ưa acid

Bạch cầu E có khả năng thực bào và hoá ứng động rất yếu nên không

quan trọng trong nhiễm trùng thông thường. Ở những người nhiễm ký sinh

trùng (KST), số lượng bạch cầu E tăng cao và chúng tới các ổ nhiễm ký sinh

trùng. Bạch cầu E giải phóng ra các chất để giết KST: men thuỷ phân từ các

hạt của bào tương, oxy nguyên tử, các peptid v.v... Bạch cầu E cũng tập trung

nhiều ở các ổ có phản ứng dị ứng (tiểu phế quản, da v.v...). Trong quá trình

tham gia vào phản ứng dị ứng, dưỡng bào và bạch cầu B đã giải phóng ra các

chất gây hóa ứng động dương tính với bạch cầu E. Bạch cầu E có tác dụng

khử độc là các chất gây viêm do dưỡng bào và bạch cầu B giải phóng ra.

Bạch cầu E cũng có thể có tác dụng thực bào để chống quá trình lan rộng của

viêm.

7. Bạch cầu đa nhân ưa base

Bạch cầu đa nhân ưa base có thể giải phóng heparin, histamin, một ít

bradykinin và serotonin. Tại ổ viêm các chất trên cũng được dưỡng bào giải

phóng ra trong quá trình viêm. Dưỡng bào và bạch cầu B đóng vai trò quan

trọng trong phản ứng dị ứng vì kháng thể IgE gây phản ứng dị ứng có khả

năng gắn vào màng dưỡng bào và bạch cầu B. Khi gặp kháng nguyên đặc

hiệu phản ứng với kháng thể làm cho các tế bào này bị vỡ ra và giải phóng

heparin, histamin, bradykinin, serotonin, enzym thuỷ phân lysosom và nhiều

chất khác. Các chất trên gây ra dị ứng.

8. Bạch cầu Lympho

Bạch cầu lympho được chia thành hai loại: lympho bào B và lympho

bào T. Chúng đều có chung nguồn gốc trong bào thai là các tế bào gốc vạn

năng. Các tế bào này sẽ biệt hoá hoặc được "xử lý" để thành các lympho bào

trưởng thành. Một số tế bào lympho di trú ở tuyến ức và được "xử lý" ở đây

Page 16: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

16

nên gọi là lympho bào T (Thymus). Một số tế bào lympho khác được "xử lý"

ở gan (nửa đầu thời kỳ bào thai) và tuỷ xương (nửa sau thời kỳ bào thai).

Dòng tế bào lympho này được phát hiện lần đầu tiên ở loài chim và chúng

được "xử lý" ở bursa fabricicus (cấu trúc này không có ở động vật có vú) nên

được gọi là lympho bào B (lấy từ chữ bursa).

Sau khi được "xử lý" các lympho bào lưu thông trong máu rồi dự trữ ở

mô bạch huyết, rồi lại vào máu v.v... chu kỳ tiếp diễn nhiều lần. Chức năng

chính của lympho bào là: lympho bào B chịu trách nhiệm về miễn dịch dịch

thể. Lympho bào T chịu trách nhiệm về miễn dịch tế bào. Hai chức năng của

hai loại tế bào này có mối liên quan chặt chẽ với nhau.

8.1. Chức năng của lympho bào B.

Trước khi tiếp xúc với kháng nguyên đặc hiệu, các clon lympho B ngủ

yên trong mô bạch huyết. Khi kháng nguyên xâm nhập vào, các đại thực bào

thực bào kháng nguyên và giới thiệu (trình) kháng nguyên cho các lympho

bào B và lympho bào T. Các lympho bào T hỗ trợ được hoạt hoá cũng góp

phần họat hoá lympho bào B. Các lympho bào B đặc hiệu với kháng nguyên

được hoạt hoá, ngay lập tức trở thành các nguyên bào lympho. Một số nguyên

bào biệt hoá tiếp để thành nguyên tương bào là tiền thân của tương bào

plasmocyt. Trong các tế bào này có mạng nội bào tương có hạt tăng sinh. Tế

bào phân chia rất nhanh: 9 lần phân chia trong khoảng 10 giờ và trong 4 ngày

đầu một nguyên tương bào sinh ra tới 500 tế bào. Các tương bào sinh kháng

thể globulin với tốc độ rất nhanh và mạnh. Mỗi tương bào sản xuất khoảng

2000 kháng thể/1giây. Các kháng thể vào hệ tuần hoàn. Sự sản xuất kháng thể

kéo dài vài ngày hoặc vài tuần cho đến khi tương bào bị chết.

Trong quá trình thực hiện chức năng miễn dịch, một số nguyên bào

lympho sinh ra một lượng khá lớn tế bào lympho B mới giống như tế bào

Page 17: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

17

lympho B gốc của clon và được bổ sung thêm vào số tế bào lympho gốc của

clon. Các tế bào này cũng lưu thông trong máu và cũng cư trú trong mô bạch

huyết. Khi gặp lại cùng một kháng nguyên chúng sẽ được hoạt hoá một lần

nữa, đó là các tế bào nhớ. Sự đáp ứng kháng thể của các tế bào lympho B này

diễn ra nhanh và mạnh hơn rất nhiều so với những tế bào lymphpo gốc của

clon đặc hiệu. Điều này giải thích tại sao đáp ứng miễn dịch nguyên phát (tiếp

xúc kháng nguyên đặc hiệu lần đầu) lại chậm và yếu hơn so với đáp ứng miễn

dịch thứ phát (tiếp xúc với cùng một kháng nguyên lần thứ 2).

8.2. Chức năng của lympho bào T.

Khi tiếp xúc với kháng nguyên đặc hiệu do đại thực bào giới thiệu, các

tế bào lympho T của mô bạch hyết tăng sinh và đưa nhiều tế bào lympho T

hoạt hoá vào bạch huyết rồi vào máu. Chúng đi khắp cơ thể qua mao mạch

vào dịch kẽ rồi trở lại bạch huyết để vào máu một lần nữa. Chu kỳ cứ tiếp

diễn như vậy hàng tháng hoặc hàng năm.

Tế bào nhớ của lympho bào T cũng đựơc hình thành như tế bào nhớ của

lympho bào B. Đáp ứng miễn dịch tế bào thứ phát là tạo ra lympho bào T

hoạt hóa mạnh hơn, nhanh hơn đáp ứng miễn dịch tế bào nguyên phát. Trên

bề mặt của một lympho bào T có hàng trăm ngàn vị trí receptor.Các kháng

nguyên gắn vào receptor đặc hiệu trên bề mặt tế bào lympho T cũng giống

như gắn với kháng thể đặc hiệu do lympho bào B sản xuất ra.

Các lympho bào T được chia thành lympho bào T hỗ trợ, lympho bào T

gây độc và lympho bào T trấn áp. Tế bào lympho T hỗ trợ chiếm 3/4 tổng số

tế bào lympho T và có chức năng điều hoà hệ thống miễn dịch. Sự điều hoà

này thông qua lymphokin mà quan trọng nhất là interleukin. Nếu thiếu

lymphokin của lympho bào T thì hệ thống miễn dịch sẽ bị tê liệt. Interleukin

2, 3, 4, 5, 6 có tác dụng kích thích tạo cụm bạch cầu hạt, bạch cầu M và làm

Page 18: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

18

tăng chức năng thực bào của các tế bào này. Interleukin 2, 4, 5 kích thích tăng

sinh, tăng trưởng tế bào lympho T gây độc tế bào và lympho bào T trấn áp.

Các interleukin, đặc biệt là interleukin 4, 5, 6 kích thích rất mạnh tế bào

lympho B và làm tăng cường chức năng miễn dịch dịch thể. Ngoài ra,

interleukin 2 còn có vai trò điều hoà ngược dương tính đối với tế bào lympho

T hỗ trợ làm cho đáp ứng miễn dịch mạnh lên gấp bội.

Lympho bào T gây độc tế bào có khả năng tấn công trực tiếp các tế bào,

có khả năng giết chết vi khuẩn, đôi khi giết cả chính bản thân cơ thể mình. Do

đó có người gọi nó là tế bào giết tự nhiên (Native Kill cell, thường viết tắt là

NK). Các receptor trên bề mặt tế bào giết có khả năng gắn chặt vào vi khuẩn

hoặc tế bào có chứa các kháng nguyên đặc hiệu. Tế bào giết giải phóng

perforin (bản chất là một protein) để tạo ra nhiều lỗ trên màng tế bào bị tấn

công. Qua lỗ này, các chất gây độc tế bào được bơm từ tế bào giết sang tế bào

bị tấn công, làm cho tế bào bị giết tan ra. Tế bào giết có thể giết liên tiếp

nhiều tế bào khác mà vẫn có khả năng tồn tại hàng tháng. Tế bào giết có tác

dụng đặc biệt lên các tế bào có chứa virus, vì tính kháng nguyên của virus

trong tế bào rất hấp dẫn tế bào giết. Tế bào giết cũng có vai trò quan trọng

trong sự phá huỷ tế bào ung thư, nhất là tế bào các mô ghép.

Lympho bào T trấn áp có khả năng trấn áp tế bào lympho T hỗ trợ và tế

bào lympho T gây độc tế bào. Chức năng này là để điều hoà hoạt động của tế

bào, duy trì sự đáp ứng miễn dịch không quá mức, vì đáp ứng miễn dịch quá

mức sẽ gây tác hại cho cơ thể. Vì vậy tế bào lympho T trấn áp và tế bào

lympho T hỗ trợ được gọi là tế bào lympho điều hoà. Cơ chế điều hoà của tế

bào lympho T trấn áp đối với tế bào lympho T hỗ trợ là cơ chế điều hoà

ngược âm tính. Lympho bào T trấn áp cũng có khả năng ức chế tác dụng của

Page 19: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

19

hệ thống miễn dịch tấn công vào tế bào các mô cơ thể (hiện tượng dung nạp

miễn dịch).

III. SINH LÝ CỦA HỒNG CẦU

1. Hình dạng và kích thước

Hồng cầu trưởng thành, lưu thông trong máu là tế bào không có nhân. Ở

điều kiện tự nhiên, nó có hình đĩa lõm hai mặt, đường kính khoảng 7,2mm, bề

dày ở ngoại vi là 2,2mm, ở trung tâm là 1mm

Thể tích một hồng cầu là 83mm3 (83femtolit). Nhờ có tính đàn hồi tốt

mà hồng cầu dễ dàng thay đổi hình dạng khi đi qua các mao mạch. Diện tích

bề mặt hồng cầu lớn (do có hai mặt lõm), vì vậy khi hồng cầu biến dạng màng

hồng cầu không bị căng và vỡ ra. Nếu tính diện tích toàn bộ màng hồng cầu

trong cơ thể cộng lại, có thể lên đến 3000m2.

2. Thành phần

Tỷ lệ thành phần của hồng cầu:

Page 20: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

20

Hồng cầu có một cấu trúc đặc biệt với nhiều thành phần khác nhau. Nó

gồm một nền do protein và lipid tạo nên. Đa số lipid đều kết hợp với protein

tạo thành lipoprotein. Trong nền còn có glucose, clorua, phosphat... Nền và

màng chiếm 2-5% trọng lượng hồng cầu. Giữa các mắt của nền có

hemoglobin. Hai thành phần quan trọng nhất của hồng cầu được nghiên cứu

nhiều đó là màng hồng cầu và hemoglobin. Màng hồng cầu mang nhiều

kháng nguyên nhóm máu. Hemoglobin là thành phần quan trọng trong sự vận

chuyển khí của máu.

3. Số lượng

Người trưởng thành, ở máu ngoại vi có 3,8 x 1012 hồng cầu/lít (đối với

nữ); 4,2 x1012 hồng cầu/lít (đối với nam). Trẻ mới sinh, ở ngày đầu số lượng

hồng cầu rất cao (5,0 x1012 hồng cầu/lít). Sau đó, do hiện tượng tan máu, số

lượng hồng cầu giảm dần. Trẻ em dưới 15 tuổi có số lượng hồng cầu thấp hơn

người trưởng thành 0,1 - 0,2 x 1012 hồng cầu/lít. Số lượng hồng cầu ổn định

ở tuổi trưởng thành.

Số lượng hồng cầu tăng lên sau bữa ăn, khi lao động thể lực, sống ở

trên núi cao 700 - 1000m, khi ra nhiều mồ hôi, đái nhiều, ỉa chảy, bỏng mất

huyết tương, trong bệnh đa hồng cầu, bệnh tim bẩm sinh.... Số lượng hồng

cầu giảm lúc ngủ, khi uống nhiều nước, cuối kỳ hành kinh, sau đẻ, đói lâu

ngày, ở nơi có phân áp oxy cao, các loại bệnh thiếu máu, suy tuỷ, nhiễm độc,

chảy máu trong, chảy máu do vết thương...

4. Quá trình sinh hồng cầu

4.1. Nguồn gốc và các giai đoạn phát triển của hồng cầu

Những tuần đầu của thai nhi hồng cầu có nhân được lá thai giữa sản

xuất. Từ tháng thứ hai trở đi gan, lách, sau đó là hạch bạch huyết cũng sản

xuất ra hồng cầu có nhân. Từ tháng thứ 5 của kỳ phát triển thai, tuỷ xương bắt

Page 21: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

21

đầu sản xuất hồng cầu và từ đó trở đi, tuỷ xương là nơi duy nhất sinh ra hồng

cầu. Sau tuổi 20 các tuỷ xương dài bị mỡ hoá, còn tuỷ xương xốp như xương

sống, xương sườn, xương ức, xương chậu sản xuất hồng cầu. Vì vậy tuổi già

dễ bị thiếu máu hơn.

Tế bào tuỷ xương là tế bào gốc vạn năng có khả năng duy trì nguồn

cung cấp tế bào gốc và phát triển thành tế bào gốc biệt hoá để tạo ra các dòng

khác nhau của tế bào máu (theo thuyết một nguồn gốc). Tế bào gốc biệt hoá

sinh ra hồng cầu được gọi là đơn vị tạo cụm của dòng hồng cầu: C.F.U.E

(Colony forming unit erythrocyt). Sau đó các tế bào dòng hồng cầu trải qua

các giai đoạn sau đây.

Tiền nguyên hồng cầu (proerythoblast)

Nguyên hồng cầu ưa kiềm( normoblast ưa kiềm) và Nguyên hồng cầu

đa sắc (normoblast đa sắc) và Nguyên hồng cầu (normoblast) và Hồng cầu

lưới (reficulocyt) à Hồng cầu trưởng thành (erythrocyt).

Nhân của nguyên hồng cầu mất đi khi nồng độ hemoglobin trong bào

tương cao > 34%. Hồng cầu chính thức không có nhân xuyên mạch rời bỏ tuỷ

xương vào hệ tuần hoàn chung. Hồng cầu lưới cũng có khả năng vào máu như

hồng cầu trưởng thành nhưng tỷ lệ rất thấp chỉ chiếm 1% tổng số lượng hồng

cầu ở máu ngoại vi, khoảng 1-2 ngày sau hồng cầu lưới trở thành hồng cầu

trưởng thành. Hồng cầu sống trong máu khoảng 120 ngày (người da trắng),

gần 120 ngày (người Việt).

Hệ thống enzym nội bào hồng cầu luôn luôn tổng hợp ATP từ glucose

để duy trì tính đàn hồi của màng tế bào, duy trì vận chuyển ion qua màng, giữ

cho sắt luôn luôn có hoá trị 2, đồng thời ngăn cản sự oxy hoá protein trong

hồng cầu. Trong quá trình sống, hệ thống enzym giảm dần, hồng cầu già cỗi,

màng hồng cầu kém bền và dễ vỡ.

Page 22: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

22

Một phần hồng cầu tự huỷ trong máu, còn đại bộ phận hồng cầu bị huỷ

trong tổ chức võng - nội mô của lách, gan, tuỷ xương. Hemoglobin được giải

phóng ra bị thực bào ngay bởi các đại thực bào lách, gan, tuỷ xương. Đại thực

bào giải phóng sắt vào máu và nó được vận chuyển dưới dạng ferritin. Phần

porphyrin của hem trong đại thực bào được chuyển thành sắc tố bilirubin giải

phóng vào máu, rồi qua gan để bài tiết theo mật.

4.2. Các nguyên liệu cần thiết cho quá trình sinh hồng cầu

Để tạo thành hồng cầu, trong cơ thể có hai quá trình song song: sự tạo

thành tế bào hồng cầu và sự tổng hợp hemoglobin. Đây là những quá trình rất

phức tạp, đòi hỏi nhiều nguyên liệu như protein, cholin, thymidin, acid

nicotinic, thiamin, pyridoxin, acid folic, vitamin B12, Fe++

, nhiều enzym và

chất xúc tác cho quá trình tổng hợp này.

Vitamin B12 và acid folic rất cần cho quá trình tổng hợp

thymidintriphosphat, một trong những thành phần quan trọng của DNA.

Thiếu vitamin B12 và acid folic sẽ làm giảm DNA, tế bào sẽ không phân chia

và không trưởng thành được.Lúc này các nguyên hồng cầu trong tuỷ xương

có kích thước lớn hơn bình thường, được gọi là nguyên bào khổng lồ. Tế bào

to ra là vì lượng DNA không đủ nhưng lượng RNA lại tăng dần lên hơn bình

thường, tế bào tăng tổng hợp hemoglobin hơn và các bào quan cũng nhiều

hơn. Các hồng cầu trưởng thành sẽ có hình bầu dục không đều, màng mỏng

hơn và đời sống sẽ ngắn hơn (chỉ bằng 1/3 - 1/2 thời gian của hồng cầu bình

thường).

Vitamin B12 qua đường tiêu hoá kết hợp với yếu tố nội (tế bào viền

tuyến dạ dày bài tiết). Phức hợp này gắn vào receptor màng tế bào niêm mạc

hồi tràng và vitamin B12 được hấp thu theo cơ chế ẩm bào. Vitamin B12 vào

máu, dự trữ ở gan. Nhu cầu vitamin B12 là 1 - 3 mg/24h. Trong khi đó sự dự

Page 23: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

23

trữ vitamin B12 của gan có thể gấp 1000 lần nhu cầu của cơ thể trong một

ngày.

Thành phần thứ hai không kém phần quan trọng là sắt. Sắt được hấp thu

theo đường tiêu hoá vào máu. Trong máu, sắt được kết hợp với một globulin

là apotransferrin để tạo thành transferrin vận chuyển trong huyết tương (vì sắt

liên kết với globulin rất lỏng lẻo). Sắt được vận chuyển tới các mô đặc biệt: tổ

chức võng - nội mô và gan. Tại đây, sắt được giải phóng ra và được tế bào

hấp thu.

Trong bào tương, sắt kết hợp với một protein là apoferritin để tạo thành

ferritin là dạng dự trữ sắt. Một lượng nhỏ sắt được dự trữ ở dạng hemosiderin

trong tế bào. Đặc tính duy nhất của transferrin là nó gắn rất mạnh với receptor

màng tế bào nguyên hồng cầu. Trong tế bào, transferrin giải phóng sắt vào ty

lạp thể. Tại đây diễn ra quá trình tổng hợp hem. Mỗi ngày một người trưởng

thành cần 1mg sắt. Phụ nữ cần sắt nhiều gấp đôi so với nam giới vì bị mất

máu qua máu kinh nguyệt. Sắt bị thải hàng ngày qua phân và mồ hôi.

Sắt được hấp thu ở ruột nhờ apoferritin do gan sản xuất, bài tiết theo

mật vào tá tràng. Apoferritin gắn với sắt tự do hoặc với sắt của hemoglobin,

myoglobin để tạo thành transferrin.Transferrin gắn vào receptor tế bào niêm

mạc ruột, rồi vào máu. Sắt được hấp thu rất chậm và rất ít, mặc dù sắt được ăn

vào theo thức ăn là khá nhiều. Khi apoferritin trong cơ thể bão hoà sắt thì

transferrin không giải phóng sắt cho các mô và cũng không nhận sắt từ ruột,

hấp thu sắt bị ngừng lại.

Khi cơ thể thừa sắt, gan giảm sản xuất apoferritin làm cho apoferritin

trong máu và mật giảm và cũng làm giảm hấp thu sắt. Trong trường hợp ăn

quá nhiều sắt, sắt vào máu nhiều dẫn đến lắng đọng hemosiderin trong các tế

bào võng - nội mô, gây độc hại cho tế bào này.

Page 24: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

24

4.3. Sự điều hoà quá trình sinh hồng cầu

Số lượng hồng cầu ở máu ngoại vi được điều hoà hằng định nhằm cung

cấp đủ oxy cho tế bào hoạt động. Sự tăng trưởng và sinh sản của các tế bào

gốc được kiểm soát bởi các protein kích thích tăng trưởng, ví dụ như

interleukin 3.

Các tế bào gốc biệt hoá đến lượt mình lại chịu sự kích thích tăng trưởng

của các chất gây biệt hoá, mà các chất này lại được rất nhiều cơ quan như

thận, gan... sản xuất khi chúng bị thiếu oxy.

Bệnh nhân bị thiếu máu do mất máu, bị giảm chức năng tuỷ xương khi

bị chiếu xạ, những người sống ở vùng núi cao có nồng độ oxy trong không

khí thấp hơn bình thường, bệnh nhân bị suy tim, các bệnh về phổi có giảm

trao đổi khí ở phổi... đều gây ra thiếu oxy ở các mô làm cho quá trình oxy hoá

ở các mô bị giảm đi.

Khi các mô bị thiếu oxy chúng sản xuất ra erythropoietin.

Erythropoietin là một glucoprotein có TLPT là 34000. Bình thường 80-90%

erythropoietin là do thận sản xuất, còn lại là do gan sản xuất. Một số mô khác

cũng sản xuất erythropoietin, nhưng không đáng kể. Vì vậy chúng ta có thể

gặp bệnh nhân thiếu máu do suy thận mãn tính. Khi thận và gan thiếu oxy,

erythropoietin sẽ được sản xuất sau vài phút hoặc sau vài giờ.

Erythropoietin do thận sản xuất ở dạng chưa hoạt động gọi là

erythogenin. Nhờ kết hợp với một globulin (do gan sản xuất) erythogenin

chuyển thành erythropoietin hoạt động. Erythropoietin có tác dụng: kích thích

quá trình chuyển C.P.U.E thành tiền nguyên hồng cầu và kích thích chuyển

nhanh các hồng cầu non thành hồng cầu trưởng thành.

Page 25: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

25

5. Sức bền hồng cầu

Màng hồng cầu là một màng bán thấm. Nước có thể qua màng hồng cầu

khi áp xuất thẩm thấu bên trong và bên ngoài hồng cầu khác nhau. Người ta

xác định sức bền hồng cầu bằng dung dịch muối NaCl nhược trương có nồng

độ khác nhau từ 0,02% một ( phương pháp Hamberger).

Hồng cầu trong dung dịch muối NaCl nhược trương bị trương to lên và

vỡ ra do nước từ dung dịch muối vào trong hồng cầu.Khi hồng cầu vỡ,

hemoglobin giải phóng vào dung dịch và làm cho nó có màu hồng. Một số

hồng cầu bắt đầu vỡ trong dung dịch muối NaCl nhược trương 0,44%. Nồng

độ muối NaCl 0,44% được gọi là sức bền tối thiểu của hồng cầu. Toàn bộ

hồng cầu vỡ hết trong dung dịch NaCl nhược trương 0,34%. Nồng độ muối

NaCl 0,34% được gọi là sức bền tối đa của hồng cầu.

Sức bền của hồng cầu giảm trong bệnh vàng da huỷ huyết, tăng lên sau

cắt lách.

6. Tốc độ lắng hồng cầu

Máu được chống đông, đặt trong ống nghiệm, hồng cầu lắng xuống

dưới, huyết tương nổi lên trên. Điều đó xảy ra là do tỷ trọng của hồng cầu

(1,097) cao hơn tỷ trọng của huyết tương (1,028). Khi có quá trình viêm diễn

ra trong cơ thể làm hàm lượng các protein máu thay đổi, cân bằng điện tích

protein huyết tương thay đổi, điện tích màng hồng cầu cũng bị biến đổi theo,

hồng cầu dễ dính lại với nhau hơn và làm cho nó lắng nhanh hơn.

Như vậy tốc độ lắng máu càng cao thì quá trình viêm đang diễn ra trong

cơ thể càng mạnh. Chỉ số tốc độ lắng hồng cầu là chiều cao cột huyết tương

tính bằng mm trong 1h, 2h và 24h.

Page 26: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

26

7. Hemoglobin

7.1. Cấu trúc của Hemoglobin.

Hemoglobin (Hb) là 1 protein màu, phức tạp thuộc nhóm

chromoproteid màu đỏ, có nhóm ngoại là hem. Hb là thành phần chủ yếu của

hồng cầu, chiếm 28% và tương ứng với 14,6g trong 100 ml máu. TLPT của

Hb là 64.458.

Hb gồm 2 phần: hem và globin. Mỗi phân tử Hb có 4 hem và 1 globin.

Nó được tạo thành từ 4 dưới đơn vị. Mỗi dưới đơn vị là 1 hem kết hợp với

globin.

Globin có cấu trúc là các chuỗi polypeptid. Ở người lớn, 4 chuỗi

polypeptid giống nhau từng đôi một: 2 chuỗi a và 2 chuỗi b. Các dưới đơn vị

liên kết với nhau bằng liên kết yếu: liên kết ion, liên kết hydro, tạo nên cấu

trúc bậc 4 của phân tử Hb. Ở chuỗi polypeptid của mỗi dưới đơn vị có 1 hốc

chứa hem. Trung tâm của phân tử Hb có 1 hốc rỗng gọi là hốc trung tâm. Hốc

trung tâm tiếp nhận phân tử 2,3 diphosphoglycerat (2,3 DPG) và sự kết hợp

của hốc trung tâm với 2,3 DPG có vai trò điều hoà ái lực của Hb với 0xy.

Thành phần thứ 2 của Hb là hem. Sắc tố hem thuộc loại porphyrin là

những chất có khả năng kết hợp với nguyên tử kim loại. Hem ở người là

porotophyrin IX kết hợp với Fe++

. Hem có 4 nhân pyrol liên kết với nhau

bằng cầu nối menten (-CH=). Vòng porphyrin có gắn các gốc metyl (-CH3) ở

vị trí 1, 3, 5, 8; các gốc vinyl (-CH=CH2) ở vị trí 2,4; các gốc propionyl (-

CH2 - CH2 - COOH) ở vị trí 6,7. Fe++

gắn với đỉnh phía trong của nhân pyrol

bằng hai liên kết đồng hoá trị và hai liên kết phối trí và với globin qua gốc

histidin.

Porphyrin là phổ biến trong thế giới sinh vật. Porphyrin kết hợp với

Mg++

tạo thành chất diệp lục của thực vật.

Page 27: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

27

Hem có thể kết hợp với nhiều chất khác nhau. Nếu hem kết hợp với

globin thì tạo thành Hb. Nếu hem kết hợp với albumin, NH3, pyridin,

nicotin... tạo nên chất gọi là hemochromogen. Hem phản ứng với NaCl trong

môi trường acid tạo ra chloruahem (hemin). Phản ứng này được sử dụng trong

pháp y.

7.2. Các loại hemoglobin ở người.

Hemogobin khác nhau ở phần cấu tạo globin. Hb của thai nhi là HbF.

Globin của HbF gồm hai chuỗi a và hai chuỗi g. Hb của người lớn là HbA.

Globin của HbA gồm hai chuỗi a và hai chuỗi b (vị trí thứ 3 của chuỗi b là

glutamin được thay bằng threonin ở chuỗi g). Hb của bệnh nhân mắc bệnh

thiếu máu có hồng cầu hình lưỡi liềm là HbS (HbB) vị trí thứ 6 của chuối b là

valin được thay bằng glutamin. Loại hồng cầu này rất dễ vỡ khi qua mao

mạch nhỏ. HbC và HbD là các Hb bình thường gặp ở một số chủng tộc người

Châu Phi.

Có nhiều phương pháp định lượng Hb, kể cả các phương pháp không

chảy máu. Bình thường người Việt có Hb là 14,6g (đối với nam) và 13,3g

(đối với nữ) trong 100ml máu. Đếm số lượng hồng cầu và định lượng Hb là

những xét nghiệm quan trọng trong đánh giá sự thiếu máu, thiếu máu đẳng

sắc (giá trị hồng cầu =1), thiếu máu ưu sắc (giá trị hồng cầu >1) và thiếu máu

nhược sắc (giá trị hồng cầu <1).

7.3. Chức năng của hemoglobin.

- Hemoglobin kết hợp với oxy tạo thành oxyhemoglobin (HbO2). Khả

năng kết hợp lỏng lẻo và thuận nghịch tạo điều kiện cho việc Hb nhận oxy ở

phổi rồi vận chuyển đến mô giải phóng oxy cho tế bào. Oxy kết hợp với Hb ở

phần Fe++

của hem.

Page 28: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

28

Mỗi Hb có 4 hem, mỗi hem có 1Fe++

. Như vậy về mặt lý thuyết một

phân tử Hb có thể kết hợp bão hoà với 4 phân tử oxy. Thực tế trong cơ thể

điều này rất khó xảy ra vì không bao giờ có sự bão hoà 100% HbO2. Sự kết

hợp giữa oxy với Fe++

xảy ra như sau: Khi một phân tử oxy gần tới Fe++

(do

oxy khuyếch tán từ phế nang vào máu, từ máu vào trong hồng cầu) thì cùng

một lúc xảy ra hai mối liên kết: Fe++

-O2- và Fe++

-N+- (nitơ của nhóm

imidazol). Lúc này oxy mang điện tích âm vì nhận điện tử của nitơ. Fe++

lúc

này trở thành một acid yếu. Vì một lý do nào đó mà không có mối liên kết

Fe++

-N+-, lúc này oxy không liên kết với Fe

++ mà lại nhận điện tử của Fe

++ ,

Hb chuyển thành methemoglobin, làm cho Hb mất khả năng vận chuyển oxy.

Imidazol định hướng trên bề mặt hem là nguyên nhân tạo ra mối liên kết Fe++

-

N+-.

Sự kết hợp và phân ly HbO2 chịu ảnh hưởng của pO2, pCO2, pH, nhiệt

độ máu.

- Hemoglobin kết hợp với carbonic tạo thành carbohemoglobin

(HbCO2). Đây cũng là một phản ứng thuận nghịch. Sự kết hợp xảy ra ở mô,

sự phân ly xảy ra ở phổi. Carbonic kết hợp với Hb ở nhóm amin của globin

nên gọi là phản ứng các carbamin. Carbonic được vận chuyển ở dạng HbCO2

không nhiều, chỉ chiếm 6,5% tổng số CO2 vận chuyển trong máu.

- Hemoglobin kết hợp với carbonmonocid tạo thành

Carboxyhemoglobin (HbCO). HbCO rất bền vững và không còn khả năng

vận chuyển oxy vì ái lực của Hb với CO rất cao, gấp 210 lần ái lực của Hb

với O2, thậm trí CO còn đẩy được O2 ra khỏi HbO2. Khi ngộ độc CO, cần cho

thở O2 phân áp cao để tái tạo lại oxyhemoglobin

Page 29: SINH LÝ HỌC: SINH LÝ CỦA TIỂU CẦU, BẠCH CẦU VÀ HỒNG CẦUdulieu.tailieuhoctap.vn/books/y-duoc/bac-si-da-khoa/file_goc_783949.pdf · Thành phần bạch cầu rất

29

- Hemoglobin có tính chất đệm. Hệ đệm hemoglobin là một trong các

hệ đệm quan trọng của máu, đó là hệ đệm HHb/KHb và hệ đệm

HHbCO2/KHbO2.

Khả năng đệm của Hb là đáng kể vì hàm lượng Hb trong máu khá cao

và chiếm khoảng 35% dung tích đệm của máu.

- Trong quá trình chuyển hoá Hb, cơ thể tạo ra sắc tố mật. Sắc tố mật

không có chức năng sinh lý nhưng nó là chất chỉ thị màu đối với các nhà lâm

sàng, nó cho ta biết mật có mặt ở đâu, qua đó đánh giá chức năng gan mật.

=====HẾT=====