Pháp Vương Như Ý
2
Pháp Vương Như Ý
3
Copyright*1995 by HOÀNG NGỌC SƠN.
All rights reserved.
Published by
TRUNG TÂM ĐẠO HỌC THÁI BÌNH
P.O. Box 70041
137 – 66 St
Edmonton, A.B. T5C-3R6
Canada
Copyright*2014 by QUẦN TIÊN HỘI. All rights reserved.
Published by
QUẦN TIÊN HỘI TEXAS
Houston:
Nguyễn Ngọc Huy (1)832-498-2657
Kiều Tấn Sang (1)832-878-8993
Văn Tích Sĩ (1)713-261-2274
Dallas:
Lưu Văn Thức (1)832-291-8892
Phan Đình Khánh (1)682-472-9776
Trần Lữ Thư Pho (1)214-554-3214
http://www.khoahocdaotroi.com
http://www.quantienhoi.org
Pháp Vương Như Ý
4
CẢM TẠ
Con thành tâm cảm tạ Thiên Ân của Đức Phật
Tổ, Đức Cha Trời Mẹ Đất và Cộng Đồng Cửu Phẩm
Phật Tiên Thánh Thần Tam Giới Thiên Địa Nhân.
Con cũng thành tâm cảm tạ công ơn Thầy Tổ,
chư vị đạo hữu ở địa phương và năm châu thế giới
đã đặc biệt quan chiếu thanh quang điển lành, trợ
giúp cho con có phương tiện thực hiện các tác phẩm
văn chương thi văn tâm linh Đạo Trời, để cho con
cùng chư vị đạo hữu có một cơ hội phụng sự Trời
Đất, Đại Đạo nhân loại, Đức Phật Tổ Như Lai và
Đức Thiên Địa Phụ Mẫu trong Kỳ Ba.
Con chân thành mong được chia sẻ tình thương,
đạo đức, sự hiểu biết về sức khỏe, tâm linh điển
quang Đạo học cùng với cộng đồng nhân sinh trên
năm châu thế giới và vạn linh nhân loại Tam Giới.
Một lần nữa con xin thành tâm đãnh lễ và cảm
tạ Thiên Ân. Con đặc biệt cảm tạ chư vị đạo hữu
khắp năm châu, thân hữu, cùng tất cả quý bạn đạo
khắp nơi trên thế giới, đã và đang dành cho con rất
nhiều cảm tình với sự hợp tác trợ giúp quý báu.
Kính bái
Đức Thầy VÔ DANH THỊ
Pháp Vương Như Ý
5
Lời Nói Đầu
Pháp Vương Như Ý của Tổ Phật Như Lai và
Đại Thừa Cửu Chuyển của Đức Chí Tôn truyền dạy
cho Thầy Vô Danh Thị đã tu thành chánh quả.
Rồi Thầy Vô Danh Thị truyền Vương Pháp
Như Lai và Chánh Đạo chơn truyền vào thế giới
Tâm Linh Kỳ Ba để khai mở kỷ nguyên Tân Dân
Minh Đức.
Người chơn tu có Đạo quy hồi, bậc Hành Pháp
có cơ cứu thế, hàng hiền nhân có Đức lớn tu Đạo, để
đắc tu di sơn, lãnh hội các Thiên Chơn phục vị.
Nên Thầy Vô Danh Thị khai Chánh Pháp khắp
Năm Châu Thế Giới để thu hồi Thiên căn, Phật
Thánh, con Tiên cháu Phật. Tu cho kịp chuyến đò
Long Hoa Đại Hội Kỳ Ba.
Kính bái Chưởng Giáo Đạo Trời
Truyền Pháp và Lập Pháp
Đức Thầy VÔ DANH THỊ.
Pháp Vương Như Ý
6
ĐẠO TRỜI
BẬC MINH TÂM – DI CHÁNH
I. THIỀN ĐỊNH CHI ĐẠO
Bậc thiền định là đi tìm cái tâm lý vô hình để
minh tâm, rồi nhập định đi vào trái tim của siêu quang
hiệp nhất cùng Đạo, trong sự kiến tánh Phật quang
tròn đầy đạo đức (hàng đắc Đạo).
II. HÀNH NHƠN CHI ĐẠO
Bậc thượng nhơn hành Đạo chi dân, đem tấm
lòng ái quốc chi dân làm đạo nhơn chánh hạnh.
Bậc thần tử yêu Quân chánh kiến, hiếu thuận
chánh tu di của Trời người, đem lại thái bình trong
đạo an dân của Thiên Tử, là bảo vệ hiến ái của Quốc
gia (hàng đạt Đạo).
III. PHỤC KINH CHI ĐẠO
Xưa nay mở Đạo Trời, văn minh đều hành văn từ
trong kinh tạng phục lễ nhạc, mở mang văn hóa.
Bậc Thanh Văn, Duyên Giác đắc Đạo nhờ hàm
học kinh Trời nên thành chánh quả.
Vì vậy, tôn trọng hiến văn, kinh pháp, văn hóa
thanh cao, là bậc biết bảo Kinh, bảo vệ thái bình (hàng
hiền thần đắc Đạo).
Pháp Vương Như Ý
7
IV. ĐỨC NHƠN CHI ĐẠO
Kinh Trời dạy sự phục thiện để lòng nhơn quy
vào sự đại giác chánh đức.
Đạo Trời dạy nhơn loại biết nghiêng mình vào
Đạo lớn háo sanh.
Bậc hành nhơn chi Đạo phải xét lại mỗi mực
thước tu học của mình, để đủ hiến ái (hàng nhơn Tiên
đắc Đạo).
V. LỄ KỈNH CHI ĐẠO
Kẻ sĩ thành Đạo Thánh, Tiên, Phật nên phục lễ
kỉnh hàng đầu, hàm học Tân Kinh là phục vị văn hiến,
lễ nhạc trong Quốc gia triều chánh. Nhờ hành văn chi
giáo, am tường trung chánh chi Đạo, là bậc biết tôn
trọng lễ kỉnh (hàng văn nhơn đạt Đạo).
VI. TRUNG CHÍNH CHI ĐẠO
Tỷ người sống an đồng nhịp độ của đại con tim,
nên Trời Phật Nhơn đồng nhất sự linh thiêng siêu hóa,
đi vào con đường đại giải thoát.
Bậc nhơn trung chính với Trời không để sai quấy
chí nguyện.
Bậc thần tử trung quân ái quốc không để lệch tiết
độ.
Thần dân tôn trọng hiến pháp, làm tròn bổn phận
chi dân (hàng thượng nhơn đắc Đạo).
Pháp Vương Như Ý
8
VII. HIẾN ÁI CHI ĐẠO
Xưa nay bậc đạt Đạo vì lòng từ bi tha kẻ thù lớn,
dâng đại ái vào đức trọng háo sanh.
Bậc phụ từ mẫu ái tha sai lầm của người giúp họ
quy y chánh Đạo.
Nhờ vào sự hiến ái nên Trời cho phục vị tại
Thiên, Phật siêu nhân vào cửa Đạo, nhà Phật (hàng
công viên quả mãn).
VIII. BÌNH ĐẲNG CHI ĐẠO
Nước Trời lớn không đóng cửa phương tiện, nên
Phật Tiên Thần Thánh và nhơn loại ai thành Đạo được
về.
Hàng có tấm lòng chí nhân phải dứt bỏ cánh cửa
phân biệt thiện ác, chánh tà để bình đẳng tiến hóa, và
tự do ngôn luận văn minh siêu thoát (hàng đắc Tiên
nhân chi giáo).
IX. HIẾU ĐỄ CHI ĐẠO
Gốc lớn của Tam Giáo Ngũ Chi do Trời sanh ra
nên lễ kỉnh Trời Phật Tiên Thiên lễ nhạc phục vị
thành Đạo.
Nhơn Tiên minh lễ kỉnh Quân Thần chi Đạo,
hiến pháp chi gia, để thành tài hoa nhơn trung chi giáo
(hàng đắc nhân Đạo).
Pháp Vương Như Ý
9
X. HÀNH VĂN CHI ĐẠO
Quốc thiếu kinh văn, quốc văn chưa thành Quốc.
Gia thiếu học sĩ, gia chẳng thành gia.
Bậc thành Đạo chí nhân thay Trời, Phật lập Tân
kinh, Tân pháp để phụng sự thái bình và siêu hóa sự
quê mùa ngu dân mạt pháp, phục hưng chánh đẳng
chánh giác cho đời Tân Dân Minh Đức (hàng thành
chánh quả).
XI. KÍNH TRỜI CHI ĐẠO
Trời là Đạo lớn chúa tể Càn Khôn, là Cha chung
sanh ra đường Hoàng Đạo, là Đạo Thiên Thượng
chánh định muôn Vua.
Phật Tổ Như Lai là Tổ của muôn Phật, nên thờ
Trời, học Phật, tu tâm phát trí tuệ để tôn kính bậc
dựng đời lập Đạo (hàng thông Thiên đắc Đạo).
XII. BẢO QUỐC CHI ĐẠO
Quốc gia là nhà lớn của trăm họ sống chung nên
Trời ban Thiên Tử để Vương Hanh Lợi Trinh an
chánh Đạo trong thiên hạ.
Bậc đắc Đạo cho đến thần dân phải biết bảo Đạo,
tức bảo vệ sự sáng lập của đại Quốc gia cho đến biên
quan thành đồng Tổ Quốc (hàng tận trung đắc Đạo).
Pháp Vương Như Ý
10
PHÁP PHẬT
Pháp Vương Như Ý
11
PHÁP PHẬT
TÂM PHÁP NHƯ Ý
PHẦN I: LỜI DẪN
Tân pháp ra đời để dẫn độ nhân sanh vào đời Tân
Xuân Thu của Kỷ Nguyên Thánh Đức và thanh lọc
bệnh căn, quả nghiệp của kiếp làm người. Đời này khí
quyển thay đổi, thiên tai, địa ách trùng hưng, bầu khí
quyển đã chứa dày đặc phóng xạ và sự ô nhiễm, làm
ra những thứ bệnh kinh thiên động địa, việc dữ tràn
đầy, lòng người băng hoại. Vì vậy, quỷ thần ôn dịch ở
cõi âm mượn chu kỳ hôn ám thiên địa nhập vào quả
địa cầu sanh ra ôn thần trong gió, trong mưa, trong
thảo mộc môi sanh, trong đất và trong tất cả các
nguồn nước.
Thảo mộc và ngũ hành còn bị bệnh thì thuốc
không thể giúp người thoát ôn dịch hoành hành, nên
Đức Chí Tôn ban pháp Như Ý để người người ngồi
tịnh tâm thanh lọc nội kinh, để bộ óc không bị rối
loạn, thần kinh không bị chấn động khi quả địa cầu nổ
tung, còn giúp bộ óc và nội kinh thông minh thanh
tịnh, thâu được khí Hạo Nhiên vào trong nội kinh để
đắc chơn Đạo.
Tân pháp ra đời vì cơ tân tạo đã đến kỳ thiên địa
lập vị quả địa cầu. Số tu xuất gia rất đông đảo, nhưng
Pháp Vương Như Ý
12
phần đông không có Tân Pháp để tu, còn tại gia tu
hành thì vô số chúng sanh thăng trầm trong nghiệp
lực, khó mà có cơ hội xuất gia để giải thoát thời kỳ
này.
Tân pháp là pháp tu tại gia do Đức Ngọc Hoàng
ban cho Thái Bình dạy trong đại quần chúng, để cho
kịp thời kỳ thay đổi nguyên khí hóa. Ai thành tâm tu
theo Tân Pháp sẽ được cộng đồng Tiên Phật gia hộ,
giảm năm mươi phần trăm tội ác của ngàn kiếp quá
khứ. Nhà nhà đồng thọ tu, người người được lập lại
công đức để đủ công đức vào Long Hoa Đại Hội.
Những người thiện trí thức muốn tu lớp xuất thế học
thì tìm Minh Sư trao TÂM PHÁP cho kịp thời kỳ tân
tạo, để được đắc Thần Tiên Thánh trong Đại Hội
Long Hoa.
Quán Âm Di Lạc độ trần ai
Tân Pháp khai minh đắc bảo đài
Thiên lộ bắc cầu chơn thật giải
Phùng thời hạnh ngộ Đức Như Lai.
Tân Pháp ra đời lúc xảo kim
Khai minh trí tuệ chí nhân tìm
Đương lai bỉ ngạn tu trực giác
Minh thời giải nghiệp phát hoa tim.
Tân Pháp ra đời cứu bá gia
Ơn Trời ban lộc Đạo Kỳ Ba
Thanh tâm phục thị tu đường giác
Hái trái lành tâm dâng Chúa Cha.
Pháp Vương Như Ý
13
PHẦN II: THỰC HÀNH PHÁP MÔN
A. TỌA THIỀN
1. Hướng thiền:
- Giờ Dương quay mặt về hướng chánh Bắc.
- Giờ Âm quay mặt về hướng chánh Nam.
- Giờ dương: từ 12 giờ khuya đến 12 giờ trưa, tập
một thời lúc nào cũng được, tốt nhất là giờ tý (từ 12
giờ đến 2 giờ khuya). Nếu vào thất thì tập 3 thời: 12
giờ khuya, 2 giờ khuya, và 4 giờ sáng. Nếu muốn tập
thêm từ 8 giờ và 10 giờ sáng.
- Giờ âm: từ 12 giờ trưa đến 12 giờ khuya, tập
một thời lúc nào cũng được, tốt nhất là giờ ngọ (từ 12
giờ đến 2 giờ trưa). Nếu vào thất thì tập 3 thời :12 giờ
trưa, 2 giờ trưa, và 4 giờ chiều. Nếu muốn tập thêm từ
8 giờ và 10 giờ tối.
- Ngồi bán già, kiết già, xếp bằng, hoặc ngồi trên
ghế buông thả hai chân xuống đất nhưng lưng nên giữ
thẳng. Khi ngồi bán già hay kiết già nên ngồi trên gối
để cho lưng được thẳng và thoải mái khi thiền.
- Miệng ngậm lại, răng kề răng, chót lưỡi co lên
đụng nướu của hàm răng trên.
- Hai mắt nhắm lại và tập trung nhìn vào huyệt
Ấn Đường (tức là giao điểm của hai đầu chơn mày).
Pháp Vương Như Ý
14
2. Bắt ấn:
- Hai tay bắt ấn “Tâm Ấn Ngọc Hoàng” (Xem hình 1
trang 33) để trước ngực cầu nguyện:
Nam mô Vô Cực Quang Thượng Đế (3 lần).
Nam mô Vô Ảnh Quang Như Lai (3 lần).
Nam mô Vô Tướng Quang Phật Pháp (3 lần).
Giữ tay ấn đưa ra sau ót, xá qua đầu, đến trước ngực
(3 lần).
- Kế niệm:
Nam mô Long Hoa Chưởng Giáo Di Lạc Thiên
Cương Phật (3 lần).
Nam mô Thế Âm Phật (3 lần).
Nam mô Di Đà Phật, Vạn Vật Thái Bình (3 lần)
- Kế tới nguyện:
Con (họ, tên)…tuổi...ở quốc gia...từ đây con
xin:
Quy y chánh giác ngộ Đạo Trời.
Quy y chánh giác ngộ Phật Pháp.
Quy y thanh tịnh thiền định Tâm Kinh.
Nam mô Di Đà Phật, Vạn Vật Thái Bình.
Đưa tay ấn qua ót, xá qua đầu, đến trước ngực
(3 lần), rồi đổi Tâm Ấn Ngọc Hoàng qua Ấn Chuẩn
Đề (Hình 2 trang 34) để ngửa trên 2 bắp vế, rồi vận
chuyển pháp luân.
Pháp Vương Như Ý
15
3. Cách vận chuyển pháp luân:
Dùng ý và chí cộng thêm hơi thở nhẹ hít vào,
khởi niệm từ Rún (niệm Nam), chạy thẳng lên ức
Ngực (niệm Mô), đến ức Cổ (niệm Di), tới giữa Cằm
(niệm Đà), tới trước giữa Trán (niệm Phật) (trung tâm
2 chân mày), hít nhẹ vào rồi thở ra nhẹ nhàng…(đó là
1 lần vận chuyển pháp luân).
3 hơi đầu dùng đầu ngón tay điểm theo 5 luân xa
ghi trên.
Chú ý:
3 hơi thở đầu tập trung niệm theo 5 luân xa:
rún, ức ngực, ức cổ, giữa cằm, trung tâm 2 chân mày.
Từ hơi thứ 4 trở lên hít thẳng từ dưới rún tới trán,
không tập trung vào 5 điểm luân xa, nhưng đến điểm
trung tâm 2 chân mày thì hít nhẹ vào khoảng 1 giây
rồi thở ra nhẹ nhàng.
- Như: Nam Mô Di Đà Phật vừa hít vừa niệm từ
rún lên tới trán hít nhẹ vào khoảng 1 giây thở ra đếm
1 cho tới 12 lần, nghỉ 15 giây.
- Tiếp tục giai đoạn thứ 2: vừa hít vào trước trán
(trung tâm 2 chân mày) vừa niệm Nam Mô Di Đà
Phật, thở ra trước trán, đếm 1. Vừa hít vào trước trán
niệm Nam Mô Di Đà Phật, thở ra trước trán, đếm 2
cho tới 24 hơi thở, nghỉ 15 giây.
Pháp Vương Như Ý
16
- Tiếp tục giai đoạn thứ 3: vừa hít vào trước trán
vừa niệm Nam Mô Di Đà Phật, thở ra đỉnh đầu (bách
hội) đếm 1. Hơi thở tiếp theo giống như vậy đếm 2
cho tới 36 hơi thở, nghỉ khoảng 15 giây.
Từ 112 hơi thở, nghỉ 15 giây
Từ 124 hơi thở, nghỉ 15 giây
Từ 136 hơi thở, nghỉ 15 giây
Từ 149 hơi thở, nghỉ 15 giây
Ban ngày luyện tập từ 1 cho tới 12 hơi thở, từ 1
cho tới 24 hơi thở, từ 1 cho tới 36 hơi thở. Ban đêm
luyện tập từ 1 cho tới 12, từ 1 cho tới 24, từ 1 cho tới
36 hơi thở, từ 1 cho tới 49 hơi thở.
Sau đó dùng ý nguyện: Thần- Khí- Tinh 3 báu
linh tập trung lên bộ đầu luyện Đạo đếm 1. Dùng ý chí
hít vào trước trán 1-3 phút, hoặc hơn 3 phút, rồi dùng
ý thở ra trước trán 5 giây nhẹ nhàng.
Tiếp hơi thứ 2 dùng ý nguyện: Thần- Khí- Tinh
3 báu linh tập trung lên bộ đầu luyện Đạo đếm 2.
Dùng ý chí hít vào trước trán từ 1-3 phút, hoặc 3 phút
trở lên, rồi dùng ý thở ra trước trán 5 giây nhẹ nhàng.
Tiếp hơi thứ 3 dùng ý nguyện: Thần- Khí- Tinh
3 báu linh tập trung lên bộ đầu luyện Đạo đếm 3.
Dùng ý chí hít vào trước trán từ 1-3 phút, hoặc 3 phút
trở lên, hít xong hơi thứ 3, ý và tư tưởng ngay trước
giữa trán, nhìn thẳng ra phía trước vẫn còn hít vào:
Pháp Vương Như Ý
17
Nam nguyện: cho con đãnh lễ Trời-Phật đi học
Đạo (3 lần).
Nữ nguyện: cho con đãnh lễ Trời-Phật đi học
Đạo (3 lần).
Sau đó, 2 tay buông ấn thả lỏng tư tưởng 10phút.
4. Định Thần:
- Sau đó, hai tay bắt ấn Quán Âm rồi hiệp nhất lại
thành ấn Tam Muội hay ấn Di Đà (xem hình 3 trang
35) để dưới rún 2 phân.
- Sau khi dùng ý niệm (Nam, Nữ) con xin đãnh lễ
đi học Đạo (3 lần như trên) thì thả lỏng hết các niệm,
để trở về cõi không phiền não (định thần). Trong lúc
định thần thì trụ ý trên tâm bộ đầu (đỉnh đầu). Hai mắt
nhắm lại và dùng ý nhìn thẳng trước trán ngay giữa
chân mày khoảng 30 - 45 phút, rồi xả thiền.
Chú ý: khi ngồi định thần, nếu tư tưởng giao động
thì tập trung ý nghĩ hướng thượng và niệm một
trong ba câu sau đây:
- Nam Mô Pháp Vương Phật.
- Nam Mô Thế Âm Phật.
-Nam Mô Di Đà Phật.
Pháp Vương Như Ý
18
5. Cách xả thiền:
Đưa 2 tay đang bắt Ấn lên trước mặt, vuốt lên
qua khỏi đỉnh đầu, vuốt xuống tới tai thả ấn, vuốt
xuống qua tai và vuốt tai 3 lần (làm từ 1 đến 3 lần).
Chà hai bàn tay từ 30 đến 50 lần.
Đưa tay phải vuốt + bóp từ bả vai trái xuống cho
đến bàn tay (3 lần). Rồi đổi qua tay trái.
Dùng 2 tay vuốt + bóp từ hông xuống tới bàn
chân (3 lần). Rồi đổi chân.
Dùng 2 tay nắm 2 cổ chân và chà bàn chân qua
lại 10 lần đến 30 lần.
Sau đó chắp tay trước ngực xá 3 lần.
Chú ý: nếu đang lúc thiền mà gặp trường hợp khẩn
cấp (như tê cứng chân…) thì xả thiền, bằng cách đưa
hai tay lên vuốt từ trán xuống phía sau ót 1 lần, rồi
đứng dậy.
Pháp Vương Như Ý
19
B. NGỌA THIỀN
1. Tư thế: Nằm ngửa thẳng người, đầu quay
hướng Bắc, kê gối.
2. Bắt Ấn: Tay phải bắt Ấn Như Lai để vòng trên
đầu, hoặc để ngang tai. Tay trái bắt Ấn Như Lai, úp
trên bụng ngang rún, đầu ngón tay giữa để ngay rún,
(Xem hình 4 trang 36).
3. Cách thở:
Dùng ý khởi niệm Nam Mô Di Đà Phật, từ rún
hít vào nhẹ nhàng chạy lên trước trán thở ra vừa đúng
một câu niệm, đếm 1; lần kế cũng thở như vậy, đếm
2, làm như vậy đến hơi thứ 12, nghỉ 30 giây; rồi lại
bắt đầu thở tiếp từ 1 đến 24 hơi, nghỉ 30 giây; thở tiếp
từ 1 đến 36 hơi, đến cuối hơi thở thứ 36 thì dùng ý thả
lỏng 2 lòng bàn tay để trí tuệ đi vào nhập định, dùng ý
nguyện (Như phần nguyện “Nam, Nữ” trang18 và 19).
Kế đến, thả lỏng tư tưởng để giải thoát phiền não, đi
vào hư vô nhập định trong chu kỳ ngọa thiền.
Khi thức dậy, vuốt 2 tay lên đầu từ 1 đến 3 lần để
xả Ấn, rồi đi làm việc bình thường.
Pháp Vương Như Ý
20
PHÁP PHẬT
TÂM PHÁP NHƯ Ý
ÁP DỤNG CHO NGƯỜI VÀO THẤT
NHẬP ĐỊNH THIỀN CƠ
QUY LUẬT VÀO THẤT
Thất để người tu thiền vào thất nhập định phải
tương đối rộng, thoáng mát và có nhà vệ sinh trong
thất.
a. Sơ thất: 3 ngày, bắt đầu 12 giờ trưa ngày
14 âm lịch đến 6 giờ chiều ngày 16 âm lịch.
b. Trung thất: 7 ngày, bắt đầu 12 giờ trưa
ngày 8 âm lịch đến 6 giờ chiều ngày 16 âm lịch.
c. Đại thất: 21 ngày, bắt đầu 12 giờ trưa ngày
01 âm lịch đến 06 giờ chiều ngày 21 âm lịch.
Khi lập nguyện vào thất nên trình cho Minh Sư
biết ngày nhập thất, để Minh Sư căn dặn những điều
cần yếu và báo cáo về Thiên Đình cho Chư Tiên ghi
vào sổ Đại La Thiên Giới. Nếu tự ý nhập thất thì sợ
không có hộ pháp.
Pháp Vương Như Ý
21
Hãy cẩn thận nhập thất là đi thi với Trời Phật,
mỗi kỳ thất là một kỳ thi trong vô hình, không nên
thiếu lễ nghĩa “Tiên học lễ, Hậu học văn chương”.
Nên coi trọng và luôn luôn giữ mình thanh tịnh
để được chứng Đạo.
Minh Sư xem xét hoàn cảnh và khả năng của
mình nhập thất được bao nhiêu ngày, thì mình phải
giữ đúng ngày mới được xả thất. Nếu trước ngày quy
định bỏ thất ra ngoài sớm hơn thì coi như rớt thất.
Khi mình nhập thất, Đức Ngọc Hoàng hiệu triệu
chín cõi Trời có các Chư Thần hộ pháp, chín cõi Đất
có Bát Bộ Kim Cang canh giữ bốn phương tám
hướng, Thần Hoàng Bổn Cảnh đều hiện diện để phò
trợ luồng Hồng Ân của Đức Ngọc Hoàng ban xuống
cho mình.
Mỗi kỳ thất bất cứ mình ngồi tịnh thất ở đâu đều
ảnh hưởng tới 3 tầng Thiên Địa Nhân, có Thiên Tiên
lập trận phò trợ và lập hội để tụ hội Thần Tiên, hưởng
ân điển của đấng Ngọc Hoàng ban xuống.
Khi mình đã xin nhập thất thì Thiên Địa Nhân
đồng ứng hiệp để phò trợ, nếu mình bỏ thất chạy ra
ngoài mà không tế cáo trước cho Trời Phật Thánh
Tiên Thần biết để triệu Thần, hồi Tiên, lui Phật, thì
mình là người thất lễ vô cùng. Trong Tam Giới không
vị Thần Tiên nào chịu tiếp tục giúp đỡ mình. Các ngài
Pháp Vương Như Ý
22
coi mình như người mất uy tín. Từ đó, đạo đức mình
không thiêng có khi gặp nhiều khảo đảo.
I. TRƯỚC KHI VÀO THẤT
1. Vào thất nên ở xa gia đình và thành thị, để tâm
không bị cảnh làm rối loạn, không bị khí ô tà làm dơ
tư tưởng. Vì lúc nhập thất mình trực tiếp với luồng
điển tinh khiết của Thượng Đế, nên rất dễ động bởi
các tầng khí hóa dơ trược làm cho mình bất an, không
đạt kết quả như ý. Các vị Tiên, Phật lại không xuống
chỗ ô tà đông đảo, nên mình không tiếp đủ linh khí
của Đức Ngọc Hoàng.
2. Khi đi nhập thất, không nên nói cho nhiều
người biết. Nếu có nói thì tránh dùng chữ nhập thất,
nên dùng một số từ: đi du lịch, đi về quê hoặc đi thăm
bà con,…(người thân phải hiểu ngầm những từ này).
3. Từ nhà đi đến chỗ nhập thất, nếu trên xe đò
hay ra chợ, không nên mở túi xách đựng đồ cá nhân
hoặc túi xách lương thực.
4. Đã hứa nhập thất, nếu gặp nhiều việc trở ngại
cũng phải cố gắng thu xếp, dù có trễ vài ngày cũng
phải nhập thất. Đó là giữ lòng thành tín với chư vị Hộ
Pháp.
5. Người tu thiền ở tại gia, sinh hoạt như người
đời. Trước khi nhập thất phải ăn chay 7 ngày và
không được quan hệ tình ái.
Pháp Vương Như Ý
23
6. Phải xông Thất để khử tà khí.
Cách xông: Đóng kín cửa thất, dùng 50g ớt bột
khô cho vào xoong nhỏ, đặt trên lò than để giữa thất
khoảng 10 phút. Sau đó, mở cửa cho hết hơi cay, vệ
sinh thất cho sạch sẽ và bản thân cũng nên tắm gội
sạch sẽ.
II. NHỮNG NGÀY VÀO THẤT
A. NHỮNG VIỆC PHẢI GHI NHỚ
1. Mặc quần áo trắng ngà, trắng kem hay trắng
xám.
2. Không mở cửa, không vén màn cửa sổ nhìn ra
ngoài, không tiếp xúc trực tiếp với người khác để
không mang tư tưởng ô trược vào thất (nếu có việc
khẩn thiết viết giấy ngắn gọn gửi Minh Sư), và không
treo quần áo ở các cửa.
3. Chỉ được đọc nghe kinh, sách của Thầy.
Không được viết lại những gì mình thấy, biết trong
lúc thiền (xem phần Duy Đạo Thần Minh, mục số 13.
Hàng Minh Tâm Thiền Thức).
4. Mỗi bữa ăn chỉ ăn một chén cơm (gạo lức
muối mè càng tốt), uống nước nhiều để tiếp khí thanh
quang điển lành. Tự mình nấu ăn thì tốt hơn. Người
khác nấu có khi tư tưởng động loạn, mình ăn vào
nóng ruột, suy nghĩ xàm bậy.
Pháp Vương Như Ý
24
Nếu gặp trường hợp này, ngồi xuống hít vào thật
sâu, thở ra bằng miệng cho sạch đáy cặn (hít thở 3
hơi). Nếu chưa dứt ý nghĩ xàm bậy, tiếp tục 3 hơi nữa,
bằng chưa dứt thì đứng lên dang hai tay ra quay mặt
về hướng Đông. Hít vào dùng ý kéo hơi từ hai lòng
bàn chân đưa lên đỉnh đầu, lúc thở ra từ đỉnh đầu đưa
xuống hai lòng bàn chân. Thở 50 lần cho đến 300 lần.
Nếu mỏi tay thì nằm dài dang hai tay như hình thập tự
mà hít cho đủ số. Tất cả tư tưởng động loạn cũ, mới
đều được giải thoát.
Đó là cách Đạt Ma Thần Công hóa giải trong tư
tưởng và hóa giải các tà khí xâm nhập, các bệnh hậu
cũng được giải trừ. Nếu sáng tập một lần, chiều tập
một lần thì sức khỏe được gia tăng.
5. Mỗi thời tập pháp môn không ngủ quên quá
giờ tập. Nếu có ngủ quên thì sau 3 thời pháp tập thêm
một thời phụ, bù lại lúc mình ngủ quên. Tốt hơn là
không bỏ xót, nếu thiếu sót sau này mình đắc Pháp sẽ
thấy chừa lại một khoảng đất rộng chưa canh tác.
6. Nhập thất không được hút thuốc, uống rượu.
Phải ăn dưỡng sinh thanh nhẹ, cấm cá thịt. Phải cai
không được phòng dục trong lúc tu dưỡng. Bằng
không giữ, khí linh theo sự ố trược mà tan đi. Vì vậy,
có vào thất mà không kết quả.
7. Không tắm gội, chỉ vắt khăn nước nóng lau
nhẹ đầu và mình. Phần dưới cơ thể rửa nước nóng nhẹ
nhàng.
Pháp Vương Như Ý
25
8. Không được giao tiếp trong điện thoại, vì
luồng tư tưởng xấu dẫn theo không gian mà đến.
Không nghe người nhà bệnh, hoặc tai nạn mà xả thất.
Ra tức là rớt thất, đó là ma quỷ thử mình cho rớt thất.
(Xem tiếp phụ lục phần cuối).
B. THỰC HÀNH PHÁP :
1. Ngày 3 thời pháp :
- Thời 1 : 12 giờ đến 2 giờ trưa.
- Thời 2 : 2 giờ đến 4 giờ chiều.
- Thời 3 : 4 giờ đến 6 giờ tối.
2. Đêm 3 thời pháp :
- Thời 1 : 12 giờ đến 2 giờ khuya.
- Thời 2 : 2 giờ đến 4 giờ sáng.
- Thời 3 : 4 giờ đến 6 giờ sáng.
3. Bắt Ấn: Tâm Ấn Ngọc Hoàng, để Ấn trước
ngực.
4. Hướng thiền: Như phần A tọa thiền.
5. Những câu Nguyện và Niệm: đều giống pháp
tọa thiền.
6. Vận chuyển pháp luân: Cách vận chuyển pháp
luân giống như phương pháp tọa thiền. Tuy nhiên, khi
nhập thất luyện: ngày 3 thời pháp, đêm 3 thời pháp,
mỗi thời làm 3 lần.
Pháp Vương Như Ý
26
- Lần 1 : 1 12 hơi thở, nghỉ 15 giây
- Lần 2 : 1 24 hơi thở, nghỉ 15 giây
- Lần 3 : 1 36 hơi thở nghỉ 15 giây
- Lần 4 : 1 49 hơi thở nghỉ 15 giây
Dùng ý nguyện: Thần – Khí – Tinh 3 báu linh,
tập trung lên bộ đầu luyện Đạo (3 lần).
Sau đó không niệm, hít hơi thở nhẹ vào từ từ
bằng mũi, dùng ý và chí hình dung luồng hơi đang hít
vào trước trán giữa 2 chân mày. Hít từ 1 – 2 – 3 hoặc
5 phút trở lên (được phép nối tiếp hơi để đủ số phút).
Hít 3 lần như vậy, lần 1 phải đếm 1, lần 2 đếm 2, lần 3
đếm 3. Lần 1 và 2 thở ra từ 10 đến 15 giây, lần 3
không thở ra (thả lỏng tư tưởng và tay chân, để hơi
thở tự nhiên). Hơi thở lần thứ 3 rất quan trọng trong
việc xuất thần đi học Đạo.
Hai tay đổi Ấn CHUẨN ĐỀ qua Ấn TAM
MUỘI để trước rún (kê gối trên đùi, đặt tay Ấn trên
gối).
Dùng ý niệm:
- Nam: cho con đãnh lễ Trời Phật đi học Đạo (3
lần).
- Nữ: cho con đãnh lễ Trời Phật đi học Đạo (3 lần).
Pháp Vương Như Ý
27
7. Định thần : (giống như pháp tọa thiền).
8. Xả thiền : (giống như pháp tọa thiền).
Sau khi xả thiền
- Thời thứ 1: Không ngủ chỉ nằm nghỉ.
- Thời thứ 2: Không ngủ chỉ nằm nghỉ.
- Thời thứ 3: (từ 4-6 giờ) chỉ được ngủ đến 10-11
giờ.
Ngày và đêm đồng nhau con số luyện.
C. KHI RA THẤT :
1. Thắp nhang lễ cảm ơn Phật Mẫu, Quần Tiên
Hội và hướng dẫn Đạo Sư cho con trong những ngày
thiền thất.
2. Vệ sinh thất thật sạch sẽ, những vật dụng sinh
hoạt tạm mượn dùng (ly, chén, mùng, mền...) phải
chùi rửa, giặt sạch, để lại đúng chỗ.
3. Nên ở lại từ 1 đến 3 ngày mới về nhà.
4. Tiếp tục ăn chay 7 ngày và không quan hệ tình
ái. Sau đó, ăn uống, sinh hoạt lại bình thường.
Người tu thiền nên nhớ :
Nhập thất là để học điều khiển cái tâm. Khi điều
khiển được tâm thì phải biết sử dụng động và tịnh:
Tịnh là cơ, động là ngẫu; rồi động là cơ, tịnh là ngẫu.
Pháp Vương Như Ý
28
Trời lấy Âm Dương làm cơ ngẫu để hiệp trung
dung. Không gian lấy Thủy Hỏa để hiệp cơ ngẫu.
Người tu tịnh lấy Huyền hiệp Tẫn để đạt cơ ngẫu. Thời
gian lấy hai Tám để hiệp cơ ngẫu (hai tám: mùng 8 –
16; 16 – 24).
Trong động lấy tịnh để an, trong tịnh lấy động để
hóa. Khác nào trong thức có ngủ, đừng để nó ngủ
trong ngủ. Có thức làm sáng cái thức, ở chính giữa
thức ngủ làm chủ được, đó là ngôi Huyền Tẫn.
Khi khởi động, ta hiệp nó vào chỗ sáng; khi khởi
tịnh, ta hiệp nó vào chỗ an. Làm được như vậy là Âm
Dương đắc ngôi Huyền Tẫn.
Khi động ta giải để tịnh; khi tịnh ta chuyển để
hóa. Nếu động hoài thì cái động vô vị; nếu tịnh hoài
thì cái tịnh hôn mê.
Khi khởi tịnh phải để lòng mình thật trống; nhờ
trống mà chứa được khí linh thiêng. Khi phát huệ phải
để lòng mình thật thanh tịnh; nhờ thanh tịnh mà tâm
không nhiễm cảnh.
Khi tịnh đừng để mình mê; khi ngủ đừng để mình
ngủ thiệt. Trong cái giả ngủ mình mới thật sự giải mê
trong một giấc ngủ làm người.
Khi nhập định, thấy ta khôn phải làm như dại để
tránh thức Thần lừa gạt; lúc ta sáng thì phải giữ an
tâm. Nhờ an tâm mà muôn cảnh không làm ta động.
Pháp Vương Như Ý
29
Thấy cũng để đó, làm như mình không thấy;
nghe cũng để yên, làm như mình không nghe; thì sự
thấy nghe hiển lộ Chơn Kinh.
Biết tất cả, giả ngu đừng tiết lộ thì cái biết càng
lớn rộng tới chỗ vô cùng. Đến đó, mình biết mình là ai
và biết được Thiên lý sắp đặt cho mình ở tương lai.
Khi phát ra ánh sáng, đừng nên vội mừng hãy giữ
thản nhiên. Có giữ được thản nhiên thì tinh thần mới
hội tụ, lúc đó Chơn Huệ mới phát sanh, khí Thiên linh
mới hiệp tâm thức. Nên giữ sự thản nhiên để cho
chính mình giác ngộ.
Dù thấy Chơn Sư đến dạy nhưng phải hiểu: gặp
Phật diệt Phật, gặp ma diệt ma mới không bị Vô Vi
thử thách. Chỉ có sự phát huệ mới là chân lý.
Khi nghe được sự chấn động của khí hóa thì đã
hiệp được linh khí của Tiên Thiên, có lúc hơi thở
không theo ý mình mà theo thiên nhiên vận chuyển.
Hãy thả lỏng cho nó theo Thiên lý tự nhiên, lúc đó chỉ
ngồi định càng nhiều mà không dùng đến cách thở,
hãy để cho Thiên Lý Triều Nguyên tâm linh hiệp Đạo.
Sau khi xả Thất phải đến gặp Chơn Sư để lên lớp.
Đạo cao quý ở chỗ thực hành,
Pháp cao quý Chơn Đạo vô tranh.
Pháp Vương Như Ý
30
Hình 1 : Tọa Thiền với Tâm Ấn Ngọc Hoàng.
Pháp Vương Như Ý
31
Hình 2 : Vận chuyển Pháp Luân theo Ấn Chuẩn Đề.
Ngồi nhập định 30 – 45 phút.
Pháp Vương Như Ý
32
Hình 3 : Nhập định với Ấn Tam Muội.
Ngồi tịnh niệm với hai tay ấn để ngửa trên
hai bắp đùi gần đầu gối.
Pháp Vương Như Ý
33
Hình 4 : Ngọa Thiền
Pháp Vương Như Ý
34
THÁNH KINH
Pháp Vương Như Ý
35
Định Quán Kinh
Cây Nguyên Linh vào thời kỳ trổ hoa bước qua
trổ trái, cần phải có nắng hạn để ép nó thì quả ngọt
ngon lành, còn ưa thích mùa thu và mùa xuân mát mẻ
thì các quả đó chua.
Tánh Nhân của Rồng muốn được cá không dùng
tới câu, lưới, đáy, đăng, đó…mà vẫn bắt được trong
trí tuệ tự nhiên.
Người chơn tu được Đạo thành rồi. Vậy nên độ
Phật hay độ ma để mở pháp nhân siêu độ?
Thắng mọi lý làm sự vị kỷ càng cao, thắng mọi
tình lập ra nguồn sống hận. Chỉ có thắng sự phàm
thánh của bản thân mình, chính mình đạt Đạo giải
thoát.
Chim bay cao không thắng được tên, cá ẩn sâu
không thoát được lưới, cọp dũng mãnh không thắng
được hầm bẫy, con người tài cao không thắng được số
mệnh. Chỉ có sự thông thiền cơ chính mình mới thắng
được nhân và quả.
Đạo có luật kèm theo chỉ để làm ngay chánh lại
di nhơn, đời có luật kèm theo để ngay chánh lại quốc
pháp. Nếu đã ngay chánh trong lòng thì hai thứ luật
kia sẽ trở thành hộ pháp.
Pháp Vương Như Ý
36
Tài cao không kêu ngạo, người đó thông suốt
thiên nhân. Đức cao không cầu kỳ, người đó thông
suốt đạo lý. Nhân cao không tự mãn, người đó thông
suốt thiền cơ. Hàm học phải biết nghiêng mình làm
tròn công nghĩa với quốc dân, người đó đời đời không
chết.
Lộc lớn biết bố thí, sự bố thí làm cho mình an trị.
Danh lớn biết thí ngôn, sự thí ngôn đào tạo được học
sĩ. Tiết độ lớn biết thi nhân, sự thi nhân tìm được tài
nhân trong lá ủ ra giúp nước.
Bậc thượng tài phải biết tu chính trí tuệ, để trở
thành một thiên tài phù trung trợ nghĩa, trả hiếu cho
núi sông để đắc thành chánh quả.
Hàng thượng đức phải biết tu chính chỗ không
đức thì cái nhân đức mới được tròn đầy, sự tròn sáng
làm cho tánh linh đi vào cõi Cực Lạc.
Bậc có chí nguyện tu hành giải thoát, gặp được
chánh pháp nên chánh tinh tấn, giải nghiệp quả của
kiếp xưa. Kiếp này tu hành đắc Đạo.
Tu với chánh pháp làm cho đời mình trở về
chánh thanh tịnh. Từ đó, phát Huệ Mạng Kim Quang,
giải thoát được ngàn kiếp xưa để ra khỏi Tam Giới.
Kẻ sĩ biết tu Đạo lại nhường lời, lễ kỉnh làm gốc.
Vì sự văn minh của Phật pháp tam thừa chỉ có nhường
người, nhường lời làm cho đạo tâm minh sáng.
Pháp Vương Như Ý
37
Trí đến cõi không động quang, phải làm cho nó
động trí tuệ. Sự động tịnh của trí tuệ là mực thước đốt
sáng đuốc từ bi.
Nhờ biết di động trí tuệ lại, thường sanh trưởng
đại trí tuệ. Bằng tịnh không, làm cho trí tuệ chết dần
trong sự trống không, tức không biết sử dụng trí tuệ.
Thanh quang là khí Tiên Thiên, là điển giới của
cõi Bồ Tát. Nó đến với người phát ra linh cảm siêu
nhiên, phải dùng Tâm pháp đem nó vào tâm. Ngũ tạng
tròn đầy khí linh thiêng thì việc cảm ứng Trời, người,
mình đều biết trước. Đó là người biết dùng khí linh
thiêng để học sự linh thiêng trong thanh tịnh giới
pháp.
Người thiền định phải tỏ ngộ thiên thời, để biết
kỷ nguyên nào có Phật giáng trần mở mang chánh
pháp. Mình phải thay cũ đổi mới cho hiệp chu kỳ, đó
là người thông Thiên thấu Địa.
Ba ngàn ba trăm năm, Trời đổi một kỷ nguyên
cho quả tinh cầu thay phương vị của Vương Hanh Lợi
Trinh. Đổi Giáo Chủ để sắp theo cơ nguyên Thiên
Đạo. Đổi đường chánh pháp cho phù hợp vũ trụ thanh
quang. Đổi kinh luật, đạo đức cho phù hiệp văn minh
Thánh Đức.
Kẻ sĩ và đạo nhơn ai biết ứng theo Thiên thời tức
giúp mình giải thoát.
Pháp Vương Như Ý
38
Thiên nhân đồng nhất là người tu Đạo được đắc
nhất nguyên, Tiểu linh quang về hiệp nhất với Đại
Khối Linh Quang. Cái biết của người đắc Đạo là
Thông Thiên Tự Kinh nên điểm hóa cho nhơn sinh
thay Trời, Phật làm việc cho Đạo.
Trung là pháp Thiên nhơn của người tu chánh
pháp. Minh là ý chí phục vị lại văn minh của nhà Đạo
nhà Phật.
Minh Quân thường thưởng, thức hàng tu đắc
Đạo trung thần nên quốc thái, dân an giàu, chi dân an
Đạo.
Ánh sáng của người tu thiền định là trí tuệ quang,
sự sáng càng sâu thì hiểu xa, biết gần như học kinh vô
tự.
Linh tánh là ánh trăng tròn, làm cho hàng thiền
định mở tu di sơn thành Đạo.
Căn là gốc của kiếp xưa tu Đạo. Tâm minh là
kiếp này phát huệ tầm căn. Khi tìm được ta là ai phải
hiến ái lớn mới thành chánh quả.
Thiện không đúng chỗ là ác, ác biết vị tha là
thiện, bậc tu thiện không chấp thiện mới thoát ra khỏi
biển ác để minh di thiện.
Bậc trí tuệ tu thiện làm vui để xiển dương hoằng
pháp, dạy người qui lai bổn thiện, nhưng họ dứt lòng
thiện ác mới mong đắc Đạo.
Pháp Vương Như Ý
39
Tình là gốc lớn của nhân sinh. Nghĩa cử là Đạo
lớn cho hàng hành Đạo, phải minh di thiện mới toàn
thiện.
Vị tha là nhân chánh làm người. Tha thù là lòng
nhân của Thần Thánh. Cứu hộ kẻ thù giải thoát bể ái
sông mê là lòng nhân của Đức Phật. Bậc nhân chánh
hãy tu đức để cứu cánh nhơn sanh.
Đạo có làm như không, các pháp đủ làm như
không. Vào được cõi không động quang phải hàm học
diệu quang của nhà Đạo, biết lìa tâm phiền não cho
trống để chứa Phật học thiền cơ.
Biết ở phiền não phải bỏ dần cho không phiền
não, để bộ trí chứa trí tuệ không trần, tức đắc ngộ
huyền cơ. Xa dần cái động ở đời cho trí thanh tịnh
phát sinh, nhạt dần sự cầu kỳ cho ý thanh tịnh phát
sinh. Làm được vậy chơn tâm tự nhiên sanh trí tuệ.
Khi đạt thanh tịnh phải làm cho tâm trong sáng.
Khi đạt trong sáng phải chứa cho thanh khí tròn đầy.
Khi khí tròn đầy phải biết hóa thân vào cảnh người,
cảnh Trời để thông thị thiền cơ.
Gặp bậc hiếu nên dạy đạo hành nhơn chi giáo.
Gặp bậc nhơn nên dạy hành hiếu nghĩa vi tiên. Có dạy
được vậy, đạo nhân hiếu mới tròn đầy để người hiếu
nhân thành Đạo.
Gặp bậc trung nên dạy đạo nghĩa của tiên Thiên
chi giáo. Gặp bậc nghĩa nên dạy đạo trung dung bảo
Pháp Vương Như Ý
40
vệ sơn hà. Có dạy đủ trung nghĩa của tiên Thiên thì
người Tiên nhơn mới thành Đạo.
Thấy mình tịnh bên trong còn động nên cầu tịnh
trong sự duy ngôn. Người đạt thanh tịnh thật người đó
đã phát sinh trí và huệ.
Người học nhiều bị sách vở làm cản trí tuệ, người
ít học bị sức nông cạn làm cản thần minh. Chỉ có
người biết trung dung mới trung đạo với sự việc để
minh kỳ Đạo.
Trung thực với đời sống, dung thứ với tha nhân,
tự học thông kinh tạng không lầm lẫn. Đó là trí tuệ.
Thấy người sai tự thức nhắc nhở mình, biết mình
sai sửa đổi để cho chánh giác, người có được đức tính
ngay chánh sẽ thấu sự Thiên Tiên chi Giáo.
Niệm Phật biết đưa vào trong, làm cho linh giác
mở ra cảm ứng được sự mầu nhiệm của Vô Vi chi
giáo.
Người biết tiết độ trong lời nói thì tao nhã mở ra,
người biết tiết độ trong đời sống thì mực thước mở ra.
Nhờ sống có mực thước đi vào Chơn Đạo vô hình để
tìm ra ta là ai.
Không đặt mình vào đâu còn nhiều chỗ cao quý
đặt mình vào. Không xứng tài không nhận chức,
không xứng chức chẳng nhận công. Đó là cái đạo biết
mình trong Tam Giới để thông thần cùng Đạo.
Pháp Vương Như Ý
41
Qua bao thử thách, người trung tín càng tăng sự
thành tín để đủ Bi Trí Dũng thông lý vô hình.
Đi sâu vào thế tục càng đào sâu thế giới vô minh,
đi xa thế tục càng đào sâu sự trống không của trí tuệ.
Chỉ có hoá giải phiền não thì phát sinh trí tuệ.
Người chờ thời phải biết lập thân để cho thân
trưởng thành, nhờ vậy không suy thoái trí tuệ của
thiên nhân trong chu kỳ chờ đợi.
Người có thiên tài không chê phương tiện, người
dùng đủ phương tiện và nhân tài thì không chê phong
cách của mỗi Quốc gia đã đặt thành tục lệ.
Cha mẹ tái tạo ta một lần, ta phải tái tạo cái tâm
ta nhiều lần để tâm ta sanh cùng Đạo.
Thiền định phải dứt bỏ chánh tà thì đường trung
dung khai trí, phải bỏ đồi trụy thì trí tuệ mới sanh, còn
vướng vào tứ đổ tường thì Thiên quang Trời đóng cửa
huyền vi.
Đạo đại kỵ cờ bạc, gạt lường, trộm cướp cho dù
chơi cho vui vẫn sanh tạp niệm.
Cửa sanh khí mở cho người trung thực, cửa trí
tuệ mở cho hàng chơn thật, cửa Vô Vi mở cho người
thành tâm. Ai được ba quan điểm này thì dễ đạt Đạo,
thần minh vào cửa Đạo học Phật.
Tiên rước hàng học Đạo trung dung để thần minh
đi vào trung đạo tu dưỡng Thiên chơn.
Pháp Vương Như Ý
42
Phật rước hàng tu trung thực, bỏ sắc tướng âm
thinh mới phát thần minh đi vào nhà Phật nhà Đạo.
Lưỡng tu người đó không bao giờ đắc Đạo.
Lưỡng giáo người đó không bao giờ đắc pháp.
Lưỡng tin người đó không bao giờ thành tài.
Vì trên đầu ba tấc có thần minh soi xét trung hay
ngụy tạo.
Người được đãi ngộ đời này là nhờ đời trước biết
đãi ngộ, nên tích luỹ đức năng thì Thiên chơn dễ
thành Đạo lớn.
Hàm học cái biết của thiền cơ làm cho trí huệ
càng đi sâu vào trong lòng Đạo, nên bỏ cái tiểu xảo di
ngôn không để lời dơ làm thương tổn trí tuệ trong lúc
tâm ta đang trong sáng.
Làm người phải lập trung thực để tâm Đạo khai
mở, tìm lại sự sống Tiên chơn của chính mình là
người biết tu Đạo thực sự.
Trước khi trí tuệ mở ra thì sự trung thực của nội
tâm cần nắm lấy, bỏ nội tâm trung thực thì trí tuệ cũng
tối dần theo sự đen tối của nội tâm.
Không bỏ cuộc sống của đời, chỉ bỏ con người
xưa của ta ô tạp, thay mới ta trong trí tuệ thì tu ở đâu
cũng thành Đạo.
Pháp Vương Như Ý
43
Không kêu gọi ai tu với ta, ta chỉ làm đúng cái tu
của ta thanh sáng, tự nhiên bằng hữu dễ thức lòng
nhân trong sự thanh tịnh của chính ta.
Ta trồng cây phải biết thời khí của cây đó được
khí hoá của Trời đất dưỡng nuôi, sanh ra hoa quả phải
biết dâng Trời để đền ơn sanh hoá trong kiếp đắc Đạo
tu chơn.
Hàng tu thiền định phải thông Trời, là cơ pháp, là
ngẫu. Chỉ có Đại Thừa Cửu Chuyển thì cửa Huyền
Tẫn mở ra, khi cửa sanh môn đã mở phải nhập tâm để
tâm nhập Đạo và xuất thần học Đạo.
Phải làm sạch bộ áo linh hồn để vào cửa Thái
Hư, phải dứt sạch phiền não mới vào cửa Ngọc Hư,
phải dứt sạch thiện ác niệm mới vào cửa Nguyên
Thủy. Đó là ba cửa di nhơn học Đạo.
Đến đó, hàm học cái không mình cho trí tuệ tròn
đầy, hàm học cái không người cho tiềm năng quang
chánh và luyện cái không trần để phát đủ lục thần
thông.
Tam Giáo hữu vi là sắc, là tưởng để làm phương
vị của giới hữu thường, vô thường và không tướng.
Tam Giới Vô Vi chi Đạo là vào cửa không động
vào cõi tĩnh không và vào cõi Vô Vi Huyền Bí Phật
Pháp.
Pháp Vương Như Ý
44
Người mới xuất hồn đi học Đạo là đi trong ba
giới hữu vi của tiên Thiên, tiên Địa. Người luyện được
Kim Thân là đi vào ba cõi Vô Vi chi Đạo hàm học
Kim Thân.
Vào Tam Giới hữu vi học xong chín khoá thì
được đắc pháp; vào ba cửa Vô Vi chi Đạo hàm học
chín khoá để đắc Đạo. Từ đó, thông Thiên lý tỏ ngộ
huyền cơ.
Sau đó, coi sổ sanh tử chướng của mười ngàn
năm, coi chín bộ thông Thiên, kiếp nào ta yếu thì kiếp
này tu bổ cho tròn đầy.
Yếu về hành văn và âm luật thì tu bổ văn
chương. Yếu về văn học sử ký thì tu bổ đức năng
thượng học. Yếu về pháp môn thì luyện lại tâm
thượng học của Thiên Tiên chi giáo. Yếu về lễ nhạc
tao nhã phải hàm thụ trong bộ tiên Thiên chi lễ. Yếu
về tánh lý tiềm năng hàm thụ sự Thông Thiên Địa
học. Yếu về binh thư hàm thụ võ đạo trung nghĩa di
trung. Yếu về thiên văn, địa lý, thuật độn giáp phải
hàm thụ cõi Thái Thanh Cung. Yếu về đức từ bi và
lòng nhơn hậu hàm học ở Ngọc Hư Linh Cung. Yếu
về Thiên Lý Triều Nguyên học lại ở Cung Nguyên
Thủy.
Bậc xuất hồn chỉ đi được tới trung giới Bồng Lai.
Hàng xuất thần mới vào cửa tiên Thiên chi Đạo. Hàng
Pháp Vương Như Ý
45
Đắc Kim Thân mới vào được Bạch Ngọc Kinh và Lôi
Âm Tự.
Sơ thủy của Đạo gia là Nhơn Tiên và Trung
Thiên. Trung Chánh chi Đạo là Tiên Thiên và Kim
Tiên. Đại Học chi Đạo là Kim Tiên Như Lai Bồ Tát
La Hán và Đức Phật.
Mười ngàn năm đã qua, tất cả chơn linh mới thi
tới Nhơn Tiên và Trung Thiên, còn trong các cõi:
1. Thần Tiên, 2. Danh Nhơn, 3. Công Hầu Khanh
Tước , 4.Giáo Chủ Hậu Thiên, 5. Nhơn Chi Thượng
Học, 6. Phú Quý, 7. Vinh Hoa, 8. Thầy Sư và Nhơn
Loại. Ấy gọi là 8 cửa sinh môn trong 64 giới Nhơn
Tiên và Nhơn loại đang thi trên quả tinh cầu.
Hàng luyện được Như Ý, Đại Thừa Cửu Chuyển
và Thất Phản Cửu Hườn đưa sự truyền thần của mình
tiếp nối với linh khí Tiên Thiên, đem nó vào nê hườn
cung và đơn điền để tẩy rửa nghiệp nhân từ trong sanh
ra ngoài, nên gọi thừa thanh.
Sau đó, đem nó trở vào trong thì sanh Thánh thai
Phật tử, khi trưởng mạnh thành Kim Thân. Cái Thân
đó ly gia cắt ái, sống trong vô tướng hào quang của
Chư Phật để thông huệ quang vào ba ngàn cõi Niết
Bàn, hàm học sự vô sanh, vô tử của cõi Hư Vô.
Pháp Vương Như Ý
46
Bậc Đạo: thường tịnh để tỉnh thần, thường hành
nhơn để thông lý, thường tỉnh tánh để thông kinh,
thường tỉnh trí để thông huệ.
Khi đạt trí tuệ: Luyện khí Hạo Nhiên để tâm
thanh, luyện thần truyền thần để nhập Đại Hoàng
Kim.
Hàm học sự minh huệ để Huyền Kinh. Khai
Thiên Thư để hiệp Đạo. Mở Thiên Nhãn để tỏ thông.
Đi siêu Tam Giáo để thấu triệt vô thượng tâm đức, vô
lượng quang trong Đại Khối Linh Quang chánh định.
Khi đạt chánh định phải chánh tinh tấn, lòng lóng
lòng cho sạch khí hậu Thiên thì khí Hạo Nhiên mới đi
vào trong sanh pháp giới trong tiểu vũ trụ, để chúng
sanh chưởng dưỡng hào quang, từ đó lỗ chân lông
mới phát quang. Đó là cách luyện Đạo để phát huệ.
Tâm sanh thì dùng vô lượng tâm để hoá, trí tuệ
sanh thì dùng vô lượng trí để Niết Bàn thanh thoát
Tâm Kinh.
Cửa tâm mở thì Huyền Quang Linh Khiếu phát
quang. Từ đó, sự truyền thần đi vào Thái Cực, sự
truyền ý chí đi vào Hư Vô để khai mở tám triệu sáu
trăm bốn mươi ngàn chữ \/ mở và /\ úp.
Được nối ký ức của hàng biết luyện Đạo vào vũ
trụ Tâm Kinh của Hư Vô.
Pháp Vương Như Ý
47
Qua cõi Thái Cực ta đối diện vào cõi Thái Hư, đi
vào cửa Thái Hư sự không biết của ta tự nhiên thông
huệ, thấy biết vạn lý của Hư Vô chi Đạo thông suốt
mầu nhiệm trong cõi Hư Linh.
Vào cửa Thái Hư ta trở lại sở học của thuở ban
đầu, một Tổ Đạo của Nguyên Thủy Hư Linh. Các
phiền não đến đây nhờ linh khí đốt sạch, các thành ý
đến đây sanh ra Tam Thể Chơn Nhơn hiệp một để
cùng lý tận tánh.
Thấy có sự tường vân mầu nhiệm. Nghe có sự
thông huệ tỏ ngộ Đạo lớn thiền cơ. Biết có sự thiên tư
phù trợ sự chi giáo. Hiểu có sự am tường nguồn cội
của Nhất Nguyên. Phát minh có sự Thiên cơ và Thiên
thơ thi hoá. Dự trữ có sự mực thước lớn để chứa Tâm
Kinh.
Một ngày có 12 thời tức 24 giờ, mỗi thời khí thay
đi thì tâm sanh huệ minh Đạo, linh khí thông cơ, cửa
Huyền Tẫn mở ra, lòng trống không chứa Tâm Kinh
và Nhãn Tạng.
Mỗi thời là một giờ hàm học với Tha Tâm
Thông, cái biết của Trời làm cho có Trời trong ta, cái
biết của Phật làm cho có Phật trong ta.
Lý của vô thường, từ đây ta linh cảm đầy đủ sở
học của vạn năng. Luật của vô thường, từ sự đại ngộ
đăng chính. Đạo của vô thường, am tường sự chỉ
nguyệt để điểm hóa thiền cơ.
Pháp Vương Như Ý
48
Khí đến đó, tụ ngưng giáng thăng theo ý để linh
cảm thần truyền thần vào những thế giới đại Hoàng
Kim, để thấu rõ sự cực lạc của cõi Hư Vô Diệu Hữu.
Thấy thanh tịnh để sự thấy kia đi vào chiều sâu
của mầu nhiệm, hóa chơn thân trong cái thấy thì muôn
ngàn am tường dạy thấy biết thành chơn.
Sự vi diệu của thiền cơ làm cho tâm trong sáng
tròn đầy thì tường vi hiển rõ, làm cho trí thanh tịnh
tròn đầy thì sự liễu giác ngộ đăng Thiên, nhờ tâm lý
đăng Thiên hiệp làm một cùng Phật, cùng Đạo.
Bậc thông thiền thường trung thực để ngay chánh
Thiên Chơn, thường thanh tịnh để sanh hoá tiềm năng
trong các cõi đại trí tuệ, xa cái nhơn mới gần gũi cái
Tiên nhơn, lìa tục giác mới siêu trong thiền giác.
Xả bỏ cái chứa hậu giới của tâm thì tâm mới sinh
vào Tiên giới, xả bỏ cái tình tưởng không tâm thì tâm
sinh vào Phật giới.
Bậc luyện tâm phải biết tâm là lý vô hình, có xả
bỏ tâm phiền não thì tâm mới sanh xuất kỳ tâm.
Tâm an là không cầu siêu giác, sự siêu giới đến
hàm dạy bổn tâm. Không cầu sự Thần Tiên, Thần
Tiên lại hiển ra để dạy người trung thực. Nên nhơn sĩ
học Phật tu Đạo phải làm cho mình không thì sự có
của Vô Vi chi Đạo hiển hữu.
Pháp Vương Như Ý
49
Biết mình sai phải thừa nhận đó là đại dũng, biết
mình lỗi phải sửa sai đó là đại trí. Nhờ làm như vậy,
cái tâm mình mới trung thực dễ thành Đạo.
Trung nghĩa là đạo của Thần Tiên; di nhơn là đạo
của Thánh Tiên; hành nhơn chi giáo là đạo của Nhơn
Tiên. Vậy người học Đạo phải đổi mới tâm mình để
linh thiêng cùng Phật.
Động đến biết lui để an, loạn đến biết lùi để yên,
tranh quá biết nhường để thanh tịnh.
Cái có cái không, chỉ có vị tha mới giải thoát thật
của nhân quả.
Người học Phật, không nên dùng pháp lý quá sâu
làm gian trá tha cầu, không nên dùng pháp giáo quá
nông cạn làm thô thiển hình pháp, chỉ dùng trung đạo
rồi hiến ái vị tha, được như vậy gọi là tế thế.
Tha người không mong cầu báo ân, cho người
không đòi sự báo đáp. Ấy mới gọi công đức vô lượng.
Thấy chưa đủ mà cường bạo là thiển cận của
người nhơn. Nghe chưa tròn mà phẫn nộ thì thiền cơ
chưa thông lý Đạo. Nghe đầy thấy đủ mà vẫn vô tư
mới gọi là tùy thời biến dịch, tùy ngộ an nhi cùng Phật
cùng Đạo.
Thiên lý tuy không thấy biết, những người tu
pháp Trời sự thấy biết Thiên lý gắn liền theo, nhờ vậy
mà đại ngộ đại giác trong thiền giác Vô Vi chi giáo.
Pháp Vương Như Ý
50
Thương biết dâng tình cho tình ta và tình Trời
vào trong đại thể. Yêu biết hiến ái cho chơn ái giữa
Phật và Người đồng đại giác. Thù biết quên lãng để sự
cứu độ Người và Trời đồng nhất chơn nguyên. Đó là
sự vị tha đồng tâm tế thế.
Làm người cho đến Thánh nhân không ai mà
không có lỗi lầm, người mà biết nhận lỗi và tự sửa đổi
đời sống có linh quang, tức tự tu Đại Thừa Chơn
Giáo.
Lý có nhiều khi đạt tâm thì cùng lý tận tánh. Lời
có thừa khi nhập định thì Thiên Thể Hư Không. Tai
có nghe khi lìa tâm thì thị Hư Vô Diệu Hữu. Đạo có
luận bàn khi đại định dứt ý để Thiên lý linh quang. Vì
vậy, Thiên và phàm trong động và tĩnh.
Kẻ sĩ tu Đạo khi đến Đạo thì biết quên lời để giác
ngộ, dùng ý để khai thị tiềm năng, khi đại giác ngộ trở
vào trong thì quên ý để nhập định, khi định lực tròn
đầy sự phát huệ theo Thiên thể tự nhiên.
Giác ngộ là thấy giải thoát thế gian, biết giải
thoát bản ngã, hiểu siêu lý am tường, di ngôn thành
nhãn tạng, giải thoát Tâm Kinh siêu linh thành Đạo
Biết đến đầy sự biết kia sanh trí tuệ. Hiểu đến am
tường sự tròn sáng hiển tánh Chơn Như. Ngộ đến tròn
đầy sự trong sáng phát sinh Thiên nhơn, Người và
Phật đồng nhất Đạo.
Pháp Vương Như Ý
51
Vui đến cùng sự tĩnh tâm sanh tâm an lạc quốc.
An đến cùng sự hoan hỉ khai sáng tánh Như Lai. Hiểu
đến tường tận sự thông thần hiển chơn lý Đạo. Vào
nội thiền cơ mới khai sáng tâm lý đại thừa.
Văn hoá đến cùng sự minh tâm sanh biển Đạo.
Kinh văn đến tận sự linh tâm phát hiển Tâm Kinh.
Thiền định đến cùng sự an lạc phát sinh trí huệ. Vào
bên trong Đại Thừa Cửu Chuyển thông thị Thiên thể
chứa huyền cơ.
Lý trí có đi ngược dòng đời lòng di nhơn đi tầm
chơn giải. Ý có kiên trì, tánh kiên định đi tầm Thiên lý
để thấu lộ thiền cơ. Tìm được Minh Sư là bắt được
nguồn giải thoát. Vào trong siêu hoá linh quang để
siêu hoá Thiên chơn.
Ly tâm trần sức sáng của linh quang mới ly gia
cắt ái. Lìa sự động tâm, chơn tâm mới tỏ ngộ sự sống
lại của linh căn. Xa chốn ồn ào sự an tịnh nội tâm mới
phát huệ. Lòng có lắng trong thanh, sự thanh tịnh tánh
sáng kéo nhau về. Vào trong bản thể vô hình mới đủ
Vô Vi chi Đạo của thiền cơ.
Thức được lòng phải thiền định cho lòng lặng
được lòng. Giác được căn cơ phải đi hỏi Minh Sư sự
cơ ngẫu thiền cơ. Giao tâm vào thanh tịnh giới có hiểu
thiên văn, người đắc Đạo không lộ cơ Trời.
Lắng được lòng thì sự minh tâm càng trong sáng.
An được lòng thì Thiên lý dạy sự mầu nhiệm tùy căn.
Pháp Vương Như Ý
52
Thông được tâm thì lìa vô đạt hữu không còn khó dễ.
Xa được thế gian tâm thì tâm chơn giác mới theo về.
Không để tánh quá đầy khi tràn thì bớt lại. Không
để tánh lặng yên trống không, Đạo không theo về.
Không để tánh hôn mê sự lặng không, làm cho tánh
chết. Chỉ để tánh tròn đầy sanh tâm trí tuệ.
Tánh lặng không, người thiền định bị mê thần.
Tánh trống không, người thiền định đi vào tịch tự diệt.
Tánh vô năng, người thiền định không phát sinh định
huệ. Tánh tròn đầy, mới thật tánh lý chứa đủ linh
quang.
Kẻ sĩ bỏ nội tâm đi tầm Phật theo sắc tướng âm
thinh, có đi hết đời không đạt sự giác ngộ, không đắc
nội thiền cơ, không tỏ ngộ Đại Thừa Giáo Pháp.
Vì vậy, họ dùng kinh để thị lý, dùng trí để đo
lường, dùng gương để tỉnh giác, đi tu như vậy suốt đời
cũng không giác ngộ.
Bậc thiền học! Thanh tịnh để tìm kinh, tâm sanh
đi tìm huệ, lòng phát sinh trí tuệ lại đi tầm ta là ai
trong bản lai diện mục, đến đắc Đạo rồi lại đi tầm ai là
ta trong Đại Khối Linh Quang.
Thấy được ta đi tìm ta trong ngàn kiếp đã trải
qua, hiệp được ta phải lìa ta mới vào cửa Đạo, vào
trong cửa không giáo mới hiểu thần ta trong chơn giáo
để toàn chơn.
Pháp Vương Như Ý
53
Khai thị được tâm là Thánh.
An định được tâm là Tiên.
An trị được tâm là Bồ Tát.
An lạc được tâm là Phật.
Khi tìm được ta là ai lúc thiền định quên dần thì
nó lại hiển ra ta là ai, ta cũng làm như vậy khi nó đến
ngàn lần, tự nhiên thanh tĩnh Hư Vô.
Khi tâm mới phát sinh trí tuệ để tùy duyên.
Không cưỡng cầu làm mất sự linh nghiệm của tâm.
Không cầu an làm cho tâm sanh lầm lẫn. Không cầu
xin làm cản trở tâm lý của thần tâm. Nhờ biết tùy thời
biến dịch, tùy ngộ an nhi cùng Đạo cùng Phật là tột
phẩm.
Không tham cầu làm rối trí tuệ của nội tâm.
Không cầu an làm loạn tướng của nội tâm.
Không mưu cầu làm hôn ám tướng pháp của
nội tâm.
Hãy để tâm sinh huệ, huệ sanh mạng môn, mạng
môn sanh thần huệ, được như vậy mới gọi hàng tu đắc
Đạo.
Pháp không đồng nhất, vũ trụ không sanh linh
pháp để thâu thị huyền cơ.
Kinh không đồng chu kỳ giải thoát, làm cho hôn
mê trí tuệ.
Pháp Vương Như Ý
54
Pháp phải đủ chín Trời, kinh phải đủ chơn giải,
có vậy mới Đại Thừa Cửu Chuyển Tâm Kinh.
Không nghe người để khỏi rước động vào tâm.
Không nghe quỷ thần để khỏi rước tà chánh vào tâm.
Nhờ vậy, tâm mới được trong sáng để chứa Đại Khối
Linh Quang.
Người ngồi trên thuyền không đáy là biết dứt sự
có lòng, người biết xa phiền não tức biết tìm tâm trí
tuệ, nhưng phải đủ tinh tấn mới vượt qua sự khuyến
dỗ của ma tâm đi vào nhân sanh quan của nhà Đạo
nhà Phật.
Thấy không đồng nhất, định quán tướng xóa sự
thấy đó đi. Hiểu không đồng thanh, định quán tâm xóa
bỏ nó đi. Làm được như vậy, tánh mới linh tâm mới
sáng để đồng nhất trí tuệ.
Lý không trung thực tại tâm còn chứa sanh tử
chướng ngã. Tâm dứt tướng ngã thì tâm đó thông suốt
chứa huyền cơ.
Khi định được tâm làm cho thần minh sanh giác
ngộ, trong sự giác ngộ làm cho tâm vô lậu để mở sự
lậu tận thần thông. Khi việc mầu nhiệm mở ra phải
liễu giác trong giới thông thần, vào giới thông thần
phải khiêm để an chánh, phải văn chương để trí tuệ
sanh xuất tiềm năng, phải văn minh để chu kỳ Hoàng
Đạo.
Pháp Vương Như Ý
55
Gặp bậc Chưởng Giáo phải thành khẩn để hàm
thụ sự minh xa, được minh xa thì lậu tận thiền cơ
được mở, giáo lý của Trời hàm học để tròn sáng linh
quang.
Gặp bậc Chưởng Pháp phải trung chánh thần
minh, làm cho sự thần truyền thần đi vào duy tâm đạt
Đạo.
Đi lễ Phật Mẫu phải không lòng để đến cõi Tây
Phương không bị thị ngã độc tôn, tâm giả sắc tướng,
hành giả thiên căn, tục gia dục đức, là chưa sạch niệm
giác của Thiền Sư.
Ngày đại lễ, cũng là ngày thành Tiên Phật hay trở
về tục giới.
Hoa có sắc, tâm sạch sắc tướng thị hiển trung
hòa. Hoa cho dược, tâm sạch phân biệt lòng đó tao
nhã. Nhờ sanh tao nhã thanh cao làm cho lòng ở chỗ
có lại chứa cái không tâm, được như vậy vào lửa thử
vàng thì vàng kia thành kim xuyến.
Lời vô tranh thì sự tao nhã sanh văn chương, văn
chương sanh xuất trí tuệ, trong trí tuệ lại sanh xuất
huyền cơ.
Văn không đồng cầu sự hàm học linh văn để siêu
giác. Kinh không đồng cầu sự linh giác của Tâm
Kinh. Nhờ biết xiển dương trong Đạo mầu nhiệm thì
sự nhiệm mầu mới thị hiển đạo đức lớn truyền tâm.
Pháp Vương Như Ý
56
Đến cõi khí hóa lại khinh thanh, thần minh phải
biết tẩy trần đắp y thay đổi giáo pháp, như khí cất lên
cao theo khí Hạo để tâm lý triều nguyên vào hết thanh
cảnh của tiên Thiên thì tâm sanh vào cửa Đạo, nhà
Phật.
Khí tiên Thiên là khinh thanh. Thái Cực Hoàng
Đạo hiển ra sự luyện là làm cho Thần và Tâm đi vào
cơ nguyên hiệp nhất.
Khí Nguyên Thanh là cửa Nguyên Thủy mở ra,
làm cho Thần Tâm ta đi vào sở hàm học của thuở ban
đầu sự sơ khai Trời Đất và nhân loại để đại ngộ vào
cửa không động của thời gian, không tĩnh của không
không gian để tam thể hườn nguyên hiệp thần linh về
nguồn cội.
Khí Linh Bảo Toàn Thanh làm cho thần minh ta
mở ra lục thần thông, lục tâm thông, lục mạch thần
thông. Nên thần truyền thần phát sinh thần giao cách
cảm, thấy trước biết xa, linh tâm tự cảm tự ứng với
Thiên Địa Thần Tiên sanh ra sự trường thống mực
thức Thiên Nhân giúp mình đại giác.
Đến đó, sự linh cảm biết được Thiên thời để ứng
vận, thấy nghe được Đạo vi diệu để ứng đáp huyền
cơ, nên lời của bậc thông Đạo là pháp nhân dạy cho
người thượng học.
Đến cảnh giới thanh lòng, phải đưa tinh hoa của
mình vào trong Trời lớn, hàm thụ tinh hoa của thiên
Pháp Vương Như Ý
57
địa thủy hỏa phong vân và tinh hoa trong sáng của
Trời Phật vào trong nhất niệm, để thời gian vô biệt
niệm hàm dưỡng Thiên Chơn.
Đến cảnh giới không động tịnh, thần minh ta phải
biết dùng sự động của trí tuệ để đi qua sự không động
của Thượng Thiên, dùng tâm động sanh Kim Thân
Huệ Mạng để vượt qua cảnh không tĩnh của Thượng
Thiên. Được như vậy, cánh cửa lậu tận thông của Trời
lớn mới mở ra ta đi vào siêu Tam Giới.
Đến sự thần truyền thần phải làm cho tâm sạch
dục niệm, lòng trống lòng chứa linh giác của siêu
quang, tâm truyền Đạo để am tường thông thái mà ta
chưa từng học nên gọi là siêu giác.
Vào trong không tướng quang mới vượt Tam
Giới, mới siêu giác hết cái ta từ phàm phu bước qua
Tiên nhơn Bồ Tát giới, nơi đó hoàn toàn chơn lý có
chứa sự Đại Hoàng Kim.
Đến đây, phải có Kim Thân để luyện thần trong
Trời lớn.
Thân Kim được đạo rèn luyện thì kim đó mới đắc
thuần kim. Tâm Kim được luyện sự siêu giác của
chơn lý mới thuần nhất. Tánh Kim vào đó điêu luyện
mới phát kim đức của Chơn Sư.
Bậc Đạo lớn vào trong mới vào cõi Hoàng Kim,
sanh đại định.
Pháp Vương Như Ý
58
Tánh sanh kim hoa, sự cao quý của trí tuệ tường
thông. Lòng sanh kim đức thì khẩu khí phát cam lộ
nhiên đăng. Từ đó, lòng thanh lòng vào trong đại thiền
cơ để liễu giác.
Đến đó, cái có cái không Hư Vô chi khí. Cái thấy
cái biết siêu lý thành kim. Cái phàm cái thánh quân
bình khí Hạo.
Tâm chứa thanh quang làm cho tâm tròn đầy
trong sáng. Tánh chứa chí nhân làm cho tánh hành
Đạo chi dân. Lòng chứa khí Hạo Nhiên sự mầu nhiệm
theo về. Sanh tử của hậu Thiên do ta Chưởng giáo.
Đạo là tu như không tu, tu ấy mới giải thoát tu tù.
Hành như tự nhiên, hành nhơn chi giáo phải giải thoát
giai cấp.
Sống trong nhơn sanh chi Đạo phải bình đẳng
linh quang, chỉ có bình đẳng linh quang nhơn gian
mới đồng chí nguyện thành Đạo thành Phật.
Pháp Vương Như Ý
59
CHÚ THÍCH
1. Nam Mô Vô Cực Quang Thượng Đế:
Là Đại Khối Linh Quang trong cõi Hồng Mông,
là Bậc lập Đạo Vô thượng, mỗi linh quang Phật Tiên
Thánh Thần và Nhơn loại đều từ đây phân linh đi theo
sự tiến hóa, mỗi linh hồn thành Phật Tiên Thần Thánh
đều nhờ vào sự nhận lại cội nguồn nguyên thủy để kết
thân thành Phật, thành Đạo.
Đại Khối Linh Quang của Trời vô thượng là
Đấng tạo hóa, là Cha để lập Đạo, là Vua để lập Trời,
Ngài là Mẹ để khai Thiên lập Địa và lập ra Càn Khôn
Vũ Trụ.
Người tu nguyện câu này tức lễ Đấng Toàn
Năng, hay lễ Trời Vô Cực ở Bạch Ngọc Kinh Tổ
Đường của Tam Giáo Ngũ Chi, là vị Thượng Đế chúa
tể Càn Khôn, là Vua trên muôn Vua, là vị cầm nắm
quyền binh trong Trời Đất và vũ trụ Càn Khôn. Mỗi
Phật Tiên Thần Thánh Nhơn loại nguyện câu này tức
con hiếu tu hiền quy y đi vào nguồn cội.
2. Nam Mô Vô Ảnh Quang Như Lai:
Là Đức Phật Tổ Như Lai ngự ở cõi Niết Bàn Lôi
Âm tự, là Thầy trên muôn Thầy, là Tổ truyền Pháp
Phật cho muôn Tổ, là Đấng cầm Pháp lực vạn năng
trong Trời, Phật, người.
Pháp Vương Như Ý
60
Cho nên, các đệ tử từ Tam Giáo Ngũ Chi tu xong
rồi, phải tu pháp Phật mới thành chánh quả.
Pháp Phật và Pháp Trời đều ở Lôi Âm Tự, nơi
cầm nắm và đào tạo bậc vạn năng. Người học Đạo tu
thiền định pháp Phật là trở lại để mở cửa vạn năng
trong vũ trụ, trước tìm ta là ai từ đây tới vô thủy, sau
tìm ai là ta trong sức học vạn năng, để ta trở thành
một vị Phật biết hiến ái tha nhơn, để cho chúng sanh
đi trở lại cõi vạn năng mà thành chánh quả.
3. Nam Mô Vô Tướng Quang Pháp Giới:
Đạo lớn vô hình, Phật lớn vô tướng, Chơn nhơn
lớn vô danh, Chơn tu lớn vô tranh. Cõi lòng của mỗi
chúng sanh tu Đạo hay tâm Đạo lớn của Chơn nhơn tu
Phật, phải đứng ra ngoài sắc tướng thinh âm mới hiểu
ra Niết Bàn tâm sinh xuất kỳ nhơn, trí tuệ quang sanh
xuất kỳ quan. Không sắc tướng thinh âm mới đi vào
cõi tâm thanh đại trí tuệ, còn ôm thinh âm sắc tướng
còn luân hồi muôn kiếp làm người làm vật ở thế gian.
Người niệm câu này tức quy y thanh tịnh lại cõi
lòng để thay Trời hành Đạo, mới thành chánh quả.
Tâm đạt Đạo ở trong đời sanh tâm bình đẳng
ngôn luật, sanh tâm bình giải trí tuệ, sanh tâm thái
bình thiên hạ, làm cho kỳ quan học lập lại đời Tân
Dân Minh Đức giàu mạnh thái bình, quả địa cầu thành
kỷ nguyên Di Lạc thuần dương.
Pháp Vương Như Ý
61
Xá ba lần tức lễ Trời lễ Phật dẫn tiến tâm linh về
nguồn cội.
4. Nam Mô Long Hoa Chưởng Giáo Di Lạc
Thiên Cương Phật:
Đời Thượng Ngươn, Trung Ngươn và Hạ Ngươn
của trung giới, Phật Tổ truyền cho Phật Di Đà hướng
dẫn Đạo Sư. Thượng Đế truyền quyền binh cho Đức
Di Đà hướng Đạo trong Tam Giáo.
Đời Thượng Ngươn: bao nhiêu vị Phật, La Hán,
Bồ Tát, Thánh Phật, Thần Phật đều do Đức Di Đà làm
Tổ Sư trong Tam Giáo, bao nhiêu vị đều đắc thành.
Tới chu kỳ Trung Ngươn: Đức Di Đà phân thân
xuống thành Phật Thích Ca Mâu Ni tiếp nối Tổ đường
của nhà Phật, từ Trung Ngươn cho đến Hạ Ngươn là
hết Tam Kỳ Phổ Độ của Đức Di Đà.
Đời Thượng Nguyên: lập Đức Di Lạc trở lại,
nhưng đời này tu Đạo Trời, luyện pháp Phật pháp Trời
và học lại kinh Phật kinh Trời của Tam Nguyên Phổ
Đạo đã qua.
Một số đệ tử tu theo Tam Giáo, nên Pháp Đại
Thừa Cửu Chuyển phù hợp với tam căn.
Như Ý Pháp Môn cho những hàng Tỳ Kheo, La
Hán, Bồ Tát, Ấu Phật, Á Phật, Thần Phật, Kiết Phật,
Thánh Phật, La Hán Phật, Tỳ Kheo Phật và Bồ Tát
Phật để tu thành Nhứt Công Đức Phật.
Pháp Vương Như Ý
62
Thượng Ngươn lập Đạo Phật Tổ Như Lai truyền
Tổ cho Đức Di Đà, Thượng Ngươn kỳ này Phật Tổ
truyền Tổ cho Đức Di Lạc. Đó là thu Thiên cơ của
Tam Kỳ Phổ Độ chúng sinh.
Qui y chánh Đạo Trời: tâm nguyện trở về Tổ
đường nguồn cội của tiên Thiên chi Đạo.
Qui y chánh giác ngộ Phật pháp: trở lại cõi
không phiền não để giải thoát phiền não.
Qui y chánh thanh tịnh Tâm Kinh: trở về lại cái
đại trí tuệ tiềm năng để đi tìm bổn lai diện mục.
5. Nam Mô Vô Ngại Quán Thế Âm Bồ Tát:
Sự sáng của trí tuệ làm cho con quán thế thông
thiền trở về lại tâm linh, minh di thiện.
6. Nam Mô A Di Đà Phật Vạn Vật Thái Bình:
Đi vào sự tiến hóa công bằng của nhà Đạo, nhà
Phật để đạt trí tuệ.
Xá ba lần là lễ Tam Thể Phật, bất Ấn là sử dụng
pháp lực để hộ pháp thần linh.
Hít vô đi theo 6 huyệt để mở 6 cửa lục thông, hít
vào niệm Phật là đưa sự niệm vào trong để thành Pháp
lực thanh tịnh.
Đếm từ 1 đến 12 hơi thở là đi lên nấc thang của
12 cõi thập nhị địa chi.
Pháp Vương Như Ý
63
Từ 1 tới 24 hơi thở là đi vào 24 cõi trung giới
vào Bồng Lai để học Đạo đắc pháp.
Từ 1 tới 36 hơi thở là đi vào 36 cõi tiên Thiên,
tiên Địa.
Từ 1 tới 72 hơi thở là đi vào sở năng của Tỳ
Kheo.
Từ 1 tới 108 hơi thở là đi vào đại định của Bồ
Tát.
Thở 3 hơi pháp luân thường chuyển là mở 3 cửa
tam Càn thành Khôn lục đoạn. Đó là lý thay đổi Càn
Khôn (Càn tam liên Khôn lục đoạn), cũng là thay đổi
Trời Phật ở trong mình để minh tâm kiến tánh Bồ Đề.
Thiền định là chu kỳ một giờ thiền, một thời của
tâm minh đi học Đạo ở cõi Vô Vi chi Đạo, làm cho
thần minh của ta phát sanh tiềm năng và trí tuệ.
Xả thiền làm cho lục phủ ngũ tạng thu hồi lại khí
Hạo Nhiên và thanh quang điển lành của bản thể nhập
lại thế gian.
Niệm Phật bên ngoài là hộ pháp thân. Niệm Phật
đi theo lục mạch vào bên trong khai mở lục tâm thông
để đồng thanh tương ứng cùng Đạo.
Thấy của tâm nhãn thông. Nghe của tâm nhĩ
thông. Hiểu của tha tâm thông. Biết của túc mạng
thông. Phát minh của thần túc thông. Ghi nhận của lậu
tận thông. Đến đó, Thiền Sư mới nhận ra sự linh cảm
Pháp Vương Như Ý
64
của tiềm năng, sự linh tâm của tiềm thức, sự linh giác
của tàng kinh, sự linh thiêng của tâm minh tàng trữ, sự
linh khứu tàng ẩn, sự huyền cơ Vô Vi chi Đạo ở trong
mình.
Thấy không xao dợn, nghe không phiền não, biết
không thời gian, hiểu không không gian, phát minh
không vị kỷ và dự trữ có tiềm năng đang sinh hóa.
Làm cho ta đi tìm được ta trong vô lậu thiền
quang, rồi lại tìm được ta trong Đại Khối Linh Quang
thanh tịnh để chính ta hườn Đạo.
Thấy của trí tuệ làm cho tâm thanh, làm cho tánh
văn chương và làm cho chơn linh hội được thiền cơ
trong những cõi thanh tịnh.
Nghe của trí tuệ làm cho tâm ta lìa xa phiền não,
đi vào cái nghe thanh tịnh Bồ Đề.
Biết được Vô Vi chi giáo đi vào sở học của Đạo
lớn vạn năng, để đổi mới mình trong thanh nhẹ.
Hiểu ta là ai và ai lại là ta, từ đó hiểu thần thông
thần, sự hiểu Đạo đưa ta về nguồn cội.
Phát minh sự học của trí tuệ lập thành Tâm Kinh,
lập thành Tâm Pháp và lập thành sở học sách lược
binh thơ đồ trận, Thần Thơ và Thiên Thơ.
Pháp Vương Như Ý
65
Dự trữ vạn pháp tiềm năng và đại tiềm năng để
cho ta thành chánh quả trong Thiên Nhơn minh di
thiện.
Trong vũ trụ cõi Tam Thể Đạo:
Thần là Trời Quân chánh thần minh, là Vương
Đạo.
Trong các dãy ngân hà: có 7 mặt Trời đại diện
Quân chánh thần minh trong mỗi dãy ngân hà…
Trong người ta: là nhãn tạng và nhất điểm linh
quang.
Khí là Phật Tổ Đường của pháp lực vạn năng lập
thành vũ trụ Càn Khôn đại định.
Trong chín Trời có chín khí Thiên Địa lập vị để
nuôi sống Phật Tiên Thánh Thần và nhơn loại vạn vật
sống chung.
Trong nguời ta đều có chín khí đó: Tâm sanh
chánh khí thần minh; Can sanh trung nghĩa phù trợ;
Thận sanh trí tuệ sách lược tiềm năng; Tỳ sanh lòng
nhơn hậu độ lượng; Phế sanh tinh ba sáng suốt; Tình
sanh thủy chung dâng ái; Đạo sanh tiết độ chơn như;
Đức sanh chí nhơn thượng học; Nhơn sanh vị tha từ ái
Đại bi Tâm Kinh giác ngộ.
Cho nên:
Pháp Vương Như Ý
66
Tâm tàng thần: người đắc Đạo làm cho thần minh
sanh Huệ Mạng Kim Cang.
Tỳ tàng ý: người hiểu Đạo phải dứt lời để thận ý,
dứt ý để khai mở Thiên ngôn, trong sự dạy của Thiên
ngôn làm cho ý sanh chánh thanh tịnh để thần ta đi
học Đạo.
Nhãn quang tàng kinh tạng: nhãn là tâm sinh;
tạng là kho tàng kinh các, như thấy để thông thần rồi
thần truyền thần mới đắc Đạo.
Thấy Thiên thời làm cho bậc Đạo biết cẩn ngôn.
Hiểu nhiều làm cho bậc học biết thận ý. Đi nhiều làm
cho bậc trí tuệ biết duy ngôn. Hành nhiều làm cho tâm
tàng thần biết duy Đạo.
Học đến chỗ khiêm tự lòng biết kỉnh Đạo. Hiểu
đến đại cùng thì sở nguyện dứt nguyện cầu. Đến cái
Đạo tự nhiên tâm bình thì thủy tụ. Giàu đến trọc phú
sự Thiên cơ ta làm chủ cho ta.
Thiên di thượng, bậc tu Đạo phải đạt tới cõi tâm
minh di thiện. Lòng như thần, bậc học Đạo phải đạt
thần khí đắc thiền cơ. Lòng an nhiên, phải đắc Thánh
Thai để hội đề chơn giác.
Ngộ Đạo lớn của Trời là Thần Khí Tinh sanh giáo
pháp để đắc thanh tịnh thiền cơ.
Trí lặng an làm cho thiên trí sanh xuất trí tuệ.
Lòng thanh lòng là hào quang cõi Phật tụ được thành
Pháp Vương Như Ý
67
khí Hạo Nhiên. Lòng trống lòng là giờ thiền định đã
lặng yên phiền não. Trí thông thiền là mỗi giờ thiền là
một thời học Đạo. Lòng riêng lòng là thần minh đi
vào cõi đại Thiên.
Bậc thiền định phải thắng mình: Yêu biết dâng
tình, hiếu biết hiến ái, thương có vị tha, nhân có độ
lượng, nghĩa có lòng nhơn, chánh có trung cang, tu có
giác ngộ. Được Đạo như vậy mới thắng mình trong
nghịch cảnh trần gian.
Bậc giác ngộ, có đức tánh của tiên Thiên chi
Đạo: Học để thăng hoa, hành để chánh kiến, liêm để
nguyên minh, thanh để thuần phát. Làm cho cái nhơn
chi sơ phục thiện giác, tâm ban sơ đi vào đại ngộ.
Làm cho Anh Nhi Tâm trở thành Ấu Phật Á Phật,
phục vị bản tánh sơ khai của tiên Thiên chi Đạo, lòng
ở trần không nhiễm phiền não, trí không nhiễm tạp
khí điển của các cõi Vô Vi, sự sống lại của chơn lòng
ta là Kiết Phật và Tiên Phật.
Hàng Tỳ Kheo Phật được sanh xuất Anh Nhi thì
Huệ Mạng Kim Quang cũng theo về, cái đi của Anh
Nhi là sức thần thông đằng vân vào sở học tiên Thiên
Huyền Võ và tiên Thiên chi Đạo, nên tâm được chánh
linh quang, tánh được chánh Phật quang và lòng riêng
lòng được chánh định huệ.
Cái học của tiên Thiên là sự học của hàng đắc
Anh Nhi xuất thần vào cảnh Tiên nhà Phật, học lại
Pháp Vương Như Ý
68
Thiên lý có luật giao cảm triều nguyên, có trí độ minh
huệ, làm cho sự học chánh kiến và trở về Nhứt Công
Đức Phật đủ chánh tư duy.
Vị tha để thắng lòng vị kỷ, độ lượng để thắng
phàm nhân, minh trị lại mình để thắng phiền não, vô
tranh luận để chánh kiến, nhờ chánh kiến thắng cả
chánh lẫn tà, dâng tình để thắng tình trường vị kỷ,
hiến ái để thắng tự ái phàm phu.
Đến đây, Anh Nhi học Đạo ở trong mà hành độ
bằng chơn giác ở ngoài. Đó là đắc Đạo.
Tâm Anh Nhi là minh kính tiên Thiên, bậc nhãn
tạng Phật Pháp nhìn vào trong mới tiêu được phiền
não.
Mỗi ngày phiền não sạch dần thì trong nhãn tạng
thiền cơ phải động khởi về trí độ, động quang năng về
vô lượng Phật quang, làm cho trí tuệ sanh xuất tiềm
năng, đưa trí tuệ ta am tường sự học và sự động thần
minh cho thông Thiên học trong hàm học của trí tuệ.
Không tính toán nhơn quả, thiện ác, chánh tà thì
tâm Phật quang sanh ra trong cõi Đạo vô tướng, di
thượng cho tánh linh quang tròn đầy Phật Pháp thiền
cơ được mở cửa lậu thần thông, học được cái biết
ngoài Thiên Nhơn và Tam Giáo, hiểu Đạo Trời vô lậu
thượng Thiên, làm cho sự sống của trí tuệ có đủ Thiên
nhân đồng hành nhất Đạo.
Pháp Vương Như Ý
69
Giải thoát là cái trí giải thoát cõi người cõi phiền
não để sanh tuệ giác, tâm giải thoát cầu kỳ để sanh
tâm thanh tịnh Hư Vô, tánh giải thoát biếng nhác cầu
xin cầu độ để sanh tánh Phật quang tròn đầy công đức,
ý lưỡng thiền dứt sạch để sanh chí nguyện giải thoát
toàn chơn.
Bậc thiền định là ta đi tầm ta, ta là ai ở trong bản
thể chúng sanh, ta là ai ở trong tín nhân lưỡng lập, ta
là ai ở trong sự bất cập của Thiên nhân và ta là ai
trong thường tình dục giới. Đến cái giác ngộ đó mới
thông suốt nhân quả.
Cái ta của ngưỡng cửa linh hồn mở ra, ta là chủ
nhơn ông đi tìm hồn vía để tương ngộ, đi tìm chánh
pháp để Anh Nhi, đi tìm Đạo Trời để an chánh, đi tìm
Pháp Phật để thông linh, đi tìm Phật Sư để giác ngộ,
đi tìm Thiên số để hồi nguyên, đi tìm Phật học để
chánh thanh tịnh. Đó là chu toàn trong Tam Giới, đi
tìm ta là ai trong linh quang đại học.
Đến đó, Anh Nhi ta lại tìm ta ra ngoài Tam Giới,
ta có trí để trí tri, ta có tâm để thông thái, ta có trí độ
để hành nhơn chánh, đổi mới cái ta vào cõi Phật Pháp
thiền cơ thanh tịnh.
Khi tâm sanh sáu cửa lục tâm thông thì đổi mới
cái thấy của tiên Thiên Duy Đạo. Thấy được thiền cơ
để sắp ta vào cửa thanh tịnh học Phật, thấy lại ánh
sáng của nhiên đăng Phật Pháp, thấy lại các cảnh pháp
Pháp Vương Như Ý
70
giới vô lượng quang, để Thân Kim của ta đi vào đại
định giới học Phật tu Đạo trong Thiên thể miễn bàn.
Nghe của lục tâm thông là nghe linh điển của vũ
trụ chuyển luân, nghe sự thiều quang thiết độ, nghe sự
huyền giáo Vô Vi, nghe lòng chí nhân sống lại. Trong
cái nghe thiên ngôn vạn ngữ, để sự nghe theo Phật
Pháp triều nguyên mà thống nhất lại lòng, an chánh
linh tâm, yên an cùng Đạo cho ta thành Phật.
Biết của lục tâm thông là cái biết của Tâm học
chi Đạo, Tâm Kinh chi giáo, Tâm Đạo duy nhơn, biết
ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sắp thành, nên
sự biết dạy nhơn loài thành Phật sanh ra 6 cửa huyền
cơ:
1. Người vì mình là Phật để chánh kinh.
2. Ta sẽ là Phật để chánh định.
3. Trí tuệ ta sắp là Phật để vị tha.
4. Tánh quang ta là Phật để chánh ngộ.
5. Tâm linh ta sắp thành Phật phải huyền năng.
6. Đạo trong thân ta tu cho thành Phật nên cần
nhiều thời gian tu hóa để đạt thành chánh quả.
Đó là lục độ thân ta thành Phật, qua được 10 cửa
thập Thiên can của Đạo.
Hiểu của lục tâm thông là xa dần sự phiền não để
tâm sanh trí tuệ, lìa chốn ồn ào để trí định huệ sanh
xuất thiền cơ, bỏ qua sự tranh danh dục thế để lòng
riêng lòng chứa linh pháp lý Hư Vô.
Pháp Vương Như Ý
71
Biết cho đồng thì an sự thấy biết. Nghe cho thuần
bình tâm phản tỉnh trong sự thấy nghe. Từ đó, cái biết
của ta đi vào nhập định để thông hiểu biết trong Thiên
nhơn duy Đạo.
Biết của nhà Phật là dùng nhu thắng cương, dùng
nhược thắng cường, dùng yểu yểu minh minh của sự
nhập định thông thiền để thắng trí định huệ, để lòng
sanh tịnh pháp, tịnh pháp sanh trí tuệ kim cang, để
Thánh và Phật vào cái lý trung dung thiền tâm sanh
giải thoát.
Biết của Phật Kinh là thuyết độ, ái của Phật tông
là lòng có đủ tiết độ. Nhờ vậy, mới mở cửa tâm thông
nhìn Phật lớn vô tướng, học Đạo lớn vô hình, sự học
Phật làm cho lòng an, chánh kiến mỗi khái niệm thành
thanh quang điển lành để khai mở chánh tư duy.
Bậc thiền sư học Đạo trong sự thông thiền làm
cho Tiên nhơn phát thức: thấy được chánh tiềm năng,
nghe được chánh thanh tịnh, hiểu được chánh tư duy,
biết được chánh Tâm Kinh, thâu được chánh chơn ái,
phát được chánh tư nghì, làm cho sự suy tư trong lòng
chết sạch phàm trí thường tranh, chết sạch cái ái dục
thường nhiễm, chết sạch cái yến ẩm đam mê, chết
sạch cái nhơn tánh thường háo.
Tánh sanh chánh linh quang; tâm sanh minh cảnh
đài; lòng sanh chánh Thiên mạng; trí sanh chánh giác
Pháp Vương Như Ý
72
ngộ thiền cơ; sự hiểu biết sanh chánh viên giác; chí
nguyện sanh chánh Phật quang.
Cây Nguyên Linh của ta từ Bạch Ngọc Kinh trổ
cành cứng mạnh, hoa Tiên dâng Phật hiếu Đạo cúng
dường, trái Bồ Đề sanh xuất bốn vạn tám ngàn nhơn
duyên theo quả Đạo thường Phật, theo hoa công đức
thừa thanh, theo sự lớn mạnh của Hư Vô truy linh
quang thành Đạo.
Thâu được khí lớn có đức háo sanh cùng Trời,
thâu được khí lớn có lòng đại bi cùng Phật, thâu được
chín khí vô lậu thượng Thiên để ta vào chín cõi huyền
cơ cùng Trời cùng Phật.
Từ đó, đại chí nguyện của nhà Phật mở ra. Nhân
phát Đức, Đức phát Địa, Địa phát Thiên, Thiên phát
Đạo, Đạo phát Huệ, chơn linh trí huệ mới phát vào đại
học chi Đạo thiền cơ.
Tâm thiền định đi vào đại học chi Đạo, nên mỗi
thời nhập định là mỗi thời học Đạo, dùng trí tuệ để trí
tri con đường lớn của Đạo Trời, nhà trường lớn của
Phật Pháp, Tâm Kinh lớn của Vạn pháp Triều tông,
cùng Phật cùng Đạo do sự sanh huệ mà thành tựu.
Được Thần Phật là học thần thông, làm cho sức
mạnh vạn năng của vũ trụ hợp tác với ta thành pháp
lực mạnh như Thần, để có đủ quyền năng đi vào học
Phật.
Pháp Vương Như Ý
73
Đạt tới Thánh Phật là phát trí tuệ nhãn tạng Tâm
kinh, làm cho điển hóa văn chương kinh pháp để trí
tuệ quang sáng như Thánh.
Đạt tới Tiên Phật là vào được thế giới Bạch Ngọc
Kinh cõi Đại La thanh tịnh của ba ngàn Thiên Tôn
nửa Phật nửa Đại La Thiên Tiên, là cõi Niết Bàn của
Bạch Ngọc Kinh Vương Đạo. Đó là cõi sướng như
Tiên.
Đi tới cõi La Hán Phật, Bồ Tát Phật, Di Đà và Di
Lạc Nhứt Công Đức Phật là cảnh giới ngoài Tam
Thiên Thế giới gọi là Lôi Âm Tự. Niết Bàn của cảnh
giới Như Lai do Đức Phật Tổ Như Lai an ngự. Đó là
cõi hiền như Phật.
Bậc đắc Đạo rồi mới vào bốn cảnh giới mạnh
như Thần, sáng như Thánh, sướng như Tiên, hiền như
Phật, để mình thành chánh quả vào trong đại Đạo
miễn bàn của Hư Vô chi Đạo.
Phật Pháp dạy cho nhà Phật Đạo thường tại để đi
vào giáo pháp vô thường tại, có đi vào những cõi vô
thường mới làm Thầy trong cõi hữu thường linh
quang tương chiếu.
Khi tâm đi vào chánh thanh tịnh thì trí tuệ theo
khí Hạo Nhiên sắp cho ta chánh tư duy. Sự chánh tư
duy là thiền cơ chi Đạo ta phải đi vào sự động của trí
tuệ để ta thành Đạo.
Pháp Vương Như Ý
74
Làm cho ngũ giác: thấy để nhơn chánh, nghe để
truy minh, hiểu để chánh kiến, biết để đo lường, trung
để hiếu cảm.
Năm đức đó hóa thành ngũ sắc: Đỏ để thần minh,
xanh để minh triết, vàng để lòng nhơn, trắng để bộc
bạch, đen để huyền hóa.
Năm đức đó hóa thành ngũ quang:
* Tim sanh Xích Đế màu đỏ hóa hồng quang:
hồng quang hườn nguyên Xích Đế triều nguyên.
Trong Vương Đạo Xích Đế là lòng trung trinh
Hoàn Đạo, bậc học Phật phải có đủ lòng trung trinh
mới thành Đạo vào cảnh giới Niết Bàn.
* Can sanh Thanh Đế màu xanh lá cây: khi đổi
sắc quang thành màu xanh da Trời thì Thanh Đế hườn
nguyên. Thanh Đế trong Vương Đạo là Đạo chi dân,
người đắc Đạo phải làm ra sách lược kinh bang tế thế,
lòng nhơn cho dân giàu quốc mạnh mới thành chánh
quả.
* Phế sanh Bạch Đế màu trắng của kim
quang: tới khi phát quang tụ hội được tất cả tinh hoa
trong Trời đất vào trong người thành kim quang Bạch
Đế hườn nguyên.
Trong Vương Đạo Bạch Đế là Phật Mẫu sanh
tánh vía Phật Tiên, Thần Thánh và Nhân loại (nên gọi
Mẹ Trời). Tất cả phụ nữ và người tu phải đủ tam
Pháp Vương Như Ý
75
công: công phu, công đức và công quả mới có cơ hội
thành Đạo viên mãn.
* Thận sanh Huyền Đế màu đen của pháp
thủy: khi đến phát quang nó trở thành đồng tử trong
nhãn tạng Tâm Kinh để thấy biết việc Trời việc người,
trong bản thân nó có hai thể dục vọng và trí tuệ.
Người tu xa dần dục vọng thì tinh hoa đó dục tiến
Thiên Đàng trở thành tiềm năng và pháp lực, trí tuệ
phát quang thì Huyền Thiên Hắc Đế triều nguyên.
Trong Vương Đạo, là vị Quân sư phù trì Quốc
Vương là người giữ Đạo lý tam cương ngũ giáo, làm
cho quốc gia có Hàn Lâm Viện học, dạy bậc Tiên
nhơn Tiến sĩ, cử vào phụng sự quốc gia làm cho nền
văn minh Phật Pháp thành quốc độ Niết Bàn mới
thành chánh quả.
* Tỳ sanh Huỳnh Đế màu vàng như ngôi
Trung Ương: các vị Tỳ Kheo, La Hán, Bồ Tát đều
phù chánh Vương Đạo làm cho sắc thái và lòng nhơn
thiện giác sanh hòa khí, hòa khí sanh tài nhơn, tài
nhơn sanh thái bình trong thiên hạ.
Nhờ sự phù trợ nên Vương Hanh Lợi Trinh lập
lại quả địa cầu thành nước Trời, đất Phật. Thuận thiên
thời của kỷ nguyên Di Lạc lập thành, đến đó Huỳnh
Đế hườn nguyên, bậc tu Đạo và lập Đạo mới đủ công
đức để thành chánh quả.
Pháp Vương Như Ý
76
Sau khi ngũ khí triều nguyên thì trong tâm của
người tu thiền định sinh ra ngũ vân:
* Tim sinh ra nhãn tạng có Quân chánh thần
minh cầm nắm Vương Đạo đại diện Trời trong chánh
tư duy.
* Can sanh ra thiền cơ có phụ từ tử hiếu, làm cho
sự tiết độ sứ bảo an phù trợ Vương Đạo đại diện Trời,
là vị nguyên nhung có trí độ bảo vệ thái bình.
* Thận sanh ra trí tuệ sách lược chi dân làm cho
dân giàu quốc mạnh, trong Vương Đạo là Thủ Tướng
cố vấn cho Quốc gia hoàn thành chí nguyện.
* Phế sinh ra bộ kinh tế và sách lược an bang tế
thế lâu dài, lập ra sự bình chuẩn lớn chi dân để quốc
gia tu bổ sửa sai cho phù hợp Vương Đạo, đem chánh
văn minh vào trong đời sống thật cho thiên hạ hành
nhơn trung kỳ quý.
* Tỳ sinh ra nhơn quyền là bộ xã hội làm cho văn
minh có tiết độ của nhà Đạo, làm cho an ninh có trật
tự hiệp quần, làm cho đức háo sanh của Thượng Đế
vào trong sở học linh cảm của mọi giới, làm cho
người và mình hiến dâng công đức để tu thành chánh
quả.
Năm đức đó kết hợp được lòng chí nhân thì
người tu thiền định hóa được ngũ vân, phát được ngũ
quang làm tròn công đức trong Tam Kỳ phổ độ.
Pháp Vương Như Ý
77
Quốc gia là nhà lớn cho trăm họ sống chung,
người tu chánh Đạo không phù trị quốc gia không có
đại công đức để thành Phật.
Nhân loại do đức duy chánh của Tam Giáo nhà
Trời cõi Phật cho xuống thế để tu nhân, bậc chân tu
không giúp nhân loại của mình cũng không đủ tam
công để thành Phật.
Phiền não của thế gian là trường đời: để thi bậc
nhân, để thí bậc trí, để đua bậc tài, đển an bậc Đạo.
Nhờ đại phiền não, có biết giai không thì thế gian mới
sanh xuất hàng trí tuệ mà thành công viên quả mãn.
Đi vào thế giới không không gian, người tu thiền
định phải chơn tịnh lại lòng, chơn ái lại lời nói, chơn
giải lại duy nhơn. Được như vậy, mới trống lòng
phàm đi vào thanh tịnh giới của nhà Phật nhà Đạo.
Thanh tâm nhìn bóng Thố
Đạo hiệp kết vầng Ô
Tâm không sanh Thiền giác
Thanh tịnh hiệp Hư Vô.
Đạo chỉ nguyệt như nhìn trăng trong thiền giác.
Huyền Tẫn Môn sanh pháp giới lục thần thông.
Đường Đạo Trời mở Thiên Lý Phật học thiền tông.
Nhơn duy chánh luyện huyền công để ta là Phật.
Việc ta thấy sự chinh nghiêng trên khắp quả đất.
Pháp Vương Như Ý
78
Chỉ một đường đi Phật cứu được lại ta thôi!
Bậc thiền cơ phải nhạt nhạt lại tâm đời.
Người đạt Đạo phải thu hồi Đại Thừa Cửu Chuyển.
Nhờ đắc pháp ta cứu cánh đời trong thiên cơ thị hiện.
Ai con Tiên cháu Phật biết Thiên lý để về.
Sự trầm kha theo thất phản thế gian hề.
Nên đánh thức bờ mê quy về chơn chánh giác.
Phật tổ dạy pháp Ma Ha ta truyền ra Như Ý.
Hàng con Tiên phải chánh ý để phi lai.
Qua bể dâu đừng đi đụng các đầu đài.
Lòng thanh tịnh Như Lai cầu chơn pháp.
Tu Đạo Trời không đòi đắp y nhơn và y bát.
Bình đẳng theo đời Đạo được song tu.
Bậc thiền sư ra sức lớn để công phu.
Hàng chí nguyện dưỡng sinh làm bờ giác.
Pháp Vương Như Ý
79
LỤC TÂM THÔNG
Tàng ẩn trong sáu cánh cửa của hậu Thiên, trong
bản thể của người tu thiền cơ chi Đạo:
1. Tâm tàng thần có chứa linh cảm Thần quang
chi Đạo.
2. Phế tàng phách có chứa khí Hạo Nhiên tiên
Thiên phục mệnh Huyền Võ chi cơ Tiên Thiên - Tiên
Địa Hội.
3. Can tàng hồn có chứa Anh Hồn như tánh Anh
Nhi.
4. Thận tàng ý chí có chứa tinh thần trí tuệ diệu
tính thiền cơ học của Trời của người.
5. Tỳ tàng ý thức có chứa lòng chí nhơn cho bậc
hành Đạo chi dân làm giàu mạnh văn minh.
6. Đởm tàng thức ngộ có chứa chánh khí trung
nghĩa của bậc Đại Tướng cầm quân cơ an dân duy
Đạo.
Giải nghĩa Tiên nhơn lục tâm thông
1. Tâm tàng thần
Có chứa linh cảm thần quang chi Đạo, trái tim vô
hình của nhà Đạo là minh cảnh đài, là tâm quang.
Người ngồi thiền định an thần tịnh ý đi vào trong tâm
Pháp Vương Như Ý
80
quang, ta được hiển thần, thần đó là thân ngoại chi
tiên, thần đó là Phật lớn vô tướng, là Vương Đạo ở
trong bản thể vô hình, là chủ nhơn ông hườn kinh di
pháp, là Thầy chính ta.
Tìm được tâm tàng thần là tầm được ta là ai
trong Tiên Nhơn Phật Thánh và tìm được diện mục
bổn lai, nó được đắc Đạo, ta đây được đắc Đạo.
Đạo lớn vô hình, Phật tâm ta vô tướng, tâm
truyền thần không bị vướng sanh cơ.
Từ đó, người tu Đạo đạt sự tham ngộ, đắc trong
sự thiền cơ, học trong luật trí tuệ, hiểu trong tiềm năng
sanh xuất Như Lai.
Tâm tàng thần, sanh hoa tâm đăng đưa ta vào
chánh tín, dạy lại ta chánh thanh tịnh, cho ta mở
chánh tư duy, đưa ta vào những cõi hàm học chánh tư
nghì. Đó là tâm hoa cúng dường Trời Phật trong pháp
giới Thiên không.
Tâm tàng thần khi thần ta tương sanh lập cái có
làm nền tảng của Chơn Như, an cái không để điêu
luyện trí tuệ, hiểu tính Trời để xiển giáo hườn Thiên,
yên thiền cơ để diệu quang sanh xuất, thấu Tam Thiên
để truyền bổn nguyên thần, học thân ngoại thân để đi
về Thiên ngoại thị thiên, thiền giác thị thức, nhân thân
giác ngộ, thị giải thiền cơ mà am tường thần minh
sanh xuất trí tuệ.
Pháp Vương Như Ý
81
2. Phế tàng phách
Có chứa khí Hạo Nhiên Tiên Thiên phục mệnh
Huyền Võ chi cơ, Tiên Thiên khí linh Tiên Địa Hội
trong phế quản, mọi sự tinh hoa sáng suốt trong Trời
và vũ trụ quan khi ta thiền định những luồng điển khí
Tiên Thiên được thu vào trong phế để nhân hoa trở
thành Thiên thể.
Trong phế lại chứa phách của hậu Thiên, từ đó
vía của bản thể Thần Tiên lại hiển ra Âm sinh hóa
huyền cơ, Dương sinh hóa trí tuệ, nên nguyên thần
học của trí tuệ thì phế tàng phách là kho tàng dự trữ
tiềm năng.
Trăng thượng huyền tròn đầy sáng đủ là Dương
cơ, trăng hạ huyền thì tinh hoa trong người phát Âm
cơ huyền giải.
Khi huệ sanh kim quang thì phế tàng phách hiển
ra cây đèn vàng Bạch Lạp Kim Quang, soi tới đâu thì
thiên cơ trong người ta thông hiểu tới đó, Thiên Thơ
từ trong đó phát sanh, Thần Thơ từ trong đó dâng
chánh, binh thơ đồ trận sách lược an bang đều từ
Dương kim sanh xuất thiền cơ chi Đạo.
Tinh hoa trong người được hiệp hóa tinh hoa của
Trời là nhờ Dương kim trong phế, mà sanh hóa kim
quang để cho ta mở đại giác ngộ cao minh cùng Phật.
Pháp Vương Như Ý
82
Đến đây, nhân phát thức giai ngộ huyền thiên,
tinh hoa sanh xuất kỳ hình, Thiên nội Thiên ngoại
Thiên diệt độ.
Kim là Mẫu đức sanh xuất kỳ nhân. Kim là Mẫu
ái sanh xuất trí độ. Kim là pháp thân sanh xuất kỳ
quan. Kim là kinh tế sanh xuất Hoàng Kim chi Đạo.
Nên của quý không để ngoài sân, được kim sanh trí
tuệ rồi phải tu theo thiền cơ chi Đạo.
Ẩn giáo chi ngôn. Khiêm để đức kim tròn sáng,
nghiêm để ý kim thành đại nguyện, tịnh để trí tuệ
được pháp giai sanh, an để vô tranh cho khí kiếm
thanh xuất Huyền Võ.
Từ đó, trí kiếm sanh xuất văn kim. Bồ tát dùng
trí kiếm để hàng ma đi vào chánh Đạo, hàng phục tâm
quang đi vào chánh kiến, hàng phục phiền não đi vào
chánh tư duy. Cho tâm đạt bình sanh đường Hoàng
Đạo, trí được bình hàm học Hoàng Kim, cho lục căn
đạt bình để phù trợ Vương Đạo, tâm thể bình đạo
trong mình mới sanh xuất thiền cơ.
Hàm thụ cái biết của trí kiếm là làm cho khí đắc
sự trung hòa, cho trí đắc sự trung dung, cho tâm đắc
sự trung đạo.
Từ đó, kim hoa phát theo trí tuệ nở thành Văn,
tâm hoa phát theo Tâm Kinh thụ hóa, tánh kim hoa
phát ra sự nhún nhường. Đó là hái hoa dâng Trời cúng
dường Đức Phật trên cõi thượng Thiên.
Pháp Vương Như Ý
83
3. Can tàng hồn
Có chứa Anh hồn tức là Anh Nhi chi khí, trí độ
của Đông Phương Huyền học trí độ của bậc Đại
Tướng cầm binh. Trung cang để sanh tiết độ lượng,
trung nghĩa để sanh xuất của tiết độ sứ, trung thần để
sanh trung dũng bảo vệ sự sáng lập của quốc gia.
Tiết độ của bật trung thần là thành đồng Tổ
Quốc, tiết độ của hàng trung nghĩa làm trọng phụ triều
cương.
Đạo tam cương, trung với Vua để tiết độ trong
đạo Quân thần, hiếu với nước tiết độ trong sự bảo an
cho minh chánh, ái với dân tiết độ trong việc xử thế và
tế thế có Đạo lớn chi dân.
Can tàng hồn là đạo của đại trượng phu, đạo phù
trợ bậc an bang, đức phù trợ hàng tế thế, từ đó sanh ra
tiết độ sứ.
Xa trong muôn dặm lòng vẹn chi tình. Đi trong
muôn ngàn cảnh nội kinh chỉ một đường Hoàng Đạo.
Ái trong vạn dân lòng trung trinh thờ chỉ một Trời.
Làm trong mọi sự hàm tính thay Vua an chánh. Học
trong mọi sách lược trí trung dung không thờ hai Vua.
Làm thần dân trong Vương Đạo muôn đời không sai
lệch tiết độ. Yêu trong vạn hải để chánh lòng phù trợ
hiến ái duy nhơn.
Hiểu trong thiên sơn không thờ hai Chúa. Biết
trong các ngã tướng tài phú phi nghĩa không nhìn. Sắc
Pháp Vương Như Ý
84
pháp trong muôn hình phi lễ bậc tiết độ không giao
kết. Đi độ trong vạn nhà tâm là Quân thần thờ một
chủ không hai. Ấy mới gọi là đạo của tam cang.
Bậc trung thần thờ Vua thờ Trời không làm sai
tiết độ thì mới thành chánh quả, mới liệt vào Phật
Thánh Tiên, phục vị lại tánh linh quang trong Trời
đất.
Đạo tam cương là phục vị tại tam càn trong bản
thể Vô Vi chi Đạo. Trung để chánh hành nhân, nghĩa
để chánh thanh tịnh, hiếu để chánh văn chương.
Người tu phải trung với Trời để chánh linh
quang. Hiếu với Phật với Vua để làm công đạo. Nghĩa
với quốc dân để làm tròn sứ mạng của bậc công thần.
Bậc tu Đạo càng về với Đạo để hiệp thanh khí
của can tàng hồn, thì tam cang hiển chánh. Thanh Đế
hoàn nguyên Phật tâm hiến ái.
Nhu đạo trong văn chương để tiết độ kỉnh
nhường, nhu ái trong xử thế để Thiên thể hòa nhơn,
nhu trí trong sông, ngoài hồ đem đại trí vào biển lớn.
Làm cho lòng dân tu Đạo có đủ tiết độ, làm cho chí
nhân có đủ mực thước tiết độ, làm cho học sĩ và chí sĩ
có đủ độ lượng để hòa nhơn thì sự nhơn chánh.
Người tiết độ biết dâng tình vào công chánh,
người trí tri biết dâng ái làm cho quốc thái dân an, phụ
từ tử hiếu. Đó là cái đạo của Đại tướng cầm binh phù
trợ thái bình trong thiên hạ.
Pháp Vương Như Ý
85
4.Thận tàng chí
Là Đại Khối Tinh Thần hiệp nhất sanh ra sách
lược chi dân, phù trợ Vương Hanh Lợi Trinh là bậc
Thủ Tướng hay cố vấn Quốc gia, phải có đủ 5 bộ sách
lược chi dân:
Thiên thơ để hiểu Thiên thời trong đó có
Thiên cơ Trời dạy bậc duy Đạo để không sai lệch
đường chính Đạo.
Thần thơ để hiểu sự sắp số thiền cơ trong tinh
hoa của Thiên Địa Nhân, nên bậc hành Đạo chi dân
biết sắp vận Trời, phong Thần, phong Thánh, phong
Tiên và phong Phật.
Sách lược binh thơ hình đồ trận pháp để thấu
hiểu Thiên văn địa lý và trận đồ trong sức Vạn Pháp
Triều Tông, để điều hành Phật Thánh Thần Tiên khứ
lai, khứ vãng vào thế giới con người và Tam Giáo.
Sách lược an bang tế thế ngàn năm làm cho
thái bình thiên hạ.
Sách lược kinh thương tế thế làm cho dân
giàu, đạo đức chí dân làm cho quốc mạnh văn minh
đạo đức cường thạnh, lòng người trí độ được mở
mang, tình Trời được hàng thượng nhơn đắc Đạo nên
thanh tịnh.
Trăm lòng dâng ái vào Đại Hoàng Kim, ngàn
Phật tâm hoa cúng dường đại thế, vạn Tiên xướng
Pháp Vương Như Ý
86
nghĩa để dâng tình, triệu Thánh hiến văn chương để
đắc Đạo, triệu triệu Thần nhân cúng dường thiền định
và trí tuệ để hoàn nguyên.
Thế mới gọi là Thiên đàng tại thế, ấy mới gọi
Niết Bàn tâm sanh hóa kỳ quan Phật quốc.
Đến đó, Trời thương con hiếu hạnh ban tặng kỳ
quan, Phật quý con nghĩa cử nên ban lục châu cho
Hoàng Kim giàu mạnh. Tam Tông quý đồ sư quy y
đầu Phật nên ban pháp lực để ứng dụng Thiên thời.
Ngũ Đế thấy lòng người quy y tu Đạo nên mở
cửa Thiên thời.
Bạch Đế ban ngũ kim thuần phúc phù trợ Hoàng
Kim, làm cho người tu đắc Kim Thân thành Đạo,
thành Phật.
Xích Đế ban tam vị chơn quả vào địa cầu làm
cho tim người phát thuần quang, làm cho các viên
ngọc trong Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ được phát quang
và ban khí thuần dương cho quả linh cầu, làm cho ánh
sáng Trời trăng và tinh tú thuần nhất, sanh ra hai mùa
xuân thu ôn hòa mát mẻ.
Người tu Đạo nhờ vậy dễ thành Đạo và học pháp
trường sanh của Phật Di Lạc để sống ngàn năm,
không già nua nữa.
Thanh Đế ban ngũ khí thuần phong vào địa cầu,
làm cho người tu linh đơn dễ đắc Đạo, làm cho các
Pháp Vương Như Ý
87
giống thảo mộc dược linh từ thiên nhiên theo ngũ khí
của Thanh Đế vào lục châu sanh ra kỳ hoa dị thảo.
Thần dược, Thánh dược và Tiên dược được khai
Tam Thanh trên đất lục châu. Từ đó, ngũ cốc thơm
như trái Tiên, hoa thơm kỳ thảo làm cho ố khí toàn
cầu ly khai quả đất, con người tu theo Tâm pháp Tâm
kinh phát quang mỗi ngày lan rộng ra vũ trụ tiếp được
dương quang, nối được 6 đường Hoàng Đạo.
Trời mở ra 24 cửa để đưa rước người tu tâm
pháp vào 24 trường hàm thụ Đạo pháp mới thành
chánh quả.
5. Tỳ tàng ý
Sanh ra những hàng chí nhơn có chí nguyện
hưng chánh Vương Đạo, có ý chí bảo vệ triều cương
làm cho nền văn minh được Kim Cổ Kỳ Quan, bảo vệ
sự lập pháp hiến pháp và hành pháp trong một triều
đại Hoàng Kim.
Như Thượng nghị sĩ và Hạ viện nghị sĩ sẽ bảo vệ
sách lược chi dân, dâng hiến triều trung làm cho nhơn
tâm chánh thuận vào Vương Đạo.
Như một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ Kheo
Phật phù trợ Vương pháp của Phật Tổ Như Lai. Như
ba ngàn vị Thiên Tôn trong Quần Tiên Hội phò trợ
Vương Hanh Lợi Trinh trên Bạch Ngọc Kinh của Đại
Tam Thiên Thượng Đế.
Pháp Vương Như Ý
88
Lòng chí nhân của Trời Phật ở trong tạng tỳ có
tàng ẩn sự duy nhơn cao thượng làm cho hàng đắc
Đạo minh di thiện, hàng đắc pháp minh ái dâng tinh
hoa vào sở năng thượng học.
Người đắc Đạo được phục vị lại tánh Trời, người
đắc Phật phục vị lại tánh Phật, còn bậc thiền tông
phục vị lại bản tánh chí nhân. Cả 3 giới phục vị lại
nhơn chi sơ tánh bản thiện.
Từ đó, các mỹ cảm hiến ái chi dân, đắc linh cảm
dâng tình vào công chánh để thành Phật, nhơn chi quý
mở linh giác tầm căn, Đạo chi linh mở linh khiếu thần
giác, trăm hoa dâng ái để đồng thanh, đại giác hiến
tình để an chánh kiến.
Các bậc Tỳ Kheo Phật, việc làm của họ không
tính công nên công kia hóa thành công đức, họ phù trì
không bàn vào thời gian nên đạt được cảnh giới không
lòng mà thành Phật.
Họ quên mình trong cảnh nguy nan, họ không
tình trong Tiên và tục, họ không tính toán trong công
pháp hoằng dương, gia công không đòi lợi nhuận,
hành thiện không tư kỷ ở lòng, làm cho sự trống
không như thuyền bát nhã không đáy chở khách hoàn
nguyên, không bàn nhơn duyên thiện ác chính tà. Nhờ
chữ không đó mà đạt đại trí tuệ.
Pháp Vương Như Ý
89
Trước khi đắc Phật, hàng Bồ Tát phải tu Đạo lớn
vô tranh tức là không thiện giả ngã tưởng mà đạt sự
chân thiện.
Chơn thiện là thấy ác không ghét, gặp hung
không sợ, gặp khó khăn không từ nan, gặp thiện
không lưu giữ, làm cho trí ta thành biển có thể chứa
vạn nguồn, làm cho tánh pháp ta là vô lượng quang
không quái ngại nhân quả.
Ở trong muôn hình pháp biết tùy duyên, ở trong
vạn tượng biết sanh xuất, trí tuệ ấy mới gọi là chơn
thiện.
“Thấy việc ác nhỏ nhất đều không làm, gặp thiện
giác nhỏ nhất không bỏ qua, được như vậy mới là
chơn thiện”.
6. Đởm tàng thức
Bậc tu Đạo, hàng đạt Đạo và bậc Đại Tướng đại
giác cầm binh quyền phù trợ Vương Đạo là bậc Quân
thần tá sứ.
Quân minh Đạo thì yêu ái hiền thần, thần minh
Đạo thì ái quốc chi dân. Đạo của tiết độ sứ là trung để
chánh an Quân, hiếu để chánh xử thế, nghĩa để chánh
tinh thần. Nhờ đức lớn mà Quân chánh tư duy, thần
thánh trung nghĩa.
Nghĩa cử trung dung là mực thước tiết độ cho
Quốc gia, hiếu cảm được lòng nhơn chánh trong thiên
Pháp Vương Như Ý
90
hạ, thiên hạ nhìn được sự duy nhơn thì dâng ái hòa
minh.
Trời thấy bậc hành nhơn thì ban Linh Thần Linh
Tiên vào khai mở trí tuệ. Đến đó, không học mà biết
các Thiên lý kỳ hình, Đạo lớn kỳ giác, ngộ nhận ra
Trời Người có sự duy đồng nhất cảm, Phật và Nhơn
đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu.
Thần đến đó phát ra 6 cửa thiền cơ: Thấy để hàm
học sở năng đó miễn bàn. Nghe để diệu âm sự nghe
đó ẩn ý. Hiểu Đạo trong sự tham ngộ thì tỏ sáng Thiên
cơ nên ẩn ngôn. Biết sự huyền cơ được hóa pháp thân
vào Đạo lớn thì biết Huyền Võ. Dự trữ được ý Trời
mở rộng trong thiên ngôn vạn ngữ lại thầm kín thiền
cơ. Phát minh được sự Kim Cổ Kỳ Quan mới đi vào
đại ngộ lại không lời để diệt độ.
Học được Trời phải không lời để tụ ý, học được
Phật phải dứt ý để xuyên tâm, học được Thiên tâm thì
linh quang biết tàng ẩn. Vào cửa Huyền Tẫn không
mình để mở chi môn, vào cửa chi môn phải không
người mới thành Đạo quả.
Chữ thành của Đạo: Học đến tròn đầy lại không
tranh. Thi đến tròn Đạo lại không giành. Yêu đến hiến
ái lại vị tha. Thương đến hiến tình lại vô quái ngại.
Làm tất cả mà lại không tính công. Dạy thiên hạ lại
không đòi bổng lộc.
Pháp Vương Như Ý
91
Có làm phương tiện để mưu sinh. Giàu được
phương tiện lại pháp thí. Vinh làm phương tiện để văn
minh. Danh làm phương tiện để thi nhơn. Nhờ hành
nhơn trong mọi phương tiện mà thành Phật Pháp.
Các bậc Tỳ Kheo thường bố thí pháp giới mà
được thành Phật.
Các vị Thánh Phật bố thí văn kinh mà được quả
vị Bồ Đề.
Các vị Tiên Nhơn bố thí phương tiện mà đắc
chính Đạo.
Hàng thiền định bố thí thanh quang điển lành
làm cho quả địa cầu quân bình khí hóa tiên Thiên tiên
hậu. Bậc nhân sanh hóa lòng chí nhân. Hàng tài hoa
khiêm cung cùng Đạo. Bậc trên biết dâng ái vì dân.
Bậc giác ngộ bỏ đồ đao kiến tánh thành Phật. Cho học
sĩ biết dâng tình lớn vào công nghĩa Quốc gia.
Nước là nhà lớn, bậc ái Quốc biết trải lòng trung
có tiết độ yêu dân, cho lòng dân an chánh thuần Đạo.
Nước được sĩ khí người trọng nghĩa kỉnh tài. Dân
có tiết độ nghiêng mình theo công lý. Nhà có con tu
chánh khí hiển thần minh. Vợ chồng có hiến tình chi
đạo chi dân mới thuần nhất. Lòng người có minh
trung mới bảo vệ quốc hồn. Nước được bậc duy nhơn
sự nhơn trị làm cho văn minh học sĩ.
Pháp Vương Như Ý
92
Thương vì đại ái nên trọng hiền tài. Yêu vì đại
tha hiến tình vào công nghĩa. Tình vì đại hòa nhơn
nên kỉnh lễ nhạc được văn hoa.
Hàng chí nhân tu theo Trời, dâng cái lòng chí
nhân cho mạch nước văn chương, hiến sự hiếu thuận
cho Thánh nhân, hiển tình trong chánh kiến.
Hàng tu Pháp Phật, thiền định hiến sự trí tri
thành sách lược thái bình trong thiên hạ, làm cho ý
nguyện của người tu chính Quốc gia thành tiết độ thái
bình.
Nhờ công tâm nên an Đạo ở Thượng Thiên. Tâm
công đức làm cho chí đồng Đạo hiệp. Người người vì
bổn phận nên tinh tấn với Quốc gia. Quốc gia vì Đạo
chi dân nên nghe tiếng nói của tài nhơn chi giáo.
Gom tinh hoa làm sáng tinh tượng để hiệp Thiên
thời. Được tài hoa sách lược an dân để đạt địa lợi. An
chánh cho Thiên tài hòa nhân vào công chánh an dân.
Làm được vậy là tu hóa cho Quốc gia cường phú.
Nghe bậc nhân trị để truy kiến hiền tài. Ái bậc
đồng thanh để trưng cầu nhân ý. Quý bậc tài hoa để
dạy đạo Thánh hiền. Ưu đãi lòng nhơn cho bậc minh
Đạo đại trị. Dân biết kinh thương làm giàu mạnh phú
cường. Quan biết kinh bang làm thái bình thịnh trị.
Người có tu nhân, dân hiếu thuận triều ca, đó là đạo
chi dân an định.
Pháp Vương Như Ý
93
Thương dân phải chi đạo để dân tu phát Đạo thần
minh. Dân có hàng đắc Đạo thì sự thông tình của
Quốc gia đạt lý. Chơn lý có thông tim Trời người mới
duy chánh cho thiên hạ. Người tu đem ý Trời vào
Quốc gia là thuận Thiên thời.
Người tu thiền định theo Như Ý Pháp Môn là
người phù trợ công đạo cho Quốc gia, là người thuận
Thiên cơ thừa mệnh Trời khai giáo pháp.
Hữu đắc chí, bậc thượng tu cộng chi.
Bậc đắc chí, phù trợ Quốc gia công chính.
Người đắc trí tuệ thượng thông Thiên cơ, hạ đạt
đạo đức. Thường an để thấu hiểu Phật tâm, thường
tĩnh để hàm thụ Thiên lý, hàng duy nhơn thường tĩnh
tâm linh để sinh huệ mạng.
Nhà Đạo thường tĩnh để sanh tâm minh.
Nhà Phật thường thiền cơ để sanh ứng dụng.
Khi trở vào trong tinh hoa của Trời Phật, nhận ra
Phật phải đạt nhất lý thông vạn pháp mới Triều
Nguyên, Đạo đắc Kim Đơn mới đi vào Vương Đạo.
Ứng trong thiền cơ để hàm học vạn biến.
Cái siêu nhân phàm mới mở lậu tận thông.
Pháp Vương Như Ý
94
Học ra ngoài sáu cửa linh tâm.
Tịnh ra ngoài sáu căn đắc trí tuệ.
Pháp Vương Như Ý
95
DUY ĐẠO THẦN MINH
1. Giác ngộ để siêu hóa thần minh:
Xưa nay, bậc giác ngộ thường nhập định để làm
vui tầm chơn lý, để giải thoát nên hiệp quần cùng Phật
Tiên Thần Thánh như người một nhà.
Mỗi sự vui đều tầm ra chơn giải của cảnh giới
thoát trần siêu hóa chơn linh, ưa mùi thanh tịnh để
đốn ngộ tâm mình, trở về lại sự Chơn Đạo vô hình để
tâm linh đi vào sáu cánh cửa Vô Vi chi khí, luyện
mình thành Tiên, luyện mạng thoát tục, vào những
cảnh giới thông thiền làm cho sự giác ngộ hoàn toàn
đắc Đạo.
2. Đốn ngộ để thông Đạo học thiền cơ:
Bậc mới học Đạo chưa ngộ nhờ Thầy điểm hóa
để mở căn cơ, đi vào sự học của Đại Thừa Chơn Giáo,
nhờ Tâm Kinh thanh tịnh giúp mình truy ngộ ra sự
tâm lý để giải thoát vô minh, nhờ nghịch cảnh đốn
ngộ mình từ trong phiền não biết phương sanh trí tuệ,
sự khảo nghiệm của trường đời là một sự tiến hóa tâm
linh.
Biết xa chỗ ồn ào để luyện tánh nhân. Biết huyền
giải sự phiền não để thông kinh phát Đạo. Biết tầm
Chơn Sư có trí huệ để đốn ngộ thiền cơ. Biết mượn
thời gian của Trời cho mình còn lại tu cho đạt đại triệt
Pháp Vương Như Ý
96
đại ngộ, để giải thoát trong một kiếp người mới là
khôn Đạo, là hàng biết đốn ngộ mình tỉnh tu trong
một kiếp.
3. Tu để làm gì?
Tu để thay đổi mới mình, từ phàm ra Thánh, từ
mê tới giác ngộ, từ đần độn quê mùa thành thông
minh trí tuệ, từ dối trá trở lại thanh tịnh thật thà, để
tầm ra bản lai diện mục của mình ở nhà Trời, cõi Phật,
ta là ai trong Chơn Đạo vô hình, tại sao ta lại vào cõi
phiền não trong hữu vi chi giáo?
Tu là giải thoát, ta phải tìm bậc Minh Sư có khả
năng điểm hóa và quy y cho ta, để ta vượt thoát màn
vô minh mới sớm thành tựu trí tuệ.
Trong hành trình tu Đạo lúc chưa ngộ nhờ Thầy
đốn ngộ, bằng ta đã ngộ tự đốn ngộ cho mình mới là
chơn ngộ.
4. Ta tầm ai ?
Tu thiền định là ta đi tầm ta, tầm cái linh hồn của
ta là ai, và tầm cái lý do tại sao ta bị luân hồi vào kiếp
nhơn sinh?
Khi hiểu chiều sâu của thiền cơ mở ra ta phải đi
vào trong để đưa linh hồn ta siêu giác vào cửa Đạo,
nhà Phật hàm thụ chơn linh, nương Tân Kinh Tân
Pháp để hồi quang phản chiếu, giải cái ta bà khổ não
của nội tâm, thoát ly cái ta bà phiền não của thị chúng,
Pháp Vương Như Ý
97
biết lập lại trật tự cho tâm hồn gọi là tu, biết thiền định
gọi là luyện.
Nhờ mực thước của tâm linh mở ra, ta đi vào sự
ta tầm lại ta trong chơn linh chơn thật, ta biết ta có hai
bản thể hữu và vô, ta tu luyện cái hữu vi, tức giải thoát
được bản thể vô vi trở về lại sự thiên nhiên đạt Đạo.
5. Tu đi vào đâu ?
Linh hồn của chúng ta từ cõi Phật, vì sự thiếu
thanh tịnh nên lìa Đại Khối Linh Quang đi vào cõi
Tiên, rồi thiếu thanh tịnh đi vào cõi Thánh, rồi thiếu
thanh tịnh đi vào cõi Thần Tiên của Bồng Lai hậu
giới, rồi lại thiếu thanh tịnh mới đi vào cửa sanh tử
của kiếp làm người. Sau đó, bị phiền não bao vây mới
đi vào sáu cửa nhân nhân quả quả để vay trả theo số
kiếp làm nhân loại trong sanh lão bịnh tử khổ ải của
trần gian.
Người tu thiền định theo Tân pháp, trước là giải
thoát linh hồn cho minh Đạo, sau đưa linh quang của
ta trở về hồi kiếp trong Thần Tiên Thánh Phật, lấy lại
sổ sinh tử của thế nhân để trở thành Kim Thân Tiên
Thần Phật Thánh.
6. Tu sao gọi là giải thoát ?
Linh hồn của kiếp người thiền định được xuất
hồn đi vào cấp Thần, tức linh quang giải được kiếp
người. Linh quang vào cấp Thánh giải thoát được cấp
Pháp Vương Như Ý
98
Thần. Linh quang đi vào cõi Tiên giải thoát được cấp
Thánh. Linh quang đi vào cõi La Hán giải thoát được
cấp Tiên. Linh quang đi vào cấp Bồ Tát giải thoát cấp
A La Hán. Linh quang đi vào cấp đại Bồ Tát giải thoát
cấp Bồ Tát. Linh quang đi vào cấp Á Phật giải thoát
được cấp đại Bồ Tát.
Giải thoát là sự tham thiền nhập định để lên
những tần số thanh nhẹ hơn và pháp lực trí tuệ cao
hơn cho đến cõi công đức tròn đầy, trí huệ viên mãn
của cảnh giới thanh tịnh Niết Bàn mới tròn đầy viên
mãn.
7. Luyện hình hóa khí.
Khi thiền định theo Đại Thừa Cửu Chuyển là
xuất hồn ra tao ngộ với thể vía, hai khí Âm Dương
trong người tiếp được thanh khí Hạo Nhiên mới phát
ra ngũ khí. Từ dó, tam thốn khí ra vào cõi Bồng Lai
mới tiếp được khí Thái Nguyên Hoàng Đạo.
Mỗi kỳ thất thâu chín khí đó vào trong bản thể
vô hình mở ra chín cửa của chín Trời, chín khí đó mở
ra sáu huệ gọi là mở lục căn. Lục căn nhờ chín khí đó
nuôi lớn lên trưởng mạnh gọi là lục Thần, phù trợ cho
hồn vía tương thân tương ái để được Thánh thai Phật
tử. Khi Thánh thai Phật tử hiệp lại thì tam thần của
nội thân cũng hiệp nhất, thành ra vị Kim Tiên Như Lai
đi vào các cảnh giới Bồng Lai hàm học Tâm Kinh, để
chơn giải thần minh chi Đạo.
Pháp Vương Như Ý
99
8. Luyện khí hóa thần.
Đến đây, ngũ khí hóa thành ngũ quang, tam thân
hóa thành tam quang, chánh Thần hóa thành Kim Tiên
Như Lai.
Chu kỳ thứ nhì ngũ khí hóa thành ngũ vân đưa
thần ta đi lại trong cảnh giới Bồng Lai để học Đạo,
tam thốn khí hóa thành tam thanh đưa ta về Nam
Thiên Môn đãnh lễ Ngọc Đế, Phật Mẫu và các vị Tiên
Tổ ở trên Trời phục hồi lại nguyên vị Thần Tiên của
chính mình.
Khí Hoàng Đạo hiệp vào thì mở được tiềm năng
đưa ta vào Tiên Thiên ký ảnh, thấy biết được vị lai
quá khứ của ngàn kiếp Tiên người và thông suốt Thần
Thơ, hiểu được Thiên cơ thời cuộc của quả tinh cầu và
các dãy ngân hà của Đại Thiên vĩ định.
9. Luyện thần hoàn hư.
Khi thần ta và lục căn thanh tịnh ngồi trên chiếc
thuyền không đáy đi từ Bồng Lai qua giáp giới tiên
Thiên trên dãy biển ngân hà ta thấy một hình thể của
ta trôi trên sông ngân hà. Tức là ta đã trả lại chín vía
hậu Thiên trong thất tầng la võng, một thân pháp của
hậu Thiên ta trả lại cho hậu Thiên.
Khi đi vào cảnh giới thanh tịnh của Tiên Thiên ta
thâu lại Kim Tiên chi Đạo. Rồi xuống địa phủ gặp lại
Địa Tạng Vương nhận lại sổ sanh tử của mình, lật sổ
sanh tử ra mới thông hiểu Thiên cơ của mình trong đó
Pháp Vương Như Ý
100
nói lên hết ba ngàn kiếp từ khi lìa khỏi nhất nguyên
đầu thai qua các cảnh giới cao thượng, dần dần đi vào
cửa vô minh và biết được mình còn bao nhiêu công
đức, cần bao nhiêu công đức nữa mới thành tựu viên
mãn.
Tới đó, ta mới thực sự hư vô những cái gì và việc
gì không cần thiết, chỉ đi làm những việc cần thiết để
diệu hữu Thiên Đạo Thần Minh, cho mình có cơ hội
thành chánh quả.
10. Luyện thần hườn nguyên.
Thần của Trời là Đại Khối Linh Quang, tất cả
các Tiểu Linh Quang gọi là Phật tánh đều từ đây sanh
ra giáng trần vào hậu Thiên nên gọi Linh hồn, Linh
hồn có Tam hồn thất phách.
Tam Hồn: là Linh hồn, là Anh Nhi (Anh hồn), là
Tánh hồn (Vía hồn).
Khi người luyện Đạo đắc pháp, thì Tam hồn hiệp
nhất: linh hồn thuộc về ngươn Thần, Anh hồn thuộc
về ngươn Khí, Vía hồn thuộc về ngươn Tinh.
Người luyện Đại Thừa Cửu Chuyển làm cho
Tinh trong sáng hóa Khí, Khí thanh tịnh hóa Thần,
Thần phát huệ mới hoàn nguyên, đi lại chu kỳ của
thuở ban đầu nên gọi nhất bổn tán vạn thù, vạn thù
quy nhất bổn là vậy.
Tinh trong suốt thì phát được sự thông minh.
Pháp Vương Như Ý
101
Khí thông suốt thì phát được pháp lực di Đạo.
Thần thông suốt thì phát được trí tuệ thiền cơ.
Được như vậy mới đi vào sự hàm thụ để đắc
Đạo.
Thất phách: là khi linh hồn đi vào hậu Thiên
phải mượn bảy thể để bảo vệ sự minh sáng của linh
quang.
Pháp Vương Như Ý
102
Bảy cái chơn xuống thế gian vào bản thể con
người thành thất tình lục dục, khi tu Đại Thừa Cửu
Chuyển pháp môn mới gỡ ra thành thất chơn trở về
bản tánh nguyên thủy của thuở ban đầu.
Nhân thăng hoa thành trung dũng. Tình thăng
hoa thành tín nghĩa. Dục thăng hoa thành trí tuệ. Ái
thăng hoa thành tiềm năng. Tài danh thăng hoa thành
tu di sơn. Ái lạc thăng hoa thành minh Đạo thông huệ.
Hỷ lạc thăng hoa thành tánh linh quang chỉ nguyệt,
miễn bàn.
Người tu thiền định theo Đại Thừa Cửu Chuyển
mới là pháp thâu phóng linh quang tiên Thiên, phục
thủy hồi nguyên trở về lại cái thuở ban sơ của tánh
linh quang gọi là thành chánh quả.
11. Bậc đốn ngộ:
Tu đã lâu mà không đắc Đạo, sự thiền định như
bị hôn trầm hoặc dừng lại, tự nhiên nghe một thời Tân
Kinh Tân Pháp biết được sự Thiên thời thay đổi chu
kỳ liền hốt ngộ tầm Phật sống, Thánh sống để khai thị
điểm hóa cho mình khai thông tánh huệ. Đó gọi là đốn
ngộ.
Phật đốn pháp, ta ngộ lại sự không tướng của
chơn linh, từ đó khai thông thiền giác.
Mỗi ba ngàn năm Trời Phật thay đổi một chu kỳ.
Pháp Vương Như Ý
103
Chín ngàn chín trăm chín mươi chín năm Trời
đổi chu kỳ đạo đức đó gọi là Thiên thời.
Chu kỳ này là Trời mở Đạo lập Hội Long Hoa và
lập lại nước Trời, là chu kỳ Thiên Tiên, Địa Tiên và
Quần Tiên trên quả địa cầu phải thi triển một chu kỳ
tận thế, lập lại đời hiền Quân nhơn chánh, đem lại sự
giàu mạnh thái bình lâu dài trên quả đất.
12. Bậc thiền giác:
Người tu thiền tự nhiên được xuất thần đi hàm
học sự văn minh huyền bí Phật Pháp, thấu hiểu sự
mầu nhiệm huyền cơ bên kia thế giới Bồng Lai Tiên
Cảnh trở lên, hiểu được sự cấu tạo của Thiên Địa Vô
Vi chi Đạo và Hữu Vi chi đức, cho trí tuệ mở ra thông
linh vào cửa Đạo, nhà Phật rồi đi tới nhập định đi ra
ngoài Tam giới thông linh.
Hàm học trong siêu nhiên mình càng nhập định
lại được chiều sâu rộng mở của trí tuệ, biết lại cửa
Đạo hoàn nguyên, thấu hiểu cảnh giới Bạch Ngọc
Kinh là cội nguồn của Tiên Thiên chi Đạo, thường
nhập định đi về lại Đại Thiên Thế Giới mới hiểu sự tu
học của khí trường sanh chi Đạo.
Từ đó, luyện cho được Kim Tiên Như Lai để đi
vào Lôi Âm Tự đãnh lễ Tổ Phật Như Lai, nhận lại
Kim Thân Phật Quốc của Phật Tổ cho mình Niết Bàn
viên mãn.
Pháp Vương Như Ý
104
13. Hàng minh tâm thiền thức:
Hàng thiền định ánh sáng phát ra tròn đầy như
mặt trăng, nhìn sâu vào chính giữa mặt trăng mới thấy
trong đó như một cái hang Trời, càng nhìn vào trong
nối vào cõi Thiên Tiên Minh Cảnh Đài thấy biết được
bên kia thế giới vô hình dạy ta trong thiền thức.
Có những việc thấy đó, xả thiền năm phút quên
tức thì không bao giờ nhớ lại được nữa. Có những
việc thấy biết không bao giờ quên, lại có việc nửa nhớ
nửa quên.
Ta phải chia ra làm ba giai đoạn :
Cho ta học mà không cho ta nhớ hoàn toàn, đó là
Thiên cơ vì ta chưa kín miệng nên cho ta quên để giữ
huyền cơ.
Cho ta thấy biết và nhớ kỹ, đó thuộc về Thiên cơ
của riêng ta.
Cho ta nửa nhớ nửa không là có cái cho biết và
có cái không nên biết.
Tất cả đều gọi là thiền thức, tất cả ghi vào ký ức
của ta khi đắc Đạo thì biết tất cả.
14. Khai mở nhãn tạng:
Nhãn tạng khác hơn thông thiên nhãn, thông
thiên nhĩ, người mở nhãn tạng là mở được Vương Đạo
ở trong mình, mở được mặt Nhựt tức Thần Huệ.
Pháp Vương Như Ý
105
Thần Huệ nó là Quân chủ Thần minh là vị Hoàng
Đế ở trong tiểu xá Huệ quốc, cũng gọi là Phật Vương.
Từ đó, mặt trời mọc lên sáng tỏ khắp địa đàng
chỉ đạo cho Quân Thần Tá Sứ làm việc theo Thiên
Đạo, làm cho Quân chánh Thần minh phụ từ tử hiếu,
lập ra hiến pháp, lập pháp và hành pháp, lập ra mười
hai bộ phù trợ cho Quân chủ Thần minh.
Sự hàm thụ của nhãn tạng là sự cố vấn và chỉ đạo
trong Tiểu Thiên Địa. Ngôi Bắc Đẩu mở sự thông
thần dạy Đạo thần truyền thần làm cho nước có đủ
sách lược kinh bang tế thế, giàu mạnh thái bình trong
tiểu Quốc gia.
15. Hàng thiền định mở chơn như:
Thần Huệ và Chơn Như nằm ngoài Lục Huệ.
Lục thông Thần Huệ là Mặt Trời trong tiểu thiên
địa một vị Quân chủ Thần minh.
Chơn Như là Mặt Trăng là ngôi Hoàng Đạo, tức
ngôi Thái Cực trong bản thể. Nó là vị Thủ Tướng cố
vấn cho các bộ đứng đầu Hàn Lâm Học Sĩ, lập ra kế
sách an bang và kinh thương bình chuẩn lớn làm cho
đạo chi dân trong vũ trụ nhơn quyền.
Dân giàu nhờ biết sách lược kinh thương, Quốc
mạnh nhờ sách lược kinh bang tế thế.
Dân đạt bình chuẩn lớn nên làm tròn các yêu
sách chi dân. Quan nhờ có đường lối nhơn trị nên học
Pháp Vương Như Ý
106
sĩ tấn kinh phù trợ Vương Đạo. Cả ba thể đồng chí
nguyện làm cho xã hội văn minh, làm cho quốc gia
giàu mạnh cường thịnh.
Chơn Như là tướng pháp cầm nắm các hệ thần
kinh, làm cho sự huyền cơ trong bản thể vô hình trở
nên thông Đạo để phù trợ bậc Quân chủ Thần minh,
an chánh nhơn trong thiên thời, địa lợi và nhơn hòa.
Hưng chánh xã tắc như Quần Tiên xướng nghĩa cao
minh.
16. Đạo Trời trong vũ trụ vạn năng
Đạo Trời là trung tâm sinh lực làm Chúa Tể
trong Càn Khôn vũ trụ, hàm chứa pháp lực vạn năng.
Cầm quyền Chúa Tể trong chín dãy ngân hà, là vị Vua
trên muôn Vua, Chúa trên muôn Chúa.
Bạch Ngọc Kinh là nơi an ngự của Đấng Chí
Tôn, ba ngàn tinh tú lớn đều quy y triều kiến.
Đấng Tạo Hóa sanh Trời lập đất, sắp lập vũ trụ
vận hành tinh tượng qua lại bốn phương đều đi theo
quy luật của Đạo Trời Cha quy hướng.
Từ Thiên Tiên trở lên đều thờ Đạo Trời, học
Pháp Phật, hàm thụ Thánh Kinh.
Đạo Trời lập ra trước vũ trụ con người, hiện hữu
muôn tỷ năm chưa hề thay đổi. Đời nay Trời sai Phật
Di Lạc lập lại Đạo Trời, cho nhơn loại quy về nguồn
cội là đi đúng theo thiên thời, địa lợi và nhân hòa.
Pháp Vương Như Ý
107
17. Hàng đắc Đạo khai mở Tâm Kinh.
Tâm là lý vô hình khi mở Chơn Tâm Kinh mới
thấy biết trong trái tim vô hình có chứa sẵn Tàng Kinh
Các của nhà Phật, nhà Đạo gọi là Hàn Lâm Viện Đại
Học Thiên Tiên chi Đạo, hàm chứa Niết Bàn Kinh;
Bạch Ngọc Chơn Kinh; Tiên Thiên Tiên Hậu; Tam
Giới Đại Thừa Tâm Kinh và Huyền Cơ Tinh Tượng
Pháp Lực Chơn Kinh, trong đó có Thiên thơ, Thần thơ
sách lược chi dân và binh thơ.
Khi người mở ra Tâm Kinh, mình dùng ngôn
ngữ nào thì Tâm Kinh phiên dịch ra ngôn ngữ đó
trong Thiên lý tầm nguyên. Lúc được hàm thụ Tâm
Kinh lòng ta như thông suốt được mực thước lớn của
Trời cao dạy ta trong Vô Vi chi Đạo. Nhờ sự chơn
giáo đó ta mới truy kinh trong thanh tịnh thầm lặng
đó, thấy biết thiền cơ chưa bao giờ ta thấy biết.
18. Thiền định được Di Đạo
Tới chu kỳ ánh sáng tròn đầy, luồng điển quang
ở trung tâm bộ đầu nối liền với trung tâm dẫn lực của
Càn Khôn vũ trụ, thì sự truyền thần của đại vũ trụ dẫn
thần lực của ta đi vào sáu cửa thanh tịnh của Không
Động Thiên.
Cửa thứ nhất: không thời gian, nơi đó các Lão Sư
dạy ta giải thoát sự phiền não để phương sanh trí tuệ.
Pháp Vương Như Ý
108
Cửa thứ nhì: không thế gian tâm, nơi đó các Lão
Sư dạy ta giải thoát thất chơn nhơn quả để phát sinh
tiềm năng.
Cửa thứ ba: các Lão Sư dạy ta giải thoát âm
thinh sắc tướng của các tư tưởng giới để ta phát sinh
Trí Định Huệ thông suốt huyền cơ.
Cửa thứ tư: các Lão Sư dạy ta giải thoát thiện ác
chánh tà để khai mở chơn tâm di thiện (biết điều ác
không làm, thấy việc thiện nhỏ không bỏ qua), đưa ta
vào thế giới bất sát và bất chiến để toàn giác.
Cửa thứ năm: các Lão Sư dạy ta giải thoát Phật
và ma tâm để đi vào thế giới không người và không
mình, vào cảnh giới vô tướng pháp, vô khứu pháp, vô
thanh sắc pháp để chứng Đạo Bồ Đề Vô Vi tột cảnh.
Cửa thứ sáu: cửa không không gian ra ngoài Tam
Giới, các Lão Sư dạy ta giải thoát phàm Thánh tâm để
tìm được chơn tâm của nhà Đạo nhà Phật, đạt được sự
sung mãn Thiên lý triều nguyên.
Sáu cửa đó mở ra, ta tiếp được sáu luồng chơn
khí của Tiên Thiên chiếu xuống nuôi dưỡng lục thần
thông, một ngàn ngày mới thật sự đắc vào chơn Đạo.
19. Mở cửa thiều quang
Khi minh cảnh đài của tánh linh trong ta mở ra
thì sáu cửa thần thông phát ra sáu luồng hào quang,
Pháp Vương Như Ý
109
xuyên mây đi vào tiên Thiên tiếp khí linh thiêng của
Trời nối với Tiên Thiên ký Ảnh.
Ta tịnh tâm thấy biết được vị lai quá khứ của
người và của Thiên lý tầm chơn. Mỗi mỗi hiển tướng
hư linh cho ta biết rõ sự kỳ diệu, làm cho ta sung mãn
về đạo đức mở hết các giác quan để đón nhận sự chỉ
giáo trong hiển cảnh huyền vi.
Từ đó, Trời dạy ta học, mỗi cảnh đều có một sự
thi Đạo trong tự nhiên và lên lớp trong tự nhiên.
Sự thấy biết ngoài sức thông thái của loài người
làm cho ta am tường chơn lý một cách có nguyên căn
nguồn gốc của chơn giải tự nhiên, dẫn chơn thần của
ta vào các cảnh Bồng Lai Tiên giới, ta được đắp y
Tiên, được thay đổi hài Tiên, đằng vân qua lại các
cảnh giới thanh tịnh để học Đạo Vô Thường, từ từ đi
vào thế giới Bạch Ngọc Kinh, Đại La Thiên Giới và
về lại Lôi Âm Tự của thế giới Đại Niết Bàn Tâm Học
Vô Vi chi Đạo.
20. Viễn cảnh và chơn cảnh:
Người tu thiền định theo pháp Đại Thừa Cửu
Chuyển Như Ý Pháp Môn, khi mở huệ ta thấy nhiều
cảnh trong vô hình hiển ra vài lần rồi mất luôn, đó là
minh cảnh đài trong ta quay lại sự việc của quá khứ,
vị lai để cho ta thấy biết và suy nghiệm. Có khi nó
quay đi quay lại như bộ phim cũ, đó gọi là viễn cảnh.
Pháp Vương Như Ý
110
Những cảnh giới ta đi lại hàng tuần hàm học rõ ràng
đó là chơn cảnh.
Khi các Lão Sư trong các cõi Bồ đề dạy ta, ta nên
nghiền ngẫm cho thông huệ cho am tường, ta phải có
sự giải đáp cho đúng sự chỉ đạo thiền cơ. Khi phát huệ
tới những cảnh giới đó nên lập chí nhập thất để có
nhiều thời gian luyện thần đạt Đạo, để thành Phật
Thánh Tiên.
21. Trạng thái của nhập định:
Người muốn phát tính linh quang đi vào nhập
định.
Vào đời phải luyện cái tâm không ác, hành Đạo
phải luyện cái tâm không thiện, tu luyện phải luyện
cái tâm không tà, luyện Đạo phải luyện cái tâm không
chánh. Được vậy, mới đi vào chu kỳ đại định, tức
nguyên thần đi vào thế giới kỳ quan, thế giới đó quên
lời dùng ý đến quên ý mới hoàn toàn xuất nhập tự
nhiên.
Thế giới này thanh sáng và trong sạch cách thế
gian 24 tới 36 tỷ cây số, vì sự trong sáng và thanh tịnh
tuyệt đối nên mỗi lần đi về phải thiếp đi từ 7 ngày tới
49 ngày mới hàm thụ được sự đại giác của chơn lý
thường tại. Nơi đó gọi là không động thiên, các Kim
Thân Kim Phật đều sống trường sanh chi khí, hợp
được chơn lý nhất nguyên trường tồn trong Đại Khối
Pháp Vương Như Ý
111
Linh Quang, nên phát sinh trạng thái của nhập định để
hàm học linh quang của đại trí tuệ.
22. Thiên lý tầm nguyên
Hàng thiền định xuất hồn ra vào Bồng Lai Tiên
Giới, ba năm sau đó đắp y Kim Tiên Như Lai, rồi vào
Nam Thiên Môn đãnh lễ Đức Ngọc Hoàng Đại Đế và
các Lão Sư.
Nữ thì vào đãnh lễ Quán Âm Như Lai và Cửu
Thiên Huyền Nữ, sau đó qua Tây Thiên đãnh lễ Phật
Mẫu và các vị Lão Sư trong các cõi Bồ Đề để hàm thụ
Tiên Chơn Như Lai.
Nam thì đãnh lễ Tam Vị Đạo Sư: vào cõi Thái
Thanh Cung đãnh lễ Đức Thái Thượng Lão Quân, vào
cõi Ngọc Thanh Cung đãnh lễ Đức Linh Bảo Thiên
Tôn, vào cõi Nguyên Thủy Thanh Thiên Cung đãnh lễ
Đức Nguyên Thủy Thiên Tôn.
Ba cửa Đạo này tất cả các chơn linh từ thế gian
cho đến Thiên Đình, đều phải qua sự giám sát của
Tam Giáo Tòa để thăng Thiên đắc Đạo. Ai chưa qua
tức là chưa sắp vào trường lớp của chánh Đạo Phật
Tiên.
23. Quy lệ tam giới
Người xuất hồn linh vào học Đạo ở cửa Thái
Nguyên tức vào cõi không ác khi về Tiên cảnh, hãy
Pháp Vương Như Ý
112
nhìn vào bộ đồ Tiên ta đang mặc, tức là lương tâm của
chánh thần minh. Hễ bộ đồ đó không rách lành lặn thì
được rước vào cõi Thái Nguyên, vào ao Thanh Tâm
tắm gội hồn linh và được đắp y Tiên, phục vị lại Thần
Tiên trong Trời đất.
Các Lão Sư sẽ giao sổ sanh tử cho ta và chỉ rõ số
mệnh họa phước trong ngàn kiếp lìa cõi Tiên nhà Phật
giáng trần, quyển sổ đó là Thiên cơ của đời người.
Sau đó, mình và các vị Lão Sư hướng Đạo cách nào
để rửa tam tâm cho trong sáng và được vào cõi Tiên
Thiên hàm thụ linh quang.
Qua một thời gian sáu tháng đến một năm ta thi
đậu các giáo khoa của trường lớp thì được dự tiệc
Thần Tiên. Vào Nam Thiên Môn đãnh lễ Ngọc Đế và
các vị Lão Sư, nhận chỉ ý của Ngọc Đế và Đức Thái
Thượng Đạo Tổ lên lớp Thần Minh (Hàm thụ xong
khóa Tiên nhơn, phải luyện lại tâm hồn không chứa ác
mới đạt Đạo Tiên chơn).
Linh hồn ta là Tiên Thần đi vào cõi Ngọc
Thanh Cung. Nơi đây các vị Tiên Thiên chi Giáo đi
vào đây học phải mang một tâm hồn không thiện.
Từ ngày ta tu những công quả của thế gian đều
hoàn trả cho trung giới Thần Tiên, tức những âm thinh
sắc tướng và sự phong phú trừu tượng của thế gian để
lại cho thế gian. Vì cõi này là đi vào Đại Học chi Đạo,
người vào được đây học xong sẽ đắc Đạo của Kim
Pháp Vương Như Ý
113
Tiên, tức một nửa là Thần Tiên, một nửa là Phật nên
gọi tắt là Kim Tiên.
Phải giải thoát sạch thiện lẫn ác trong nội tâm
mới nhập vào cõi Ngọc Thanh để hàm thụ Chơn Tiên
và Chơn Phật.
Chưa sạch thiện ác niệm các vị Lão Sư sẽ lên lớp
đốn ngộ, mình tự hóa giải cho đến trong sạch minh
sáng mới vào trong hàm dưỡng Đạo Trời Pháp Phật
Thánh Kinh để được đắc Đạo.
Linh hồn ta được đắp y Kim Tiên thì đi vào
cõi Nguyên Thủy (Ngọc Hư Cung) phải mang theo
một khối trí tuệ đầy trong sáng, dứt sạch các ý tưởng
đến, bất sát ở tánh trí linh, bất chiến ở tánh Đạo. Nhận
lại Tổ Khí của thuở ban đầu sơ nhi phục thủy, nhận lại
trí tuệ thuở sơ khai, hoàn niên phục mệnh, được lại
viên ngọc Minh Châu của thời kỳ Trời đất mới mở
mang, tiếp được tâm linh đi vào trong đường Hoàng
Đạo để ứng Thiên thời hàm thụ cái thiên tài.
Tài lớn không ác thì lòng chí nhân chánh thanh
tịnh mới mở ra trí tuệ lớn để đại tu di.
Thanh tịnh sâu rộng không thiện để chơn huệ
tầm về hàm học siêu Tam giới, thần minh giải thoát
cho mình cho người quy về một Đạo Trời hoàn dương
chung một đại mệnh, trí tuệ lớn không thiện mới đắc
Đạo.
Pháp Vương Như Ý
114
Đạo tâm lớn bất sát là hàm thụ sự hiến ái để từ bi
thì bất sát, phục vị lại tánh Trời có đức háo sanh, có
lòng trắc ẩn để Thiên lý thái bình.
Bậc đại giác lớn thì hàm thụ bất chiến, có bất
chiến mới hoàn toàn giải thoát được ma tâm, quỷ tánh
phục vị lại tánh Trời ban cho bình đẳng thần minh và
bình quyền sự tiến hóa.
Người tu thiền tiến hóa làm Thần Tiên, Thần
Tiên tiến hóa thành Thánh Phật, vạn vật cũng muốn tu
hành tiến hóa vào Địa Tiên, Táng Tiên để phục vị lại
Thiên lý Tầm Chơn ngôi vị của họ.
Cho nên: Bậc Nhơn Thần bất ác. Bậc Nhơn
Thánh không thiện. Bậc Nhơn Tiên bất sát. Bậc Nhơn
Phật bất chiến, đó là Tứ Diệu Đế.
Trên người phải đủ vị tha thì bậc trung nghĩa
theo về, trên Thần phải dứt lòng vị kỷ thì Thiên lý mới
theo về, trên Thánh phải sạch ý niệm thiện ác thần
nhân xứ xứ mới quy y, trên Tiên phải sạch chánh tà
(tâm không còn thiên vị), Thần người bốn phương tám
hướng về phục vị Tiên chơn tu tánh luyện mạng, trên
Phật đi độ Phật hay độ ma?
Tới ba cảnh giới này hàng Kim Tiên phải biết sử
dụng cái trí tuệ của mình.
Trời dạy cho ta trở thành một thiên tài ta phải
đền ơn Trời: Xả lợi kỷ để tầm nguyên, vị tha người có
Pháp Vương Như Ý
115
lỗi để quảng bá, nâng người yếu để hoàn nhơn, dạy
người tài để phục vị, bàn chơn giải để thông kinh, an
lạc tâm để thấy tánh, bình sách lược để Đạo lớn chi
dân, yên vạn thù cho tánh linh quy nhất bổn, học vạn
tượng để toàn chơn, thông vạn lý để hội tụ, bình
chánh nhơn để đoàn thể hợp quần, hiến lòng nhân cho
được các tài nhơn giúp nước, an sĩ khí để học Đạo
Thần Tiên, chiêu hiền nhân để Quần Tiên hành nghĩa,
giáo người mê để thông tỏ thiền cơ, chí bờ giác cho
siêu thăng tam giới, an lòng Quân để chánh định triều
ca, sách lược mới cho nhân gian giàu mạnh. Đó là
Đạo của Thần Thánh Tiên Phật trên quả địa cầu phải
làm tròn chí nguyện.
Đạo được mở mang là nhờ vào hàng lái thuyền
pháp phù trợ Thiên nhân, tu được trí tuệ là nhờ bậc
Thánh Phật đốn ngộ, tâm được thuần lương nhờ vào
sự tu sửa chơn linh, tìm được trung lương là nhờ hàng
đại giác xiển giáo, nước được tài hoa là nhờ hàng
thông huệ am hiểu được Thiên thời, đất hiển kỳ quan
là nhờ nhơn hòa thông cơ đắc Đạo, người làm tròn
nghĩa vụ là nhờ thông hiểu Thiên cơ. Đó có phải tài
hoa thông hiểu được lòng Trời mà quy y đắc Đạo?
Cõi Ngọc Hư luyện cái gì để đắc Đạo.
Luyện cái tánh linh không mình để ta được
pháp thân của Kim Tiên Như Lai đằng vân ra vào
Tam Giới.
Pháp Vương Như Ý
116
Luyện cái không người thần minh của ta được
cái Kim Thân Như Lai đi vào cõi siêu thế gian học
Đạo.
Luyện cái không tên ta được pháp danh của
Trời Cha, ai ai cũng biết ra ta trong Trời Đất.
Luyện cái không danh ta được Đạo lớn, vô
tranh trong Tam Giới.
Luyện cái không tranh để ta được thành Tiên
thành Phật, an tịnh giới Niết Bàn.
Luyện cái không tướng để giải thoát tánh linh,
trong phong phú trừu tượng của ngàn kiếp nhơn Tiên.
Luyện cái không tâm bậc đại giác hành Đạo
theo ý Trời vũ trụ hóa, vạn sự tùy duyên.
Luyện cái không tánh để tánh linh quang tròn
sáng khí linh thiêng, huyền học cùng Đạo cùng Phật.
Luyện trí lớn không trí đời để phát sinh trí tuệ
và đại trí tuệ thông hiểu thiền cơ.
Luyện cái huệ mà như không huệ đạt Đạo lớn
giả ngu, để sự ngu đời bảo vệ cái Đạo (bảo Đạo),
thông thái làm như quê mùa mộc mạc, thiên tài làm
như trẻ thơ sống trong tánh lý đơn sơ. Làm được như
vậy, tức có trí huệ mà làm như chưa có trí huệ, người
biết tôn kính trí huệ là bảo mật được sự hàm học
Thiên Chơn.
Pháp Vương Như Ý
117
24. Giải thích các cảnh giới hư không diệu hữu:
Ở đời ta có xác thân linh hồn ta ngự trong đó, sau
khi tu Đạo xuất hồn vào Bồng Lai, khi qua khỏi Bồng
Lai linh hồn ta phải quy không đời mới được vào tiên
Thiên lại đắc linh quang.
Ta mang theo thất tình lục dục của nhơn Thần,
khi vào Tiên giới phải luyện pháp Thất Phản Cửu
Hườn mới giải bảy thể để được thất chơn.
Ta có mang chín vía, phải luyện Đại Thừa Cửu
Chuyển mới qua chín cửa Trời để lập lại Cửu Thiên
Quang trong tiểu vũ trụ của ta.
Nếu không luyện Thất Phản Cửu Hườn, Đại thừa
Cửu Chuyển không ai được đắc Pháp và đắc Đạo. Đó
là quy luật của Trời đặt ra từ trong tiên Thiên, tiên hậu
và Nhơn loại, là pháp trực chỉ hoàn nguyên tinh thần
siêu giác của tinh thần.
25. Tu luyện tánh mạng:
Tiên Thiên huệ mạng: Tinh là tinh ba sáng suốt
của vũ trụ thần kinh. Khí là sự trường sanh chi bổn
của Trời Đất. Thần là sự trong sáng từ Đại Khối Linh
Quang.
Người ta tu luyện tánh mạng của Tiên Thiên là:
luyện tinh sáng để kết Kim Thân, luyện khí Hạo
Nhiên để đắc Pháp Thân, luyện thần hiệp Đạo để khai
mở bậc chủ nhơn ông.
Pháp Vương Như Ý
118
Quân chánh thần minh, khi ba thể đó đi vào thái
nguyên sẽ đắc Tam Thể Phật.
Tinh tròn đầy sáng suốt khai thông được đại trí.
Khí tròn đầy sáng suốt khai thông được đại giác.
Thần tròn đầy sáng suốt sẽ đắc lục thông thanh
tịnh.
Khi đắc Đạo rồi mới thấy ba mạch lý tự nhiên
biết tu theo Đại Thừa Cửu Chuyển và Chánh Pháp
trong một kiếp cứu mình thật sự.
26. Tánh mạng tầm nguyên:
Khi mở được bảy thể thì tánh quang của người tu
thiền định theo Như Ý Pháp Môn thì thần thông thần,
được xuất nhập vào Bồng Lai Tiên Giới để học Đạo
Thần Tiên.
Sau ba năm phải lên lớp pháp môn để cái tâm đi
vào cảnh giới Tiên Chơn chi Giáo, được chư Phật Sư
đưa vào cảnh giới Kim Tiên Bồ Tát La Hán hàm thụ
siêu văn kinh.
Từ đó, thần truyền thần nội kinh được mở ra;
Tâm truyền tâm sự chơn giác được thông kinh; Tánh
linh quang truyền thần giao cách cảm vạn lý được mở
ra. Đến đó, một sức hàm học siêu chơn giác mới biết
Đạo Tiên Thiên trong ta có cả.
Pháp Vương Như Ý
119
27. Lục thân thanh tịnh:
Cái biết hàm học cho tròn đầy làm cho sự thấy
nghe và thấy biết thông huệ, cái hiểu và sự hiển Đạo
mầu nhiệm làm cho tỏa sáng thông linh thì tự tánh
thần minh am tường gọi là thông nhãn tạng.
Mỗi ngày sự Thiên thể gia tăng, sự trong sáng
của Đạo được nhập thế. Từ đó, cái học của trí tuệ
thông thần kinh, lục căn dạy lục trần hiển chánh nhân,
hành chánh kinh, học chánh giác, an chánh mệnh. Lục
căn theo Đạo Trời học chánh văn, khai chánh tinh
thần để chơn nhơn đắc Đạo.
28. Đắc Đạo rồi luyện huệ:
Huệ là thần minh thâu tinh hoa Trời Phật vào
trong tâm lý vô hình, đem sự thấy của Trời làm sự
thấy của trí tuệ; đem sự nghe của Phật thành sự hiểu
biết của huyền cơ; đem sự học của vô hình làm sự
tiềm năng trong thanh tịnh; đem sự phát minh của cái
Vô Vi thành sách lược chi dân; đem khí Hạo Nhiên
của Trời vào xây dựng Kim Thân Linh Thể; đem mầu
nhiệm của Trời vào sở học thiền cơ. Mỗi chức năng
trong trí tuệ theo đó mở ra gọi là thành Đạo.
29. Đánh thức tiềm năng:
Lấy sự trong sáng của Vô Vi chi Đạo vào đánh
thức phàm trí vô minh, lập văn Phật thanh tịnh đổi
Pháp Vương Như Ý
120
phàm văn tục niệm, lập chánh Tâm Kinh đổi văn tự
ngu phu, làm cho trí tăng trưởng thành trí tuệ, làm cho
lòng nhân trở thành trí nhân, đổi phàm ngã giả danh
thành chơn ngã chơn nhân tức là đánh thức tiềm năng
trong mình đó vậy.
30. Đồng nhất chơn Đạo:
Tiểu Xá Vệ Quốc của mình mở ra thành Tiểu
Niết Bàn.
Phật được Đạo đó mà thành, ta được Đạo đây mà
đủ, cái đủ của vạn năng đồng nhất Đạo là vậy.
Pháp Vương Như Ý
121
Chơn Đạo Vô Hình
Chơn Phật Vô Tướng
Chơn Nhân Vô Danh
Chơn Tu Vô Tranh
Pháp Vương Như Ý
122
PHƯƠNG PHÁP
THANH LỌC CƠ TẠNG
Người tu thiền đã thực hiện Pháp Môn Như Ý để
điều hòa kinh mạch và ngũ tạng mà trong người vẫn
còn thấy mệt nhọc, khó chịu thì cần nên thanh lọc cơ
tạng bằng phương pháp nhịn ăn, chỉ uống nước (người
bình thường 1 năm nhịn ăn thanh lọc cơ thể 1 lần để
khử độc tố trong người thì rất tốt).
Thanh lọc cơ thể bằng cách nhịn ăn và chỉ uống
nước ngày 4 lần: sáng, trưa, chiều, tối. Uống nước
chanh tươi với nước đường cây phong (maple syrup)
hay đường mía nguyên chất. Những nơi không có
maple syrup hay đường mía thì dùng nước mía với
chanh tươi hoặc đường phèn với chanh tươi.
Vắt nửa trái chanh tươi vào một ly nước hơi ấm
(200ml) pha đường maple syrup hoặc đường mía
nguyên chất vừa đủ ngọt, thêm chút muối và chút ớt
bột. Chanh chua ngoài việc bổ gan và giúp cho gan
thanh lọc còn có công dụng tẩy rửa độc tố đường ruột,
maple syrup hay đường mía nguyên chất là chất ngọt
giúp duy trì năng lượng trong cơ thể. Một chút xíu ớt
bột, một chút muối là giúp cho hệ thống tuần hoàn
Tâm và Thận được điều hòa (Số lượng chanh, nước,
Pháp Vương Như Ý
123
muối, ớt) ngày 4 lần không được thay đổi, chất chanh
chua căn bản để tẩy rửa độc tố.
Ngoài thời gian một ngày 4 lần uống nước chanh
với maple syrup hay đường mía nguyên chất thì chỉ
uống nước lọc khi nào cơ thể thấy khát, không nên
uống nước quá lạnh (nước đá) hay nước trong tủ lạnh.
Không được uống các loại nước khác như: trà, cà phê,
sô đa.v.v.
Mỗi buổi sáng sớm uống một ly nước lớn (gần 1
lít) pha chút muối biển để xổ độc (uống từ từ), nếu áp
huyết cao thì dùng thuốc xổ bằng thảo mộc (laxative
herb tea) để thay cho muối biển.
Trong thời gian thanh lọc:
1. Không làm việc nặng, nằm hít thở theo
phương pháp ngọa thiền càng nhiều lần càng tốt. Có
thể mỗi buổi sáng và chiều đứng dang 2 tay quay mặt
về hướng Đông tập Pháp Đạt Ma Thần Công (Xem
phần: II. Những ngày vào Thất, mục 4, A. Những việc
phải ghi nhớ) trong ngày cũng nên tập thở Pháp Đạt
Ma Thần Công ngồi trên ghế hay ghế dựa.
2. Cơ thể sẽ bài tiết độc tố ra rất nhiều, mỗi ngày
nên tắm thật nhanh ít nhất 1 lần với nước ấm, không
được ngâm mình trong bồn tắm. Nếu thấy miệng hôi
thì súc miệng, lưỡi đóng bợn trắng thì cạo cho sạch,
thấy lạnh thì mặc thêm đồ ấm, đôi khi có trường hợp
đi tiêu lỏng nhiều lần trong ngày hay trong miệng có
Pháp Vương Như Ý
124
nhiều đàm nhớt. Đó là do các độc tố trong người được
tống ra.
3. Nên thể dục nhẹ hoặc đi bộ, trưa nếu thấy
buồn ngủ thì đi ngủ cho cơ thể nghỉ ngơi (nghỉ ngơi là
yếu tố chánh trong lúc thanh lọc).
4. Nơi tịnh dưỡng phải thoáng khí và ấm áp vừa
phải với cơ thể (không khí trong lành rất quan trọng
cho cơ thể trong lúc thanh lọc).
5. Cơ thể sẽ có những triệu chứng như thèm ăn,
chóng mặt, nhức đầu, mất ngủ, tay chân nhức mỏi.v.v.
những điểm này người tu thiền nên biết trước để
không có sự lo sợ khi gặp. Những triệu chứng trên chỉ
xuất hiện vài ba ngày đầu, vì khi đó cơ thể chưa quen
với sự nhịn ăn và cũng là lúc độc tố ra rất nhiều.
Sau 7 ngày thanh lọc bắt đầu chương trình ăn lại.
Ngày đầu chỉ được dùng cháo gạo nấu cho thật lỏng.
Ngày kế tiếp cháo gạo nấu cho thật nhừ. Ngày thứ 3
cháo gạo nấu chung rau cải cà rốt (nấu cho thật nhừ).
Ngày thứ 4 ăn cơm nấu cho thật mềm, ăn cơm phải
nhai cho thật kỹ và nhai cho lâu (4 ngày này chỉ được
ăn với chút muối).
Ghi chú:
Nếu thời gian không cho phép nhịn ăn thanh lọc
7 ngày thì người tu thiền có thể nhịn ăn thanh lọc 3
Pháp Vương Như Ý
125
ngày hoặc 4 ngày. Sau đó, bắt đầu chương trình ăn lại
như nói ở đoạn trên.
Không nên dùng mật ong để thay thế maple
syrup hay đường mía nguyên chất, không nên dùng
các loại thuốc giảm đau khi cơ thể cảm thấy nhức mỏi
trong thời gian thanh lọc.
Những người cơ thể quá yếu, bệnh mới hết, phụ
nữ có thai hay đang cho con bú thì không nên nhịn ăn
thanh lọc. Nếu có sự nghi ngờ về sức khỏe của mình
nên hỏi lại y bác sĩ riêng trước khi áp dụng phương
pháp thanh lọc này.
Pháp Vương Như Ý
126
PHỤ LỤC
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRONG KHI TẬP
PHÁP MÔN VÀ VÀO THẤT NHẬP ĐỊNH
Tại sao phải luyện pháp môn theo hai thời Âm
Dương?
Trong Trái đất có 2 luồng nhị khí Âm Dương nên
mới sanh trưởng nhân loài và vạn vật. Trong vũ trụ
của chúng ta đang sống cũng vậy, có 12 giờ ngày và
12 giờ đêm, ảnh hưởng vòng khí hóa để nuôi dưỡng
cơ thể của mỗi con người.
Trong con người cũng phải có hai luồng nhị khí
Âm Dương tương ứng (xem hình), vì vậy phải chia ra
hai giờ Âm và Dương. Giờ Dương để tiến Dương (bổ
khí Dương), giờ Âm để tấn Âm (bổ khí Âm) thì hai
luồng khí hóa Âm Dương sẽ được thuần. Khi được
thuần thì rất bổ ích cho sức khỏe cơ thể, trí tuệ minh
mẫn, tâm thận tương giao, thủy hỏa ký tế, quân bình
cơ thể. Sống có bổ ích cho mình và cho đời, thác biết
được con đường giải thoát và cầm được sổ sanh tử
của chính mình để đi về cảnh siêu thoát.
Pháp Vương Như Ý
127
Pháp Vương Như Ý
128
Trường hợp không khí đặc ở không gian.
Không khí ở không gian có khi đặc quá, làm cho
bộ đầu nặng không thở được nhẹ nhàng, để giải tỏa ta
nên vừa hít vừa cho ý chạy và đếm từ 1 cho đến 36.
Đó là một hơi hít thật dài, hít cho đến vô cùng của hơi
thở. Sau đó thở ra và đếm từ 36 trở về 1, rồi lại hít vô
đếm 1 đến 24, rồi từ từ thở ra và đếm từ 24 trở về 1.
Kế đến lại hít vô và đếm 1 đến 12, rồi lại từ từ thở ra
và đếm từ 12 trở về 1.
Chơn Thần và Thức Thần.
Chơn Thần là lúc mình ngủ nó ly khai bản thể
mình không hay biết, khi ngủ dậy thấy sảng khoái hay
chiêm bao nhẹ nhàng.
Còn Thức Thần là sự tánh vía của trần gian chưa
thanh lọc sạch, lúc ngủ nó ra đánh phá và làm những
chuyện mờ ám, nếu gặp trường hợp này khi ngủ dậy
nên hít 3 hơi thật dài như trên thì sẽ hóa giải được
luồng ám khí đó.
Lúc thiền bị giựt mình.
Ngồi thiền một lát giựt mình tỉnh lại không nhớ
gì hết, từ từ mới nhớ lại mình còn ngồi thiền và còn
ngồi ở đây. Trường hợp này không nên sợ, vì lúc đó
Chơn Thần rút Thức Thần tập đi ra khỏi bản thể chưa
quen nên có triệu chứng như trên. Sau này dần dần sẽ
quen và không còn những triệu chứng giựt mình nữa.
Pháp Vương Như Ý
129
Tại sao thiền mà có lúc còn sanh tánh nóng?
Tánh nóng có 3 vấn đề:
1. Cơ thể chưa thanh lọc sạch độc tố, hóa chất
tuôn xuống ruột mà cơ thể chưa bài tiết kịp nên nó rút
theo đường ruột rồi cung cấp ngược lại vào các kinh
mạch và hệ thần kinh tạo ra uất khí nên sanh ra nóng
tánh. Trường hợp này nên uống vào một ly nước ấm
trong buổi sáng, rồi hít thở theo pháp Đạt Ma Thần
Công cho nó giải ra hoặc uống trà xổ cho độc tố ra thì
tánh sẽ hết nóng.
2. Mỗi ngày thở Pháp Luân quá mạnh, Hỏa Hầu
ở dưới bị động nên bốc lên. Trường hợp này nên thở
Pháp Luân nhẹ lại thì sẽ khỏi.
3. Thiền thì ít nhưng đi ra ngoài hút sự động loạn
quá nhiều nên giải không nổi thành ra nóng tánh. Nếu
gặp trường hợp này, nên ở nhà vài ngày thiền cho
nhiều thì sẽ hóa giải được và tánh tình sẽ điều hòa trở
lại.
Có người thiền một thời gian thì cơ thể bị lắc
quá chừng là tại sao?
Đó là trước khi tập pháp thiền người này hay bị
bệnh lặt vặt từ nhỏ đến lớn, mỗi lần bịnh thì dùng các
loại thuốc khác nhau để điều trị hoài mà không dứt
bịnh. Cho nên các kinh mạch bị các dược tánh khác
nhau đóng kín và chơn khí bị hao tán mất hết nên cơ
thể yếu dần.
Pháp Vương Như Ý
130
Khi tập pháp thiền, mỗi ngày thở pháp Luân và
Định Thần thì tích tụ lại được luồng khí lực trong
mình, từ đó khí hóa chạy từ dưới ngũ tạng xông lên bộ
đầu để hiệp cùng Chơn Thức mà đi học Đạo. Khí lực
thông rồi thì hết lắc mà kinh mạch cũng được khai mở
luôn.
Khi tập thiền mà bị lắc đừng sợ có tà khí xâm
nhập, không có trường hợp tà xâm nhập cho những
người thiền pháp môn này. Khi thở pháp Luân luồng
khí từ trong giải ra thì tà khí không thể xâm nhập
được, nếu có tà trong cơ thể cũng được pháp môn này
giải ra, nên kiên trì tập pháp này.
Tại sao người hành thiền một thời gian bị cảm
uống thuốc gì cũng không hết?
Người không thiền bịnh uống thuốc sẽ được
thuyên giảm là vì cơ thể họ yếu nên uống thuốc thì
hết. Còn người thiền mà bỏ thiền thì chơn khí bị yếu
kém nên sanh bịnh, hoặc là vợ chồng ân ái quá độ làm
yếu chơn khí, hay là gặp phiền muộn mà không thể
hóa giải được làm chơn khí bị yếu. Nếu gặp các
trường hợp này nên uống trà xổ qua đêm rồi hít thở
theo pháp Đạt Ma Thần Công, ăn cháo nếp nấu cho
nhừ bầm hành lá cho nhiều bỏ vô chung với cháo, làm
như vậy thì lần lần sẽ được hồi phục. Còn nếu chưa
được thì vừa uống thuốc vừa làm pháp Đại Ma Thần
Công nhiều lần trong ngày thì chơn khí sẽ sớm phục
hồi trở lại.
Pháp Vương Như Ý
131
Người tu vạn sự nhẹ nhẹ thôi
Ham muốn làm chi khí tàn rồi
Hồi phục nhớ nên kềm Chơn Tánh
Vía Tánh-Thức-Thần-chỉ mê đời.
Tại sao đêm thiền thấy bộ đầu thanh nhẹ, ngày
thiền lại thấy bộ đầu nặng ?
Ban ngày ánh nắng nóng rút các hóa chất và
không khí ô nhiễm lên không gian, làm cho dưỡng khí
và thán khí dầy đặc trong bầu khí quyển. Khi mình
thở Pháp Luân bộ đầu bị nặng và thiền không kết quả,
trường hợp này nên ngồi niệm Hộ Pháp Chơn Kinh
một lúc rồi xả thiền.
Ban đêm bầu khí quyển mỏng hơn, tất cả các hóa
chất bị sương đêm đưa xuống thán khí cũng bị loãng
ra nên khí Hạo Nhiên xuống thấp được. Vì vậy, thiền
thấy thoải mái hơn, thanh nhẹ hơn ban ngày.
Lúc Định Thần những suy nghĩ, tạp niệm lại gợi
ra hoài, không tịnh được.
Các suy nghĩ là tập quán của con người. Khi ở
đời ngày nào mình cũng thu nhặt nó vào thành một
đống rác động loạn.
Khi bắt đầu tập thiền một thời gian nó tự giải ra
dần dần.
Pháp Vương Như Ý
132
Khi Định Thần mà những tạp niệm hiện đến thì
dùng Pháp Luân hít nhẹ nhàng rồi thở ra và niệm Hộ
Pháp Chơn Kinh một lát sẽ hết.
Người bịnh triền miên tu pháp này có lợi gì
không?
Người bịnh đó là độc tố trong người nhiều và
kinh mạch bị bế tắc không lưu thông được nên biến
chứng thành bịnh. Nếu tu pháp này nhờ hơi thở khai
thông, cho nên tập Pháp Luân cho nhiều thì sẽ khai
thông được mạch lý và từ từ bịnh sẽ giảm.
Thiền một thời gian thấy nước miếng nước mũi
chảy xuống lúc thiền và còn bị sặc hoài.
Khi chuyển pháp Luân thì hai trái thận được
thanh lọc đưa chất Tinh lên bộ đầu để bổ óc, lúc Định
Thần thì Điển ở Thiên Không tiếp vào nên gọi Thủy
Điển tương giao.
Mỗi ngày thanh lọc một ít mới thành ra Cam Lộ,
lúc chưa thành Cam Lộ làm nước miếng nước mũi
chảy ra, gặp trường hợp này nên nuốt nó vào vì nó là
Cam Lộ, không nên khạc bỏ.
Nếu trường hợp nước miếng nước mũi có làm
mình sặc thì quay đầu qua bên trái nuốt vào thì sẽ yên,
vì bên trái của bản thể là Dương nên khi quay bên trái
thì nước gặp lửa giao cảm với nhau nên hết sặc.
Pháp Vương Như Ý
133
Ăn nhiều rồi thiền có được không?
Nếu lỡ đi ăn tiệc mới về mà tới giờ thiền thì ngồi
tịnh, khỏi phải thở Pháp Luân, khuya ngủ dậy rồi thở
Pháp Luân cũng được.
Lỡ uống rượu say thiền được không?
Người đã hành thiền lâu kinh mạch thông uống ít
rượu không bị say. Còn người mới hành thiền mà lỡ
uống rượu say thì đi nghỉ cho tỉnh táo rồi thiền sau, sẽ
không có hại gì.
Phái nữ đến ngày có kinh thiền được không?
Dù trong ngày có kinh vẫn thiền được, hơi nặng
đầu một chút nhưng không sao. Không niệm Phật theo
hơi thở từ rún lên trán.
Thiền mà thấy chân tê quá phải làm sao?
Sau khi xả thiền (xem phần ghi chú xả thiền) lấy
hai tay xoa bóp từ đầu gối xuống vài lần, rồi lấy ngón
tay bấm vào gần đầu ngón chân cái 24 lần sẽ được
giảm hết.
Thở Pháp Luân xong thấy chóng mặt quá.
Khi thở Pháp Luân mạnh quá nên áp suất gia
tăng lên bộ đầu, nếu gặp trường hợp này thì nên xem
lại quyển sách hướng dẫn thở Pháp Luân. Nên nhớ khi
thở Pháp Luân thở càng nhẹ càng tốt.
Pháp Vương Như Ý
134
Có lúc cái đầu cảm thấy nặng lắm.
Gặp trường hợp này thở Pháp Luân hít vào cho
thật chậm và cho ý chạy từ 1 đến 36 rồi thở ra đếm
ngược lại từ 36 tới 1. Rồi tiếp tục hít vô và đếm từ 1
đến 24 xong lại từ từ thở ra và đếm 24 đến 1. Rồi lại
hít vô và đếm 1 tới 12 xong lại thở ra đếm từ 12 trở lại
1. Làm như vậy 3 hơi thì từ từ cảm thấy nhẹ trở lại.
Đi ra ngoài rồi về thiền thấy lạnh hết cả người.
Trường hợp này bị khí âm bao vây, nên lấy muối
biển pha với nước thật ấm rồi chà vào các lỗ chân
lông cả cơ thể một lát thì sẽ khỏi, sau đó đi tắm với
nước nóng.
Đi ra ngoài về thấy nóng nảy bực bội thì phải
làm sao?
Nên lấy chanh chà chung quanh cơ thể một lát rồi
đi tắm, xong ngồi thở Pháp Luân thì sẽ hóa giải hết.
Đi tới chỗ lạ thiền thấy rỡn óc và lạnh người.
Trường hợp này nên ngồi bắt Ấn Tý và niệm Hộ
Pháp Chơn Kinh một lát sẽ có Chư Thiên xuất hiện hộ
pháp cho mình và giải phần tà đó đi luôn.
Còn trong nhà mình mà gặp trường hợp ớn lạnh
hoài là nhà có tà khí, nên lấy ớt khô xông hoặc mua
thuốc xông về xông nhà thì sẽ hết.
Pháp Vương Như Ý
135
Trường hợp đi xa nhà, phải ngủ ngoài rừng núi.
Lúc đi xa bất cứ ở đâu, trước khi thiền đều
nguyện câu sau đây :
- Con (họ, tên)……ở quốc gia…
- Đệ tử của (vị nào)………….....
- Đêm nay con xin Sơn Thần, Thổ Địa hộ pháp
cho đệ tử tá túc qua đêm.
- Nam Mô A Di Đà Phật, Vạn Vật Thái Bình.
Lúc đi ngủ sau khi thiền xong.
Khuya lúc thiền xong rồi đi ngủ. Khi nằm ngủ
chân trái gát lên chân phải, xòe bàn tay trái ra dùng
tay phải bắt Ấn Quán Âm vẽ chữ vạn 3 lần vào lòng
bàn tay trái, tiếp tục vẽ chữ vạn trên ngực 3 lần, xong
hai tay Ấn Quán Âm ráp lại thành Ấn Tam Muội để
úp lên trên ngực rồi niệm: “Lạy Thầy Chúa Tể Càn
Khôn” (7 lần), xong rồi ngủ. (Gát chân và để Ấn Tam
Muội trên ngực chừng ít phút rồi bỏ ra cũng được).
Nếu ngủ chiêm bao thấy lại những chuyện tiền kiếp
mà không tốt khi tỉnh dậy trong ý nói xóa đi để những
chiêm bao này sau không tái diễn nữa.
Trai gái mới lớn tu được không?
Trai gái mới lớn là còn đủ Tinh Khí Thần nếu tu
phương Pháp này thì dễ đắc Pháp, dễ thông minh trí
tuệ, và dễ có cơ duyên để đi giúp đời.
Pháp Vương Như Ý
136
Tu pháp này vợ chồng có cấm ân ái không?
Trời ban cho mình một cơ thể là cho mình tự
do lựa chọn cuộc đời của mình. Thiện hay ác, nhân
hay quả, tất cả là tùy theo sự thiện đức của chính mình
tạo ra. Còn việc vợ chồng không ai cấm việc ân ái, lúc
mình tu nên dưỡng tinh thần một chút ít, ai cũng từ từ
già yếu đâu có đủ sức như còn lúc trẻ.
Ái ái ân ân giữa thế trần,
Chồng chồng vợ vợ trói buộc thân.
Tưởng lầm ân ái gây hạnh phúc,
Nên chẳng làm tròn nghĩa với nhân.
Nhân nghĩa là nền tảng gia cang,
Vợ chồng tương kính Đạo như vàng.
Yêu nhau chẳng phải ôm thể xác,
Săn sóc cho người lúc ốm đau.
Thể hiện đạo tâm qua những lúc,
Khổ nghèo cực nhọc vẫn bên nhau.
Đó là nhân nghĩa xây gia đạo,
Là pháp tại gia tự đổi trao.
Phật ở trong tâm Phật hữu tình,
Yêu không ràng buộc ấy cao minh;
Tình thương ràng buộc thường cột trói,
Nên đọa Sáu Đường nghiệp vấn vương.
Pháp Vương Như Ý
137
Tu thiền có cần tuyệt dục không?
Dục có Thất Tình Lục Dục :
1. Tham Sân - Nóng nảy vô độ, không biết kỉnh
nhường.
2. Tham Si - Đời thì mê thị hiếu công danh tình
tiền danh lợi. Đạo thì mê sắc tướng âm thinh.
3. Tham Hỷ - Ham vui sanh ra trà lầu tửu điếm
khoái lạc nguồn vui vô độ.
4. Tham Nộ - Sanh ra gian đảng, chiến tranh.
5. Tham Ái - Thương yêu bất chánh.
6. Tham Ố - Ý bôi xấu người, ganh ghét hại người.
7. Tham Dục - Sanh ra năm thê bảy thiếp.
Chuyện vợ chồng thật sự là nhân Đạo, không
nằm trong thất tình lục dục trên.
Từ xưa nay những người giảng chưa đủ ý nên hại
không biết bao gia đình, chưa cứu được ai mà gia đạo
của mình bị đổ vỡ, con cái hư hỏng.
Nếu người xuất gia mà không độ được gia đình
mình thì không giải được nghiệp của chính mình thì
tạo phước cho ai được mà đòi đi cứu chúng sanh.
Tu hành là cả đời không ngừng nghỉ không phải
chỉ vài ba năm. Người tu, trước nên tính cho gia đạo
thuận chiều sau đó mới đăng hành.
Pháp Vương Như Ý
138
Trường hợp ở trong nhà ông tu bà không tu,
hoặc bà tu mà ông không tu.
Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc không ai tu dùm cho
ai được. Khi mình hành thiền nên nói rõ sự lợi ích của
phương pháp thiền cho người bạn đồng hành để họ từ
từ thông hiểu và cùng đi chung con đường với mình,
không nên vì tu thiền mà đoạn tuyệt nhân duyên. Đó
là nợ trước không trả xong còn tạo nên oán nghiệp
tiếp nữa làm sao tu giải thoát được.
Đức Phật khi xưa bỏ nhà đi tu là đúng còn mình
tại sao lại sai?
Đức Phật khi xưa đi tìm Pháp, tìm chân lý nên
cần xa nhà, xa gia đình để tìm kiếm nghiên cứu, vợ
con ở triều đình có đầy đủ phương tiện nên không sao.
Còn mình, Chân Lý có sẵn, Pháp Môn có sẵn,
Chơn Sư hướng dẫn cũng có sẵn lại bỏ đi tìm kiếm cái
gì nữa?
Gia đình nghèo, đông con mà bỏ đi thì ai lo đời
sống cho vợ con, nếu lỡ có đứa con hư hỏng nào thì
làm sao bù đắp lại được. Vì vậy, vừa tu vừa hổ trợ
kinh tế cho gia đình, khi nào thấy con cái trưởng
thành, công việc nhà ổn định thì mới tính việc xuất gia
cũng không muộn.
Pháp Vương Như Ý
139
Vào trong chùa, trong thiền viện tu có thành
Đạo không?
Ở trong chùa, trong thiền viện tu có lòng thành
thì mới thành Đạo, không có lòng thành thì Đạo cũng
không thành cho dù ở vài ba kiếp nữa cũng vô ích.
Lòng không thành không lẽ được Phật điểm Đạo! Lời
Phật: “Ta chỉ chứng tâm cho kẻ có lòng thành”. Vì
vậy, ai có lòng thành thì tu ở đâu cũng thành chánh
quả không cần phải ở trong chùa hay thiền viện./.
Kính bái
Chưởng Giáo Đạo Trời
Truyền Pháp và Lập Pháp
Đức Thầy VÔ DANH THỊ
Pháp Vương Như Ý
140
QUÁN ÂM HUỲNH ĐÌNH
Cách thực hành: Sau khi thiền xong, thì bước qua
phần niệm Quán Âm Huỳnh Đình.
1. Vẫn ngồi tư thế thiền định, tay bắt ấn Quán Âm
(Hình 9).
Hình 9: Ấn Quán Âm.
Hình 10: Tay ấn Quán Âm trong khi niệm Huỳnh Đình.
Pháp Vương Như Ý
141
Khởi đầu: (a) tay trái chỉ Thiên tay phải chỉ địa.
Khi niệm xong 1 biến chuyển tay, tức là (b) tay phải
chỉ Thiên tay trái chỉ địa. Tay trái: ngón cái bấm
ngón giữa, các ngón còn lại duỗi thẳng ra. Tay phải:
ngón cái bấm ngón áp-út, ba ngón còn lại cũng duỗi
thẳng ra. Xong để hai cườm tay trái và tay phải đụng
vào nhau. Tay trái chỉ Thiên tay phải chỉ địa và để hai
tay ấn ở trước ngực (xem hình 10 a).
2. Khi niệm xong một biến Kinh Huỳnh Đình thì
chuyển tay, tức là tay trái xoay xuống chỉ địa còn tay
phải thì xoay lên chỉ Thiên, hai cườm tay vẫn chạm
nhau (xem hình 10 b). Khi chuyển tay thì xoay tay ở
trong xoay ra và hai cườm tay đừng rời nhau.
3. Mỗi lần niệm Quán Âm Huỳnh Đình là 3 biến, 7
biến, hoặc 21 biến. Trung bình mỗi lần niệm là 7 biến.
4. Khi niệm Quán Âm Huỳnh Đình Kinh tập trung
ở trung tâm đỉnh đầu và niệm Kinh bằng ý, chớ không
đọc ra tiếng. Khi niệm Kinh nên giữ tâm an thần tịnh.
5. Niệm xong Quán Âm Huỳnh Đình Kinh thì đưa
hai tay ấn lên đầu vuốt một lần xả ấn, rồi đứng dậy.
Pháp Vương Như Ý
142
QUÁN ÂM HUỲNH ĐÌNH
Nam Mô Phổ Đà Cổ Phật, thị hiện Quán Âm Như Lai
pháp Huỳnh Đình thần linh hải hội.
Kim Bà La Đế, Kim Bà Xích Đế. Cầu Ba La Mật Đa,
Cầu Ba La Mật Pháp. A Ha Thánh Đế, Đà La Ni Đế.
Ni Ka Ra Đế, Tỳ Kheo Ni Đế. Già Lam Dà Đế, Chơn
Linh Càn Đế, Chơn Nhơn Ta Bà Ha.
Nam Mô Phổ Đà Cổ Phật tế thế.
Nam Mô Quán Âm Như Lai độ tế.
Nam Mô Di Lạc Như Lai phổ tế.
Nam Mô A Di Đà Phật, vạn vật thái bình.
Thầy Vô Danh Thị sắc lệnh.
Ngồi niệm chín lần. Bắt ấn Quán Âm để trước ngực.
Mỗi thời chú xong thì đổi tay ấn. Chín lần đổi tay ấn
xong, vuốt ấn lên đầu rồi xả.
Pháp Vương Như Ý
143
ĐẠT MA THẦN CÔNG
Pháp này có tác dụng làm điều hòa 12 kinh lạc
trong cơ thể con người. Nó giúp giải tỏa những tắt
nghẽn, những chỗ bất thông trong bản thể, đặc biệt là
tứ chi và các bệnh hậu cũng được giải ra. Khi đầu óc
bị động loạn, lo nghĩ những quá khứ vị lai, nghĩ
những điều xàm bậy bất chánh, hoặc khi buồn bực,
động tâm tham muốn và khi các tà khí xâm nhập thì
tập pháp này cũng được hoá giải. Pháp này tập lúc nào
cũng được, khi đứng, ngồi đều có thể tập pháp môn
này.
A. Pháp dứng tập:
Quay mặt về hướng Đông. Hai tay dang thẳng ra,
bắt ấn Phật Tổ và lòng bàn tay ngửa lên (Hình 12).
Hình 12: Ấn Phật Tổ.
Bắt đầu dùng ý kéo hơi từ hai lòng bàn chân lên
đỉnh đầu, lúc thở ra dùng ý từ đỉnh đầu đưa xuống hai
lòng bàn chân (Hình 13 a và b). Hít vô thở ra là một
Pháp Vương Như Ý
144
hơi thở, thở tổng cộng 36 hơi. Nếu sáng tập một lần
và chiều tập một lần là rất tốt.
Hình 13: Đạt Ma Thần Công – Pháp đứng tập.
(a) Hít vào từ lòng 2 bàn chân lên đỉnh đầu.
(b) Thở ra từ đỉnh đầu đi xuống lòng 2 bàn chân.
B. Pháp ngồi tập:
Pháp Đạt Ma Thần Công có thể ngồi trên ghế hay
ghế dựa, thả lỏng hai chân hoặc có thể ngồi xếp bằng
cũng được. Hai tay bắt ấn Phật Tổ (Hình 14) để ngửa
trên đầu gối, hay để ngửa bên ngoài song song với hai
bắp đùi.
Pháp Vương Như Ý
145
Hình 14: Ấn Phật Tổ.
Hình 15: Đạt Ma Thần Công – Pháp ngồi tập.
(a) Hít vào từ lòng 2 bàn tay đi lên đỉnh đầu.
(b) Thở ra từ đỉnh đầu đi xuống lòng 2 bàn tay.
Bắt đầu dùng ý hít vào từ lòng hai bàn tay, rồi
dùng ý kéo lên hai cánh tay, kéo vô ngực, đưa lên
đỉnh đầu. Khi thở ra dùng ý đưa xuống ngực, ra hai
cánh tay, rồi xuống hai lòng bàn tay (Hình 15 a và b).
Pháp Vương Như Ý
146
Hít vô thở ra là một hơi thở, thở tổng cộng 36 hơi.
Pháp thở này tập lúc nào cũng được.
Pháp Vương Như Ý
147
Quí đạo hữu muốn tìm hiểu thêm về
Pháp Vương Như Ý thiền định thì liên hệ
những trung tâm gần nhất để hướng dẫn kỹ hơn
trước khi mình hành Pháp. Hoặc có những ý
kiến đóng góp, bổ sung cùng với Trung Tâm
Đạo Học Thái Bình xin liên lạc về địa chỉ:
Thư ký Hoàng Theresa
Mobile: 780-807-7140 Canada
Email: [email protected] http://www.khoahocdaotroi.com
Pháp Vương Như Ý
148
Pháp Vương Như Ý
149
Các trung tâm từ thiện có Kinh sách miễn phí
của Thầy Vô Danh Thị:
1. Hoàng Phương Thủy
Hoàng Ngọc Thanh Thanh
Phone: (1) 780 - 474 - 9549
117 Kingsway Garden Mall NW
Edmonton AB T5G-3A6
Canada
2. Hoàng Văn Khanh
Phone: (1) 604-282-7299
3423 E Hasting St #302
Vancouver BC V5K-2A5
Canada
3. Phan Thanh Hải
10/34 Queen St
Bentley WA 6102
Australia
4. Hạnh Phan
Phone: (1) 404-519-6902
4663 Midridge Dr
Norcross GA 30093
USA
Pháp Vương Như Ý
150
5. Kiều Tấn Sang
Phone: (1) 832-878-8993
11419 Wilkenburg Dr
Houston TX 77066
USA
6. Nguyễn Đức Huy
Phone: (1) 832-498-2657
11619 Bourgeois Forest Dr.
Houston, TX 77066
USA
7. Thức Lưu
Cell phone: (1) 832-291-8892
Home phone: (1) 817-471-3361
6007 Pacer Ln
Arlington TX 76018
USA
8. Võ Ngọc Anh
Phone: (1) 682-667-6319
6225 Cascade Cir
Watauga TX 76148
USA
Pháp Vương Như Ý
151
9. Võ Vinh Tài
Phone: (1) 206-387-3101
1219 SW 112th St
Seattle WA 98146
USA
10. Văn Tích Sĩ
Phone: (1)713-261-2274
11710 Mulholland Dr
Stafford, Texas 77477
USA
11. Hoàng Ngọc Đức
Phone: (1)780-953-5205
Edmonton, Canada
12. Hoàng Phương Thủy
Phone: (1)780-474-9549
Edmonton, Canada
13. Lê Lập
Phone: (1)403-472-3898
Canada
14. Dũng Tý
Phone: (1)714-902-3003
Orange County, California
Pháp Vương Như Ý
152
15. Huỳnh Ngọc Nữ
Phone: (1)206-328-4849
Seatle, USA
16. Trương Sanh Robert
Phone: (1) 808-383-1195
Hawaii, USA